Nghe tựa thì giống như truyện Huyền Ảo, nhưng thật ra thì không phải. Đây là loại truyện Quân Sự Kỹ Thuật, tiếng Anh là Techno Thriller. Loại truyện này thường lấy bối cảnh là thời sự hiện tại.
Xét đến tình trạng căng thẳng ở biển Đông hiện nay, truyện này rất thích hợp, bởi vì đây là câu truyện khi mà hải quân Trung quốc chạm trán với hải quân Ấn Độ, với những vũ khí hiện đại nhất.
Nếu ánh sáng của một ngàn thái dương
Cùng bùng sáng trên bầu trời,
Đó cũng giống như sự hoa lệ của đấng vĩ đại.
Ta là Tử Vong,
Kẻ hủy diệt thế giới.
Chúa Shiva, Hủy Diệt Thần của Ấn giáo
(Kinh Bhagavad Gita)
Truyện được viết từ năm 2012 nên có vài chi tiết thời sự không còn được đúng lắm. Mời các bạn theo dõi.
Tôi bỏ ra khá nhiều công phu cho phần chú thích, có cả hình ảnh. Rất tiếc không đăng ảnh lên được. Hôm nào đó, nếu có thời giờ làm ebook thì sẽ có đầy đủ hơn. Mọi người thông cảm.
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Cao Nguyên Thanh Tạng, Vùng Tự Trị Tây Tạng
Thứ Ba, ngày 18 tháng 11; 16:49, giờ địa phương.
Jampa dán sát người vào mặt đất gần đông cứng và cảm thấy sự rung động của đoàn tàu đang đến gần thấu vào lồng ngực hắn. Bao tử hắn co rút lại trong căng thẳng. Tiếng tim đập thình thịch muốn át cả tiếng của mấy chiếc đầu máy xe lửa sắp đến.
Đây là giai đoạn mà hắn ghét: chờ đợi. Lát nữa, khi bắt đầu tấn công, sẽ không còn thời gian để sợ hãi nữa. Hắn sẽ quá bận rộn tiến hành kế hoạch. Cố gắng sinh tồn và đào tẩu. Mọi sự hoài nghi sẽ bị gạt sang bên bởi hành động và tốc độ. Nhưng trong những khoảnh khắc bất động cuối cùng này, tâm trí hắn có thời gian miên man đến những sự bất lợi có thể xảy ra, đủ mọi cách chết mà hắn và đồng đội có thể gặp phải, hay tệ hơn nữa, bị bắt sống.
Hắn đã cẩn thận lựa chọn địa điểm. Đường ray nằm cách hắn hai mươi mét. Đoàn xe lửa sẽ chạy qua hắn ở một khoảng cách an toàn. Mặc dù vậy, hắn vẫn không buông bỏ được cái cảm giác rằng con quái vật cơ giới kia đang xông thẳng vào nhóm người hắn.
Sự rung động tăng mạnh lên, dâng lên từ mặt đất đông cứng làm răng hắn va vào nhau lập cập và tai hắn ù đến đau đớn. Jampa tưởng tượng con tàu vùng lên khỏi đường ray như một con rồng sắt khổng lồ. Hắn cố nén sự thôi thúc ngẩng đầu lên, để lén nhìn đoàn tàu đang xông tới, để kiểm rõ rằng nó đã không rời khỏi đường ray và những bánh sắt nặng nề kia không lăn thẳng đến để nghiền nát hắn và đồng đội vào mặt đất đông cứng.
Hắn ghìm gò má xuống một nhúm cỏ đông teo ngắt và sờ tới khẩu súng phóng tên lửa 80 mm nằm cạnh bên hông. Ống phóng làm bằng sợi thủy tinh trơn láng và lạnh lẽo dưới các ngón tay đeo bao tay của hắn.
Đây là một khẩu súng phóng tên lửa chống thiết giáp PF-89 dành cho bộ binh, được chế tạo để chống xe tăng cho Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QGPNDTQ). Nó đã được mua chợ đen từ một sĩ quan tiếp liệu tham ô của QGPND. Điều này làm Jampa có một cảm giác nhân-quả thế nào ấy, khi hắn nghĩ đến giờ đây nó sắp được dùng để phá hủy một đoàn xe lửa chở bộ đội Trung quốc.
Bên phải, cách Jampa vài mét là Nima và Sonam, hai thành viên còn lại của nhóm xung kích, đang nằm. Nếu họ tuân theo lệnh của hắn, thì họ đang nằm sát mặt đất, trên người đắp áo choàng bằng vải thô để che giấu dáng người của họ trong đám cỏ khô của cao nguyên Tây Tạng.
Nima không phải là vấn đề. Lão là một người ‘dropka’, một trong những du mục lang thang trong thảo nguyên và dưới chân dãy Hi Mã Lạp Sơn, trông nuôi bò yak và cừu, và giành giật một cuộc sống nghèo nàn nơi cái vùng mà người nước ngoài gọi là ‘mái nhà của thế giới’.
Tinh thần sắt đá của lão du mục được rèn luyện qua cả một đời kham khổ. Lão có đầy đủ kiên nhẫn và chịu nghe chỉ thị. Jampa không hoài nghi rằng Nima đang nằm im rơ, duy trì ngụy trang cho đến khi lão nhận được mệnh lệnh tấn công.
Sonam thì không được kỷ luật như vậy. Gã là một chiến sĩ giỏi, nhưng gã còn trẻ và quá cứng đầu để hoàn toàn chịu chấp hành mệnh lệnh. Có thể gã đang nằm im theo lệnh của Jampa. Nhưng cũng có thể gã đã đứng xổm lên rồi, nôn nóng bắn phát súng đầu tiên vào mục tiêu.
Sonam lớn lên trong trại tị nạn Dharamsala rộng lớn như một thành phố, trong vùng núi phía bên Ấn Độ. Gã đã sống suốt cả cuộc đời trong cảnh lưu vong. Đối với gã, Tây Tạng không phải là quê hương, mà là lý tưởng.
Gã chiến đấu một cách không sợ hãi chống lại bọn Trung quốc xâm lược đã chiếm đóng đất nước của cha ông. Có lẽ ‘quá mức’ không sợ hãi. Sonam không chỉ sẵn sàng chiến đấu, gã hoan nghênh chiến đấu. Gã không hài lòng làm một sĩ binh đột kích. Gã muốn làm một dũng sĩ và sự nôn nóng chiến đấu làm gã thiếu thận trọng.
Trên chuyến xe lửa này, có hơn hai trăm quân sĩ và ngược với lời phủ nhận thường xuyên của Sonam, QGPND có kỷ luật, được huấn luyện bài bản và nguy hiểm. Gần như chắc chắn là một số trong hai trăm quân sĩ ấy sẽ sống sót sau vụ đột kích. Chúng sẽ chẳng tốn bao lâu để tập nã những kẽ đã tấn công chúng. Cách tốt nhất để sống sót là đánh chuyến xe lửa một đòn thật mạnh, mà không để lộ một dấu hiệu cảnh báo nào, rồi biến mất trước khi quân địch kịp hồi phục.
Nếu Sonam nghe theo chỉ thị của hắn, hi vọng trốn thoát vào cỡ 50-50. Nếu gã chiến sĩ trẻ làm điều gì ngu xuẩn, tỷ lệ có thể giảm xuống số không.
Jampa đã khổ sở giải thích cho Sonam hiểu vụ tập kích này có thể hỏng dễ dàng như thế nào, nếu mọi người không làm đúng theo kế hoạch. Hắn hi vọng một ít lời giải thích đã xuyên thấu vào cái sọ dày đặc của Sonam, nhưng hắn thật không có cách nào biết được.
Jampa đè nén ý muốn ngẩng đầu lên để kiểm tra. Nếu Sonam lột bỏ ngụy trang sớm, họ chỉ đành phải thích nghi với hậu quả. Jampa không thể nào cải thiện hoàn cảnh bằng cách vi phạm mệnh lệnh của chính mình được và tự mình lột bỏ ngụy trang.
Tiếng sấm sắt thép vang lớn lên. Jampa chờ đợi bằng một sự kiên nhẫn mà hắn không cảm thấy muốn chút nào. Chỉ có một cơ hội thôi. Nếu hắn ước tính thời gian sai lầm…
Tiếng sấm dường như đạt tới điểm cao, tiếng xe lao vun vút như đều với nhịp đập điên cuồng của con tim hắn. Chiếc đầu máy đầu tiên trong ba chiếc đầu máy có lẽ đang lao qua hắn ngay lúc này đây. Chưa được. Chưa… Được…
Hắn duy trì ngụy trang trong khoảng 6-7 nhịp tim. Rồi… Ngay bây giờ đây! Hắn gạt tấm vải choàng dày nặng qua một bên và đứng nhổm dậy, vừa đảo ống phóng tên lửa lên cao, vừa quát “Shi Yag!” (Chết!)
Hắn thấp thoáng thấy Nima và Sonam ném vải choàng đi và nhỏm vào tư thế khai hỏa, nhưng hắn không quan sát hai người thuộc hạ. Hắn đã đưa ống phóng lên vai phải, bàn tay phải nắm vào tay nắm, phần cao su mềm của ống nhắm dán vào mắt phải.
Ống kính phóng đại mục tiêu, làm cho chiếc xe lửa như còn gần hơn nữa. Các toa xe bỗng trở nên khổng lồ và có vẻ như lướt qua ngay trước mặt Jampa. Mặc dù hắn đã tập nhìn qua ống nhắm, cảnh tượng này vẫn lạ lẫm và làm hắn giật mình. Hắn đảo ống phóng sang trái vài độ và chợt nhận ra mình đang nhìn qua một khung cửa sổ ngay vào mắt một gã quân sĩ Trung quốc trẻ.
Thời gian chỉ có thể là một thoáng, nhưng khái niệm thời gian của Jampa đã bị méo mó bởi hoóc-môn adrenaline và sự hủy diệt mà hắn biết sắp xảy ra. Mỗi giây thời gian đã trở nên mềm dẻo và bị kéo dài thành phút, hay cả giờ không chừng.
Trong cái khoảnh khắc bị đình chỉ lại đó, hắn thấy vẻ mặt của gã quân sĩ trẻ chuyển từ bất ngờ, đến chợt hiểu, rồi khiếp sợ. Jampa đã từng là giáo viên môn Khoa Học, trước khi quân Trung quốc thiêu hủy ngôi trường của hắn. Hắn hiểu được khối óc của con người hoạt động như thế nào, đủ để hiểu rằng hắn không thể nào thấy và nhận định được bấy nhiêu chi tiết trong một phần giây. Cái này chắc chắn là do trí tưởng tượng của hắn rồi, chắc là cảm giác tội lỗi về việc mà hắn sắp làm, nhưng nó có vẻ thật quá. Nó cho cảm giác thật quá. Cái cảm giác như đang giết người.
Khung cửa sổ vụt qua và khuôn mặt của gã quân sĩ biến mất, để cho Jampa nhìn chằm chằm vào thành các toa xe đang chạy qua. Ngón tay hắn đặt trên cò súng, nhưng dường như hắn không thể nào bấm xuống.
Thuộc hạ của hắn cũng không khai hỏa. Họ đang chờ hắn bấm cò trước, có lẽ cho rằng thủ lãnh của họ có một lý do chiến thuật chính đáng nào đó mà quyết định trì hoãn.
Các toa xe tiếp tục chạy qua, nhưng khuôn mặt của gã binh sĩ đó đã in xâu vào trí nhớ của Jampa. Gã trẻ quá, không hơn gì một đứa con nít.
Nhưng rồi hắn nhớ lại ngôi trường nhỏ bé của hắn ở Amchok Bora. Hắn nhớ lại những khuôn mặt ở Chopa, Dukar, và các học sinh khác của hắn khi dân làng lôi những cái xác cháy đen của những đứa con trai nhỏ từ đống đổ nát còn bốc khói của ngôi trường. Hắn nhớ lại những bộ quân phục màu xanh ô-liu của binh sĩ QGPND khi chúng leo lên xe tải và rời đi. Những chiếc xe tải đã khuất dần nơi phương xa và không một binh sĩ nào quay đầu lại nhìn. Không một tên binh sĩ nào thèm nhìn lại những trẻ thơ đã chết và đang hấp hối, hay các dân làng đang gào khóc đau thương.
Và giờ đây, cách nơi Jampa đang đứng hai mươi mét là một chuyến tàu chở hơn hai trăm tên côn đồ mặc quân phục của cái gọi là QGPND. Lại một nhóm côn đồ chai lì, được chở từ Trung quốc xuống để thêm sức áp bức dân chúng Tây Tạng. Lại thêm một đám đốt trường học không có linh hồn, đến để tăng viện cho quân xâm lăng đang nghiền ép sức sống khỏi Tây Tạng.
Một làn hơi nóng phả qua mặt Jampa. Người hắn hơi thụt lại khi quả tên lửa vụt ra khỏi ống phóng. Hắn không nhớ đã nhấn cò khi nào, hay có quyết định nhấn cò hay không, nhưng hắn quả thật đã nhấn cò rồi. Hắn cũng chẳng biết đã nhắm quả tên lửa vào đâu nữa.
Quả tên lửa 80 mm lao vụt đi, kéo theo một dây khói mỏng, đâm vào bên dưới một toa xe chở người ngay bên trên nhóm bánh sắt. Phát nổ xảy ra ngay lập tức và mãnh liệt hơn là Jampa dự liệu. Phần đầu của toa xe nảy lên khỏi đường ray; khói đen phủ trùm và một cụm lửa bốc lên hình nấm.
Bên phải Jampa, hai dây khói khác cho thấy lão Nima và gã Sonam cũng đã tiến hành.
Chiếc toa xe đang vùng vẫy trong phát nổ đầu tiên, liền bị thổi ngang trong một bể tia lửa và tiếng kim loại bị xé toác. Nó thoáng chập choạng trên nhóm bánh sắt phía bên kia, rồi hoàn toàn rời khỏi đường ray và đổ nghiêng ra.
Mười tám toa phía sau vẫn lấn tới với tốc độ hơn 100 km/giờ. Hằng ngàn tấn lực biến các toa xe này thành như búa nện, tiếp tục xông tới trước không khoan nhượng. Chiếc toa khách trúng đạn vẫn đang cháy, nện vào mặt đất như lưỡi cày, bới lên cả núi đá và đất đông cứng. Sức ép khiến toa xe bằng thép và sợi thủy tinh thun lại.
Không còn nơi nào để đi và vẫn bị số toa còn lại đẩy tới, chiếc toa kế tiếp đổ nghiêng ra khỏi đường ray, gập cong lại ở phần giữa và cày vào đất như chiếc trước, để rồi sụp xuống thành đống phế thải.
Thoát khỏi phần lớn gông cùm, ba chiếc đầu máy phóng vọt đi, kéo lê theo hai toa chở khách tàn phá. Phía sau, vụ trật đường ray đã biến thành phản ứng dây chuyền. Khi mỗi toa xe trợt khỏi đường ray và dập vào mặt đất đông lạnh như giấy nhôm bị vò nát, các toa xe sau tiếp tục lao lên và tiếp tục trình tự lật nhào. Hết toa này đến toa khác dập vào đất và biến thành từng đống đổ nát không còn hình dạng gì.
Trong cả quá trình này, ngọn lửa xông lên. Đường ray Thanh-Tạng nằm trên độ cao hơn bất cứ đường xe lửa nào khác. Có nhiều chỗ, đường ray nằm 5.000 mét trên mực biển. Để tránh cho hành khách bị chứng say núi cấp tính ở các đoạn đường cao nhất, xe chở khách được ép không khí như máy bay chở khách vậy. Mỗi toa xe đều có hệ thống ép khí oxy và thùng chứa khí oxy ép riêng. Dưới nhiệt độ và lực lượng kinh khủng khi dập vào đất, các thùng khí oxy nổ tung, tạo thành từng cụm lửa suốt chiếu dài các toa xe bị lật.
Jampa im lặng nhìn tất cả, hai tai ù điếc vì những tiếng va đập và nổ mạnh liên tục, tâm trí hắn không thể nào hiểu được thảm họa đang diễn ra trước mắt. Thảm họa mà chính hắn đã tạo ra. Hắn mù mờ lắc lắc đầu. Hắn muốn trả thù. Nhưng không phải cái này…
Có ai đó nắm cánh tay hắn. Hắn chậm rãi quay đầu sang. Là lão Nima. Lão đang giật giật tay áo Jampa và kêu cái gì đó. Tiếng kêu của Nima nghe như tiếng xì xào. Jampa không nghe hiểu được lão du mục này đang nói gì, hoặc là vì hai tai hắn vẫn chưa hồi phục, hoặc đơn giản là do tâm trí hắn không thể thông hiểu được ngôn ngữ loài người nữa.
Sonam xuất hiện bên cạnh lão Nima, vừa múa may vừa la hét, nhưng hắn vẫn chẳng hiểu gì hơn.
Sương mù dần tan biến khỏi tâm trí Jampa và ý nghĩa của các lời nói và cử chỉ bắt đầu thấm vào tâm thức hắn. Đã đến lúc đào tẩu! Chiếc xe tải cũ kỹ được giấu phía bên kia một ngọn đồi nhỏ cách đó vài trăm mét. Nếu muốn có chút hi vọng thoát thân, thì họ phải bỏ chạy ngay lập tức.
Nhóm nhân viên lái tàu chắc đã phải gọi cầu cứu rồi. Máy bay trực thăng sẽ sớm xuất hiện và còn có những chiếc xe chạy nhanh hơn chiếc xe tải cũ nhiều. Muốn thoát thân thì cách duy nhất là càng chạy xa trước khi cuộc truy lùng bắt đầu, càng tốt. Bọn họ phải chạy được nửa đường đến biên giới Ấn Độ trước khi người Trung quốc kịp tổ chức phản ứng hữu hiệu.
Jampa gật đầu và buông lỏng các ngón thả ống phóng tên lửa rơi xuống đất. Hắn đảo mắt nhìn chung quanh để xác định vị trí, rồi bắt đầu chạy chậm về chỗ giấu chiếc tải. Sau khi loạng choạng vài bước, hắn bắt đầu chạy nhanh, lão Nima và gã Sonam vài bước đằng sau.
Hắn chạy được nửa đường đến chỗ giấu xe thì nghe một tiếng nổ nhỏ như tiếng máy xe hơi bị ngộp xăng ở nơi xa. Tiếng nổ vang thật nhỏ trong tai đang ù của hắn. Phải chăng lại là một tiếng nổ từ một toa xe? Hay đầu óc mụ mị của hắn đang mơ ra?
Nhưng khi hắn và lão Nima chạy đến đỉnh ngọn đồi nhỏ, Sonam không còn bên cạnh họ. Jampa ngoái đầu nhìn lại và thấy gã chiến sĩ trẻ cuồng nhiệt kia nằm sấp trên mặt đất.
Jampa đang định chạy ngược lại thì lão Nima đã nắm cánh tay hắn và lôi hăn về chiếc xe tải. Lão Nima lại gào lên cái gì đó nhưng Jampa vẫn chưa thể nghe rõ được lời của lão. Tuy nhiên hắn vẫn hiểu lão muốn nói gì. “Đi! Ngay lập tức! Chúng ta không thể quay lại được!”
Jampa nhìn gã Sonam giây lâu, không để ý đến lão Nima đang kêu gào. Sonam không nhúc nhích.
Cuối cùng, Jampa gật đầu và để mặc cho lão Nima đẩy hắn về phía chiếc xe tải.
Khi họ lái đi xa, hắn không quay lại nhìn lần nào nữa…
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Khu Trục Hạm USS Towers (DDG-103)
Nam Biển Nhật Bản
Thứ Tư, ngày 19 tháng 11
13:41, giờ địa phương
Nửa giây sau khi trúng phi đạn, đèn trên trần tắt phụt, làm cho Combat Information Center (1, xem chú thích) (CIC) tối đen. Tiếng rơ-le điện kêu lách tách. Đèn khẩn cấp đỏ mờ bật lên thay thế ánh đèn chiến đấu xanh lam.
Tiếng ồn trong phòng hành quân CIC giảm xuống nhiều decibel sau khi gần phân nửa số màn ảnh điện tử trong phòng tắt phụt vì mất điện. Những chiếc quạt làm giảm nhiệt cho máy móc từ từ ngừng lại, tiếng rít của những hộp cung cấp điện cao thế tụt dần vào im lặng. Cả tiếng rầm rì của máy điều hòa không khí cũng nhạt đi khi máy nén hơi ở phòng bên cạnh dừng lại.
Những dấu hiệu cảnh báo đỏ và vàng bắt đầu nhấp nháy trên các màn ảnh điện tử còn hoạt động, báo cáo chi tiết các hư hại trong hệ thống điện tử và tín hiệu đang biến mất dần. Các màn ảnh khổng lồ của hệ thống chiến đấu Aegis (2) nhấp nháy lia lịa với những ký hiệu tác chiến hỗn loạn, rồi biến thành những đường sọc khi mất tín hiệu.
Trong bóng tối, hai-ba thủy thủ bị thương đang đau đớn rên siết. Đâu đó bên ngoài vách tường sắt của phòng hành quân CIC, còi báo động vang rền rĩ và những nhóm khống chế hư hại đang kêu gọi nhau. Vì khoảng cách xa, cùng với vách ngăn thép và mặt nạ bảo hộ, âm thanh của họ trở nên những tiếng xì xào vô nghĩa.
Tiếng nói của hạm trưởng Bowie xuyên qua bóng tối đỏ âm u: “Sĩ quan chỉ huy CIC, báo cáo thiệt hại cho tôi, lập tức! Tôi muốn biết chúng ta trúng phi đạn vào đâu và thiệt hại thế nào!”
Bowie không chờ viên trung úy trẻ đáp lời, đã ra mệnh lệnh tiếp: “TAO (3), báo cáo kiểm kê tất cả vũ khí và hệ thống cảm biến của ta. Chúng ta còn thấy được gì và còn thứ gì để chiến đấu? Khi nào tra được, tôi muốn biết còn lại bao nhiêu Bogies (4) và chúng đang ở đâu!”
Viên sĩ quan Tác Chiến lập tức trả lời: “Hạm trưởng, ra-đa SPY đang hoạt động bằng nguồn điện phụ, nhưng Aegis không hoạt động vì máy điện toán đang khởi động lại. Pháo tháp 51 sẵn sàng chiến đấu và có vẻ như khẩu CIWS (5) phía sau bị hỏng. Khẩu CIWS phía trước thì còn tốt. Đề nghị chúng ta quay mũi về hướng mấy chiếc bogies còn lại và để khẩu CIWS phía trước phòng vệ phi đạn cho đến khi chúng ta bắt đầu thấy lại được.”
Bowie chỉ thoáng ngập ngừng, rồi: “Làm đi!”
Ngay lúc này, sĩ quan chỉ huy phòng hành quân CIC, trung úy Westfall báo cáo: “Hạm trưởng, tôi liên lạc được với CCS (6). Chỗ trúng đạn phỏng định là bên phải, ngay giữa thân tàu, gần mép nước. Cả hai máy bên phải đều hỏng và nhóm phòng máy báo cáo lửa cấp Bravo (7) ở phòng Máy số một. Chúng ta đang ngập nước tại nhiều khoang và phòng Tổng Đài số 2 bị hỏng vì nước ngập.” Sau khi thoáng ngừng: “Báo cáo thương vong là… CCS ước tính 41 người chết và khoảng gấp đôi bị thương, thưa Hạm trưởng. Sĩ quan chỉ huy phòng máy đã chết. Phó hạm trưởng bị thương ở đầu, có thể bị vỡ sọ và đang bất tỉnh.”
Bowie gật đầu: “Đã hiểu.”
Một giọng nói vang lên trong loa treo trên trần. “TAO, đây là phòng lái. Thủy thủ canh gác phía trước báo cáo nhìn thấy ba máy bay ở bên trái phía trước, vị trí ba-năm-bảy độ. Tốc độ tiếp cận rất nhanh.”
Bowie nhìn trung tá Silva.
Viên trung tá đang đứng, hai tay nhét sâu vào túi của bộ áo liền quần màu xanh dương đậm, dáng người thẳng tắp và nhanh nhạy, mắt nhanh chóng chuyển từ vị trí chiến đấu này qua cái khác. Nàng chạm ánh mắt với Bowie, rồi chuyển đi nơi khác. Nàng đang thu thập tất cả, như một cái máy quay phim ghi nhớ tất cả dữ liệu, mà không nhả ra lại bất cứ thứ gì.
“Đám bogies đang lao tới nhanh và thật thấp.” Bowie nói. “Chúng chuẩn bị tập kích chúng ta bằng một đợt phi đạn khác.”
Trung tá Silva gật đầu, nhưng không trả lời.
Bowie quay đầu đi. “TAO, tình trạng Aegis thế nào rồi?”
“Máy vi tính đã kích hoạt xong, thưa hạm trưởng.” Viên sĩ quan Tác Chiến nói. “Phải vài giây nữa ra-đa SPY mới liên kết và khóa cứng mục tiêu được.”
“Chúng ta không có vài giây nào hết.” Bowie nói. “Lệnh cho pháo tháp 51 xạ kích đám Bogies dùng video từ máy thu hình trên cột tàu. Lệnh cho nhóm Phòng Thủ Chống Tiểu Thuyền (8) xạ kích mọi mục tiêu bằng đại liên 12,7 mm ở phía trước, và cả hai khẩu đại bác nhẹ nữa.”
Bowie im lặng nghe viên TAO truyền đạt mệnh lệnh của hắn cho các vị trí súng. Đây là một bước tuyệt vọng. Khẩu pháo lớn 127 mm ở pháo tháp 51 trên boong trước có lẽ có khả năng tiêu diệt một máy bay đang lao tới nếu được ra-đa điều khiển. Muốn hạ ba chiếc máy bay địch mà chỉ dùng máy thu hình đen-trắng sao? Khó hơn nhiều! Nếu kể cả những hư hại của chiếc tàu, thì coi như vô vọng.
Mấy khẩu đại liên 12,7 mm ư? Có cầu nguyện cách mấy cũng chẳng hi vọng gì. Hai khẩu 25 mm cũng không hơn bao nhiêu. Bắn tán loạn có lẽ cũng chỉ tốn đạn thôi, nhưng chẳng lẽ họ cứ ngồi đó rung đùi mà không làm gì sao?
Chiếc USS Towers là một chiếc khu trục hạm hiện đại nhất. Đây là một chiếc chiến hạm tiên tiến từ đáy tàu được thiết kế bằng máy điện toán, cho đến chóp xéo của cột tàu. Nó được thiết kế và chế tạo cho tốc độ, hỏa lực và khả năng tàng hình. Trong khoảng thời gian hoạt động vài năm ngắn ngủi, nó đã trải qua số thực chiến nhiều hơn tổng số của bất cứ hai chiến hạm nào khác trong Hải Quân Mỹ.
Bowie mỉm cười hung tợn. Nếu chiếc Towers phải đắm, thì nó sẽ vừa đắm vừa chiến đấu.
Hắn rời ánh mắt khỏi những màn ảnh đã hỏng, đảo mắt tìm trong bóng tối đỏ cho đến khi hắn thấy dáng khổng lồ của một gã trung sĩ.
Chuyên viên tác chiến cấp hai Kenfield đã lớn lên trong một nông trại ở tỉnh Gordonsburg, tiểu bang Tennessee. Tên gã là Bruce, nhưng thủy thủ đoàn gọi gã là Ruộng Đồng Thênh Thang, một phần vì khổ người đáng kể của gã mà phần khác là vì giọng nói đặc sệt vùng quê miền Nam của gã. Trong thủy thủ đoàn vẫn lưu truyền câu chuyện đùa rằng Ruộng Đồng Thênh Thang không cần xe cày hay trâu bò để cày ruộng nhà gã; gã chỉ cần dùng sức lực khủng khiếp tự mình kéo cày và dùng hai tay sắn đất.
Hạm trưởng Bowie hất đầu về phía gã. “Này Ruộng Đồng Thênh Thang … hát cho chúng ta nghe một bài đi.”
Không khí trong CIC thật căng thẳng, nhưng gã thủy thủ khổng lồ vẫn nhe răng cười trắng ởn trong bóng tối đỏ. “Có phải là mệnh lệnh không, hạm trưởng?”
“Chứ còn gì nữa?” Bowie đáp.
Gã thủy thủ càng cười toét hơn nữa. “Aye-aye (9), hạm trưởng!”
Gã tằng hắng đầy kịch tính, rồi phát ra bài hát duy nhất mà người ta từng nghe gã khổng lồ này ca: một tiếng gầm rống chấn động.
Trung tá Silva còn chưa quen thuộc với nếp sinh hoạt của chiến hạm này, suýt nhảy nhỏm khi nghe tiếng gầm phá không gian này. Nhưng nhân viên trong phòng hành quân CIC đã có kinh nghiệm lâu rồi. Họ đã biết rõ gã Ruộng Đồng Thênh Thang này ca hát như thế nào. Trước khi dư âm tiếng rống tắt đi, họ đã thêm vào tiếng gào riêng của họ. Nam hay nữ, trẻ hay trung niên, già dặn hay non nớt, tiếng gào rú của họ cùng dâng lên, như một sự phản kháng chống lại những chiếc máy bay địch đang lao đến tấn công chiến hạm của họ.
Họ là một thủy thủ đoàn. Họ là một thể. Họ sẽ cùng chiến đấu. Họ sẽ chết cùng nhau. Mẹ nó chứ! Chiếc Towers là chiến hạm của họ!
Trung tá Silva ngắm nhìn các thành viên của phòng hành quân CIC. Vẻ mặt của nàng lộ rõ cảm nghĩ của nàng. Nàng là một sĩ quan từng trải, với hơn mười bảy năm trong quân ngũ. Nàng đã sống gần suốt quảng đời người trưởng thành ngoài đại dương và nàng đã thấy qua hầu hết những gì đại dương có thể cống hiến. Nhưng suốt những năm sống trong Hải quân, nàng chưa từng thấy qua cái gì như cái này. Thật là điên rồ. Thật là những cử chỉ vô ích. Nhưng Mẹ nó! Thật là đáng nể.
Silva hé môi, có lẽ để góp phần vào cuộc gầm thét, nhưng chưa kịp làm gì thì đã bị tiếng nói trong loa treo trên trần cắt ngang. “TAO, nhóm Điều Khiển Vũ Khí báo cáo. Aegis đã hoạt động. Có 5 Vipers (10), rất gần và đang tiếp cận! Lặp lại, 5 phi đạn đang tiếp cận, ước tính 20 giây trước khi bị trúng đạn.”
Tiếng reo hò lập tức ngưng bặt khi mọi người khẩn trương làm việc. Hai mươi giây quá ngắn để có làm gì hữu hiệu, nhưng điều đó không làm cho thành viên phòng hành quân CIC ngừng cố gắng.
Giọng nói của viên sĩ quan Tác Chiến xuyên qua mạng liên lạc: “Mọi vị trí chiến đấu, đây là TAO. Năm Vipers đang tiếp cận! Tôi lặp lại, có nhiều phi đạn đang tiếp cận! Nhóm Điều Khiển Vũ Khí, chuyển hệ thống Aegis qua tự động hoạt động. Cho CIWS tự động khai hỏa. Break (11). EW (12), cho tôi biết đường đi tốt nhất để giảm tối đa hình chiếu ra-đa (13), và chuẩn bị phóng chaff (14).”
Tiếng vâng dạ và những mệnh lệnh phụ thuộc lan truyền trên các mạng tác chiến. Phân nửa vị trí trong phòng hành quân CIC vẫn chưa hoạt động. Chiếc tàu đã tàn phế rồi. Một phần ba thủy thủ đoàn đã chết hay đang hấp hối, và tệ nhất là thời gian đã hết. Nhưng họ vẫn còn chiến đấu. Vẫn còn phản kích.
Giọng nói của viên sĩ quan chỉ huy nhóm Điều Khiến Vũ Khí vang lên trong loa. “Mọi vị trí chiến đấu, đây là nhóm Điều Khiển Vũ Khí. Chuẩn bị! Ước tính phi đạn sẽ trúng trong sáu… năm… bốn…”
Bowie khoanh tay và dựa vào một màn ảnh ra-đa đã hỏng. Hắn huýt sáo nhẹ qua kẽ răng, trong khi tiếng đếm ngược tiếp tục.
“Ba… Hai… Một…” Chữ cuối cùng gần như là một tiếng hét. “Trúng!”
Căn phòng đột nhiên sáng trưng lên khi dòng điện tràn vào các ngọn đèn.
Một giọng nói khác vang lên trên loa. “Mọi vị trí, đây là Tổng Huấn Luyện viên. Huấn luyện kết thúc. Lặp lại, huấn luyện kết thúc. Cho phần mềm ngưng lại. Ngưng đồng hồ. Bật điện lên, cho mọi hệ thống trở lại hoạt động bình thường. Huấn luyện chấm dứt lúc 13 giờ 25 phút 9 giây.”
Các thành viên trong phòng hành quân CIC chớp chớp mắt và che mắt chống lại ánh đèn bất ngờ. Khắp trong phòng, các nhân viên đã “chết” hay “bị thương” đứng dậy, phủi bụi trên quân phục và bắt đầu kích hoạt lại các máy móc.
Một trung sĩ tháo sợi dây tròng nơi cổ xuống và ngắm tấm bìa cứng màu vàng. Trên đó có dòng chữ in to: “Phòng hành quân CIC thương vong số 6 – phỏng vì điện giật, hôn mê do va chạm vật cứng, tử thương.”
Gã đưa tấm bìa cho một người mặc đồng phục màu cam, một thành viên trong nhóm Huấn Luyện. “Đây này, tôi không cần cái này nữa. Tôi hết chết rồi.”
Gã quan sát viên mặc đồ cam kẹp tấm bìa vào một sấp bìa tương tự, nói: “Hoan nghênh bạn trở về cõi sống. Nhưng nếu tôi là bạn, tôi sẽ tiếp tục chết cho đến giờ cơm. Như vậy, bạn sẽ không phải tốn cả buổi chiều quét dọn CIC.”
Gã chuyên viên Tác Chiến cấp Ba mỉm cười: “Ài, nếu giả chết có thể miễn lao động được thì tốt rồi! Có chết cũng không tránh khỏi lao động quét nhà đâu.” Nhún vai, nói tiếp. “Ít ra họ cho tôi chết sớm. Tôi cũng chợp mắt được một lúc trong khi mọi người khác còn đang cố gắng cứu tàu.”
Cách đó khoảng mười bộ, đại tá Bowie đang trò chuyện cùng trung tá Silva gần chỗ ngồi của viên sĩ quan Tác Chiến. Bowie nhướng mày. “Trung tá thấy sao?”
Silva gật đầu. “Đáng nể lắm, thưa đại tá. Tôi chưa từng thấy qua cái gì như thế này. Ông có một thủy thủ đoàn thật là giỏi đó.”
Bowie tủm tỉm cười: “Nói thật ra, họ quả thật rất đáng nể. Tôi hãnh diện được phục vụ chung với từng người bọn họ. Mỗi người nam hay nữ trên chiếc tàu này đều cống hiến 120% sức lực của mình.”
Hắn lắc đầu. “Nhưng mà họ chẳng còn là thủy thủ đoàn của tôi bao lâu nữa, phải không? Họ sẽ thuộc về cô chỉ trong khoảng hai tuần nữa mà thôi, trung tá.”
Mắt hắn đảo quanh phòng hành quân CIC, thật chậm, cố gắng thu nhận từng chi tiết như thể hắn sẽ không bao giờ thấy được quang cảnh tráng lệ như vậy nữa. Mà điều đó sẽ là sự thật trong chẳng bao lâu nữa. Lễ bàn giao chỉ cách đó 16 ngày nữa. Sau đó, chiến hạm này sẽ không còn là của hắn nữa.
Sau khi hai người chào nhau lần cuối trong buổi lễ bàn giao ấy, Đại tá Samuel Harland Bowie sẽ trở thành Chỉ Huy Phó hạm đội khu trục hạm số 15. Cùng lúc ấy, Trung tá Katherine Elisabeth Silva sẽ trở thành Hạm trưởng Silva, chỉ huy trưởng mới của chiếc USS Towers.
Quảng thời gian bi tráng nhất và quan trọng nhất trong quân nghiệp của Bowie sẽ chấm dứt. Ngay từ bây giờ, hắn đã biết là không gì có thể lắp đầy cái khoảng trống ấy trong cuộc đời của hắn. Và qua cả quá trình ấy, hắn sẽ phải tươi cười, với những phát biểu lịch sự, giả vờ rằng hắn vui lòng giao quyền lãnh đạo chiến hạm của hắn cho một người gần như xa lạ.
Khốn nạn! Thật khốn nạn! Hắn chậm rãi thở ra.
Hắn quay sang trung tá Silva, người lãnh đạo kế tiếp của chiếc USS Towers. “Chúng ta xuống phòng ăn đi. Chúng ta có thể uống một ly cà phê trong khi chờ đợi nhóm Huấn Luyện viết xong báo cáo.”
Silva bước theo hắn ra cửa. Bowie thả chậm bước để nàng tiến lên bên cạnh hắn. “Bạn bè gọi cô là Kate sao?”
Trung tá Silva mỉm cười. “Chỉ có bố tối là được quyền gọi như vậy thôi. Mọi người khác đều gọi tôi là Kat.” (trùng âm với ‘cat’, con mèo)
“Với chữ K chứ?”
“Đúng rồi. Với chữ K.” Nàng lại cười. “Đây là một câu chuyện dài.”
Bowie mở cánh cửa có thể ngăn nước (để phòng ngập lụt lan tràn nếu tàu bị nước vào) và ra hiệu cho nàng đi vào. Khi họ đã bước qua cửa, hắn lại gài cửa lại cẩn thận, rồi họ mới tiếp tục đi.
“Còn anh thì sao?” Silva hỏi. “Bạn bè gọi anh là Sam hả?”
Viên đại tá lắc đầu. “Không. Họ kêu tôi là Jim.”
Silva thoáng ngưng bước. “Họ gọi anh là Jim Bowie (15) sao? Thật vậy à?”
Đại tá Bowie ngoác miệng cười. “Thật mà!” Hắn lại tiếp tục đi về phía phòng ăn. “Đây cũng là một câu chuyện dài.”
Chú Thích
(1) Combat Information Center (CIC): phòng hành quân trên tàu chiến Mỹ, trong hải quân Hoàng gia Anh quốc thì được gọi là Action Information Centre. Là trung tâm chỉ huy và kiểm soát của tàu chiến hoặc cả hạm đội dưới quyền. Từ bây giờ, dịch giả sẽ dùng ‘phòng hành quân CIC’ nếu nói về hải quân Mỹ. Không nên lầm với phòng điều khiển hay lái tàu.
(2) Hệ thống chiến đấu Aegis là hệ thống chiến đấu tiên tiến và phức tạp nhất thế giới, được bắt đầu trang bị cho hải quân Mỹ vào thập niên 1980 và được không ngừng cải tiến cho đến ngày nay. Hệ thống này dung hợp thông tin từ các loại hệ thống thông tin, ra-đa, sonar trên tàu, của cả hạm đội và từ mọi nguồn khác (vệ tinh, phi cơ, v.v.), phân chia cho các chiến hạm trong hạm đội các công tác tấn công và phòng thủ chống tất cả các loại nguy cơ trên và dưới mặt biển, trên không và cả ngoài khí quyển. Gần đây, hệ thống còn được triển khai trên đất liền để phòng thủ chống tên lửa đạn đạo và phi đạn hành trình, cũng như mọi mối đe dọa trên không khác. Xem thêm: vi.wikipedia.org/wiki/Hệ_thống_Chiến_đấu_Aegis
(3) Tactical Action Officer (TAO): sĩ quan Tác Chiến phụ trách hệ thống tác chiến của chiến hạm. Đây là một nhiệm vụ chỉ có trong hải quân. Quân đội Mỹ có thói quen dùng từ viết tắc trong khi nói chuyện để tiết kiệm thời giờ.
(4) Bogie hay bogey: tiếng lóng thường dùng trong quân đội Mỹ để chỉ máy bay hay phi đạn địch. Vì là tiếng lóng chuyên dụng, dịch giả sẽ không dịch.
(5) CIWS (phát âm là Xi-uy-zơ) hay Close-In Weapon System là hệ thống tự vệ chống phi đạn, tầm cực ngắn. CIWS bắt nguồn từ hải quân Mỹ vào những năm 1980, nhưng ngày nay nhiều quốc gia cũng có các hệ thống tương tự. CIWS của Mỹ có tên Phalanx gồm một khẩu súng 20 ly 6 nòng có thể bắn 4.500 viên/phút, có tầm hữu hiệu cỡ 2.000 mét; nhiệm vụ là tầng bảo vệ cuối cùng chống phi đạn nếu lọt lưới qua các hệ thống phòng thủ khác. Súng được tự động điều khiển bởi một hệ thống ra-đa độc lập. Gần đây, có vài hệ thống CIWS sử dụng phi đạn tầm ngắn thay thế súng, có lợi thế là tầm xa hơn và có thể đối phó nhiều phi đạn cùng lúc, nhưng mắc tiền hơn và số lượng lần bắn ít hơn (thể tích lớn hơn). Trên một chiến hạm Mỹ, thường có một khẩu ở phía trước và một khẩu phòng thủ phía sau, mỗi khẩu có thể xoay chuyển khoảng 240 độ. Gần đây, hệ thống phalanx được sử dụng trên bộ (Afghanistan) để phòng thủ các căn cứ chống tên lửa, đại bác và súng cối, cực kỳ hữu hiệu. Người Mỹ thường viết tắc nhưng cụm từ chuyên môn dài, rồi đọc luôn như một từ mới; trong trường hợp này, CIWS được phát âm thành Xi-Uy-Zơ.
(6) CCS là Crew Coordination System: dữ liệu về thủy thủ đoàn được lưu trữ trong hệ thống điện toán của tàu. Nhân viên điều hành có thể tùy thời kiểm tra và tổng hợp tình trạng thủy thủ đoàn theo từng ban ngành, vị trí, v.v.
(7) Bravo: Bắt đầu từ những năm 1950, để báo cáo qua điện đài một cách chính xác và tránh nhầm lẫn vì nghe lầm, quân đội Mỹ và đồng minh áp dụng cách phát âm chữ cái thống nhất cho quân đội như sau: A – Alpha, B – Bravo, C – Charlie, D – Delta, E – Echo, F – Foxtrot, G – Golf, H – Hotel, I – India, J – Juliet, K – Kilo, L – Lima, M – Mike, N – November, O – Oscar, P – Papa, Q – Quebec, R – Romeo, S – Sierra, T – Tango, U – Uniform, V – Victor, W – Whiskey, X – X-ray, Y – Yankee và Z – Zulu. Thí dụ: “Báo cáo, phát hiện 2 chiếc MIG, mike-india-golf (đánh vần để tránh nghe lầm), đang bay về hướng…”
(8) Phòng Thủ Chống Tiểu Thuyền: khu trục hạm Mỹ có vài đội thủy thủ có nhiệm vụ bảo vệ tàu chống lại những mục tiêu nhỏ và quá gần để sử dụng pháo 127 mm (pháo tháp 51) một cách hữu hiệu, như ghe nhỏ. Tàu được trang bị một số đại liên 12,7 mm (tầm hữu hiệu khoảng 1,000-1,500 mét) và hai khẩu súng máy 25 mm M242 Bushmaster có thể bắn 500 viên/phút (tầm hữu hiệu tối đa 3,000 mét). Có thể miễn cưỡng dùng chống máy bay hoặc phi đạn.
(9) Aye-aye: Thưa vâng. Đây là từ ngữ chỉ dùng trong hải quân Anh và Mỹ (và có thể Úc và các nước nói tiếng Anh khác) có nghĩa là “Thưa vâng!” hay “Dạ!” Chữ Aye có nghĩa là Yes (vâng) được dùng từ đầu thế kỹ 17, đến nay vẫn còn được dùng ở Tô Cách Lan, nhưng không rõ vì lý do gì lại biến thành chuyên dùng trong hải quân. Vì là từ ngữ chuyên dùng, dịch giã sẽ để nguyên.
(10) Viper: rắn độc. Tiếng lóng chỉ phi đạn địch. Tiếng lóng chuyên dụng sẽ không được dịch.
(11) Break: đứt, gãy. Trong khi liên lạc bằng điện đài, quân đội Mỹ dùng từ “break” này để cho biết rõ người nói đang chuyển đề tài. Thí dụ như ra lệnh cho đội một xong, “break” chuyển đến ra lệnh cho đội hai, rồi “break” chuyển đến lệnh cho đội ba. Tiếng lóng chuyên dụng sẽ không được dịch.
(12) Electronic Warfare (EW): đội phụ trách vũ khí điện tử. Thí dụ máy phát sóng phá rối tia laser, liên lạc điện đài của địch, ra-đa của địch, v.v….
(13) Hình ra-đa: mặt phẳng có diện tích càng lớn thì sẽ phản chiếu tia ra-đa càng mạnh, và do đó càng dễ trở thành mục tiêu cho phi đạn được ra-đa điều khiển. Một chiến hạm muốn giảm diện tích ra-đa có thể phản chiếu thì phải hướng mũi tàu về phía ra-đa, mà tránh để ra-đa chiếu vào hông tàu. Ngoài ra, các máy bay hay chiến hạm ‘tàng hình’ có thể giảm hình ra-đa bằng cách thiết kế hình dáng bên ngoài theo những góc độ đặc biệt để làm tia ra-đa bị trợt đi, thay vì dội ngược lại; và sơn một lớp sơn, hay lắp những tấm vật liệu có tính cách hấp thu tia ra-đa.
(14) Chaff: một loại đạn phòng thủ chống ra-đa, bên trong đầu đạn chứa hằng vạn sợi kim loại chiều dài bất đồng. Khi được bắn ra, đạn nổ cách chiến hạm không xa và hằng vạn sợi kim loại được tung ra thành một vầng mây kim loại phản chiếu đủ loại làn sóng ra-đa (do chiều dài bất động của sợi kim loại), làm nhiễu loạn ra-đa của địch. Nếu thành công, ra-đa của địch sẽ tỏa định vào một sợi kim loại nào đó và bay lạc hướng khỏi chiến hạm. Chaff cũng thường được dùng để bảo vệ máy bay chống phi đạn.
(15) Jim Bowie là một anh hùng hi sinh trong trận đánh phòng vệ thành Alamo, tiểu bang Texas trong cuộc cách mạng Texas, năm 1836. Đây là lúc Texas tách ly khỏi Mexico và trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ. James (gọi tắt là Jim) Bowie là một trong hai viên chỉ huy lực lượng phòng thủ Alamo, gồm khoảng từ 180 đến 257 người. Số người này gồm một ít quân đội và phần còn lại là chiến sĩ tự nguyện khác kể cả David Crockett, một nhân vật truyền kỳ khác. Họ đẩy lui 2 đợt tấn công của 1800 quân chính quy Mexico, giết chết khoảng 600 người, trước khi thất thủ trong đợt tấn công thứ ba. Có từ 5 đến 7 quân phòng thủ bị bắt sống, nhưng bị hành quyết ngay lập tức. Jim Bowie còn là người chế ra loại dao chiến đấu mang tên ông, “dao Bowie”. Tuy chiều dài lưỡi dao có thể từ 13 phân đến 60 phân, đặc điểm của dao này là sống dày, rất bén, có hình dáng hơi giống đao dùng trong võ thuật Trung Hoa nhưng lưỡi thẳng. Ngày nay, loại dao Bowie vẫn còn là loại dao thường thấy nhất trong dao dã ngoại.
(16) Bầy Sói (wolfpack): chiến thuật sử dụng tàu ngầm do đô đốc Karl Donitz của Quốc Xã Đức đề xuất trong đệ nhị Thế Chiến, tiếng Đức là Rudeltaktik. Trước kia, tàu ngầm được sử dụng riêng lẻ. Nhận thấy từng chiếc tàu ngầm bị lần lượt phát hiện và đánh chìm, đô đốc Donitz đề xuất cho cả toán tàu ngầm (có khi cả mấy chục chiếc) bao vây và tấn công các đoàn tàu tiếp tế qua lại từ nước Anh qua Mỹ, và gọi nó là chiến thuật Bầy Sói. Chiến thuật này cực kỳ hữu hiệu làm phân tán lực lượng phòng vệ cho đoàn tàu quân đồng minh.
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Quảng Trường Barkhor, Thành phố Lhasa, Tây Tạng
Thứ Tư, ngày 19 tháng 11, 15:34, giờ địa phương
Chiếc trực thăng bay đến thấp và nhanh, chỉ cách các mái nhà vàng kim, được trang trí tỉ mỉ của chùa Jokhang 4-5 mét. Bay gần kiến trúc cổ 1300 năm này như thế đã vi phạm cả chục điều luật và sắc lệnh một cách trắng trợn. Bất cứ chiếc máy bay nào khác mà dám bay như vậy đã bị cưỡng ép đáp xuống, hoặc đã bị bắn rơi bởi không quân hay bộ binh rồi. Hôm nay, mọi điều luật hay sắc lệnh gì cũng miễn hết. Miễn áp dụng cho chiếc trực thăng này.
Đó là một chiếc HC-120 Colibri có vẻ tầm thường, phòng hành khách tròn trịa rõ ràng phong cách Âu châu, nhưng màu sơn và huy hiệu thì rõ ràng là Trung quốc. Tuy nhiên mọi sĩ quan công an hay quân đội đều biết ai đang ngồi trên ghế hành khách của chiếc trực thăng này và không một người nào điên khùng đến nổi muốn chất vấn cái gì.
Viên phi công đã được lệnh phải đáp càng nhanh càng tốt và sử dụng đoạn đường ngắn nhất. Gã đang thành thật chấp hành chỉ thị này. Gã áp xuống gắt, gần như phớt qua đỉnh bia đá cao dựng ở cổng chùa.
Bia đá bên trên hình tròn, cũng gần cổ xưa bằng chính ngôi chùa. Nó được vua Relpachen cho dựng lên vào năm 822, để kỷ niệm hòa ước Trung-Tạng đã cam kết rằng Trung Hoa và Tây Tạng sẽ vĩnh viễn tôn trọng biên giới giữa hai nước. Mặc cho bao thế kỷ mưa, gió và tuyết bào mòn, những dòng chữ khắc trên mặt đá xám vẫn còn đọc được. Bản tuyên dương của Trung Hoa về quyền tự chủ của Tây Tạng vẫn còn rõ rành rành cho cả thế giới đọc được. Mĩa mai thay, lực lượng chiếm đóng của Trung quốc không chú ý gì tới. Tuy vậy, dân bản địa Tây Tạng thì sẽ không dễ quên như vậy.
Một bãi đáp đã được dọn sạch sẽ giữa quảng trường Barkhor. Đám đông khách du lịch, hành hương và người bán hàng thường thấy ở đây đã bị đẩy dạt ra bên rìa quảng trường. Họ chỉ có thể nhìn từ xa sau những rào gỗ, có hàng trăm binh sĩ Trung quốc kiểm soát với vẻ khắc nghiệt.
Nơi trung tâm khu trống tạm thời này, chiếc trực thăng hạ xuống vài mét cuối cùng, lắc lư trong một ngọn gió thổi tạt qua, rồi đáp xuống mặt sân lót đá. Động cơ chỉ mới chạy chậm lại thì một chiếc xe quân dụng màu xanh đã trờ tới bên cạnh. Một viên thiếu tá bộ binh nhảy xuống xe, khom người tránh cánh quạt còn đang quay và nhỏ bước chạy đến cửa bên phía hành khách của chiếc trực thăng.
Chiếc xe này là một chiếc Dongfeng EQ2050, hầu như sao y nguyên bổn của chiếc xe Mỹ Humvee. Chính thức được gọi là một sản phẩm được Trung quốc hoàn toàn thiết kế và sản xuất từ các bộ phận chế tạo tại Trung quốc. Trên thực tế, khoảng phân nửa số bộ phận được nhập từ hãng Mỹ AM General, ở thành phố South Bend, tiểu bang Indiana – hãng chế tạo chiếc Humvee gốc. Chi tiết này được mọi người lãng quên để tránh gánh lấy sự không vui của đảng.
Cửa trực thăng mở ra và viên thiếu tá đứng nghiêm.
Người đàn ông bước ra trong cơn lốc do cánh quạt trực thăng không có vẽ lợi hại đặc biệt nào. Lão vào khoảng 65 tuổi, gầy mà khỏe mạnh; mái tóc đen nhánh và da mặt trơn láng như rút bớt nhiều năm tuổi. Bộ com-lê sậm màu và chiếc sơ-mi trắng ủi thẳng được cắt may khéo léo, nhưng hàng vải không phải thuộc hạng đắt tiền lắm. Lão chỉ có một điểm trưng diện là chiếc cà-vạt bằng lụa đỏ thắm. Trông lão như một thương gia giàu có vừa phải, mặc một bộ com-lê khá thông thường.
Gió lốc từ cánh quạt thổi tung tóc lão. Lão không buồn để ý tới, chỉ bước nhanh đến chiếc xe. Lão cũng không cúi đầu khi đi dưới cánh quạt. Lão đi với dáng thẳng tắp. Có lẽ lão tự tin rằng không có một cái gì trong quân đội Trung quốc dám tổn thương cái đầu của lão. Hay là, tâm trí lão đang đặt ở nơi xa xôi và lão không để ý đến nguy hiểm của cánh quạt trực thăng.
Lão tên là Lu Shi và là đệ nhất phó Chủ Tịch của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Trên nguyên tắc, điều này cho thấy rằng lão là người hùng mạnh thứ hai trong chính phủ Trung quốc, chỉ dưới Chủ Tịch Xiao Qishan mà thôi. Trên thực tế, vai trò thuộc hạ cho Chủ Tịch Xiao của lão Lu chẳng qua chỉ là một tấm bình phong trang nhã mà thôi.
Chủ Tịch Xiao đã không còn trẻ nữa rồi và sức khỏe của lão cứ suy thoái dần sau lần đau tim sau cùng kia. Con mãnh long già này đã đạt được địa vị Chủ Tịch của lão và các tôn vinh của cái địa vị đó. Lão Lu vui lòng để lão Xiao tiếp tục mang cái chức vị ấy trong những tuần hay tháng còn lại. Tuy nhiên không một ai trong cao tầng của đảng có chút hoài nghi nào rằng ai mới là người nắm quyền trên đất nước này.
Mà cho dù có ai hoài nghi chăng nữa, lão Lu là Chủ tịch Ủy Ban Trung Ương Quân Sự. Trên thực tế, chức vị này làm lão trở thành Tổng Tư Lệnh của toàn bộ quân đội Trung quốc. Khi mọi bình phong được gở xuống, lão Lu Shi không đứng dưới bất cứ ai cả.
Hơi thụt phía sau Phó Chủ Tịch Lu là hai gã đàn ông vạm vỡ, mặc com-lê xanh dương đậm y như nhau. Mặt họ không có biểu tình gì, mắt đảo qua đám đông và nhóm quân đội với cùng vẻ ngờ vực như nhau. Đây là hai viên hộ vệ của lão Lu.
Lu Shi chui vào khoang xe sau, hai viên hộ vệ theo sau, rồi viên sĩ quan cũng vào xe. Đám đông chung quanh chu vi rào gỗ tò mò nhìn, nhiều người thắc mắc không hiểu người thương gia đầy quyền thế bay trực thăng đến là ai. Lão già này là ai mà có thể chấn nhiếp quân đội và công an như thế? Đối với phần đông những kẻ đang nhìn, thắc mắc của họ sẽ không bao giờ có đáp án.
Bọn lính dời một số rào gỗ đi, trông chừng đoàn xe cho đến khi chúng đã rời khỏi quảng trường và biến mất trong dòng xe cộ trong thành phố Lhasa.
Cánh quạt của chiếc trực thăng lại tăng tốc. Hai-ba phút sau, nó bốc lên bầu trời. Sau khi nó bay mất dạng, bọn lính bắt đầu thu gom lại các rào gỗ. Lại thêm vài phút nữa, bọn lính cũng bỏ đi mất và dân chúng lại ùa vào quảng trường. Ngoài trừ những lời bàn tán tò mò của đám đông, chẳng còn dấu vết gì của sự việc bất thường đã diễn ra.
*****
Qua cửa sổ xe, Lu Shi nhìn đường phố Lhasa một cách xa vắng. Các màu sắc và hình ảnh chạy thoáng qua tầm nhìn của lão mà không để lại một cảm nhận nào trong tâm trí lão. Mắt lão không có tiêu cự, mà tư duy của lão cũng vậy.
Với một người có trí thông minh gần như trong thần thoại, sự nhạy bén yếu ớt như thế gần như chưa từng nghe qua. Lần đầu tiên trong đời, Lu Shi không cách nào cưỡng ép mình suy nghĩ được. Mà hơn nữa, lão cũng không muốn suy nghĩ.
Một trong các bánh xe to quân dụng lọt vào một ổ gà. Dàn nhún cứng rắn của chiếc xe không giảm xóc được bao nhiêu, làm cho cú xóc nảy truyền qua ghế hành khách thẳng vào cột sống của từng người. Đoạn đường không bằng phẳng chút nào; mà ghế xe thì lại không êm ái như loại xe sang trọng mà Lu Shi thường sử dụng. Nhưng lão không để ý.
Các ngón tay lão lơ đảng đùa nghịch chiếc cà-vạt bằng lụa đỏ. Đó là một món quà từ nhiều năm trước do Lu Jianguo tặng lão. Vừa nghĩ đến tên con trai làm tay lão run lên.
Những hình ảnh xông vào óc lão ngoài ý muốn. Những bức hình chụp các toa xe cháy đen và cong queo… Những đoạn phim quay lại hiện trường… Những lọn khói còn bốc lên từ những toa xe chở khách cháy rụi. Binh sĩ và nhân viên cấp cứu đang khiêng những băng-ca chở thi thể của những người chết và bị thương.
Lu Shi nhắm nghiền mắt lại để hi vọng chặn lại những hình ảnh máu me và thịt nát.
Không một bức hình nào hay đoạn phim nào mà lão đã xem chứa mặt mày của Lu Jianguo cả. Lão thầm tạ ơn trời là lão không phải nhìn hình ảnh thân thể tàn hủy của nhi tử lão. Tuy nhiên Lu Jianguo quả thật đã ở nơi ấy, trong số những người chết và bị thương, không được nhóm cấp cứu xuất hiện đầu tiên tại hiện trường nhận ra. Khi ấy, đối với đám lính và nhân viên y tế, gã chỉ là một người bị thương khác, một nạn nhân khác trong vụ thảm họa ấy mà thôi.
Ở một nơi sâu xa trong tâm trí của Lu Shi, bên dưới tầng ý thức, những sự sợ hãi, phẫn nộ và đau đớn đang vờn quanh như những con cá mập hung ác. Nhưng hiện tại, mọi xúc động của lão cũng bị tê liệt như khả năng suy luận của lão vậy.
Các ngón tay của lão cứ kéo thẳng cà-vạt, thắt chặt gút lại, vuốt thẳng vải lụa, rồi lại nới lỏng nó ra một chút, rồi lại bắt đầu mọi thao tác lại từ đầu.
Một lúc lâu sau, một bàn tay chạm vào vai lão. “Thưa đồng chí Phó Chủ Tịch, chúng ta đã đến nơi rồi.”
Lu Shi ngước lên, cố gắng trấn tỉnh lại. Chiếc xe đang ngừng trước cửa một tòa nhà quét vôi trắng có cửa kính hình vòm. Lão liếc nhìn tấm biển để xác nhận rằng đây quả thật là bệnh viện nhân dân Tây Tạng, rồi đảo mắt đi. Các ngón tay lại tìm đến chiếc cà-vạt lụa đỏ.
Cửa xe sau mở ra và Lu Shi theo gã thiếu tá ra khỏi xe, vượt qua một lề đường ngắn, đi qua cửa kính đôi đến tiền sảnh.
Một nhóm nhân viên bệnh viện mặc y phục trắng cung kính cúi đầu và tiến đến đón lão. Có lẽ có vài người là bác sĩ hay giám đốc của bệnh viện, nhưng hai tên cận vệ của Lu Shi không để ý. Chúng tiến lên tạo thành một bức rào giữa lão Phó Chủ Tịch và những người kia.
Hai gã cận vệ không nói một lời, nhưng vẻ mặt và tư thế của chúng cho thấy rõ ràng nếu bất cứ kẻ nào dám vượt qua một chu vi vô hình nào đó quanh người được chúng bảo vệ, chúng sẽ không ngần ngừ hạ sát thủ.
Gã thiếu tá ngẫu nhiên chỉ một người mặc y phục trắng. “Ông này! Đưa chúng ta lên phòng đi!”
Người đàn ông kia vội vã gật đầu, miệng lắp bắp không rõ ràng.
Lu Shi, hai tên cận vệ và viên thiếu tá đi theo người đàn ông vào hành lang và vào thang máy. Sau khi đi lên ba tầng, gã đàn ông đưa họ ra khỏi thang máy, vòng qua một bàn làm việc tròn của y tá đến cửa một căn phòng. Gã mở cửa phòng và nép qua bên nhường lối cho lão Phó Chủ Tịch và đám thủ hạ.
Lu Shi đứng yên trước cửa phòng. Lão đang ở ngưỡng cửa, trên nghĩa đen cũng như nghĩa bóng. Chính là nơi này. Lão đã đến nơi mà tiềm thức của lão cứ cố gắng trì hoãn hay hoàn toàn chối bỏ.
Các giác quan của lão đã bị sự mệt mỏi mài mòn, nay bắt đầu ngo ngoe. Khung cửa, các vách tường và cả người lạ mặc y phục trắng từ từ hiện lên rõ nét hơn. Lúc trước, thính giác của lão đã lọc đi phần lớn các tiếng động chung quanh, nay bắt đầu trở về. Lão bắt đầu nghe được những mẫu đối thoại xì-xào nơi xa, những tiếng máy điện âm ỉ và – lão thật không muốn nghe cái này – âm thanh xì-xì của máy hô hấp.
Cái âm thanh này vừa ghê tởm, lại vừa như thôi miên người ta. Tiếng rít ở tần số cao khi máy cưỡng ép hít vào, rồi tiếng róc-rách khi máy hút hơi ra, rồi lại tiếng rít ép hít vào của chu kỳ kế tới. Cái khái niệm một cái máy bơm hơi vào phổi người ta rồi lại hút ra, có vẻ tục tỉu làm sao ấy.
Lu Shi rùng mình một cách vô ý thức, rồi chợt nhận ra là khứu giác của lão cũng đã trở về. Cũng với những hình ảnh và âm thanh tràn về, một dòng thác mùi vị ào xuống. Mùi cồn sát trùng cay mũi. Mùi máu tanh chất đồng. Mùi thối của con người đau đớn.
Sự tê tái bắt đầu rút đi, nhưng lão chưa sẳn sàng để nó biến mất. Lão chưa chuẩn bị xong để suy nghĩ, cảm nhận và chắc chắn là lão chưa sẳn sàng bước qua khung cửa ấy. Lão chợt ý thức được các ngón tay đang nghịch với chiếc cà-vạt và lão thả tay xuống.
Không ai nói một tiếng nào.
Hai tên cận vệ đứng bên cạnh lão như đôi sư tử bên cổng chùa, sẳn sàng phản ứng trong nháy mắt hay chờ đợi ngàn năm, bao giờ cũng trên ranh giới hành động sấm sét.
Viên thiếu tá cũng chờ đợi. Gã là một loại chiến sĩ khác. Thân thể và tư duy của gã không được huấn luyện để hành động trong nháy mắt. Là một binh sĩ, gã sẳn sàng chiến đấu hay hi sinh khi đến lúc hay đến nơi mà gã cần phải chiến đấu hay chết. Nhưng hiện tại không phải là lúc ấy và nơi này không phải là nơi đó. Hiện tại, nhiệm vụ của gã là chờ thượng cấp làm hành động kế tiếp, hay phát ra mệnh lệnh kế tiếp.
Người đàn ông mặc y phục trắng cũng đứng yên, không nói năng gì. Gã không có cái kỷ luật kinh người của hai tên cận vệ hay của tên thiếu tá. Nhưng gã không phải là một người ngu. Gã sẽ đứng đó, giữ cánh cửa mở rộng. Gã sẽ không nói một lời; gã sẽ không nhúc nhích; mà chắc chắn là gã sẽ không để cho cánh cửa xập vào mũi vị Phó Chủ Tịch của nước CHNDTH.
Cảm giác mất phương hướng tan biến một cách nhanh chóng, thay thế bằng một sự chờ đợi đầy lo sợ.
Lu Shi cũng đã phải tranh đấu để giành quyền thế hiện có, mà sự tranh đấu này cũng không phải là nhẹ nhàng gì. Lão không xa lạ gì đấu đá và nghịch cảnh. Lão không dễ gì sợ hãi, nhưng lão lo sợ cái mà lão sẽ gặp phải bên kia khung cửa.
Lão cố đè xuống sự nô nức muốn quay lưng và bỏ chạy. Lão thở ra thật chậm, trấn định lại tâm thần. Trước khi kịp đổi ý, lão bước nhanh tới, xuyên qua khung cửa.
Căn phòng này rõ ràng được thiết kế cho ba bệnh nhân, nhưng nay chỉ chứa một người thôi. Mấy cái giường kia có lẽ đã được nhét vào một phòng chứa đâu đó, để dành chỗ cho nhi tử của Phó Chủ Tịch Lu. Nhân viên bệnh viện đã hiểu rõ rằng đây là bệnh nhân quan trọng nhất mà bệnh viện được săn sóc, bây giờ và cả trong tương lai nữa.
Chiếc giường duy nhất được kê gần cửa sổ, chung quanh đầy những giá treo ống truyền máu, dụng cụ đo đạc và nhiều máy móc khó nhận diện khác. Tất cả những thứ này được gắn chồng chéo nhau bằng ống cao su, dây điện và những ống hơi trong suốt.
Trên giường, dưới một tấm ga xanh lục, có một dáng người. Trong khi tiến tới giường, Lu Shi tránh nhìn cái dáng người này. Lão chưa chuẩn bị sẳn sàng. Vẫn chưa. Lão tập trung chú ý vào những máy móc y khoa bí hiểm. Gần như mỗi chiếc máy này đều có một sợi dây hay một cái ống chạy ngoằn ngoèo trên mặt đất, rồi biến mất bên dưới tấm ga xanh lục. Bệnh nhân – Lu Shi vẫn chưa chịu nhìn nhận là cái thân thể im lìm kia là con trai lão – bị gắn đầy ống và dây điện như con chuột trong một cuộc thử nghiệm kinh tởm nào đó vậy.
Cuối cùng, Lu Shi cố tự ép mình nhìn suốt chiếc giường, ghi nhận mọi chi tiết. Lão thoáng dừng mắt lại khi nhìn đến chỗ đầu gối, hay đúng hơn là chỗ mà đáng lý phải có đầu gối. Chiếc ga nằm bẹp vào nệm giường. Không có một chỗ nhô lên hay hình dáng của đôi chân.
Lu Shi thoáng cảm thấy nghẹn. Lão đã nghe qua báo cáo về thương tích của con trai lão, nhưng nghe là một chuyện, nhìn thấy sự thật lại là chuyện khác hẳn.
Mắt lão tiếp tục tiến lên cao hơn, lướt qua hai khối nhô lên cho thấy lớp băng bó nơi đôi chân bị cưa. Khi lên đến phần thân, cánh tay trái được đặt bên trên tấm ga, được băng bó nhưng coi như toàn vẹn, ít ra là ở bề ngoài. Lớp băng bên tay phải thì dày hơn nhiều và giống như đôi chân, lớp băng ngưng lại bên trên cổ tay.
Lu Shi lại nhìn lên hơn nữa, vào khuôn mặt, nếu khối thịt bầy nhầy và sưng vù ấy có thể được gọi là mặt. Một cái đai dày giữ cái cổ cứng lại, làm cho cái đầu hơi ngửa ra sau, để một đám ống nhựa luồn vào lỗ mũi và miệng.
Mắt phải và lỗ tai phải được quấn băng, những phần có thể nhìn thấy của gương mặt sưng vù, bầm tím và ngang dọc những vết chỉ may. Con mắt trái mở to, nhìn lên trần phòng một cách mờ mịt.
Khi lão nhìn chăm chú vào con mắt ấy, Lu Shi cảm thấy một sự nhìn nhận mà lão rất khó chấp nhận. Bệnh nhân trong đúng lứa tuổi: khoảng từ 35 đến 40; nhưng Lu Shi lập tức quyết định rằng cho dù có cùng tuổi cũng không chứng minh điều gì. Lão không muốn nhận ra khuôn mặt này. Lão muốn rằng đó là khuôn mặt của một kẻ lạ; phải là kẻ lạ!
Một tia hi vọng vẫn lập lòe ở một nơi sâu xa trong tâm lão, chỉ một tia… Đây có thể không phải là Lu Jianguo mà. Có thể là một sự nhầm lẫn lý lịch kỳ lạ nào đó. Có lẽ người nào đó đã nhận lầm kẻ khốn khổ này là nhi tử của lão. Và có lẽ, ở đâu đó Lu Jianguo vẫn đang an toàn, toàn vẹn và sống khỏe.
Lu Shi chợt cảm thấy lệ nóng trên má. Cầu mong là thế. Ôi, cầu mong là thế… Cầu mong rằng con người tàn phế này là bất cứ ai khác hơn là Lu Jianguo.
Nhưng rồi niềm hi vọng cuối cùng của lão tắt lịm. Lão cảm thấy cái tia hi vọng nhỏ xíu ấy bị bóng tối chôn vùi. Gương mặt của người đàn ông nằm trên giường đã bị tàn phá và méo mó, nhưng không phải là gương mặt của một người lạ. Những sự từ chối cuối cùng bị giật ra khỏi lão như bởi một cơn gió lốc. Cái vật này… Cái khối thịt người này… chính là Lu Jianguo rồi.
Tận nơi sâu thẳm trong lòng Lu Shi, một cái gì đó chợt đứt gãy, một cái gì không thể định nghĩa được và vô cùng dễ vỡ. Lão không biết gọi nó là gì và lão cũng không biết nó là gì. Nhưng lão biết ngay lão đã mất nó và lão không chút hoài nghi là không thể nào gắn liền nó lại được nữa. Mọi thứ đã không còn như xưa.
Lão nhìn xuống con vật đã từng là nhi tử của lão. Lụa đỏ của chiếc cà-vạt thật mềm mại trong các ngón tay chới với của lão.
Khi còn nhỏ, Lu Jianguo đã tặng cho phụ thân của gã thật nhiều món quà của trẻ nít… những cái gạt tàn thuốc lá tự tay hắn làm… những món đồ trưng bày làm bằng giấy đủ màu… những khung ảnh đính vỏ xò… Biết bao vật vô giá mà trẻ con làm cho cha mẹ chúng. Nhưng chiếc cà-vạt thì lại khác, chẳng những vì nó đắt tiền mà còn vì sự cẩn thận hắn bỏ ra khi lựa chọn nó cho lão. Nó là lần đầu tiên Lu Jianguo cố gắng tìm hiểu ý thích và sự mong mỏi của phụ thân. Nó là hành vi nam nhân đầu tiên của đứa bé trai. Khi ấy, Lu Jianguo mới có chín tuổi.
Khi ấy, Lu Shi biết rằng lão đã chọn đúng tên cho con rồi. Jianguo (Kiến Quốc) có nghĩa là ‘xây dựng quốc gia’. Nhìn vào đôi mắt của nhi tử, Lu Shi đã thấy mình khôn khéo làm sao khi chọn cái tên ấy vì Lu Jianguo thật sự sẽ xây dựng đất nước. Và khi ấy, Lu Shi đã không hề hoài nghi là lão đang đứng trước vị lãnh tụ tương lai của Trung quốc.
Lu Shi nháy mắt và ký ức của cái ngày xa xưa ấy tan biến. Ngày ấy, lão đã tin chắc rằng lão đã biết được tương lai của Trung quốc… tương lai của nhi tử.
Giờ đây, nhìn vào cái thân hình được đắp tấm ga xanh của Lu Jianguo, Lu Shi không còn biết cái gì là chắc chắn nữa. Sau suốt đời người hoạch định và chuẩn bị cho tương lai, Lu Shi chợt khám phá ra là không có tương lai gì cả. Chỉ có những giấc mơ và kế hoạch có thể sụp đổ mà không có một tiếng báo động nào. Tương lai đã bị cướp mất từ trong tay của Lu Shi, của Lu Jianguo và của Trung quốc nữa. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Lu Shi không màng đến ngày mai.
Lão chợt nhận ra rằng đôi mắt lão đã trở về chỗ tấm ga phẳng phiu trên giường, phủ nơi chân cụt của con trai lão. “Chúng đâu rồi?” Lão thản nhiên hỏi.
Người đàn ông mặc y phục trắng nhìn theo ánh mắt của Lu Shi. Gã lo lắng tằng hắng. “Đôi chân của ông ấy, phải không ạ? Thưa đồng chí Phó Chủ Tịch, tôi… tôi thật sự không rõ. Một cái đã bị đứt trước khi ông ấy được đưa đến đây. Còn cái kia…”
Lu Shi trừng mắt nhìn người đàn ông làm gã câm nín. “Không phải chân con tôi!” Lão rít lên. Lão quay sang viên thiếu tá.
Gã này cứng người lại. “Vâng, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch?”
“Những kẽ đã làm ra việc này đâu?” Lu Shi hỏi. “Những tên tội phạm…” Lão chợt dừng, rồi lại nói tiếp gần như thì thào. “Những tên khủng bố… đã làm ra việc này… Chúng đâu rồi?”
Viên thiếu tá nuốt ực nước miếng rồi mới đáp. “Chúng tôi… À… Chúng tôi nghĩ rằng chúng định vượt qua núi sang Ấn Độ. Với thời tiết hiện nay, có lẽ chúng sẽ đi qua sơn đạo Nathu La.”
“Thì ra là vậy.” Lu Shi nói nhẹ. “Như vậy là anh không biết chúng ở đâu?”
Viên thiếu tá lắc đầu. “Chưa biết, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch. Tướng quân Zhou đã cho người và máy bay càn quét mọi sơn đạo từ đây đến biên giới Ấn Độ. Tướng quân đã hạ lệnh tăng cường kiểm tra bằng vệ tinh ở mọi con đường chúng có khả năng dùng để đào tẩu nhất. Chúng ta sẽ tìm được bọn khủng bố, thưa đồng chí. Chúng không thể trốn tầm mắt chúng ta mãi đâu.”
Lu Shi chậm rãi gật đầu. “Còn tên tù thì sao? Tên khủng bố mà các anh đã bắt được ấy… Nó đã bị bẻ gãy chưa?”
“Chưa, thưa đồng chí.” Viên thiếu tá đáp. “Nhưng nó sẽ.”
Lu Shi đảo mắt trở lại chiếc giường. “Thông báo cho tướng quân Zhou là quân đội phải giao tên tù nhân cho bộ An Ninh Quốc Gia ngay lập tức.”
Viên thiếu tá nói với giọng thản nhiên, nhưng mặt nhăn nhó. “Thưa đồng chí Phó Chủ Tịch, cái đó không cần đâu. Tôi xin cam đoan là các chuyên viên thẩm tra của chúng tôi sẽ lấy được tin tức chúng ta cần.”
Lu Shi không thèm nhìn gã. “Tôi không đề nghị với anh đâu, thiếu tá. Tôi trực tiếp hạ lệnh cho anh. Không phải tôi muốn sẽ sớm được biết tin tức ấy. Mà tôi muốn nó ngay bây giờ. Anh hiểu chưa?”
Viên thiếu tá đứng nghiêm và đưa tay chào theo quân lễ. “Dạ, thưa đồng chí!”
Gã quay ngoắc đi và bước nhanh ra khỏi phòng.
Sau khi gã đi khỏi, Lu Shi đứng yên lặng nhiều phút. Âm thanh duy nhất trong phòng là tiếng rít và róc-rách của máy hô hấp. Cuối cùng, lão ngẩng đầu lên và nhìn vào mắt người đàn ông mặc đồ trắng. “Tháo máy đi.”
Mặt gã kia như trướng lên vì hoảng sợ. “Đồng chí Phó Chủ Tịch, chúng ta không thể làm thế! Những máy móc này tối cần thiết để duy trì sự sống. Nếu chúng ta tắt chúng đi, con trai đồng chí sẽ chết đó!”
Lu Shi quay nhìn lại chiếc giường. “Có bao giờ hắn sẽ không cần đến các máy móc này nữa không? Hắn có thể hồi phục để rời khỏi cái giường này không?”
Người đàn ông co rụt lại khi nghe giọng nói nghiêm khắc của Lu Shi. “Cái đó… Cái đó có lẽ không thể nào, thưa đồng chí. Con đồng chí đã bị thương rất nặng trong óc rồi.” Gã nuốt nước miếng. “Tôi… Tôi không nghĩ rằng ông ấy sẽ hoàn toàn không cần đến máy hỗ trợ.”
Giọng nói của Lu Shi thật trầm thấp và lạnh lùng. “Như vậy thì con trai tôi đã chết rồi. Tháo máy đi.”
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Nhà tù Qushui
Khu Tây Nam thành phố Lhasa, Tây Tạng
Thứ Tư, ngày 19 tháng 11, 19:34, giờ địa phương
Có âm thanh gì đó bên kia cánh cửa. Trong căn phòng tối lù mù, Sonam đang bị trói vào một cái ghế tỉnh dậy ngay tức khắc.
Gã đang trôi dạt trong cái trạng thái lạ lùng giữa ý thức và vô thức. Nỗi đau đớn vẫn liên tục và thôi thúc làm gã không thể nào ngủ được; nhưng gã có thể cảm thấy dễ chịu hơn khi để mình chìm vào một sự mơ màng.
Mặt và phần trên thân thể của gã đau nhừ vì những pha đánh đập liên tiếp và những phát chấn động bởi roi điện. Ít nhất có hai thanh xương sườn của gã đã gãy và mỗi lần hô hấp lại đem đến nỗi đau xé thịt. Lỗ đạn nơi đùi trái đau nhói theo nhịp tim của gã. Bọn khốn kiếp này đã băng bó chân trái của gã rất tốt; gã phải nhìn nhận điều này. Viên đạn đã được gắp ra; vết thương được khâu lại gọn gàng và chúng thay băng sạch đều đặn. Dĩ nhiên, chúng làm thế không vì nhân đạo. Quân đội Trung quốc đâu có màng gì tới sức khỏe của gã? Chúng chỉ muốn gã tiếp tục sống tốt để chúng có thể thẩm tra thôi.
Nhóm người thẩm tra Sonam đã tránh đụng đến vết thương của Sonam. Chúng chỉ tập trung vào phần thân thể phía trên của gã thôi. Điều này vẫn còn chừa cho chúng khối nơi để hành động và chúng đã hành động một cách cực kỳ thô bạo.
Âm thanh lại vang lên và lần này, Sonam đã nhận ra nó: tiếng đế giày lê trên nền xi-măng. Ngay tiếp theo là tiếng chìa khóa được tra vào ổ, rồi chốt cửa được mở ra ken-két. Bọn lính lại đến nữa rồi.
Sonam chợt cảm thấy hốt hoảng, cùng với một cơn buồn tiểu hay buồn ói, hay cả hai. Gã cố gắng ép mình hít thở chậm lại.
Gã có thể chịu được. Gã sẽ vượt qua một đợt đánh đập nữa. Gã sẽ sống sót qua một bửa roi điện nữa. Gã sẽ nghiến chặt hàm răng và dùng ý chí để vượt qua. Gã tự nhủ hết lần này qua lần kia rằng gã sẽ không trả lời các câu hỏi của chúng. Gã sẽ không bao giờ phản bội dân tộc mình, mặc cho bọn súc vật Trung quốc này làm gì gã.
Nếu bọn thẩm tra tiến đến quá gần, gã sẻ nhổ vào mặt chúng. Nếu gã may mắn, chúng sẽ điên tiết lên và đánh gã bất tỉnh luôn.
Cánh cửa mở ra và, sau không biết bao lâu trong bóng tối mờ, chỉ một chút ánh đèn mờ từ ngoài hành lang cũng đủ làm Sonam ứa nước mắt và chớp mắt liên hồi. Phải mất vài giây gã mới nhận ra rằng lần này không phải lại đối diện với bọn lính. Lần này khác hẳn.
Người đàn ông đứng nơi khung cửa có dáng nhỏ bé và sạch sẽ. Hắn cũng là người Trung như bọn lính, nhưng chỉ giống nhau chừng đó thôi. Hắn mặc thường phục và không có cái dáng kiệt ngạo của bọn lính. Nhìn hắn không có gì là thô bạo cả. Nhìn hắn như một tên thơ ký văn phòng, hay một viên chức cấp thấp. Mắt hắn không có sự sống, như mắt của một con búp bê vậy. Ngũ quan của hắn thật bình thường và thái độ có vẽ hờ hững.
Nheo mắt nhìn người đàn ông thấp nhỏ tầm thường này, Sonam tự hỏi phải chăng hắn đi nhầm phòng.
Gã còn đang thắc mắc thì một người đàn ông khác tiến vào phòng, tay cầm một túi nhựa đen có khóa kéo và một cái bàn xếp nhỏ bằng gỗ. Cũng như tên thơ ký văn phòng, người này mặc thường phục. Y nhanh chóng dựng cái bàn, đặt túi nhựa lên mặt bàn, rồi rời căn phòng, đóng cánh cửa lại.
Tên thơ ký không nhìn đến cái túi, nhưng Sonam cảm thấy mắt của chính mình dán chặt vào nó. Mặt nhựa trầy sướt và đường may chung quanh sờn cũ đổi sang màu xám. Gã chợt hiểu rằng người đàn ông thấp nhỏ có vẽ mặt dửng dưng này không phải là một tên thơ ký gì cả, và gã cũng chợt nhận ra là gã không muốn biết chiếc túi đựng những gì bên trong.
Người đàn ông thấp nhỏ nói thẳng. “Tôi sẽ hỏi anh vài câu.”
Giọng nói của hắn thấp và đều đều. Hắn nói tiếng Tạng hợp cách, không như biết bao người Trung khác. Không như âm Tạng của Sonam bị ảnh hưởng của tiếng Ấn vùng Dharamsala, người đàn ông này nói tiếng Tạng không có tạp âm nào cả.
Sonam im lặng nhìn hắn.
“Anh sẽ trả lời các câu hỏi của tôi.” Người đàn ông thấp nhỏ nói. “Anh phải hiểu rằng không phải tôi khoe đâu, cũng không phải lời tiên đoán gì. Đây chỉ là sự thật thôi. Anh sẽ trả lời các câu tôi hỏi.”
Sonam vẫn không nói gì cả.
Người đàn ông đi đến chiếc bàn xếp và kéo dây khóa mở bao ra. Hắn ngước nhìn Sonam, vẽ mặt vẫn hờ hững. “Anh có thể lựa chọn ngay bây giờ, một cách dễ chịu, hay sáu tiếng sau, khi mà anh không còn ngón tay, hòn d**, con mắt nào nữa và khi mà cổ họng anh đã rách toang vì gào rống.”
Sonam biết ngay rằng đây không phải là đe dọa rỗng tuếch. Giọng nói của người đàn ông kia không có gì là tàn nhẫn, nhưng cũng không có một chút nhân từ nào.
Người đàn ông thò tay vào túi và lấy ra một cái kềm có cán dài và cái đầu vuông vức nặng nề.
“Tôi sẽ hỏi anh vài câu hỏi.” Hắn lại nói. Hắn mở rồi đóng cái kềm vài lần, như thể đang thử xem cái kềm có hoạt động trơn tru hay không. “Lần đầu tiên mà anh không trả lời, tôi sẽ kẹp cái kềm này vào ngón trỏ phải của anh và tôi sẽ kẹp nó thành tương máu.”
Hắn nhìn thẳng vào mắt Sonam. “Anh hiểu chưa?”
Đầu của Sonam suýt tự động gật, nhưng gã chợt nhận ra và giữ cứng các bắp thịt cổ lại. Gã quyết không trả lời, dù chỉ bằng bất cứ một cử chỉ nào.
Người đàn ông thấp nhỏ tiến đến cạnh chiếc ghế. Sonam nhớ đến dự định sẽ nhổ vào mặt những kẻ tra tấn gã. Người đàn ông đến đúng tầm rồi, nhưng miệng của Sonam đã khô khốc. Gã không tìm đâu ra được một giọt nước miếng nào cả.
Gã rụt người lại khi người đàn ông chộp bàn tay phải của gã. Gã cố giật bàn tay đi, nhưng cổ tay và khuỷu tay gã đã bị cột cứng vào cánh tay ghế rồi.
Hai gọng kềm lạnh ngắt khép quanh ngón tay gã, ở khớp xương giữa lóng thứ hai và ba. Gã cảm thấy hơi khó chịu khi mặt răng nghiến vào da, nhưng người đàn ông thấp nhỏ điều chỉnh vị trí của kềm và cảm giác khó chịu biến mất.
Sonam trố mắt nhìn người đàn ông hơi gồng người lên rồi bóp mạnh hai cán kềm. Đau đớn xé người Sonam, xuyên sâu vào thân gã như viên đạn trước kia của quân Trung quốc vậy. Xương ngón tay gã vở vụng trong tiếng răng rắc ghê người mà gã nghe và cảm nhận rõ ràng. Tầm nhìn của gã thu hẹp lại và đổ sụp xuống cho đến khi gã chỉ còn thấy một chấm đỏ chói như máu tươi.
Miệng gã đắng chát. Thế mà hai gọng kềm vẫn tiếp tục tiến đến nhau, nghiền vỡ xương, thịt, gân và da thành một đám bầy nhầy.
Hai gọng kềm đụng vào nhau. Chỗ ngón tay ấy của gã đã biến thành tương. Nhưng thanh kềm vẫn còn chưa dừng lại. Nó xoắn và kéo, hai gọng mở ra và đóng vào như miệng cá sấu đang tìm một tư thế để nuốt con mồi một cách gọn gàng hơn. Hai gọng kềm chạy lên chạy xuống từ vị trí đầu tiên, tìm tòi những phần ngón tay còn chưa dập nát, tìm đến những đầu xương gãy nham nhở để nghiền tất cả.
Ngón tay của Sonam, cái vật đã từng là ngón tay của gã, bây giờ đã trở thành trung tâm của cả vũ trụ. Nó che lấp tất cả. Không còn thứ gì khác tồn tại. Không còn sinh mạng. Không còn thế giới. Không còn tư duy. Chỉ còn hai gọng kềm tham lam và sự thống khổ vô bờ.
Phải cả phút sau gã mới ý thức ra rằng gã đang gào rống. Tiếng thét cao vút nghe giống như của thú vật hơn là con người. Lại phải tốn cả một, hai phút nữa gã mới cố ngừng tiếng hét được. Cuối cùng, khi gã đã ngừng lại, gã đã gục trên ghế, nức nở khóc.
Từ nơi xa xôi, xuyên qua cơn đau đớn, gã nghe tiếng nói của người đàn ông thấp nhỏ.
“Tôi thích biểu diển nho nhỏ như thế. Một màn nhỏ đủ để anh chú ý, nhưng cũng nhỏ đủ để anh có thể hồi phục nếu anh chịu hợp tác.”
Giọng nói của người đàn ông vẫn không có gì tàn nhẫn cả. Không một sự đe dọa nào, không có sự thích thú nào. Đây không phải là giọng nói của một người ngược đãi người khác vì sở thích. Đây là giọng nói của sự tự tin tuyệt đối và ý chí kiên định. Và Sonam hiểu rằng hắn sẽ tiếp tục công việc cho đến khi mục đích đã đạt được. Hắn sẽ không đánh đập nạn nhân đến bất tỉnh và hắn sẽ không phạm phải bất cứ một sai lầm ngu xuẩn nào. Hắn sẽ làm việc một cách hệ thống và tỉ mỉ, và hắn sẽ không ngưng nghỉ cho đến khi hắn lấy được tin tức mà hắn muốn. Công việc này sẽ chấm dứt ngay bây giờ khi mà thân thể của Sonam còn có hình người, hay sau vài giờ nữa khi thân thể của gã chỉ còn lại mãnh vụn và thống khổ.
“Chúng ta bắt đầu lại nhé.” Người đàn ông thấp nhỏ nói. “Tôi sẽ hỏi anh vài câu và anh sẽ trả lời. Anh hiểu chứ?”
Sonam gật đầu.
“Tốt lắm.” Người đàn ông nói. “Chỗ tôi biểu diễn kế tới là hòn d** bên trái của anh. Nếu anh nói dối hay nếu anh lại không chịu trả lời, tôi sẽ nghiền nát hòn d** của anh như ngón tay vậy. Anh hiểu chưa?”
Sonam lại gật đầu. “Tôi…” Tiếng gã khản đặc. “Tôi sẽ… nói hết… cho ông những gì ông muốn biết.”
“Phải.” Người đàn ông nói. “Tôi biết anh sẽ nói hết.”