Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Khu trục hạm USS Towers (DDG-103)
Quân Cảng Hoa Kỳ, tỉnh Yokosuka, Nhật Bản
Thứ Sáu, ngày 21 tháng 11, 13:21, giờ địa phương
Một tầng mây dày bao phủ hải cảng Yokosuka. Nhiệt độ ở khoảng 13 độ, nhưng gió từ vịnh Tokyo thổi tới làm người ta cảm thấy lạnh hơn. Mùa đông thật sự vẫn còn cách vài tuần lễ nữa và cái rét trong không khí chỉ dự báo trước thời tiết sắp tới thôi.
In dáng trên nền trời Nhật Bản âm u, chiếc tàu khu trục Mỹ nhìn trông góc cạnh một cách khác thường. Lớp sơn quang hợp ngụy trang của chiếc tàu đã chuyển sang màu đá xám đậm, rất tiệp với màu sóng biển đang vỗ lên mạn thép của nó.
Trung tá Silva đứng nơi đuôi tàu và đang tưởng tượng chiếc tàu sẽ trông ra sao trong hai tuần lễ nữa, khi những tấm thảm đỏ được trải xuống và những trang trí ca ngợi đất nước được treo lên. Các dây an toàn bên mạn tàu sẽ được treo băng đỏ, trắng và xanh dương. Lá cờ Hoa Kỳ đang tung bay trên cột cờ sẽ được thay thế bằng lá cờ “lễ hội” to lớn được dành riêng cho các ngày Chủ Nhật và các dịp đặc biệt khác.
Những trang trí và cờ lễ hội đó tượng trưng cho truyền thống hằng mấy trăm năm của hải quân. Chiếc USS Towers sẽ diễn ra buổi lễ bàn giao, chuyển quyền điều hành con tàu từ hạm trưởng này qua hạm trưởng kế tới.
Buổi lễ này, chỉ cách 14 ngày nữa, là đỉnh điểm của tất cả sự cố gắng của Silva. Sau nghi lễ Hải quân long trọng, nàng sẽ tiến lên bục và tuyên bố đảm nhiệm quyền chỉ huy của chiến hạm này. Sau khi trao đổi những nghi thức và quân lễ ngắn gọn, chức vị của nàng sẽ chuyển từ Trung Tá sang Hạm Trưởng. Nàng sẽ trở thành sĩ quan chỉ huy của một trong những chiến hạm tiên tiến nhất mà loài người chế tạo.
Và cũng cùng lúc ấy, Đại Tá Bowie sẽ từ bỏ quyền chỉ huy của chiến hạm. Khi quân lễ của hai người chấm dứt, một thời đại sẽ chấm dứt và một thời đại khác sẽ bắt đầu. Bowie sẽ chào từ giả các nhân viên nam và nữ đã phục vụ dưới quyền hắn.
Một số trong thủy thủ đoàn là người mới trên chiếc Towers, mới nhận được lệnh phục vụ trên chiến hạm này cách đây không lâu, cũng như chính Silva vậy. Nhưng nhiều người khác đã có mặt trong chuyến ra biển trước đây với Bowie khi mà chiếc khu trục hạm đã phải chạm trán với một chiếc tàu ngầm tà nghịch bên dưới biển băng Nga. Một vài người còn từng phục vụ với Bowie trong lần ra khơi trước đó nữa, khi mà chiếc Towers truy sát một nhóm tàu ngầm loại xung kích hoạt động theo kiểu ‘bầy sói’ (16) từ bên này qua bên kia vịnh Ba Tư. (Chú thích của dịch giả: tác giả có viết hai tác phẩm trước về khu trục hạm USS Towers)
Họ đã chiến đấu và đổ máu cho Bowie. Một số trong thủy thủ đoàn còn đã bỏ mạng cho hắn. Để đáp lại, Bowie đã mang lại cho họ chiến thắng. Mà quan trọng hơn nữa, hắn đã cho họ cơ hội cứu mạng hàng triệu người đồng hương. Hắn đã khiến cho mỗi thành viên của thủy thủ đoàn, từ gã thủy thủ thấp nhất cho đến sĩ quan cao nhất, cảm thấy mình là một chiến sĩ. Và bây giờ, hắn rời đi.
Trong mấy ngày qua, Silva đã thấy biểu cảm trên các gương mặt của thủy thủ đoàn khi sự ra đi của hạm trưởng của họ đã dần dần thành sự thật. Chiếc tàu dĩ nhiên sẽ có một hạm trưởng mới. Silva sẽ là vị hạm trưởng ấy. Nhưng hạm trưởng của họ sẽ đi mất và Katherine Silva sẽ chỉ gắng gượng ngồi vào vị trí của vị hạm trưởng đã biến họ thành những anh hùng mà thôi.
Một giọt mưa rơi xuống má của Silva và lăn xuống như một giọt lệ. Tiếp đó là hàng trăm hàng ngàn giọt mưa khác vùi dập bến cảng.
Silva chạy vào cánh cửa kín nước gần đấy nhất và ngước nhìn trời một lần cuối trước khi đóng sập cửa lại. Mây xám xịt đã sậm hơn và đầy đe dọa.
Nàng cầu Thượng Đế rằng đó không phải là một điềm xấu.
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Khu kiến trúc thuộc bộ Quốc Phòng
Tòa nhà ‘Ngày Một Tháng Tám’
Bắc Kinh, Trung quốc
Thứ Sáu, 21 tháng 11, 19:53, giờ địa phương
Có tiếng gõ cửa nhẹ. Phó Chủ Tịch nhà nước Lu Shi không ngước mặt lên khỏi xấp văn kiện trên bàn làm việc.
Cũng không phải lão đang đọc các văn kiện đó. Đúng ra, mắt lão không hề tập trung vào các văn kiện ấy chút nào. Tâm trí lão vẫn còn đặt trong căn phòng bệnh viện ở Lhasa, mắt chăm chăm vào cái thân xác đáng thương đã từng là nhi tử của lão… nhìn thân thể của Lu Jianguo đang bị xâm phạm bởi những cái ống và dây điện từ những cái máy khốn nạn kia.
Tiếng gõ cửa lại vang lên, lần này hơi to hơn. Lu Shi cưỡng ép tâm trí mình trở về hiện tại. Lão chớp mắt nhiều lần, cố gắng định hướng lại nơi chiếc ghế lão đang ngồi, cái bàn làm việc, căn phòng. “Vào đi!”
Cánh cửa mở ra và thơ ký riêng của lão, Miao Yin, bước vào phòng. Nàng là một thiếu nữ xinh đẹp khoảng 25 tuổi, ngũ quan thanh tú được bao quanh bởi mái tóc ngắn cắt khéo léo theo kiểu đang thịnh hành trong hàng ngũ công nhân viên nữ. Ánh mắt to đen lánh của nàng chạm vào mắt Lu Shi và nàng khẽ cúi đầu. “Xin lỗi đã quấy rầy ngài, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch. Bộ trưởng Shen yêu cầu được gặp ngài. Ông ấy không có hẹn trước nhưng cam đoan với tôi là ông ấy cần được nói chuyện khẩn cấp với ngài.”
Lu Shi nhìn cô thơ ký một cách xa vắng. Không như phần đông quan viên cao cấp Trung quốc, lão không hề ngủ với nữ nhân viên dưới quyền nào, tuy rằng điều đó không ngăn được lão thưởng thức vẽ đáng yêu của Miao Yin. Thông thường, chỉ cần nhìn nàng cũng đủ làm lão cảm thấy nhẹ nhõm.
Tuy nhiên những ý tưởng như vậy đã bị cái bóng đen trong tim lão làm lu mờ hết rồi. Sự hiện hữu của Miao Yin chỉ hơi xuất hiện trong ý thức của lão thôi. Lão không để ý gì đến nhan sắc của nàng và đã quên mất khái niệm sắc đẹp là gì. Tâm trí lão cứ bị kéo trở về căn phòng bệnh viện ấy. Cái mùi thuốc tẩy trùng gay mũi ấy. Cái dáng hơi giống loài người bên dưới tấm ga xanh. Gương mặt của nhi tử, băng bó hết phân nửa, có một con mắt mơ hồ nhìn thẳng lên trần phòng.
“Đồng chí Phó Chủ Tịch?” Miao Yin nói khẽ, nhưng tiếng nói của nàng làm lão giật mình.
“Hả?”
Viên thơ ký lại hơi cúi người xuống. “Bộ trưởng Shen… Ông ấy đang chờ ở phòng ngoài.”
Lu Shi vuốt gò má và cảm thấy râu cứng cọ vào lòng bàn tay. Lão đã quên cạo râu rồi.
“Bộ trưởng Shen…” Lão nói. Lão tằng hắng và ngồi thẳng lên. “Ờ, phải rồi. Cho ông ấy vào đi.”
Miao Yin thụt lùi khỏi phòng và vài giây sau, bóng dáng nàng đã được thay thế bởi thân hình to lớn của Shen Tao, bộ trưởng Quốc Phòng.
Shen Tao thoáng dừng ở ngưỡng cửa để bày tỏ sự tôn kính, rồi nện bước vào phòng. Lúc mới nhìn, cái thân thể to như cái thùng của gã có thể bị lầm là mập béo, nhưng thật ra cái thân thể của gã Shen đầy cơ bắp. Gương mặt của gã cũng dễ tạo ra sự lầm lẫn như thế. Phía dưới ngũ quan và vẽ mặt yên lặng không bắt mắt là một bộ óc nhanh nhẹn.
Lu Shi phất tay về phía một chiếc ghế.
Gật đầu cám ơn, vị bộ trưởng Quốc Phòng kéo cái ghế về phía trước nửa mét, rồi đẩy nó qua phải vài phân, trước khi đặt mông xuống.
Đây là một hành động vô ý thức, Lu Shi tin chắc như thế. Cái này cũng là phương thức làm việc đặc thù của Shen. Gã nhận tất cả, từ sự mời mọc của chủ nhà cho đến mệnh lệnh, hay mọi thử thách, bằng cách thức riêng của gã. ‘Vâng, tôi sẽ nhận chiếc ghế mà ông mời, nhưng tôi sẽ xê dịch nó đến vị trí mà tôi thích.’
Vào ngày nào khác thì Lu Shi tán thưởng tính cách ấy. Hôm nay thì lão không có kiên nhẫn với cái loại tranh hơi này. Lão cũng không có kiên nhẫn nghe những câu xin lỗi khách sáo, hay những nghi thức xã giao mà Shen sắp tuông ra ào ạt. Lu Shi chặn đứng mọi sự khách sáo bằng cách mở miệng trước.
“Tôi được biết là tên khủng bố đã khuất phục rồi, phải không? Anh biết được những gì?”
Cái từ ‘tên khủng bố’ là từ Lu Shi dùng để chỉ tên sát nhân trẻ tuổi ngu ngốc đã bị tóm sau vụ phá hoại đoàn tàu Thanh-Tạng.
Shen gật đầu. “Đồng chí nói đúng. Đương sự bây giờ đã rất phối hợp với cuộc điều tra…”
Lu Shi cảm thấy sự phẫn nộ bốc lên. “Nó không phải là một đương sự. Nó là một thằng khủng bố, một kẻ giết người hàng loạt. Và nó không có phối hợp với cuộc điều tra gì cả. Các anh đã tra tấn nó và nó đã khuất phục. Rồi, bây giờ chúng ta có thể ít tốn thời giờ nói quanh co được chưa?”
Lão nhìn chằm chằm vào mắt của viên bộ trường Quốc Phòng và lặp lại. “Anh biết được những gì?”
Khá khen cho Shen; gã không nao núng hay dời mắt đi, nhưng giọng nói của gã đã không còn tự tin như trước. “Đương sự… Ơ… Tên khủng bố tên là Sonam Dawa. Nó là một thành viên của nhóm phản động Tạng tự gọi là Gingara, một từ dường như có thể dịch là ‘người đưa tin’. Nó thuộc một tổ ba người được chỉ huy bởi một người tên Jampa Dorjee, cũng là thành viên của Gingara. Còn người thứ ba…”
Lu Shi nôn nóng phất tay. “Được, được rồi. Người thứ ba là một lão dropka chăn cừu tên là Nima. Tôi đã biết những cái này từ mấy giờ trước rồi. Anh còn biết gì thêm nữa? Bọn khủng bố đi đâu mất rồi? Kế hoạch đào tẩu của chúng như thế nào? Chúng nó đang ở đâu?”
Shen chớp mắt. “Kế hoạch của bọn chúng là… À… trốn đi qua sơn đạo Nathu La qua phía bên Ấn Độ của dãy Hi Mã Lạp sơn.” Gã nuốt nước miếng. “Chúng tôi chưa phát hiện được hai tên còn lại của tổ khủng bố, nhưng từ hôm xảy ra vụ tấn công, chúng đã có ba ngày thời gian để vượt qua biên giới rồi. Có lẽ giờ đây chúng đã an toàn ở bên phía kia của dãy núi, thuộc về Ấn Độ rồi.”
“Bên phía của Ấn Độ thì có thể lắm.” Lu Shi nói. “Nhưng còn an toàn hay không, thì còn phải xem lại.”
Lão dựa vào lưng ghế. “Chúng ta có biết đích đến sau cùng của chúng không, đồng chí bộ trưởng?”
Shen gật đầu. “Dạ có, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch. Nhóm này, nhóm Gingara này, đặt căn cứ trong một ngôi làng nhỏ tên là Geku, cách biên giới khoảng 40 cây số bên Ấn Độ.” Gã thoáng dừng rồi lại nói. “Có phải đồng chí đang tính một hành động mật? Cho một nhóm nhỏ qua Ấn Độ để bứng gốc bọn khủng bố?”
Lời của gã như nước chảy trên lá môn; tâm trí của Lu Shi đang quay trở về căn phòng bệnh viện ở Lhasa. Cái khối không ra nhân dạng của nhi tử vô cùng anh tuấn của lão, bên dưới tấm ga xanh…
Lão lắc đầu thật mạnh. “Không! Không có hành động mật gì hết. Chúng ta sẽ đáp trả trận công kích hèn hạ này bằng một trận công kích của chúng ta.”
Bộ trưởng Shen nhướn mày. “Tôi không hiểu, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch. Chúng ta không trả đũa sao?”
Lu Shi cảm thấy sự phẩn nộ rút đi, để lại một quyết tâm mãnh liệt làm lão gần như muốn lảo đảo. “Chúng ta sẽ trả đũa.” Lão nói. “Chúng ta sẽ tiêu diệt bọn chúng.”
“Bọn khủng bố sao?”
“Không phải.” Lu Shi nói. “Cái ngôi làng ấy tên là gì nhỉ? Geku à? Chúng ta sẽ tiêu diệt tất cả bọn chúng. Chúng ta sẽ cho chúng thấy chứa chấp kẻ thù của Trung quốc có nghĩa là gì.”
Mặt Shen chuyển từ chấn động sang vẽ khó tin. “Đồng chí Phó Chủ Tịch… Chúng ta không thể làm thế… Cộng đồng thế giới…”
“Chúng ta làm được.” Lu Shi nói. “Và chúng ta sẽ làm.”
Giọng lão nhẹ xuống. “Shen Tao, lão bằng hữu. Tin tưởng tôi đi. Cộng đồng thế giới sẽ không làm gì đâu.”
“Chúng ta không thể chắc chắn điều đó.” Shen nói.
“Tôi biết chắc.” Lu Shi nói. “Lịch sử cận đại cho chúng ta một thí dụ tốt nhất. Nghĩ lại mà xem. Trong suốt cả chục năm qua, Hoa Kỳ đã dùng phi đạn tập kích biết bao trại khủng bố ở Pakistan và Afghanistan đến nổi những vụ tập kích đó gần như không còn lọt vào các bản tin thế giới nữa.”
Lão chồm người tới trước và đặt hai tay lên mặt bàn. “Nước Mỹ đã làm mẫu. Chúng ta chỉ làm rập khuôn mà thôi. Chúng ta sẽ sử dụng phi đạn để tập kích một căn cứ quân khủng bố trong núi, phía bên Ấn Độ.”
Giọng lão cứng rắn lại. “Nhưng mà chúng ta sẽ không ngưng tay cho đến khi ngôi làng ấy hoàn toàn biến mất. Không để lại một kiến trúc nào. Không một căn nhà, không một cái chòi, hay bất cứ thứ gì còn sống.”
“Ủy Ban Trung Ương…” Shen nói. “Một cuộc tập kích quân sự tầm vóc này sẽ không bao giờ được chấp thuận đâu.”
“Tôi không cần sự chấp thuận của Ủy Ban Trung Ương.” Lu Shi đáp. “Ủy Ban Thường Trực có quyền lực trực tiếp ưng chuẩn một hành động quân sự.”
Bộ trưởng Shen không đáp. Ủy Ban Thường Trực của bộ Chính Trị là cơ cấu có quyền quyết định mạnh nhất trong Trung quốc. Trong số chín thành viên của ủy ban, một người chính là Lu Shi; một người khác là Chủ Tịch nhà nước Xiao, ngày nay do sức khỏe suy nhược thường làm theo các đề nghị của vị Phó Chủ Tịch này. Ít nhất là bốn người trong số bảy người còn lại đã bán linh hồn cho Lu Shi. Nói rằng Lu Shi thao túng Ủy Ban Thường Trực có lẽ không được đúng, nhưng Shen biết rằng lời nói của lão rất có trọng lượng trong những cuộc bàn thảo của ủy ban.
Lu Shi nhìn xuống đồng hồ đeo tay. “Sáng mai, tôi sẽ triệu tập một cuộc họp khẩn của Ủy Ban Thường Trực.”
Mắt lão chậm rãi đảo trở về mặt của Shen. “Và hành động này sẽ được thông qua, anh Shen à. Tôi hứa với anh đó.”
Lão hất đầu về phía cánh cửa. “Anh đi đi. Chuẩn bị lực lượng phi đạn của anh đi. Sáng mai anh sẽ nhận được mệnh lệnh chính thức.”
Viên bộ trưởng Quốc Phòng đứng dậy và choáng váng bước tới cửa trong im lặng. Trước khi gã kịp mở cửa, Lu Shi lại nói. “Hãy nhớ đấy, đồng chí bộ trưởng… Không được để lại một căn chòi nào cả. Không được để lại một người sống nào trong làng ấy hết.”
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Quá trình phát triển của phi đạn hành trình
(trích từ bài viết của tiến sĩ David M. Hardy cho viện Phân Tích Chiến Lược Quốc Gia)
Phi đạn hành trình… Những từ này gợi lên hình ảnh chiến tranh bằng kỹ thuật cao và độ chính xác siêu đẳng của những vũ khí đánh trúng ngay vào những mục tiêu cách xa hàng trăm (hay hàng ngàn) cây số. Đối với nhiều người Mỹ, lần đầu tiên họ biết đến phi đạn hành trình là vào đầu những năm 1990, khi mà các phương tiện truyền thông bắt đầu chiếu các đoạn phim chiến đấu trong chiến dịch Bão Táp Sa Mạc và những cuộc đột kích đầu tiên của quân đội Mỹ vào nước Iraq.
Từ ngày 16 tháng Giêng năm 1991, hằng triệu khán giả truyền hình được xem những đoạn phim bi tráng của những quả tên phi đạn Tomahawk (17) được phóng lên từ những thiết giáp hạm, tuần dương hạm và khu trục hạm của Mỹ. Do những sự khó khăn về kỹ thuật có thể mường tượng được, không có khúc phim nào chiếu cảnh tên lửa được phóng từ tàu ngầm đang lặn trong hoàn cảnh thực chiến. Tuy nhiên, các tàu ngầm tấn công của Mỹ trong vùng biển Ba Tư và Hồng Hải đã tham gia tập kích bằng phi đạn ngay từ những giây phút đầu của cuộc chiến.
Người dân Mỹ được lôi cuốn bởi cái khái niệm về vũ khí ‘thông minh’, thông minh đủ để bay dọc theo một con đường trong thành phố bên trên xe cộ đang giao thông, quẹo trái tại đúng một góc đường nào đó, rồi ngoằn ngoèo quanh những hàng quán hay căn hộ để nhận diện và tiêu hủy một kiến trúc đã được chỉ định, chứ không phải một kiến trúc nào khác.
Đại tướng Norman Schwarzkopf, Tổng Chỉ Huy Trưởng Địa Vực Trung Ương (18) từng nhận xét rằng phi đạn Tomahawk chính xác đến độ người ta có thể chọn lựa cho phi đạn bay vào cửa sổ nào của căn kiến trúc bị chỉ định là mục tiêu.
Sau cuộc chiến, kết quả đánh giá thiệt hại cho thấy rằng Đại tướng Schwarzkopf quả nhiên không nói khoác. Phi đạn BGM-109 Tomahawk quả thật chính xác như thế đấy.
Chiến dịch Bão Táp Sa Mạc là lần thực chiến đầu tiên cho thấy sự hữu hiệu khủng khiếp của vũ khí thông minh. Chính phủ và quân đội Iraq hoàn toàn thiếu chuẩn bị đối với sự chính xác và khả năng của các binh khí mới nhất của Mỹ.
Khi quần chúng trở nên hiểu biết hơn về các binh khí này, nhiều từ ngữ mới bắt đầu len lỏi vào ngôn ngữ thông dụng. Những cụm từ như Terrain Contour Matching (TERCOM) (19) (so sánh địa hình) và Digital Scene-Matching Area Correlation (DSMAC) (20) (so sánh hình ảnh được chụp dùng kỹ thuật số), mặc dù không đi vào ngôn ngữ hàng ngày, nhưng cũng biến thành từ ngữ kỹ thuật thông dụng khi nói về binh khí hiện đại.
Từ sau chiến dịch Bão Táp Sa Mạc, vô số hình ảnh báo chí, cộng thêm đồ hình và những lời bình phẩm trên truyền hình, có lẽ đã cho người dân bình thường cái cảm tưởng sai lầm rằng mình đã hiểu rõ các kỹ thuật liên quan đến phi đạn hành trình rồi. Mặc dù tác giả không muốn hạ thấp ai, nhưng chủ yếu những gì số đông người bình thường hiểu về phi đạn hành trình có thể tóm gọn trong ba câu sau đây:
1. Phi đạn hành trình có thể được phóng đi từ đủ loại tàu bè, xe cộ và máy bay đến những mục tiêu cách xa hàng mấy ngàn cây số.
2. Do bay sát mặt đất và lộ trình quanh co, ra-đa rất khó dò ra được phi đạn hành trình; muốn đánh chặn còn khó hơn nữa.
3. Các vũ khí kỳ diệu này là thành quả của những ngành kỹ nghệ tiên tiến nhất.
Hai câu đầu coi như đúng. Câu thứ ba nghe có vẻ đương nhiên và không thể chối cãi, thật ra là sai.
Mặc dù phi đạn hành trình được cải tiến nhờ cái kỹ thuật hiện đại, kỹ thuật cơ bản của nó không phải mới mẻ. Thật ra, lịch sử của phi đạn hành trình kéo dài từ tận Thế Chiến thứ Nhất.
Tuy nó có khả năng kiệt xuất, cái mà hiện nay được gọi là ‘binh khí cho thế hệ tới’ đã trải qua một thế kỷ phát triển rồi. Và câu chuyện đời của nó cũng hấp dẫn như chính nó vậy.
Chú Thích
(17) Tomahawk BGM-109: phi đạn hành trình được hải quân Mỹ sử dụng từ cuối những năm 1970, cho đến ngày nay sau nhiều đợt nâng cấp. Phi đạn nặng 1.300 kg, có tầm xa tối đa 2.500 km (phiên bản tấn công mặt đất) hay 460 km (chống hạm). Động cơ phản lực, tốc độ bay 880 km/giờ. Có nhiều loại đầu đạn kể cả hạt nhân (không còn sử dụng từ trước 2013), đầu đạn đơn (450 kg), đầu đạn phụ, v.v. Hình ảnh kèm theo được chụp trong một vụ thử nghiệm tập kích một phi trường địch, cho thấy độ bay cao của phi đạn; mục tiêu là một chiếc máy bay cũ.
(18) Địa Vực Trung Ương: United States Central Command (USCENTCOM or CENTCOM) là một cơ cấu của bộ quốc phòng Mỹ chịu trách nhiệm về mọi hoạt động quân sự của mọi binh chủng cho ‘địa vực Trung Ương’. Địa vực này bao gồm tất cả vùng Trung Đông, Bắc Phi và Trung Á, đặc biệt là Afghanistan và Iraq. Có tất cả 9 khu vực, không chỉ bao gồm địa vực mà còn cả lãnh vực quân sự. Đó là: USAFRICOM (địa vực Phi châu), USCENTCOM (địa vực Trung Ương), USEUCOM (địa vực Âu châu), USNORTHCOM (địa vực Bắc Mỹ châu), USPACOM (địa vực Thái Bình Dương), USSOUTHCOM (địa vực Trung và Nam Mỹ châu, kể cả quần đảo Ca-Ri-Bê), USSOCOM (lãnh vực Đặc Nhiệm toàn cầu), USSTRATCOM (lãnh vực Chiến Lược toàn cầu) và USTRANSCOM (lãnh vực Vận Chuyển toàn cầu)
(19) Terrain Contour Matching (TERCOM): tên của một phương pháp định vị được dùng cho phi đạn hành trình. Phương pháp này dùng ra-đa trên phi đạn để đo cao độ của địa điểm mà phi đạn đang bay qua, so sánh với cao độ của từng giai đoạn trên tuyến đường phải bay qua (đã được ghi vào bộ nhớ của phi đạn trước khi được bắn). Nhờ đó mà phi đạn luôn bay trên tuyến đường đã định trước một cách cực kỳ chính xác. Tuy nhiên điều này đỏi hỏi phải có chi tiết cao độ chính xác của toàn bộ lộ trình. Ngày nay, TERCOM được thay thế bằng hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu GPS.
(20) Digital Scene-Matching Area Correlation (DSMAC): phương pháp định vị dùng cho phi đạn hành trình hay tên lửa đạn đạo. Hình ảnh của một số địa điểm dọc theo tuyến đường của phi đạn (được vệ tinh chụp bằng kỹ thuật số từ trước) ghi vào bộ nhớ của phi đạn khi tuyến đường đến mục tiêu được chọn. Khi bay đến những địa điểm đã được chọn (như núi, sông, …), máy hình trên phi đạn sẽ so sánh những gì đang thấy với hình ảnh đã có sẵn của các địa điểm ấy để xác định vị trí; do đó hành trình của phi đạn luôn được điều chỉnh chính xác nhất.
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Phía tây tỉnh Vân Nam, miền nam Trung Quốc
Thứ Bảy, ngày 22 tháng 11, 20:30, giờ địa phương
Sâu bên trong hộp chứa máy điện toán điều khiển bộ phận khai hỏa, một mạch điện khép lại và dòng điện được nhả ra. Khoảng hai giây sau, lớp vỏ che phía sau ống phóng phi đạn bị dòng khí nóng của phi đạn hòa tan. Trong tiếng gầm điếc tai, chiếc phi đạn xuyên qua khỏi nắp che mưa gió ở phía trước ống phóng, rồi lao vào trời đêm làm cho vùng đồi núi bên cạnh thoáng đỏ rực lên.
Trong một khoảng thời gian, chiếc xe tải lớn tám bánh bị khói bao phủ. Trước khi gió núi thổi tan cụm khói ấy đi, hai ống phóng khác trên xe đã phóng thêm hai quả phi đạn khác vào bầu trời đêm lạnh lẽo.
Nhiệm vụ của chiếc xe tải đã được hoàn thành rồi. Cả ba ống phóng của nó đã trống trơn. Nó không còn vũ khí gì để đe dọa ai, không còn một sứ giả tử thần nào khác để thả vào không trung. Tuy nhiên không phải chỉ có một mình nó.
Có tất cả 35 chiếc xe tải như vậy. 35 chiếc xe tải chở ống phóng có thể dựng thẳng, được đậu rời rạc 1,000 mét phía tây mặt đường. Màu sơn ngụy trang mờ làm chúng hòa vào màu cỏ chung quanh. Nhưng những cột lửa phóng ra từ những chiếc xe tải kỳ quái này đã phá hủy lớp ngụy trang của chúng.
Các phi đạn được nhanh chóng phóng ra, vọt lên cao, rồi biến mất dạng về phía tây.
Đợi đến khi mặt trăng ló ra khỏi rặng Hi Mã Lạp Sơn, cả khu vực này đã vắng hoe rồi. Các chiếc xe tải kia đã biến mất, chỉ để lại những vết cháy xém trên mặt đất và vết bánh xe khổng lồ của chúng.
Tại một địa phương nào đó trong màn đêm, 105 quả phi đạn đang bám sát vách núi lồi lõm, bay theo lộ trình đã được thiết kế rõ ràng trên những bản đồ chỉ cao độ cực kỳ chính xác, để lao đến mục tiêu chung của chúng: một ngôi làng nhỏ trong dãy Hi Mã Lạp Sơn, bên kia biên giới Ấn Độ.
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Làng Geku, miền Bắc Ấn Độ
Thứ Bảy, ngày 22 tháng 11, 19:17, giờ địa phương
Jampa đứng ở khung cửa đang mở của căn nhà của người chăn cừu, ánh đèn dầu mờ nhạt phía sau lưng, mặt hướng ra ngoài, lặng nhìn màn đêm. Hắn biết hắn phải đóng cửa lại; hơi nóng từ cái lò nhỏ đang thoát bên người hắn, vào màn đêm. Nhưng hắn vẫn muốn đứng lâu thêm một chút nữa, hưởng thụ cái buốt của gió lạnh trên gò má và ngắm nhìn ánh trăng mờ êm ả trên con đường.
Làng Geku trải rộng trước mắt hắn, một đám nhà và kiến trúc nhỏ nằm hỗn độn dưới bầu trời sao. Thật là một địa phương xinh đẹp, một khoảnh thiên đường nhỏ gắn vào những ngọn núi trên ‘mái nhà của thế giới’. Khắc nghiệt. Khó khăn. Đôi lúc tàn bạo. Nhưng luôn xinh đẹp.
Phần lớn dân làng đã ngủ rồi. Người dân ở đây sống một cuộc sống đầy đủ, nhưng đơn giản. Jampa cảm thấy thèm được sống như họ.
Nơi đây, bên phía Ấn Độ, đời sống tự do. Không phải là tự do vô bờ, nhưng ít ra dân địa phương có thể sống yên ổn mà không phải lo sợ nhà cửa của họ bị quân Trung quốc bố ráp. Trường học và đền thờ của họ sẽ không bị ai đốt rụi, hay bị nghiền nát dưới gót quân xâm lược.
Jampa cảm thấy mắt mình bị lôi kéo về phương đông, nơi mà quê hương của chính hắn nằm phía bên kia dãy núi. Bọn Trung quốc gọi nơi ấy là Khu Tự Trị Tây Tạng, một mánh khóe thông dụng của tuyên truyền cộng sản. Dân chúng nơi quê nhà của Jampa không có tự trị gì cả. Họ cũng không có tự do. Đã không có tự do từ hơn nửa thế kỷ nay rồi, từ khi cái gọi là QGPNDTH tràn qua sông Kim Sa vào năm 1950 để chiếm đóng Tây Tạng.
Quân Trung quốc xâm lược chỉ tốn có 13 ngày để chiến thắng quân đội Tây Tạng ít hơn chúng xa. Chỉ 13 ngày để biến một trong những quốc gia tự chủ cổ xưa nhất thành một tỉnh của đế quốc Trung Hoa.
Dĩ nhiên, ngày nay bọn Trung quốc đã trở nên kín đáo hơn nhiều, ít ra là ở bề ngoài. Sự thô bạo của quân Trung quốc chiếm đóng đã nhường chỗ cho thủ đoạn lắc léo hơn. Con đường sắt Thanh-Tạng liên tục đưa đến từng chuyến xe đầy người Hán, để giành và khai khẩn đất đai, buộc dân địa phương trở thành dân tộc thiểu số. Nếu không có ai chặn đứng sự di dân trái tự nhiên này, người dân Tây Tạng sẽ bị ép đến biến mất, chỉ trong vòng vài chục năm nữa mà thôi.
Môi Jampa thoáng nở nụ cười. Hắn đã ngăn chặn nó, ít nhất trong một khoảng thời gian. Hắn, lão Nima và gã Sonam đã chặn chuyến xe lửa ấy. Họ cho nó nổ văng ra khỏi đường ray.
Nụ cười của Jampa nhạt đi khi hắn nhớ lại ánh mắt của tên lính Trung quốc trẻ, ngay trước khi hắn nhấn cò khẩu phóng tên lửa đã trộm từ bọn Trung quốc. Cảnh tượng lại tràn ngập tâm trí hắn: cụm lửa nóng bức, màn khói đen, âm thanh kim loại rên siết khi các toa xe bị nghiền nát.
Hắn không muốn sát hại tên lính ấy. Hắn không muốn giết ai cả. Hắn chỉ muốn phá hủy chuyến xe lửa để ngăn chận làn sóng người Trung quốc xâm lược không ngừng tràn vào.
Hắn cảm thấy một thoáng hối hận, nhưng nó nhanh chóng bị xua khỏi tâm trí hắn bởi ký ức của một ngọn lửa khác. Luồng khói bốc lên từ đống đổ nát của ngôi trường nhỏ của hắn ở làng Amchok Bora. Gương mặt của Dukar, Chopa và các học sinh khác của hắn khi dân làng lôi thân xác cháy xém của chúng từ trong đống gạch vụn của ngôi trường.
Khi ấy, Jampa là một giáo viên. Một người học thức. Một người có tri thức khoa học trên một mảnh đất khan hiếm giáo dục. Dân làng Amchok Bora đã tôn kính hắn. Hắn được họ xem là một người từng trải và thông thái.
Bây giờ, Jampa không thấy mình thông thái chút nào cả. Hắn cảm thấy phẫn nộ và mệt mỏi. Nếu quả thật trước kia hắn có một chút gì là từng trải hay thông thái, nó đã biến mất rồi, thay thế bởi một quyết tâm duy nhất: giải phóng đất nước của hắn khỏi sự áp bức của Trung quốc.
Hắn tự hỏi bây giờ gã Sonam đang ở đâu. Hắn cảm thấy tội lỗi khi bỏ lại đồng bạn bị thương sau vụ tấn công ấy. Hắn hi vọng rằng, vì chính bản thân Sonam, gã chiến sĩ trẻ này đã thiệt mạng vì trúng đạn trước khi bọn Trung quốc tóm được gã.
Hắn thoáng tưởng tượng cảnh bọn tạp chủng vô nhân đạo kia đã làm gì để buộc gã khai. Cái rùng mình của hắn bị một cơn gió đêm lạnh lẽo làm càng mạnh hơn nữa.
Rùng mình xong, Jampa chợt ngáp, rồi lại ngáp. Hắn cố xua đuổi mọi ý nghĩ về gã Sonam bị bắt bớ ra khỏi óc. Hắn không thể làm gì giúp Sonam được nữa rồi. Hoặc là gã đã chết, hoặc là gã đang bị bọn Trung quốc nhốt trong một phòng giam nào đó. Dù sao đi nữa, muốn giúp đỡ Sonam cũng ngoài khả năng của Jampa, hay của bất cứ ai trong tổ chức Gingara.
Jampa lại ngáp. Hắn còn một chút thời gian để đọc vài trang sách trước khi ngủ. Ngày mai, có lẽ hắn và lão Nima lại lên kế hoạch cho một chuyến tập kích khác chống lại bọn xâm lược.
Hắn bắt đầu khép cửa, nhưng chợt dừng lại giữa chừng. Âm thanh gì vậy nhỉ?
Jampa nghiêng đầu, cố tập trung vào cái âm thanh văng vẳng. Cái âm thanh này bắt đầu thật thấp, nhưng lớn lên thật nhanh. Nó làm hắn nghĩ đến một sự pha trộn kỳ dị của tiếng mũi tên bay và hơi nước bắt đầu sôi trong một cái ấm nước. Cái âm thanh này mặc dù kỳ dị, lại không phải hoàn toàn xa lạ. Hắn đã nghe qua âm thanh này rồi, hay một âm thanh rất giống như vậy.
Ký ức của vụ đột kích đường ray Thanh-Tạng bằng tên lửa lại thoáng qua óc hắn. Hắn thấy lại hình ảnh của chính hắn nâng cái ống phóng tên lửa làm bằng sợi thủy tinh lên vai phải. Cảm thấy nút phóng lún xuống dưới ngón tay bấm của hắn. Nghe tiếng rít khi quả tên lửa chống tăng vọt ra khỏi ống phóng và lao đến hông chiếc toa xe.
Cái tiếng rít đang lớn dần lên… Nó gần như là cùng tiếng rít ấy, nhưng lớn hơn. Lớn hơn nhiều. Nó…
Suy nghĩ của Jampa bị cắt đứt khi một bóng đen khổng lồ bay thoáng qua vùng trời của khung cửa hé mở, lướt dọc theo con đường đến trung tâm ngôi làng. Không khí bị cái vật bay ấy cuống tốc lên, ụp vào người Jampa cùng với một cái mùi hóa chất làm hắn liên tưởng đến mùi dầu cháy.
Cái vật này, không hiểu là cái gì mà chỉ bay ở độ cao ngang tầm ngực người ta. Nó kéo theo một tiếng rít giống như huýt sáo, bây giờ đã to đến làm đau nhức lỗ tai.
Có phải là một loại tên lửa nào đó không? Không thể nào! Nó quá to. To gần như một cây cột điện vậy.
Jampa bị hất văng sang bên khi vật lạ bay đến trung tâm ngôi làng và nổ tung, làm màn đêm tóe ánh lửa và tàn phá một khu vực tròn chung quanh.
Jampa nằm trên mặt đất, đầu óc choáng váng ý thức rằng cái vật khổng lồ ấy quả thật là một loại tên lửa nào đó. Tai hắn còn đang ù sau phát nổ, nhưng hắn vẫn có thể nghe cụm lửa gầm rú và tiếng hô hoán của người ta bị chợt đánh thức từ giấc ngủ say. Hắn cũng nghe được thứ khác nữa: lại tiếng rít-huýt sáo kia. Không phải chỉ một cái mà nhiều cái.
Điên thật. Ai lại phóng tên lửa vào một ngôi làng Ấn Độ nhỏ tý chứ? Ai thèm làm thế chứ? Ai mà thèm hao phí cái loại binh khí mắc tiền như vậy vào một nơi mà hầu như không ai nghe nói qua?
Rồi chợt Jampa biết ra đáp án. Hắn hiểu tất cả một cách rõ ràng. Hắn khổ sở đứng dậy, lảo đảo đi ra cửa. Cánh cửa đã bị gãy một bản lề, đã gần đổ xuống.
Đây là lỗi của hắn. Tử thần đang đến làng Geku và tất cả do lỗi của hắn.
Ý đồ của hắn đơn giản và dễ hiểu biết bao. Tập kích vào các mục tiêu Trung quốc bên kia rặng núi phía Tây Tạng, rồi rút lui về bên này biên giới phía Ấn Độ. Chính quyền Trung quốc sẽ không bao giờ dám truy đuổi một nhóm phiến quân qua biên giới của một quốc gia lớn khác.
Mà rất nhiều cư dân ở các tỉnh vùng Bắc Ấn ủng hộ lý tưởng giải phóng Tây Tạng. Các dân làng người Ấn sẵn lòng chứa chấp Jampa, lão Nima và các anh em trong tổ chức Gingara.
Kế hoạch này luôn thành công, cho đến nay. Mọi cuộc truy nã của quân Trung quốc luôn dừng lại ở biên giới Ấn Độ.
Tại sao lần này lại khác chứ? Có gì đó đã thay đổi. Một cái gì thật lớn. Jampa không biết điều kiện chính trị đã thay đổi như thế nào, nhưng rõ ràng là mọi quy tắc cũ đã thay đổi một cách bất chợt và triệt để rồi. Không cần biết tại sao quy tắc lại đổi đi, nhưng cái tai họa đang diễn ra tại đây là để đáp trả lại vụ tập kích của Jampa vào chuyến xe lửa khốn nạn ấy.
Một phát nổ khác ném Jampa vào khung cửa. Đầu hắn va vào khung gỗ vang lên tiếng rắc đau đớn. Đầu gối hắn khuỵu xuống. Hắn đang quỵ xuống đất thì quả phi đạn vọt ra từ màn đêm và đâm sầm vào căn nhà nhỏ.
Jampa chỉ ở cách đầu đạn 2 mét khi nó nổ tung. Hắn không còn thấy gì nữa, không còn nghe gì nữa, mà cũng không còn tồn tại nữa…
Và người bắn phát súng đầu tiên khởi mào chiến tranh, đã không còn ở đó để chứng kiến đợt phi đạn đang tiếp tục lao xuống từ bầu trời.