Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Tàu ngầm USS California (SSN-781)
Phía bắc vịnh Bengal
Chủ Nhật, 30 tháng 11, 18:24, giờ địa phương
Thanh âm viên sĩ quan phụ trách Sonar vang lên trên mạng. “Phòng điều khiển, đây là Sonar. Sierra Một Năm đi hướng không-ba-chín. Vật tiếp xúc cho thấy đang trôi dạt chậm về phía phải.”
Hạm trưởng Patke vỗ vai viên sĩ quan trực phòng điều hành (Officer of the Deck, OOD). “Hãy hướng vài độ về phía phải, và duy trì tư thế càng ở giữa xoáy nước của hắn càng tốt.”
Viên OOD gật đầu. “Aye-aye, thưa ông.” Gã nhỏ tiếng ra lệnh cho thủy thủ cầm lái.
Sierra Một Năm chính là số hiệu truy tầm sonar để chỉ một chiếc tàu ngầm hạt nhân tấn công của Trung quốc thuộc lớp Shang (34). Chiếc USS California đã theo đuôi chiếc tàu ngầm Trung quốc suốt gần 24 giờ rồi, và lúc này họ đang chuẩn bị theo nó xuyên qua chu vi phòng vệ của biên đội tàu sân bay của Ấn Độ.
Patke và thủy thủ đoàn của hắn cũng từng thi hành một hành động y như vậy trước đó năm ngày, khi họ lẻn qua vòng phòng ngự của các chiến hạm bao quanh chiếc tàu sân bay của Trung quốc, gần phần cuối phía nam của vịnh Bengal. Thế rồi, họ lại nhận được lệnh hủy bỏ cuộc theo dõi, mà chuyển qua tìm kiếm và theo đuôi chiếc tàu ngầm tấn công của Trung quốc này. Và bây giờ, họ đang ở phần đầu phía bắc của vịnh, lần mò theo chiếc tàu ngầm kia khi mà nó cũng thực hành cùng một hành động đối với hạm đội Ấn Độ.
Mà chắc họ cũng sẽ thành công. Viên hạm trưởng của chiếc tàu ngầm Trung quốc rất có tài và thận trọng, và chiếc tàu của y cũng khá êm ắng. Dù sao thì cũng là sự êm ắng ở mức cao nhất mà tàu ngầm Trung quốc có thể đạt được.
Hạm trưởng Patke liếc nhìn đồng hồ. Đã gần 18:30 rồi. Trên mặt nước, lúc này thế giới đã ở trong trạng thái ánh sáng kỳ lạ được gọi là ‘hoàng hôn hải lý’, khi mà mặt trời đã xuống dưới đường chân trời, nhưng tia sáng của nó vẫn chiếu sáng bầu trời. Mặt biển sẽ quá tối để có thể nhận ra chi tiết với mắt thường, mà bầu trời vẫn còn sáng trưng làm cho mắt người ta không làm quen được với bóng tối.
Đây là thời điểm trong ngày mà phi hành đoàn trên máy bay và các nhân viên gác trên chiến hạm bị khó khăn nhất khi muốn nhận ra dáng của một chiếc tàu ngầm đang lặn gần mặt nước, hay vạch sóng rẽ bởi tiềm vọng kính đang nhô ra khỏi mặt nước.
Patke gật gù. Gã hạm trưởng Trung quốc làm đúng bài vở đó! Nếu tiếng động từ lò phản ứng hạt nhân của nó không bị phát hiện, gã sẽ lọt qua vòng phòng ngự của các khu trục và khu trục hạm nhẹ của Ấn Độ, và đến trung tâm của biên đội tàu sân bay.
-***-
Nửa giờ sau, rõ ràng là gã hạm trưởng của chiếc Sierra Một Năm đã thành công đạt được mục đích của gã. Chiếc tàu của gã đã lọt hẳn vào bên trong vòng đai của chiếc tàu sân bay Ấn Độ, chiếc INS Vikrant. Chính chiếc tàu của Patke, chiếc California thì vẫn lặng lẽ bám theo đuôi nó, lợi dụng âm thanh từ chân vịt và lò phản ứng hạt nhân của chiếc tàu ngầm Trung quốc để làm lá chắn tránh bị phát hiện.
Sierra Một Năm, chiếc tàu lớp Shang (Thương) kia, là một chiếc tàu ngầm Trung quốc thuộc thế hệ thứ nhì và tiếng ồn của nó đã nhỏ hơn lớp Han (Hán) cũ một cách đáng kể. Nhưng mà giữa ‘ít ồn’ và ‘êm lặng’ là cả một thế giới khác biệt. Cho dù với tài nghệ của gã hạm trưởng, Sierra Một Năm có thể hơi quá ồn một tý để có thể tránh bị phát hiện bởi các nhân viên sonar trên hạm đội Ấn Độ. Mà vì khoảng cách theo dõi gần gũi, điều này có lẽ tương đương như chiếc California cũng sẽ bị phát hiện luôn.
Patke tháo cặp kiếng xuống, chà chà xống mũi, rồi lại đeo kiếng lên. Bám sát theo một chiếc tàu ngầm có thể là địch, bình thường đã là chuyện rũi ro rồi. Mò mẫm bên trong chu vi phòng thủ của tàu sân bay của một nước khác, lại nâng mức rũi ro lên một tầng cấp khác hẳn. Mà giờ đây, chiếc California lại đang làm cả hai điều này. Chỉ cần bất cứ chuyện không may nào xảy ra, chỉ cần ba giây thời gian là cả tình huống trôi xuống cống ngay.
Patke nhìn bức bản đồ hành quân lần cuối, rồi đi về chiếc cửa kéo dẫn đến phòng kiểm soát sonar. Hắn tựa vào bệ cửa và nhìn vào căn phòng đen tối. Chuyên viên sonar hàng đầu của chiếc tàu, thượng sĩ Lanier Philips là nhân viên trực lúc này.
Hạm trưởng ra hiệu cho chuyên viên sonar: “Như thế nào, thượng sĩ?”
Viên trưởng toán sonar ngẩng đầu, nét mặt điển hình của dân da đen căng thẳng vì tập trung. Gã đẩy ống nghe choàng đầu sang bên một chút để lộ lỗ tai phải ra, tay trái thì ấn ống nghe còn lại mạnh hơn vào tai trái. “Chúng ta theo dấu tên này rõ ràng, thưa hạm trưởng. Ông cũng biết cái tiếng rì rào tần số thấp kỳ cục của lớp tàu Han do hệ thống thoát nhiệt của chúng chứ? Có vẻ như lớp Shang cũng có thiết kế giống như vậy. Tầng decibel thì thấp hơn nhiều, nhưng cũng một loại âm thanh như vậy.”
Viên thượng sĩ quay đầu trở về loạt màn hình sonar. “Nếu ông cứ để cho chúng ta ở phía sau nó như thế này, chúng tôi có thể theo dõi vĩnh viễn.”
Hạm trưởng Patke gật đầu. “Thế còn đám bạn Ấn Độ của chúng ta bên trên kia thì sao? Sonar của họ có khả năng dò ra thằng này không?”
Viên trưởng toán sonar nhíu mày nhìn màn hình và ngoái đầu lại đáp. “Khó mà nói chắc được, hạm trưởng à, nhưng mà tôi không tin lắm. Âm thanh chính mà chúng ta đang theo dõi cũng không lớn lắm. Chúng ta có thể phát hiện được nó, nhưng mà chúng ta đang bám chặt vào đuôi nó. Hơn nữa, nó đang chạy bên dưới lớp âm, mà chúng ta cũng thế. Chúng ta đang ở cùng một vùng nước với nó, do đó chúng ta theo dõi nó dễ hơn.”
Lớp âm là một vách ngăn âm thanh được tạo nên bởi sự chuyển tiếp từ vùng có nhiệt độ gần như không thay đổi gần mặt nước và vùng ‘thermocline’, một vùng có nhiệt độ nước thấp đi thật nhanh đến tận độ sâu khoảng 600 m. Sự thay đổi nhiệt độ kịch liệt này làm cho phần lớn tín hiệu âm thanh của một chiếc tàu ngầm bị lệch đi khỏi các cảm biến sonar được lắp ở vỏ các chiến hạm mặt nước. Điều này không làm cho tàu ngầm trở nên vô hình trên phương diện âm thanh đối với chiến hạm mặt nước, nhưng nó tạo ra một lợi thế chiến thuật mà mọi hạm trưởng tàu ngầm tài giỏi đều biết cách lợi dụng.
Patke lại gật gù. Nếu thượng sĩ Philips nói đúng, các chiến hạm Ấn Độ trên mặt nước có thể sẽ không nhận ra sự hiện diện của Sierra Một Năm.
Patke vừa định bỏ đi, thì viên trưởng toán sonar lại lên tiếng. “Sao lạ thế…?”
Patke quay lại. “Anh có chuyện gì sao, thượng sĩ?”
Thượng sĩ Philips nghiêng đầu qua một bên và nhìn chăm chú vào một màn ảnh sonar nhìn giống như thác nước chảy ào ào xuống. “Có tiếng động thoáng qua… Nghe giống như…”
Viên chuyên gia sonar chợt ngồi thẳng dậy và bấm máy nói. “Phòng chỉ huy, Sonar đây. Sierra Một Năm đang cho nước vào ống phóng (35)! Tôi lặp lại, nó đang xả nước vào ống phóng!”
“Cứt chó!” Một người nào đó trong phòng kiểm soát nói. “Nó sắp bắn!”
Patke chạy vội 5-6 bước về vị trí của viên sĩ quan trực OOD. Người nào đó vừa kêu lên, nói đúng rồi. Sierra Một Năm đang chuẩn bị phóng ngư lôi.
Chết tiệt! Patke cứ tưởng rằng chiếc tàu ngầm Trung quốc đang thi hành một nhiệm vụ dò thám. Hắn không ngờ bọn khốn kiếp này lại khai hỏa.
Hắn cất cao giọng. “Mọi vị trí nghe đây, đây là hạm trưởng. Tôi nắm lại quyền chỉ huy rồi. Hoãn lại mọi báo cáo. Bánh lái, bẻ phải tối đa, hướng mới là một-chín-không! Sĩ quan lặn, cho chúng ta đi xuống! Cho độ sâu mới là 180 mét.”
Không chờ nghe lời đáp trả, hắn lại phát một loạt mệnh lệnh khác. “Kiểm Soát Vũ Khí, chuẩn bị ống phóng số một, ba và năm. Đừng cho nước vào cho đến khi được lệnh của tôi. Biện Pháp Đối Phó, chuẩn bị phóng mồi nhử.”
Sàn tàu nghiêng đi dưới chân hắn khi chiếc California chúi đầu xuống và đảo qua phải để đổi độ sâu và hướng đi.
Viên trưởng toán sonar lại lên tiếng trên mạng. “Chỉ huy, Sonar đây. Sierra Một Năm đang mở cửa ống phóng.”
Cái mà chiếc California cần bây giờ là khoảng cách, càng cách xa hướng đi của Sierra Một Năm càng tốt trước khi chiếc tàu ngầm Trung quốc bắt đầu phóng ngư lôi. Bởi vì khoảng 30 giây sau khi phát hiện ngư lôi được phóng, người Ấn Độ sẽ cho mọi thứ khí tài chống tàu ngầm của họ xông vào khu vực biển này. Cả vùng này sẽ chen chúc những chiếc khu trục nhẹ, trực thăng, và những chiếc hộ vệ hạm corvette chống tàu ngầm thuộc lớp Kamorta đã làm Hải quân Ấn Độ hãnh diện biết mấy. Tất cả những khí tài ấy sẽ phóng ngư lôi vào bất cứ vật gì lớn hơn một con cá thu. Mà chiếc tàu ngầm Trung quốc, chiếc Sierra Một Năm kia, có lẽ sẽ phóng ra vài món vũ khí để phản kích trong khi tìm cách đào thoát.
“Đã vượt qua 90 mét.” Viên sĩ quan Lặn báo cáo.
“Tốt lắm.” Patke nói. Còn chưa đủ sâu, nhưng đã không còn thời giờ nữa rồi. Nếu chiếc California muốn thoát thân, thì cái nó cần là tốc độ. Hắn chỉ đành phải chấp nhận mức rủi ro bị phát hiện cao hơn thôi. “Bánh Lái, thẳng phía trước tốc độ cao nhất.”
Viên sĩ quan Bánh Lái lập tức trả lời. “Thẳng phía trước nhanh nhất, aye!”
Có khoảng 90 giây tương đối im lặng rồi tiếng của viên trưởng toán sonar lại vang lên. “Chỉ Huy, Sonar đây. Ngư lôi trong nước, hướng đi không-bốn-không! Hình như là hai chiếc thuộc loại đuổi theo đường tàu chạy, nhắm vào chiếc tàu sân bay Ấn Độ.”
Patke liếc nhìn màn hình tác chiến. Khoảng cách với Sierra Một Năm đang tăng nhanh, nhưng vẫn chưa đủ.
“Cái này giống như thời tôi còn bé vậy.” Viên OOD nói nhỏ.
“Tại sao vậy?” Patke hỏi. Hắn không thể tưởng tượng ra thời thơ ấu của ai lại có thể giống như tình huống của họ lúc này cả.
“Thằng em tôi hay trộm mấy cái bánh trong hủ đựng.” Viên OOD nói. “Mà tôi lại là thằng luôn bị đòn vì mất bánh. Nó ăn bánh, còn tôi thì ăn đòn.”
Viên OOD hất mặt về hướng màn hình tác chiến. “Tôi nghĩ là đó là chuyện đang xảy ra bây giờ, thưa hạm trưởng. Bọn Trung quốc thò tay vào hủ bánh của Ấn Độ và vồ lấy một nắm bánh ngon lành. Mình thì không hề đụng vào miếng bánh nào, mà lại sắp bị ăn đòn đây.”
Patke nhìn vào khoảng cách càng lúc càng gia tăng trên màn hình. “Có lẽ là không đâu.” Hắn nói. “Không chừng lần này chúng ta hên rồi.”
Bốn hay năm phút sau, sonar bắt đầu báo cáo là có ngư lôi vào nước, nhưng sau đó các ước tính đều cho là chúng ở cách một khoảng cách an toàn, về phía đông bắc.
Mọi người trong phòng kiểm soát bắt đầu thở phào nhẹ nhỏm.
“Đó! Chúng ta không lấy được miếng bánh nào.” Hạm trưởng Patke nói. “Nhưng mà ít ra chúng ta cũng không bị ăn đòn oan uổng.”
Có lẽ do thách thức số mệnh. Hay có lẽ hoàn toàn là một sự trùng hợp. Mà cũng có thể là xui xẻo. Chỉ chưa đến 10 giây sau, viên trưởng toán sonar lại báo cáo. “Chỉ Huy, Sonar đây. Chúng ta vừa bị một chiếc máy bay cánh quạt nhiều động cơ bay qua trên đầu. Có nhiều phao âm (35A) được thả trong nước!”
“Thả hai quả nhiễu âm ra.” Patke ra lệnh.
Viên OOD quay sang trạm Kiểm Soát Biện Pháp Đối Phó. “Aye-aye, thưa ông. Thả nhiễu âm ngay bây giờ.”
Hai tiếng hơi ép và hai tiếng bụp-bụp cho hay hai quả nhiễu âm đã được thả ra.
Hắn nói. “Thế là anh bạn chúng ta bên trên đã có thứ gì đó để lắng nghe rồi. Bây giờ, chúng ta hãy tách ra khỏi đã. Bẻ sang trái, đi hướng mới là một-năm-không.”
Viên sĩ quan bánh lái đáp lời và bẻ tay lái sang trái, bắt đầu cho chiếc California chậm rãi quay mũi.
Patke ngước đầu nhìn lên, như hắn có thể thấy được qua vách thép và nước biển chiếc máy bay săn tàu ngầm của Ấn Độ đang bay vòng trên bầu trời đêm. “Cho người anh em sống yên một chút chứ, các bạn. Không phải chúng tôi bắn vào tàu sân bay của các bạn đâu. Mà chúng tôi cũng không có lấy trộm mấy miếng bánh của các bạn đâu.”
Chú Thích
(34) Tàu ngầm tấn công lớp Shang của Trung quốc, bắt đầu hoạt động từ năm 2006, có trang bị ống phóng dựng thẳng để phóng tên lửa siêu thanh chống hạm YJ-18 và tên lửa hành trình chống hạm CJ-10 phiên bảng cho tàu ngầm. Tàu dài 110 m, bề ngang 11 m, lượng choáng nước 7.000 tấn khi lặn, có trang bị 6 ống phóng ngư lôi. Tốc độ 30 hải lý/giờ hay 50 km/g. Trung quốc cho biết âm thanh êm như tàu ngầm Akula của Nga, 110 decibel; nhưng hải quân Hoa Kỳ cho biết hình 093 ồn hơn tàu ngầm lớp Victor III của Nga được bắt đầu sử dụng năm 1979.
(35) Cho nước vào ống phóng: có hai cách để phóng ngư lôi hay tên lửa hành trình từ tàu ngầm qua ống phóng ngư lôi. Thứ nhất là dùng hơi ép phóng mạnh quả đạn ra; cách này đạn được phóng ra nhanh sau khi cửa ống phóng được mở ra, nhưng gây ra tiếng động mạnh, khiến cho tàu ngầm và cuộc tấn công sớm bị phát hiện; cách này thường được chiếu trong phim ảnh vì có tính chất kịch nghệ hơn; tên lửa chỉ có thể phóng bằng cách này. Cách thứ nhì là sau khi mở cửa ống phóng, ngư lôi được cho bơi ra thật chậm; ngư lôi có thể bơi chậm cách tàu ngầm xa hay gần tùy ý người điều khiển, rồi gia tốc khi đến gần mục tiêu; ngư lôi hiện đại được điều khiển bằng dây điện nhỏ do ngư lôi trải ra, chiều dài dây có thể là vài ngàn mét; phương pháp này dùng để đánh lén rất hữu hiệu, vì êm ru có thể tạo được bất ngờ. Cả hai phương pháp đều phải cho nước tràn vào ống phóng trước khi mở cửa. Nước có thể bị tống ra ngoài sau khi bắn hoặc nhiệm vụ bị hủy bỏ bằng cách dùng hơi ép.
(35A) Phao âm, tiếng Anh là ‘sonobuoy’, là loại phao được tàu mặt nước hoặc máy bay thả xuống nước để truy lùng tàu ngầm. Phao có trang bị phát ra âm thanh theo một tầng số nhất định. Khi âm thanh chạm vào một vật thể trong nước, sẽ dội lại và được phao ghi nhận. Máy vi tính trên phao dùng khoảng cách thời gian âm thanh phat đi và quay về, và phương hướng để biết vị trí của vật thể. Sau đó, phao âm phát tín hiệu báo cáo cho máy bay hay tàu. Phao âm bao giờ cũng được triển khai thành chuỗi nhiều cái. Do đó, báo cáo từ nhiều phao được dùng để xác định tọa độ, chiều sâu, tốc độ và hướng đi chính xác của vật thể. Nhờ đó, tàu hay máy bay xác định vật thể ấy có phải là tàu ngầm hay không, rồi phóng ngư lôi một cách chính xác.
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Trung Tâm Công Tác Không Gian số 21
Trạm Không Quân Onizuka
Sunnyvale, tiểu bang California
Chủ Nhật, 30 tháng 11, 04:30 giờ địa phương
Thượng sĩ Jennifer Thaxton bấm một cái nút trên màn hình để tắt tiếng cảnh báo trên màn hình SAWS của cô. Cái Satellite Analyst Workstation – SAWS (trạm làm việc của nhân viên giải tích vệ tinh) đang theo dõi dữ liệu viễn trắc từ GEO-3, một vệ tinh của Không Quân Hoa Kỳ thuộc loại dò tìm và theo dõi tín hiệu hồng ngoại hiện đang bay bên trên miền bắc Trung quốc. Vệ tinh vừa mới phát ra một cảnh báo, cho biết là có một cụm nhiệt năng vừa bộc phát nơi phần cuối của sa mạc Gobi bên Trung quốc.
Thaxton đưa lên màn hình một cái lưới GPS và lồng nó lên địa điểm phát ra nhiệt năng. Cô đã chắc chắn tới 90% địa điểm của điểm nóng bất ngờ này rồi, nhưng vẫn muốn chắc chắn 100%. Cô ra lệnh cho phần mềm đến ngay trung tâm của điểm nóng hồng ngoại và đọc tọa độ. Đúng y chang như cô nghĩ.
Một loạt gõ trên bàn phím đưa lên màn ảnh lịch trình của mọi hoạt động của cơ sở này được công bố từ trước. Thaxton lướt mắt qua, rồi lại gọi lên một màn hình khác chứa dữ liệu đạn đạo được hai vệ tinh mang ra-đa khẩu độ tổng hợp của Không Quân và một vệ tinh Onyx của Phòng Trinh Sát Quốc Gia (National Reconnaissance Office).
Sau vài giây so sánh dữ liệu từ cả ba vệ tinh, thượng sĩ Thaxton kéo cần vi âm của ống tai nghe đến gần miệng và bấm nút nói. “Sĩ quan trực, đây là tổng đài 14. GEO-3 vừa phát hiện một vụ phóng tên lửa đột xuất từ Trung Tâm Phóng Vệ Tinh Jiuquan ở nam sa mạc Gobi. Đánh giá sơ khởi đạn đạo có lẽ là một vụ phóng vệ tinh lên quỹ đạo thấp.”
Viên sĩ quan trực, thiếu tá Saunders, đáp đã nhận được báo cáo. Gã xuất hiện ngay bên cạnh Thaxton gần như trước khi cô kịp nhấc tay khỏi núp bấm nói. “Cô phân tích thế nào, thượng sĩ?”
“Còn quá sớm để có thể biết chắc, thưa thiếu tá, nhưng chắc chắn không phải là đạn đạo của vũ khí. Nếu phải đoán bậy một phát, tôi cho rằng người Trung quốc đang triển khai một vệ tinh trinh sát có quỹ đạo thấp.”
Cô đặt ngón tay lên màn hình và vạch ngón tay theo một đường cong màu xanh lục. Khi đi đến điểm cuối của đường cong, cô tiếp tục vạch ngón tay vẽ tiếp đường cong theo trí tưởng tượng của mình. “Có lẽ họ chuẩn bị đưa một con mắt lên trời bên trên vùng đang rắc rối ở vịnh Bengal.”
Viên sĩ quan trực gật đầu, nói. “Tôi nghĩ cô nói đúng. Để tôi chuyển nhận định của cô lên trên, cùng với các số liệu.”
“Chậm đã, thiếu tá.” Thaxton nói. “Cái đó chỉ là phỏng đoán của tôi thôi. Không chừng nó sai bét đó!”
“Hiểu rồi.” Viên sĩ quan trực đáp. “Nhưng mà phỏng đoán giỏi. Mà bản thân tôi cho rằng cô đoán trúng y chóc rồi.”
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway (CVN-82)
Vịnh Bengal
Chủ Nhật, 30 Tháng 11, 20:25 giờ địa phương
Đô đốc Richard Zimmerman đang ngồi trên ghế chỉ huy được nâng cao, mặt hướng về phía năm màn hình hành quân lớn che kín vách tường của phòng chỉ huy. Mỗi màn hình đường chéo 1,8 mét đều lấm tấm những phù hiệu chiến thuật khó hiểu tượng trưng cho những máy bay, tàu ngầm và tàu mặt nước trong phạm vi trách nhiệm của chiếc hàng không mẫu hạm của ông.
Các phù hiệu đều được đánh màu để phân loại: màu xanh lơ là bên bạn, trắng là trung lập hay không rõ. Một màu phân loại khác, màu đỏ cho bên địch, hiện nay không được dùng bởi vì biên đội của chiếc USS Midway chỉ hiện diện trong vùng này với tư cách là một lực lượng dùng để ổn định mà thôi. Trên lý thuyết, Hải quân Hoa Kỳ là bên trung lập, có nghĩa là trong vùng này không có lực lượng thù nghịch nào. Ít ra, không phải thù nghịch với Hải quân Hoa Kỳ.
Đô đốc nhìn chằm chằm vào ký hiệu hình nửa vòng tròn tượng trưng cho tàu ngầm USS California. Mấy gã này suýt tý nữa đã bị lực lượng chống tàu ngầm của Ấn Độ đang hộ vệ chiếc hàng không mẫu hạm INS Vikrant đánh cho tét đít, chỉ mới cách đây chừng một giờ thôi. Chuyện này đã xảy ra khi mà một chiếc tàu ngầm tấn công Trung quốc đập cho chiếc Vikrant một phát nên thân.
Giờ đây, chiếc Vikrant đang bốc cháy và cố gắng không chìm nghỉm, ở một nơi nào đó phía bắc của vịnh; trong khi đó, bất cứ vật gì nhúc nhích gần nơi đó đều bị người Ấn Độ đập tơi bời. Chỉ có trời mới biết hạm trưởng chiếc California làm thế nào để thoát thân nguyên vẹn.
“Trung lập cái con khỉ.” Đô đốc nói. “Ở chỗ này mà trở thành trung lập thêm tý nữa là tất cả chúng ta sẽ về nhà trong túi đựng xác thì có.”
Mà ông cũng không thể oán trách Hải quân Ấn Độ được. Họ nào có nhắm vào chiếc California đâu? Họ chỉ muốn thịt chiếc tàu ngầm tấn công Trung quốc đã đục thủng mấy lỗ to tướng vào chiếc tàu sân bay của họ thôi; chẳng qua, ngón tay bấm cò của họ hơi quá nhạy rồi.
Đô đốc Zimmerman nắm chặt tay ghế. Nếu có kẻ nào bắn thủng hai lỗ thủng to tướng, lửa cháy tùm lum ở chiếc tàu sân bay của ông hả, có lẽ ông cũng làm y như người Ấn Độ lúc này thôi… Đập bẹp dí bất cứ thứ gì trong tầm tay.
Mắt ông lướt qua căn phòng tối đèn. Phòng chỉ huy, được gọi là Flag Plot (*) tràn đầy những màn hình và những trang bị phụ trợ. Các vách tường gắn đầy những thiết bị thông tin liên lạc, bảng báo cáo bằng kỹ thuật số cho thấy trạng thái của ra-đa và máy vi tính; tất cả những thứ này chuyên cung cấp cho đô đốc và các nhân viên phụ tá mọi thông tin cần thiết để chỉ huy một chiếc tàu sân bay và cả nhóm tác chiến của nó.
(* người dịch, Flag Plot, mảnh đất cắm cờ: cấp tướng được quyền trưng cờ của mình nơi phòng làm việc hay ngoài cửa chính của kiến trúc có văn phòng của mình; trong trường hợp có nhiều tướng trong cùng một kiến trúc, trước cửa sẽ treo cờ của vị tướng có cấp cao nhất; chuẩn đô đốc nửa dưới, cờ một sao; chuẩn đô đốc nửa trên, cờ hai sao; phó đô đốc, cờ ba sao; đô đốc, cờ bốn sao. Chỉ huy hàng không mẫu hạm và cả hạm đội bảo vệ thường là chuẩn đô đốc nửa dưới, một sao, nhưng thường vẫn được gọi là ‘đô đốc’ vì lịch sự, trừ phi cố ý muốn cho rõ ràng cấp bậc)
Như thường lệ khi chiếc tàu sân bay được triển khai, Flag Plot tràn đầy những hoạt động, nhưng trong im lặng. Các nhân viên điều hành những hệ thống hay dùng máy thông tin liên lạc đều nói nhẹ tiếng qua ống nghe choàng đầu. Tiếng thì thào của họ cũng không lớn hơn tiếng quạt làm nguội thiết bị điện tử bao nhiêu.
“Thưa đô đốc, nếu đô đốc có thời giờ…”
Tiếng nói từ bên trái chiếc ghế của đô đốc vang lên, chỉ cách cánh tay ông 15 cm. Chính là gã trung úy phụ tá mới, cái gã làm người ta rùng mình: Muller, hay là Moyer… cái tên đại khái như thế. Chính là cái gã cứ hay như chợt biến ra từ không khí.
Đô đốc đã từng nhìn gã đi vào và đi ra khỏi các căn phòng, nên biết rằng gã không có pháp thuật hay biết thuấn di gì cả. Bạn có thể thấy gã di động, nếu bạn cố tâm chú ý. Nhưng nếu bạn không để ý đến gã, gã cứ như chợt biến ra vậy, mà luôn luôn cầm trong tay tấm bìa cứng kẹp giấy.
Gã trung úy đưa tấm bìa cứng ra. “Thưa đô đốc, nếu đô đốc có thời giờ...” Gã lại nói.
Đô đốc Zimmerman nhận tấm bìa, cố kềm cảm giác muốn giật nó khỏi tay gã sĩ quan trẻ. Trang giấy bìa màu trắng viền đỏ và có chữ đỏ, cho thấy là tài liệu bên dưới được liệt vào hàng Mật.
Đô đốc lật trang bìa để lộ ra một bức điện và bắt đầu đọc.
//SSSSS//
//MẬT//
//KHẨN//KHẨN//KHẨN//
//301332Z NOV// (dịch giả: ngày 30, 13:32 Giờ Phối hợp Quốc tế tức là giờ zulu theo cách nói quân đội, tháng 11)
TỪ COMPACFLT// (dịch giả: COM – commander, PAC – Pacific, FLT – Fleet, chỉ huy trưởng hạm đội Thái Bình Dương)
CHO COMCARSTRKGRU FIVE// (dịch giả: COM – commander, CAR – Carrier, STRK – Strike, GRU – Group; Chỉ huy trưởng nhóm tác chiến tàu sân bay số 5)
USS MIDWAY//
USS TOWERS//
USS FRANK W FENNO//
USS DONALD GERRARD//
INFO COMSEVENTHFLT// (dịch giả: chỉ huy trưởng Đệ Thất Hạm Đội)
CTF SEVEN ZERO// (dịch giả: nhóm tác chiến tàu sân bay số 70)
ĐỀ TÀI/CẢNH BÁO VỆ TINH ĐƯỢC PHÓNG//
THEO BÁO CÁO/SPACEOPCEN AF/301241Z NOV// (dịch giả: SPACEOPCEN viết tắc của Trung Tâm Công Tác Không Gian; AF – Air Force, Không quân; ngày 30, 12:41 giờ zulu, tháng 11)
TRUNG TÂM CÔNG TÁC KHÔNG GIAN SỐ 21 CỦA KHÔNG QUÂN HOÀI NGHI QUÂN GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN (PLA) PHÓNG VỆ TINH NGÀY HÔM NAY
1. (MẬT) BÁO CÁO CHO HAY VỆ TINH QUỸ ĐẠO THẤP ĐƯỢC PHÓNG ĐỘT XUẤT TỪ TRUNG TÂM PHÓNG VỆ TINH JIUQUAN CỦA PLA Ở NAM SA MẠC GOBI KHOẢNG TRƯỚC ĐÂY MỘT GIỜ.
2. (KÍN) ĐẠN ĐẠO VÀ QUỸ ĐẠO KHÔNG GIỐNG PHI THUYỀN CÓ NGƯỜI HAY BẤT CỨ VŨ KHÍ HAY VỆ TINH MANG VŨ KHÍ NÀO.
3. (MẬT) ĐÁNH GIÁ SƠ KHỞI CỦA KHÔNG QUÂN LÀ VỆ TINH THUỘC LOẠI HAIYANG HY-2F HAY HY-3, CHUYÊN DÙNG CHO THEO DÕI BẰNG RA-ĐA, HÌNH ẢNH VÀ ĐA PHỔ KHU VỰC VỊNH BENGAL.
4. (MẬT) VẬN TỐC VỆ TINH ĐƯỢC CỐ TÌNH GIẢM XUỐNG ĐỂ TIẾN VÀO VỊ TRÍ ĐỊA TĨNH TỪ QUỸ ĐẠO THẤP. TRUNG TÂM CÔNG TÁC KHÔNG GIAN SỐ 21 CHO BIẾT QUỸ ĐẠO KHÔNG ỔN ĐỊNH VÀ SẼ PHÂN RÃ TRONG VÒNG MƯỜI NGÀY.
5. (MẬT) ĐỂ TIỆN LÊN KẾ HOẠCH VÀ LIÊN LẠC, VỆ TINH NÀY ĐÃ ĐƯỢC MỆNH DANH REDBIRD MỘT.
6. (MẬT) DỰA THEO CÁCH HOẠT ĐỘNG TRƯỚC ĐÂY VÀ LỢI ÍCH QUỐC GIA, CÁC VỆ TINH CỦA PLA ĐÃ ĐƯỢC TRIỂN KHAI ĐỂ CHỈ BAO PHỦ KHU VỰC VỊNH BENGAL KHOẢNG SÁU GIỜ MỖI HAI MƯƠI BỐN GIỜ THÔI. NAY, TRONG VÒNG ĐỜI CỦA NÓ, REDBIRD MỘT SẼ CUNG CẤP CHO PLA THÔNG TIN TRINH SÁT SUỐT NGÀY.
7. (MẬT) MỌI ĐƠN VỊ PHẢI RÕ LÀ TOÀN BỘ KHẢ NĂNG CỦA VỆ TINH LOẠI HY-2F VÀ HY-3 CÒN CHƯA ĐƯỢC RÕ. REDBIRD MỘT CÓ KHẢ NĂNG NHẬN DIỆN QUA ĐỘ PHÂN GIẢI CAO VÀ THEO DÕI MỌI TÀU MẶT NƯỚC VÀ MÁY BAY TRONG KHU VỰC. ĐỀ NGHỊ CÁC VỊ CỨ GIẢ ĐỊNH LÀ PLA THÔNG TỎ MỌI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC VỊ CHO ĐẾN KHI QUỸ ĐẠO PHÂN RÃ VÀ SỰ HƯ HẠI CỦA REDBIRD MỘT ĐÃ ĐƯỢC XÁC NHẬN, KHOẢNG MƯỜI NGÀY KỂ TỪ HÔM NAY.
8. (KHÔNG MẬT) CHÚC MAY MẮN VÀ HÃY CẨN THẬN HÀNH SỰ! ĐÔ ĐỐC STANFORD GỬI.
//301332Z NOV//
//KHẨN//KHẨN//KHẨN//
//RBT 2034539//
//MẬT//
//SSSSSS//
Đô đốc đọc qua bản tin hai lần trước khi ký tên ở đầu trang giấy và trả tấm bìa lại cho trung úy Quỷ Dị. Ông nói. “Chẳng lẽ giởn với tôi à?”
Viên trung úy kẹp tấm bìa vào nách. “Sao ạ, thưa đô đốc?”
“Không có gì.” Đô đốc gầm gừ, phất tay cho gã sĩ quan trẻ quỷ dị rời đi.
Khi ông đảo mắt quanh vài giây sau, gã Trung Úy Phụ Tá đã biến mất rồi. Ông không hề nghe tiếng cửa mở hay đóng gì cả, nhưng gã trung úy đã không còn trong Flag Plot. Gã làm thế nào mà biến mất như thế nhỉ?
Đô đốc lại quay mắt về các màn hình hành quân. Redbird Một có lẽ đang theo dõi mọi động tĩnh của nhóm tác chiến, mọi chuyến bay và mỗi lần chiếc Midway hay các chiến hạm hộ vệ chuyển hướng hay đổi tốc độ. Nhưng mà trong bức điện của Hạm Đội Thái Bình Dương, không có một điều gì chỉ định chiếc vệ tinh ấy là thù nghịch cả. Và như vậy là đô đốc Zimmerman không có quyền bắn hạ nó.
Cái dụng cụ thám sát mới này của Trung quốc chính thức là trung lập. Lại cái từ ‘trung lập’ này nữa…
Đô đốc dựa ra lưng ghế. Trung lập. Ông bắt đầu ghét cay ghét đắng cái từ này rồi.
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Trung Tâm CNN
190 đường Marietta, thành phố Atlanta, tiểu bang Georgia
Chủ Nhật, 1 tháng 12, 09:22 giờ địa phương
Ngược với tiên đoán của Irene Schick, đoạn phim về vụ thảm sát ở Lhasa không được chiếu trong mục tin hàng đầu. Cô vẫn tin tưởng rằng vụ thảm sát này sẽ chiếm ngự các bản tin trong suốt nhiều ngày, nhưng giám đốc tin tức, Lloyd Neilson không đồng ý với cô.
Neilson làm việc rất giỏi, mà hắn và Irene hiếm khi nào xung khắc nhau. Tuy nhiên hắn lại không đồng ý với nhận định của Irene về tầm mức quan trọng của mẩu tin này. Trung quốc và Ấn Độ đang leo thang trong một cuộc chiến có thể trở thành một cuộc chiến toàn diện giữa hai cường quốc hạt nhân. Trên một cái nền lớn như thế, Neilson cho rằng chuyện bắn gục một số người biểu tình ở Tây Tạng chỉ có thể bị lạc mất trong vô vàn mẩu tin mà thôi.
Hắn đã bác bỏ đề nghị của Irene cả trên phương diện giờ chiếu lẫn chương trình mà mẩu tin nên được lồng vào. Irene thì muốn cho mẩu tin vào mục tin hàng đầu vào buổi tối thứ bảy, với mọi sự rầm rộ, và được loan báo bởi một trong những tay neo tin tức gạo cội nhất. Tuy nhiên, đoạn phim ở Tây Tạng bị nhét vào một chương trình nhàm chán phát vào buổi sáng Chủ Nhật, 22 phút sau khi mọi mục tin sốt dẻo đã được trình chiếu vào đầu giờ.
Nếu là phần đông những mẩu tin khác, điều này đã là bản tuyên án tử hình rồi. Nhưng mẩu tin này thì không như thế. Đúng y như lời Irene đã lặp đi lặp lại với Nielson, vụ Tây Tạng này sẽ không biến mất trong yên lặng.
Cô không hề ngờ được lời dự đoán của cô sẽ chuẩn xác như thế nào.
Tác Giả: Jeff Edwards
Người Dịch: qnnguyen
Biên Tập: Không Không
Nguồn: Tàng Thư Viện
Khu Trục Hạm USS Towers (DDG-103)
Vịnh Bengal
Chủ Nhật, 30 Tháng 11, 21:47 giờ địa phương
Có tiếng gõ nhẹ nơi cửa phòng của trung tá Silva, rồi sau một khoảnh khắc chờ đợi lịch sự, cửa được mở ra. Đại tá Bowie đứng ở lối vào. “Xin chào buổi tối, Kat. Tôi vào, không làm phiền cô chứ?”
Silva ngước mắt lên từ chồng giấy tờ trên cái bàn xếp nhỏ xíu trong căn phòng tạm thời của nàng. Nàng vẫn đang cực khổ trong đống công việc hành chánh chi li, để chuẩn bị cho lễ bàn giao ngày thứ sáu.
Nàng đang tính đánh một giấc trong vài phút kế tới, do đó đang mặc bộ đồ ngủ thường lệ khi trên tàu: quần tập thể dục và áo thun. Tối nay, chiếc quần là màu xám thông dụng, còn chiếc áo thun thì màu xanh lơ đậm có dán hình huy hiệu sĩ quan chiến hạm mặt nước màu hoàng kim trên vai. Khi ở nhà, nàng thích mặc vớ và đồ lót khi ngủ, nhưng trên tàu nàng có thể bị gọi dậy bất cứ lúc nào giữa đêm. Mặc dù không hợp cách, nhưng áo thun và quần tập làm nàng có thể trình diện với y phục đầy đủ những khi có thao diễn hay trường hợp khẩn cấp.
Nàng dựa người vào lưng ghế. “Chào buổi tối, Jim. Mời anh vào.”
Bowie bước vào căn phòng, đóng cửa lại. Hắn đưa ra một tập hồ sơ. “Không biết cô đã đọc qua các bản tin mới nhất chưa. Tôi nghĩ có thể cô cần đọc qua trước khi ngủ.”
Silva phất tay về phía giấy tờ trên bàn. “Bản tin về vệ tinh trinh sát của Trung quốc hả? Tôi thấy qua rồi. Tôi có một bản sao ở đây nè.”
Đại tá Bowie lắc đầu và đưa tập hồ sơ ra. “Không phải cái đó. Một bản tin khác, từ Phòng Nhân Sự.”
Silva nhận lấy tập hồ sơ, mở ra và đọc trang giấy bên trong.
//UUUUU//
//KHÔNG MẬT//
//ƯU TIÊN// ƯU TIÊN// ƯU TIÊN//
//301355Z NOV//
TỪ BUPERS// (dịch giả: BUPERS, viết tắt của Bureau of Personnel, Phòng Nhân Sự)
GỬI USS TOWERS//
BẢN SAO CHO COMCARSTRKGRUP FIVE
COMDESRON ONE FIVE//
ĐỀ TÀI/BÀN GIAO QUYỀN CHỈ HUY USS TOWERS//
1. (KHÔNG MẬT) BUPERS NHẬN ĐỊNH USS TOWERS ĐANG TRIỂN KHAI VỊNH BENGAL THEO LỆNH HÀNH QUÂN KHÔNG NHẮC ĐẾN TRONG BẢN TIN NÀY.
2. (KHÔNG MẬT) XÉT VÌ TRIỂN KHAI NGOÀI DỰ LIỆU, BÀN GIAO QUYỀN CHỈ HUY NAY BỊ HOÃN LẠI CHO ĐẾN KHI CUỘC HÀNH QUÂN CHẤM DỨT.
3. (KHÔNG MẬT) ĐẠI TÁ SAMUEL HARLAND BOWIE ĐƯỢC LỆNH Ở LẠI USS TOWERS VỚI TƯ CÁCH HẠM TRƯỞNG SUỐT CUỘC HÀNH QUÂN NÀY, HAY ĐẾN KHI USS TOWERS ĐƯỢC CHUYỂN KHỎI KHU VỰC HÀNH QUÂN.
4. (KHÔNG MẬT) NAY, THÔNG BÁO CHO CHỈ HUY TRƯỞNG HẠM ĐỘI KHU TRỤC MỘT NĂM BIẾT VIỆC ĐẠI TÁ BOWIE BỊ ĐIỀU KHỎI USS TOWERS BỊ HOÃN LẠI. NGÀY GIỜ MỚI SẼ ĐƯỢC THÔNG BÁO SAU.
5. (KHÔNG MẬT) TRUNG TÁ KATHERINE ELIZABETH SILVA NAY ĐƯỢC LỆNH Ở LẠI USS TOWERS VỚI TƯ CÁCH HẠM TRƯỞNG DỰ BỊ TRONG THỜI GIAN HÀNH QUÂN NÀY, HAY ĐẾN KHI USS TOWERS ĐƯỢC CHUYỂN KHỎI KHU VỰC HÀNH QUÂN. ĐỀ NGHỊ TRUNG TÁ SILVA DÙNG THỜI GIAN NÀY TIẾP TỤC CHUẨN BỊ TIẾP THU QUYỀN CHỈ HUY, DƯỚI ĐIỀU KIỆN CÁC CÔNG VIỆC CHUẨN BỊ KHÔNG TRỞ NGẠI NHU CẦU NHIỆM VỤ CỦA CHIẾN HẠM.
6. (KHÔNG MẬT) CHI TIẾT KHÁC SẼ ĐƯỢC CHUYỂN QUA SEPCOR.
//301355Z NOV//
//ƯU TIÊN// ƯU TIÊN// ƯU TIÊN//
//KHÔNG MẬT//
//UUUUU//
Silva khép tấm bìa lại và đặt lên bàn. Nàng nói. “Thật ra tôi đã dự liệu chuyện này rồi.”
“Tôi cũng vậy.” Bowie nói. “Nhưng mà tôi biết chuyện này làm cô bực bội như thế nào. Tôi đã sẵn sàng chuyển giao cho cô trong năm ngày nữa thôi.”
Hắn mỉm cười yếu ớt. “OK, có lẽ không phải là sẵn sàng thật. Tôi không nghĩ bất cứ ai sẽ sẵn sàng chuyển giao quyền chỉ huy của một chiến hạm, nhưng mà tôi đã chuẩn bị rồi.”
Silva thở dài nặng nề. “Tôi biết là anh đã, Jim à, và tôi cám ơn anh. Mà tôi cũng hiểu tại sao Phòng Nhân Sự lại làm thế. Đâu thể nào thay tướng giữa cuộc chiến được chứ! Nhưng không thể nào giấu diếm được là tôi rất thất vọng.”
“Tôi hiểu mà.” Bowie nói. “Nếu tôi ở vào trường hợp của cô, tôi đã cào nát lớp sơn khỏi vách tường rồi.”
“Tôi cũng muốn làm thế lắm.” Silva đáp. “Nhưng mà cái này vẫn chưa là tường của tôi, nên tốt nhất là tôi cứ để sơn nguyên vẹn đi vậy.”
Bowie vỗ vỗ vào vách tường cạnh cửa. “Chẳng bao lâu nữa đều là của cô thôi mà. Trước khi cô kịp nhận ra nữa đó!”
Silva nhìn xuống tập hồ sơ đã đóng. “Ừ”. Nàng nói, sự thất vọng rõ ràng trong giọng. “Sớm thôi.”