Mưa đã rơi trên các lưu vực dòng chảy.
Sau cơn mưa dị thường gợi nhớ trận đại hồng thuỷ Đức Giê-hô-va giáng xuống trần gian thuở Sáng thế, là những cơn mưa nối tiếp đều đặn có cường độ lớn vào cuối mỗi ngày hè, trên khúc đê Nguyên Lộc hiểm yếu.
Vào lúc cơn mưa sắp đổ, trên đê, một cảnh tượng quen thuộc, có tính chất chu kỳ lại diễn ra. Bọn mối lính gác các tháp bay đẩy những viên đất lấp lỗ vũ hoá. Và ngay sau đó, hàng ngàn vạn cá thể mối đực, từ lòng tổ nọ lập tức chen lấn nhau, ra khỏi lỗ tổ và cất cánh. Chớp loé cháy trên những tầng mây xám, gió vật hàng tre chắn sóng, nước sông vỗ ì ọp vào thân đê; vũ khúc giao hoan của bầy mối cánh trong bối cảnh này càng thêm phần hoang dã, dữ dằn.
Ấy là cái lẽ hôn phối đầu tiên của lớp mối cánh ở cái tổ mối này, cái tổ mối thoạt đầu chỉ là hai cá thể chàng và nàng mà chúng ta đã nói tới ở đầu cuốn truyện. Giờ thì gia đình chàng và nàng đã là một gia đình khổng lồ, với triệu triệu thành viên gắn bó. Cái kẽ đất, buồng hạnh phúc lứa đôi năm ấy, giờ đã là một cái tổ lớn ở đoạn cuối của khúc đê này.
Lợi dụng lúc con người bận rộn trăm công nghìn việc trên mặt đất, tập đoàn mối trẻ này cứ âm thầm, lặng lẽ, nhưng hết sức khẩn trương, xây đắp vương quốc của mình. Vương quốc đã hoàn thành, đang tiếp tục mở rộng, ấy là một kiến trúc hình khối xốp, ba tầng chồng lên nhau nằm trong một không gian rỗng trong thân đê, có chiều cao tới một mét rưỡi, chiều rộng những ba mét và ở sâu dưới mặt đê hơn một mét, chếch về phía mái đê mạn bờ sông. Tổ chính là trung tâm của toà kiến trúc nọ, dài gần một mét, cao hơn gang tay. Từ đây có đường đi đến các tổ phụ. Và ngang dọc tính ra có đến hai mươi con đường với hai mươi cửa vào ra, cửa nào cũng có lính canh nghiêm ngặt, ăn thông ra mái đê bờ sông.
Trong tổ chính có vườn ngự uyển- vườn gây nấm. ở đó có hoàng cung hình con trai bổ đôi, rộng rãi, nền phẳng phiu- nơi ăn ở, ái ân, sinh đẻ của riêng mối chúa độc tôn, duy nhất ở vương quốc này.
Như ta đã biết, nàng mối chúa xuất giá trong cái vũ hội giông bão đầu mùa hạ năm ngoái. Nhưng, mới chỉ một năm qua thôi mà bây giờ giá có gặp lại thì chúng ta chẳng ai còn có thể nhận ra được nàng nữa. Hồi ấy nàng xinh xắn, nhỏ nhắn, trắng ngần. Sự biến đổi đã bắt từ lúc nàng từ bỏ cặp cánh yêu đương, vì tình yêu và nòi giống, chìm đắm vào đời sống tối tăm trong lòng đất. Nàng béo dần, phần bụng phình to lên từng ngày một, tới mức khó có thể tin. Thực là một sự phát phì, phá hoại tính cân đối kinh khủng nhất thế gian! Xưa, toàn thân nàng chỉ là một cái đầu tăm. Giờ đầu nàng, cổ nàng vẫn nguyên kích tấc ấy, nhưng cái bụng nàng, ôi cái bụng mắn đẻ, cái bụng vĩ đại, cái bụng của kỷ lục sinh sôi, thì đã bằng cả một cái củ cải non. Bụng nàng to kềnh quá mức đến nỗi đầu nàng bị kênh lên chơi vơi, không tài nào chạm được tới đất. Đã có lần nàng phàn nàn với chồng rằng mình chẳng bao giờ còn có được tấm thân thon thả, kiều diễm nữa rồi thì chồng nàng cười và an ủi nàng: “Ai mà trẻ mãi được. Vả lại, mất cái này em được cái khác. Giả dụ, bây giờ em trở lại thân hình xưa kia, nhưng không được làm chúa mối nữa, em có nghe không?”.
Nàng đâu có nghe. Nàng ưa quyền hành. Nàng là nữ chúa hùng mạnh. Nàng to gấp trăm lần con cái. Bụng nàng, trên mỗi đốt có ngấn vân hoa quyền quý. Thật tình, nàng được tôn là chúa tể bầy đàn cũng là nhờ ở cái bụng vĩ đại này. Hàng triệu mối lính, mối thợ... ở đây đều là con cái nàng. Ôi chao! Nàng chỉ là một cái bụng, nàng chỉ là một bọc trứng bùng nhùng. Nàng là cái máy đẻ. Nàng đẻ liên miên, không ngưng nghỉ. Quanh năm suốt tháng, nàng chỉ có mỗi một việc là... đẻ! Chỉ một việc ấy thôi. Bởi vì ngay cả đến cái việc... ăn, nàng cũng chẳng phải lo. Nàng đang độ sung sức, đẻ khoẻ. Sức đẻ của nàng có lẽ là mạnh nhất so với mấy chục bạn nàng đang trị vì các vương quốc khác cũng ở trên khúc đê này.
Mỗi ngày nàng đẻ hàng chục vạn trứng!
Kinh khủng chưa! Nàng đã trực tiếp tạo ra cả một xã hội đông đúc và đáo để. Và quả thật, chưa ai có được sự sinh nở dễ dàng như nàng. Nàng không hề biết mặt con. Nàng đẩy nó ra khỏi bụng, như quẳng nó vào đời, không chăm sóc, dạy bảo mà đứa nào cũng khoẻ mạnh, ngoan ngoãn, chăm chỉ, chịu khó như bản tính nàng.
Thật là những đứa con đáng yêu vô cùng! Ra đời là chúng bắt đầu ngay một thời niên thiếu lao động cực nhọc và hữu ích cho bầy đàn. Làm! Làm! Làm! Làm việc quên mình. Đó là biểu hiện chức năng, phận sự được thực thi một cách nhẫn nại, bền bỉ vô song của chúng. Nàng đã có chủ ý giao phó trách nhiệm này cho chúng ngay từ khi tạo ra hình hài cho chúng: đầu chúng nhỏ và răng chúng sắc như những lưỡi cưa, lưỡi dìu. Kiếm ăn, xây tổ, đào đường hầm, ấp trứng, chăm sóc mối non, mớm thức ăn cho mối lính, cho chồng nàng, cho chính nàng, đấy là công việc của chúng. Suốt đời, một đời chúng chỉ có mỗi một việc là vun đắp cho tập thể. Chao ôi! Ngày cũng như đêm, dòng dòng hàng vạn hàng ức, hàng triệu đứa con yêu dấu của nàng chuyển động tấp nập trong công việc, cho đến giây phút hấp hối, vòng đời chúng ngắn thôi, mỗi con vẫn còn gắng nhét viên đất cuối cùng của đời mình vào tổ để gây dựng cơ ngơi cho đại gia đình.
Nàng càng quý mến những con mối thợ bao nhiêu thì nàng lại càng thương yêu những đứa con mối lính của nàng bấy nhiêu. Đó là những chiến sĩ dũng cảm tuyệt vời của nàng. Vỏ ki-tin bọc đầu, rắn như sắt, đỏ như máu, hai cái răng khoẻ như kìm thép sẵn sàng cặp đứt đôi kẻ thù, trán có lỗ phun nọc độc, chúng thật là những dũng sĩ lợi hại của nàng. Chúng không lo công việc mưu sinh. Hàm răng chúng là vũ khí tiến công. Chúng dẫn mối thợ đến các vị trí cần đắp đường mui: gặp đá cứng cần mở đường, chúng tiết nọc làm mềm đá để bọn mối thợ tiếp tục đục khoét. Chúng bảo vệ mối thợ. Chúng canh gác cửa ra vào, chúng là những thanh bảo kiếm chặn giặc ngoại bang.
Giờ thì vương quốc của nàng đã vào cơ ngũ, đã thênh thang lắm rồi! Hai trăm triệu đứa con, theo thống kê gần đây nhất là một lực lượng đông đảo hùng mạnh sẵn sàng thích nghi với mọi biến cố hiểm nghèo, bất lợi. Thật là tài tình! Chẳng hạn, để chống lại cái giá rét mùa lạnh, các ổ nấm lập tức sẽ lên men, toả nhiệt. Chẳng hạn, gặp khi khô hạn thì lũ mối thợ khôn
ngoan sẽ đào sâu xuống lòng đất cho tới tận mạch nước ngầm để lấy đất tẩm nước lên, cung cấp đủ nước cho cả đại gia đình chi dùng.
Vương quốc của nàng khang trang, thịnh vượng!
Vương quốc của nàng vĩnh cửu vững bền!
Tuy vậy, nói cho công bằng, năm qua cũng đã xảy ra ít nhất là một biến cố hãi hùng. Không phải là nước sông theo đường thông dẫn chảy vào tổ, không phải là có cuộc nổi loạn ấu trùng giết mối chúa như đã xảy ra ở các vương quốc khác. Cũng chẳng phải có một con sâu độc hại nào đó đã lần mò vào định sát hại nàng, rồi đóng vai bạo chúa hoành hành phá phách. Cũng chẳng phải các vương quốc lân bang cho lính sang xâm lược cương thổ của nàng. Vì một loạt mấy chục vương quốc xây dựng hang ổ ở khúc đê Nguyên Lộc này xưa nay vốn có truyền thống tôn trọng tình hữu nghị láng giềng với nàng.
Tai hoạ không ở những dạng ấy. Tai hoạ này là tai hoạ chưa từng thấy, nếu như không ngăn chặn kịp. ấy là một buổi trưa, lũ lính trinh sát từ cửa tổ hốt hoảng phi cấp tốc về hoàng cung, báo cho bọn lính ngự lâm biết: có một bọn mối thợ đi kiếm ăn ở ngoài đê về mang theo mùi gì rất lạ, như là mùi thuốc độc. Cả vương quốc xôn xao, sợ hãi. Lập tức lệnh được ban. Đường vào bị lấp kín ngay. Bọn mối thợ mang theo mùi lạ ngay tức khắc bị chặn lại ở cửa và bị khai trừ khỏi cộng đồng, trở thành ngay những tên dị giáo đáng nguyền rủa.
Tai hoạ đã không xẩy ra. Nhưng nỗi lo sợ còn gây chấn động rất lâu trong lòng tổ. Cả vương quốc không hề biết rằng lúc ấy kỹ sư Trọng đào hố thả mồi- mồi tẩm thuốc 666- nhử mối ra ăn để nghiên cứu quy luật đi lại, vận động và phát hiện hang ổ của chúng; và các con mối mang theo mùi lạ ấy chính là từ cái hố nhử mồi của Trọng trở về. Tuy vậy, bằng bản năng tự vệ cố hữu, chúng cũng mang máng nhận ra; sự yên ổn của chúng từ nay đã trở nên bấp bênh vì một kẻ thù mới của chúng đã xuất hiện ở quãng đê này: kẻ thù ấy là con người!
Nàng và đại gia đình của nàng không ngờ rằng mình đang tàn phá một công trình có lợi ích sống còn với con người. Nàng và con cái nàng đâu có biết, mình đã trở thành kẻ thù tệ hại nhất của con người và nàng là ả thủ phạm đầu sỏ đáng phải xử tử hình trước hết! Chà
*
Vương quốc đã không còn dám tin tưởng hoàn toàn vào sự vững bền ổn định muôn đời.
Trưa nay đã xẩy ra một cuộc báo động, hết sức khẩn cấp.
Trưa nay, một buổi trưa mùa hạ yên tĩnh, như thông lệ, nàng vừa đẻ vừa nằm nghe tiếng sóng nước vỗ mập mờ ngoài chân đê. Trưa nay, một lớp mối già lột xác, ôi, hàng ngàn sự sống tái sinh vừa ra khỏi lớp vỏ già, mình trần trụi, nhỏ ti, nhăn nheo, còn đang oằn oại trong cơn co bóp để căng nở từng đốt bụng cho tới đúng kích tấc, bụ bẫm, trắng ngần. Trưa nay, lũ mối thợ đang nhào gỗ mục, phân và nước bọt, như hoạch định, trồng nấm ở vườn nấm. Trưa nay, dòng mối thợ vẫn cần cù chuyển món ăn hợp khẩu vị, những vụn rơm, vụn bã mía, vụn gỗ mục, từ một nơi nào đó về tổ. Và lũ lính canh còn đang quan sát các cửa tháp bay sửa soạn cho đợt mối cánh thành niên cuối cùng vào cuộc bay giao hoan khi chiều xế và cơn giông về.
Đúng cái lúc ấy, hai mươi gã mối lính canh gác hai mươi cửa ra vào cùng quay đầu phóng về phía hoàng cung. Tới trước cửa toà cung điện của nàng, chúng dừng cả lại và nhất loạt đập đầu xuống đất.
Nguy hiểm rồi!
Cung điện, kinh thành, vương quốc đột ngột vào cơn náo động!
Hoả hoạn? Thuỷ tai? Không phải!
Động đất? Núi lửa phun? Không hẳn!
Nàng mối chúa vội bật cái đầu nhỏ tí tẹo lên. Có tiếng gì rùng rùng trong lòng đất. Hoàng cung rung rinh. Nàng kinh sợ quá. Gần một trăm lính ngự lâm đầu đội mũ sắt đỏ, thấy vậy liền lao ra khỏi hoàng cung, đứng theo đội hình chiến đấu ở trước cửa thành quách kiên cố sẵn sàng tử thủ. Nàng đang kinh sợ thì lại càng hoảng hốt vì chồng nàng lúc ấy hớt hải chạy tới. Vị vua này mặt cắt không còn hạt máu. Lập cập mãi chàng mới nói được một câu:
- Có động rồi, xin nữ chúa kíp thời đi trốn ngay!
Ôi chao! Nàng rụng rời cả chân tay. Bụng nàng phục phịch thai nghén liên tục thế này, nàng chạy trốn làm sao? Thôi thì mặc. Nàng chỉ biết nằm đó, nằm như chết rồi, để mặc bọn lính ngự lâm xúm lại, khênh nàng đi thôi.
Thật là một cuộc di chuyển nặng nề, khó khăn. Bởi vì chính bọn lính ngự lâm xe giá cho nàng cũng phát hoảng, người chúng cũng run cầm cập. Và đất ở xung quanh tổ cứ rung ì ì, tưởng như có một con quái vật khổng lồ nào đó đang lừ lừ xục đất đi tới đây, sắp sửa nghiến nát tất cả.
Nhưng, may thay... mọi sự hỗn loạn đã giảm bớt dần. Từ mấy chục cửa ra vào, bọn lính trinh sát đã cấp tốc chạy về, hớn hở báo yên. Tiếng động chưa biết là của con quái vật nào, nhưng chắc chắn là còn ở rất xa. Các vương quốc lân bang đều nói như thế và họ rất bình tĩnh. Ta cứ yên trí. Chắc là không xảy ra điều gì đáng ngại đâu. Bọn lính trinh sát nói vậy.
Trật tự được vãn hồi. Nàng, được khiêng trở lại hoàng cung. Ôi trời, đã tưởng một phen sơn hà nguy biến, vương quốc, kinh thành lao đao, chúa vua quân sĩ trăm đường khốn đốn!
Nàng nằm thở mệt nhọc. Rồi lát sau lại vào cuộc sinh hoá trường kỳ liên miên. Mọi việc lại vào nền nếp. Riêng chồng nàng vẫn còn ở lại bên nàng. Sau cuộc biến động, chàng vẫn chưa hoàn hồn. Lấy lại giọng cứng cỏi, chàng bảo bọn lính ngự lâm:
- Thôi, thế cũng là một lần tập rượt. Không thể khinh nhờn mọi sự được đâu. Năm ngoái cạnh kinh đô của thái hậu ta, một cái ô tô đè sập cả một vương quốc mối lớn. Mùa nước lại tới rồi. Năm kia, bao nhiêu giun, dế, chuột cạnh kinh đô thái hậu ta đều chết ráo đấy. Sẵn sàng đi, các con!
Nghe những lời ấy, nàng mối chúa lại áy náy không yên.
Một nỗi lo lắng đã bắt đầu ngự trị trong vương quốc.
Tuy nhiên, cả chàng và nàng, cả bọn mối lính trinh sát lúc ấy đều không thể biết rằng, ngày tận số của chúng đã đến gần. Trọng và hai anh thợ vận hành máy đã bắt đầu công việc phụt vữa diệt các tổ mối.
Nước năm nay lên sớm. Cái xấu ngày càng quái ác hơn. Cơn ghen của Thuỷ Tinh nổi lên sớm hơn thường lệ và cuộc đánh ghen của hắn với Sơn Tinh đang vào hồi gay gắt.
Người thủ kho ghếch miệng can dầu vào bình dầu trên chiếc máy Bông Sen đỏ chót, tặc tặc lưỡi:
- Tặc tặc... hoá ra máy cũng cần ăn dầu, hả?
- Vớ vẩn! Anh có cần ăn không?- Anh thợ béo mập có ria mép cau mặt khó chịu.
Người thủ kho trút hết can dầu, xoa tay, tỉnh không:
- Hai mươi cân đấy, ông nhé. Ông nhớ, tí nữa ông ký biên lại cho.
- Đây không lèm nhèm đâu.
- Ơ, ông này hay nhỉ.
- To lắm đấy.
- Ơ ơ...
Trọng và anh thợ trẻ gầy gò ngồi ở phía đuôi cái máy. Vừa xong một đợt phun, máy nghỉ một lát cho nguội động cơ.
- Áp lực đảm bảo, anh Trọng ạ- Hào hứng, anh thợ trẻ nói- Tất cả các yêu cầu của anh đề ra nói chung đều đạt. Di chuyển được trên đê. Sản xuất được tại chỗ. Khoan sâu được tới nền. Riêng vấn đề... khả năng ép vữa vào tận hang mối, bít được tất cả các khe ngách thì còn phải xem xét...
- Theo tôi vấn đề quyết định bây giờ là vữa.
- Theo ý kiến anh, chúng tôi đã dùng vữa vôi.
- Đúng thế. Nước vôi mười phần trăm ngấm vào đất, vào các khe ngách tổ mối sẽ diệt hết mối, lại mở đường cho vữa vào tiếp. Nhưng, tỉ lệ vữa thế nào thì vừa? Đặc quá, tôi sợ vữa không vào nổi các ngách phụ. Lỏng quá, thì nước thấm đi hết, không trám được các khe hở.
Đứng dậy, xoa tay, anh thợ trẻ hoạt bát:
- Ta cứ thử lại xem nhé. Anh Ngô, ta cho máy nổ đi.
- Có ngay!- Người thợ tên Ngô lau tay, chuẩn bị quay bánh đà.
Người thủ kho ghé nhìn:
- Các cậu giỏi đấy nhỉ! Hừ, đáng khen lắm!
- Thôi đi, ông. Lùi ra! Cứ như ông tướng!
Chiếc máy được đẩn lên mấy bước chân. Điểm khoan phun đã được Trọng đánh dấu bằng những cái cọc nhỏ. Hàng cách hàng, so le nhau, mỗi lỗ cách nhau một mét. Toạ độ ấy đảm bảo cho vữa phun vào tất cả các đường ngầm trong hang mối.
Ú ú ú ù... phạch phạch... Chiếc máy bật rống, nổ đanh giòn. Mũi khoan cắm đúng dấu mốc. Trọng bước lại cạnh máy. Hồi hộp quá! Đây là dấu chấm cuối cùng của một công trình, phản ánh kết quả thực tiễn của một loại công việc dây chuyền: phát hiện dấu vết sinh vật, xác định vị trí tổ mối, nghiên cứu kết cấu tổ mối, chế tạo công cụ thích hợp... Biết bao là say mê, bồi hồi, đau đớn trong những ngày ấy! Chưa kể cái công việc sáng tạo, cải biến chiếc máy Bông Sen của người bạn anh đội trưởng và hai anh thợ nhiệt tình kia. Họ cũng đã nhận được sự phân công của Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật tỉnh, rồi mầy mò trong thiếu thốn vất vả. Tất cả những gì làm được trong thời kỳ này đều như vậy, gian nan, khó nhọc. Nhưng, cái gì có thể cản ngăn được khuynh hướng phát triển của sự vật?
- Đành đành đành...
Máy tăng tốc độ. A, nước vôi đang phá đất! Vữa đang đùn vào. Nước vôi đang loang đẫm tổ chính, tổ phụ, hoàng cung, vườn nấm, đang ngấm ra các vùng đất, diệt môi trường xe-luy-lô, môi trường sống của mối. Nước vôi đang truy lùng mối chúa. Vấn đề là phải trám kín được các khoang rỗng để con đê đau yếu, tật nguyền, trở thành khoẻ mạnh cứng cáp.
Trọng nghĩ, trong tiếng máy nổ, lòng dâng lên nỗi sung sướng nghẹn ngào. Tuy nhiên, chính là lúc này, chen trong niềm vui lớn lao, trong anh lại dậy lên một nỗi ân hận và buồn bực. “ Mình đã về đây chậm mất rồi”. Hừ, giá như không có Hưng! Nói thế thì có vẻ là vô lý, vô lý như đòi hỏi trong lòng đê không có tổ mối. Nhưng giá như đời không có, hoặc rất ít những cái xấu xa, độc hại. Và, giá như anh có được một tầm nhận thức cao hơn, ngay từ những ngày đầu quan hệ với Hưng.
Tay xách can dầu, người thủ kho từ phía sau, bước nhanh lên cạnh cái máy, hoan hỉ:
- Các cậu khá thật, giỏi thật đấy. Mình thành thật khen các cậu đã chế tạo ra cái máy này. Thế mới biết thợ Việt Nam mình cừ!
Quay lại nhìn Trọng, người thủ kho cười, gật gù:
- Anh Trọng này, các cụ nhà ta nói thế này, anh bảo có chí lý không. Mệnh người ta là một chuyện, chí của con người ta lại là một chuyện khác. Cái chí của con người ta mạnh lắm. Nó chuyển cả cái mệnh kia. Nhưng, có người trí để ở chốn rừng xanh thâm nghiệm. Lại có anh chí để ở vũng bùn hôi tanh, ú ớ Việt gian hết sức...
- Vớ vẩn quá! Anh nói ai đấy?
Người thợ béo mập lườm anh thủ kho.
Trọng cắn môi, mặt đỏ bậm. Anh thủ kho, con người từ cõi mê trở về với đời, hay dựa vào văn sách để khảo sát đời sống, hình như đã phần nào thấu hiểu anh. ờ, anh có chí. Chí anh đặt ở đây. Chí anh mạnh lắm. Nhưng, nếu anh chỉ có cái chí ấy thôi thì anh sẽ làm được trò trống gì?
- Này anh- Người thủ kho, lướt sát đến cạnh anh thợ béo mập- Tôi nói đây là nói về cuộc đời con người.
- Cứ như bố con chó con!
- Đâu có! Tôi chỉ là anh thủ kho tầm thường thôi.
Người thợ trẻ ngẩng lên, nhay nháy mắt:
- Thủ kho to hơn thủ trưởng đấy, ông ạ.
- Làm gì có chuyện vậy.
- Quá đi chứ.
- Nếu vậy thì tôi phải thêm một mực vào tờ khải. Phải rồi. Trên ra trên, dưới ra dưới, phận sự nào ra phận sự ấy chứ. Như tôi, tôi có nhiệm vụ phát dầu mỡ cho các anh, quản lý bảo vệ tất cả tài sản của đội.
Người thợ béo mập, quay lại:
- Thôi, ông đi đi cho chúng tôi làm việc. Khải khung gì thì lên Trung ương mà trình. Này, Thọ làm cái gì mà như xẩm sờ gậy thế.
Người thủ kho lắc lắc mái tóc râm, xách cái can đi.
Anh thợ trẻ đứng dậy:
- Mệt bã người.
- Về với bà xã lại gặp mấy đêm mưa mát mẻ, cối giã liên tục thì lử cò bợ là phải rồi!
- Được thế đã quý. Đằng này, vừa đến ngõ, bà ấy đã reo: ối giời ơi, may quá, nhà đang gặt lúa sớm ruộng khoán, anh đi đắp đê hộ mấy ngày.
- Hé hé...trúng một quả thơm lừ.
- Còn ông thế nào?
- Đi gặt! Được năm hôm thì người nhà ông Ngoạn sang, nhờ lên đây bảo hộ ông ấy về ngay, vợ đẻ.
- Vỡ kế hoạch, hả?
- Đâu có. Bà ấy giờ mới đẻ... con so. Thế là tớ xách túi quần áo lên đây. Bố Ngoạn đang thúc quân xây kè, vận chuyển tre, gỗ, đá, thấy tớ liền kêu: “ Thằng Trọng nó chưa về đâu! Lên làm gì sớm thế!” Tớ thét: “ Vỡ đê rồi!”. Ông ta túm lấy tớ gào: “ ở đâu? ở đâu”. Tớ cười: “ ở nhà ông ấy”. Thế là ông ấy du cho tớ một cái ngã chổng kềnh.
Anh thợ trẻ cười ngặt nghẽo:
- Thế hoá ra ông cùng làng với ông Ngoạn à. Ông ta là người thế nào?
- Thế nào là thế nào?
- À, đại khái là về mặt tính tình, tư cách.
- Tẩm ngẩm, tầm ngầm. Đứng đắn. Hiền ra hiền. Cần đáo để thì cũng có ngay. Ông ấy thậm ghét cái thói điêu ngoa, giáo dở. Ông ấy từ xã đi làm thợ, vào bộ đội, rồi phục viên về làng, làm bí thư. Dạo ấy mình còn bé. Ông ấy đã nổi tiếng chính trực. Sau chẳng hiểu thế nào ông ấy lại đi làm thợ lặn. Có lẽ là do cái chí của ông ấy để ở... dưới nước...
- Hí hí...
Anh thợ trẻ cười. Trọng đang lúi húi cạnh đống vữa. Phía điếm canh, người thủ kho đang đi lại, nghêu ngao câu hát quen thuộc: “Hết ngày dài lại
đêm thâu...”. Những người đang vác tre đi qua đê đứng cả lại, nhìn anh ta hát, cười cười:
- Thằng cha như dở người ấy nhỉ.
Anh thợ béo mập mạp, lắc đầu:
- Chẳng dở đâu. Cứ xem tờ khải của lão thì biết. Lão ấy thâm thuý ra phết đấy. Làm ăn mà không có luật thì coi như vừa làm vừa phá!
- Luật lệ có mà không nghiêm trị thì cũng coi như vứt!
- Đã đành.
Pạch pạch... Máy nổ đều đều, tiếng vang trên mặt nước sông đã ngập ngấp nghé bãi ngô chân đê. Bãi Soi ngập lỉm hai mũi cát.
- Ông Trọng ơi, sao vừa rồi ông đi đâu mà lâu thế? Cưới vợ hả?
Anh thợ béo mập nhìn Trọng, nhay nháy mắt.
Mặt Trọng đỏ hăm hăm.
- Anh Trọng ơi!
Trọng quay lại. Người thủ kho đã đến sau anh, ngoái cổ nhìn về phía điếm canh:
- Có điện ở tỉnh gọi anh đấy.
“ Lại điện. Ai thế?” Trọng, đứng dậy, ngực căng nhức, nghèn nghẹt. “Lại Hưng ư? Sao hắn cứ ám mình mãi thế! Đồ tồi, cả hắn, cả mình cũng vậy!”
*
Dùng dằng một lúc. Trọng mới rời nơi máy phun vữa đang làm việc, đi về điếm canh.
Cạnh điếm, trong bóng râm đổ xoài của con đê, ông cụ Ruân đang ngồi với một đám choai choai con trai, con gái. Ông cụ dạy họ cách xử lý giản đơn kịp thời khi phát hiện có vòi phun ở thân đê, hay cụ đang lan man trong hồi ức trận vỡ đê khủng khiếp năm nào và bộc lộ nỗi căm uất với cái lão thủ cống Long bây bửa mà lại thoát được vòng trừng phạt?
Trước điếm xúm xít một đám đông người và ai đã cắm một cái vồ dựng ngược- dấu hiệu báo động cấp I. Cái dấu hiệu thông báo thời điểm sắp vào trận đánh lớn làm Trọng đứng sững lại và nỗi uất tức vừa nãy lại dội lên trong anh. Khốn nạn, cuộc sống thì đòi hỏi những hành vi và tư tưởng lớn lao mà con người thì lắm kẻ nhỏ mọn hèn kém quá!
Trọng bước vào cửa điếm canh. Nhưng, anh chưng hửng. Đội trưởng Ngoạn đã cầm ống nghe và tiếng ông như thét như gào.
- A lô! Anh Hưng đấy phải không? Sao anh dai như đỉa thế. Tôi đây. Này, tôi nói cho anh biết nhé: Tôi... tôi là Ngoạn, thợ lặn, cái hồi anh chỉ huy ở khúc đê Lợi Toàn, ngày 28 phát hiện có vòi phun, anh còn chần chừ... Bọn tôi định xuống thì anh bảo không có tiền tàu xe... Này, rồi ta sẽ còn nói chuyện với nhau đấy. Còn bây giờ, kỹ sư Trọng có ở đây. Tôi bảo vệ anh ta, vì lợi ích chung, tôi không cho anh ta về đâu. Các anh kỷ luật anh ta thì tôi sẽ khiếu nại. Tôi sẽ ra toà... ờ ờ... đừng có doạ nhau vội vàng thế! Tôi là người cầm đằng chuôi vì tôi là người nắm lẽ phải. Tôi không biết sợ đâu. Anh nhớ cho, anh Hưng!
Đột nhiên dừng lời, quay ra cửa, đội trưởng gắt: “ Yên lặng một tí, các ông ơi” rồi ngồi thụp xuống, kéo căng cái dây ruột gà nối với máy điện thoại. Và giọng anh chợt như chuyển sang kinh ngạc lẫn mừng rỡ.
- A... không phải Hưng, hả? Anh tên gì thế? Trưởng phòng mới! Tấn hay là Tuấn! Trước anh ở Uỷ ban Khoa học kỹ thuật tỉnh. Ờ, anh về đây rồi à? à, cái máy gì ấy nhỉ? Anh nhắn Trọng là anh sẽ về đây à... Vâng vâng... Tốt quá!
Trọng thở phào, quay ra cửa. Cái gì kỳ lạ đã xẩy ra mà anh chưa nhận thức được thế? Người thủ kho lén đi qua mặt anh, bước vào lòng điếm canh.
Trong điếm có tiếng quay số máy và tiếp đó lại tiếng gào của đội trưởng Ngoạn.
- Tôi... tôi là Ngoạn đội trưởng đội bảo vệ đê Nguyên Lộc đây. Phòng vật tư nguyên liệu đâu? Tại sao hợp đồng đã ký là 3000 tấn đá mà tới giờ các anh mới chỉ chuyển cho chúng tôi có 20 tấn? Tại sao? Tại sao? Trả lời ngay đi!
Người thủ kho đứng sau đội trưởng lắp bắp:
- Mới chỉ có ba chuyến ô tô thôi, anh ạ. Anh nói là tôi đã gặp ông Long trưởng phòng vật tư huyện năm lần.
- A lô! Cho tôi gặp ông Long, vâng, ông Long thủ cống tội còn rề rề chưa ra toà đã tót lên huyện làm ở phòng vật tư ấy. Sao? Vấn đề giá cả! Anh là ai đấy? À! Chào đồng chí chủ tịch huyện- Mặt đội trưởng cau cau- Anh đang họp ở đấy, hả? Anh Thắng, anh phải giải quyết ngay vấn đề đá cho chúng tôi đi. Làm ăn ú ớ Việt gian thế à? Sao, không nên đốp chát thế hả? Lếu láo thì phải vạch mặt chỉ tên nó ra chứ. Vâng, đấu tranh có tổ chức. Chúng tôi đã có kiến nghị không đồng ý để cho ông ta lên huyện công tác mà anh có nghe đâu. Nước lên to rồi hối không kịp đâu. Kẻ nào chịu trách nhiệm việc này, hả? Anh à? Hay là tôi?
Bực bội, đội trưởng gần như ném cái ống nói xuống bàn. Nhưng người thủ kho đã nhao tới, vồ lấy và áp chặt ống nói vào tai, giọng run lên vì cảm động:
- A lô đồng chí chủ tịch huyện! Tôi... tôi, thủ kho đội bảo vệ đê Nguyên Lộc đây. Vâng, tôi đang ở trong cuộc chiến đấu chống lũ thuỷ quái đấy. Chống cả bọn ma quỷ hiện làm người nữa, lũ ăn cắp ấy mà. Đồng chí ơi, đồng chí đã có ý kiến gì về tờ khải của tôi chưa? Một trăm năm mươi điều quy định bổn phận, quy cách, trang phục, công sở... Có lẽ phải thêm một vài điều nữa. à, đồng chí bận à... Thôi được, thế thì tôi sẽ đề đạt lên trên tỉnh. Phải có luật lệ thật tỷ mỷ, đồng chí ạ. Chứ cứ ú ớ... như là ông thủ cống... ờ, phải ra toà. A lô! A lô! Đồng chí chủ tịch đâu? A lô! Tổng đài đâu? Sao tự dưng lại cắt đường dây của tôi thế này. Làm ăn tuỳ tiện thế hả? Tôi sẽ đưa việc này vào tờ khải, hiểu chưa?
Ra khỏi điếm canh, Trọng đi như chạy về phía máy phun vữa đang làm việc. Trong anh, có một bầu năng lượng mới đang dâng lên dạt dào.
Chầm chậm chiều buông. Người trên đê đã về nghỉ. Máy dừng ít phút để hai người thợ ăn cơm. Trọng xuống sông rửa tay, quay lên đê, bỗng nhận ra khung cảnh anh đang sống tự dưng yên tĩnh lạ lùng. Dưới vòm trời trải rộng những tình cảm êm ả và an toàn, con đê uốn khúc như một nét vẽ phóng khoáng, mềm mại. Phía tây, từ vệt mây màu cá vàng còn xót lại lúc cuối ngày, chút ánh sáng hung đỏ đang hắt xuống mặt sông lấp lánh một sắc nhị âm vang. Hoàng hôn không gây cảm giác lụi tàn, lại giống như khoảng khắc kết tinh tất cả tinh tuý, linh hồn một ngày dài sôi động. Vòng theo chân đê nước đã lấn tới, ba con thuyền đinh, cao vút các cột buồm, đang lừng lững ngược dòng. Những người kéo thuyền mình trần cháy trụi, khoác vòng dây thừng trên vai đang cúi gập gối, ngả mình về phía trước, nỗ lực và thầm lặng; bóng họ nhuộm đỏ, nổi hình nổi khối trên mặt đê như trong một bức sơn mài. Sự sống mạnh mẽ vang động âm thầm cả trong tiếng sóng đập vào bờ đê, vỡ vụn ra, rời rạc tan vào không gian đang rơi dần vào tĩnh lặng. Trên cao, vòm trời bất động đang rót xuống nỗi bâng khuâng ngọt ngào, cùng những niềm vui mơ hồ, lòng người bỗng như chơi vơi trong hiện tại với những kỷ niệm không bóng hình trong ký ức và những ảnh hình ngày mới đang thấp thoáng hiện hình trong dự cảm.
Đứng lại dưới chân đê trong bóng chiều chạng vạng, nghe thấy một hơi gió lướt trên đầu, ngẩng lên, thấy một cánh cò đang lạng đi trong gió, Trọng bỗng trào nước mắt. Sẽ chẳng bao giờ anh gặp lại tâm hồn mình chiều nay, lúc những tư tưởng bao la hoà hợp với những tình cảm thân mật, êm đềm, nỗi luyến nhớ và niềm hy vọng, trong giây phút hướng về bên trong, tìm thấy ở mình sự kết hợp kỳ diệu hiện thực với lý tưởng.
Trọng khóc. Anh đang đặt chân tới cái điểm tận cùng của mong muốn và bất ngờ. Xưa, anh nghĩ cá tính của anh bảo đảm cho anh, nay anh hiểu cuộc sống cho anh sự tin cậy, vững vàng. Dẫu có thế nào và chính vì tính đa tạp của nó mà cuộc đời sẽ là vĩnh viễn đẹp. Anh là một khía cạnh của cái đẹp, anh nhận được sự thông đạt của cuộc sống, hơn nữa anh còn là phiên bản của cuộc sống, chính cuộc sống dữ dội và những con người đã trải qua cuộc sống ấy đã đem lại cho anh niềm vui sống khoẻ khoắn, mạnh mẽ. Từ nay niềm tin, khuynh hướng, tình yêu của anh cũng như sức làm việc của anh sẽ bền vững, sâu sắc hơn, vì nó thực sự có máu thịt của cuộc đời. Và cuộc chiến đấu để bảo vệ con đê trong mùa mưa lũ của anh không chỉ đơn thuần là một thao tác nghề nghiệp, nó đã trở thành một biểu tượng của những tư tưởng gần gụi và lớn lao của chính anh.
Ngồi xuống chân đê, Trọng nức lên trong âm thầm vì chợt nhớ tới cha. “ Ba ơi! Điều con viết cho ba: phải gắn mình với một cơ cấu chuyển động, giờ đây con mới thật thấu hiểu. Con đã hiểu ra cái nguyên uỷ tạo nên sức mạnh của con. Ba ơi, chúng ta có quyền sống đẹp và chúng ta có những điều kiện để đảm bảo cho sự phát triển nhân cách của chúng ta. Bấy lâu nay con chưa thấu hiểu điều đó cũng còn là bởi con chưa có được sự hài hoà giữa điều con hiểu và điều con thực hành. Bây giờ, con cảm thấy sự hoàn thiện mình đang bắt đầu và con mong ba thứ lỗi cho con, con hết lòng mong muốn ba, từ cái nền tốt đẹp đã có, dấn lên một bước cao hơn, ở đúng cái tầm của một con người giữa cuộc đời mới đang hình thành trong muôn vàn gian khó này!”
*
Hai anh thợ đã ăn cơm xong. Trọng cúi xuống cỗ máy:
- Để tôi phát động thử. Rồi tôi sẽ đảm nhiệm phần việc vữa cho các anh. Ta làm thông đêm nhé.
- Chỉ sợ sức ông trí thức còm thôi!
Hai anh thợ máy cười.
Pành pành... Máy nổ vang động. Tiếng nó dội lên cao. Vòm trời mờ mờ chấm lửa. Trời đêm cao bổng, thanh tao và trang nhã lạ lùng.
Quả là chưa bao giờ Trọng thấy một đêm đẹp trời như thế. Những xóm làng ở bên trong đê thiêm thiếp sau hàng tre nhoè nét. Vẳng lại tiếng đất lở nơi bờ sông. Nghe trong mơ hồ một tiếng ru nho nhỏ đâu đó. Yên tĩnh như một mãnh lực huyền bí nhuần thấm và toả ra từ mỗi sự vật quanh anh.
Chỉ có tiếng máy nổ trong đêm. Cái ý tưởng mình là những kẻ duy nhất có mặt trên cõi đời thanh lặng này kích thích ba anh con trai và chiếc máy. Quá nửa đêm họ đã phụt vữa diệt được chín cái tổ mối trên khúc đê dài năm trăm mét.
Nhưng, trời chỉ chiều họ đến thế thôi. Sao tắt đột ngột. Ba người bỗng thấy xung quanh mình đen ngòm. Họ sờ soạng như đột ngột bị rơi xuống một cái vực thẳm. Và lát sau, một cơn mưa lớn đã đổ rào rào xuống đầu họ.
Hai anh thợ vội lái máy về lán kho. Ngã lên ngã xuống mấy lần, người ướt đẫm, lạnh run, Trọng mới tới cái điếm canh; bước vào, anh thấy khoan khoái vì nhận ra trong điếm có đống lửa cháy toả ra hơi lửa ấm toả nồng nàn.
- Anh Trọng! Cởi áo vắt hết nước đi, nhanh không bị cảm lạnh.
Đón anh là một tiếng nói phụ nữ hậu tình, vồn vã.
- Cô Thuận.
Trọng kêu khe khẽ, bỡ ngỡ nhìn cô chủ tịch vừa đứng dậy. Với mái tóc ướt thả dài, rẽ ngôi giữa, trông cô khang khác những lần gặp trước. Cô thanh nhã hơn và tươi trẻ hơn.
- Đêm nay em trực đêm, lúc chiều đài báo tối có mưa to. Em và cụ Ruân vừa đi xem lại các đoạn xung yếu xong, cụ Ruân rẽ vào làng.
Trọng nghiêng mặt. áo cô chủ tịch ẩm hơi mưa. Cái khuy trên cùng buột mở. Khuôn ngực cô gọn ghẽ, nổi lên những đường nét thanh nữ rộn rực hương thầm. Anh cởi áo vắt nước, mặc vào, sực nhớ, lôi ở túi quần sau một xấp giấy gấp tư dầy cộm.
- Tài liệu của anh à?
- Tổng kết về tổ mối...
- Anh hơ ở đây cho nó chóng khô này.
Cô chủ tịch xoay cái nồi gang nhỏ trên đống than củi. Cái vung kênh, bay ra mùi cơm nếp chín nục thơm lừng.
- Anh Trọng này, tại sao các anh trí thức ở thành phố, anh nào cũng gầy gầy là.
“ Cô ta thấy bộ xương sườn của mình”. Trọng nghĩ, cười khe khẽ.
- Gầy là một tiêu chí của nhà nho xưa đó.
- Anh nói vui nhỉ.
- Muốn thành tuấn mã phải chịu gầy gò, cô Thuận ạ.
- Em cứ nghĩ là vì công việc của các anh... phải lao tâm khổ tứ vất vả.
- Như cô Thuận làm chủ tịch một xã lo nghĩ vất vả hơn bọn tôi nhiều chứ.
- Có gì đâu!- Cô chủ tịch lắc đầu, mủm mỉm- Việc ở thôn xã bao giờ mà chẳng thế. Sống, làm việc, muốn công việc được kết quả thì tất là phải va chạm, phải đấu tranh. Đấu tranh tiếng thế cũng khó mà cũng dễ. Chỉ cần lòng mình trong sáng như tấm gương soi thôi, anh ạ.
Ngọn lửa dướn cao. Bên kia lửa, cô chủ tịch vơ mái tóc, vuốt ra sau, ngửa cổ, lắc lắc mái đầu. Cử chỉ của thời con gái trong trẻo hồn nhiên ấy của cô khiến Trọng thấy cô tươi trẻ, nhẹ nhõm hơn anh vẫn hình dung. Quả là anh mới chỉ hình dung ra cô hơn là nhìn thấy cô. Như là cái đêm anh ngồi dưới tổ mối nghe được cuộc đối thoại của cô với ông chủ tịch huyện. Anh thấy cô nồng nhiệt, trong sáng, ngay thẳng. Cái tính cách ấy giờ anh nhận ra nó hợp với dáng vóc, khuôn mặt, cử chỉ cô, mang vẻ trẻ trung, mới mẻ vô cùng. Cô đẹp, đẹp một cách mặn mà, chân thật. Và kỳ lạ, rất thật đấy mà vẫn rất khó nắm bắt. Có lẽ vì sự uyển chuyển, sinh động và vẻ thanh thản của khuôn mặt tròn, hai con mắt đằm thắm cùng vệt mày mảnh mai.
“ Con người kia không ít khó khăn hơn ta đâu”. Trọng chợt nghĩ và rơi vào trạng thái mơ màng, thấy mình như một kẻ đang đi giật lùi, lùi mãi, lùi mãi ra xa bóng hình người phụ nữ ở ngay trước mặt anh đang ngày càng trở nên thân thiết với anh.
- Anh Trọng ăn cơm nếp nhé! Em nấu cho các anh đấy.
Thuận nâng một bát cơm nếp trên tay, âu yếm nhìn Trọng. Vừa lúc ấy có tiếng gọi cô ở ngoài cửa điếm canh. Cả hai vội đứng dậy. Ông cụ Ruân loạt xoạt áo bạt bước vào:
- Huyện vừa cho giao thông xuống truyền đạt lệnh- Ông cụ thở hổn hển, tiếng nọ lấp tiếng kia- Bão lần này to lắm! To lắm!
*
Mưa ngớt. Nhưng, phía thượng nguồn vẫn mù mịt sương mây. Nước sông đã dâng tới lưng đê. Nhìn về phía đông, thấy những đám mây xám trắng dựng thành hình những quả núi khổng lồ. Trên đống cát mới hong khô lớp mặt, đàn sẻ cả trăm con từ đâu xà xuống rũ lông đập cánh tắm cát. Để ý quan sát sẽ thấy kêu lích rích liên hồi. Và ở trong mái điếm canh, lũ nhện đang vội vã rút ngắn đường tơ, củng cố mạng lưới mới giăng.
Dấu hiệu cơn bão lớn đã xuất hiện.
Điều đó đã là hoàn toàn chính xác! Trận mưa đêm qua thực sự chỉ là kẻ đi tiền trạm của cơn bão lớn, cơn bão số 10 mang tên Nan-cy đang hình thành mạnh lên từ một vùng áp thấp, có sức gió ở gần vùng trung tâm tới cấp 11, 12.
Trước điếm, ông cụ Ruân dựng ngược hai cái vồ. Lệnh báo động số hai đã phát, loa kêu ra rả. Người Nguyên Lộc gần như lên hết mặt đê, quay cuồng với công việc sửa soạn. Đội trưởng Ngoạn hối hả thúc quân củng cố cái kè đá mới xây, lại gào thét về việc thiếu đá hộc dự phòng. Khốn nạn thế! Cái lão thủ cống, làm thế nào mà lão lại thoát khỏi búa rìu trừng phạt! Chẳng có lẽ bọn người xấu xa lại cứ nhơn nhơn tồn tại, hơn nữa lại còn thịnh đạt! Kẻ xấu thịnh đạt! Thật là nhục! Nhục quá! Xưa nay ông ít để ý tới bọn này, ông chỉ biết công việc. Rồi đây, sau trận này, ông tự nhủ ông sẽ phải khôn ngoan hơn.
Chiều ấy, cơn bão lớn vượt qua đảo Hải Nam vào Vịnh- Bắc Bộ. Đêm hôm sau mưa bắt đầu trút nước trên tất cả các lưu vực sông Đà, sông Lô, sông Thao. Mưa rả rích đêm ngày. Mưa tối tăm mặt mũi. Trận này chưa qua trận khác đã tới, ráo riết, hung tợn hơn. Mưa thối đất thối cát.
Mưa thốc tháo, triền miên.
Mưa như dốc chĩnh nghiêng vò nước. Mưa như vỡ bể nước nơi thượng nguồn. Tưởng như biển có bao nhiêu nước, trời hút lên, đổ xuống đất liền hết.
Các con số mức nước leo thang vùn vụt. Báo động vọt lên cấp ba. Tám ngày liền, cả một vùng lưu vực mấy con sông rộng 280.000 ki-lô-mét vuông đầm đìa nước đọng. Hàng chục tỷ mét khối nước tuôn xuống các dòng chảy. Các con sông hình thành ngọn lũ. Và tấm thảm kịch đã ở nhãn tiền: Ngọn lũ của các con sông khớp nhau, dồn tụ về con sông Hồng, đi qua Nguyên Lộc.
Ông cụ Ruân đi kiểm tra mai đê về, ướt dầm dề, ngồi bên đống lửa trong điếm, run rẩy, như mê hoảng:
- Kinh quá! Cái trận lụt năm 1915, nước phá đê, khoét một cái hố sâu, to gấp năm sáu lần cái hố bom hồi Mỹ nó thả. Dân phu cả tổng đổ không biết cơ man nào là đá mà cứ như muối bỏ bể. Về sau, bên ngoài đóng hai hàng cọc, mặt ngoài ốp phên để cản nước... Nhưng đang hàn khẩu thì một đợt lũ nữa lại ập đến, phá tung hết!
Có ai nghe ông cụ nói đâu! Ông cụ nói một mình!
Đội trưởng Ngoạn chốc chốc lại gào trong ống nói về ba nghìn tấn đá. Khốn khổ! Đường dây điện thoại nối với huyện lại đã bị mưa bão phá hỏng. Tức giận, ném cái ống nói xuống bàn, ông vùng ra ngoài điếm canh.
Mưa tầm tã. Hàng trăm bóng người mờ mờ đang chuyển động trên mặt đê. Người thủ kho ở đâu chạy đến, cuống cuồng giật tay đội trưởng:
- Đồng chí Ngoạn! Hình như có tiếng nước chảy trong thân đê. Chân kè không khéo bị sụt mất!
- Làm cái gì mà cuống lên thế- Đội trưởng gắt- Việc của ông là đá hộc còn bao nhiêu thì cho hết lên mặt đê đi. Cả bao tải, rọ sắt, tre, gỗ, phên nứa. Cho hết lên!
- Báo cáo, tôi đã hoàn thành mọi việc!
- Thế thì ông lại chỉ huy việc đắp con trạch cho tôi.
- Tuân lệnh!
- Này ông, bây giờ mới thấy rõ hơn: không lo diệt trừ bọn xấu thì chẳng làm nên cơm cháo gì sốt.
- Thì thiên thời, địa lợi và nhân phải hoà nữa, thủ trưởng.
Người thủ kho chạy được một quãng bỗng dừng lại, nhìn xuống mặt nước sông đã mấp mé mặt đê, vung nắm đấm: “ Tiên sư lũ thuỷ quái chúng mày nhé!”
Đội thanh niên xung kích đang hì hục khiêng vác đất đắp thêm bờ con trạch. Nước trong đê đã dìm nghỉm không còn sót một mô đất nào ở gần chân đê. Họ phải lội tới ngực, đào mò. Trên mặt đê, tiếng đội trưởng bạt đi trong luồng gió lớn ào ạt:
- Đánh dấu, cắm biển ngay chỗ bị sụt lở! Chữa ngay khi còn hư hỏng nhỏ. Kẻ nào cản trở, ú ớ bắt ngay cho tôi! Các đồng chí bộ đội! Lên đây, lên đây!
Trọng đang ở trong lán kho với hai anh thợ máy. Máy đang sửa chữa nhỏ. Sốt ruột, Trọng chạy ra ngoài đê.
Kinh hoàng quá, nước lênh láng, trắng lạng xung quanh anh. Ngoài xa, đường nhựa đã ngập lút, nhô lên mui ba bốn cái ô tô đang chết đứng trong nước. Hai trung đoàn bộ đội được điều động cấp tốc tới, lội bì bõm qua đồng, lên tới đê, theo sự chỉ huy của đội trưởng Ngoạn đang bốc đá ốp vào chân đê, chỗ bị dòng nước xói thẳng vào. Xếp được mười phút hết đá, họ nhảy xuống nước, lặn bốc đất lên.
Khúc đê bây giờ chỉ còn là một nét đỏ nhờ, mỏng mảnh bên mênh mông sóng nước. Như thác đổ, nước sông đỏ lừ, hoăm hoẳm những xoáy nước hình phễu kêu oằng oặc, sùng sục, đánh nước vào thân đê. Con đê như một sợi dây căng hết độ, rung rung. Trời! Con đê, biên giới của sự sống, cái chết. Trong kia, đồng ruộng, nhà cửa, xóm thôn, đường xá, cầu cống, nhà máy. Trong kia, cuộc sống đang xây dựng trong gian nan, gắng gỏi. Chưa bao giờ Trọng thấy sợ hãi đến thế!
- Các đồng chí xung kích, nhanh chân lên tí nữa! Một bóng phụ nữ vai vác thỏi đất vượt qua Trọng, giục giã- Mấy đồng chí lên phía trên hỗ trợ cụ Ruân sử lý vòi phun. Nhanh lên!
Mưa quất ê mặt. Hai anh thợ đã cho máy ra mặt đê, bắt nó làm việc ngay trong mưa gío. Trọng quay trở lại. Có một đám đông xúm xít ở gần chiếc máy. Trọng chạy tới. Thì ra nhiều người đang vây quanh một chiếc com-măng-ca bùn nước bê bết. Làm sao nó lên được tới đây? Nhẩy xuống đầu tiên là một người dong dỏng đeo kính trắng. Người đó kêu to:
- Trọng!
Trọng nhận ra người nọ. Người nọ xô đến Trọng:
- Phương pháp của bọn mình thử ở Cấm Sơn phát hiện tổ mối khá chính xác, nhưng thôi, việc đó để sau. Mình đã về với phòng các cậu. Bây giờ, phải làm gì?
Mặt Trọng ê ê. Tiếng người nọ lẫn trong tiếng máy nổ, tiếng mưa rơi lộp độp, tiếng chân người chạy lép nhép. “ Chậm mất rồi”. Trọng thoáng một ý nghĩ, tay nắm tay người đeo kính cận.
- Đồng chí chủ tịch huyện. Đá hộc ba nghìn tấn đâu? Đâu?
Đội trưởng Ngoạn từ đâu chạy đến, gạt Trọng, sấn tới sát đầu ô tô. Chủ tịch huyện vừa nhảy xuống đất cùng với một người nữa tùm hum trong cái áo mưa bạt. Quần xắn tới bẹn, áo mưa cộc, mũ cối ròng ròng nước rìa vành, hai con mắt chủ tịch huyện trũng sâu, ông đã lặn lội cả tuần nay trên các tuyến đê. Ông lừ mắt về phía sau. Người đứng sau ông chột mắt, môi tớn, răng thưa nhe nhe, lập cập:
- Báo cáo anh... Tôi đã trình bày với anh rồi ạ. Giá quy định là năm đồng một tấn! Nhưng, công ty đá họ đòi những ba mươi nhăm đồng. Họ lại còn đòi phải cho họ hai con lợn ba tạ.
- Nhưng mà, tôi đã bảo ông thế nào? Khốn nạn đến thế là cùng! Một bài học cay đắng nhớ đời cho tôi đấy. Chủ tịch huyện dằn, đau xót.
- Đá hộc đâu, ông Long?- Đội trưởng Ngoạn tiến đến sát mặt người chột mắt quát lớn liên tiếp:- Đá hộc đâu? Đá hộc đâu? Chỉ biết yên thân phì da thôi, hả? Sống chết của dân thì mặc bay, hả? Đi, ông đi với tôi! Không có đá thì đem thân xuống đây mà lấp.
Chủ tịch huyện kéo tay đội trưởng:
- Anh Ngoạn. Vấn đề rõ rồi. Tôi đã kỷ luật cách chức ông ta. Giờ, tổ chức lại, chống đỡ tại chỗ. Tôi đã cho người lên tỉnh. Nội nhật hôm nay sẽ có đá về. Tôi ra lệnh tất cả lực lượng, phương tiện yêu cầu lên hết mặt đê!
- Chậm rồi, anh ơi!
Vùng ra khỏi tay chủ tịch huyện, đội trưởng gào cay đắng. Chậm rồi! Trọng bủn rủn. Đội trưởng Ngoạn sao có ý nghĩ giống anh thế. Và sự thật đã đúng như anh nghĩ: ở khúc đê trên, bỗng nổi lên những tiếng kêu cứu thất thanh:
- Sụt kè đá rồi, các đồng chí ơi!
- Không khéo nước tràn qua mặt đê rồi, trời ơi! Đội trưởng Ngoạn quay ngoắt lại, vụt lên. Trọng chạy theo. Người đang dồn lại chỗ kè đá, cạnh cái cống mới sửa. Nước chỉ còn cách mặt đê chưa đầy gang tay. Sóng đánh tung bụi nước lên mặt đê.
- Điều một trung đoàn bộ đội lên đây!- Chủ tịch huyện hét khàn khàn. Trên vai ông, một cái rọ đá.
Đất, đá ném tùm tùm xuống chân kè sụt. Sóng lui ra lại lấn vào. Mặt đê rậm rịch. Nước vẫn lên. Cơn ghen của Thuỷ Tinh đang độ nồng. Trọng vác một cây tre cùng với anh đeo kính trắng ném xuống bờ đê để đóng cọc thì nghe thấy tiếng anh thủ kho gọi giật. “ Sao lại có điện thoại lúc này? Đường dây nối được rồi à? Hay thông báo về tình hình lũ”. Trọng vừa nghĩ vừa chạy về điếm.
Trước cửa điếm, ông cụ Ruân đang đứng trong một cái ô đen với một anh trai trẻ, trông quen quen.
- Thôi thôi, anh nhà báo. Hỏi chuyện, xin để lúc khác- Ông cụ Ruân vuốt mặt- Lúc này là lúc, không khéo là tổ kiến hổng đục toang đê vỡ, sai một ly đi một vạn dặm đấy, anh ạ. Anh để sau nhé. Cả cái chuyện lão độc Long kia nữa. Anh phải cho nó một bài vạch mặt.
Người thủ kho chen tới:
- Anh nhà báo này, tôi chỉ là phó thường dân thôi. Tôi có hai ý kiến thế này. Một là yêu cầu phải có ngay một bộ luật đê điều, phải có cả mục xử trảm kẻ vô trách nhiệm. Hai là ở đây người đáng ca ngợi thì nhiều. Nhưng tôi đề nghị anh viết về Trọng, cái công trình của anh ấy.
- Anh Trọng đâu? Tôi hứa với anh ấy từ vụ lũ trước mà bây giờ mới đến được. Anh Trọng đâu?
Trọng bước vào trong điếm canh. Thôi anh nhà báo. Sau trận này hãy hay. Anh nhấc ống nói. Trời! Hoá ra ông Chánh. Ông Chánh ân cần hỏi thăm sức khoẻ của anh, lại còn xin lỗi anh về một sơ xuất nào đó và kể lể dài dòng tên những hàng căng tin, những là quần đùi, bát đĩa, lốp xe đạp, cả cỗ bài tu-lơ-khơ anh được phân phối đợt này. Con người tốt bụng này suốt đời không đúng lúc!
- Vâng, cám ơn bác. Anh Tấn đã có mặt ở đây rồi- Trọng nói nhanh- Còn bây giờ đang gay go lắm. Cái chết gần kề rồi, nguy hiểm lắm rồi, vâng, có thể chết lắm, bác ạ.
Buông máy, Trọng vùng ra mặt đê. Không hiểu tại sao anh lại nói đến cái chết nhỉ? Nhưng anh quên ngay ý nghĩ ấy. Nơi kè sụt đã được gia cố. Chủ tịch huyện đang điều khiển bộ đội đắp dài thêm con trạch. Có một đám đông con trai tụ lại ở gần cỗ máy phun vữa. Nữ chủ tịch Thuần kêu: “Các đồng chí thanh niên, không nên như thế!”. Đám đông cứ quẩn lại hò reo ầm ĩ. Ai đó gào: “ Lôi kẻ bao che nó ra đây!” Lát sau, từ đám người tọt ra một đống áo mưa lùng thùng. Ông Long thủ cống bị trói giật cánh khuỷu, mặt bê bết bùn nhão vừa bị dúi xuống đất, đang loạng choạng đứng dậy.
“ Trừng phạt lão ấy bây giờ làm gì nữa. Chậm rồi!”. Trọng nghĩ, nhức nhối và chạy về đoạn cuối khúc đê, ở đó cái máy phụt vữa vẫn đang gắng sức nổ trong mưa.
- Anh Trọng ơi! Cái chỗ đất kia làm sao nó cứ lùng bùng như thư thế nhỉ?
Nghe tiếng anh thợ trẻ bỗng nhiên kêu trong tiếng máy nổ ầm ầm, Trọng bước lên và hốt hoảng nhận ra khoảng đất ngay dưới chân anh vừa xuất hiện một khoang rỗng thật lớn. Nguy hiểm quá, anh đã nhận ra, đây là
một cái tổ mối lớn, rất lớn, đã được đánh dấu, nhưng chưa kịp xử lý. Vâng! Đó chính là cái tổ mối đông hai trăm triệu con của mối Nữ Chúa mà ta đã nói tới ở chương trên trong cuốn truyện này.
Kinh hoàng, Trọng thét lạc tiếng:
- Gọi đội xung kích lại đây! Lại đây các đồng chí ơi!
*
Khi mấy chục con người ướt đầm đìa nghe tiếng anh kỹ sư gọi, chạy tới, đứng vây quanh khoảng đất lùng nhùng nọ thì nước sông theo mấy đường dẫn đã tràn vào gần đầy cái tổ mối ấy rồi. Các đường mối lấy nước vào tổ, thoạt đầu, chỉ nhỏ bằng cái đũa, giờ đây theo quy tắc thuỷ phá thổ, đã mở rộng dần. Cái sẩy nẩy cái ung. Chẳng mấy lúc nước đã ngập các đường ngầm, vườn nấm, hoàng cung và dâng dần lên. Khẩn cấp, Nữ mối chúa đã được lũ mối thợ khiêng lên đỉnh tổ. Và không khí trong tổ bị nước chiếm chỗ, dồn lên, ép đặc sệt vào khoảng hẹp còn lại của vòm hang.
Trọng kêu:
- Sẵn sàng đất dự trữ! Làm rãnh nước lọc, làm ngay máng dẫn nước ở mái đê trong đồng. Cho tôi cái thuốn!
Rồi như mê sảng, anh nhảy vào giữa khoảng đất phía trên vòm tổ mối, thọc cái thuốn xuống. Tấn và người thủ kho, mỗi người một cái thuốn nữa, nhảy tới cạnh anh. Phải mở đường cho không khí bị dồn ép thoát ra. Nếu không, tức khí, tổ mối sẽ nổ đánh ục và trời ơi, lúc ấy thảm hoạ sẽ khôn lường, vì thân đê sẽ bị vỡ ngay lập tức.
Cái thuốn của Trọng xuyên xuống lòng đất. Sao nó nặng thế! Mũi thuốn bí rì rì. Anh cảm thấy rất rõ là mình đã dồn hết trọng lượng thân thể và huy động toàn bộ sức mạnh dự trữ từ một nơi nào đó tưởng như là vô biên, vô tận, mà sao mũi thuốn vẫn không chịu đi. Anh ngẩng lên, rũ đầu. Mưa xối vào mặt anh. Nước chảy ròng ròng hai bên má anh. Anh tưởng là mình khóc. Anh đã chậm bước rồi. Và thế là cái điều tồi tệ nhất đã ở ngay nhãn tiền! Đau đớn quá! Những cái đê hèn, xấu xa, đã cản trở công việc của anh. Cay đắng quá! Nhưng, trong vở bi kịch này, anh không chỉ là một nhân vật bị sai khiến, có số phận hẩm hiu. Anh tự không cho phép mình trắng án.
Bỏ cái thuốn, Trọng gào như điên dại:
- Cuốc đâu? Vào đây. Thêm người nữa. Cuốc đi! nhanh lên!
Một biện pháp tối nguy hiểm. Nhưng còn có cách nào hơn? Tình thế đã ở bên bờ tuyệt vọng. Trọng gầm mặt xuống cuốc, bên cạnh anh là những bóng người hối hả. Tiếng lưỡi cuốc bổ vào đất nghe nặng như tiếng đào huyệt mộ dưới lòng đất. Bỗng, đất như vừa mở tung tở, bùng bục dưới chân anh. Trọng rùng rùng người. Có tiếng đội trưởng Ngoạn thét: “ Bình tĩnh!”. Trọng thấy mình nghiêng ngả như sắp ngã. Điều lo sợ nhất của anh, nỗi ân hận sẽ ám ảnh anh cho đến cả khi anh nhắm mắt xuôi tay, đã là thật sự rồi ư? Một cơn gió cuộn nước sông, tung sóng, toé nước vào mặt anh và mọi người. “ Lẽ ra...” anh nghĩ mập mờ. Và không kịp nữa rồi, anh thấy mình tụt hẫng một bên chân. Tim anh như bị vỡ ra. Không khí bị dồn ép quá mức đã phá vỡ mặt đê. Điều khủng khiếp nhất đã xẩy ra. Một tiếng nổ đánh ục, nghe thật gọn và giản dị. Rồi nước sông giống như con quái vật, cướp ngay thời cơ, trào qua nơi đất đê vừa vỡ, tràn vào, vòng một con xoáy, cuốn lấy Trọng trong cánh tay bạch tuộc nhớt lạnh của nó, kéo anh ra ngoài sông.
Trọng cưỡng lại, chồm lên:
- Dù có chết cũng không được để vỡ đê!
Đội trưởng Ngoạn nhảy ùm xuống hố nước, hét:
- Đất đá vét hết về đây. Đắp con trạch! Giữ bằng được! Khốn nạn quá! Sao lại không có đá hộc! Nhanh lên!
Tiếng thét của đội trưởng tưng tức không thật. Trọng thấy mặt tối sầm. Cuộc sống nghiệt ngã quá. Loáng qua óc anh tất cả những gì gần cận và những điều chẳng như ý. Vô cùng lộn xộn, gương mặt Loan hiện lên bên gương mặt cô chủ tịch Thuận, như một đối trọng để so chiếu. Và cứ thế, cái ảo giác trừu tượng về hợp lực, lý tưởng và hiện thực lại hiện ra mang một hình sắc rất khó tả. “ Điều chủ yếu là mình đã về được đúng vị trí. Chỉ tiếc, nếu có được một tình yêu sống chết bên nhau... Sao mình thấy đói thế nhỉ? à, bát cơm nếp Thuận đưa chưa kịp ăn. Bản tổng kết để trên cái vung nồi. Lá đơn xin vào Đảng vẫn ở trong túi áo ngực đây. Ướt mất rồi. Sẽ viết lại. Chắc chắn sau sự kiện này mình sẽ sống sâu sắc hơn, mình sẽ xứng đáng hơn.” Ai đó vừa thả xuống trước anh một cây tre. Anh với cây tre, mệt lả, anh cố vắt người qua cây tre, lưng hướng ra phía dòng sông. Anh cảm thấy lưng mình đau ê ẩm. Cả bốn mươi tám tỷ khối nước đang đập vào anh. Anh chống lại chúng, chống lại thói bạo ngược của chúng. Nhưng hình như dòng nước đã bị ngăn chặn lại. Hung bạo phải bị đẩy lùi, mọi người phải đồng tâm, lịch sử và con người sẽ đi đến hoàn thiện. Anh nghĩ mê man.
- Anh Trọng, anh giữ tay em cho chắc nhé.
Có tiếng phụ nữ rất quen thân bên tai anh. Anh cố mở mắt. Gần chục người đã nhảy xuống, như anh, dùng thân mình để hàn khẩu chỗ đê vỡ. Cạnh anh là một khuôn mặt dài dại, nhưng rất quen. Ai thế?
- Trọng, lên bờ đi, Trọng!
Người nọ gọi, như lay tỉnh anh. Anh nhận ra người đó bằng tiếng nói. Và hiểu: anh ấy mất cái kính trắng nên trông lạ hẳn đi.
- Anh Trọng!
Một bàn tay phụ nữ nắm lấy cánh tay anh, anh hiểu đó là bàn tay Thuận. Anh thấy chị gần anh chứ không xa anh như anh cảm thấy ở cái đêm mưa trong điếm canh. Ngọn lửa trong điếm canh đêm ấy ấm áp quá. Một con sóng vượt qua đầu mọi người. Anh buột tay khỏi bàn tay người phụ nữ. Mệt quá! Anh cố nhoài tay để nắm lấy tay chị. Cố lên, cái chết ở ngay sau lưng đây thôi. Anh nghĩ. Nhưng, hình như là chậm trễ rồi. Sao suốt đời anh cứ chậm trễ như vậy là thế nào nhỉ?
Vào lúc đang diễn ra cuộc chiến đấu quyết liệt của con người chống dòng nước lũ ở khúc đê Nguyên Lộc, có một gã trai phóng chiếc Hon-da đỏ đến cuối quãng đê ấy.
Gã đó là Thưởng.
Gửi chiếc xe máy vào một quán nước bên đường đê, gã chạy xuống bờ sông. Nước sông to, trôi phăng phăng, tất cả các đò ngang, đò dọc đều díu lại ở bên bờ. Thưởng vật nài với một chủ đò, bỏ một trăm đồng thuê một chiếc thuyền nan ra Bãi Soi, nơi cả xóm đã dọn đi, chỉ còn trơ lại căn nhà của hắn; lúc này, bãi đất như con thuyền thủng dập dềnh nửa nổi, nửa chìm trên dòng lũ.
Phải vất vả lắm con thuyền mới ngược được dòng nước lũ. Và người lái đò mạo hiểm, sau khi được Thưởng cho thêm một trăm đồng nữa, mới liều mạng đánh con đò sang ngang. Sóng vật, mấy lần thuyền xuýt ụp, nhưng may mắn, hai giờ sau đó nó tạt được vào khu vườn rậm cuối bãi Soi. Thưởng nhảy lên bãi đất. Bãi đất chưa ngập hết. Thưởng dò dẫm lội vào xóm. Thỉnh thoảng hắn lại tái nhợt mặt mày hết hồn né tránh những con rắn chạy nước bơi ngang qua trước mặt.
Xóm trống vắng. Nhà nhà đã chuyển đi gần hết. Cây lưu niên bị chặt hoặc bị bứng đi, các lùm cây thấp chìm vật vờ trong nước, khiến quang cảnh trở nên rất khác lạ và dường như là khó hiểu. Còn lại duy nhất lúc này ở đây là căn nhà mái ngói mũi hài ba gian của Thưởng. Cũng là một sự bất đắc dĩ, uỷ ban xã đã ra lệnh gọi hắn về. Về để chuyển nhà, để đi đắp đê, để làm những nghĩa vụ của một người dân. Bà cô hắn cũng đã nhắn ra thành phố năm lần bẩy lượt nhưng ông cháu vẫn biệt tăm. Bà đâu có biết lúc này hành tung gian tặc của ông cháu bà đã bị phát giác và ông đang trốn chui trốn lủi trước sự truy nã ngày càng gắt gao của các lực lượng an ninh. Bà cô nguyền rủa ông cháu là vì mê mẩn cô vợ thành thị mà quên cả quê hương bản quán, rồi sau đó bà đành bỏ lại căn nhà, dọn vào trong đê khi dòng lũ đầu tiên xô về đọng đầy váng bọt trong khu vườn.
Giờ thì nước đã ngập khu vườn và bắt đầu tràn lên cái sân gạch. Lội qua cái sân gạch, Thưởng nhảy lên bậc thềm, đẩy cửa bước vào nhà. hắn nhận ra bàn ghế, giường tủ, đồ đạc đã chuyển đi cả. Còn lại đây chỉ là cái xác nhà trống, mấy cái cót rách. Đi qua gian ngoài, bước vào căn buồng bên chái nhà, hắn dừng lại một lát để định tâm nghe ngóng một lát, hắn nhận ra xung quanh thật yên tĩnh và an toàn, nghĩa là không có ai theo dõi hắn cả. Thở phào một hơi, hắn bắt đầu bước trên những hòn gạch vuông lát nền và lẩm nhẩm đếm. Ba ngang, bẩy dọc. Chà! Đây rồi! Hắn ngồi xuống, định reo to một tiếng, vì nhận ra nền nhà còn hoàn toàn khô ráo và chưa hề có dấu vết đào bới. Ôi, cái toạ độ vàng bí mật này! Hắn ì ra không chịu rỡ nhà chuyển đi, cũng là vì cái toạ độ bí mặt này đây.
Dưới đất này là một kho vàng. Kho vàng này có từ đời ông cha hắn, cái lão lý Hữu keo kiệt, chết cũng không chịu chỉ cho hắn chỗ chôn giấu để hắn phải truy tầm mãi mới tìm ra. Chao! Thì ra hắn giầu. Hắn rất giầu. Nhưng không như những kẻ lêu lổng chỉ biết tiêu pha, thậm chí phát tán của cải, tiền bạc, ông cha để lại vào các lạc thú, hắn biết làm cho vàng sinh sôi. Được buổi dở giăng dở đèn kích thích, tên bất lương trẻ tuổi lao vào cuộc buôn bán tráo trở, kết hợp với các thủ đoạn cướp đoạt tàn nhẫn, vô xỉ nhất. Tới nay, với của cải moi móc được của xã hội, Thưởng đã là tên giầu có nhất thành phố này rồi. Và cũng đang trở thành đối tượng săn đuổi ráo riết số 1 của các đối thủ cùng giới. Còn cái tổ uyên ương của hắn thì sau tuần trăng mật, hai anh chị mới nhận ra ngoài nhu cầu tình dục ra, cả hai đều chỉ là những kẻ muốn lợi dụng nhau trong cuộc kiếm chác để thoả mãn lòng tham lam của riêng mình thôi. Tình dục động no chóng chán. Thưởng là kẻ phóng đãng, y coi Loan hơn gì một gái làng chơi, sau lúc đã thoả cơn động dục. Lòng tự ái bị kích thích, Loan liều lĩnh xông vào cuộc kiếm chác, cò con thôi, nhưng cô đã phải nhận một cái kết cục bi thảm là bị sa thải ra khỏi cửa hàng. Ông thợ vẽ Hảo phong tình như một trang công tử hào hoa đã xuất hiện đúng lúc ấy, và thế là một đoạn đường lầy nữa đã lại hiện ra trước mắt cô.
“ Kệ cha nó, nó theo thằng cha ấy thì càng đỡ vướng”. Nghĩ đứt dóng, Thưởng lật ngược ống quần bò lên, bắt đầu vào công việc đào bới. Hắn thọc mũi xà beng vào rìa viên gạch. Nhưng chưa bẩy được viên gạch, cái xà beng đã buột khỏi tay hắn. Cái xà beng reo một tếng động inh tai. Hắn hốt hoảng nhặt cây xà beng; nắm nó trong tay, hắn càng hốt hoảng hơn; cái ngón chỏ bị chặt đốt đầu ở bàn tay phải sẽ còn gây ra chưa biết những rầy rà nào nữa cho hắn đây. Nắm cái xà beng, không có đốt ngón trỏ như không có cái mỏ khoá, dễ buột quá. Tệ hơn, cái dấu vết tự huỷ hoại này lại còn là cái hình tích cho các cuộc săn đuổi. Mà bây giờ thì hắn lại đang cần giấu mình, đang cần hoà vào số đông và tìm cách để ra đi cho trót lọt, rắc rối thế!
Tuy vậy, sập tới Thưởng cũng moi từ lòng đất lên được một cái hũ sành. Mở nắp hũ, thọc tay vào hắn rên lên nức nở. Còn, nguyên vẹn cả. Những lá vàng sư tử. Những nhẫn, vòng, xuyến. Và cả một viên kim cương, cái viên kim cương trong cơn dửng mỡ hắn đã gài lên tóc Loan đêm cưới ấy. Còn nguyên cả...
Đút hết vàng và kim cương vào túi quần, thưởng đứng dậy, xoa tay. Giờ hắn chỉ còn mỗi một việc là ra khỏi nơi đây để đêm nay có mặt ở thành phố và ngày mai, bỏ ra ba lượng cho một thằng ma cô dẫn đường xuống vùng biển để ra khơi thôi.
Hào hứng, hắn băng ra cửa.
Nhưng, bước ra ngoài thềm Thưởng mới nhận ra rằng dự định của hắn không thể thực hiện được. Nước đã ngập đầy sân, trời tối và không thể kiếm đâu ra cái bè chuối để vượt sông lúc này.
“ Ngủ một giấc lấy sức đã. Công an nào dám mò vào đây mà sợ”. Hắn nghĩ, tìm tấm cót, trải ra nền nhà. Lì lờm đã quen, đặt mình xuống, hắn ngủ được ngay. Nhưng chỉ được một lát hắn giật mình tỉnh giấc. Có những con vật móng chân rất sắc bò qua người hắn. Bật bật lửa, hắn nhận ra có đến hơn chục con chuột to đang chạy quẩn trong buồng và con nào lông da cũng ướt nhẫy, và hai con mắt ti hí đỏ ngầu.
Nước từ ngoài sân đã tràn vào nhà, đang luồn qua khe hở, chảy róc rách vào căn buồng đầu hồi. Tốc độ nước lên thật nhanh. Loáng cái, khi trời nhờ nhờ sáng, nước đã vào đầy căn buồng và lũ chuột tinh khôn đã bám tường leo lên cái quá giang bằng gỗ lim. Nước đổ vào buồng ồ ồ, lát sau đã tới đầu gối Thưởng, Thưởng chồng gạch, đứng lên, tiếc mình không phải là chuột, bám leo vật vã một hồi mới lên được cái xà nhà. Lũ chuột thấy hắn chiếm mất chỗ, cuống quýt nhảy tung toé.
Ngồi ru rú trên xà nhà, Thưởng ngủ gà ngủ gật. Trời sáng hẳn. Hắn choàng tỉnh và giật mình. Nước đã dâng tới nửa cái xà ngang. Lom khom đứng dậy hắn đấm vỡ mấy viên ngói và lát sau chui lên mái nhà. “ Thế là ổn!”. Thưởng reo thầm. Nhưng hắn biết ngay là mình lầm. Hắn thấy choáng váng vì trơ trọi giữa một vùng nước sôi réo bao la.
Quả là chưa bao giờ tên bất lương trẻ tuổi rơi vào một khung cảnh rùng rợn như thế. Đồng bọn kề lưỡi dao vào cổ, hắn cũng không sợ như bây giờ. Bây giờ, mưa gió mịt mù, hai bờ sông roãng rộng tít tắp và nước từ xa vẫn sùng sục đổ về, quẩn riết quanh ngôi nhà hắn. Xa hơn, giữa dòng nước vùn vụt trôi những bè củi rêu rác, thỉnh thoảng lại ầm ầm lao qua trước mặt hắn những cây cổ thụ kềnh càng cả bộ rễ và lá cành. Nghe một tiếng nổ đánh ùm, quay lại, hắn nhận ra sau hắn đã là một khoảng trống trơ: cây mít lớn vừa bị nước quật ngã. Trong chốc lát, bụi cây lau lách quanh hắn đã chìm nghỉm, mặt nước trống trơn một màu sáng rợn.
Tình thế thật là nguy hiểm. Căn nhà của hắn lúc này như cái bè nổi bập bềnh và chỉ cần một thân cây nhỏ, một khúc gỗ nhỏ từ phía thượng nguồn trôi xuống, mắc vào thì ôi thôi!
Tuy nhiên, chính là trong nguy nan hắn nhận ra mình một bản lĩnh không tầm thường. Đời hắn đã quen với hiểm nguy. Vả chăng, trong cái cuộc sống luôn diễn ra trong trạng thái căng thẳng của mình, bao giờ hắn cũng giữ lại một khoảng yên tĩnh của trí não để suy sét, tìm cách đối phó. Và kỳ lạ, điều kỳ diệu không bao giờ là hiếm hoi cả, kể cả những khi hắn gặp phải những hoàn cảnh hiểm nguy ngặt nghèo. Trong cái khó có cái khôn. Thưởng đã tìm được lối thoát.
Sung sướng, hắn mò xuống nước, bơi xuôi dòng, chếch về phía phải ngôi nhà.
Quả là Thượng đế ăn ở rất công minh, bù trừ rất sòng phẳng cho mỗi người. Tình thế tuyệt vọng nào cũng lấp ló một điểm sáng hy vọng. Đức Giê-hô-va gây nạn hồng thuỷ, nhưng lại bảo Nô-ê đóng tàu chạy lụt. Giờ cũng vậy, Thưởng đã tìm được con tàu Nô-ê của hắn. ấy là một cây gạo bánh tẻ mọc đã hơn chục năm nay ở cuối vườn nhà hắn. Cây gạo to gần một người ôm, vỏ trắng phếch, gai góc sần sùi.
Bơi tới gần cây gạo, vừa định đưa tay bám lấy một cái cành là là mặt nước, Thưởng vội rụt tay lại. Một con rắn cạp nong khúc đen, khúc vàng đã quấn quanh thân cây tranh chỗ của hắn. hắn lui ra, bơi đứng. Không thể được. Hắn phải giành lại chỗ của con rắn. Quả nhiên, vừa té nước, vừa đập ùm ũm quanh thân cây, hắn đã làm con rắn sợ hãi, tuồn xuống nước, loằng ngoằng bơi đi.
Thưởng bám vào cây, leo lên. Đứng trên một cành cây nhỏ, hắn thở phào. Vừa lúc ấy trời ngớt mưa và trên bầu trời trắng nhạt có tiếng động cơ nổ rầm rầm. Một chiếc máy bay trực thăng từ phía hạ lưu đang bay ngược lên, dọc theo triền sông bên phải. Nó đi cứu hộ, đi thả bánh mì cho những người bị mắc kẹt giữa bốn bề sông nước.
Mừng quá, quên cả thân phận kẻ đang bị truy nã, Thưởng định cất tiếng gọi. Nhưng, hắn bỗng giật thót mình. Trên đầu hắn, tít mít trên ngọn cây gạo, vừa cất lên một tiếng gọi thống thiết:
- Cứu tôi với ới ới, ông tàu bay ơi ơi ơi!
Thưởng ngẩng lên. Người đứng trên ngọn cây gạo thân thẳng đuỗn, trông như người bị treo cổ. Và rướn cao cổ, Thưởng đã nhận ra được nét quen thuộc ở ông ta
- Ông Long! Ông Long đấy, hả?
Người đứng trên ngọn cây chính là ông Long thủ cống Nguyên Lộc. Nghe thấy tiếng Thưởng gọi ông không đáp lời. Ông thủ cống lợi dụng thời cơ những người chống lụt trên đê bận rộn vào việc cứu nguy cái tổ mối nổ, đã thoát khỏi cơn phẫn nộ của công lý, đã bỏ chạy trốn sang đây ư? Không! Ông đâu có sợ hãi. Thoát hiểm, chứng nào tật ấy, đêm qua ông đã mò về Bãi Soi. Ông về đây để đón những bè gỗ quý và hôi của. Giờ ông cũng đang ở trong cơn nguy khốn.
- Ông Long, tôi lên trên ấy với nhé!
Ông Long lại câm lặng. Mặc! Câm lặng thì câm lặng, Thưởng cứ ôm thân cây nhoai lên và mừng rỡ vì có kẻ cùng cảnh ngộ, hắn khoẻ hẳn lên.
Thưởng đã tới cái chạc cây trên. Nhưng sắp tới cái chạc cây thứ hai, hắn bỗng bật ngửa cổ và đưa một tay xuống con dao nhọn đeo bên sườn. Hắn định đề phòng kẻ trên ngọn cây giở trò giáo dở với đồng bọn lúc hoạn nạn chăng?
Không!
Khủng khiếp quá! Và bất ngờ quá! ở chỗ chạc cây thứ hai bốn năm cái đầu rắn vừa ngóc lên và chõ xuống. Mà không phải chỉ có thế. Quấn quanh chạc cây là cả một búi rắn. Hổ mang chì xám xì, hổ mang gầm cổ bạnh. Cạp nong. Cạp nia. Rắn ráo. Rắn nước. Lùng nhùng, nhuồi nhuội cả một đám nhẽo nhèo, ướt lạnh, nhầy nhẫy. Vừa cắn nhau kêu những tiếng chi chí man rợ, chúng vừa tranh nhau những con chuột đang nhẩy chuyền trên cành cây và khi thấy Thưởng vừa thò đầu lên, chúng liền quay hết cả lại, giương những cặp mắt ti hí lầm lì nhìn gã.
Bây giờ, Thưởng hiểu thêm rằng vì sao lão Long thủ cống trên ngọn cây lại đứng im phắc như cái thây ma thế. Lão sợ bọn rắn. Lúc này, như lão Thưởng cũng sợ lắm. Sợ, nhưng Thưởng không thể xuống được nữa rồi. Nước đã ngập cái chạc cây phía dưới.
Vậy thì Thưởng phải lên! Nước đuổi hắn thì hắn đuổi rắn, đuổi lão thủ cống. Đất sống rất hẹp. Vàng bạc khan hiếm. Chỉ kẻ mạnh mới có quyền tồn tại. Lấy lại lòng hăng hái, hắn nhích lên thận trọng, dự tính sẽ nhoài ra, tránh lũ rắn độc, bám vào đầu một cành nhỏ ở phía bên trái, rồi từ đấy sẽ có thế để đánh đuổi lũ rắn và tiếp tục leo lên.
Hắn nín hơi, lấy đà. Nhưng vừa bật mình nhoài ra, bàn tay phải vừa túm được đầu cái cành nhỏ thì hắn hiểu ngay rằng: mọi tiên liệu lúc này đều không thể lường hết được hết các mối hiểm nguy. Một cái đầu rắn hổ đã ngoắt lại nhanh như cắt. Thưởng cảm thấy cổ tay nhói buốt. Nghiến răng chịu đựng trong thế bung bênh giữa trời, hắn vẫn cố nắm chặt cành cây nọ và cố co tay như lên xà để cánh tay trái bắt nốt vào cành cây bên. Nhưng khốn nạn thay cho tính toán của kẻ gian ác cùng đường. Chuột đã chạy cùng sào. Vết rắn độc mổ gây đau nhức lên tận óc. Và nhất là lúc này, ngón tay chỏ cụt đốt do hắn tự huỷ hoại để trốn tránh một nghĩa vụ thiêng liêng đã thực hiện nghiêm túc luật quả báo. Ngón chỏ mất đốt đầu đã làm mất sức bám níu của bàn tay. Hắn buột tay.
- Ối giời ôi!
Kinh khủng quá! Từ trên ngọn cây, thủ cống Long tái nhợt mặt mày, lẩy bẩy chực ngã vì nhìn xuống thấy một súc thịt vừa rơi đánh ùm xuống nước. Lũ rắn ngay lúc ấy, như thấy hơi người, ngóc hết cả đầu lên ngọn cây.
- Cứu tôi với, ối ông tàu bay ơi ơi...
Ông thủ cống chột ngửa mặt lên trời, gào.
Cơn bão Nan-xi tan.
Ngoài biển đông lại đang hình thành một vùng áp thấp nhiệt đới, có gió xoáy cấp bẩy, cấp tám.
Các cơn bão gối đầu nhau, kế tiếp nhau đổ vào đất liền, như có ác ý muốn tàn phá đến tận cùng sự sống trên đất nước còn mang bao vết thương đau sau mấy chục năm đằng đẵng chiến tranh này.
Chưa bao giờ có một mùa mưa bão dữ dằn và khốc hại đến vậy. Cơn bão số 4 ập vào vùng Đèo Ngang gây mưa lớn chưa từng có ở miền Trung. Đồng bằng sông Cửu Long chịu hậu quả của những cơn mưa lớn trên đất Lào, ngập lụt hàng trăm héc-ta. Bão số 7 phá phách suốt từ Thanh Hoá tới Tây Nguyên. Bão số 8 quét một vệt dài từ Nam Bình Trị Thiên đến Quảng Nam- Đà Nẵng. Bão số 10 gây thiệt hại lớn vùng bờ biển Quảng Ninh. Mưa
lớn ở Tây Bắc, Việt Bắc. Mưa rất to ở trung du, ở đồng bằng Bắc Bộ, ở miền núi Trung Bộ. Nước sông Hồng lên cao, vượt thiết kế. Sông Hoàng, sông Yên, sông Bưởi, sông Cả, sông Mã, sông Chu, sông Gianh, sông La... vượt báo động cấp 3.
Đồng ruộng ngập úng. Vụ mùa thất bát. Công trình thuỷ lợi vỡ. Đường giao thông lở từng quãng dài. Cầu cống trôi. Núi đổ. Nhà sập. Của cải mất. Người chết.
Tất cả các triền đê đều tràn nước. Nhưng, cũng như quãng đê Nguyên Lộc, không một khúc đê nào bị vỡ hoàn toàn. Hiên ngang trước những thử thách nặng nề, những con đê, nỏ thần trừ thuỷ quái của dân tộc, vẫn vững vàng đối mặt với bão mưa, sóng gió phũ phàng!
Mùa mưa bão vẫn còn.
Thành phố tiêu điều sau mưa bão vẫn chưa kịp phục hồi các công trình bị tàn phá. Ngõ 401 lênh láng thứ nước cống đen nhánh. Điện thành phố mới khôi phục đã phải dành cho việc chống úng. Trong bóng tối lờ mờ của ngọn đèn dầu hoả trong căn buồng nhỏ vào những ngày này, có những giờ phút ông giáo Cần ngồi lặng như hoá đá. Trên chiếc bàn thờ nhỏ của ông, cạnh ảnh người vợ thân thương, giờ có thêm ảnh Trọng, con trai ông.
Trọng đã hy sinh vì kiệt sức lúc hàn khẩu. Ông nhận được tin đau đớn ấy khi cơn bão tan. Và lễ tưởng niệm Trọng tổ chức khi cơn bão tiếp theo bắt đầu khởi phát.
Trước bàn tang ngát hương hoa huệ, bạn bè ông, bạn bè Trọng đội mưa tới, kính cẩn nghiêng mình. Ông Chánh thay mặt cơ quan đọc điếu văn, một bài văn mang khí vị cổ xưa nhưng hết sức xúc động. Hai hôm sau, ông trưởng ban đi công tác xa về, vội vã đến cùng với ông Tiễu và một anh đeo kính trắng. Ông thủ trưởng cơ quan ân hận vì cho đến những ngày gần đây ông mới hiểu Trọng. Ông cho biết án kỷ luật của Trọng đã được xoá bỏ cùng với việc thi hành kỷ luật Hưng. Giờ mọi người mới thấy hết tội lỗi của Hưng. Người đeo kính trắng không nói, nhưng rưng rưng nhìn ông rồi đột ngột ôm choàng ông. Ông Tiễu nắm chặt tay người bạn già, mi mắt nhoèn nước, nhưng cố cứng rắn:
- Anh Cần! Chúng ta phải tự hào về Trọng. Không có những đứa như nó thì đời thật tồi tàn.
Ông Cần bật khóc khi nghe những câu nói ấy của ông Tiễu. Con ơi, đời con ngắn ngủi nhưng mỗi ngày là một ngày vàng chói lọi với cha. Con không nao núng ngã lòng trước cái xấu. Con gắn với cái đẹp, cái cao cả muôn đời. Con là một tài năng vì suy nghĩ của con lớn lao. Cuộc sống bao giờ cũng có tính khuynh hướng được biểu hiện ở những người như con, những người ấy đôi khi họ bị che lấp bởi những sự tầm thường, nhưng đã gọi là khuynh hướng thì không cái gì có thể cản ngăn được. Con soi đường tỏ lối cho cha. Có lẽ nào như vậy? Nhưng đó là sự thật. Bởi vì đời con vang lên lời kêu gọi với cha: Phải biết sống, biết chiến thắng, biết vượt qua thời kỳ khó khăn này.
Vợ chết vì bom giặc, con trai hy sinh vì chống giặc nước, bản thân mình chịu nhiều thiệt thòi, cay đắng, ông giáo Cần đau tê dại cả người.
Nhưng, ông không thấy mình suy mòn, khô kiệt sau cái chết của con. Cái chết của Trọng, lạ thay, lại như một nguồn sáng từ trên cao rót xuống tâm khảm ông. Đã có lúc ông thấy dường như đã xẩy ra sự huyền bí nào đó sau sự ra đi của Trọng. Ông như nghe thấy vẳng từ trên cao xanh xuống tiếng nói thân yêu của Trọng và ông đã có lúc chập chờn trong màn hư ảo: Nếu vậy thì Trọng đã về tới Thiên đường Đăng-tê dành cho những con người xứng đáng, nơi ấy chín thiên cầu lồng vào nhau, các linh hồn xếp thành hình hoa hồng bẩy cánh mênh mông.
Sau những phút đắm chìm ấy, ông Cần tỉnh táo. Nhất là sau khi nghe đài đọc bài báo của một anh nhà báo tỉnh viết về Trọng- một bài báo dựa trên những tư liệu phong phú do đội trưởng Ngoạn cung cấp, miêu tả lại toàn bộ câu chuyện và sự phát triển về tư tưởng của Trọng, một bài báo nói được cái phần quan trọng, cốt yếu nhất trong tâm hồn Trọng. Bài báo giúp ông càng hiểu con. Đọc lại những lá thư Trọng viết, nhớ lại những lời Trọng nói, tư duy một cách thấu triệt, những ý niệm ngờ ngợ về Trọng càng được ông khẳng định dứt khoát: Trọng đang hoàn thiện nhân cách mình.
Trong tuần lễ tang ấy còn có một người nữa đến thăm ông và thắp hương trên bàn thờ Trọng.
- Thưa bác, anh Trọng là một. Nhưng đối với cháu, anh ấy là một vạn, một triệu người. Vì anh ấy là con người ưu tú.
Người nói câu ấy đã lặp lại câu nói của danh nhân nhưng diễn đạt bằng cả tâm hồn mình. Đó là anh thủ kho hay văn sách.
Ông cảm ơn anh thủ kho.
Mỗi người tới với ông lại một lần giúp ông mở lối đi vào chiều sâu tận cùng của sự kiện. Trọng không chết. Trọng còn mãi. Sơn Tinh thắng Thuỷ Tinh. Cao cả thắng đê hèn. Hiện tại sáng tươi thắng tật bệnh quá khứ. Văn hoá thắng dã man. Tiến hoá thắng trì trệ. Huyền thoại thống nhất với hiện thực ở tính xu thế. Chiến thắng càng gian khổ càng đáng kiêu hãnh. Khuynh hướng chủ đạo của cuộc đời là vậy, không thể khác được. Cổ tích, thần thoại ngày xưa đã vậy. Huống hồ bây giờ!
Tuần lễ sau lễ tưởng niệm Trọng, một hôm ông giáo Cần đóng cửa, ra phố. Chiều, ông mới trở về. Từ hôm đó ông bắt đầu ngồi soạn bài. Tuy đã muộn, nhưng ông cứ trở lại với trường đại học- ở đây đã có nhiều sự đổi thay. Ông nghe lời Trọng: gắn mình với cơ chế cuộc sống luôn luôn chuyển động. Ông nhận ra những sai sót, những phút lạc đường của mình. Ông đã vượt qua những do dự, mặc cảm uỷ mị. Ông đã có tuổi, nhưng ở tuổi ông đâu chỉ là quá trình thoái hoá. Trong ông còn có một quá trình hồi phục, phát triển.
Nhưng, hôm nay, đã có một lúc ông giáo Cần phải ngừng công việc soạn bài.
Ngõ 401 và cái sân chung nhiều hộ ầm ầm ĩ ĩ. Bà Nhuần đi chợ về, vứt tạch cái thúng không xuống sân, ngồi bệt trên đất, vò đầu bứt tai, hờ thê thảm giữa tiếng cốc cốc chôông chôông cúng lễ của nhà Năm Sắt.
- Ôi các ông các bà, ối trời cao đất dày, ối cao tằng tổ phụ ơi! Cái lão Hảo nó lừa tôi. Nó bảo tôi ngồi nó đọc cho nghe câu chuyện Tây, rồi nó tán
tỉnh mân mó tôi, tôi u u mê mê đưa cho nó hai nghìn đồng để nó để lại cho cái máy khâu. Giờ, nó đem cả cái con Loan chạy đi rồi. Giời ơi là giời!
Ông Nhuần đang ngủ trên cái xích lô chồm dậy, rít.
- Thế nào! Thế nào!
- Còn thế nào nữa! Nó rủ rê con Loan nay đi xem phim, mai đi xem hát cải lương. Rồi nó bảo nó đèo con bé đi hội chùa Thầy, nó bắt con bé đem hết cả tiền đi, cả một nghìn bạc con bé vay của tôi làm vốn nữa.
- Rồi sao nữa, hả đồ ** dại!
- Rồi... người ta bảo... nó thuê khách sạn ăn ở dầm dề cả tuần với con bé như vợ chồng, rồi nó dẫn con bé chạy vào sứ quán Tây để cùng nhau sang Ba-di. Giời ơi là giời! Thế là mất cả con lẫn tiền! Thế này, thì tôi còn sống làm sao được, hở giời?
Ông xích lô nhảy xuống đất, nghiến răng, chửi:
- Đ. mẹ tiên sư mày, ngữa nghề như **, ngu như chó, chết là phải còn kêu ca nỗi gì!
- Mày bảo ai là **, là chó? Mày rủa ai? Cha tiên nhân mày. Mày tưởng bà cần đến cái thứ nhà mày, hả!
Bà Nhuần chuyển luôn nỗi đau tiếc vào cơn tức giận ông chồng, vỗ đồm độp bụng dưới, nhảy chồm chồm, trên sân.
Lúc ấy, thằng Lùng đi làm về. Mới một năm trời vào công việc lao động tập thể, nó đã lớn vượt và ra dáng con người trưởng thành. Nó đội cái mũ vải lưỡi trai bạc, mặc bộ quần áo xanh dính đầy vôi vữa, đứng ở giữa sân, khuỳnh tay, lừ mắt nhìn bà Nhuần mẹ nó, rồi cất giọng khàn khàn, nghiêm nghị:
- Thôi... thôi... đừng làm ầm ĩ như thế. Bác Cần bác ấy đang có chuyện buồn!
Ông Nhuần lườm bà vợ, lầm bầm:
- Động một tí là sồn sồn lên! Cái thằng cha Hảo ấy có mà đi thoát. Mẹ tiên nhân quân phản quốc. Cháy nhà ra mặt chuột là thế!
Rồi cái sân im lặng. Ông giáo Cần buông bút, thở một hơi dài nhè nhẹ. “ Kết cục là ông ta đã đóng chiếc tàu chạy lụt theo kiểu Nô-ê và đi như thế đấy! Thảm hại!”. Ông nghĩ về ông thợ vẽ và những chuyện vừa xảy ra, tự dưng thấy buồn tênh. Trước mặt ông là sự đổ nát không sao gượng lại được của một quan niệm sống, một lối sống nghèo nàn về tinh thần, và ngập chìm trong ham muốn vật chất tầm thường. Thời đại nào cũng có những tệ lậu và những cái vĩ đại. Có điều là những cái vĩ đại sẽ ngày càng tăng lên, giữa những cái xấu xa đang long lở ầm ầm, sụp đổ một cách khủng khiếp và cái mới, cái lớn lao đã ra đời với những đớn đau không tả xiết nhưng vô cùng kiêu hãnh, ở khắp mọi nơi, ở trong mỗi con người.
Lát sau, đã tĩnh trí, định cầm bút viết tiếp, ông giáo bỗng cảm thấy một hơi mát vừa tràn vào căn buồng nhỏ của mình. Quay lại, ông vội đứng dậy. Một phụ nữ trẻ mặc áo trắng cổ bẻ, dáng đậm, mặt tròn, dung dị, hai con mắt đằm thắm, chân thật, đứng ở cửa rụt rè nhìn ông:
- Thưa bác, đây có phải là nhà bác Cần?
- Vâng. Tôi là Cần đây.
- Thưa bác, cháu là Thuận, chủ tịch xã Nguyên Lộc, nơi anh Trọng xuống công tác. Xã cháu sẽ có một đoàn đại biểu sắp đến kính thăm bác. Cháu vội vì còn...
Người phụ nữ trẻ cúi xuống, chấm kẽ mắt và mở cái túi vải. đó là những kỷ vật cuối cùng của Trọng: Tập tài liệu tổng kết công trình tìm, diệt mối trong thân đê, cái đồng hồ, chiếc bút máy Trường Sơn. Và một tờ giấy khổ lớn gập tám.
- Thưa bác- Cô chủ tịch nghẹn ngào- Giờ cháu phải đi họp ở tỉnh để bàn về sản xuất vụ Đông. Cháu đại diện cho bà con, Đảng uỷ, uỷ ban Nguyên Lộc xin với bác một điều: Anh Trọng đã hy sinh vì nghĩa lớn, xã cháu muốn được lập đền thờ anh ấy.
Ông Cần trào nước mắt và khi cô chủ tịch đã đi, ông còn đứng run rẩy vì xúc động hồi lâu. Vẫn còn mãi mãi, với dân tộc này, những giá trị thiêng liêng. Sẽ còn mãi mãi cho đời sau những di sản tinh thần cao quý. Làm sao, có cái gì có thể thay thế được?
Sực nhớ, ông vội đeo kính, giở tờ giấy gấp tám của Trọng. Đó là lá đơn Trọng xin vào Đảng lúc nào Trọng cũng để ở túi áo bên ngực trái. Nước sông và nước mưa đã làm nhoè nhiều nét chữ. Tuy vậy, ông vẫn còn đọc được những hàng chữ ở đầu trang giấy: “ Giữa những ngày gian khổ, khó khăn và có những kẻ dao động này, tôi tự nguyện và tha thiết bày tỏ niềm tin của tôi”.
Ông vuốt phẳng lá đơn của con, để trên bàn rồi đặt tấm kính đè lên trên, cố định ở vị trí trước mặt ông; lá đơn, biểu trưng của sự thăng hoa nhân phẩm, khát vọng vươn tới nấc thang cao nhất trong giá trị tinh thần của Trọng.
Cả chiều hôm đó, ông giáo bỏ công việc soạn bài. Ông ngồi lặng lẽ nghĩ suy giữa bộn bề những cảm xúc, ấn tượng, ý nghĩ, hình ảnh đã khắc sâu vào ký ức.