Thầy Hội đồng Bành Ðại Lợi cách nói chuyện thì là quê mùa, lời luận biện thì là dốt nát, nhưng mà cái quê của thầy nó có cái vẻ chơn chất, cái dốt của thầy có cái vẻ tự nhiên, bởi vậy người có ý dọ nhơn tình hay là có tánh xét thái thế, ngồi nghe thầy nói chuyện, ắt phải sanh một mối cảm lạ lùng, rồi trong lòng bắt mến thầy về cách quê lời dốt ấy.
Tại như vậy đó mà thầy nhứt Phát là một người hay khảo cứu thái thế, lại đương uất về nhơn tình, thầy nói chuyện với thầy Hội đồng Lợi có mấy giờ đồng hồ rồi trong lòng thẩy mến thầy Hội đồng Lợi hơn hết thảy mọi người trong xứ Tiểu Cần. Thầy nhớ những lời Hội đồng Lợi khuyên lơn thầy mấy điều thuở nay chưa từng nghe ai khuyên như vậy. Thầy nhớ cái cách thầy Hội đồng Lợi ngồi nói tự nhiên những chuyện thuở nay người ta cho là xấu hổ nên không dám nói ra. Thầy đã mến về mấy chỗ đó, mà lại còn mến vì thầy Hội đồng Lợi với thầy tâm đầu ý hiệp nữa.
Từ đó về sau cách đôi ba đêm thì thầy nhứt Phát với thầy Hội đồng Lợi có gặp nhau một đêm, nếu người này không qua thì người kia lại, mà mỗi lần gặp nhau thì đàm luận việc đời, chỉ chỗ phải, chê chỗ quấy của thiên hạ, đến hai ba giờ đồng hồ cũng không nhàm.
Một đêm nọ, hai người đương nói chuyện gia đình, thầy Hội đồng hỏi thầy nhứt rằng: "Thầy nhứt nè thầy đã trộng tuổi, mà lại có chỗ ăn chỗ làm, sao thầy chưa lo cưới vợ dặng lập gia thất với người ta? Nếu thầy muốn, tôi kiếm chỗ tôi chỉ cho thầy coi, rồi như thầy đành thì tôi làm mai giùm cho".
Thầy nhứt Phát đã có một cái ý riêng, mà ý ấy thầy chưa dám thổ lộ cho ai biết, bởi vậy thầy nghe lời Hội đồng hỏi thì thầy châu mày, ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp rằng:
- Việc vợ chồng tôi chưa tính được. Có lẽ một vài năm nữa rồi sẽ hay. Vợ là một người bạn trăm năm của mình, phải lựa người một tánh, một ý với mình mới được, chớ làm bốc hốt chồng một tánh, vợ một ý, thành ra gia đình là cái cảnh địa ngục trọn đời, mình chịu sao nổi.
- Thầy này kén vợ quá! Coi chỗ nào được thì cưới phứt, hơi nào mà kén. Ðể tôi kiếm chỗ thiệt thà, mà có ruộng đất, đặng sau này thầy nhờ chớ.
- Không được đâu.
- Sao vậy?
- Thiệt là một tánh tốt thiệt. Nhưng mà có vợ thiệt quá, mở miệng ra nó nói cụt ngủn, cụt ngẳn, mình nói xa nói gần nó không hiểu gì hết, thế cũng khó chịu lắm chớ. Còn tính cưới vợ giàu thì cũng quấy nữa. Làm đờn ông hễ có vợ thì mình phải lãnh nuôi vợ, chớ sao lại mong nhờ nó.
- Mình có vợ bên vợ chia gia tài, mình lãnh mà ăn, như vậy xấu hổ lắm hay sao?
- Không xấu hổ lắm, nhưng mà mình tính cưới vợ giàu đặng hưởng gia tài thì là không tốt.
- Hừ! Thầy khéo nói! Có nhiều người họ mưu sự hoặc lập thế, hoặc dụng quyền mà cướp giựt của thiên hạ mà họ làm giàu, rồi cũng thấy có ai chê cười họ đâu, coi thế thiên hạ lại kính phục họ lắm chớ. Lãnh gia tài bên vợ có cái gì gian ác đâu mà thầy nói không tốt?
- Ậy, của mình làm ra mà ăn thì tốt hơn hết.
- Làm cách nào cũng là làm vậy chớ. Thầy nói trái đời quá! Vậy chớ thầy không thấy thiên hạ họ ăn của người khác làm ra đó sao. Như tôi đây nè, của tôi làm ra mà thiên hạ họ ăn đó.
Hai người cười xòa.
Ðến kỳ thi bằng sơ học, học trò của thầy nhứt Phát đi thi mười lăm, đậu được mười bốn, rớt có một học trò. Ông Ðốc học mừng quá, ông cám ơn và khen ngợi thầy nhứt vô cùng. Ðốn bãi trường, ông Ðốc cậy thầy nhứt dạy riêng giùm con ông. Thầy nhứt mắc về Sài Gòn nên không dám hứa lời.
Lúc bãi trường thiệt thầy nhứt Phát ở với anh trên Sài Gòn trọn hai tháng. Còn vài ngày nữa khai trường thầy mới đi xe hơi đò mà xuống Tiểu Cần. Xe xuống tới Vĩnh Long đậu nghỉ cho hành khách ăn uống. Một lát có xe hơi đò Trà Vinh cũng lên đậu gần đó và trên xe có tiếng người kêu "thầy nhứt, thầy nhứt" tưng bừng.
Thầy nhứt Phát bước lại gần thì thấy cô Thiện Tú với em là trò Thiện Chí xuống xe đi uống cà phê. Cô Thiện Tú ngó thầy nhứt Phát, miệng chúm chím cười mà nói rằng: "Hai chị em tôi đi nhập trường. Xưa rày tôi về tôi trông thầy dữ quá. Tôi muốn gởi thơ, ngặt không biết thầy về Sài Gòn ở đường nào, số nhà mấy mà gởi. Bộ thầy giận tôi hay sao mà bãi trường thầy ở miết trển, không chịu xuống dạy tôi? Năm nay tôi thi. Nếu tôi thi rớt, tôi mắc đền thầy cho thầy coi"
Xe bóp kèn kêu hành khách. Thầy nhứt Phát không kịp trả lời, lật đật từ giả mà đi, chỉ mắt liếc miệng cười mà tỏ dấu mình cảm những lời trách móc mà hữu tình của cô nọ.
Qua năm sau, thầy nhứt Phát cũng dạy như thường. Mấy thầy cùng làng tổng đối với thầy cũng lạt lẽo như năm trước, duy có thầy Hội đồng Bành Ðại Lợi thì hay qua lại mà đàm luận.
Một bữa chúa nhựt, thầy nhứt Phát qua thăm thầy Hội đồng, thấy thầy nọ nằm gác tay ngang trán, mặt buồn xo. Thầy nhứt Phát hỏi có việc chi mà sắc mặt ưu sầu. Thầy Hội đồng thở dài mà nói rằng: "Việc nhà tôi bối rối một chút, nên mấy bữa rày tôi không vui. Tôi nhớ tôi đã nói với thầy, ruộng đất của tôi nhiều mà tôi thiếu nợ cũng bộn, lớp thì nợ riêng của tôi, lớp thì tôi lãnh cho anh em. Hiện bây giờ tôi đứng bộ tại Tiểu Cần một trăm năm mươi mẫu ruộng ngoại hạng và bên Phước Long một sở năm trăm mẫu. Ruộng bên này giá đáng bốn trăm đồng một mẫu, còn ruộng Phước Long hồi đó tôi mua giá gần hai trăm đồng một mẫu. Cộng hết gia tài của tôi ít nào cũng một trăm năm chục ngàn đồng, không kể nhà cửa. Mấy năm trước, mùa thường thường, tôi thâu góp về lúa ruộng, về lúa vay, gần ba chục ngàn giạ, thì mỗi năm tôi có huê lợi ba mươi sáu ngàn đồng bạc. Mùa rồi đất bên Phước Long hồi cấy rồi thì bị tim, chừng lúa trổ lại bị háp. Tôi thất dữ quá. Tôi thâu góp hết sức, mà về bên nây, về bên Phước Long cộng non mười ba ngàn giạ. Còn nợ thì thiệt phần riêng của tôi thiếu về vốn về lời chừng năm ngàn. Ấy là nợ hồi mua đất Phước Long hụt tiền nên tôi phải vay thêm, Rồi bị mấy năm làm Hội đồng phải ăn xài chơi bời với anh em, nên tôi trả không được, còn đọng lại đó. Còn tôi bảo lãnh cho anh em, tôi nhớ số vốn chừng ba mươi lăm ngàn, không biết mấy năm nay người nào có trả tiền lời người nào không trả, nên khó biết chắc số thhiếu được. Năm nay tôi thấy lúa góp ít quá, nên tôi vựa mà nhóng giá, chờ lúa phát giá lên cao rồi sẽ bán đặng may đỡ cái thất chút đỉnh chăng; nào dè hôm tháng tư lúa bắt đầu sụt giá lần lần, sụt riết bây giờ còn hai đồng mười một tạ, nghĩa là không đồng bảy mươi hoặc không đồng bảy lăm một giạ. Chết chưa! Lúa thì góp ít. lại phải để ít nữa năm ngàn giạ đặng cho tá điền ăn, phải bán trên vài ngàn giạ mà đóng thuế, còn lại có năm sáu ngàn giạ, mà theo giá lúa này, thì làm sao mà trả nợ!"
Thầy nhứt chận hỏi:
- Năm thất mùa, lúa giá rẻ, mình nói với chủ nợ mà trả tiền lời, còn vốn để qua năm khác, không được hay sao?
- Trả nội tiền lời cũng không đủ. Mà đã hai năm rồi tôi không có trả tiền lời, chớ phải nội năm nay hay sao?
- Úy! Nếu vậy thì trả giống gì nổi!
- Bởi vậy cho nên hổm nay đã có hai thằng Chà xã tri nó tới đòi và hăm kiện. Tôi không biết tính sao cho được. Thiệt, dầu nợ tôi vay, hay là nợ tôi bảo lãnh, tôi cũng không có treo đất cái gì hết. Mà tôi sợ hễ nó kiện đặng án rồi, nó thi hành phát mãi hết ruộng đất nhà cửa của mình cũng được vậy chớ, phải hay không thầy?
- Tôi không có học luật Tòa, nên tôi không hiểu việc đó. Mà tôi thường có nghe hễ mắc nợ mà không trả, thì tự nhiên chủ nợ kiện rồi phát mãi gia sản chớ sao?
- Nguy chưa! Bây giờ biết làm sao? Tôi nói thiệt nếu họ thi hành phát mãi hết gia sản của tôi thì chắc tôi phải chết.
Thầy Hội đồng đốt đèn, làm thuốc á phiện mà hút và mời thầy nhứt nằm ngang mặt đặng nói chuyện chơi. Thầy hút ít điếu rồi thầy nói rằng:
- Tôi tính như vầy không biết được hay không?
- Thầy tính sao?
- Chà nó hăm hiện, chớ tôi chắc chưa kiện đâu. Ruộng đất của tôi không có treo hay là cầm cố cho nó chi hết. Tôi muốn kiếm người tôi làm giấy bán hết ruộng đất nhà cửa của tôi cho họ. Tôi bán tôi đóng bách phần cầu chứng hẳn hôi rồi sang bộ cho họ dứng hết, thì Chà nó phát mãi gì được. Họ đứng bộ đó là họ đứng bộ giùm cho tôi, chớ không phải bán thiệt.
- Tôi sợ không được chớ. Làm như vậy thì mình gian dối quá.
- Bị vậy thì phải kiếm thế thoát thân, dầu kế nào cũng được; nếu ái ngại thì chết cò gì. Thầy tưởng bọn cho vay nó ở với mình lại có nhơn nghĩa gì đó hay sao? Nó cắt họng mình chết tươi. Hồi mình làm ăn khá, nó thấy vậy nó đem bạc tới nhà mình nó nài nỉ mình vay; tại như vậy tôi mới dám mua đất Phước Long đó chớ. Bây giờ nó thấy mình suy, nó tới đồi ngày một, hăm phát mãi, hăm giam thân. Còn bạc vay nó lấy tiền lời trước, té ra mình lấy số bạc ít, mà trong giấy phải làm nhiều. Mấy năm nay tôi trả cho nó nhiều quá rồi, mà số vốn còn y nguyên. Nó cắt họng mình, thì mình giựt lại, tôi nhắm không tội gì. Mà tôi tính kiếm người sang bộ đất đây, là làm đỡ cho khỏi bị phát mãi, nếu sau lúa phát giá lên lại, tôi khá, thì tôi cũng trả nợ, chớ không phải nói ngược.
- Thầy kiếm người cậy đứng bộ, ruộng đất giùm cho thầy, ví như người ta làm chủ rồi ngưòi ta lấy luôn, hoặc người ta bán lại cho người khác, rồi thầy làm sao?
- Khó là khó chỗ đó đa, bởi vậy tôi bối rối không biết ai đáng tin cậy mà dám mượn.
- Tôi tưởng nếu thầy có làm như vậy thì phải cậy anh em bà con ruột mới được, chớ đừng có cậy người dưng, họ lấy luôn rồi thầy hỏng chưn.
- Cha chả! Anh em bà con bây giờ có ai đâu, Tôi có một thằng em trai, mà nó không thuận với tôi. Hồi bà già tôi mất, nó kiện tôi mà giành gia tài. Nó thất kiện nó oán tôi từ đó tới giờ, nó có đến nhà tôi đâu. Nếu tôi mượn nó đứng bộ đất, chắc nó đoạt luôn. Còn bên vợ của tôi, có haui đứa em trai và một đứa em gái, mà cả ba đứa đều rượu trà bài bạc vất vả, không đứa nào nên thân, tôi đâu dám tin cậy. Thiệt là khó.
- Nếu anh em ruột không được, thì cậy bà con hoặc nhà bác, hoặc nhà chú, hoặc nhà cậu, hoặc nhà cô.
- Bà con bây giờ cũng không có người nào hết. Còn những người quen biết thuở nay, trời ơi, mình có dám tin ai đâu. Tôi thường có nói với thầy, những người họ thân thiết với tôi đó là họ làm mặt đặng họ lột da tôi, chớ có tình nghĩa gì đâu. Ở xứ này thiệt tôi không dám tin ai hết. Tôi nhắm lại bây giờ chỉ có một mình thầy thì đáng cho tôi tin cậy. Tôi chơi với thầy mấy tháng nay, tôi thấy rõ tính tình thầy thiệt là ngay thẳng đúng đắn, không thèn dua bợ ai, việc gì quấy chẳng bao giờ chịu làm. Tôi nói thiệt thầy nhỏ tuổi hơn tôi nhiều, mà tôi thấy tánh tình thầy như vậy, thì tôi kính phục thầy lung lắm. Tôi muốn cậy thầy làm ơn đứng bộ giùm ruộng đất nhà cửa cho tôi. Tôi sang bộ cho thầy đứng thì tôi vững bụng, không lo gì hết.
- Tôi nhỏ, mà việc đó to tát quá, thiệt tôi không dám đâu.
- Có sao đâu mà sợ. Tôi làm tờ bán dứt hết ruộng đất nhà cửa cho thầy. Tiền làng thị nhận, tiền đóng bách phần tôi lo hết thảy, thầy chỉ có ký tên mà thôi, thất công có bao nhiêu đó.
Thầy nhứt Phát ngồi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi nói rằng:
- Tôi nghĩ tôi giúp thầy việc đó không được.
- Tại sao vậy?
- Việc thầy tính đó không được ngay thẳng. Tôi vô can mà tôi xen vô rồi chịu mang tiếng coi cũng kỳ.
- Bởi thầy là anh em, tôi thấy thầy có lòng thương tôi, nên tôi mới dám cậy thầy chớ. Tôi bây giờ chẳng khác người nào té dưới sông, bị trôi giữa dòng nước chảy. Tôi thấy có một mình thầy đứng trên bờ sông, tôi kêu thầy mà cầu cứu. Có lý nào thầy nói tại tôi dại té xuống sông chết thì chịu, thầy không thèm cứu, rồi thầy làm lơ bỏ mà đi đành hay sao?
- Tôi thương thầy lắm. Việc thầy cậy đó không phải là khó làm, hay mà làm tốn hao gì của tôi. Ngặt vì việc làm đó không chánh trực, nên tôi không khứng chớ.
- Tôi đã nói với thầy, tôi tính sang bộ ruộng đất đây, không phải tôi cướp giựt gì của chủ nợ đâu mà thầy sợ tôi làm ác. Nợ tôi lãnh cho người ta đó, là tôi làm ơn lãng giùm, chớ tôi không có chia
Năm này lúa gạo mới bắt đầu hạ giá, cuộc kinh tế vừa mới đình trệ chút đỉnh, nhưng nông công thương nghiệp chủ không dè phải mang một cái nguy lớn, nên ai nấy cứ hăng hái, thậm chí những hạn người cho vay cũng không dè thiên hạ trả nợ cũng không nổi, nên không đề phòng, không ốp bộ đất điền của người thiếu nợ.
Thầy Hội đồng Lợi nhờ cái cơ hội ấy mà thầy sang bộ điền sản cho thầy Hà Tấn Phát đứng được khỏi bị ngăn trở. Nhưng mà hai người Chà Và chủ nợ của thầy, tên là Annouchetty và Ibrahamachetty, nhờ ai tọc mạch cho chúng nó hay không biết, mà sang bộ đất mới được vài ngày, thì nó tới nhà thầy Hội đồng Lợi làm rầy, chúng nó mắng thầy là đồ ăn cướp và hăm sẽ nạp đơn cho quan Biện lý mà cáo thầy về tội sang đạt đặng cho thầy ở tù. Chúng nó lại vào tại trường học mà kiếm thầy nhứt Phát. Ông Ðốc học ngó thấy, ông giận quá, nên đuổi hai người Chà ra khỏi cửa lập tức rồi ông kêu thầy giáo nhứt vào mà quở rằng: "Thầy làm việc tồi bại quá! Thầy rước tới khách như vậy vô trường, thoảng như quan Giám đốc hay là quan Chủ quận gặp, có phải là người ta quở tới tôi nữa hay không?"
Thầy nhứt Phát biết lỗi nên ú ớ nói rằng:
- Tôi xin lỗi ông, tôi không có quen biết chi hai người Chà đó. Tôi cũng hiểu họ kiếm tôi để làm chi.
- Thầy có vay tiền, vay bạc của chúng nó hay không?
- Thưa, không.
- Ờ, tôi biết rồi. Hai người Chà này là chủ nợ của Hội đồng Lợi. Tôi nghe thầy giáo nhì nói thầy Hội đồng Lợi sang hết điền thổ cho thầy đứng bộ, thiệt có như vậy hay không?
- Thưa, có.
- Nếu vậy thì hai người Chà này đi kiếm thầy đặng nói chuyện đó chớ gì. Thầy làm cái đó bậy lắm. Thầy với Hội đồng Lợi làm cái đó là ấy lật nợ của người ta. Nếu người ta vô đơn kiện hai người về tội sang đoạt, thì chắc hai người bị kết án hết thảy. Làm thầy giáo thì lo dạy học trò, sao lại mưu sự chi vậy? Ðố thầy khỏi mang họa!
- Tôi làm phải, không lẽ trời đất để cho tôi bị hại.
- Trời ơi, thầy làm việc gian dối bằng trời, mà thầy còn gọi là làm phải chớ! Thôi thầy khôngtin, thì để rồi coi.
Thầy nhứt Phát vì thương Hội đồng Lợi nên chịu giúp cho thầy mà không suy nghĩ cho kỹ. Ðã biết hồi ban đầu thầy cũng hiểu là việc không ngay thẳng mà bị thầy Hội đồng Lợi năn nỉ quá, lại thẩy không thân thiết với ai, không ai chỉ giùm chỗ lợi hại bởi vậy thầy không dè làm như vậy phải mắc tội hình. Nay thầy nghe ông Ðốc học nói mấy lời thì thầy Phát lo, tính để tan học về rồi thầy sẽ qua kiếm thầy Hội đồng Lợi mà thương nghị.
Chẳng dè về tới nhà thì thấy hai ngườu Chà Và đã ngồi sẵn tại nhà mà chờ thầy. Hai người Chà hỏi thầy vậy chớ làm cái gì có tiền bạc mà mua hết gia tài của Hội đồng Lợi. Thầy thấy làm bối rối, không biết sao mà trả lời. Thầy chỉ nói là thầy không biết, và biểu muốn nói gì thì nói với Hội đồng Lợi chớ thầy không thiếu nợ mà tới nhà thầy. Hai người Chà ra cửa và nói rằng: "Anh lập thế sang đoạt của tôi mà. Tôi kiện anh ở tù".
Thầy nhứt Phát ăn ba hột cơm rồi bỏ ngủ trưa, tuốt qua nhà Hội đồng Lợi. Thầy thuật lại những lời ông Ðốc học nói và mấy tiếng Chà Và hăm cho thầy Hội đồng nghe, và nói rằng:
- Vì tôi thương thầy, tôi giúp thầy mà tôi không xét kỹ. Nếu Chà Và nó kiện, Tòa hỏi tôi làm cái gì có tới bảy chục ngàn đồng bạc mà mua hết ruộng đất của thầy thì tôi trả lời sao được. Mà hễ mình trả lời không được, thì tức thị mình gian, rồi Tòa buộc mình về tội sang đoạt. Tôi giúp cho thầy mà tôi phải bị án thiệt là đau lắm!
- Có sao đâu mà lo. Tiền bạc mình có bao nhiêu, mình cần gì phải khai cho ai biết. Có lý nào Tòa hỏi kỳ như vậy. Nói cùng mà nghe, ví như nó kiện mà mình thất, thì bất quá Tòa hủy bỏ tờ mua của thầy rồi đem ruộng đất ra phát mãi, chớ chuyện gì thì phải ở tù. Thầy đừng lo. Tôi có quen bên Tòa nhiều. Ðể chiều nay tôi qua tôi hỏi mấy thầy ở bển coi phải lập thế làm sao mà chống cự với nó. Chuyện này để tôi lo cho. Thầy giúp giùm cho tôi, có lý nào tôi để cho thầy bị hại hay sao mà thầy sợ.
- Phải tôi lo làm sao, chớ đừng có để lôi thôi chết tôi đa nghé.
- Ðể cho tôi lo cho mà.
Tuy thầy Hội đồng Lợi nói cứng cỏi như vậy, nhưng thầy nhứt Phát cũng không an tâm. Thầy đi dạy học mà trong trí thầy lo, trong bụng thầy buồn lung lắm. Vô đến trường thầy thấy mấy thầy giáo hễ ngó thấy thầy thì họ nói nhỏ xầm xì với nhau. Thầy thấy làm phiền cho thói đời, sau người ta có chuyện buồn rầu đã không biết thương xót, hoặc giúp đỡ lời nói, mà lại còn dị nghị cười chê.
Cách chừng nữa tháng, thầy nhứt Phát được trát của quan Thẩm án Tòa Trà Vinh đòi hầu. Thầy biết chắc Chà Và đã nạp đơn đầu cáo rồi, nên lật đật chạy qua nhà thầy hội đồng Lợi hay, thầy hội đồng Lợi nói: "Phải Chà Và kiện rồi, tôi hay trước hổm nay, song tôi sợ thầy buồn, nên tôi không dám nói. Tôi cũng có được trát Tòa đòi hầu như thầy vậy. Ðể bữa đó rồi hai anh em mình đi hầu một lượt với nhau. Tôi có hỏi thăm mất thầy bên Tòa thì họ nói bên Chà Và kiện không đủ chứng cớ. Chúng nó cho người ta vay, chúng nó dại không buộc người ta treo đất, mà rồi cũng không chụp bộ trước, để cho người ta bán đất thì chúng nó chịu, chớ kiện cái gì. Tuy nói vậy, mà để bữa hầu coi Tòa định thế nào; nếu có mòi trắc trở thì tôi tuốt lên Vĩnh Long mời trạng sư xuống bào chữa luôn cho hai anh em mình, không có sao đâu mà thầy sợ".
Gần tới ngày hầu, thầy nhứt trình cho ông Ðốc mà xin phép đi hầu Tòa. Ông Ðốc chắt lưỡi lắc đầu mà nói rằng: "Thầy coi hôm trước tôi nói đó trúng hay không hử? Chuyện này khó lắm, chớ không phải chơi đâu. Trong trường có tôi làm đầu. Thầy muốn làm việc gì sao không hỏi tôi. Chớ phải thầy cho tôi hay thì tôi cản, tôi có để cho thầy làm bậy như vậy đâu. Thầy nói thầy thương Hội đồng Lợi, nên thầy cho mượn tên đặng sang bộ đất thầy đứng giùm cho va. Bây giờ đổ bể ra thầy nói như vậy ai mà tin. Tôi chắc bề nào Tòa cũng nói thầy ra ý với Hội đồng Lợi mà lật nợ của Chà Và rồi Tòa buộc hết hai người về tội sang đoạt. Thầy làm chuyện đó thiệt là kỳ quá! Thằng cha Hội đồng Lợi là bợm hút xách, hồi trước có tiền nên lo làm Hội đồng, chớ có ra gì đâu. Thầy coi trong làng này có ai mà ưa va. Không biết tại sao mà thầy nghe lời va, đi làm chuyện như vậy. Thôi, thầy cứ đi hầu coi Tòa dạy lẽ nào".
Thiệt đến bữa hầu, Hội đồng Lợi qua kêu thầy nhứt Phát đi, mà lại có dắt vợ theo nữa.
Quan Thẩm án kêu Hội đồng vô trước rồi mới kêu tới thầy nhứt. Ngài hỏi mỗi người và lấy khai. Vì lúc đi dọc đường vợ chồng Hội đồng Lợi cứ theo năn nỉ xin thầy nhứt phải khai quả quyết thầy mua ruộng đất đó, chớ không phải cho mượn tên đứng bộ giùm, mà thầy nhứt cũng sợ nếu nói mình cho mượn tên đặng sang bộ, té ra mình gian, bởi vậy Tòa hỏi thì thầy khai quyết rằng mua gia sản của Hội đồng Lợi. Tòa hỏi thầy làm thầy giáo mỗi tháng lãnh lương có mấy chục đồng bạc, lại mới làm thầy giáo vừa hơn một năm, thầy làm sao có tới số bạc bảy chục ngàn mà mua nhà cửa ruộng đất. Thầy ú ớ một hồi rồi khai rằng ấy là bạc của anh thầy, laø Hà Tấn Tài ở Sài Gòn, cho thầy vay mà mua đó.
Quan Thẩm án lấy khai xong rồi ngài mới phán rằng Bành Ðại Lợi với Hà Tấn Phát bị phạm tội sang đoạt người thứ nhất là chánh phạm, người thứ nhì là đồng lõa. Lẽ thì ngài phải giam hết hai người nhưng xét vì một người là điền chủ lớn, còn một người là viên dịch của nhà nước, cả hai đều có gia trụ, vậy ngài cho tại ngoại hầu tra, song không được phép đi đâu xa, hễ có trát đòi thì phải đi hầu.
Thầy Hội đồng với thầy nhứt bước ra khỏi Tòa đều đổ mồ hôi. Thầy Hội đồng thuật các lời của Tòa hỏi lại cho vợ nghe, thì bà vợ nhứt định phải đi mướn trạng sư. Vợ chồng Hội đồng đi luôn lên Vĩnh Long, còn thầy nhứt thì phải trở về Tiểu Cần, mặt buồn hiu.
Cách ít ngày, có trát Tòa qua làng mà hỏi tánh hạnh và tài sản của thầy nhứt Phát. Làng lấy sự thiệt mà trả lời, làng nói thầy Hà Tấn Phát làm thầy giáo thì mẫn cán, song ít kiêng nể tổng làng, còn tài sản của thầy thì ngoại trừ số ruộng đất nhà cửa thầy mua của Bành Ðại Lợi, thầy mỗi tháng có lãnh mấy chục đồng bạc lương, chớ chẳng có huê lợi chi khác.
Thầy nhứt Phát lo sợ, ăn ngủ không được. Thầy tính viết thơ mà tỏ công việc này cho anh là Hà Tấn Tài hay, mà vì vợ chồng ông Hội đồng Lợi đi Vĩnh Long về nói đã mướn trạng sư tám trăm đồng và trạng sư đã hứa sẽ làm cho hai người khỏi tội gì hết. Ðã vậy mà thầy nghỉ việc mình làm mình chẳng cố tâm làm quấy, không lẽ nào Tòa phạt mình, nếu mình cho anh hay thì mình làm bận lòng anh chớ không ích chi, bởi vậy thầy tính viết thơ mà rồi thầy không viết.
Cách mười ngày sau, có nghị định của quan trên gửi cho ông Ðốc học trường Tiểu Cần dạy phải truyền rao cho thầy giáo Hà Tấn Phát hay rằng vì thầy bị Tòa buộc về tội sang đoạt, nên quan trên định ngưng chức thầy, đợi chừng nào Tòa xử xong rồi sẽ định đạt. Ông Ðốc học truyền rao rồi ông nói thêm rằng: "Tôi nói quả hôn hả? Chuyện thầy làm đó khó lắm mà. Thôi bây giờ thầy phải giao đồ mà về ở nhà, chớ kể từ ngày nay còn lương bỗng nữa gì đâu mà dạy. Thầy báo quá, bây giờ tôi phài lên dạy lớp nhứt, chớ biết làm sao".
Thầy giáo Phát nghe được tin này chẳng khác nào thầy bị sét đánh ngay mình, mắt đổ hào quang, lỗ tai lùng bùng. Thầy giao sách vở lại cho ông Ðốc, không nói được một tiếng. Giao việc vừa xong, kế tới giờ cho học trò ra chơi. Thầy nhơn dịp ấy bắt tay từ giã mấy thầy giáo mà về liền.
Thầy bước ra đường thầy lấy làm hổ thẹn, lầm lũi đi riết về nhà, không dám ngó ai hết. Về đến nhà thầy nằm dài trên ghế bố, nước mắt tuôn dầm dề. Bây giờ biết tính làm sao? Chắc là phải bị án, mà hễ bị án, thì mất chức chẳng nói làm chi, lại còn bị ở tù nữa mới khổ! Trời ôi! Bước chơn vào đường đời, chí dốc làm việc phải, đi đường ngay. Cái phải, cái ngay đó, tự nhiên kết quả như vậy hay sao? Phải viết thơ cho anh hay mới được. Cha chả! Mà viết thơ bây giờ nói làm sao? Hồi nào mình hứa mình sẽ gìn giữ thân danh, mình chẳng để hổ lương tâm đặng đền bồi cái công nuôi dưỡng ăn học. Bây giờ mình làm đến nỗi bị Tòa buộc tội sang đoạt, đến nỗi bị quan trên ngưng chức, mình đã phụ lòng anh chị, mình đã làm nhục tông môn, lẽ thì mình chết phức cho rồi, còn mặt mũi nào mà viết thơ cho anh nữa. Thôi, khoan viết thơ cho anh, để qua vợ chồng Hội đồng Lợi hay coi thầy tính lẽ nào đã.
Thầy giáo Phát rửa mặt rồi qua nhà thầy Hội đồng Lợi. Thầy tỏ việc thầy mới được giấy ngưng chức. Thầy Hội đồng nghe nói thì chắt lưỡi mắt rưng rưng mà nói rằng: "Thầy muốn cứu tôi mà thầy phải bị hại, thiệt tôi buồn quá. Tôi không dè chuyện trở ra lại khó như vậy, phải mà tôi biết, tôi có dám đâu".
Vợ chồng Hội đồng Lợi tiếp nói rằng: "Thầy nhứt nè, ông trạng sư ổng nói chắc lắm. Trước hai mặt vợ chồng tôi, ổng nói việc chẳng khó, hễ ổng cãi thì Tòa tha bỗng hết. Thiệt thầy bị ngưng chức, thì vợ chồng tôi hết sức buồn. Song tôi xin thầy chớ phiền, để cho vợ chồng tôi lo. Thầy làm ơn lẽ nào vợ chồng tôi để cho thầy bị án hay sao. Ðể tôi nói cái này cho thầy nghe: nếu Tòa mà kêu án thầy với nhà tôi về tội sang đoạt thì tự nhiên mấy cái tờ mua bán đất ấy đều giả hết. Mà hễ tờ ấy giả, thì Tòa phải hủy bỏ, rồi đem bộ ruộng đất lại cho ở nhà tôi đứng cho Chà Và nó thi hành phát mãi còn gì. Vậy vợ chồng tôi phải lo lắm, chớ dám buông đâu mà thầy sợ. Ðể sáng mai vợ chồng tôi qua Trà Vinh mà hỏi dọ lại coi, nếu việc không xong thì tôi mướn thêm một ông trạng sư nữa. Bề nào tôi cũng hết nhà cửa hết ruộng đất. Vậy tốn hao bao nhiêu vợ chồng tôi cũng phải lo, chớ đâu dám lôi thôi".
Thầy giáo Phát nghe vợ Hội đồng Lợi nói có lý, nên thầy an tâm mà về. Thầy ở nhà mấy bữa mà chờ trát Tòa đòi hầu. Những người quen biết chẳng có một ai tới thăm, mà có bữa thầy ra đường gặp họ thì họ day mặt đi chỗ khác, không thèm chào hỏi. Thầy đã buồn việc nhà của thầy, mà thầy thấy nhơn tình đen bạc dường ấy thầy càng buồn hơn nữa. Thầy viết thơ cho anh hai ba lần, mà lần nào cũng vậy, hễ tối viết rồi sáng thầy xé, không dám gởi.
Thầy buồn rầu quá, mà đợi hoài không thấy Tòa đòi hầu. Thầy bèn nhứt định trở về Sài Gòn tỏ thiệt đầu đuôi mọi việc cho anh chị hay, thà là nói trước đặng sau anh chị khỏi phiền trách.
Thầy mới tính như vậy kế tiếp được thơ của Hà Tấn Tài nói rằng, người có nghe một thầy giáo tùng sự ở Học chánh cho hay Hà Tấn Phát, vì có Tòa buộc tội sang đoạt sao đó, nên bị ngưng chức, vậy người biểu Phát nếu thiệt có như vậy, thì phải về lập tức đặng tỏ hết công chuyện cho người hiểu.
Thầy giáo Phát được thơ thì thấy không còn dụ dự gì nữa. Thầy qua nhà Hội đồng Lợi mà cho hay rằng thầy phải đi Sài Gòn, và dặn dò hễ có trát Tòa đòi thì phải đánh dây thép cho thầy hay đặng thầy xuống cho kịp hầu. Thầy có viết địa chỉ của thầy trên Sài Gòn rõ ràng mà để lại đặng biết chỗ mà đánh dây thép.
Vợ chồng Hội đồng Lợi nói cho thầy hay rằng đã có mướn thêm một ông trạng sư nữa rồi, mướn tới một ngàn rưỡi mà mới chồng bạc một ngàn, đặng ổng cãi giúp việc hình rồi cãi luôn việc hộ nữa, vì Chà Và đã cô đơn tại Tòa Hộ mà xin hủy tờ mua bán tài sản của vợ chồng Hội đồng Lợi ký tên.
Thầy giáo Phát về Sài Gòn, đi dọc đường thầy buồn hiu, thầm tính nếu bị Tòa kêu án và bị mất chức, thì thầy phải tự vận mà chết cho rồi, vì sống như vầy càng nhục càng buồn, chớ không ích gì.
Xe hơi lên tới Sài Gòn hồi hai giờ rưỡi chiều. Thầy giáo Phát biết giờ ấy anh đã đi làm việc, nên thả chơi ngoài chợ đến sáu giờ tối mới về nhà anh. Thầy chắc về sẽ bị quở trách nặng; té ra bước vô nhà anh thì anh chị đều mừng rỡ, hối bồi bếp lo dọn cơm, chớ không hỏi tới chuyện Tòa buộc tội và chuyện nhưng chức. Cơm nước xong rồi, vợ chồng Hà Tấn Tài nhắc ghế ra ngồi trước hàng ba mà hứng mát, chừng ấy mới kêu thầy giáo Phát mà biểu thuật chuyện dưới Tiểu Cần cho mình nghe.
Thầy giáo Phát mới khóc mà kể hết đầu đuôi mọi việc, kể chuyện mình không chịu chơi bời, thành ra không hiệp ý thiên hạ, nên thiên hạ ghét, kể chuyện thầy Cai tổng binh con làm bẻ mặt mình tại lớp học, mà ông đốc lại vì thầy Cai mà cho mình quấy, kể chuyện mình lân la chơi với Hội đồng Lợi, sau bị Hội đồng Lợi năn nỉ quá, cầm lòng không đậu, nên chịu ký tên mua giùm hết thảy ruộng đất nhà cửa của Hội đồng Lợi giá là bảy chục ngàn, mới bị Chà Và kiện, rồi Tòa buộc tội a ý với Lợi mà sang đoạt điền thổ. Còn việc mình bị ngưng chức, ấy là tại mình làm việc nhà nước mà bị Tòa buộc tội, nên nhà nước phải làm như vậy đặng mình thong thả mà đi hầu Tòa, nếu Tòa xử mình trắng án thì nhà nước sẽ cho phục chức lại, còn nếu mình bị án thì nhà nước sẽ cách chức.
Thầy giáo Phát kể đủ mọi việc rồi thầy khóc mà nói rằng: "Công chuyện như vậy đó mà em không cho anh chị hay, ấy là em sợ anh chị buồn, chớ không phải làm việc chi quấy nên em giấu. Em nghĩ thiệt cái mạng em vô phước lắm, ở đời em giữ gìn từ chút, không dám làm một mảy nào quấy, mà thiên hạ lại không ưa, em làm ơn cho người ta mà em phải mang họa. Cái công ơn anh chị nuôi em ăn học ngày nay trở ra vô ích, em nghĩ tới em hổ thẹn với anh chị không biết chừng nào".
Thầy Hà Tấn Tài ngồi hút thuốc mà suy nghĩ một lát mà thầy nói rằng:
- Người ta không ưa em đó, nghĩ chẳng lạ gì. Ðời này thiên hạ xảo quyệt lắm, tại em ăn ở thiệt thà quá, làm sao mà người ưa được. Mà dầu người ta thương hay là ghét, việc đó chẳng quan hệ gì, họ thương họ cũng không sớt của cho em, mà họ ghét họ cũng không làm chi em được. Bây giờ chỉ lo cái vụ Tòa buộc em đây, phải làm sao vẫy vùng cho khỏi án. Hễ Tòa xử em trắng án, thì tự nhiên em được phục chức, mà còn được làm chủ những tài sản của người ta bán cho em nữa. Ðể anh hỏi thăm việc ấy cho rành, rồi anh sẽ lập thế mà cứu em. Em phải nói cho thiệt, thầy Hội đồng Lợi làm tờ bán cho em những vật gì giá bao nhiêu?
- Thưa, thẩy bán cho em năm trăm mẫu ruộng ở Phước Long giá bốn chục ngàn đồng, một trăm năm mươi mẫu ruộng giá hai bảy ngàn đồng, nhà cửa tài vật ở Tiểu Cần giá ba ngàn đồng cộng chung bảy chục ngàn đồng
- Giấy làm tờ cách nào? Có làng thị nhận, có đóng bách phần, có cải bộ rồi hay chưa?
- Tờ làm theo kiểu tờ duyệt mãi điền sản thuở nay, ruộng Phước Long làm riêng một tờ, ruộng và nhà đất làm riêng một tờ khác. Hai tờ đều có làng thị nhận, có đóng bách phần và có trát dạy làng cải bộ cho nên tên họ em đứng rành rẽ.
- Em có đem tờ về, thì đưa cho qua xem thử coi.
- Thưa em đứng bộ giùm cho người ta, nên tờ người ta giữ, em có lấy làm chi.
- Không hại gì, để qua gởi đơn xin sao lục cũng được. Vậy mà em có làm tờ riêng cho Hội đồng Lợi cầm, nói rằng đứng bộ đó là đứng giùm hay không?
- Thưa em tính làm mà chưa kịp làm, kế Chà Và kiện.
- Chắc như vậy hay không? Phải nói cho thiệt.
- Thưa, chắc. Thầy hội đồng Lợi không có buộc, nên em không có làm tờ gì cho thầy cầm hết.
- Vậy thì tốt lắm. Từ rày sắp lên em đừng có viết thơ mà cũng đừng có làm tờ gì cho Hội đồng Lợi mà nói đứng bộ giùm đa, nghe hôn.
- Dạ.
- Tòa đã có đòi hỏi em hầu rồi, vậy Tòa hỏi, em trả lời làm sao?
- Tòa hỏi thiệt em mua tài sản ấy hay là đứng bộ giùm. Em khai em mua thiệt. Tòa hỏi em làm gì có tới bảy chục ngàn đồng bạc mà mua ruộng đất đó. Em túng quá, nên khai bướng rằng em vay bạc của anh mà mua.
- Em khai như vậy sao?
- Thưa, phải.
- Tốt lắm, tốt lắm. Em cứ khai như vậy hoài đi. Ðể rồi em làm cho qua cầm một cái giấy vay bạc của qua tám chục ngàn đồng. Giấy phải đề ngày theo lúc em mua ruộng đất đó. Nếu Tòa có đòi thì qua làm chứng cho và qua trình giấy vay cho Tòa xét. Vậy mà em có mướn trạng sư cãi giúp hay không?
- Thưa, phận em thì em không có mướn, nhưng mà thầy Hội đồng Lợi sợ mắc án rồi ở tù, lại còn bị Chà Và lấy ruộng đất lại mà thi hành phát mãi, bởi vật thẩy mướn tới hai ông trạng sư cãi giúp, tốn tới mấy ngàn đồng bạc.
- Ðược lắm. Trong vụ này, chỗ bí yếu là em làm gì có bảy chục ngàn đồng bạc mà mua ruộng đất. Trạng sư tự nhiên họ thấy chỗ đó, thế nào họ cũng nài nỉ anh làm chứng. Anh thấy em có chỗ giãy khỏi được rồi.
- Em sợ Tòa nghi anh em mình a ý làm chứng vị, làm tờ giả, rồi Tòa không tin chớ.
- Mình có bằng cớ rõ ràng, dầu có nghi cũng không bỏ bằng cớ ấy được. Em đừng lo đừng buồn chi hết. Em làm giấy nợ sẵn cho anh cầm, chừng Tòa đòi hầu cứ khai vay bạc của anh. Anh làm chứng trình giấy nợ rành rẽ thì Tòa cũng khó mà làm án em được.
Thầy giáo Phát thấy anh không quở phạt mà lại còn dạy khôn dại cho mình nữa, thì thầy bớt lo sợ bèn làm giấy vay tám chục ngàn đồng mà giao cho anh cầm. Thầy nghĩ ở Tiểu Cần thiên hạ không ai thương mình, trở xuống đó càng buồn chớ không có ích gì, bởi vậy thầy viết thơ cậy Hội đồng Lợi trả giùm phố của thầy mướn, và dặn hãy có trát đòi hầu thì phải đánh dây thép cho thầy hay, rồi thầy ở luôn trên Sài Gòn, không xuống Tiểu Cần nữa.
Phát xuống trước một bữa ở tại Trà Vinh mà chờ. Tuy thầy Hà Tấn Tài đã dặn dò mọi việc và biểu đừng sợ, nhưng mà thầy giáo Phát cũng lo hết sức, nên mặt mày buồn hiu. Thầy gặp vợ chồng Hội đồng đi hầu, hai ông bà ngoài miệng thì vẫn nói cứng như thường, mà nét mặt coi cũng lo lung lắm.
Chừng Tòa kêu mà xử, thì thầy giáo Phát cứ khai mình vay bạc của anh mình là Hà Tấn Phát để mua ruộng đất nhà cửa đó; hai ông trạng sư cũng cãi lời, mỗi ông luận biện trót một giờ đồng hồ nhưng mà chừng Tòa lên án, thì tòa phạt Bành Ðại Lợi một năm tù và phạt Hà Tấn Phát sau tháng tù vì tội sang đoạt.
Thầy giáo Phát nghe Tòa đọc án phạt thầy thì thầy tá hỏa hai con mắt, mồ hôi tuôn ướt áo. Còn thầy Hội đồng Lợi thì lúc thầy bước ra khỏi cửa Tòa thầy té xỉu, vợ thầy lật đật mướn xe hơi chở về Tiểu Cần liền.
Thầy giáo Phát bối rối hết sức, bỏ ăn bữa cơm trưa cứ đi thơ thẩn ngoài đường. Ðến xế thì thầy mới đánh một cái dây thép cho anh hay rằng mình đã bị Tòa kêu án sáu tháng tù, và hỏi anh coi bây giờ phải làm sao. Ở Trà Vinh mà chờ anh trả lời thì bực bội quá chịu không được, bởi vậy thầy đi chuyến xe chiều mà qua Tiểu Cần, trước là thăm Hội đồng Lợi, sau nữa hỏi coi vợ chồng tính lẻ nào.
Vợ chồng Hội đồng Lợi thấy thầy giáo Phát thì khóc òa: "Tôi thiếu nợ người ta, tôi lập mưu để chủ nợ không thi hành phát mãi ruộng đất tôi được, thì Tòa bỏ tù tôi đã đành. Tội nghiệp cho thầy, vì thương tôi nên muốn cứu vớt tôi, mà thầy phải liên lụy, thiệt vợ chồng tôi buồn hết sức. Chẳng giấu gì thầy, vì cái kiện này mà mấy tháng nay tôi tốn hao lung quá. Bây giờ trong nhà bạc tiền đã hết, mà lúa cũng sạch trơn, tôi biết làm sao. Thầy cũng thất tôi lo hết lòng, chớ phải tôi bỏ trôi đâu. Tại cái mạng tôi phải tán gia bại sản, mà còn phải ở tù nữa, thôi đành bó tay mà chịu, xin thầy coi có phương thế gì gỡ khỏi phận thầy, thì thầy làm đi, chớ thiệt tôi tận kế rồi, chỉ đợi chúng bắt đi ở tù rồi chết".
Thầy giáo Phát nghe Hội đồng Lợi nói xuôi xị thì thầy thối chí ngã lòng. Thầy ngồi khóc rấm rứt, thấy cảnh tù rạc trước mắt, nhớ việc mất chức xấu hổ, tiếc công phu ăn học, ngày nay tan rã như bọt nước, giữ tánh tình ngay thẳng, rốt cuộc rồi chẳng ích gì. Vợ thầy Hội đồng Lợi thấy thầy buồn rầu quá mới nói rằng: "Xin thầy nhứt chớ buồn, phải tĩnh trí mà lo. Vợ chông tôi nói thiệt, nếu thầy lo phá cái án Tòa đó được, thì vợ chông tôi cho luôn hết ruộng đất đó mà hưởng đời đời, đặng bù lại cái hại của vợ chồng tôi làm cho thầy phải mang, chớ vợ chồng tôi không nỡ đòi lại đâu, lời tôi nói đây là lời chắc chắn, chớ không phải môi miếng, Thầy nghĩ đó coi, nếu thầy trả lại thì chủ nợ họ cũng thi hành, chớ vợ chồng tôi ăn uống gì được".
Mấy lời nói ấy tuy thật, nhưng mà có xảo. Thầy giáo Phát nghe mà không để ý đến. Còn thầy Hội đồng Lợi nghe thì cảm, lật đật đi mở tủ sắt lấy hai bổn tờ bán gia viên điền sản đó mà đưa cho thầy giáo Phát mà nói rằng: "Lời vợ tôi nói đó phải lắm. Bề nào gia tài tôi cũng phải tiêu. Vậy thà là tôi cho thầy đặng đền ơn cho thầy hơn là để cho Chà Và phát mãi, thầy giữ lấy hai bổn tờ mua đó đi. Ðể tôi làm thêm một bổn tờ nữa cho chắc chắn".
Thầy Hội đồng Lợi lấy giấy mà viết một tờ như vầy: "Chúng tôi là Bành Ðại Lợi và vợ là Lý Thị Phúc đứng tờ này chứng chắc rằng những ruộng đất nhà cửa của chúng tôi tại Tiểu Cần và tại Phước Long mà chúng tồi đã làm tờ bán cho thầy giáo Phát đó là bán thiệt. Chớ không phải mượn thầy sang tên đứng bộ giùm. Vậy con cháu chúng tôi ngày sau không được kêu nài chi hết".
Thầy viết rồi thầy ký tên, lại biểu vợ con đồng ký tên vào đó hết thảy, người nào không biết ký tên thì lăn tay làm dấu. Thầy giáo nghĩ việc ở tù đã thấy trước mắt, còn sự nghiệp của Hội đồng Lợi thì nay mai sẽ thi hành Phát mãi, vợ chồng làm màu mè cho mình mát ruột, chớ không ích gì, bởi vậy thầy từ chối không chịu lấy mấy tờ, Hội đồng Lợi cứ theo nài ép, xếp tờ mà bỏ đại vào túi thầy giáo.
Sáng bữa sau, thầy giáo Phát trở qua Trà Vinh tiếp được dây thép của Hà Tấn Tài biểu phải vào đơn tại Tòa mà xin chống án rồi về Sài Gòn liền. Thầy làm y theo lời anh dạy lên xe hơi mà về Sài Gòn.
Thầy giáo đọc hết việc tòa xử cho anh chị nghe, lại đưa các giấy của Hội đồng Lợi giao đó cho anh chị coi nữa.
Hà Tấn Tài ngồi đọc từ tờ, xét từ câu rồi suy nghĩ lâu lắm. Thầy suy xét kỹ lưỡng rồi thầy mới nói rằng: "Vụ này là một vụ lớn. Gia tài này giá trên mười muôn đồng bạc chớ không phải ít đâu. Nếu em chống cự làm cho khỏi bị Tòa lên án hủy tờ bán của vợ chồng Bành Ðại Lợi làm đây, thì em hưởng trọn cái gia tài đó, em trở nên một người cự phú chớ không phải chơi. Nếu phải tốn hao năm mười ngàn mà được việc, thì cũng nên tốn, có đâu mà sợ. Vậy mà em có biết Bành Ðại Lợi thiếu nợ Chà và bao nhiêu và còn thiếu ai nữa hay không?"
Thầy giáo Phát đáp rằng:
- Em nhớ Hội đồng Lợi có nói thiếu hai người Chà đứng kiện gần năm chục ngàn vốn và lời. Thầy còn lãnh nợ giùm cho anh em số vốn lời lối ba mươi lăm ngàn nữa.
- Nhiều quá! Chớ chi thầy thiếu nội hai người Chà này và thiếu ít ít, thì qua lập thế nói với nó mà trả mớ nhấm, trả chừng đôi ba chục ngàn, rồi xin nó bãi nại; mà theo như lời em nói đó, thì tính như vậy không được. Thiếu nó tới năm chục ngàn, mà bây giờ nó thầy mình bị án, nó đắc thế quá, nay mai gì đây hễ Tòa trên y án, nói sự mua bán đó là giả dối, thì tự nhiên Tòa Hộ lên án hủy tờ mua bán, rồi nó thi hành phát mãi ruộng đất lấy số nợ lại đủ, có cần gì phải bàn tính với mình. Vì dầu tính yên với bọn Chà này, thì còn chủ nợ khác nữa họ ra họ kiện, hơi đâu mình tính, nếu mình trả nợ hết thảy cho mọi người đặng lấy gia tài đó cho êm, thì chẳng khác nào mình mua, mà lại mua mắc, không ích gì.
Hà Tấn Tài ngồi suy nghĩ một hồi nữa rồi nói: "Không biết chừng em ở phải, bụng em tốt, nên ngày nay Trời Phật sắp đặt mà thưởng em. Ðã biết bây giờ em bị án, mà ở đời thường thấy có nhiều việc tiền hung hậu kiết, có sao đâu mà sợ. Thôi, để mai hỏi thăm xem coi ông trạng sư nào giỏi qua đến nói chuyện với ổng thử coi. Theo ý qua thì chắc được".
Bữa sau, Hà Tấn Tài xin phép nghỉ buổi chiều đặng đi lo giùm việc của em. Ðến bảy giờ tối thầy mới về. Vô tới cửa thầy gặp đứa con nhỏ thầy bồng mà nựng; khí sắc hân hoan lắm. Chừng ăn cơm thầy mới nói với vợ và em rằng: "Qua hỏi thăm thì ở Sài Gòn này có ông trạng sư Francois tài lắm, nhứt là ổng giỏi về việc hộ. Qua đến, qua nói hết công việc cho ổng nghe, đưa giấy tờ cho ổng coi, cái giấy nợ của em làm thiếu qua tám chục ngàn đồng và cái tờ của con cái Bành Ðại Lợi làm thêm cho em cầm đó, qua cũng đưa hết cho ổng coi nữa. Ông xét kỹ lưỡng rồi ổng chịu lãnh cãi vụ hình em đương chống án và cãi luôn vụ hộ mà Chà Và xin hủy tờ mua bán đó nữa. Ổng nói mười phần kể chắc được kiện tới tám, chín phần. Vái Trời Phật cho y như lời ổng nói đó, chừng nào Tòa Phúc án mà xử y án Tòa sơ, thì em mới bị mất chức, còn như Tòa Phúc án mà tha bổng em, tự nhiên em sẽ được phục chức lại. Vậy thì em cứ ở nhà đi chơi đừng lo gì hết. Nếu trời Phật giúp vận thì em bỏ chức thầy giáo mà lãnh chức điền chủ càng khỏe hơn nữa".
Thầy giáo Phát nghe anh nói mạnh mẽ quá, thì thầy vững bụng chút đỉnh nên thầy bớt buồn.
Mỗi ngày Hà Tấn Tài đi làm việc, thì Hà Tấn Phát cứ ở nhà đọc sách hoài. Vợ chồng Hà Tấn Tài sợ em buồn rầu, nên theo khuyên dỗ biểu phải đi chơi. Thầy giáo Phát không nghe lời, Hà Tấn Tài mới nói rằng: "Em phải đi chơi chớ, đi chơi đặng quan sát cái hay cái dở của cuộc đời, cái dại cái khôn của con người; đi chơi đặng thấu đáo nhơn tình, đặng khảo cứu phong tục. Ði chơi có phải là hư đâu, nên hư tự mình chớ. Tại em đọc sách hoài, không chịu đi chơi, rồi em cư xử theo sách, chớ không cư xử theo đời, nên ở dưới Tiểu Cần em mới không hiệp ý với ai hết đó. Em phải nghe lời qua. Học xong rồi bây giờ phải hành, mà hành thì phải theo đời, chớ đừng có theo sách nữa".
Thầy giáo Phát nghe lời khuyên chí lý như vậy, thầy mới chịu phục, nên từ này thầy mới bắt đầu đi chơi.
Một buổi sớm mơi thầy giáo ăn lót lòng với Hà Tấn Tài rồi thầy đi qua Bến Thành mà chơi. Thầy đi vòng theo chợ mới, vừa đi ngang một tiệm cà phê thì nghe trong tiệm có tiếng kêu chỉ danh thầy. Thầy đứng lại ngó vô thì thấy trong tiện đông dày dày. Tại một cái bàn giữa, có tiếng kêu lên tên thầy nữa. Thầy ngó kỹ chỗ đó thì thấy Cao Lương Ký là bạn em bạn học với thầy, đương ngồi ăn uống. Thầy bước vô, hai người chào mừng nhau. Thầy Ký mời thầy Phát ăn lót lòng. Thầy nói đã dùng ở nhà rồi, song muốn vừa lòng người bạn, nên kêu đem một ly cà phê đặng ngồi uống nói chuyện chơi.
Hai người nói chuyện nhau một hồi, thầy Phát mới hay thầy Ký tuy hồi ra trường thầy thi rớt, nhưng mà bây giờ thầy làm việc trong một hãng buôn lớn, ăn lương mỗi tháng tới một trăm hai chục đồng và mướn phố ở đường Thuận Kiều. Thầy Ký ăn hủ tiếu, thầy vớt thịt với hủ tiếu ăn hết, chỉ còn một mớ giá với nước rồi xô cái tô qua một bên mà uống cà phê. Cái tô hủ tiếu vừa mới trịch qua, thì có một người trai và một đứa nhỏ đứng hờm hồi nào gần đó không biết, áp lại giành bưng cái tô. Người trai giành được bèn kê cái tô vô miệng mà húp nước hủ tiếu rồn rột, rồi lại lấy đũa và mớ giá mà nuốt nữa. Ðứa nhỏ giành không lại, thì đứng ngó lườm lườm, coi bộ tức giận lắm. Thầy Phát thấy vậy mới móc túi lấy một đồng xu mà cho thằng nhỏ. Thằng nhỏ chưa kịp tạ ơn, bỗng thấy cái bàn gần đó có người đứng dậy đi, mà bỏ ly cà phê còn dư bộn, nó chụp lấy đồng xu rồi vói bưng ly cà phê dư mà uống ọt ọt.
Thầy Phát thấy lúc con người đến lúc nghèo, tấm thân phải hèn hạ đến thế, thì trong lòng thầy không vui chút nào. Thầy Ký mời thầy tối qua nhà chơi, đặng có nhiều giờ mà đàm đạo, chớ bây giờ thầy mắc đi làm việc.
Anh em phân rẽ nhau. Thầy Phát thủng thẳng đi tới bến xe hơi, thấy có hai người lơ (contrôleur) đương giành một người hành khách, ban đầu cãi cọ, lần lần tới chửi lộn, riết rồi đánh nhau, đứa cầm bù lon, đứa cầm dao, chém đập nhau, đổ máu, lính bắt hết mà đem về bót. Giành một người hành khách có lợi được bao nhiêu, mà đến nỗi phải lác đầu gãy tay, phải bị bắt ở tù như vậy!
Thầy băng qua mé nhà chợ, thầy gặp một tốp con nít đứa quần áo lang thang, đứa ở trần trụi, mỗi đứa có một cái thúng, thấy ai mua đồ thì chạy theo xin đội giùm về nhà. Lại cũng có nhiều con nít khác nữa, đứa ôm nhựt trình, đứa ôm sách, đón mời khách mua giùm. Con nít đến tuổi này thì phải ở tại nhà trường, vì cái nghèo mà phải chịu cực khổ từ lúc thơ ngây, ăn không no, ngủ không khỏe, đau không ai săn sóc, làm không ai dạy khôn, rõ ràng sanh làm người ta chẳng phải là hạnh phước, rõ ràng chốn dương trần chẳng phải là nơi khoái lạc.
Thầy đương ngẩn ngơ suy nghĩ, bỗng nghe trong nhà chợ có tiếng la, rồi thấy người ta lộn xộn một người đờn ông chạy trước, mấy người chen lấn nhau mà rượt theo sau. Có một người đờn bà nói om sòm: "Tôi mua đồ móc bóp ra lấy tiền mà trả, ở đâu không biết nó xớt giựt cái bóp mà chạy tuốt". Thầy Phát nghe rõ thì thầy lắc đầu rồi bỏ mà đi.
Thầy lần qua mé chợ bên kia, thấy có mấy người ngồi theo lề đường mà xủ quẻ, hoặc coi tướng, hoặc coi tay, chỗ nào cũng có hoặc đờn bà, hoặc đờn ông đặt tiền mà xin biết coi mạng số chừng nào làm ăn khá. Mấy ông thầy trả lời lanh lợi lắm, nói chuyện dĩ vãng, đoán chuyện tương lai của người ta, chẳng khác nào bực thần thánh tiên tri. Ðời thiệt thiên hạ họ xảo lạ lùng, mà cũng tại có người tin tưởng yêu cầu, nên họ mới dùng cái xảo mà làm kế sanh nhai được.
Ðến trưa thầy Phát về ăn cơm, thầy mới thuật những việc thầy thấy lại cho anh chị nghe. Vợ của Hà Tấn Tài mới cười mà nói rằng: "Ở đời hễ nghèo thì phải chịu cực khổ, phải sanh gian xảo chớ sao. Mà em đi chơi em lại coi chi những việc kỳ cục như vậy mà buồn. Em phải đi coi hát bóng, hát cải lương, phải đi coi đá banh, đánh tennis mới vui chớ".
Tối lại Thầy Phát qua đường Thuận Kiều kiếm nhà mà thăm thầy Ký. Khi bước vô hàng ba, thầy thấy có hai người đờn ông nằm dưới gạch lồm cồm đứng dậy mà xá thầy. Thầy đứng lại mà ngó, thì thấy chỗ hai người nằm chỉ ken những tờ giấy nhựt trình mà trải, chớ không có mền chiếu gì hết.
Thầy Ký ra rước thầy Phát vô nhà mời ngồi. Thầy Phát hỏi hai người nào nằm ngoài hàng ba. Thầy Ký châu mày mà đáp rằng: "Hai người đó hồi trước làm cu ly trong mấy hãng, bị thất nghiệp nên không có chỗ mà ở. Tôi tội nghiệp quá, hồi trước căn phố này bỏ trống không ai mướn, hai người ban ngày đi kiếm ăn, tối về đây mà ngủ. Khi tôi mướn mà dọn về đây, tôi nghe hai người than thở với nhau mà bàn kiếm chỗ khác mà ngủ. Tôi thấy vậy động lòng, nên tôi biểu tối cứ về đó mà nghỉ chẳng cần phải đi đâu. Hai người cám ơn tôi quá; họ ngủ đó chẳng hề làm điều chi nhọc lòng tôi, khuya chừng lối năm giờ họ thức dậy quét đàng trước sạch bót rồi mới đi".
Thầy Phát nghe việc thê thảm như vậy thì thầy thở ra mà nói rằng:
- Ban ngày họ đi làm việc gì?
- Có việc gì đâu mà làm. Bị khuẩn bách không ai mướn làm việc gì chi nữa hết. Họ đi bậy ngoài chợ ai mướn làm giống gì cũng được, ai cho bao nhiêu tiền cũng lấy.
- Nếu bữa nào không ai mướn làm việc chi hết, rồi tiền đâu mà ăn cơm?
- Ăn cơm thì tốn hao bao nhiêu. Hai đồng xu thì kiếm một bữa cơm được rồi.
- Ăn cơm đâu mà rẻ vậy?
- Toa không biết hay sao? Xẩm nó đi kiếm mấy tiệm cao lầu nó mua cơm với đồ ăn dư. Nó đem về mấy quán cóc, hoặc đem ra mé chợ hay là góc đường, nó bán lại từ xu nhỏ cho nhà nghèo ăn. Tôi hấy họ mua một đồng xu cơm với một đồng xu đồ ăn thì ăn no nóc.
- Cha chả! Khổ đến thế hay sao? Hèn chi hồi sớm mơi ở trong tiệm cà phê họ giành với nhau mà ăn cái tô hủ tíu dư của toa đó!
- Ừ, bây giờ khổ lắm mà. Thậm chí đờn bà con gái cũng không có chỗ ở, phải ngủ ngoài trời theo mấy cái băng đá mới thiệt tội nghiệp chớ.
- Tôi thấy cái cảnh khổ này rồi tôi nhớ cái cách họ đánh bạc chơi bời ở dưới Tiểu Cần, thiệt tôi buồn quá.
- Ở đời hễ giàu thì sung sướng, nghèo thì cực khổ, có cái gì đâu mà buồn. Thôi, hai anh em mình đi coi hát chơi; nghe nói tối nay ở rạp hát Thanh Bạch có ban hát bộ nào đó hát hay lắm.
- Tôi ít ưa coi hát, coi khuya buồn ngủ lắm.
- Thây kệ, đi bậy chơi mà. Như hát hay mình ở chơi khuya, còn như hát dở thì mình chơi một chúc rồi về ngủ, có hại gì.
Hai thầy dắt nhau xuống rạp hát Thanh Bạch, thấy ngoài cửa dán giấy đề "Hát hay lắm" chữ lớn đại, nghe trong rạp kèn trống vang vầy. Thầy Ký mua hai cái giấy hạng nhứt rồi dắt nhau vô cửa. Bầu gánh cổ động thì khoe hát hay lắm, mà kép hát ra sân khấu thì hát không ra tiếng. Hai thầy ngồi coi tới chín giờ rưỡi, không thấy lớp nào hay, nên thối chí rủ nhau ra về. Ra tới ửa, bỗng gặp một đứa con gái chừng mười một, mười hai tuổi đón xin giấy. Thầy Ký trao cái giấy của thầy cho nó mà nó còn chạy theo thầy Phát mà xin nữa. Thầy Phát cũng cho luôn cái giấy rồi cười mà nói: "Con nhỏ kỳ quá! Muốn coi hát thì xin một cái giấy cũng vô cửa được, lại nài xin làm chi tới hai cái không biết".
- Toa quê mùa quá! Toa tưởng nó xin giấy đó đặng coi hát hay sao?
- Nếu không coi hát thì xin giấy làm chi?
- Nó xin đặng nó bán lại, mỗi cái năm ba xu đem tiền về cho cha mẹ mua cơm ăn chớ.
- Trời ôi! Có cái nghề như vậy nữa sao?
- Ở đất Sài Gòn này nghề này cũng có hết thảy. Con nhỏ hồi nảy đó nó xin giấy hát mà bán, mỗi đêm kiếm cũng một hai cắt bạc.
- Thiệt tôi không dè chút nào hết.
- Ở Sài Gòn có đủ nghề mà. Bữa nào Toa đi coi hát bóng, toa sẽ thấy trước rạp hát có một bầy con nít chực sẵn mà giữ xe hơi của họ vô coi hát.
- Xe hơi thì có sốp phơ còn giữ cái gì.
- Có nhiều chủ xe họ cầm bánh, chớ không mướn sốp phơ. Họ vô coi hát họ giao cho một đứa trẻ giữ, chừng vãn hát họ cho một cắc. Cái cách giữ xe mướn đó, ngoài chợ Bến Thành cũng có, song ngoài chợ họ mướn giữ xe máy cho họ đi chợ, mỗi cái hai xu. Còn trong trường đua ngựa họ giữ một cái xe máy ăn tới năm xu.
- Sao toa biết nhiều chuyện quá vậy?
- Ở Sài Gòn thì phải quan sát chớ. Toa lúc này rảnh rang, toa nên đi vô mấy xóm nhà lá, đi vô mấy dãy phố trong đường hẻm, đi đến mất chỗ cu ly ở đặng coi cho biết cảnh hèn hạ cực khổ của con nhà nghèo. Mà coi cái khổ cũng chưa đủ, toa còn phải đi đến mấy chỗ thiên hạ ăn chơi, đi coi mấy chỗ thiên hạ đánh bạc, toa phải kiếm mà thấy oách gian lận, kiếm mà thấy cách thiên hạ lường gạt nhau, chừng toa quan sát cho đủ hết rồi, toa mới biết loại người bây giờ trí não tánh tình đều giống nhau, mỗi người là một "tay điếm trong chợ xã hội, ai cũng chăm lo kiếm cho được cái đồng tiền, người nào kiếm được nhiều thì đứng về bực giỏi, bực cao, người nào kiếm được ít thì đứng về bực dở, bực thấp, cái nghĩa của sự sống trong đời là "làm cho có tiền" mà thôi.
Thầy giáo Phát nghe lời bạn nói thì thầy mỉm cười. Thầy cho lời khuyên quan sát nhơn vật là phải còn lời luận xã hội kim tiền thì thầy còn nghi là lời quá đáng.
Tuy vậy mà thầy về nhà suy nghĩ hoài; thầy cứ hỏi trong trí vậy cái nghĩa của sự sống là lo mưu tính kế làm cho có tiền nhiều mà thôi hay sao? Còn nhơn nghĩa, còn đạo đức ở đâu?
Anh Hà Tấn Tài hôm nọ khuyên phải đi chơi, mà bạn là Cao Phương Ký bữa nay khuyên cũng phải đi chơi. Thầy Hà Tấn Phát chẳng còn ái ngại dụ dự nữa. Mỗi ngày lúc trời mát thì thầy thả đi chơi, bữa đi đường này, bữa đi đường khác. Thầy không thuộc Sài Gòn cho lắm, phần thì đi chơi một mình gặp cảnh vui hay cảnh buồn, không có ai nghị luận, nên mất thú vị hết nhiều. Thầy nhơn mấy bữa chúa nhựt thầy mới rủ bạn là Cao Lương Ký đi với thầy, đi tối ngày, đi cùng hết.
Nhờ đi chơi như vậy thầy giáo Phát mới thấy trong mấy xóm nhà lá, kẻ nghèo ăn ở dơ dáy không có vệ sinh chút nào, mới được thấy trong mấy hóc hẻm loi nhoi đủ các hạng người, kẻ dữ gần với người hiền, kẻ ngay chung với người gian vậy, già tóc bạc mà ở ăn không nên nết, trẻ ngây thơ mà cười nói đã lả lơi, vì chữ nghèo mà mạng phải rẻ, phẩm phải hèn, vì chữ nghèo mà hết nghĩa nhơn, quên đạo đức.
Thầy giáo Phát xem đủ cách buồn rồi, thầy mới khuyên thầy Ký đi tìm cái vui.
May lúc ở Sài Gòn có tổ chức cuộc chợ đêm đặng lấy tiền cứu giúp cho kẻ bị tai nạn. Hai anh em mua giấy vô cửa, mỗi người hết năm cắc mà đi coi chợ đêm. Hội chợ thì chẳng thấy cuộc chi vui, nhưng mà thiên hạ đông dày, đờn ông con trai, đờn bà con gái đều mặc y phục xinh đẹp, diện theo cách kim thời mua những gói sắc màu sắc nhỏ để vải lộn với nhau. Chừng ra về thầy Ký hỏi thầy Phát vậy chớ thầy nghĩ cách chơi vải giấy màu đó hay, hay là dở? Thầy Phát cười mà đáp rằng: "Chẳng nói chi đến cái phương diện phong hóa, theo ý tôi, mấy người mua giấy màu mà vải lộn với nhau đó hay hơn là để số tiền tốn hao như vậy mà cho những kẻ nghèo ở trong mấy xóm nhà lá, thì có ơn nhiều. Số tiền của một người vải đó đủ nuôi được nhà nghèo đôi ba bữa".
Cách vài ngày sau hai anh em dắt nhau vô một nhà hàng bán rượu mà coi "An nam nhảy đầm". Thầy giáo Phát thấy con trai con gái đeo nhau mà nhảy trước mặt công chúng thì trái với con mắt quê mùa của thầy quá, nên hối thầy Ký uống rượu riết cho hết mà ra.
Chừng ra ngoài đường, thầy Phát mới nói rằng: "vui chơi có nhiều cách, có cách thanh cao, có vui thô tục. Năm ngoái ở tiểu Cần tôi trách anh em dắt ca nhi đi du hồ; nay tại kinh thành tôi được thấy tân thời trí thức tổ chức cuộc nhảy đầm, té ra lời trách của tôi năm ngoái thiệt oan cho anh em Tiểu Cần quá!"
Qua tuần sau người ta tổ chức hai cuộc thể thao rất to tát, để tranh giải thưởng. Có giấy lớp dán cùng vách, lớp rải cùng đường, lại nhiều tờ nhựt báo cũng cổ động trét bốn năm bữa, mà nói rằng chiều thứ bảy có một cuộc đánh tennis, rồi chiều chúa nhật lại có một cuộc đánh banh tròn, trong hai cuộc đều tuyển chiến tướng đại tài ở Nam Kỳ để tranh đấu với chiến tướng Cao Mang.
Thầy Phát rủ thầy Ký mua vé vô coi luôn hai bữa, coi đánh tennis mỗi người mất một đồng, còn coi đá banh mỗi người mất hết năm cắc. Tuy đánh tennis thâu tiền vô cửa mắc, mà thiên hạ cũng đi coi đầy sân, tiếc vì hai người đấu với nhau mới có hai sết, mỗi người ăn một sết, rồi một người chịu thua, thành ra không có tranh kịch liệt, nên không thú vị. Còn bữa đá banh thì thiên hạ lớp ngồi lớp đứng giàn nào cũng đầu nhóc. Chiến tướng ráp đá, ban đầu hai bên hăng hái, nhưng mà cách chơi còn hòa nhã. Cách mười phút đồng hồ, chiến tướng Nam Vang ăn được một bàn. Chiến tướng Nam Kyø quyết gỡ, nên nổ lực công kích dữ dội. Bên Nam Vang ráng thủ thắng, thành ra xung đột. Chiến tướng trong sân thì nóng nảy, công chúng trên giàn thì lại đốc sức la lối om sòm. Chiến tướng đá banh mà coi thế không cần trái banh nữa người này lừa đá ống quyển người kia, người kia kiếm thế đá trong ngực người nọ. Vì sức lực yếu, lại luyện tập ít, nên đá mới nửa cuộc rồi bên nào cũng bết hết, người thì đưa chơn đá gió, kẻ thì không chịu theo banh, làm cho khán giả la rùm, biểu trả tiền lại.
Theo cách cổ động thì công chúng ai cũng tưởng tennis bữa trước và cuộc đá banh bữa sau chắc là hay lắm, nào dè bữa trước lở dỡ, bữa sau chèm nhẹp; về dọc đường khán giả bàn với nhau, người thì nói đi coi uổng tiền, kẻ thì than nền thể thao suy sụp.
Vì thầy Ký hỏi ý kiến nên thầy Phát nói rằng: "Thể dục là một môn học có ích cho phần xác, cũng như ăn học có ích cho phần trí. Chủ nghĩa của người bày môn thể dục là muốn làm cho bực thanh niên trong nước thân thể được tráng kiện, nghĩ thì thân được mạnh thì trí mới dạn, mà thân mạnh trí dạn, thì ở đời mới có thế tấn thủ được. Cái hủ nghĩa của thể dục thì cao thượng như vậy đó. Theo ý tôi thì người làm đầu về thể dục trong xứ mình phải cần lo phương kiếm chước làm thế nào cho dân chúng từ thị thành cho tới thôn quê mọi người đều biết ái mộ thể thao, mọi người đều luyện tập thể hao. Phải giục lòng người, phải khuyến khích người, phải dạy dỗ người, nếu người không có đủ đồ tập thì phải giúp cho người. Nói tóm một điều là phải gây cho cái phong trào thể thao, đặng đơøn bà cũng như đờn ông, ở đồng cũng như ở chợ, con nít cũng như người lớn, ai cũng đều tập luyện gân cốt hết thảy. Mà theo con mắt tôi xem, thì thể dục bấy lâu nay không có chương trình, không có phương pháp gì hết. Cái điều lệ nhứt là người lãnh trách nhiệm tổ chức thể dục lại đem cái môn quý báu ấy làm như một cuộc buôn bán, lo cổ động rao hàng bày định giá trồi sụt, chớ không lo phổ hóa hoặc cải lương gì hết. Cái phương châm kiếm tiền, thấy thiệt buồn quá".
Thầy Ký rùn vai đáp rằng: "Moa đã nói với toa, cái nghĩa của sự sống đời này là làm cho có tiền, có gì đâu mà buồn".
Vợ chồng Hà Tấn Tài, có cho một thầy kia, ở phố lầu, có xe hơi, vay một ngàn đồng mỗi tháng tiền lời bốn chục đồng. Trả tiền lời vài tháng rồi nín mất, Hà Tấn Tài đòi riết, thầy nọ mới năn nỉ đem thế cái xe hơi mà trừ nợ. Tấn Tài thấy xe còn tốt, lại nghĩ đến không lấy tiền cũng mất vốn. bởi vậy chịu sang bộ rồi mướn sốp phơ đem xe về. Có xe hơi rồi, vợ chồng Hà Tấn Tài chiều hoặc tối hay dắt thầy Phát đi một vòng mà hóng mát.
Một đêm thứ bảy, vợ chồng Hà Tấn Tài đi với thầy giáo Phát lên Thủ Ðức ăn nem, xe tới Thủ Ðức, vừa quẹo đường ra xe lửa, thì thầy giáo Phát thấy đèn khi sáng lòa, thiên hạ rần rộ, xe hơi chật đường. Ấy là hạng người có tiền tựu lại Thủ Ðức mà ăn nem hứng mát.
Xe chạy chầm chậm, thầy Phát ngó vô mấy quán nem, thì quán nào khách khứa cũng đông nức song khách từ dụm mà ngồi, mà bàn nào cũng có đờn bà và cũng cười giỡn om sòm. Thầy Tài biểu sốp phơ ghé xe ngay cái quán lớn hơn hết, rồi dắt vợ và em lại ngồi một cái bàn để ngoài sân, kêu bồi đem nem ăn. Cái bàn ngang phía bên kia thì có ba người ngồi; một người trạc từng hai mươi bốn, hai lăm tuổi, mặt dồi phấn trắng nõn, đầu xức dầu rồi chảy tóc láng lẩy, mình mặc bộ đồ ga-bạc-đin xám, chơn mang một đôi giày nửa trắng, nửa vàng. Người trai ấy ngồi giữa, hai bên có hai cô cặp kè. một cô mặc áo quần toàn màu đỏ, một cô mặc áo quần toàn màu xanh, áo thì vắn chũng lai tay và trôn có giún tai bèo, cô nào cũng dồi phấn mặt trắng toát, má ửng hồng, môi đỏ lòm, mày nhỏ rức.
Thầy Phát tuy ngồi ăn nem, mà mắt liếc qua cái bàn đó, thì thấy hai cô giỡn hớt với cậu, nói nói, cười cười, rồi lại ôm mặt mà hun, không kể ai hết. Ăn uống rồi cậu móc bóp ra trả tiền, hai tay cặp hai cô, vác mặt hân hoan bước lên xe mà đi.
Há Tấn Tài ngó em cười và nói rằng: "Ði Thủ Ðức ăn nem là vậy đó, nên thiên hạ mới rần rộ, chớ ăn nem như mình thì sai trẻ mua về mà ăn, cần gì phải đi Thủ Ðức".
Một bữa chúa nhựt, Hà Tấn Tài coi nhựt trình rồi nói tuần này tại trường đua ngựa có đua độ hội lớn lắm, nên ngủ trưa dậy rồi mới đem xe hơi ra đặng dắt vợ với em đi trường đua chơi. Khi ra gần tới trường đua thì gặp xe hơi, xe ngựa, xe máy chật đường, rồi tới cửa thì thấy thiên hạ chen nhau vô giấy mà đi nườm nượp. Trong số người đi coi đây phần đông là An nam, chẳng những là đông bên hạng không đồng hai mươi lăm đứng ngoài trời mà thôi, mà bên hạng một đồng mười ngồi trên khán đài, An nam cũng đông thập phần, lại đờn bà số gần phân nửa.
Khi mới vô, thầy Phát tưởng rằng thiên hạ vì muốn coi ngựa chạy đua nên chịu tốn tiền đến coi chơi cũng như coi hát, hay là coi đá banh. Té ra ngồi đợi một lát thầy dòm coi thiên hạ bàn bàn luận luận, đi coi ngựa, hỏi bên nài, rồi chen nhau mua giấy, kẻ cá con ngựa số một năm mười đồng, người cá con ngựa số khác năm ba chục, có người lại dám cá tới năm ba trăm, đờn bà cũng mua giấy cá bạc chục như đờn ông, người cá về nhứt, về nhì, về ba, kẻ khen ngựa hồng hôm dượt chạy hay, kẻ chê ngựa đậm bị chở nặng. Chừng ngựa về tới mức, người trúng thì vỗ tay nhảy nhót, chạy đi lãnh tiền còn kẻ thua thì mặt mày buồn hiu, lấy chương trình ra mà tính xem coi độ kế phải đánh con nào mà gỡ. Thầy Phát coi luôn tới bảy độ mới mãn cuộc, mà độ nào số tiền đánh cá cũng tới năm bảy ngàn, có độ hội họ đánh tới mười bốn ngàn. Chừng ra cửa mà về, thầy Phát lóng nghe một người đờn bà vui cười, khoe ăn được ba trăm hai; còn một người đờn ông mặt xụ xị, nói thua gần một ngàn rưỡi.
Về dọc đường thầy Tài hỏi thầy Phát rằng:
- Em thấy đua ngựa hay chưa? Họ ăn thua lớn quá.
- Tôi tưởng bày đua ngựa chủ ý giục lòng dân tranh nhau mà nuôi giống ngựa hay, ngựa tốt, đặng trong xứ có nhiều ngựa mà dùng. Thiệt tôi không dè thiên hạ thừa cái dịp ấy mà đánh bạc dữ quá.
- Ðời này là đời kim tiền, làm việc gì, chơi cuộc gì cũng mưu lợi hết thảy, đến đỗi đá banh, đánh tennis, mà người ta còn cá ăn thua tới bạc trăm, huống chi mà đua ngựa đá gà. Qua nghe nói trong chợ đêm họ đá gà tới chín ngàn một muôn.
- Trời ơi, nghe nói giá lúa sụt, người ta nghèo hết thảy, tiền bạc ở đâu mà họ tranh ăn thua với nhau tới bạc muôn không biết!
- Họ nghèo họ trả nợ không nổi, chớ đánh bạc họ có tiền luôn luôn. Ðể bữa nào qua dắt em vô mấy nhà xẹt (cercle) trong chợ lớn em coi họ đánh bài, đánh hột, ăn thua còn ghê hơn nữa chớ.
Thầy giáo Phát đi chơi mấy tháng, thấy thiên hạ người thì nghèo khổ đáo để, kẻ thì xài phí vô độ, dầu làm việc gì, dầu chơi cuộc nào, cũng cốt mưu lợi cũng quyết giựt tiền nhau, chớ chẳng thấy ai làm một việc nhơn nghĩa, chẳng nghe ai nói một tiếng đạo đức. Thầy suy nghĩ lại thầy mới biết lới của anh Hà Tấn Tài khuyên thiệt là hay, thầy mới hiểu lời của bạn là Cao Lương Ký luận thiệt là đúng, thầy mới thấy rõ luân lý trong sách vở không giống luận lý của người đời. Chừng thầy thấy cuộc đời đủ rồi, thầy bức tức cười về cái "Tư cách trái mùa" của thầy trong mấy năm nay, bởi trái mùa thì hiệp với thiên hạ sao đặng.
Tuy vậy mà cái lương tâm của thầy vẫn còn lộn xộn, thầy cũng hỏi thầm trong trí hoài, thiên hạ như vậy, thế tình như vậy, mình phải làm theo thiên hạ cho thích hợp với tình thế, hay là cứ giữ lời của thầy dạy, cứ nói câu sách xưa, cứ đường ngay thẳng mà đi, dầu mình nghèo hay giàu, dầu ai ghét hay thương mặc kệ.
Hà Tấn Taio dòm em xem có sắc lo, hỏi duyên cớ, thì Hà Tấn Phát nói rằng: "Mấy tháng nay em nghe lời anh, em đi chơi, em đi quan sát nhơn vật, em dọ dẫm thế tình, em thấy rõ tánh chất của em khác hơn thiên hạ xa quá. Hổm nay em bối rối, như người đi lạc đường, không hiểu bây giờ nên sửa tánh mà theo đời, hay cứ giữ chơn tánh mà làm, không cần ai thương ghét".
Hà Tấn Tài cười ngất rồi nói rằng: "Em nói mấy lời thì qua đã hiểu em học nhơn tình thành thục rồi. Trong ít tháng mà em được như vậy, thiệt qua mừng lắm. Bây giờ em biết thế tình rồi, thì em phải ở theo thế tình cho hiệp với thiên hạ, em còn dụ dự cái gì. Em có kinh nghiệm rồi mà em chưa hiểu hay sao? Tại em làm trái thế tình, nên mấy năm em ở Tiểu Cần, thiên hạ không ưa rồi em mang họa đó. Ở đời này thiên hạ gian xảo giả dối hết thảy, ai cũng nhờ gian xảo giả dối mới giàu sang, nếu em muốn giữ đạo đức nghĩa nhơn thì em phải ở địa vị nghèo hèn. Như em không chịu làm theo thiên hạ, thôi thì vô chùa hoặc lên núi mà tu đi, chớ đời kim tiền, người giả dối, mà em giữ đạo đức, làm nhơn nghĩa thì đã vô ích, mà còn thêm hại nữa".
Thầy Hà Tấn Phát suy nghĩ rồi thầy giục gặc đầu. Thầy Hà Tấn Tài thấy vậy bèn hỏi:
- Em gặc đầu là sao? Em tính đi tu hay là ở thế gian?
- Em phải ở thế gian.
Thầy giáo Hà Tấn Phát bị ngưng chức hơn một năm Tòa mới xử xong xuôi công việc của thầy. Nhờ ông trạng sư Francois lão thông pháp luật, lại có tài hùng biện, mà cũng nhờ Hà Tấn Tài cũng chịu tốn hao, giỏi nghề vận động, nên Tòa phúc án hủy án Tòa sơ, xử Bành Ðại Lơià Hà Tấn Phát vô tội, cả hai người đều được trắng án. Tòa hộ tự nhiên phải theo cái án của Tòa phúc án đó mà xử vụ Chà Annouchetty và Chà trahamochetty kiện xin hủy tờ của Hà Tấn Phát mua ruộng đất. Tòa lên án bác đơn của tiên cáo, thành ra những ruộng đất nhà cửa mà Bành Ðại Lợi làm tờ đoạn mãi cho Hà Tấn Phát đó, thì Hà Tấn Phát được làm chủ vĩnh viễn, những chủ nợ của Bành Ðại Lợi không được biên tịch mà thi hành phát mãi.
Hà Tấn Phát đã được trắng án bên Tòa hình, đã được kiện luôn bên Tòa hộ, tự nhiên quan trên nghị định cho phục chức làm thầy giáo lại như cũ và bổ thầy làm tùng sự tại Học chánh quản lý văn phòng ở Sài Gòn. Thầy hay tin được phục chức rồi, tối lại thừa lúc anh chị ngồi chơi, thầy mới nói rằng: "Thưa anh chị, khi em còn nhỏ anh chị nưng đỡ dìu dắt em, làm cho em có thế đứng đợt với đời. Em dại dột, để cho người ta xô em té đi. Anh chị không chấp, lại cứu vớt em nữa. Ngày nay em khỏi nạn rồi, khỏi ở tù mà lại được phục chức, thiệt cái ơn của anh chị em không biết lấy chi đền đáp cho vừa..".
Hà Tấn Phát mới nói tới đó, thì Hà Tấn Tài chận lại mà nói rằng: "Kiến họ Hà của mình chỉ còn có anh với em đây mà thôi. Vợ chồng qua giúp em là lẽ tự nhiên, có lạ gì mà em phải nói cho nhiều. Trời đất thương vợ chồng qua, nên ngày nay qua được giàu có, có lẽ nào qua để cho em hèn hạ hay sao? Thiệt cái việc của em lấy làm khó tin hết sức. May nhờ phước ông bà để lại, nên mới khiến cho qua tính nhằm đường, lo đúng cách, chớ qua không phải giỏi gì. Thôi, ngày nay việc đã xong rồi, em đã khỏi nạn mà lại được ruộng vườn nhà cửa, vậy em hãy liệu lấy mà gìn giữ đặng an hưởng cho trọn đời. Qua đã có nói với em nhiều lần, đời này thiên hạ gian xảo dối gian lắm. Mỗi việc gì em cũng đừng tin ai hết. Bây giờ em là vị một điền chủ lớn rồi, qua tưởng em cũng nên làm việc lại ít tháng cho thiên hạ hết chê cười nữa, rồi em xin từ chức đặng ở nhà mà quản suất sự nghiệp của em, trong ít năm đúng tuổi em ra tranh cử Hội đồng Quản hạt, lăn lộn với đời chơi, cho họ biết danh cái kiến họ Hà không phải là hủ lậu".
Hà Tấn Phát ngó sửng anh và hỏi rằng:
- Anh tính cho em phải lấy luôn gia tài sự sản của hội đồng Lợi hay sao?
- Ủa! Em hỏi cái gì mà kỳ vậy? Hội đồng Lợi làm tờ bán đứt cho em, sao lại còn làm giấy thêm mà giao, có vợ con đứng đủ nữa. Bây giờ em được kiện thì em lấy chớ sao.
- Em khỏi bị án thì thôi, còn của người ta sang bộ mượn em đứng giùm, mà em lấy luôn thì ác lắm.
- Vậy mà em nói em đã quan sát nhơn vật, em đã thấu đáo thế tình giống gì đâu! Em đã nói em quyết ở thế gian, mà em còn sợ ác, thôi thì em đi tu cho rồi, chớ ở thế gian làm gì. Em coi hết thảy coi có ai làm nhơn nghĩa mà được giàu sang bao giờ đâu?
- Anh nói phải lắm, mà làm như vậy, sợ thiên hạ dị nghị chớ.
- Trời ơi! thiên hạ giựt của với nhau, cách họ làm còn ác bằng mười phần của em nữa, mà có ai chê cười ai đâu. Ai giựt giỏi, được làm giàu lớn, họ còn ngợi khen kính phục nữa chớ. Việc của em không ác chút nào hết. Hội đồng Lợi bị án, anh ta đã vô phương cùng thế, nên mới làm giấy thêm mà giao đứt sự sản cho em. Anh ta quyết bỏ, nên Tòa trên đòi hầu mấy kỳ anh ta giả đau, để khiếm diện luôn luôn, em không thấy hay sao. Qua phải xuất bảy tám ngàn đồng bạc, lo ngày tính đêm, mới xong công việc. Anh ta bỏ phú, mình làm cho anh ta được trắng án, khỏi ở tù, ấy là làm ơn cho anh ta nhiều rồi, anh ta còn chỗ nào phiền được. Sự nghiệp của anh ta bề nào thì chúng cũng thi hành phát mãi, nếu mình lo dở, thì sự nghiệp ấy cũng tiêu hết, anh ta phải ở tù mà anh ta còn kéo lây tới em ở tù nữa chớ, coi có hại hôn? Qua nói thiệt, vợ chồng qua mà xuất bảy, tám ngàn đồng bạc ra lo vụ kiện này, bổn tâm của vợ chồng qua muốn giúp một số tiền nhỏ đặng gây cái sự nghiệp lớn giùm cho em. May Trời Phật phồ hộ giúp cho qua thành công, qua mừng lắm, qua cho luôn em số bạc tốn hao đó, qua không đòi. Qua nói cho em biết, nếu em làm mặt quân tử, em muốn trả sự sản của Hội đồng Lợi lại cho va, thì qua buộc em phải trả tám ngàn đồng bạc tổn phí đó, mà còn kiện đòi em tám chục ngàn đồng bạc mà em làm giấy vay qua đó nữa, rồi qua thi hành phát mãi hết ruộng đất cho em biết chừng. Em đừng có khờ lắm vậy. Em trả ruộng đất lại cho Hội đồng Lợi thì chủ nợ kiện lấy tiền. Hội đồng Lợi ăn uống gì được.
- Nếu em lấy luôn, như em không giựt của Hội đồng Lợi thì là giựt của mấy chủ nợ, bề nào cũng mang tiếng không tốt.
- Em nói chủ nợ ăn quá vốn rồi, họ có thiệt gì đâu mà ngại. Còn cái việc tốt xấu, qua đã thường nói với em, đời này thiên hạ có biết gì đâu mà tốt, cái gì mà xấu đâu, chỗ tốt họ thường chê bai, chỗ xấu họ lại ham muốn, em đừng có lo chỗ đó. Em lấy hết gia tài của Hội đồng Lợi em làm chủ, thiên hạ còn khen em là người khôn ngoan, em có bạc có lúa nhiều, thiên hạ mới tôn trọng em là bực thượng lưu trí thức. Em không nhớ hay sao? Mấy năm nay em dạy học dưới Tiểu Cần, em ở phải, em ở tử tế hết sức mà thiên hạ coi em ra giống gì, họ đã không trọng em, mà họ lại còn khinh khi em nữa chớ. Còn hơn một năm nay em về Sài Gòn, em đi chơi, em đã thấy thế tình ra thế nào rồi. Em đừng có cãi qua, em phải lãnh gia tài của Trời cho đó đi, em lãnh em mới có tiền làm việc phải, em mới giúp kẻ nghèo nàn cùng khổ được chớ. Nếu em không lấy thì qua lấy, coi ai chê qua ác, coi ai cười qua dại cho biết.
Hà Tấn Phát không có lời chi mà đáp lại nữa được. Trót một đêm ấy thầy suy tới nghĩ lui, cân phải đo quấy, thầy khảo luận lý, thầy xét nhơn tình, thầy nhớ chuyện đã qua, thầy nhắm việc sẽ đến, trăn trở hoài ngủ không được. Ðến sáng thầy lập tâm định trí rồi, thầy mới thưa với anh chị rằng: "Em thưa với anh chị, từ rày sắp lên em sẽ làm y theo thiên hạ. Em ở phải thì thiên hạ khinh bỉ em. Vậy em không dại gì mà cho họ khinh bỉ nữa. Thiên hạ muốn như vậy, thì em làm như vậy cho họ coi. Em nhứt định đoạt gia tài của Hội đồng Lợi, chớ để cho Chà Và lấy cũng vậy. Nhưng mà em nghĩ lại, nếu mà em đoạt hết thi tội nghiệp cho Hội đồng Lợi. Vậy em xin anh chị cho phép em chiết trong số em đứng bộ đó ra mà cho bớt Hội đồng Lợi: 1) nhà cửa anh ta đương ở đó; 2) năm chục mẫu ruộng ở Tiểu Cần. Anh ta có nhà cửa và được góp huê lợi năm chục mẫu ruộng thì bề ăn ở được yên mà vợ con cũng được no ấm, chớ em lấy luôn hết thì cả nhà chết đói còn gì".
Vợ chồng Hà Tấn Tái đồng khen Hà Tấn Phát tính như vậy là phải, song lại còn e nếu sang bộ lại cho Hội đồng Lợi thì chủ nợ thi hành.
Hà Tấn Phát suy nghĩ một hồi, rồi nói rằng: "Em xin anh chị cho em xuống Tiểu Cần vài bữa mới được, bề nào em cũng phải nói minh bạch cho vợ chồng Hội đồng Lợi biết. Luôn việc em biểu Hội đồng Lợi phải kiếm người chắc chắn đặng em sang bộ nhà và năm mươi mẫu ruộng lại cho anh ta, Vả lại anh ta có một người con lớn, em tưởng sang bộ cho người con đó được. Tuy em đã được giấy phục hồi chức rồi, nhưng mà trong năm bảy bữa nữa em vô lãnh việc cũng được, không gấp gì".
Hà Tấn Tài đáp: "Phải chớ, em phải xuống nói rành rẽ cho anh ta biết. Em lấy xe hơi nhà đó mà đi. Em cho anh ta lại những nhà cửa với năm mươi mẫu ruộng đó là nhiều lắm rồi. Nếu anh ta có nài xin thêm thì em đừng chịu đa, nghe hôn. Coi như anh ta nói kỳ cào thì em lấy luôn, đừng cho gì hết".
Khuya bữa sau, Hà Tấn Phát lấy xe hơi của anh mà đi Tiểu Cần.
Ngày ở Tiểu Cần bị ngưng chức, chở rương về trong lòng hổ thẹn buồn rầu bao nhiêu, hôm nay đã được phục chức; lại được bổ làm sự tại Học chánh quản lý văn phòng, được làm chủ ruộng đất nhiều, được ngồi xe hơi nhà lấy làm vinh diệu, thì trong lòng cũng hớn hở bấy nhiêu. Xe chạy gần tới Tiểu Cần, thầy giáo Phát ngồi ngó mông, thì thấy cũng cảnh vật đó, mà ngày trước coi sao buồn hiu, còn bây giờ coi sao lại vui vẻ.
Xe tới Tiểu Cần mới chín giờ sớm mơi. Chạy ngang qua trường học, thầy giáo Phát thấy học trò ra chơi, có ông Ðốc và mấy thầy xúm nhau đứng trước cửa trường mà nói chuyện, thầy bèn ngừng xe lại đặng thăm ông Ðốc với bạn đồng liêu.
Ông Ðốc học Tâm thấy thầy Hà Tấn Phát thì mừng rỡ, bắt tay chào lăng xăng. Ông Ðốc học nói rằng: "Anh em tôi mới nhắc thầy tức thì đây không dè nhắc linh quá, mới nói đó kế thầy xuống tới. Thấy nhựt trình hôm qua nói thầy đã được phục chức mà lại được bổ vào Học chánh quản lý văn phòng sướng quá há. Còn vụ Chà nó kiện Hội đồng Lợi với thầy về tội sang đoạt đó, Tòa sơ xử như vậy, nghe nói thầy chống án, rồi bây giờ ra làm sao?"
Thầy Phát cười mà đáp rằng:
- Vụ đó xong hết rồi, nên tôi mới được phục chức chớ, không tôi ở tù mất chức còn gì. Tòa phúc án hủy án Tòa sơ và lên án nói tôi mua gia tài của Hội đồng Lợi đó là đủ phép, nên không có tội gì hết.
- Té ra Hội đồng Lợi cũng được trắng án nữa?
- Thưa, phải.
- Vậy mà anh ta lo sợ quá, phát đau, rồi chết chớ.
- Húy! Hội đồng Lợi chết rồi hay sao?
- Chết rồi.
- Chết hồi nào?
- Chết gần nửa tháng nay.
- Vậy mà tôi không hay chớ. Thẩy bỏ liều, Tòa trên đòi mấy lần thẩy không đi hầu lần nào hết.
Thầy Nguyên chen vô hỏi:
- Còn ruộng đất nhà cửa của Hội đồng Lợi sang cho thầy đứng đó bây giờ Tòa xử làm sao?
- Tòa Hộ cũng xử rồi, xử tôi làm chủ vĩnh viễn không ai được phát mãi. Bây giờ tôi hưởng chớ sao.
- Trời ôi, Thầy có phước lớn quá!
- Thiệt cũng may lắm, Tôi tưởng bị ở tù chớ.
Thầu Hậu hỏi:
- Sao tôi nghe nói hồi đó Hội đồng Lợi cậy thầy đứng hộ giùm, chớ không phải bán.
- Ðứng bộ giùm sao được, nếu làm gian thì Tòa hủy tờ rồi Chà Và thi hành hết còn gì. Hội đồng Lợi làm tờ đoạn mãi ràng rẽ, sau đó làm thêm một cái giấy mà giao cho tôi nữa, có cái gì lôi thôi đâu.
- Thầy thiệt là giỏi! Nếu vậy thì bây giờ thầy giàu lớn lắm.
- Thì gia tài ruộng đất của ông Hội đồng Lợi về tôi làm chủ hết.
- Ðúng quá.
Thầy Sanh hỏi:
- Xe hơi thầy đó là xe của thầy mua hay là của ai?
- Không. Xe này của anh tôi. Tôi sẽ mua một cái xe mới, chừng hai ba chỗ ngồi, đặng đi chơi. Có một mình, mua xe lớn tốn xăng nhớt nhiều, không ích gì.
- Thầy cừ quá! Tụi tôi đây biết đến chừng nào mới được như vậy!
Ông Ðốc học hỏi:
- Thầy xuống chơi rồi chừng nào về?
- Tôi xuống chơi thăm mấy ông và thăm thầy Hội đồng, có lẽ chiều tôi về.
- Về chi gấp vậy? Không mấy thuở xuống, ở chơi mai sẽ về.
- Bây giờ tôi có ruộng đất dưới này, tôi sẽ lên xuống thường lắm. Vậy để lần sau sẽ ở chơi lâu. Chuyến này tôi phải về để mốt lãnh việc.
- Chừnh nào xuống nữa không biết, bây giờ sẵn đây tôi mời thầy chiều ăn cơm với tôi. xin thầy đừng từ chối. Thầy ở lại ăn cơm, đặng tôi mời đầy đủ anh em mấy thầy hết thảy tụ lại chúc mừng cho thầy tai qua nạn khỏi, lại được phú quý vinh hoa. Thầy nhỏ tuổi mà được như vầy thiệt đáng mừng lắm.
Thầy giáo Phát cứ viện lẽ mắc về gấp mà lãnh việc, nên không nhận lời ông Ðốc mời.
Thầy giáo Thủ kêu mà nói rằng:
- Thầy nhứt, ruộng thầy đó, thầy tính mướn người coi làm, hay là thầy tính cho mướn?
- Ruộng đó tốt lắm. Như thầy không làm, thì để cho tôi bao tá hết cho, tới ngày tôi đong lúa ruộng đủ, thầy khỏi lo gì hết.
- Mùa này người ta cấy lỡ rồi. Như thầy muốn bao tá thì để mùa sau rồi tôi sẽ tính.
Thầy giáo Phát từ giã ông Ðốc và mấy thầy rồi lên xe qua thăm vợ chồnh Hội đồng Lợi. Ông Ðốc nói thêm rằng: "À, tôi quên nói cho thầy nghe nữa. Con nhỏ tôi là con Thiện Tú nó thi đậu. Nó không chịu dạy học, nên tôi gả nó cho ông Ðốc công Ðậu ở bên Long Xuyên". Thầy Phát cười rồi xe rút chạy. Ông Ðốc ngó theo, chừng xe chạy khuất rồi, ông mới nói với mấy thầy giáo rằng: "M.Phát bây giờ sướng quá! Có ruộng đất minh mông, đi ra thì có xe hơi nhà, làm việc thì gần mặt trời, vậy thì đúng bực sang giàu rồi, còn thiếu giống gì nữa đâu. Hồi trướ;c thẩy sang tên đứng bộ giùm cho ruộng đất người ta, mình tưởng thẩy làm bậy, nên khinh khi thẩy, ai mà dè thẩy no nê như vậy. Thiệt là giỏi!"
Thầy giáo Phát qua nhà Hội đồng Lợi vừa ngừng xe ngoài cửa, thì thấy trong nhà người ta lăng xăng, trên bàn thờ nhang đèn đốt đỏ. Thầy bước vô, vợ con hội đồng Lợi khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Vợ hội đồng Lợi và khóc và kể lại rằng: "Thầy nhứt ôi! Thầy xuống thầy thăm ở nhà tôi, mà ổng chết rồi, còn đâu mà thăm. Hồi nào anh em tới lui trò chuyện sáng đêm; bây giờ thầy tới, chỉ thấy cái bàn thờ, chớ làm sao gặp mặt được nữa mà nói chuyện".
Thầy giáo Phát thấy tình cảnh như vậy, thầy lấy làm cảm động, nên ngồi trơ trơ, đợi vợ Hội đồng Lợi khóc kể đã rồi, thầy mới nói rằng:
- Thầy Hội đồng đau tôi không hay, mà mất tôi cũng không biết. Hồi nãy tôi ghé trường học, ông Ðốc ổng nói, thiệt tôi chưng hửng. Thầy hội đồng đau sao mà mất vậy?
- Có đau bịnh gì trọng đâu, chỉ có cái rầu, ăn ngủ không được, càng ngày càng ốm, rồi lần lần tiêu mòn mà chết. Thầy nghĩ đó mà coi, không rầu, không chết sao được. Nợ nần lút cổ, sự nghiệp tan hoang, lại còn bị án tù nữa. Mà việc của ở nhà tôi làm, thì ở nhà tôi chịu, lại còn kéo luôn thầy, là người vô can, chỉ thương anh em, ra gánh vác giùm, mà thầy cũng bị án tù nữa, ở nhà hễ tôi nhớ tới thầy thì đau đớn không biết chừng nào.
- Thầy Hội đồng mất hôm nào?
- Mất hôm bữa mùng bảy, bữa nay đúng hai thất, nên mẹ con tôi cúng đây.
- Bậy quá! Tôi xuống đây là xuống cho thầy Hội đồng hat rằng trong cái vụ tôi với thầy bị án đó, tôi chống án lên tòa trên, nhờ anh của tôi lo lắng xuất tiền mướn trạng sư tốn hao gần một muôn, nên thẩy bỏ phú không đi hầu, song Tòa trên xử tôi với thẩy đều được trắng án, khỏi tội gì hết.
- Ðược vậy hay sao? Trời đất ơi! Chớ chi Tòa xử sớm sớm một chút, ở nhà tôi bớt buồn rầu, có lẽ khỏi chết. Mà thôi, phận thầy được khỏi tội, mẹ con tôi cũng mừng cho thầy. Tôi nói thiệt, thầy bị án, tôi chịu không được. Bây giờ thầy khỏi án, vậy mà thầy trở vô làm việc được hay không?
- Ðược. Tôi được trắng án nên nhà nước đã cho tôi phục chức thầy giáo lại rồi.
- May dữ hôn! Ðược vậy mẹ con tôi mới bớt buồn. Chớ việc của vợ chồng tôi, mà thầy mang họa thì tôi xốn xang quá.
- Phận tôi hơn một năm nay thiệt tôi cũng buồn rầu hết sức. Nếu không có anh tôi lo lắng mà cứu tôi, hễ tôi bị ở tù thì chắc tôi sống cũng không được. Nay phận tôi đã yên rồi, bây giờ tôi xin nói chuyện của thầy Hội đồng. Tôi xuống đây là cố ý muốn nói minh bạch chuyện của thầy cho thầy hiểu. Chẳng dè thầy đã mất rồi, vậy tôi phải nói với cô. Ngày Tòa Trà Vinh kêu án tôi với thầy rồi đó, thì thầy thối chí ngã lòng, tính chịu ở tù, chớ không biết lo làm sao được. Còn sự sản thì thầy cũng tính để cho chủ nợ thi hành phát mãi. Thầy với cô muốn cho tôi khỏi phiền, nên làm thêm một tờ nữa mà giao hết sự nghiệp cho tôi đặng tôi chống chỏi với chủ nợ, nếu chống được thì tôi hưởng, còn như chống không được thì tôi ở tù cho mát dạ tôi. Tôi vẫn biết cái tờ đó không ích gì, bởi vì tôi có tờ mua làm trước đó cũng đủ phép rồi, cần gì phải làm tờ thêm mà giao nữa. Lại Chà Và nó kiện tứ tung tôi bị án rồi, tự nhiên Chà Và lấy ruộng đất và nhà cửa hết, tôi ăn sao được mà giao. Tôi về Sài Gòn, mong chạy cho khỏi án được là may, kể gì tới ruộng đất. Tôi năn nỉ với anh tôi, tôi cậy ảnh lo lắng cứu giùm cho tôi khỏi ở tù; nếu cứu được thì ruộng đất đó ảnh giành với Chà Và mà hưởng, tôi không biết tới. Anh tôi xuất hơn một muôn đồng bạc, mướn hai ba ông trạng sư, biện lý hết sức, nên cứu tôi khỏi tù, mà giành lại ruộng đất nhà cửa với chủ nợ cũng được nữa. Vì vậy đó nên những tài sản hai ông bà giao cho tôi đó, bây giờ về anh tôi hưởng, tôi không được biết tới. Tôi xuống đây là cốt nhứt cho thầy Hội đồng hay thầy khỏi bị án, sau nữa tỏ vụ gia sản đó cho hai ông bà biết.
Vợ con Hội đồng nghe nói như vậy thì nín khe. Cách một hồi lâu, vợ Hội đồng Lợi mới nói xuôi xị rằng: "Gia tài của tôi bề nào cũng thi hành phát mãi hết. Vợ chồng tôi cùng thế rồi nên giao cho thầy. Thầy muốn giao lại cho ai là quyền của thầy, tôi có dám nói gì đâu"
Thầy Phát dọ được tình ý rồi thầy bèn nói rằng: "Tuy tôi giao trọn hết cho anh tôi rồi, nhưng mà hôm Tòa xử anh tôi đặng kiện, tôi nghĩ thầy với cô trọng tuổi lại có cháu đông, nếu ruộng đất nhà cửa tiêu hết, thì chỗ đâu mà ở, làm nghề gì mà ăn. Tôi mới năn nỉ xin anh tôi rộng lòng cho bớt một cái nhà với năm mươi mẫu ruộng ở Tiểu Cần đặng hai ông bà ở và góp huê lợi lại ruộng ấy mà dưỡng già. Ban đầu anh tôi nói ảnh tốn hao trên một muôn đồng bạc, nếu ảnh cho thì thiệt hại ảnh nhiều. Tôi theo năn nỉ trọn mấy ngày ảnh mới chịu cho như lời tôi xin. Vậy tôi xuống nói cho cô hay đặng lực coi ai đáng tin cậy thì cho tôi biết tên họ, đặng tôi làm tờ sang bộ lại cho, chớ để tên cô đứng bộ thì chủ nợ họ kiện họ lấy liền, không ích gì".
Vợ Hội đồng mừng rỡ hết sức biểu con ra lạy thầy giáo Phát mà tạ ơn. Cô khóc và nói rằng: "Thầy làm anh em với nhà tôi không mấy ngày, mà thầy thương vợ chồng tôi, thầy lo lắng từ chút, thiệt tôi chẳng biết lấy lời chi mà tạ ơn cho vừa. Ở nhà tôi đã mất rồi, mà thầy còn lo cho mẹ con tôi có chỗ ở, có cơm ăn, dầu đến chết mẹ con tôi chẳng quên cái ơn ấy. Việc sang bộ, để chậm ít ngày cho mẹ con tôi tính, chớ gấp quá tính không được. Như thầy có gấp về Sài Gòn, thì chừng mẹ con kiếm được người rồi, mẹ con tôi sẽ dắt lên trển làm tờ giấy cũng được vậy".
Khách đến dự đám tuần, ai cũng khen ngợi thầy giáo Phát có phước, có tài, lại biết nhơn nghĩa, biết thương yêu người hoạn nạn.
Vợ con Hội đồng Lợi ân cần mời quá, nên thầy Phát ở ăn cơm trưa và nói chuyện chới tới xế chiều mát rồi mới từ mà về.
Thầy ngồi xe hơi có một mình ở phía sau, xe chạy ồ ồ, gió phất mát mặt. Thầy nhớ cách người quen biết họ trở mặt, đổi đời, thì thầy tức cười thầm. Rõ ràng là lời của anh là Hà Tấn Phát và của bạn là Cao Lương Ký nói chẳng sai. Ðời này chẳng còn luân lý nhơn nghĩa gì nữa hết. Phải gian xảo mới được người ta kính phục. Phải có tiền mới được người ta thương yêu. À! thế tình như vậy mình không phải là thầy tu, thì dại gì bo bo giữ luân lý nhơn nghĩa! Kia, cô Thiện Tú, cô còn biết ở theo thời thay, mình là trai, há mình không biết ở theo đời sao?