2013: vi xử lí Intel Haswell sẽ được tích hợp đa lõi GPU
Intel sẽ cho giới thiệu một kiến trúc vi xử lí mới được biết đến dưới tên mã Haswell vào năm 2013. Và các báo cáo gần đây cho thấy chip mới có thể sẽ bao gồm nhiều hơn 1 lõi đồ họa bên trong.
Theo một nguồn tin giấu tên được trích dẫn bởi VR-Zone cho biết, Intel đã tiếp cận với cách cho phép tạo ra một bộ vi xử lí linh hoạt hơn có thể phục vụ cho nhu cầu của điện thoại di động lẫn máy tính để bàn.
Thông tin chi tiết về cách tích hợp nhiều lõi GPU vào trong vi xử lí khá khan hiếm vào thời điểm này nhưng theo trang web này thì bộ vi xử lí của Intel có thể ghép đến 4 lõi CPU và 2 lõi GPU, hoặc thậm chí đến 3 lõi đồ họa để tạo thành một chip vi xử lí mạnh mẽ.
Bộ vi xử lí Haswell của Intel sẽ xuất hiện như là người kế nhiệm cho Ivy Bridge và sử dụng kiến trúc mới mà Intel có thể điều chỉnh để đạt mức điện áp TDP từ 10 - 20 watt trong phiên bản dành cho các thiết bị di động.
Đây là một sự khởi đầu đáng kể so với Sandy Bridge được đánh giá ở mức 35-45 watt. Việc sử dụng năng lượng thấp cùng với công nghệ cấu hình TDP ra mắt trong Ivy Bridge sẽ cho phép các nhà sản xuất MTXT có thể cung cấp các sản phẩm với thời gian pin chờ lên đến 10 ngày.
Các tính năng khác có trong vi xử lí Haswell bao gồm hỗ trợ DirectX 11.1 API, các thiết lập AVX2 cũng như một loạt các cải tiến IPC để tăng hiệu suất làm việc.
Haswell dự kiến sẽ xuất hiện vào năm 2013 nhưng ngày phát hành cụ thể vẫn chưa được Intel công bố.
Theo Softpedia
Thế hệ vi xử lí Atom tiếp theo của Intel, E6xx series, cuối cùng sẽ hỗ trợ Android vào tháng 1/2012 tới đây. Đó là thông tin được Intel khẳng định trong một video quảng cáo mà công ty vừa phát hành.
Intel Atom E6xx series là chip sử dụng điện áp thấp của Intel cung cấp tính năng đặc biệt hỗ trợ Android 2.3 Gingerbread. Nhưng E6xx series không phải là chip được thiết kế để chạy trên smartphone mà thực sự đây là chip được thiết kế để sử dụng trong các hệ thống nhúng.
Intel Atom E6xx series là một phần của gia đình vi xử lí trước đây được biết đến với tên mã là Queens Bay và lần đầu tiên được Intel giới thiệu tại IDF 2010, nơi mà nhà sản xuất chip này giới thiệu thế hệ SoC đầu tiên dựa trên bộ vi xử lí. Mục tiêu của chip mới ngoài việc bán lẻ được Intel đưa ra thì chúng còn bao gồm các thiết bị tập thể dục, biển báo kĩ thuật số và các hệ thống trong xe hơi.
Tuy nhiên, có lẽ điều quan trọng nhất ở vi xử lí Atom thế hệ mới chính là việc nó đã đánh dấu một bước tiếp theo trong việc đẩy mạnh kinh doanh của công ty đến thị trường các thiết bị di động. Trước đó, Intel đã hứa sẽ giới thiệu một tablet Intel chạy Android Honeycomb.
Đầu năm nay, Intel đã cho giới thiệu nền tảng Trail Oak với tuyên bố sẽ có trên 35 tablet và tablet lai từ nhiều nhà sản xuất khác nhau sẽ sử dụng nền tảng vi xử lí mới của hãng. Android 3.0 được dự kiến sẽ là một phần quan trọng trong việc thúc đẩy việc kinh doanh tablet của Intel, và dường như phía Intel đã sẵn sàng trong việc bỏ ra hẳn 10 USD hỗ trợ chi phí vận chuyển để thu hút người dùng đến với sản phẩm đầu tiên của hãng.
Giới thiệu Atom E6xx series đầu tiên của Intel được thiết kế dành cho thiết bị Android
Trong khi đó, ARM đang thống trị không gian di động bằng cách cấp giấy phép công nghệ của mình cho các nhóm thứ ba như Nvidia và Qualcomm. Chip ARM đã thể hiện được khả năng tùy biến, hiệu quả hơn trong việc sử dụng năng lượng và quan trọng nhất là chi phí của chip này hấp dẫn hơn nhiều so với Atom của Intel.
Theo Techspot
Công nghệ kết nối tốc độ cao Thunderbolt của Intel sẽ không cạnh tranh với chuẩn kết nối USB (Universal Serial Bus) là chuẩn phổ biến dùng để kết nối máy tính với các thiết bị khác.
Thunderbolt, được công bố hồi đầu năm nay, có hiệu năng lý thuyết gấp đôi so với chuẩn liên kết siêu tốc độ SuperSpeed USB (3.0). Do đó cũng có lý khi cho rằng trong tương lai công nghệ này sẽ qua mặt USB, công nghệ giao tiếp kết nối gắn ngoài phổ biến nhất từng được tạo ra.
Người phát ngôn Dave Salvator của Intel cho biết, hãng Apple đã đi đầu với sản phẩm có trang bị giao tiếp công nghệ Thunderbolt, và hàng chục hãng sản xuất đã sẵn sàng xuất xưởng các hệ thống có công nghệ Thunderbolt vào năm tới. Tại diễn đàn các nhà phát triển Intel Developer Forum hồi tháng 9/2011, hàng chục sản phẩm mới được trưng bày có cổng kết nối Thunderbolt.
Người phát ngôn của Intel cho biết, chúng ta có thể thấy xuất hiện trên thị trường các sản phẩm chạy Windows có công nghệ Thunderbolt vào nửa đầu năm 2012. Microsoft cũng đã trình diễn hỗ trợ Thunderbolt trên Windows 8.
Ông Salvator cho biết, Intel xem Thunderbolt là công nghệ bổ sung cho giao thức USB, mà Intel cũng đã cùng phát triển, nhưng hãng đang nhắm đến đáp ứng nhu cầu của các thiết bị có yêu cầu hiệu năng cao hơn.
Theo Steve Duplessie, nhà sáng lập kiêm trưởng bộ phận phân tích của hãng nghiên cứu thị trường ESG, khi Intel tung ra Thunderbolt thì cả một hệ sinh thái sẽ bắt đầu xây dựng sản phẩm Thunderbolt.
Theo ông Salvator, Acer và Asus đã công bố rằng các nền tảng 2012 của họ sẽ có Thunderbolt, nhưng các hãng sản xuất hệ thống như Dell, Lenovo và Hewlett-Packard (HP) chưa có hành động tương tự. Cả 3 hãng này cho biết là họ vẫn còn đang “đánh giá” công nghệ này.
USB là một trong những chuẩn kết nối thành công nhất trong lịch sử máy tính cá nhân. 100% các hãng sản xuất máy tính và thiết bị ngoại vi đều chấp nhận sử dụng USB. Số thiết bị có lắp đặt USB lên đến hơn 10 tỷ chiếc và mỗi năm số thiết bị này tăng thêm hơn 3 tỷ. Do đó khó mà tưởng tượng được sẽ có một công nghệ liên kết thiết bị bên ngoài nào có thể cạnh tranh với USB.
SuperSpeed USB (USB 3.0) được tối ưu hoá cho hiệu quả về điện năng. Công nghệ này chỉ dùng 1,5A điện năng để nạp điện thiết bị, hay khoảng 1/3 điện năng của Hi-Speed USB (USB 2.0) trước nó.
“Chúng tôi cũng cung cấp nhiều điện năng hơn để nạp điện nhanh hơn”, theo Jeff Ravencraft, Chủ tịch tổ chức USB-IF (USB Implementers Forum), một tổ chức phi lợi nhuận thành lập bởi các nhà phát triển đặc tả USB, gồm Intel, Microsoft và HP. “Ngày nay, điện năng là vua, và cách bạn quản lý điện năng là quyết định”.
Đặc tả USB 2.0 hiện giờ cung cấp cho các thiết bị bên ngoài đến 500mA để nạp điện. Trong khi USB 3.0 cung cấp đến 900mA, tương đương 4,5W, theo ông Ravencraft.
Nếu cổng được thiết kế để hỗ trợ đặc tả sạc pin USB (USB Battery Charging), thì lượng điện năng được nâng cao lên 7,5W (1,5A ở hiệu điện thế 5V). Ngoài ra, theo ông Ravencraft, nhóm USB 3.0 Promoter Group gần đây đã công bố kế hoạch sẽ giới thiệu một đặc tả cung cấp điện năng USB mới, dự kiến sẽ hoàn tất vào đầu năm 2012, nhằm giúp nâng cao hiệu điện thế và cường độ để cung cấp công suất lên đến 7,5W bằng loại cáp hiện giờ và lên đến 100W bằng loại cáp mới. Quá nhiều băng thông?
Ít ra về mặt lý thuyết, Thunderbolt đánh bại được USB. Thunderbolt có tốc độ truyền 10Gbps, so với 5Gbps của USB 3.0. Thunderbolt nhanh gấp 12 lần so với FireWire 800 và nhanh gấp 20 lần so với USB 2.0. Thunderbolt có thể truyền cả một phim độ nét cao trong vòng không đến 30 giây. USB 3.0 phải tốn đến 70 giây để thực hiện cùng công việc đó, theo ông Ravencraft. Thunderbolt cũng cung cấp đến 10W điện năng cho một thiết bị.
Giám đốc kỹ thuật Rahman Ismail của USB-IF cho biết, trong khi Thunderbolt có thể cung cấp gấp đôi băng thông của USB 3.0, hầu hết mọi người cũng không cần đến lượng băng thông này và thật vậy, hầu hết ứng dụng vẫn chạy được với USB 2.0.
Ông Ismail cho rằng, vấn đề là yêu cầu băng thông này đáp ứng cho thị trường nào.
Được làm bằng đồng, đặc tả Thunderbolt gồm 2 giao thức: PCI Express (PCIe) và DisplayPort. Chip Thunderbolt sẽ chuyển đổi giữa 2 giao thức này để hỗ trợ các thiết bị khác nhau. DisplayPort hỗ trợ hiển thị độ nét cao và cả 8 kênh âm thanh HD audio. Bộ kết nối Thunderbolt có 2 kênh song công toàn phần (full-duplex); mỗi kênh đều hoạt động 2 chiều và cung cấp thông lượng 10Gbps.
Intel nhận thấy, Thunderbolt hỗ trợ các thiết bị lưu trữ tốc độ cao như dãy các thiết bị RAID, màn hiển thị HD và hộp mở rộng PCIe cho MTXT – rất tiện lợi vì xuất/nhập thật nhanh.
Ông Salvator còn nêu ra các sản phẩm có công nghệ Thunderbolt được trưng bày tại hội nghị IDF hồi tháng 9/2011 gồm các thiết bị lưu trữ tốc độ cao (dãy RAID), thiết bị sao chép truyền thông HD, màn hình hiển thị, và bộ mở rộng PCIe cho MTXT. Ông cũng cho biết, Intel sẽ tiếp tục hỗ trợ các công nghệ liên kết khác của hãng.
Hiện giờ, Apple là hãng duy nhất bán máy tính có cổng Thunderbolt. Sony có thể đang dự tính sẽ xuất xưởng một model MTXT có cổng Thunderbolt trong năm nay. Intel đang thiết kế 2 bộ điều khiển Thunderbolt mới có giá thấp cho các nhà phát triển đang thiết kế các hệ thống dùng chip Ivy Bridge của hãng.
Apple là hãng đầu tiên thêm cổng Thunderbolt cùng với cổng USB vào MacBook Air, MacBook Pro, iMac và Mac mini, cho phép khách hàng tiếp cận màn hình hiển thị độ nét cao hơn 1080p.
Apple đã tung ra màn hình hiển thị mới Thunderbolt 27” để biến MacBook Air thành một máy trạm. Cổng Thunderbolt không những cung cấp cho màn hình độ phân giải 2560x1440, nhưng còn cho phép kết nối chuỗi các thiết bị ngoại vi. Điều này có nghĩa là có thể kết nối thêm với màn hình Apple Thunderbolt Display đến 5 thiết bị ngoại vi, gồm thiết bị Promise Pegasus RAID, hay ổ đĩa cứng ngoài LaCie Little Big Disk có công nghệ Thunderbolt đầu tiên.
Ông Salvator cho biết có nhiều loại cổng I/O được tích hợp vào màn hình này. Sản phẩm gì đang được sản xuất?
Không như Apple và Sony, không phải tất cả các hãng sản xuất đều thích hỗ trợ Thunderbolt trên thiết bị của họ. Hồi đầu năm nay, HP đã xem xét sử dụng Thunderbolt trong máy tính của họ, nhưng sau đó cho biết họ sẽ tiếp tục sử dụng USB 3.0.
Các hãng sản xuất khác có thể sẽ nối bước. Vì vẫn còn mới mẻ, Thunderbolt có giá cao ngất ngưỡng. Theo ông Ismail, một cáp USB 2.0 có giá bán khoảng 1,5 USD (~32.000 đồng), và bộ chipset chỉ dưới 1 USD (~21.000 đồng). Cáp USB 3.0 có giá cao hơn, nhưng chỉ khoảng 4,49 USD (~95.000 đồng).
Trái lại, cáp Thunderbolt được bán với giá 49 USD (~1 triệu đồng). Ông Salvator của Intel không cho biết giá của bộ điều khiển Thunderbolt; tuy nhiên, Intel dự tính sẽ cung cấp bộ chipset giá thấp hơn, có tên gọi Cactus Ranch, vào năm tới.
Theo ông Duplessie, người ta phải bán 45 cáp USB để kiếm được số tiền bằng với số kiếm được với một cáp Thunderbolt. Cùng chi phí sợi cáp và sản xuất. Trong giai đoạn đầu của chu kỳ công nghệ, đó chỉ là thuần lợi nhuận, về mặt hiệu quả. Phải chịu thôi. USB có thể vẫn tiếp tục phát triển. Đối với 99% người dùng, USB 2.0 có lẽ đã đủ nhanh, chưa nói đến USB 3.0.
David Johnson, nhà phân tích của bộ phận cơ sở hạ tầng máy tính để bàn/di động và điều hành của Forrester Research cho biết vẫn còn quá sớm. Tính phổ biến của các thiết bị USB sẽ là một nhân tố lớn mà các nhà sản xuất và người tiêu dùng xét đến trong việc chấp nhận sử dụng Thunderbolt trong tương lai. Nhưng công nghệ giao tiếp này cũng gọn gàng hơn USB, lý tưởng để sử dụng trong netbook, máy tính bảng hay trong công nghệ máy tính mỏng nhẹ.
Intel sẽ giới thiệu một dòng MTXT siêu mỏng mới gọi là Ultrabook vào mùa nghỉ cuối năm nay. Và dù hãng không yêu cầu các hãng sản xuất trang thiết bị sử dụng Thunderbolt trên các máy tính đó, nhưng chắc chắn nhiều hãng sẽ sử dụng công nghệ này, theo ông Johnson.
Theo ông, đây là một nhân tố sẽ thúc đẩy Thunderbolt.
Giống như Thunderbolt, USB 3.0 cũng đang trong thời kỳ đầu. Đa số các sản phẩm đều chỉ sản xuất trong các thiết bị ngoại vi, gồm thẻ nhớ flash và ổ đĩa cứng ngoài.
Tuy nhiên, hãng sản xuất máy tính Asus đã xuất xưởng 2 triệu bo mạch chủ có trang bị giao tiếp USB 3.0 cho các hãng máy tính trong quý 1 năm nay. Hãng bán dẫn Renesas Electronics cho biết, đã có 30 triệu bộ điều khiển USB 3.0 được xuất xưởng tính đến hết tháng 5/2011, và hãng sản xuất bo mạch chủ Giga-Byte Technology cũng sẽ xuất xưởng 7,5 triệu bo mạch chủ USB 3.0 vào cuối năm nay.
Bộ điều khiển có chứng nhận USB 3.0 đã được 7 hãng khác bán ra, gồm Advanced Micro Devices (AMD), ASMedia và Etron. AMD đã công bố bộ chipset có chứng nhận SuperSpeed USB tại Diễn đàn phát triển IDF Bắc Kinh 2011. Intel đã tuyên bố hỗ trợ tích hợp USB 3.0 vào bộ chipset Ivy Bridge tại diễn đàn phát triển hồi đầu tháng này.
Dù vậy, cuối cùng thì cũng tùy thuộc vào người tiêu dùng qua sản phẩm họ mua, cho các hãng cung cấp thấy là họ có muốn băng thông và điện năng mà Thunderbolt cung cấp hay không.
Theo ông Johnson, nếu bạn có 2 máy mà một máy có Thunderbolt và máy kia không có, và giá cả không chênh nhau nhiều, thì nhiều khả năng là người dùng sẽ chọn mua máy có cổng Thunderbolt.
Theo PCWorld VN
Rỏ rỉ slide giới thiệu chi tiết kiến trúc vi xử lí Haswell của Intel
Khi mà Ivy Bridge, thế hệ kế nhiệm của Sandy Bridge, vẫn chưa xuất hiện thì Intel đã chuẩn bị mọi thứ cho việc giới thiệu về công nghệ bộ vi xử lí Haswell vào năm 2013 của hãng.
Kiến trúc Haswell lần đầu tiên được Intel giới công bố tại IDF 2011 diễn ra vào hồi tháng Chín với các thông tin khá hạn chế nay đã được lộ diện thêm nhiều chi tiết thông qua các slide bị rò rỉ mới đây.
Theo đó, Haswell sẽ được thiết kế trên qui trình công nghệ 22 nm với các bóng bán dẫn 3D tri-gate. Dựa trên thông tin mới nhất, Haswell sẽ là một phần của một nền tảng được gọi là Shark Bay và sẽ yêu cầu một bo mạch chủ hoàn toàn mới hỗ trợ socket LGA1150, trong khi đối với thiết bị di động sẽ sử dụng bo mạch chủ hỗ trợ socket rPGA947 hoặc BGA1364.
Vi xử lí Haswell hỗ trợ 2 hoặc 4 lõixử lí song song với chip đồ họa tích hợp sẵn trên bo mạch hỗ trợ DirectX 11. Chúng hỗ trợ các công nghệ Turbo Boost và Hyper-Threading của Intel cũng như các thiết lập AVX 2.0, dual-channel DDR3 1600 MHz RAM và PCI Express 3.0.
Haswell sẽ đến với hai phiên bản khác nhau. Phiên bản dành cho máy tính để bàn sử dụng các mức điện áp TDP 35 W và 95 W, trong khi các biến thể hỗ trợ thiết bị di động sẽ sử dụng các mức điện áp TDP 37 W, 47 W và 57 W, riêng bộ phận dành cho ultrabook sẽ chỉ sử dụng mức điện áp 15 W. Điều này sẽ giúp pin trong máy hoạt động được lâu hơn.
BIOS - Hệ thống xuất nhập cơ bản (Basic Input/Output System), sắp hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, sẵn sàng nghỉ hưu nhường chỗ cho công nghệ mới hơn - UEFI.
BIOS - Hệ thống xuất nhập cơ bản (Basic Input/Output System), sắp hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, sẵn sàng nghỉ hưu nhường chỗ cho công nghệ mới hơn - UEFI.
Giao diện firmware mở rộng hợp nhất (Unified Extensible Firmware Interface - UEFI) là kẻ kế vị BIOS, mang lại nhiều lợi thế và có thể là cả những hệ lụy.
Mỗi khi bạn bật máy vi tính (PC), BIOS sẽ được nạp vào bộ nhớ hệ thống, kiểm tra sự sẵn sàng của các thiết bị phần cứng, sau đó chuyển quyền sang cho hệ điều hành khởi động. Quá trình này đã diễn ra suốt hơn 30 năm qua với mọi PC trên thế giới. Nhưng rồi cũng đến ngày nó đi dần vào dĩ vãng. Các nhà sản xuất PC đã dần thay thế BIOS bằng UEFI. Có vẻ như UEFI sẽ giúp quá trình khởi động an toàn hơn nhờ tính năng Secure Boot. Tính năng này chỉ cho phép PC khởi động với một hệ điều hành duy nhất: Windows 8.
Điều gì đang xảy ra? Phải chăng UEFI chỉ là cách để Microsoft và các đối tác sản xuất thiết bị gốc (OEM) trung thành của “người khổng lồ” phần mềm này hất Linux và các hệ điều hành thay thế khác ra ngoài lãnh địa PC? Để có câu trả lời, chúng ta hãy tìm hiểu xem UEFI có ý nghĩa gì.
Sau nhiều thập kỉ, đến nay BIOS đã trở nên quá lỗi thời. Ví dụ, BIOS chỉ có 1.024 KB (Kilobyte) dung lượng thực thi. Điều đó có nghĩa là BIOS gặp khó khăn trong việc khởi động các thiết bị ngoại vi đa giao tiếp (USB, eSATA, ThunderBolt…), các cổng, và các bộ điều khiển trên một chiếc PC đời mới. Một điều khó chịu là BIOS không thể thực hiện khởi động các thiết bị để trong vòng 30 giây, sau khi bật công tắc, máy tính của bạn đã sẵn sàng cho quá trình nạp hệ điều hành.
Các công ty máy tính thừa biết BIOS đã lỗi thời từ lâu, trước cả khi thế kỉ 21 bắt đầu. Tuy nhiên, cho đến gần đây họ vẫn không thể cùng nhau đưa ra được phương án thay thế.
Vào năm 1998, Intel bắt đầu đưa ra sáng kiến khởi động mới - “Intel Boot Initiative” (IBI), sau đó được gọi là “Giao diện firmware mở rộng” - Extensible Firmware Interface (EFI). Trong khi EFI được Apple dùng trong máy Mac chạy bộ xử lí Intel, và HP với bộ xử lí Itanium 2 dùng trong máy chủ của mình, nhiều nhà sản xuất OEM khác và tất nhiên là cả các nhà cung cấp chip đối thủ của Intel, ban đầu không quan tâm đến việc áp dụng EFI. Đến năm 2007, Intel cùng với AMD, AMI, Apple, Dell, HP, IBM, Lenovo, Microsoft, và Phoenix Technologies cuối cùng cũng đạt được sự thống nhất sử dụng UEFI (EFI với nhãn hiệu mới) thay cho BIOS.
Thế nhưng, UEFI không chỉ đơn thuần thay thế BIOS.
UEFI là một hệ điều hành tối giản nằm phía trên phần cứng và firmware của máy tính. Thay vì được lưu trong firmware, như là BIOS, chương trình UEFI được lưu trữ ở thư mục /EFI/ trong bộ nhớ non-volatile (là bộ nhớ đảm bảo cho dữ liệu không bị hỏng mỗi khi mất điện). Vì vậy, UEFI có thể chứa trong bộ nhớ flash NAND trên bo mạch chính (mainboard) hoặc cũng có thể để trên một ổ đĩa cứng, hay thậm chí là ngay cả trên một vùng tài nguyên mạng được chia sẻ.
Thậm chí ngay trong UEFI vẫn còn phần nhỏ BIOS trong firmware để giúp UEFI tự khởi động.
Lợi thế UEFI
Ưu thế của các hệ thống UEFI không chỉ là khởi động nhanh mà còn ở khả năng quản lí thiết bị lưu trữ chính có dung lượng lớn. BIOS không thể khởi động từ các đĩa cứng với dung lượng lớn hơn 2,2 TB (terabyte). Giới hạn này là do hạn chế từ phần cung mồi Master Boot Record (MBR). Trong BIOS MBR, dung lượng cực đại cho một ổ đĩa bằng 2^32 x 512 (tối đa 2^32 sector; kích thước mỗi sector là 512 byte), tức tương đương với 2,2 TB. Đây là một lược đồ địa chỉ cho ổ đĩa cứng đời cũ. Như vậy, máy tính không thể khởi động với các ổ đĩa cứng dung lượng lớn hơn 2,2 TB. Với việc các ổ đĩa 3 TB đang trở nên phổ biến, các nhà sản xuất OEM không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc chuyển sang UEFI trên các PC cao cấp.
UEFI sử dụng bảng phân vùng GUID (Globally Unique ID), kết hợp lại để thay thế cho cung mồi MBR và các phân vùng địa chỉ. GUID đem đến khả năng khởi động từ ổ đĩa cứng lớn tới cỡ 9,4ZB (zetabytes) – có thể coi như là vô hạn, gạt bỏ mọi lo lắng về quản lí ổ cứng dung lượng lớn với UEFI.
Trên quan điểm kinh doanh, BIOS từ lâu đã gây khó cho việc sửa chữa và bảo trì máy tính. Ngày nay, nếu PC bị trục trặc không thể khởi động, kĩ thuật viên sẽ sửa máy tại chỗ. BIOS quá đơn giản, không hỗ trợ kết nối mạng nên hẳn nhiên là thiếu các công cụ bảo trì và xử lí sự cố từ xa. Với UEFI, các nhà sản xuất OEM có thể tích hợp sẵn khả năng nối mạng và các công cụ sửa lỗi cơ bản. Về mặt kinh doanh, UEFI sẽ đem lại hiệu quả hoạt động hơn cho PC nhờ khởi động nhanh và rút ngắn được thời gian khắc phục sự cố so với BIOS.
Khả năng của UEFI đến đâu còn tùy thuộc vào nhà cung cấp chip, nhà sản xuất máy tính OEM, và từng phiên bản hệ điều hành. Dù vậy, ít ra bạn cũng có thể trông chờ hệ thống khởi động an toàn, kết nối mạng dễ dàng hơn, và khả năng truy cập nhanh vào mọi thành phần phần cứng của hệ thống. Có thể một số nhà cung cấp sẽ phát triển phiên bản hệ điều hành tối giản, nhằm tương tác nhanh thông qua trình duyệt Web chẳng hạn, mà không nhất thiết phải tốn công khởi động PC để nạp một hệ điều hành như hiện nay. Vấn đề ở đâu?
Nếu UEFI tuyệt vời như vậy, tại sao bạn không hề nghe nói tới nó cho đến gần đây khi nổi lên những bàn tán xung quanh việc Microsoft đang tìm cách sử dụng tính năng khởi động an toàn của mình để loại Linux ra khỏi máy tính? Trớ trêu thay, một trong những lí do khiến UEFI bị trì hoãn trong một thời gian dài là vì không được Microsoft hỗ trợ. Ngay cả bây giờ, Windows 32-bit cũng không hỗ trợ khả năng khởi động từ một hệ thống UEFI. Thiếu sự hỗ trợ đầy đủ của Microsoft, các nhà sản xuất OEM đã không sẵn lòng chuyển sang UEFI.
Ngoài ra, UEFI mới chỉ là một khung sườn. Nếu một nhà sản xuất OEM muốn hỗ trợ đầy đủ mọi phần cứng được một bo mạch chính hỗ trợ và cung cấp các công cụ chẩn đoán, họ phải tạo ra chúng. Chi phí cho việc này không phải là thấp. Các “ông lớn” Apple, HP, và IBM đã thực hiện cam kết, nhưng các nhà cung cấp khác vẫn đang nghe ngóng chờ đợi.
Một hệ thống dựa trên UEFI không yêu cầu các nhà thiết kế nó cung cấp các công cụ chẩn đoán và điều khiển hệ thống trong một GUI, nhưng một số nhà sản xuất OEM, như Asus, đang cung cấp kiểu chức năng như vậy.
Hiện, Microsoft đang khăng khăng đòi PC chạy Windows 8 phải hỗ trợ khởi động an toàn với UEFI. Hệ thống khởi động này được thiết kế để đảm bảo rằng PC chỉ khởi động một hệ điều hành chính thống. Như vậy, có lẽ hầu hết PC được sản xuất từ khoảng cuối 2012, hoặc sang năm 2013, sẽ sử dụng UEFI thay cho BIOS cơ bản.
Trong khi đó, các nhà phát triển Linux không gặp vấn đề với khởi động an toàn. Thật vậy, trong sách trắng: Making UEFI Secure Boot Work With Open Platforms (dạng PDF), tổ chức The Linux Foundation tuyên bố rằng, “Linux và các hệ điều hành mở khác sẽ có thể tận dụng lợi thế của khởi động an toàn nếu nó được tích hợp sẵn với phần cứng".
Điều quan trọng là Microsoft vẫn tiếp tục né tránh câu hỏi họ sẽ thực thi khởi động an toàn ra sao. Không loại trừ khả năng Microsoft hỗ trợ khởi động kép áp dụng cho Windows 8, bao gồm lựa chọn khởi động an toàn và chạy bất kì hệ điều hành tương thích UEFI.
Và nếu như vậy thì, UEFI không phải là liều thuốc chữa bách bệnh cho vấn nạn rootkit và những phần mềm độc hại (malware) cấp thấp khác.
Thật vậy, tự thân UEFI cũng là phần mềm và vì là một hệ điều hành nên nó hoàn toàn có thể bị tấn công. Bản đặc tả kĩ thuật mới nhất của UEFI, phiên bản 2.3.1 (PDF), mới được phát hành hồi tháng Tư, bao gồm một số biện pháp phòng thủ malware, chẳng hạn như xác thực thiết bị đã được đăng kí và bảo vệ theo thuật toán băm. Tuy nhiên, trong khi UEFI đem đến khả năng khởi động nhanh hơn, quản lí lưu trữ dung lượng lớn hơn, hỗ trợ tốt hơn, thì mối đe dọa của malware vẫn còn đó.
UEFI giúp PC khởi động an toàn là điều tuyệt vời, nhưng có lẽ vẫn chỉ là mơ!