Sự thật thường làm mất lòng. Văn Bình đã làm mất lòng nhiều bè bạn vì sự phê phán của chàng đối với công an cảnh sát. Chàng là điệp viên chuyên nghiệp, không nhiều thì ít, liên hệ với thế giới ông cò, song chàng lại ghét ông cò một cách đặc biệt.
Chàng ghét ông cò mặc dầu chàng có nhiều bồ bịch điều khiển công an cảnh sát phần nào vì chàng là một trong những người lái xe ẩu nhất Sàigòn mà các ông cò Sàigòn lại nổi tiếng về tài biên phạt. Không lần nào chàng về Sàigòn để báo cáo công tác hoặc nghỉ xả hơi là chàng không bị chặn xe dọc đường với những vi phạm luật lệ rõ ràng như 2 với 2 là 4. Chẳng hạn vượt ngã tư đèn đỏ, lái bên trái, phóng trong thành phố với tốc độ trăm cây số một giờ. Chỉ khi nào bị vây hãm, trước sau đều có cảnh sát, chàng mới dừng lại, xuất trình giấy tờ. Nhưng thường thường là chàng bỏ chạy. Chàng không phải là phần tử vô chính phủ, coi luật pháp là trò đùa, nhưng khốn nỗi người đẹp ngồi bên lại không thích bị phá đám, cho nên giữa chính phủ do dân bầu ra và chính phủ của mông đùi ngực, chàng đành tuân lệnh chính phủ thứ nhì...
Bởi vậy Văn Bình đã quá quen với tiếng còi cảnh sát.
Tiếng Xíp-lê vừa ré lên trong khu ăn chơi Mông-mác thì một toán cảnh sát viên lực lưỡng hiện ra. Bọn du đãng buông Rờnê và đẩy hắn ngã xuống rãnh nước - một tên, chắc là tên cầm đầu - la hoảng :
- Chạy đi chúng mày...
Đạo binh tố nữ ùa từ trên vỉa hè xuống mặt đường. Họ không vắt giò lên cổ nhự bọn du đãng đực rựa. Dường như họ đã được huấn luyện chu đáo để đối phó với nhân viên công lực. Phản ứng đầu tiên của họ là cản chân các cảnh sát viên. Cả thảy có hai cảnh sát viên mà đạo binh mày trắng lên đến nửa tá. Hai ông cò le te chạy tới, xíp-lê ngậm trong miệng tiếp tục thổi liên hồi song không thể đến gần xe hơi DS. Trong khi ấy, bọn anh chị đã biến mất vào bóng tối.
Rờnê cũng tỏ ra khôn ngoan không kém. Tuy bị đánh đau, thừa sống thiếu chết, đầu óc hắn vẫn còn tỉnh táo. Hắn vịn xườn xe, bò lên băng trước và mở máy. Chiếc DS nhảy chồm lên khiến đám đông phải giãn ra, Rờnê phóng độ trăm mét rồi quẹo trái.
Văn Bình liếc thấy cặp mắt láo liên của Rờnê trên nền kiếng chiếu hậu lớn bằng nửa cuốn sách. Chỉ riêng cặp mắt này đã đủ chứng tỏ Rờnê là kẻ giết người không sợ mùi máu.
Chiếc DS là loại xe cồng kềnh nhất của kỹ nghệ Pháp Quốc. Đường phố khu ăn chơi ngang dọc thất thường song Rờnê điều khiển vô-lăng lẹ làng như đang chạy một mình trên xa lộ. Lối lái xe của hắn liều mạng mà chín chắn, những ai thiếu kinh nghiệm đều tưởng lầm hắn đùa rởn ngu dại với Tử Thần, nhưng sự thật là hắn lái xe một cách tính toán, thận trọng và già dặn.
Những bảng hiệu nê-ông vun vút qua mặt Văn Bình. Hết tiệm ăn đến hộp đêm. Hết hộp đêm đến tiệm ăn. Chàng quan tâm đến tiệm ăn nhiều hơn, vì cơn đói mỗi lúc làm thắt nghẽn ruột chàng. Chàng bèn đánh lừa thần đói bằng cách hình dung trong trí, quang cảnh bên ngoài, bên trong những nhà hàng độc nhất vô nhị, vừa ngon, vừa sang không đâu sánh kịp. Nước Pháp có khoảng mươi tiệm ăn như vậy, chàng đều đến viếng thăm không sót tiệm nào <1>. Tuy nhiên, ngoài những nhà hàng thượng lưu, khách phải mặc đồ lớn và lấy bàn từ trước như Maxim's, chàng còn biết nhiều nhà hàng nhỏ như lỗ mũi, bàn ghế xấu xí mà ngon kinh khủng, phải ghi tên trước cả tháng trường mới có hy vọng giành được vài ba chỗ ngồi <2>.
Văn Bình mê nghệ thuật ẩm thực Pháp. Song chàng không ngửi được cái thói quen đòi tiền buộc-boa. Muốn đi ăn phải chuẩn bị một đống tiền tiền lẻ sẵn sàng. Tắc-xi đậu lại, buộc-boa. Chú bồi phục sức lòe loẹt mở cửa kiếng, rạp lưng cúi chào mời, cũng buộc-boa. Ăn xong, thưởng tiền cho bồi dọn bàn là chuyện khả dĩ chấp nhận được, nhưng nếu phải buộc-boa cả bồi rót rượu nữa thì thật... đa sự. Vô phúc khách cần vào toa-lét thì bót-phơi còn nhẹ thêm nữa. Và tùy theo nhân viên phụ trách toa-lét là cậu hay cô. Phần nhiều là cô. Và là cô nương khá đẹp...
Thật ra, Văn Bình là thực khách phát nhiều buộc-boa và không bao giờ hà tiện. Chàng xài sang đến nỗi những tay giàu khét tiếng phải lác mắt, và hơn một lần, nhân viên tiệm ăn, lữ quán thấy tiền thưởng quá lớn đã năn nỉ xin được hoàn lại. Tuy nhiên, chàng muốn tự ý thưởng tiền, chứ không muốn bị nộp tiền... mãi lộ. Vì thế chàng đã tẩy chay, không thèm đặt chân đến một số nhà hàng. Trong số những nhà hàng được thiên hạ ưa chuộng mà chàng tẩy chay này, phải kể đến tiệm Lát-xe. Ngon thì ngon kinh khủng nhưng chàng ghét cay ghét đắng vì chủ nhân tiệm này kênh kệu, coi mình là viện bảo tàng ẩm thực, du khách phải trả tiền mới được vào xem trong viện bảo tàng Lu-vơ-rơ thì thực khách cũng phải nộp sơ sơ một món tiền để ... ngửi các món ăn... Lát-xe...
Văn Bình lẩm bẩm trong miệng "Lát-xe... Lát-xe..." Và ngay khi ấy, chàng có linh giác là chiếc xe DS đang rời xóm thanh lâu Mông-mác để về trung tâm thành phố, nơi có nhà hàng cắt cổ Lát-xe mà chàng vừa nhắc đến tên cúng cơm.
Đúng thế, những con đường ngắn ngủn, khòng khèo, tranh tối tranh sáng đã dần dần lùi lại phía sau. Văn Bình khó thể lầm lẫn về phương hướng : Rờnê không lái về đường Lơ-pích như gã tài xế mỏng môi tiết lộ hồi nãy. Mà là tiến về quận 8, về công trường Ngôi Sao ( l' Étoile), về đại lộ Champs Elysées huy hoàng và thần tiên.
Như vậy nghĩa là gã tài xế bị MI-6 phỉnh gạt từ đầu đến cuối. Chắc hắn là dân bản xứ được Song Ngư kết nạp để làm những vụ đấm đá nhì nhằng, ăn lương từng vụ, và không có mặt trong danh sách nhân viên chính thức. Song Ngư ra lệnh thủ tiêu gã tài xế vì sợ hắn lẻo mép, hắn sẽ tiết lộ vụ tình báo MI-6 lừa bắt cóc cộng sự viên thân tín của ông Hoàng.
Trong chốc lát, khu trung tâm thành phố hiện ra cực kỳ náo nhiệt và tráng lệ dưới vòm trời sáng muôn màu. Rờnê đã lái đến đại lộ ngàn một đêm lẻ Chanps Elysées, "chị em ta" ở đây được coi là luých (luxe) nhất thế giới. Văn Bình không nghĩ rằng Rờnê sẽ đậu lại dọc đại lộ sang trọng này mặc dầu MI-6 có thừa tiền mua cả những bin-đinh cao mấy chục tầng.
Bằng một con đường xéo, Rờnê lái vào ngã bẩy. Ngã bẩy cắt đại lộ Chanps Elysées dài khoảng hai cây số ra làm đôi, phần phía Đông gồm toàn công viên rộng thênh thang với những tòa lâu đài và hí viện thượng thặng và một vườn chơi đầy đủ tiện nghi cho trẻ con, còn phần phía Tây, đi thẳng lên quảng trường Ngôi Sao với Khải Hoàn Môn nguy nga, thì mỗi bên là những rạp chiếu bóng sang trọng hạng nhất, những tiệm nước sang trọng hạng nhất và những cửa tiệm sang trọng hạng nhất.
Dọc con đường sang trọng hạng nhất này, cùng đi với em bé đẹp đẽ hạng nhất và một bột-phơi đựng toàn chi phiếu mang nhiều số dê-rô là điều Văn Bình khoái hạng nhất.Nhưng Rờnê không dọt thẳng đến quảng trường Ngôi Sao, nơi có 13 con đường lớn nhỏ châu đầu vào nhau. Hắn chạy được một quãng rồi quẹo. Dường như quẹo vào đường một chiều Cordier. Từ khi rời xóm yên hoa đến giờ, Văn Bình nhận thấy Rờnê chuyên chạy theo đường một chiều. Bất đắc dĩ hắn mới thay đổi lộ trình.
Chàng đã khám phá ra thâm ý của hắn : hắn lái loanh quanh để kiểm điểm xem có bị theo hay không. Thận trọng là nguyên tắc quan trọng mà điệp viên phải học làm lòng, và áp dụng trong mọi trường hợp, tuy nhiên, thái độ thận trọng của Rờnê, và của MI-6 đã giúp Văn Bình chọc thủng một bí mật ghê gớm : ngoài MI-6 (và dĩ nhiên ngoài sở Mật Vụ của ông Hoàng) ra, đang còn nhiều cơ quan điệp báo khác chiếu cố đến nhà di truyền học Tôlan... Những cơ quan này là ai ?
Chắc hẳn ngoài chiếc DS do Rờnê lái đang còn ít nhất một xe hơi khác của Song Ngư. Xe này bám sát Rờnê để bảo vệ. May mà Văn Bình không triệt hạ Rờnê, đoạt chiếc DS và đào tẩu... Vì trong trường hợp Rờnê bị chàng loại khỏi vòng chiến, đang còn nhiều Rờnê khác...
Rờnê tiếp tục lái vòng vo tam quốc một hồi nữa rồi phóng một mạch lên phía Bắc thành phố. Hai bên đường cây cao sừng sững, những bảng hiệu nê-ông rực rỡ được thay thế bằng những khu gia cư bình lặng và ảm đạm. Đến khi hắn dừng lại, đem xe vào cái sân rộng lát gạch, đối diện căn nhà trệt trang trí hợp thời trang thì Văn Bình không còn biết nơi đó là nơi nào nữa.
Ngoài đường có đèn, song ánh đèn quá yếu không chiếu được đến sân. Chủ nhân lại quên bật đèn sân. Văn Bình có ý nghĩ là chủ nhân đã cố tình quên. Mọi cánh cửa cũng đóng im ỉm.
Rờnê ấn nút điện ở táp-lô cho kiếng xe hạ xuống và chốt cửa lồi lên. Một gã đàn ông gầy nhom từ bóng tối ló đầu ra, hai tay khệ nệ bưng cái băng-ca bằng vải. Hắn đặt băng-ca xuống đất. Rờnê chỏ miệng vào gọi Văn Bình. Chàng không thèm trả lời. Hắn giựt ống quần chàng, chàng vẫn phớt lờ.
Sau cùng, gã đàn ông gầy nhom phụ lực với hắn khiên chàng từ trong xe ra băng-ca. Hành lang tối hun hút. Hai nhân viên MI-6 không nhìn thấy cặp mắt mở hé của Văn Bình. Vì vậy chúng không thể nào bắt gặp nụ cười khoái trá pha lẫn khinh miệt của chàng.
Chúng khiên chàng qua xa-lông. Rờnê chạm phải chân ghế bịt đồng kêu kèn kẹt chói tai. Gã gầy nhom than thở :
- Gớm, thằng cha này nặng ký quá !
Rờnê dè bỉu :
- Nặng ký mà làm cái cóc khô gì ? Chỉ tổ tốn tiền, xếp đến lâu chưa ?
Gã gầy nhom đáp :
- Mới. Trước anh đô 5 phút.
Gã gầy nhom vừa dứt lời thì mũi giầy nhọn hoắt của hắn vướng góc thảm len trải trên nền phòng làm hắn loạng choạng suýt ngã, cái băng-ca nặng chình chịch đè chận lên xương đùi đau điếng. Rờnê cũng mất thăng bằng theo, hắn phải bám lấy lưng ghế xa-lông. Rờnê có vẻ bực bội:
- Mở đèn lên mày.
Gã gầy nhom đáp, giọng cay cú :
- Hừ... mày dư biết tao là thằng mang mối thù bất cộng đái thiện với những nơi thiếu ánh đèn. Mắt tao lại kèm nhèm, mỗi con gần 3 độ rưởi mà không đeo kiếng, ban đêm như thế này tao chẳng hơn gì thằng mù. Do đó tao thích bật đèn hơn mày. Không những mở đèn trong xa-lông, tao còn muốn mở đèn khắp nhà. Nhưng người ta không cho phép...
- Song Ngư ?
- Ừ, bà xếp thơm tho của mày. Bà xếp của mày không cho phép bật đèn vì sợ lộ.
- Nói nhảm. Mày đừng tưởng Song Ngư hay cười là có cảm tình với tao đâu. Đàn bà Á-Đông thường có lối cười chết chóc như vậy. Tao chỉ là nhân viên trung cấp, cũng như mày.
- Hiểu rồi, tao nói đùa đấy.
- Mày cứ tiếp tục giỡn mặt một cách ngu xuẩn thì sớm muộn có ngày ốm đòn. Song Ngư chỉ búng nhẹ là mày lăn kềnh.
- Dĩ nhiên. Tao đâu dám hỗn. Nhưng mày ơi... Rờnê ơi ?
- Gọi gì ? Mày vừa nhớ đến thằng cha người Mỹ của C.I.A. cách đây hai tháng mới đụng giây xú-chiêng mà Song Ngư đã tát một cái thấy ông bà ông vải, kèm theo cái răng cửa gãy nát phải không ?
- Không. Song Ngư là bà xếp, tao có thói quen kính trọng xếp, không khi nào dám ti toe, vả lại, tao biết an phận thủ thường. Tao gầy nhom như que tăm thế này, chị em dưới xóm cũng còn chê... nữa là bà xếp vừa đẹp, vừa thơm. Sở dĩ tao gọi tên mày là vì Song Ngư có thái độ hơi khác thường...
- Hơi khác thường ?
- Ừ. Mọi đêm, nhà này mở đèn sáng choang, chẳng hiểu sao đêm nay lại cấm đoán tao.
- Đồ ngu, Song Ngư sợ bọn Phản Gián Pháp.
- Hừ.... mấy thằng bụng bự quanh năm tống rượu vang bọt-đô ( Bordeaux) và đớp phó mát gờ-ruy-e (fromage gruyère) biết **** gì ?
- Ngậm miệng lại, cha nội. Mày cứ ba hoa chích chòe như vậy có ngày bị Song Ngư cho đi tầu suốt như thằng Tư tài xế.
- Còn lâu. Song Ngư hạ lệnh cho mày giết thằng Tư tài xế vì nó chơi trò hai mang, nó lãnh tiền của Song Ngư, nó còn bí mật ăn lương của Phản Gián Pháp.
- Mày bắt đầu khôn ra rồi đấy. Phản Gián đinh ninh gài được thằng Tư bên cạnh Song Ngư nên tha hồ ăn no ngủ kỹ, không ngờ lại bị Song Ngư chơi một vố đau thấy mẹ. Mày biết không... bọn Phản Gián lái xe theo sát tao, tao dụ cả bọn từ Mông-mác đến quận 8, rồi từ quận 8 về đây, dọc đường Song Ngư đã bắn xe chúng bể lốp. Khốn nạn, nổ một bánh thì còn chạy cà rịch cà tang được... đằng này Song Ngư đẹt luôn cả hai bánh, mà là hai bánh trước nữa... báo hại chúng nó đang cười nói hiu hiu tự đắc trên đại lộ Champs Elysées thì bị xẹp hơi... Chúng nó đậu lại thì tao đã vù. Mày còn lạ gì... đường này đông như mắc cửi, có khi mất 5, 10 phút cũng chưa rẽ được vào lề, huuống hồ khi ấy thiên hạ đang dạo xe như điên.
Câu chuyện gẫu giữa hai nhân viên MI-6 bị gián đoạn vì cánh cửa ở cuối phòng được mở hé. Anh hùng Rờnê đang nói thao thao bất tuyệt bỗng ngưng bặt vì từ sau cánh cửa có tiếng đàn bà :
- Khiêng vào trong này.
Người đàn bà này nói tiếng Pháp. Nói rất đúng giọng. Thoạt nghe, nhiều người có thể tưởng lầm nàng là dân Pháp chính cống và sinh trưởng tại kinh đô ánh sáng. Nhưng kinh nghiệm đã cho Văn Bình biết nàng là người phương Đông. Giọng nói của nàng rất dịu dàng, song vẫn có vẻ đàn chị. Dường như nàng là con nhà giàu, sinh ra trong nhung lụa và kẻ hầu người hạ đầy đàn nên quen với cung cách chỉ huy. Tuy chưa giáp mặt, Văn Bình cũng đoán được nàng là Song Ngư, đại diện MI-6 tại Ba Lê. Muốn làm nhân viên MI-6 cao cấp phải qua nhiều cuộc tuyển lựa khó khăn trong số ba ngàn người chỉ chọn được một, muốn được thay mặt ông M. ở Ba Lê còn khó khăn gấp chục lần. Đàn bà như Song Ngư mà được ông M. bổ nhiệm, tất phải thứ đàn bà sắc nước hương trời, thông minh xuất chúng và võ nghệ siêu quần.
Tự dưng chàng đâm ra sợ Song Ngư.
Văn Bình sợ giống cái thì lạ thật. Từ cổ chí kim, có hai loại đàn bà đáng sợ, đàn bà cào quấy, ngoạm cắn, dầu bị đánh đập dã man vẫn không chịu nhả, và đàn bà... vạn thắng. Đừng nói đến ông già tóc muối tiêu, ngay cả con trai khỏe như vâm cũng sợ đàn bà vạn thắng. Bề ngoài, loại lá đa này không có nét nào độc đáo, nếu khác, thì chỉ có thân hình họ là đáng kể. Thân hình họ hơi nhẳng, nhẳng nhưng cứng và dai như cao su, dai hơn cả đỉa đói nữa. Họ rom rom như vậy mà... liệu hồn... những ông thanh niên oai vệ như lực sĩ thẩm mỹ, bền sức như cua rơ xe đạp cũng bị họ làm tiêu tùng trong chớp mắt. Vâng, tiêu tùng trong chớp mắt. Cừ khôi thì kháng chiến được 60 giây đồng hồ. Bình thường thì 5, 3 giây. Và sau đó phải chích cả trăm ống thuốc bổ, ăn hàng tạ sâm nhung nếu không muốn mặc sơ-mi gỗ...
Đàn bà cào quấy hay đàn bà vạn thắng, Văn Bình cũng không sợ. Trong những năm lênh đênh hồ hải, chiến đậu trong bóng tối của nghề gián điệp cũng như trong bóng tối của phòng the, chàng chưa hề sợ ai (thú thật là đôi lần chàng cũng toát bồ hôi, vẩy ốc mọc đầy người vì phải đương đầu với siêu giai nhân... song vì tự ái chung của nam giới, Người Thứ Tám mạn phép kiểm duyệt).
Vậy mà tự dưng lần này chàng sợ.
Chàng không dám mở mắt thao láo nữa vị hai nhân viên MI-6 đã khiêng băng- ca vào căn phòng sáng đèn. Chắc họ đặt bang-ca ở góc nên ánh đèn bớt gay gắt.
Chàng nghe tiếng Song Ngư dõng dạc :
- Các anh đặt z.28 lên giường cho tử tế rồi ra ngoài đợi tôi.
Trái tim Văn Bình đau nhói. Song Ngư đã biết chàng là Văn Bình z.28...
Tiếng giầy của hai đàn ông gõ nhẹ dần. Song Ngư đã đóng cửa. Nàng chỉ nói vỏn vẹn hai câu với bọn thuộc viên. Chàng không nhìn thấy nét mặt từng người, nhưng chàng có thể biết chắc là anh nào cũng khớp. Đàn ông thường khớp đàn bà giỏi võ.
Mùi thơm thoang thoảng khắp phòng... cha chả, đây là nước hoa nguyên chất của Rochas mang cái tên gợi cảm là Femme... đàn bà... loại này không đắt lắm nhưng rất thơm, bôi một giọt vào sau tai buổi sáng là đến đêm còn thơm. Dùng nước hoa đòi hỏi một nghệ thuật tinh vi, có những bà mệnh phụ xức nước hoa hơn trăm đô-la một ve nhỏ xíu mà thơm vẫn không thơm, nhiều khi nước hoa trộn với mồ hôi còn khó ngửi nữa. Trong khi ấy, có người xài nước hoa giá tiền trung bình song mùi thơm lại nặng chĩu đam mê. Sở dĩ có tình trạng trớ trêu này là vì mỗi người đàn bà có một chất nhờn riêng, và mùi da thịt riêng, khả dĩ thay đổi được bản chất của nước hoa, thơm ít trở thành thơm nhiều, thơm nhiều trở thành thơm ít hoặc chẳng còn thơm nữa.
Mùi Femme đã thơm, mùi da thịt của Song Ngư còn thơm hơn, hai mùi thơm này trộn vào nhau khiến Văn Bình ngây ngất. Bao tử chàng trống không nên mùi thơm kỳ diệu càng tác động mạnh hơn.
Chàng cảm thấy nhật nhạt trên mặt. Chàng biết là Song Ngư đang quan sát chàng. Nàng đứng cạnh giường, ngang đầu chàng, nàng phải là kiện tướng về nghệ thuật yêu đương vì thân thể nàng tỏa bốc hơi nóng mãnh liệt. Chàng nằm thẳng ro, không dám cựa quậy. Chàng cũng không dám thở mạnh mặc dầu khi ấy buồng phổi của chàng cần hít dưỡng khí hơn khi nào hết.
Nàng buột miệng khen :
- Khiếp, đàn ông gì mà đẹp trai quá !
Nếu Văn Bình không trù tính trước, chàng đã mở toang mắt và kêu lên những tiếng sửng sốt. Tuy nhiên, chàng cũng chỉ ngờ vực chứ chưa dám nghĩ rằng Song Ngư là... nàng. Mùi nước hoa Femme hòa lẫn mùi da thịt còn phảng phất trên mũi chàng từ chập tối, cho nên chàng đoán phỏng Song Ngư với nàng là một. Và chàng đã đoán đúng.
Vì câu nói buột miệng của Song Ngư được thốt ra bằng tiếng Việt. Tiếng Việt của người sinh trưởng ở miền Nam. Song Ngư là người Việt. Người Việt chính cống.
Song Ngư vỗ nhẹ vào mặt chàng, giọng nói âu yếm như vợ chồng và vẫn bằng tiếng mẹ đẻ thân yêu :
- Đừng giận nhé. Chỉ mượn tạm anh cái mặt thôi.
Văn Bình toát mồ hôi. Nàng đã biết chàng giả vờ bất tỉnh hay sao mà thỏ thẻ yêu cầu đừng giận ? Cũng có thể nàng không biết. Nàng nói nựng chàng như mẹ nựng con. Như cô gái đa tình nựng người yêu... Nhưng, ô kìa... tai sao nàng lại "mượn tạm cái mặt ?" Nàng sẽ cắt thủ cấp chàng như trong truyện kiếm hiệp Trung Hoa chăng ?
Văn Bình không tin Song Ngư giết chàng. Song chàng vẫn phải đề phòng cẩn mật. Chàng không thể nhìn bằng mắt, vì mắt chàng nhắm nghiền, nhưng chàng có thể lượng định tình thể bằng mũi, bằng tai, và bằng giác quan thứ sáu.
Tiếng giầy của Song Ngư tiến lại góc phòng. Văn Bình nghe tiếng cửa mở. Thì ra nàng mở cửa. Mở cửa buồng tắm. Nàng mở cửa ra rồi khép lại. Chỉ khép chứ không khóa. Chàng lại nghe tiếng nàng lẩm bẩm một mình :
- Đang còn sớm chán. Mình phải tắm một cái. Mệt muốn chết đi được.
Nàng đòi mượn tạm cái mặt của chàng, giờ đây nàng lại kêu là còn sớm chán và hối hả đi tắm. Đàn bà có khác, nàng có những hành động khó hiểu, vô cùng khó hiểu.
Tiếng áo quần loạt soạt. Nàng đang cởi bỏ xiêm y. Chàng chưa có cơ hội ngắm Song Ngư nên chưa biết nàng mặc quần áo gì, song căn cứ vào âm thanh từ buồng tắm vọng ra, chàng đồ chừng Song Ngư dùng đồ chẽn.
Tiếp theo tiếng áo quần loạt soạt đến tiếng nước chảy và tiếng lạo xạo. Song Ngư đang đánh răng. Đánh răng trước khi tắm đêm là một trong các thói quen mất thời giờ nhưng rất đáng yêu của phụ nữ tân tiến. Chà... sau khi đánh răng, miệng nàng mát rợi, nàng hôn chàng thì khoái cảm biết bao !
Đúng phép vệ sinh thường thức, mỗi lần đánh răng phải kéo dài từ 5 đến 10 phút. Song Ngư còn rềnh rang hơn nữa. Rồi chàng nghe tiếng nước chảy ồ ồ.
Người đẹp bắt đầu tắm.
Cầm lòng không đậu, Văn Bình mở mắt. Thoạt tiên, chàng chỉ mở hé, và mở một bên. Thấy tứ phía êm ru, chàng bèn mở bét hai mắt. Căn phòng khá rộng được dùng để ngủ, để trang điểm và cả để làm việc nữa. Chàng đang nằm dài trên cái giường lớn bề ngang trên hai mét. Người Tây phương nằm giường rộng thước tám là cùng, họ chú trọng đến chiều dài hơn là chiều rộng. Ngoại trừ một số người không cần chiều dài, bằng chiều rộng. Những người này thích nằm thật rộng để lăn cho dễ...
Cái giường được kê ở góc phải, chếch cửa buồng tắm. Ở góc trái là một giãy kệ tủ đóng sát tường, bên trên toàn sách là sách đóng gáy da mạ chữ vàng chói lọi. Đó là tiểu thư viện của Song Ngư, với cái bàn làm việc bằng sắt, xinh xắn và kiên cố, sơn xanh nhạt, màu xanh nhạt của nước sơn trở nên dịu hiền dưới ánh đèn nê-ông từ cái lăm-pa-đe tỏa xuống.
Tiểu thư viện được ngăn đôi với phòng ngủ bằng một cái riềm dầy bằng nhung len, cũng màu xanh nhạt. Khi ấy cái riềm đang mở non nửa. Mọi đồ đạc trong phòng đều cùng màu xanh nhạt đặc biệt. Văn Bình thấy hai hộp đàn vĩ cầm đặt song song trên bàn viết. Một hộp đóng kín. Một hộp mở rộng, và cây đàn vi-ô-lông được lấy ra ngoài, gối đầu trên cuốn sách. Gần đấy có cái giá sắt đựng bài nhạc, và cuốn sách nhạc cũng đang mở. Chắc Song Ngư đang tấu đàn thì Văn Bình được chở đến bằng xe hơi... Và nếu chàng không lầm, Song Ngư là người chơi vĩ cầm khá giỏi.
Văn Bình vốn có thiện cảm với phụ nữ chơi đàn. Chàng nhận thấy phụ nữ chơi đàn thường ưa tiết điệu trầm bỗng những khi ôm hôn hoặc làm tình. Tuy nhiên, Văn Bình không thể phí phạm thời giờ quý báu để suy luận về tài nhạc công của Song Ngư nữa. Chàng phải tìm cách thoát thân.
Nhưng tư tưởng đào thoát đã bị tiếng nước trong buồng tắm lấn át. Không nhìn thấy tận mắt, Vặn Bình vẫn hình dung được những giọt nước trắng trong như kim cương đang lăn dưới tấm thân mỹ miều và cân đối của Song Ngư. Chàng đâm ghen cả với cái vòi nước. Với cả ngọn đèn vô tri giác. Vì chúng được diễm phúc chiêm ngưỡng da thịt mơn mởn và nõn nà của nàng.
Chàng không còn nghĩ đến việc thoát thân nữa. Chàng cũng quên phứt chàng là điệp viên z.28 sắp có hẹn với nhà di truyền học Tôlan, và nàng là Song Ngư, giám đốc trú sứ MI-6, đối phượng kiêm đồng minh "thọc gậy bánh xe" khá nguy hiểm của chàng. Khi ấy chàng chỉ nghĩ đến thần Vệ Nữ đang phô bầy những đường cong độc nhất vô nhị cách tầm mắt háu đói của chàng một lớp cửa mỏng.
Chàng lò dò ngồi dậy. Tấm nệm khá êm, cái giường lại rộng quá khổ nên chàng phải vất vả lắm mới đặt được chân xuống đất. Chàng thường ca ngợi nệm êm và giường rộng, giờ đây chàng mới thấy bất tiện. Nếu Song Ngư thính tai, và nếu nước trong buồng tắm không đồ ào ào, tiếng động vụng về do chàng gây ra có thể lọt vào tai nàng.
Mừng quýnh quên cả giữ gìn, Văn Bình bước lại cửa buồng tắm. Chẳng hiểu vì bản tính cẩu thả hay vì nàng chủ tâm để hờ hầu đối phó dễ dàng với biến động mà cánh cửa chỉ được khép lại lấy lệ. Đối diện khe hở là một tấm gương thủy ngân cao bằng người. Song Ngư đang đứng dưới hoa sen, những tia nước nhỏ lăn tăn đùa rởn trên làn da trắng tuyết của nàng.
Song Ngư quay lại phía gương. Hình nàng phản chiếu đầy đủ trên mặt thủy ngân. Pháp là nước nổi tiếng về nghệ thuật tráng gương soi. Đặc điểm của gương Pháp là phản chiếu trung thực tuyệt đối, không làm méo lệch, cũng như không làm đen mờ. Nhờ tấm gương Pháp này, Văn Bình không cần ngắm giai nhân bằng xương bằng thịt mà vẫn thấy rõ, như thể nàng khỏa thân trước mắt chàng, không thiếu, không sai một li.
Nàng là người Việt mà cao lớn như đầm. Nói đúng ra, phụ nữ phương Tây cũng chỉ cao lớn đến như Song Ngư là cùng. Tuy nhiên, sự caọ lớn của họ có hại hơn là có lợi. Vì họ cao lớn nên lỗ chân lông phải to và sâu hun hút, mỗi khi họ lau chùi kem phấn, họ không dám cho đàn ông nhìn thấy vì nhìn thấy là phải lộn mửa. Phụ nữ phương Tây cao lớn nên đùi họ lớn, dầu tốn công phu xoa nắn, họ cũng khó tiêu triệt được mỡ dư. Song Ngư khác họ một trời một vực. Da dẻ nàng trơn bóng từ đầu xuống chân, trơn bóng cả ở những bộ phận có nhiều nếp răn ác ôn nhất, nhỡn tuyến của điệp viên z.28 sáng hơn cả đèn pha i-ốt của xe đua mà chẳng khám phá ra được gì xấu xa. Đáng suy tôn hơn hết là cái bụng thật nhỏ, cặp giò thuôn và thật dài.
Té ra giai nhân Song Ngư thuộc loại đàn bà cao lớn mà rom rom. Nghĩa là đàn bà vạn thắng. Đàn bà vạn thắng vốn coi đàn ông như đồ bỏ. Đàn bà vạn thắng mà xức nước hoa Femme của Rochas thì còn chết chóc gấp chục lần nữa. Úi chao... nàng còn là nghệ sĩ vĩ cầm. Đàn vi-ô-lông có những nốt cao thật cao và thấp thật thấp, sự cao thấp hừng hực này đem áp dụng vào cuộc trình diễn nhạc tình trong phòng the thì gỗ đá cũng phải suýt soa, huống hồ Văn Bình....
Thường lệ, trái tim Văn Bình kéo còi báo động liên tu bất tận. Chàng không mắc bệnh áp huyết cao, tim chàng lại rất tốt, nếu không nó đã căng lên và nổ tung. Đó là Song Ngư chỉ mới triển lãm phía sau với cái mông tròn, bờ vai tròn, đôi chân tròn và mớ tóc dài cuộn thành nhiều lọn trò tung bay phơ phất dưới những vòi nước nhỏ xíu... Chứ nếu nàng quay lại, tất cả những gì gọi là đệ nhất báu vật được phơi phong thì không hiểu trái tim phiến loạn của Văn Bình còn bể nát ra hàng mấy chục, mấy trăm mảnh nữa.
Trời ơi... Song Ngư sắp quay mặt lại. Nàng sắp quay ngực lại... Văn Bình cảm thấy nghẹt thở. Như thể một địch thủ cự phách vừa tống atêmi vào huyệt hô hấp của chàng gần hoàng cách mô. Chàng phải kiễng chân miệng há toang hoác để cướp giật dưỡng khí đã trốn đâu hết trong gian phòng đóng kín... Song Ngư tiếp tục chơi trò ỡm ờ như thế này thì Văn Bình không sống nổi. Chàng phải huy động những phần tỷ nghị lực và danh dự còn sót lại trong tâm thần để chống lại ma lực đang súi giục chàng mở đại cửa phòng tắm, nhảy đại vào, và ôm đại Song Ngư. Rồi sau này muốn ra sao thì ra....
Trời ơi... Song Ngư đang quay ngực lại... Nàng hất những lọn tóc đen nhánh khỏi bờ vai trắng phau. Nàng đứng hơi nghiêng. Văn Bình mới thấy một bên ngực. Ngực nàng hồng hồng. Tuyệt diệu... Văn Bình dán mắt vào khe tấm gương đã bị hơi nước nóng che phủ gần hết. Tim chàng mỗi lúc một đập mạnh thêm ít ra cũng trên 150 cái một phút.
Song Ngư đã quay lại toàn diện.
Trời ơi... bộ ngực... bộ ngực. Bộ ngực của nàng có thể đâm thủng da thịt cứng như thép trui của chàng.
Nhưng... nhưng... Văn Bình đột nhiên nghẹn họng. Văn Bình đột nhiên nặng đầu. Văn Bình đột nhiên hoa mắt...
Người đàn bà đang quay mặt lại tấm gương mà chàng đang ngắm nghía, người đàn bà ấy chẳng phải ai xa lạ.
Nàng là Diễm Hà, cô gái mặc đồ đầm, thư ký thân tín của giáo sư Bửu Khoa. Chàng vừa gặp nàng xong. Nàng bị kẻ lạ đánh ngất trong văn phòng Bửu Khoa. Trước khi chàng rời nhà Bửu KHoa, xuống hầm rượu, chú Sáu đã dìu Diễm Hà sang phòng bên. Lúc ấy nàng đang còn mệt.
Té ra Song Ngư, giám đốc trụ sứ MI-6 tại Ba-lệ, người lừa bắt Văn Bình bằng cách sai nhân viên giả làm tài xế tắc-xi chờ chàng bên hữu ngạn, lại là giai nhân có tấm thân núi lửa Diễm Hà...
Không ngạc nhiên nào bằng ngạc nhiên này...
Tuy vậy, Văn Bình lại không ngạc nhiên mấy. Vì một ngạc nhiên to lớn hơn, lạ lùng hơn, có ảnh hưởng đến chàng nhiều hơn, đã trấn áp tất cả... Sự Song Ngư là Diễm Hà chưa làm Văn Bình z.28 xúc động mãnh liệt bằng điều tối mật mà cặp mắt điện tử của chàng vừa khám phá ra. Vả lại, khỏi cần là mắt điện tử cũng thấy. Người mắc bệnh cận thị nặng đánh mất kiếng cũng cứ thấy rõ như thường.
Văn Bình thấy gì?
Cái gì đã làm máu trong huyết quản chàng đông cứng lại? Cái gì đã làm chàng run sợ? Cái gì đã làm chàng thất vọng? Thất vọng đột ngột. Thất vọng đau thương. Chàng muốn khóc mà không khóc được. Chàng muốn kêu mà không kêu được.
Văn Bình run sợ, Văn Bình thất vọng vì hình ảnh vừa in vào trí chàng là một hình ảnh không bao giờ chàng ngờ tới. Hình ảnh này có thể được mô tả bằng 5 chữ ngắn ngủi như sau :
"Diễm Hà là đàn ông"
Vâng; Diễm Hà là... đàn ông. Và trong giây phút run sợ lẫn thất vọng ấy, Văn Bình bỗng nhớ đến giáo sư Nguyễn Phước Bửu Khoa...
Chú thích:
1. Nước Pháp có thập vương ẩm thực, trong số này có Bocuse, Lasserre (tạm phiên âm là Lát-xe, tiệm mà z.28 ghét). Haeberlin, Vergé, Barrier, Laporte, Outhier, Troigros (11 người trong họ Troigros đã qua Đông Kinh điều khiển nhà hàng Maxim's tại đó).
2. Đó là tiệm ở Asnières, sát Ba Lê, mới khai trương năm 1965 mà đã nổi tiếng, bên trong chỉ có vừa đủ 30 chỗ ngồi.
Văn Bình vụt nhớ đến Bửu Khoa vì nhà bác học di truyền nổi danh này là chủ nhân của Diễm Hà. Ruột gan lộn lạo, chàng có linh tính là Bửu Khoa đang gặp chuyện chẳng lành. Và trong chớp mắt, chàng liên tưởng tới tòa nhà cổ xưa và hiu quạnh của Bửu Khoa. Chàng bỗng hối hận nghe lời Bửu Khoa, ra về bằng đường hầm để đến nỗi bị Song Ngư lừa bắt. Công tác của chàng tại Ba Lê chỉ có triễn vọng thành tựu nếu Bửu Khoa còn sống...
Khi Bửu Khoa dẫn chàng qua hầm rượu để đến cánh cửa sắt nghiến răng kèn kẹt trên bản lề rỉ sét, chàng nhận thấy ông ta có vẻ băn khoăn. Thật ra, ông ta không băn khoăn về những hiểm nguy có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Lúc ấy, mặt ông sa sầm vì ông mãi bận việc, quên cả cúng rượu cho vợ. Những thùng rượu vang nguyên chất từ thửa vườn nho nhà được gửi về cho ông mỗi năm 2 lần, và ông phải chăm nom hơn cả đàn bà có con mọn nữa. Lệ thường, rượu được chứa trong thùng gỗ, vì chất gỗ hợp với nó, nhưng Bửu Khoa lại đựng trong thùng bằng xi-măng, cách 6 tháng phải gạn lọc một lần để giữ trong trẻo.
Trước khi lên phòng, Bửu Khoa nán lại một lát trước cái hồ vuông đúc bê-tông ở góc hầm. Cái hồ này đựng thứ vang ngon nhất, và cũng là thứ vang mà sinh thời vợ ông ưa nhất, ông đã ngâm trong hồ một cái đũa lớn bằng gỗ sồi mạ bạc, một chất bạc riêng, tinh khiết. Gỗ sồi và chất bạc hút những hơi độc trong rượu, nó vừa sát trùng, làm rượu trong vắt, nó lại vừa gia tăng hương vị thơm ngon <1>.
Ông tần ngần hồi lâu bên hồ rượu không chịu rời bước. Thần trí ông lâng lâng, ông lùi về dĩ vãng, vợ ông còn sống, những người cùng tuổi nàng đều còng lưng, bạc tóc, móm răng trong khi nàng vẫn trẻ, vẫn đẹp, vẫn hăng say yêu đương đến con gái đôi tám cũng thua. Nhờ nàng, ông đã đuổi được cái già sồng sộc. Nhưng định mạng ác nghiệt đã bắt nàng chết...
Bửu Khoa bần thần rút cây đũa gỗ sồi ra khỏi hồ rượu. Mùi thơm của rượu len vào mũi Bửu Khoa, ông ngây người như bị thôi miên. Vợ ông đã dạy ông phương pháp khử rượu vang bằng gỗ sồi và bạc nguyên chất này, và cũng chính vợ ông tự tay đẽo gọt cái đũa sồi cho ông. Ông đưa cái đũa gỗ lên miệng để nếm rượu.
Nhưng Bửu Khoa vội ngừng tay. Hồi nãy, ông cười Văn Bình vì chàng nói có tiếng chân người khả nghi. Hầm rượu này là một địa đạo bí mật được lấp chặc hai đầu bằng bê-tông, ngay cả viên chức sơ địa chất cũng không biết, ông không hề tiết lộ sự hiện diện của nó với ai, ngoại trừ chú Sáu được ông coi như con cháu trong nhà. Chú Sáu chỉ xuống hầm rượu mỗi khi ông yêu cầu. Vậy tiếng động ông vừa nghe do ai gây ra ?
Phải, ông vừa nghe lọt một tiếng động khá rõ. Đây không phải tiếng động của các súc vật nhỏ như mèo chuột, vả lại, hầm rượu được đóng kín như bưng, vị tất con dán cũng chui lọt qua khe cửa, huống hồ mèo chuột lớn chềnh ềnh.
Bửu Khoa có ấn tượng tiếng động này của người. Người lạ núp sau những phuy rượu đồ sộ ở bên trái, cách hồ xi- măng chừng 2 mét. Dường như người lạ vô ý chạm mũi giầy vào vỏ thùng không nên tiếng động vang dội khắp hầm. Nếu tường hầm và nền hầm không được lót bằng vật liệu hãm thanh tối tân thì tiếng động bất thường ấy đã đủ làm Bửu Khoa giật mình.
Bửu Khoa thụp xuống, thả cái đũa gỗ sồi vào hồ rượu nho, mắt đảo vòng 360 độ. Những cái kệ đựng đầy chai - chai không và chai chứa rượu - vẫn nằm bất động ngoan ngoãn. Không ai có thể ẩn náu dọc theo dãy kệ. Người lạ - nếu quả thật có người lạ đang rình rập Bửu Khoa - chỉ có thể thu hình sau đống phuy bầu dục...
Bửu Khoa thoáng nghe tiếng động khác ở sau lưng, ông quay phắt lại. Và ông nhận diện ra kẻ địch.
Nhà hầm nửa tối nửa sáng, song Bửu Khoa vẫn thấy rõ hàm răng bịt vàng chóe của địch. Không rõ cả hai hàm răng của hắn bị sâu ăn hay vì hắn thích bịt vàng để tăng thêm oai vệ. Chỉ biết là miệng hắn đầy vàng. Răng cửa vàng. Răng nanh vàng. Răng cấm vàng. Thậm chí tay, chân và cổ hắn cũng khoe vàng nữa. Đồng hồ vàng tay trái. Vòng vàng tay phải. Nhẫn vàng đủ kiểu, đủ cỡ, đeo đủ 10 ngón.
Đặc điểm thứ hai là sự vạm vỡ. Tên địch đang nhe hàm răng vàng rộm trước mặt ông còn vạm vỡ hơn tên địch bị Văn Bình hạ thủ hồi tối. Bửu Khoa không hiểu hắn lẻn xuống hầm rượu bằng cách nào. Vì cửa hầm luôn luôn được khóa chặt. Muốn đánh cắp chìa khóa phải mở được ngăn kéo. Ổ
khóa bàn giấy được liệt vào loại bất khả xâm phạm. Nhưng ai vào phòng ông và ăn cắp chìa khóa mới được chứ ?
Vì cửa phòng ông cũng khóa chặt, ông lại thiết trí một hệ thống canh phòng điện tử khá hữu hiệu.
Kẻ địch đang khuỳnh hai tay từ từ bước về phía Bửu Khoa. Giữa đống phuy gỗ và hồ rượu xi-măng là một lối đi khá rộng. Không đủ rộng bằng võ đài, nhưng cũng tạm đủ để tỉ thí võ thuật. Bửu Khoa không còn là thanh niên khí lực sung mãn như ngày xưa nữa, vì dẫu sao ông cũng xấp xỉ 80 tuồi, cái tuổi mắt mờ, chân chậm. Nên ông chưa tấn công vội. Ông cần quan sát kẻ địch trước khi xuống tay.
Thời thế đã biến ông thành nhà bác vật tiếng tăm lừng lẫy nên ngoài ông ra, không ai biết chàng thanh niên xứ Quảng lưu vong ngày xưa còn là con nhà võ có hạng. Tổ tiên ông từng giữ những binh chức quan trọng trong triều vua Nguyễn như quan tổng xuất và quan cai cơ, lại đã nhiều lần tiến đánh nước Chiêm nên học được những thế võ kỳ lạ. Nếu thanh niên Bửu Khoa không dính líu vào vụ khởi nghĩa thất bại của vua Duy Tân để phải bôn ba nước ngoài thì có lẽ ông đã theo nghề võ. Khi qua Âu Châu, ông vẫn tiếp tục trau dồi, công việc khoa học bộn bề không cho phép ông giành nhiều thời giờ cho võ đường nhưng ông không hề bỏ hẳn, mỗi tuần hai lần ông đến phòng tập quen ở gần nhà để ôn lại.
Vì vậy, bộ mã đồ sộ và hung hãn của kẻ địch đang nhe hàm răng vàng nham nhở không làm Nguyễn Phước Bửu Khoa run sợ. Về bề cao và bề ngang, ông thua hắn, song thớ thịt của ông còn rắn chắt.
Xương của ông cũng vị tất thua xương của kẻ địch. Ông lùi lại, dựa lưng vào hồ rượu xi-măng, ông lừ lừ nhìn kẻ địch mà không nói. Kẻ địch cười hô hố :
- Chào bác sĩ.
Bửu Khoa đáp :
- Không dám, chào ông. Hầm rượu này là nơi kín đáo nhất trong nhà tôi. Nếu ông cần gặp tôi, xin mời ông lên lầu.
- Dưới hầm tiện hơn. Vì tôi không thích gây tiếng động.
- Ông muốn gì ?
- Muốn bày tỏ thiện cảm với bác sĩ.
- Hừ... ông muốn lấy lòng tôi mà ông lại chặn tôi dưới hầm, mắt nguýt lườm, tay chân khuỳnh khuỳnh.
- Bác sĩ thông cảm, chúng tôi không còn cách nào khác.
- Nghĩa là ông định bắt cóc tôi ?
- Danh từ "bắt cóc" không đúng. Vì đã nói đến bắt cóc là có sự chuộc tiền. Tôi vâng lệnh thượng cấp đến đây để cung thỉnh bác sĩ.
- Cung thỉnh hay bắt cóc cũng chẳng khác nhau bao nhiêu. Thượng cấp của ông là ai ?
- Tôi không được phép tiết lộ.
- Vậy mời ông ra khỏi nhà này.
- Bác sĩ ức hiếp tôi quá. Nếu bác sĩ đòi biết, tôi chỉ có thể nói rằng thượng cấp của tôi là đồng nghiệp với những người muốn nhờ bác sĩ giúp đỡ.
- Ông cứ nói úp mở, tôi chẳng hiểu gì cả. Thượng cấp của ông nhờ tôi giúp đỡ chuyện gì ?
- Đại để cũng nhờ bác sĩ như người khác.
- Tôi không có thời giờ đứng đây chơi trò ú tim với ông. Ông muốn gì, cứ nói toạc ra.
- Muốn nhờ bác sĩ móc nối với Tô Lan.
- Tô Lan, Tô Lan, trời ơi, té ra các ông cũng nghe nói đến Tô Lan ư ? Nhưng các ông là ai ?
- Bác sĩ lập lại câu hỏi này là lần thứ hai. Và một lần nữa, tôi cũng xin lập lại là tôi không được phép tiết lộ. Bác sĩ là người ngây thơ hoặc cố ý ngây thơ nên mới không biết rằng nhiều cơ quan gián điệp đang bám sát hành tung của Tô Lan từng phút, từng giây, sau khi ông ta biệt tích ở phi trường.
- Tuy tôi là bạn của Tô Lan, tôi cũng chưa tìm ra ông ta tạm trú tại đâu. Nếu ông cần biết chỗ ở, tôi có thể hữu ích cho ông phần nào. Mời ông lên văn phòng, có lẽ Tô Lan đã gọi điện thoại cho nữ thư ký của tôi.
- Bác sĩ khôn lắm. Lừa tôi lên văn phòng để mở máy bắn đạn tê liệt hòng triệt hạ tôi ư ? Tôi nghe nói bác sĩ gắn hàng chục khẩu súng bí mật trên lầu, do đó tôi xuống dưới hầm chờ đợi tiện hơn. Bác sĩ có hai cô thư ký, họ chỉ làm việc ban ngày, giờ này có còn ai nữa đâu mà bác sĩ mời tôi ?
- Ông không tin tôi thì thôi. Nào, phiền ông xê ra cho tôi lên cầu thang.
- Bác sĩ phải đi theo tôi.
- Đi đâu ?
- Bác sĩ không có quyền chất vấn.
- Ông cũng không có quyền ra lệnh.
- Từ nãy đến giò tôi đã cố gắng giữ lễ độ với bác sĩ. Tôi là thằng nóng như lửa, trong đời tôi chưa hề nhẫn nhục như hôm nay...
- Hừ... kể về tính nóng, có lẽ tôi còn nóng hơn ông nhiều. Nếu ông khăng khăng đứng chắn đường, miễn cưỡng tôi phải đối phó.
- Bác sĩ già hơn cha tôi, xin bác sĩ suy nghĩ lại, đừng xô đẩy tôi vào tội bất kính với bậc trưởng thượng.
- Ông dọa đánh hả ? Mời ông, tuy đã già tôi vẫn chưa phải là đồ bỏ.
- Thưa bác sĩ, thượng cấp đã ban cho tôi một mệnh lệnh minh bạch, tôi phải hết sức khiêm tốn để cung thỉnh bác sĩ, nhưng trong trường hợp bác sĩ cương quyết từ chối, tôi phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết hầu để đảm bảo cho bác sĩ khỏi rơi vào tay kẻ khác.
- Nói trắng ra, nếu không bắt cóc được tôi, các ông sẽ thẳng tay giết tôi chết.
- Vâng, sự thật sống sượng là như vậy.
- Các ông đừng hòng.
Nói đoạn, Bửu Khoa xăm xăm bước về phía cầu thang xoắn ốc dẫn lên tầng trên. Nhưng gã đàn ông vạm vỡ đã vung cánh tay thép nguội ra chặn lại, giọng hắn chậm rãi song dứt khoát:
- Lần này là lần cuối, tôi kêu gọi sự sáng suốt của bác sĩ. Là chuyên viên lỗi lạc, bác sĩ sẽ được thượng cấp của tôi nể trọng và ưu đãi đặc biệt. Sự cứng đầu sẽ mang lại hậu quả tai hại.
Biết nói nữa cũng vô ích, Nguyễn phước Bửu Khoa bèn tung cước tấn công. Lợi dụng kẻ địch đứng gần, ông quét bàn chân ngang mặt đất theo thế tảo địa cước. Ngọn đá này từng được Bửu Khoa xài nhiều lần trong cuộc đời phiêu giạt ở Âu Châu. Người phương Tây thường to con, khi bị đá quét, họ khó giữ được mức quân bình. Người phương Tây lại sành võ Hồng Mao, chuyên dùng tay, ít chú trọng đến cặp giò nên luôn luôn bị cước pháp đánh bại.
Gia đình Bửu Khoa là một trong những gia đình giỏi cước pháp trong vùng Gò Nổi, thân phụ Bửu Khoa khét tiếng khắp nơi vì biết phối hợp môn đá của Thiếu Lâm quyền với môn đá của võ Bình Định. Đá đạp được chia ra 18 môn khác nhau, song gia đình Bửu Khoa lại chuyên về tiền cước, nghĩa là kỹ thuật đá về phía trước. Tiền cước được chia làm 9 thế, Bửu Khoa trội nhất về tạo địa cước, đá sát mặt đất và kim tiêu cước, đá bằng các đầu ngón chân.
Kẻ địch nặng hơn một tạ, trông như cái núi đứng sừng sững trước mặt, vậy mà cái đá bất thần của Bửu Khoa vẫn làm loạng choạng. Giá Bửu Khoa chưa xấp xỉ 80, đang ở vào thời 50, 60 cực thịnh, kẻ địch đã phải đo ván và còn lâu lắm mới bò dậy được. Tuổi tác chồng chất đã là giảm thiểu sức mạnh của ngọn cước tảo địa, Bửu Khoa vội vã bồi tiếp bằng ngọn kim tiêu cước.
Kẻ địch chỉ lảo đảo chứ sinh lực chưa bị thâm thủng, bởi vậy, sau vài giây đồng hồ bàng hoàng hắn đã phục hồi phong độ và vung trái đấm bồ tượng, choang vào đầu Bửu Khoa, ông né tránh lẹ làng, và chuyển sang đòn cánh tay. Song kẻ địch đã xấn lại, cùi trỏ kếch xù của hắn thúc mạnh giữa ngực ông, ông kêu hự một tiếng rồi ngã rạp vào cái hồ đựng rượu nho.
Ông chồm dậy, ôm ghì lấy kẻ địch, ông tin tưởng gân cốt ông còn khá kiên cố để chẹt họng đối phương. Nhưng kẻ địch đã hạ thêm một đòn đau nơi bả vai, và trong khi ông còn đờ đẫn dưới cú đấm trời giáng thì kẻ địch nâng đầu gối, khai triển hết sức lực của tuồi trẻ cường tráng, đánh thẳng vào ngực làm ông chúi thẳng xuống đất.
Giáo sư Nguyễn Phước Bửu Khoa nằm dài trên nền hầm, những chai rượu vang đặt trên kệ bị níu kéo, vỡ tan tành, chất rượu đỏ tía nhuộm đầy áo sơ-mi của ông, bốc mùi thơm ngào ngạt. Bửu Khoa là sâu rượu, ông có thể ngửi qua là biết tên rượu, nhưng đêm nay khứu giác của ông bỗng bị tê liệt.
Thân thể của ông cũng bị tê liệt.
Kẻ địch vẫn chưa chịu buông tha. Hắn ngó Bửu Khoa một giây rồi cúi xuống, dồn chân khí vào cạnh bàn tay, sửa soạn chặt atêmi. Atêmi này là đòn chết. Kẻ địch quyết giết chết Bửu Khoa cho bằng được.
Giây phút ngặt nghèo ấy chỉ có một người có thể cứu được Bửu Khoa. Người ấy là Văn Bình z.28.
* * *
Nhưng Văn Bình lại mắc kẹt với Song Ngư - Diễm Hà. Chàng có linh cảm là giáo sư Bửu Khoa gặp nạn. Tuy nhiên, tấm thân trần truồng của Diễm Hà phản chiếu trên mặt gương soi lại có mãnh lực ghê gớm bắt chàng quên hết...
Thần thiên lôi đánh ngang tai cũng vị tất làm Văn Bình thất điên bát đảo. Thế mà điều chàng vừa nhìn thấy lại làm chàng thất điên bát đảo.
Bộ ngực của Diễm Hà hoàn toàn là bộ ngực của đàn bà đẹp. No tròn. Khỏe mạnh. Cân đối. Hồng hào. Hoàn toàn là do thiên nhiên nhào nặn. Không có bàn tay thẩm mỹ dính vào. Nhưng bộ phận quan yếu khác của nàng lại là bộ phận của đàn ông. Đúng ra, nó không hẳn là của đàn ông, mà có tính chất bán nam bán nữ, gần giống hạng người hiđờra chàng từng gặp tại Án Độ <2>.
Tất cả những ham muốn dâng ngùn ngụt trong lòng chàng bỗng xẹp xuống. Và nhường lối chọ sự căm hờn. Tự dưng chàng căm hờn xã hội loài người. Đang là người đàn bà tuyệt đẹp, Diễm Hà trở thành con số không vô nghĩa...
Trong buồng tắm, Diễm Hà đã xây lưng lại như cũ. Nàng bắt đầu lau khô bằng cái khăn bông lớn màu hồng. Cái khăn màu hồng tăng thêm giá trị của làn da trắng ngó sen và cái lưng tôm thon mỏng. Trời ơi.... nhìn từ sau lưng, nàng vẫn tỏa đầy hấp dẫn.
Tâm thần tê tái, Văn Bình rón rén trở lại giường nằm duỗi trên nệm, quay mặt vào tường. Chàng không phải chờ lâu, trong loáng mắt, nàng đã mặc xong quần áo. Nàng vừa xức thêm nước hoa thì phải, vì mùi thơm độc đáo của nước hoa Femme vây bọc lấy ngũ quan của chàng.
Chàng nghe tiếng Diễm Hà mở tủ, bê ra cái hộp vuông, bề ngoài như hộp đồ trang điểm. Cái hộp này có vẻ nặng, căn cứ vào tiếng động của nó trên mặt bàn. Diễm Hà loay hoay mở hộp, và lấy ra một số dụng cụ mà chàng không biết tên vì lẽ chàng không dám mở mắt, dẫu chỉ là mở hé. Chàng có cảm tưởng là giây phút quan trọng sắp đến.
Nàng kéo ghế lại sát giường. Nàng ngồi xuống, hơi thở nóng hổi của nàng phà vào mặt chàng. Hơi thở nóng hồi này khó thể là của đàn ông. Dĩ nhiên, hơi thở của đàn ông cũng chứa nhiệt lượng, song không phải là nhiệt lượng dễ chịu, tạo ra ngây ngất thích thú, như hơi thở của đàn bà...
Suýt nữa thì Văn Bình giật mình và đổi thế nằm. Vì Diễm Hà vừa trát lên mặt chàng một chất keo nhờn, đặc sệt. Chất keo này được đựng trong một cái hũ lớn bằng hộp sữa đặc có đường, nàng mở cái hộp giấy khác, rút ra một cây bút lông khác, gói kỹ trong giấy bóng kiếng. Nàng dúng bút lông vào hộp keo, quậy một lát cho đều, rồi phết keo thành một lớp mỏng từ cằm lên đến phần trên trán của Văn Bình. Diễm Hà là nghệ sĩ vĩ cầm có khác, ngón tay nàng cử động thoăn thoắt và tròn trịa trên da mặt Văn Bình như thể nàng đang bấm phím đàn vi-ô-lông.
Thoạt đầu, nàng phết keo thành đường dài từ dưới lên trên, sau đó nàng phết ngang từ trái sang phải. Văn Bình nằm yên cho Diễm Hà làm tình làm tội khuôn mặt khôi ngô. Chàng đã biết nàng phết keo như vậy với mục đích gì. Gần đây, giới điệp báo quốc tế sáng chế ra một phương pháp làm mặt người rất giản dị. Còn giản dị hơn cả phương pháp đúc mặt giả bằng chất nhựa dẻo porotherne thông dụng nữa. Người ta ngâm pha một loại keo dính, đem quét lên mặt thì trong vòng từ 3 đến 4 phút, nó sẽ cứng lại và in hẳn khuôn mặt người, chỉ cần đợi khô là gỡ ra. Lấy một ống thuốc xịt, trông hao hao như ống kem đánh răng, bóp nhẹ là nó xịt ra một chất thuốc nước. Xịt thuốc vào khuôn mặt vừa được gỡ ra, và trong khoảnh khắc sẽ hoàn thành được cái mặt nạ giống hệt mặt người mình muốn đội lốt. Đeo mặt nạ giả này vào giống như thật, phải chuyên viên tinh xảo mới có thể khám phá ra. Chất thuốc xịt gồm nhiều mầu khác nhau, vàng, trắng, nâu, đen và các mầu pha trộn, để thích hợp với các mầu da con người trên trái đất.
Tuy Diễm Hà khéo tay, đôi mắt và đầu mũi Văn Bình vẫn bị dính keo. Nàng dùng cây kềm nhỏ xíu nhổ những hột keo đặc ra khỏi da mặt chàng. Miệng nàng ghé sát miệng chàng, hơi thở thơm như có mùi kẹo va-ni. Văn Bình muốn nhỏm dậy ôm nàng hôn, mặc dầu chàng đã biết nàng chỉ là đàn bà 50 phần trăm.
Trong chốc lát, chất keo vàng đã phủ đầy mặt Văn Bình. Diễm Hà tẩn mẩn vuốt tóc và véo tai chàng để giết thời giờ. Nàng cười khúch khích một mình như cô gái dậy thì.
Chất keo dính vào da mặt chàng nhiều hơn chàng tưởng. Nhân viên trong Nha Chuyên Môn của sở cho biết, khi chất keo khô cứng, khuôn mặt được tháo rút dễ dàng, không sợ kéo theo lông măng, râu mép và tóc mai. Sự nhận định của hắn đã tỏ ra lạc quan quá mức. Chàng không dám nhăn nhó khi mấy sợi tóc mai của chàng được dính chặt vào khuôn mặt bằng keo bị Diễm Hà thản nhiên giật mạnh. Bình thường chàng đã kêu ai ái. Thế mà khi ấy chàng phải im phăng phắc.
Diễm Hà mang cái khuôn mặt bằng keo lại bàn trang điểm để xịt thuốc. Nàng có những động tác từ tốn nhưng chắc nịch, chứng tỏ nàng đã được huấn luyện chu đáo về kỹ thuật đúc mặt nạ giả. Mấy phút sau, một lớp da mỏng trông giống da người hiện lên trên khuôn mặt bằng keo. Diễm Hà lấy một ống xịt khác, nàng bơm thuốc vào phía sau mặt nạ, và kỳ lạ thay, lớp da mỏng từ từ rời khỏi khuôn mặt bằng keo.
Diễm Hà chỉ cần 5, 7 phút nữa để cặm lông mày giả, cạo gọt lại cho khít khao, vẽ tô một vài chỗ là mặt nạ hoàn thành. Người đàn ông nào dáng dấp hao hao giống Văn Bình đeo mặt nạ này vào sẽ biến thành Văn Bình thứ hai.
Diễm Hà nâng cái mặt nạ lên cao rồi phá lên cười khanh khách. Cười no nê xong, nàng cất mặt nạ vào một cái hộp giấy mỏng trước khi ngồi xuống âu yếm vuốt má Văn Bình.
Bỗng nhiên chàng không nghe thêm tiếng động nào nữa. Nàng ngồi bên giường, say sưa ngắm chàng, miệng câm như thóc. Rồi - điều Văn Bình không bao giờ ngờ tới - chàng cảm thấy nong nóng trên má.
Thì ra Diễm Hà khóc. Những giọt nước mắt nong nóng đua nhau rớt xuống mặt chàng.
Tại sao nàng khóc ?
Văn Bình không thể tiếp tục đóng trò bất tỉnh được nữa. Lòng chàng xao động khác thường. Ngay giây phút đáng nhớ này, Diễm Hà lại nắm tay chàng và cất tiếng gọi:
- Anh Văn Bình ơi ?
Văn Bình chỉ chờ có thế. Chàng choàng dậy, mắt mở thao láo nhìn nàng. Thấy chàng vụt tỉnh, trên môi lại điểm nụ cười quyến rũ, Diễm Hà hoảng hốt buông tay chàng ra, miệng há hốc, mắt chớp liên hồi, thái độ lính quýnh, nàng xô ghế, bước lùi, bước lùi đến khi nàng đụng chân bàn và ngã khuỵu xuống, vẻ sợ hãi ghê gớm hiện rõ trong tròng mắt đen láy của nàng. Nàng vịn mép bàn, đứng dậy lắp bắp :
- Ông... ông không bị bất tỉnh ?
Chàng lắc đầu :
- Không. Nếu bất tỉnh, tôi đã không nghe tiếng cô kêu.
Bàn tay ôm ngực như ngăn giữ trái tim xổng ra ngoài, Diễm Hà buông phịch xuống ghế, mặt tái nhợt:
- Nghĩa là ông vẫn tỉnh táo từ khi được chở về đây ?
Văn Bình cười duyên :
- Vâng, tôi vẫn tỉnh táo như cô vậy.
- Ông có phép kháng mê ?
- Không đâu. Khói mê quá ít nên tôi chỉ xây xẩm qua loa.
- Tôi đã bảo mà...
- Cô bảo sao ?
- Xin lỗi ông. Thấy ông đột ngột tỉnh dậy, tôi mất hẳn tinh thần. Đinh ninh ông mê man, tôi mới bộc lộ tâm sự của tôi. Ông chớ cười tôi nhé.
- Từ nhiều năm nay, người ta thường cho tôi là anh chàng lẻo mép, tôi không phủ nhận điều đó, nhưng đôi khi tôi lại hết sức thành thật. Như hiện thời... chẳng hiểu giờ này cô có tin tôi không...
Diễm Hà thở dài sườn sượt làm câu nói của Văn Bình bị cắt quãng. Chàng thấy mắt nàng vẫn in ngấn lệ. Dường như nàng có một tâm tư bí ẩn, nàng muốn nói mà không thể nói được.
Nàng vói lấy cái hộp đựng mặt nạ, đưa cho chàng, giọng buồn rầu :
- Em xin trả cho ông.
Văn Bình xua tay :
- Thôi, cô cứ giữ mà dùng.
- Em không cần đến cái này. Em chỉ làm theo mệnh lệnh của phó giám đốc trú sứ.
- MI-6 ?
- Vâng.
- Song Ngư ?
- Vâng. Song Ngư là phó giám đốc trú sứ MI-6 ở đây. Song Ngư cũng là đàn bà, song không phải em. Em chỉ là phụ tá của Song Ngư. Bọn nhân viên MI dẫn ông về đây đinh ninh Song Ngư là em vì lẽ phó giam đốc trú sứ Song Ngư thường đeo mạt nạ giống em.
- Song Ngư ra lệnh cho cô lừa bắt tôi để phết keo đúc mặt nạ với mục đích gì ?
- Song Ngư không nói rõ. Theo chỉ thị, em lấy khuôn mặt của ông xong xuôi, em phải chích thêm thuốc mê và nhốt ông trong phòng, đúng 24 giờ sau mới giải mê và trả tự do cho ông bằng cách lái xe đưa ông về chỗ cũ trên bờ hữu ngạn.
- Tại sao Song Ngư biết tôi xuống hầm rượu, và ra bằng lối sau để bố trí xe tắc xi ?
- Do em báo cáo. Em liên lạc với Song Ngư bằng máy vvalkie-talkie thiết trí bộ phận an toàn <3>.
- Cô làm việc cho giáo sư Bửu Khoa lâu chưa ?
- Lâu rồi. Ngay sau khi em tốt nghiệp cử nhân Lý Hóa. Em vừa làm thư ký riêng cho Bửu Khoa vừa ghi thên học về di truyền học để dọn thi cấp bằng tiến sĩ. Nhưng em bỏ học vì công việc ở văn phòng quá bộn bề. vả lại, em giúp việc cho giáo sư Bửu Khoa còn học được nhiều hơn là cắp sách đến đại học đường. Năm nay, em 29 tuồi. Em bắt đầu về làm việc cho giáo sư từ năm em 22.
- Nghĩa là cô làm thư ký cho ông Bửu Khoa được 7 năm.
- Đúng ra 7 năm 10 tháng tròn.
- Và trong 7 năm 10 tháng tròn này cô đã cộng tác với Song Ngư và MI-6 ?
- Không. Em mới làm cho họ từ mấy tháng nay.
- Mấy tháng là bao nhiêu ?
- Khoảng 5 tháng.
- Do ai giới thiệu ?
- Chẳng có ai giới thiệu.
Diễm Hà lộ vẻ bối rối. Nàng cúi gằm mặt, gót giầy nàng day đi day lại trên nền phòng trải thảm len dầy sặc sở :
- Khó nói quá....
Văn Bình quan sát nàng từ đầu đến chân. Tấm thân đều đặn, nẩy nở cực độ như thế này mà là đàn ông thì cũng oái oăm thật... Giác quan thứ sáu vừa báo ngầm với chàng rằng Diễm Hà chưa hẳn là đàn ông, nàng còn là đàn bà...
Chàng bèn hỏi thẳng :
- Cô bị người ta săng ta ( Chantage)?
Diễm Hà giật bắn người:
- Vâng, vâng... thưa ông vâng.
- Săng ta về chuyện gì ? Chuyện riêng, chuyện gia đình, tiền bạc, danh dự, hay tình ái ?
- Khổ em quá, ông Văn Bình ơi !
- Cô Diễm Hà, chúng ta đều là người Việt, ngay sau khi gặp cô, tôi nhận thấy cô là người có dáng đi khoan thai, có luồng mắt nhìn thẳng như cô khó thể là nhân viên tình báo ngoại quốc. Tôi có linh tính là người ta lợi dụng một bí mật nào đó về đời cô để bắt chẹt. Cô đừng giấu diếm nữa. Trong khi cô tắm, tôi đã nhìn qua cửa hở, và...
- Trời ơi, ông đã nhìn qua khe cửa ư ? Trời ơi, em vẫn có thói quen, không khép cửa phòng. Nhưng ông làm cách nào nhìn thấy thân thể em được, vả lại...
- Tôi nhìn vào tấm gương... Tôi thú nhận là khi khám phá ra cô không phải là đàn bà chính cống, lòng tôi đã băn khoăn và phẫn nộ kinh khủng. Cô... bị như vậy từ hồi nhỏ ư ?
- Vâng, em đã đến khám nhiều y sĩ giải phẫu danh tiếng. Họ không bằng lòng mổ em, vì...
- Vì có mổ nữa cũng không biến đổi cô thành đàn bà ?
- Vâng. Lệ thường, chỉ những người có đầy đủ bộ phận cần thiết mới được giải phẫu đổi giống. Giải phẫu ở ngoài, chứ không phải giảu phẫu ở trong. Tuy nhiên, trường hợp của em cũng có nhiều hy vọng. Vì em không thiếu gì, ngoại trừ...
Diễm Hà lại nín lặng. Nàng ngưng nói là vì tuy nàng là khoa học gia, nàng vẫn không tìm được cách miêu tả nào thích hợp, khỏi phải dùng đến danh từ sống sượng. Văn Bình phải giục nàng :
- Cô nói đi. Tôi xin hứa giúp cô.
Diễm Hà thở dài:
- Em như con thú nằm trong lưới, càng cựa quậy mắt lưới càng cuộn chặt. Trong những năm đi học, em sống buồn tủi, buông xuôi, không màng tưởng đến gì cả. Đến khi em làm việc cho giáo sư Bửu Khoa, em bắt đầu tìm thấy niềm vui, và lần đầu tiên em biết yêu đời.
- Tại sao ?
- Vì giáo sư Bửu Khoa cho em biết những tiến bộ về khoa học di truyền có thể giúp em sửa chữa bộ phận sinh dục.
- Đó mới là hứa hẹn lý thuyết.
- Nhưng ít ra những điều được khám phá và chứng minh trong phòng thí nghiệm đã cho em thấy cái ngày em trở lại làm đàn bà cũng chẳng còn xa nữa. vả lại... đồng bệnh tương lân, em...
Một lần nữa Diễm Hà lại đỏ mặt. Lối đỏ mặt thẹn thò này chỉ có thể thấy được ở con gái, và con gái ngây thơ, chưa hề ngã vào vòng tay mơn trớn của đàn ông. Sự xấu hồ của Diễm Hà làm Văn Bình xao xuyến. Bỗng dưng chàng muốn ôm nàng hôn hít.
Nhưng chàng phải tìm cách tiếp tục gợi chuyện. Chàng nắm tay nàng :
- Giáo sư Bửu Khoa cũng...
Nàng gật đầu, mắt sáng rực, hơi thở nhẹ hẳn, như thể vừa được cất gánh nặng đè lên vai từ nhiều năm nay :
- Vâng, vâng, ông nói đúng, giáo sư Nguyễn Phước Bửu Khoa cũng lâm vào tình trạng bất bình thường như em.
- Yêu cầu cô giải thích rõ ràng hơn nữa. Theo chỗ tôi biết, ông Bửu Khoa đã từng có vợ, đã từng đi lại với rất nhiều người đàn bà.
- Đó là chuyện xảy ra trong quá khứ. Như ông đã biết, giáo sư Bửu Khoa đã lớn tuổi, ông đã lập gia đình, nhưng sau ngày vợ ông qui tiên, ông không tục huyền nữa vì lý do trục trặc sinh lý.
- Trục trặc từ khi nào ?
- Em không biết rõ. Nhưng có lẽ là trước khi em vào làm việc tại văn phòng...
- Xin phép cô để đặt một câu hỏi tò mò.
- Em đã đọc thấy câu hỏi tò mò này trong mắt ông, ông không nêu ra, em cũng giải thích. Vâng... em yêu ông Bửu Khoa và ông Bửu Khoa cũng yêu em.
- Yêu một cách không bình thường ?
- Vâng. Em quen ông Bửu Khoa cũng trong hoàn cảnh không bình thường, ông biết đền Panthéon chứ? Trước đây, ngày nào em cũng đến Panthéon nhưng không phải để viếng mộ các danh nhân nước Pháp, mà là ghé vào các tiệm nước ở phía sau, dọc con đường Mont St Geneviève, con đường ở trên ngọn đồi cao nhất khu tả ngạn. Có một tiệm nước dành riêng cho đàn bà con gái mắc bệnh đồng tình luyến ái. Em không phải là bệnh nhân đồng tình luyến ái, song sự khiếm khuyết của em đã xô đẩy em vào cuộc sống cô đơn nên em phải đến đó tìm vui. Và tình cờ em gặp giáo sư Bửu Khoa. Tình yêu giữa người đàn ông trục trặc sinh lý và người đàn bà không hẳn là đàn bà tất nhiên không thể giống như tình yêu nam nữ bình thường. Nhưng vì danh dự của Bửu Khoa, danh dự của riêng em, sự liên hệ thân thiết này được giữ kín. 7 năm trường trôi qua, không ai biết. Em đinh ninh được tiếp tục sống yên ổn, không ngờ... vâng, em không ngờ người ta đã phá rối, người ta buộc em phải tuân theo mạng lệnh của họ nếu không, những chuyện kín đáo giữa hai người sẽ được phanh phui trước thanh thiên bạch nhật.
- Cô chưa có chồng, Bửu Khoa hiện sống độc thân, họ dọa phanh phui thì mặc họ, việc gì cô sợ ?
- Hẳn ông đã biết, xã hội Pháp chưa tiến bộ bằng xã hội Bắc Âu hoặc Mỹ Châu, những liên lạc không bình thường giữa nam nữ còn bị liệt vào hàng tội lỗi. Vả lại, Bửu Khoa là nhà khoa học danh tiếng, được khắp thế giới kính nể, nếu sự đi lại giấu đút với em được tiết lộ thì Bửu Khoa sẽ khó giữ được can đảm và điềm tĩnh để sống. Hơn thế nữa, em là con nhà gia giáo. Song thân em còn sống ở Sàigòn, và có địa vị khá cao trong chính giới. Đó là lý do khiến em phải nhắm mắt làm việc cho Song Ngư.
- Cô dại quá. Dư luận sẽ không tin lời tố cáo của Song Ngư...
- Nếu Song Ngư chỉ nói suông thì em đã không sợ. Đằng này họ đã có ảnh...
- Ảnh chụp ?
- Vâng. Những tấm ảnh của Bửu Khoa và em, chụp lén trong phòng riêng. Chỉ một tấm được in trên báo cũng đủ uy tín cá nhân và công trình bác học của Bửu Khoa đi đời nhà ma...
- Ảnh thật ?
- Vâng. Ảnh thật trăm phần trăm. Cho đến bây giờ em vẫn chưa hiểu ai đã chụp được những bức hình này. Em quá yêu Bửu Khoa, em đành chịu khổ một mình, không dám nói cho Bửu Khoa biết, thế rồi em trở thành mật báo viên cho Song Ngư....
- Không lương ?
- Vâng, em không lấy lương vì em tiêu pha rất ít, số lương tháng của em đã quá đủ. Nhưng Song Ngư cứ ép em lãnh tiền, em từ chối không được. Chẳng qua người ta muốn siết chặt thòng lọng quanh cổ em.
- Ngoài cô ra, giáo sư Bửu Khoa có còn yêu ai nữa không ?
- Ông là đàn ông bình thường nên khó hiểu nỗi những day dứt của người đàn ông bất bình thường. Bửu Khoa bất bình thường về sinh lý, do đo luôn luôn thèm muốn, luôn luôn tìm kiếm những hò hẹn mới. Em không ghen vì em thông cảm hoàn cảnh của Bửu Khoa, vả lại, nếu em muốn ghen, em cũng không làm gì có quyền. Tình yêu giữa hai người chỉ là tình yêu lén lút, em không tự nhận và Bửu Khoa cũng không xác nhận em là ý trung nhân của Bửu Khoa. Cho dẫu em trở thành vợ Bửu Khoa nữa em cũng không ghen, vì... vì... em khỏi giải thích ông cũng đoán biết được.
- Nếu tôi không lầm, cô... Lệ Liên cũng có liên hệ mật thiết với Bửu Khoa...
- Như em đã nói, Bửu Khoa có rất nhiều bạn gái. Liên hệ của Lệ Liên rất mật thiết hơn vì ông ta gặp hàng ngày.
- Còn về vấn đề con cái ?
- Xin ông nhớ rằng giáo sư Bửu Khoa đã hoàn toàn bất lực.
- Nhưng đó không phải là lý do khiến ông ta không thể có con, phương chi ông ta lại là nhà di truyền học danh tiếng.
- Vâng... người ta có thể cấy tinh trùng. Theo chỗ em biết, Bửu Khoa chưa hề có đứa con nào như vậy ?
- Lệ Liên đã lập gia đình chưa ?
- Chưa. Cũng như em. Lệ Liên làm việc với giáo sư Bửu Khoa một thời gian khá lâu trước khi em tới. Tuy là người Pháp. Lệ Liên rất tốt. Khi nào cũng dễ thương. Em cần gì là Lệ Liên giúp ngay.
- Lệ Liên biết chuyện riêng giữa cô và giáo sư Bửu Khoa không ?
- Biết chứ. Biết, nhưng không nói. Cũng như em biết Bửu Khoa hẹn hò riêng với Lệ Liên mà em giả vờ không biết. Nhưng ông căn vặn em về Lệ Liên để làm gì ?
- Để tìm hiểu.
- Ông ngờ vực Lệ Liên phải không ? Nếu trong đầu ông có thoáng ngờ vực nào thì ông nên xua đuổi ngay. Em chưa thấy ai tốt bằng Lệ Liên.
- Chú Sáu có đáng tin cậy không ?
- Hừ... Bửu Khoa thương chú Sáu hơn hết.
Diễm Hà bỗng cúi mặt coi đồng hồ. Rồi nàng ngó quanh quất, vẻ băn khoăn. Văn Bình hỏi:
- Sắp đến giờ hẹn rồi ư ?
Diễm Hà giật mình :
- Vâng. Em sắp phải đến gặp Song Ngư để nộp cái mặt nạ.
Văn Bình nhún vai:
- Tôi đi cùng với cô.
- Không đưọc.
- Cô sợ Song Ngư ?
- Tổ chức tình báo Anh quốc lớn lắm, ở đâu họ cũng có nhân viên. Em phản phé, họ sẽ không tha.
- Cô vừa phanh phui hết cả với tôi. Thái độ này của cô, họ cũng sẽ không tha.
- Em cũng đành liều. Cho dẫu...
Thiếng nói của Diễm Hà bị vướng nghẽn trong cổ họng. Mặt nàng bỗng tái mét, môi nàng run bần bật như bệnh nhân bị phản ứng của thuốc trụ sinh pê-ni-xi-lin. Văn Bình nhận thấy sự biến đổi dung mạo này không hẳn do sợ hãi mà ra. Dường như một cơn bão ngầm ghê gớm vừa tận phá nội tâm nàng. Nàng đưa bàn tay lên ngực. Hai chân nàng xụm dần, xụm dần rồi Diễm Hà ngã phịch xuống đất.
Văn Bình vội chạy lại đỡ nàng. Song nàng đã gượng đứng dậy đưọc, tuy nhiên bàn tay nàng vẫn giữ bên tim. Chàng hỏi:
- Cô bị đau tim ?
Nàng lắc đầu, giọng yếu hẳn :
- Không. Điện... điện thoại vô tuyến...
- Điện thoại vô tuyến nào ?
- Bửu Khoa.
Diễm Hà chỉ ngón tay vào túi áo. Nàng mặc bộ đồ thời trang mới nhất trong mùa, gồm quần dài bó mông, xòe ống và áo dài đến nửa đùi, có bốn túi rộng. Túi áo nàng hơi cồm cộm.
Văn Bình chưa kịp lục túi áo nàng có gì thì nàng ú ớ mấy tiếng rồi ngã vùi lần nữa.
Chú thích:
1. Chất kim khí bạc này đuợc gọi là argénol. Giới làm rượu vang thường khử hơi bằng anhydride sulíureux. Hơi này khá độc, thế mà - các bạn biết không - riêng năm 1989, giới làm rượu ở Pháp đã xài đến 7.000 tạ anhydride sulíureux. Đã sợ uống rượu nho chưa ?
2. Xin đọc "Hận vàng Án Độ".
3. vvalkie-talkie xách tay gắn bộ phận an toàn này đã đựợc dùng tại Sàigòn. Đặc điểm của nó là giữa hai hay nhiều người có thể trò chuyện tự do, người lạ có bắt được luồng sóng điện cũng không hiểu được.
Giáo sư Nguyễn Phước Bửu Khoa cũng ngã vùi trên nền hầm đầy mảnh chai vỡ và rượu vang đỏ trắng vàng đủ mầu. Hai trái đấm cực mạnh của kẻ địch răng vàng, nhằm bả vai và ngực đã làm ông xiểng niểng. Quần áo và da thịt ông bị những miễng vụn đâm thủng, máu chảy ròng ròng, tuy vậy, ông vẫn tỉnh táo, có lẽ còn tỉnh táo hơn khi giao đấu với địch vô danh nữa.
Nguyên nhân làm ông tỉnh táo là những kỷ niệm thần tiên do đống chai vỡ gây ra. Hồi sinh thời, vợ yêu của ông, thường dẩn ông xuống hầm rượu, đến nơi ủ sâm-banh để lượm chai vỡ. Rượu sâm-banh tạo ra sức ép ghê gớm, hàng năm có đến mấy trăm chai tự nhiên vỡ nát trong hầm <1>.
Giáo sư Bửu Khọa nghe bên tai như có những tiếng bụp bụp quen thuộc, tiếng nút chai sâm-banh được khui trong bữa tiệc. Tâm thần ông trở nên phấn khởi, tay chân ông không còn bại liệt như cách đó một phút đồng hồ nữa.
Ông vội trườn người sang bên để tránh đòn atêmi của địch. Quả tình địch muốn giết ông. Lối xuất chiêu ác liệt của hắn chứng tỏ hắn không còn nương tay với ông nữa. Hắn dụ ông theo hắn nếu ông từ chối, hắn sẽ bắt cóc. Bắt cóc không thành, hắn sẽ hạ sát. Mưu đồ của địch đã hiện rõ như ban ngày. Nhưng địch là ai?
Bửu Khoa không có thời giờ moi óc để giải đáp nữa vì địch bị hụt đòn đã gầm lớn, nhào xuống cổ họng ông với đòn atêmi tàn bạo khác. Những miễng chai vỡ và những vũng rượu thơm lừng vừa thổi lại sinh khí cho ông. Nhưng sinh khí của ông già bát tuần khó thể còn dồi dào và hùng mạnh như sinh khí của tuổi thanh niên mặc dầu Bửu Khoa đã hấp thụ được tinh túy cải lão hoàn đồng.
Vì vậy ông chỉ né tránh được phần nào. Miếng atêmi không thọc trúng yết hầu để đưa ông sang bên kia cõi thế thì cũng chạm xương quai xanh, ông đau điếng và có cảm giác toàn thể các ống xương từ đầu xuống chân đều rung chuyển nhất loạt.
Ông cuộn mình, thu tàn lực lăn tròn vào góc tường. Nơi này tối hơn, ông có thể phỉnh gạt được kẻ địch và liệu cơ phản công, ông đang loay hoay với những chai không rơi vỡ chung quanh thì bàn tay của ông chạm một mũi nhọn.
Nguyễn Phước Bửu Khoa chồm dậy. Như thể ông vừa học được phép lạ. Mũi khoan này là cái khoan được giới chuyên môn nếm rượu dùng để đâm qua thùng gỗ cho rượu chảy ra. Thiên hạ chỉ biết ông là nhà khoa học lỗi lạc. Một số rất ít được biết tài mọn của ông. Tài nếm rượu. Nếm rượu để phân biệt rượu ngon, rượu dở chưa đáng gọi là tài. Phải phân biệt được mức ngon nhiều, ngon vừa và ngon ít, cũng như dở nhiều, dở vừa và dở ít. Bửu Khoa còn ly kỳ hơn nữa : bịt mắt ông lại, mang ra chục ly rượu vang khác nhau, ông chỉ nếm qua là kêu tên vanh vách.
Ông khiêm tốn nên cho đó là "tài mọn". Thật ra đó là thiên tài, tuy không danh giá bằng thiên tài khoa học, nhưng lại hiếm hơn thiên tài khoa học <2>. Nói ra không ai tin, nhưng sự thật là bà vợ người Trung Hoa yêu ông thắm thiết vì ông có tài nếm rượu, hơn là yêu tài khoa học của ông.
Năm tháng trôi qua, mũi ông, lưỡi ông, họng ông ngày nay đã bớt nhạy cảm, tuy nhiên, nếu phải dự thi lại để được cấp văn bằng nếm rượu chuyên nghiệp, ông vẫn dư sức đậu thủ khoa. Bài thi rất giản dị nhưng cũng rắc rối kinh khủng. Nó gồm ba phần. Thứ nhất, thực hành, nghĩa là thi nếm, thí sinh chỉ có 15 phút đồng hồ phù du để nếm 8 thứ rượu, trong só 2 thứ không ngon, 6 thứ còn lại thí sinh phải kê rõ như toa thuốc, ngon hạng mấy, nho trồng ở đâu, và ép thành rượu năm nào. Nếm rượu này xong, qua rượu khác, phải nhai mẩu bánh và súc miệng sạch sẽ. Chỉ riêng một việc nhai mẩu bánh và súc miệng sạch sẽ này đã mất gần 5 phút, nghĩa là một phần ba thời giờ cho nên thí sinh giỏi lơ mơ khó có hy vọng được chấm đậu. Vậy mà Bửu Khoa đã đậu vẻ vang với lời ban khen của ban giám khảo, về phần 2 và 3, vấn đáp lý thuyết, Bửu Khoa nói thao thao bất tuyệt, nói đâu, trúng đó. Nếu Bửu Khoa không có khiếu về di truyền học, ông đã có thể sinh sống sung túc và tạo được tiếng tăm bằng nghề nếm... rượu lừng lẫy khắp châu Âu <3>.
Giới khoa học miệt mài trong phòng thí nghiệm thường có những thú vui bất thường mỗi khi giành được thời giờ tiêu khiển. Thú vui bất thường của Bửu Khoa là... nếm rượu. Hễ rảnh rang là ông xuống hầm nếm rượu. Nếm rượu nhàm chán, ông nếm rượu của thiên hạ. Đồ nghề nếm rượu gồm bốn thứ, cái khoan, cái ống hút, cái ly khum khum chân thật cao và cái dĩa bạc để rót trải rượu ra quan sát trước khi đổ vào ly để nếm. ông đặt làm hàng chục hộp đồ nghề khác nhau, từ nhỏ đến lớn, hầu thích dụng cho mọi trường hợp. ông lại còn thuê rèn những cái khoan thật lớn để bầy ngắm cho vui mắt nữa.
Mũi nhọn ông vừa chạm tay là mũi nhọn cái khoan gần ba tấc tây. Một người bạn Đức chế bằng thép trui đặc biệt, mang tận nơi đến tặng ông. ông treo nó tòng teng trên tường hầm, gần cái hồ xi-măng chứa rượu. Có lẽ những kệ chai rớt vỡ tứ tán đã kéo luôn nó xuống đất và định mạng kỳ lạ đã khiến cho nó nằm gọn trong tầm tay của ông.
Mũi khoan này rất nhọn, đâm gỗ dầy hai đốt ngón tay cũng xuyên thủng ngon lành như phó-mát. Nó được cắm vào cái chuôi gà xinh xẻo. Tình cờ, nó đã trở thành võ khí lợi hại đối với giáo sư Bửu Khoa.
Ngọn đèn vàng ệch không đủ chiếu sáng góc hầm, giữa những kệ gỗ đựng đầy rượụ. Bửu Khoa chỉ nhìn thấy lờ mờ kẻ địch. Tuy đã trọng tuổi, mắt ông còn sáng như mắt thanh niên, ông nằm khuất sau đống thùng cho nên ông không tin là kẻ địch đã phăng ra nơi ông ẩn núp.
Kẻ địch đập tay vào mạn thùng sắt, miệng dõng dạc :
- Giờ đây, giáo sư đã biết là không hy vọng triệt hạ được tôi. Tôi có thể bước tới, vung đòn giết chết giáo sư. Song tôi không nỡ. Thiên tài như giáo sư không thể mạng vong một cách lãng xẹt như vậy. Một lần nữa, tôi kêu gọi giáo sư...
Bửu Khoa rón rén ngồi dậy, mũi khoan nhọn hoắt được nắm vững trong tay. Lòng ông đã quyết, ông phải đâm ngã kẻ địch. Ông đang ở vào lợi thế. Nếu ông tiến gần thêm chút nữa, mũi khoan thép sẽ có thể trúng tim. Phải, mũi khoan được Bửu Khoa hướng thẳng vào ngực trái của kẻ địch. Mũi khoan phải xuyên qua tim, hắn mới chết không kịp trối. Bằng không hắn sẽ hạ sát ông trong chớp mắt.
Hắn chìa hai bàn tay lật ngửa và hạ thấp giọng.
- Khỏi cần dùng súng, tôi có thể giết giáo sư bằng bàn tay không này. Giáo sư nên nghe lời tôi. Ra đây đi...
Bửu Khoa cất tiếng :
- Anh hứa thật không ?
Mặt kẻ địch răng vàng sửng sốt thật sự :
- Trời ơi, tôi đâu phải là kẻ ngu để hứa cuội với giáo sư. Trong trường hợp giáo sự thuận đi theo, tôi sẽ được trọng thưởng. Nghĩa là sự hợp tác của giáo sư sẽ mang lại cho tôi một mối lợi khổng lồ. Chỉ vạn bất đắc dĩ tôi mới phải xuống tay. Chúng tôi xuống tay mặc dầu vẫn kính nể, vẫn khâm phục giáo sư. Chẳng qua chúng tôi không thể để giáo sư sa vào tay người khác. Vì ngoài chúng tôi ra, đang còn nhiều người rắp tâm bắt cóc giáo sư. Tôi xin nhắc lại lời cam kết danh dự. Nào... giáo sư ra đây với tôi...
Bửu Khoa giả bộ thở dài:
- Ừ, tôi bằng lòng theo anh.
Trên miệng gã đàn ông răng vàng vụt nở nụ cười khoan khoái. Hắn giang cánh tay, sửa soạn đón tiếp giáo sư Bửu Khoa. Hắn không ngờ Bửu Khoa đứng dậy, tiến từ bóng tối ra ngoài là để giết hắn. ông giấu cái khoan sau lưng. Khi ông đến gần, kẻ địch hân hoan đưa bàn tay ra bắt, với nụ cười trên miệng nở rộng, Bửu Khoa mới chuyển mình, dồn hết sức lực vào tay phải, thọc mạnh mũi khoan ác nghiệt vào vị trí đã định.
Mũi khoan đâm sâu vào da thịt nạn nhân một cách ngon lành. Bửu Khoa đã nhắm kỹ nên không đụng sương sườn. Máu đỏ tóe ra. Rồi phun ồng ộc. Bửu Khoa lùi lại, ngó cái khoan rung rinh trên ngực nạn nhân. Mắt hắn trợn trừng, miệng hắn há hốc, hắn bước xéo, toan phóng cước để quật ngã Bửu Khoa, song hắn chỉ nhích nửa bộ là rụp luôn xuống. Nạn nhân đã chết. Chết với nửa cái dùi nhọn trong tim...
Bửu Khoa đinh ninh hạ sát xong kẻ địch là thoát nạn. Nhưng sau khi nạn nhân nằm sóng sượt trên đống miễng vụn, ông mới biết lầm. Sự chống trả mảnh liệt của ông chỉ là sức phụt của ngọn đèn hết dầu, phụt lên thật cao trước khi tắt ngúm.
Nạn nhân trút hơi cuối cùng trên đất thì Bửu Khoa cũng ôm ngực húng hắn ho. Tác động của những phát atêmi độc địa bắt đầu ngấm vào tạng phủ. ông lảo đảo, vịn giãy kệ gỗ đựng chai dọc đường hầm, men lại cầu thang trôn ốc. Ông chỉ cần vượt một quãng ngắn là đến. Nếu ông trèo được cầu thang, ông có nhiều hy vọng thoát hiểm hoàn toàn. Vì ngay bên trên cầu thang là máy điện thoại, ông có thói quen xuống hầm nếm rượu nên sai gắn điện thoại ở đó để liên lạc với bên ngoài được dễ dàng.
Cầu thang xoắn ốc chỉ cách Bửu Khoa khoảng 5 mét, thế mà ông mò mẫm đi hoài, đi mãi chưa đến nơi. ông có cảm tưởng mục phiêu trước mắt rút ra xa thêm và con đường ngắn ngủn mỗi lúc một dài...
Bửu Khoa phải dừng lại để thở. Mắt ông bắt đầu hoa, ông dựa tường hầm mà cảnh vật cứ nghiêng ngả, đảo lộn. Ông biết là cơn hôn mê sắp xâm chiếm thần kinh hệ. Có thể, trong một vài phút đồng hồ nữa ông sẽ bất tỉnh. Bất tỉnh một lát, một đêm hay bất tỉnh luôn, không bao giờ thức dậy nữa ? Vì vậy ông phải tìm cách nào thông báo với người thân, ông không trèo được lên trên để quay số điện thoại, ông chỉ có thể xử dụng phương tiện liên lạc bất thường. Liên lạc bằng vô tuyến điện...
Vất vả lắm Bửu Khoa mới tháo được cái đồng hồ ra khỏi cườm tay. Đồng hồ Lip này chạy thật đúng, lại có cả lịch đề ngày đàng hoàng, đố ai dám nghi nó không phải là đồng hồ chính hiệu. Đố ai dám nghi trong ruột nó chứa một bộ phận điện tử đặc biệt. Mở nút sau của đồng hồ ra sẽ thấy cái nút nhỏ. Nút này là khâu liên lạc vô hình giữa Bửu Khoa và Diễm Hà... Diễm Hà cũng đeo một chiếc đồng hồ tương tự. Đồng hồ của nàng nhỏ hơn và không phải hiệu Lip, nhưng lại có bộ phận điện tử tương tự... Bửu Khoa ấn nút, một điện trì tí hon trong đồng hồ của Diễm Hà - dầu nàng ở xa 5, 10 cây số hay hàng trăm cây số nữa cũng vậy - sẽ phát ra một luồng điện. Luồng điện này rất nhẹ, nhưng Bửu Khoa đã tính toán và thiết trí cực kỳ tinh vi để nó gây ra những cơn run rẩy trên da thịt Diễm Hà...
Nàng đã run rẩy... Biết là Bửu Khoa gọi nàng, nàng cảm thấy xúc động mạnh mẽ, và trong khoảnh khắc, nàng bần thần như sắp mê mẩn. Nàng vẫn nghe rõ câu hỏi của Văn Bình, nàng còn đủ sáng suốt để chỉ cho chàng lấy cái đồng hồ hình chữ nhật nàng cởi ra trong khi tắm và quên đeo lại hiện cất trong túi áo...
Dòng điện chỉ đủ sức lưu ý Diễm Hà đến cái đồng hồ truyền tin. Thường lệ, nó chỉ giật từ 2 đến 3 cái là nhiều nhất. Nhưng khi ấy nó lại giật liên hồi. Như thể giật chuông báo động. Diễm Hà run rẩy, tâm thần ngập tràn lo sợ. Dường như dòng điện trong cái đồng hộ dẹt đã mở toang cánh cửa huyền bí thần giao cách cảm, Diễm Hà ở xa Bửu Khoa hàng bao cây số mà vẫn nhìn thấy, nghe thấy tai nạn kinh khủng đang xẩy ra cho Bửu Khoa trong hầm rượu.
Văn Bình vụt hiểu. Không riêng Bửu Khoa, nhiều người rắn mắt đều dùng đồng hồ phát dòng điện ngầm để liên lạc với tình nhân. Diễm Hà đưa tay cho chàng đỡ dậy, mặt nàng không còn tái mét như trước nữa, song chân nàng vẫn còn lật bật, và giọng nói của nàng vẫn chưa trở lại bình thường, tiếng được tiếng mất.
Chàng điểm nhẹ huyệt khẩu-khiếu của Diễm Hà. Từ đỉnh đầu xuống đến vai, có 4 huyệt khá đặc biệt. Miệng, 2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi được gọi là thất-khiếu. Thất-khiếu ăn thông với 4 khiếu-huyệt là khẩu-khiếu, nhãn-khiếu, nhĩ-khiếu, khứu-khiếu... Diễm Hà bị vướng mắt ở cuống họng, giọng nói không được trong thanh nên Văn Bình điểm huyệt cho nàng thông khiếu.
Nàng bịt cổ, ho một hơi dài. Chàng an ủi:
- Cô hết mệt rồi. Giờ đây cô có thể đến nơi hẹn với Song Ngư.
Diễm Hà lắc đầu :
- Không. Bửu Khoa vừa kêu em. Em có linh tính ông ta đang gặp nạn. Ruột gan em nóng như lửa đốt.
Chàng hỏi
- Tôi cùng đi với cô được không ?
Giọng nàng trở nên rắn rỏi:
- Em đã hết lối lùi chẳng cần giữ gìn làm gì nữa. Vả lại, có anh một bên em bớt lo hơn. Không khéo người ta đã hạ sát Nguyễn Phước Bửu Khoa...
Bỗng dưng Văn Bình cũng có linh tính như Diễm Hà. Ruột gan chàng cũng nóng như lửa đốt. Nhưng nếu nàng nóng một thì chàng nóng năm, nóng mười, mặc dầu nàng là người yêu đầu gối tay ấp của Bửu Khoa còn chàng chỉ là người dưng nước lã. Nguyên nhân khiến chàng quan tâm đến mạng sống của Bửu Khoa là tính chất tối quan trọng của điệp vụ chàng có trách nhiệm hoàn tất. Nếu Bửu Khoa bị hạ sát, chàng sẽ mất hết liên lạc với Tô Lan. ồng Hoàng đang cần Tô Lan. Trong quá khứ, Văn Bình chỉ giúp sở, chứ chưa hề giúp ông Hoàng, ông tổng giám đốc chẳng còn sống trên cõi đời đầy phản trắc này bao lâu nữa. Chàng thường chờ đợi cơ hội để tỏ lòng biết ơn người cha, người bạn, người chỉ huy độc nhất vô nhị là ông Hoàng. Cơ hội này chỉ đến với chàng nếu khoa học gia di truyền Tô Lan đáp máy bay đi Sàigòn...
Văn Bình sửa soạn mở cửa. Diễm Hà bỗng xấn lên ra hiệu cho chàng tránh sang bên. Chàng hỏi:
- Cô sợ bọn Rờnê ?
Nàng đáp mặt lấm lét:
- Vâng.
- Cô muốn tôi cho bọn chúng ngủ luôn không ?
- Muốn. Vì chúng có thể làm khó dễ.
Cửa mở, Rờnê và gã gầy nhom đang chúi mũi vào bàn cờ "đam" đặt trên cái bàn vuông giữa nhà. Cổ nhân phương Đông có câu "cầm kỳ thi họa" để chỉ bốn cái thú quân tử. Diễm Hà mê đàn thì bọn đàn em mê cờ cũng là hậu quả tất nhiên. Cánh cửa chỉ được mở hé nhỏ vì Diễm Hà sợ gây tiếng động nhưng cả hai gã nhân viên MI-6 bị thần Cờ thu hồn, quên hết vũ trụ chung quanh.
Văn Bình bước đến nơi và đằng hắn Rờnê mới biết. Hắn rút tay khỏi quân cờ hắn định xê dịch, mắt trợn trừng, miệng toan nói xong lưỡi đã líu cứng. Trong đời có lẽ chưa khi nào hắn bị sửng sốt nhiều bằng khi ấy. Gã gày nhom, bạn hắn, điềm tĩnh và phản ứng nhanh hơn đã kịp thời xô ghế, đứng bật dậy. Nhưng 10 gã gày nhom họp lại mới là trò đùa đới với Văn Bình. Chàng hươi cùi trỏ, gã gày nhom lãnh trọn xương khuỷu tay giữa ngực. Nạn nhân kêu hự rồi ngã lộn vào bàn cờ, những con cờ bằng lát-tích xanh đỏ xinh xắn bắn đổ tung tóe khắp phòng.
Rờnê vung đòn chống trả một cách tuyệt vọng. Cú đấm tréo của hắn mới được phóng ra, Văn Bình đã chặn lại dễ dàng. Chàng không cần đánh, chỉ đỡ nhẹ mà Rờnê đã té lăn cù, đầu dộng vào ghế xa-lông bịt đồng. Hắn ngồi dậy, miệng thở phì phì. Văn Bình kết thúc cuộc đấu quá chênh lệch bằng ngọn cước móc. Hắn bay vèo qua hai cái ghế xa-lông. Nếu không có cái tủ gương đồ sộ cản hắn lại chắc hắn đã lọt thẳng ra sân, cái sân khá rộng, trồng toàn cỏ mềm, tối thui, không một ánh đèn.
Văn Bình phải đứng lại chờ Diễm Hà. Trong cơn bối rối, nàng trở nên vụng về và chậm chạp khác thường. Mũi giầy nhọn của nàng móc vào mép tấm thảm làm nàng suýt ngã lần nữa vì bước hụt bậc cấp xuống sân.
Nàng kéo tay Văn Bình khi thấy chàng xăm xăm tiến lại chiếc DS sang trọng của Rờnê. Nàng dẫn chàng vào ga-ra và chỉ cho chàng chiếc A-110, loại 1300S do hãng Alpine chế tạo với động cơ Rờ-nô (Renault), thứ động cơ mà thiên hạ thường chê là chạy chậm như rùa, căn cứ vào tốc độ ì-ạch của mấy cụ tắc-xi con cóc ở Sàigòn. Nhưng điệp viên z.28 là dân chơi xe đua có hạng nên hình dáng lùn lẳn và ngang phè phè của chiếc A110 này lại làm chàng tin tưởng mạnh mẽ.
Vì nó là loại xe chạy nhanh nhất và an toàn nhất hiện thời của kỹ nghệ xe tự động Pháp quốc. Với 215 cây số một giờ nó có thể cho các kiểu ô-tô khác nuốt bụi. Thân hình nó bé nhỏ, nó len lỏi dễ dàng hơn xe DS kềnh càng giữa rừng lưu thông rậm rạp Ba Lê.
Diễm Hà giục Văn Bình :
- Em sợ chậm mất. Anh phải phóng thật nhanh may ra mới cứu kịp Bửu Khoa.
Văn Bình rồ ga, chiếc A-110 hung hãn vọt ra cồng. Ngồi bên, Diễm Hà hô lớn :
- Quẹo trái.
Chàng bẻ hết vô-lăng sang trái. Trong chớp mắt, kim đồng hồ tốc độ đã lên quá con số 110 cây số. Lái 100 giữa thủ đô Ba Lê ban đêm mà không gây ra tai nạn chết người và không bị tu-huýt cảnh sát thổi phạt phải là đệ nhất phù thủy. Văn Bình có cảm tưởng như đang diễn trò đu bay trong rạp xiếc. Chàng quen phóng như điên mà cũng toát bồ hôi...
- Quẹo trái.
Quẹo trái, quẹo phải, quẹo trái... Diễm Hà cứ đều đều ra lệnh như thể nàng là Song Ngư thật sự và chàng là nhân viên ngoan ngoãn của tình báo Anh quốc. Nàng dán mắt vào con đường nhựa sáng phía trước, da mặt nàng căng thẳng và nghiêm trọng. Khi ấy nàng chỉ nghĩ đến Bửu Khoa. Và khi ấy Văn Bình cũng làm như máy, tay luôn luôn nắm cần sang số, hai chân liên tiếp đạp côn, rà thắng, tống ga.
Chàng quên bẵng cả những đường phố ngoằn ngoèo, tranh tối tranh sáng, hàng chục bóng hồng tha thướt giơ tay mời mọc, rồi những đại lộ đèn nê-ông rực rỡ, hàng hóa đầy ắp tủ gương. Thần trí chàng được dồn hết vào việc điều khiển chiếc A-110 từ miền Bắc thành phố, qua cầu sông Sein, trở lại tòa nhà hiu quạnh của Bửu Khoa.
Tấm biển đồng khắc mấy chữ "Giáo sư Nguyễn Phúc Bửu Khoa" vẫn còn nguyên bên cổng sắt đồ sộ sơn đen. Đường xá vẫn vắng teo, thậm chí những âm thanh quen thuộc như tiếng máy xe hơi cũng không nghe thấy. Mọi người ngủ say đã đành, dường như cảnh vật cũng ngủ say, và một bức màn bí mật dày cộm đang rủ xuống, ngăn tòa nhà của Bửu Khoa với kinh đô ánh sáng đầy màu sắc, đầy mùi thơm và đầy tiếng động.
Diễm Hà hấp tấp mở cửa nhảy xuống. Nàng lay cửa cổng rồi kêu "trời ơi". Nàng kêu "trời ơi" là vì cửa không được khóa bằng dây xích sắt như thựờng lệ. Hồi tối, Văn Bình đã thấy tận mắt sợi xích lớn bằng ngón tay cái, chú Sáu phải dùng cái chìa khóa dài ngoằn để mở, và cái ổ khóa cũng lớn bằng bàn tay mở rộng.
Giờ đây chú Sáu không có mặt. Cái xích sắt an toàn cũng không có mặt. Diễm Hà lẩm bẩm :
- Mau lên anh ơi!
Chàng không đáp, lùi lũi trèo lên lầu. Mùi nước hoa Femme quyến rũ lạ lùng. Suýt nữa chàng và nàng là đàn bà... giả hiệu và ôm nàng hôn. Đến tấm rèm nhung đen, phía sau là cái tủ đựng sách và ô cửa hình vuông dẫn xuống hầm, cả Diễm Hà lẫn Văn Bình đều khựng lại. Riêng Văn Bình, chàng có cảm giác như bị quạt atêmi vào mặt. Hồi nãy Bửu Khoa đã đích thân kéo rèm, xô cái tủ sang bên, mời chàng đi xuyên qua hành lang rồi đặt chân xuống cầu thang xoắn ốc.
Một lần nữa Diễm Hà khựng lại. Nàng vụt nép vào ngực chàng. Làn da tay của nàng lạnh ngắt. Lạnh đến nỗi Văn Bình nổi gai ốc. Nàng hỏi chàng :
- Anh có nghe thấy tiếng gì không ?
Chàng lóng tai một phút rồi đáp :
- Tiếng rên.
- Vâng. Tiếng rên của Bửu Khoa. Chắc kẻ địch đang núp dưới hầm.
- Chẳng sao. Cô chờ trên này để tôi xuống trước dò đường.
- Anh ơi, em có linh tính là Bửu Khoa đã chết.
- Hừ... giác quan thứ sáu của cô trật đường rầy rồi.
Chàng giả vờ pha trò để khỏa lấp sự lo lắng đang chiếm ngự tâm trí chàng. Giác quan thứ sáu bách chiến bách thắng của chàng cũng vừa báo tin giáo sư Bửu Khoa đang trút hơi thở cuối cùng. Nếu Bửu Khoa chết trước khi gặp chàng, chết không trối trăng được với chàng, công việc do sở giao phó sẽ quay lại khởi điểm, và khởi điểm chua chát này chỉ là con số không to tướng. Chàng chỉ nghĩ đến cách giựt kéo nạn nhân hấp hối Bửu Khoa ra khỏi móng vuốt hãi hùng của thần Chết nên quên bẳng một nhiệm vụ không kém quan trọng : nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho Diễm Hà.
Tiếng rên từ dưới hầm rượu vọng lên mỗi lúc một rõ. Hồi tối khi được Bửu Khoa dẫn đến cửa hầm, Văn Bình cũng đã dừng lại quan sát, khi ấy tứ bề hoàn toàn yên tịnh, chỉ thoang thoảng mùi thơm của rượu nho. Giờ đây mùi thơm ngan ngát đã biến đâu mất, ngoài tiếng rên yếu ớt của Bửu Khoa, còn có tiếng gió, tiếng gió soắn cuộn từ một cõi âm xa xôi nào đó thổi hơi lạnh vào mặt chàng.
Đột nhiên, Văn Bình rờn rợn. Chàng sực nhớ đến sự cẩu thả dại dột không thể tha thứ được của mình. Lẽ ra chàng không được lên tiếng trước miệng hầm. Một điệp viên mới ra trường cũng không hớ hênh một cách ngu xuẩn đến thế. Vì trong trường hợp kẻ địch còn lẩn lút dưới hầm, chàng có thể thiệt mạng như chơi. Dầu bắn tồi địch cũng phải bắn trúng.
Tại sao địch chưa xuất đầu lộ diện ?
Có thể địch đã hết đạn. Hoặc địch chờ chàng xuống đến nơi để bắt sống. Hoặc địch đã chết....
Tiếng nói của Diễm Hà rót vào tai chàng :
- Tối lắm, để em lấy đèn cho anh.
Trời, tiếng "em" đi kèm với tiếng "anh" của nàng nghe dịu ngọt và ngây ngất khác thường. Cho đến phút này, Văn Bình vẫn cố tin nàng là đàn bà. Đàn bà trăm phần trăm.
Diễm Hà rút cây đèn bấm thực mạnh, loại sạc điện, treo lửng lẳng trên vách tủ, đưa cho chàng. Lùm sáng xanh biếc quét thành vòng tròn, chiếu rõ những bậc thang và nền hầm. Văn Bình từ từ bước xuống. Chàng giang rộng cánh tay cầm đèn, để chiếu sáng được một diện tích rộng hơn, và cũng để phòng bị được cẩn mật hơn nếu kẻ địch mai phục trong góc hầm với khẩu súng sẵn sàng nhả đạn.
Chàng tự biết là liều mạng, song chàng không thể lùi được nữa. sống chết có số... sợ gì.... vả lại, mình thọ cũng đã hơi nhiều... giá ăn đạn của địch cũng phải phép lắm rồi, mình thịt người ta và người ta thịt lại mình, có vay có trả là thói đời thông thường... Trong thâm tâm, chàng nhủ thầm như vậy, nhưng cách rọi đèn và cách đặt bước trên cầu thang của chàng lại chu đáo kinh khủng, sống chết có số, đồng ý, nhưng nếu biết giữ mình chu đáo thì thần Chết khó thể vung lưỡi hái...
Chỉ còn mười bực nữa là xuống đến nền hầm. Chàng giơ cao cây đèn bấm thêm nữa. Trong vừng sáng, chàng vừa nhìn thấy một xác người tênh hênh trên vũng máu đỏ lòm. Chàng biết chắc là xác chết vì trên ngực có một cái dùi lớn, cạm ngập vào tim, gần lút đến cán. Bị đâm giữa tim thì bằng cây kim gút cũng vị tất khỏi chết, huống hồ cái dùi lớn gấp mấy chục lần...
Ánh đèn rọi vào mặt nạn nhân đang nằm nhe răng. Chỉ thấy răng vàng là răng vàng. Cách hắn độ một quãng ngắn là một khối thịt khác, cũng đồ sộ như hắn. Văn Bình nhận ra ngay Nguyễn Phước Bửu Khoa. Diễm Hà đã nhìn thấy trước chàng. Có lẽ nàng đã nhận thấy bằng linh tính, hơn là bằng mắt.
Nàng rú lên thất thanh :
- Anh Khoa, anh Khoa, anh chết rồi ư ?
Nàng bước nhanh về phía Bửu Khoa, ông ta nằm dựa đầu lên đống chai rượu vang đỏ, mắt vẫn mở, và tuy chưa đến, Văn Bình vẫn nghe được hơi thở. Hơi thở của ông quá yếu ớt, nhưng ông còn sống, sống được bao lâu nữa, Văn Bình chưa biết. Nhưng chắc chắn là trong giây phút này ông đang còn thở, ông đang còn sống.
Chàng không hy vọng chữa chạy cho Bửu Khoa bình phục mặc dầu chàng là võ sư về môn hồi sinh kuatsu. Chở ông ngay đến bệnh viện, với hàng chục giáo sư y khoa lỗi lạc trong phòng giải phẫu tân tiến cũng vô ích. Vì ông bị chết về nội thương, ông còn ráng sống vì ông muốn nói một đôi điều trọng đại. Văn Bình mừng khấp khởi, song niềm vui của chàng đã bị cắt đứt đột ngột vì tiếng kêu của Diễm Hà.
Thì ra trong cơn hoảng hốt nàng không dể ý để ý đến những bực thang còn sót lại. Nàng bước luôn xuống nền nhà, hụt chân trong khoảng không và ngã tòm vào vũng máu.
- Cứu em với !
Văn Bình vội đỡ Diễm Hà. Ánh đèn bấm đã tắt. Nhà hầm chỉ được chiếu sáng bằng ngọn điện nhỏ bé duy nhất. Tuy vậy Văn Bình cũng thấy hai chân nàng co rúm. Có lẽ nàng gẫy xương vì nàng kêu đau luôn miệng. Chàng đặt nàng nằm ngay ngắn trên một khoảng đất sạch sẽ và điểm huyệt cho nàng khỏi bị cơn đau làm mê man.
Xong xuôi, chàng mới quay lại săn sóc cho Nguyễn Phước Bửu Khoa...
Kể ra, chàng chỉ dành cho Diễm Hà độ 30 giây đồng hồ. Ngay sau đó, chàng dồn mọi nỗ lực để cứu sống Bửu Khoa. Nhưng 30 giây đồng hồ giữa lúc Bửu Khoa chống trả tử thần kịch liệt và vô vọng đã là một thời gian quá dài... Văn Bình cất tiếng gọi:
- Giáo sư Bửu Khoa, tôi đây, z.28 đây.
Chàng lập lại nhiều lần song Bửu Khoa nằm bất động Chàng nghe ngực : trái tim đã ngưng đập. Tuy vậy, chàng vẫn tin là Bửu Khoa còn sống. Chàng vạch áo Bửu Khoa ra, đánh atêmi bằng đầu ngón tay vào huyệt hồi sinh. Khoảng hai phút sau, Bửu Khoa ho lên một tiếng nhỏ. Văn Bình giựt tóc mai và tiếp tục gọi tên. Mắt ông ta mở ra, miệng hơi mấp máy. Tròng đen của ông lay động nhẹ khi Diễm Hà quỳ xuống một bên. Giọng nàng ướt nhèm nước mắt:
- Em đây... anh tha lỗi cho em.
Văn Bình truyền chân khí của chàng vào kinh mạch cho Bửu Khoa. Nhưng chàng có cảm giác chân khí đang tuôn vào khoảng trống. Điệu này chứng tỏ cơ thể của Bửu Khoa không tiếp nhận chân khí được nữa. Nghĩa là Bửu Khoa không còn hy vọng sống lại. ông chỉ có thể sống lại trong phút chốc rồi ra đi mãi mãi...
Văn Bình bèn gạt nhẹ Diễm Hà ra, rồi ghé sát tai Bửu Khoa hỏi dồn :
- z.28 đây, câu hỏi này rất quan trọng, ngày mai ông có hẹn với người bí thư của Tô Lan hồi mấy giờ và ở đâu ?
Dường như Bửu Khoa nghe được và hiểu được câu hỏi của chàng. Và dường như ông ta đang cố gắng cất tiếng. Bửu Khoa đằng hắng lần nữa, với mục đích chế ngự lớp đàm đang chặn nghẹt cổ họng. Văn Bình thúc giục Bửu Khoa :
- Ông nói đi. Định gặp hồi mấy giờ, gặp ở đâu ? Nếu miệng ông không nói được nữa thì ông dùng tay ra hiệu. Bây giờ tôi hỏi, nếu đúng thì ông cử động ngón tay cái, nếu tôi nói không đúng thì ông cứ để yên.... Thế nào, ông đã nghe rõ chưa ? Nghe rõ thì ông cử động ngón tay cái... nào... nào...
Văn Bình và Diễm Hà cùng nín thở. Ngón tay cái của Bửu Khoa hơi gập lại. Gập lại từ từ rồi duỗi ra từ từ. Diễm Hà nhìn Văn Bình, ra vẻ sửng sốt. Vì chàng đang hà hơi cho bàn tay Bửu Khoa nóng lại, đồng thời xoa nắn những đường gân ngang dọc trên bàn tay. Chàng yêu cầu Bửu Khoa cử động ngón cái không phải do sự tình cờ, theo kinh nghiệm nguyên khí trong thân thể sắp chết thường qui tụ nơi đầu ngón tay trước khi tản xuất vào không gian bao la. Đối với võ sĩ từng tập luyện nội ngoại công như Bửu Khoa thì đầu ngón tay là trạm nghỉ mạnh mẽ cuối cùng của nguyên khí, nhiều khi tim đã ngừng đập mà ngón tay vẫn còn lúc lắc.
Văn Bình hỏi Bửu Khoa :
- Sẽ gặp hồi mấy giờ ? Tôi sẽ kể giờ, kể xong tôi sẽ ngừng lại, nếu đúng thì ông cử động ngón tay cái, không đúng thì thôi. Nếu ông nghe rõ những điều tôi vừa nói thì ông cử động ngón tay cái...
Văn Bình mừng rơn. Chàng vừa dứt lời, ngón cái của Bửu Khoa đã cục cựa. Chàng lại nói:
- Yêu cầu ông nghe kỹ. Giờ hẹn là giờ chẵn hay giờ có những phút lẻ ? Nếu là giờ lẻ thì cử động ngón tay.
Ngón tay cái của Bửu Khoa không thay đổi vị thế. Như vậy nghĩa là giờ chẵn. Thật rầy rà cho chàng nếu giờ hẹn đeo thêm mươi mười lăm phút tòng teng, vì chàng sẽ phải đặt nhiều câu hỏi phụ và Bửu Khoa sẽ không sống được đến khi ấy để trả lời đủ.
Văn Bình nhìn giữa mắt lim dim của giáo sư Bửu Khoa :
-10 giờ.
Bửu Khoa không trả lời. Văn Bình tăng thêm :
-11 giờ.
Bửu Khoa vẫn không cử động ngón cái. Văn Bình lần lượt nâng lên đến xế trưa, buổi chiều, buổi tối, Bửu Khoa vẫn tiếp tục lặng thinh. Thoạt tiên chàng tưởng ông ta đã chết. Kiểm soát lại kinh mạch, chàng thấy rõ ông ta còn sống, mặc dầu gần gũi thế giới bên kia hơn mấy phút trước. Mồ hôi vã đầy áo, Văn Bình nuôi hy vọng cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra trong buổi tối. Tại các thị trấn quốc tế, buổi tối là thời gian tiếp xúc thuận tiện lý tưởng, một cái ghế đá cộng viên, một chỗ ngồi trong rạp xi-nê tối om, một căn phòng trọ tối
om giành riêng cho những cặp trai gái trốn vợ, trốn chồng đến đó để vui thú trên giường nệm lò so....
Nhưng chàng đã đếm từ 8 đến 12 giờ đêm Bửu Khoa vẫn không nhúc nhích. Không lẽ tiếp xúc từ lúc sau nửa đêm ? Đại diện của Tô Lan là đàn bà con gái, trường hợp này không thể xảy ra.
Mồ hôi lạnh đổ rào như nước mưa, Văn Bình vận hết nhỡn tuyến để theo dõi sự thay đổi trên diện mạo nạn nhân hấp hối. Chàng thoáng thấy nét ngạc nhiên pha lẫn bực bội trên tròng mắt Bửu Khoa. Tại sao ông ngạc nhiên ? Tại sao ông ta bực bội.
Văn Bình suýt thét lớn và tự vả tát vào má để trừng trị mình. Trời... mình ngu quá... ngu hơn cả những đứa ngu nhất trong làng gián điệp Đông Tây cổ kim ! Người Pháp thường chê bai những kẻ đi tìm buổi trưa vào lúc 14 giờ chiều, Văn Bình lại đã đi tìm buổi... sáng vào lúc... nửa đêm. Chàng vừa tính lầm một cách tai hại. Tính lầm vì chàng tự hào là tính đúng. Tính lầm, vì chàng tự hào là quen thuộc đời sống Ba Lê như quen thuộc đời sống Sàigòn. Chàng nghĩ rằng người Ba Lê ham ăn, ham chơi và dĩ nhiên là... ham ngủ nên khó thể đến nơi hẹn trước 10 giờ sáng. Phương chi người hẹn lại là đàn bà. Đàn bà đẹp dậy muộn đã đành, chỉ riêng cái việc từ trên giường bước xuống đất cũng mất 15 phút, rồi còn việc làm sạch và làm đẹp sẽ mất thêm vài ba giờ đồng hồ nữa, cộng thêm một giờ điểm tâm thì sớm lắm là gần ngọ giai nhân mới có thể ra xe, đến nơi hẹn. Chàng đinh ninh 10 giờ là sớm quá. Chàng không ngờ... phải, khôn quá hóa dại... chàng không ngờ.
Cổ đắng mặn, chàng hỏi Bửu Khoa :
- Giờ hẹn là 8 giờ sáng, phải không giáo sư?
Ngón tay cái của Bửu Khoa cục cựa thật mạnh. Dường như ông ta chờ đợi giây phút quý báu này từ lâu. Chỉ một câu hỏi ngắn "8 giờ sáng" mà Văn Bình loay hoay đúng 5 phút đồng hồ, 5 phút trong lúc này giá trị bằng 5 ngày trò chuyện vơi Bửu Khoa khi ông ta còn sống nhăn.
Diễm Hà thở phào. Bước gay go nhất đã được vượt qua. Nhưng còn địa điểm của cuộc gặp gỡ ? Đó mới là chi tiết quan trọng. Chàng có thể không cần biết giờ, không cần biết diện mạo người thư ký của Tô Lan. Nhưng bắt buộc chàng phải biết nơi hẹn là đâu. Phương pháp cử động ngón tay chỉ có thể áp dụng vào việc hỏi giờ. Vì vậy trong khi Diễm Hà thở phào Văn Bình lại lo muốn tắt hơi. Ngẫm nghĩ một vài giây, chàng lại tiếp tục :
- Cũng như hồi nãy, ông sẽ dùng ngón tay cái để trả lời. Tôi sẽ đặt nhiều câu hỏi liền nhau. Hỏi xong một câu, tôi ngưng lại, ông sẽ trả lời. Nào, nơi gặp là khách sạn, công viên, đường phố, rạp hát hay hàng quán ? Nếu gặp tại một trong 5 nơi vừa kể thì ông cử động ngón cái, bằng không thì thôi.
Bửu Khoa từ từ cử động ngón cái. Văn Bình lần lượt nhắc lại những tiếng khách sạn, công viện, đường phố, rạp hát, hàng quán, vừa nói vừa theo dõi phản ứng của nhà bác học hấp hối. Mãi đến khi chàng dằn mạnh chữ "hàng quán" Bửu Khoa mới trả lời.
Tên nhà hàng bắt đầu bằng chữ gì ? Bửu Khoa trả lời sau khi Văn Bình đọc chữ "C". Chàng hỏi "tên nhà hàng gồm mấy tiếng, ví dụ Lapin Agile gồm 2 tiếng ?" Bửu Khoa cử động ngón cái ở tiếng thứ tư. Và tiếng thứ tư này là tiếng gì ? Văn Bình đọc một hơi hơn 20 chữ cái, mãi đến chữ p ở gần cuối, nạn nhân mới ngo ngoe ngón tay.
Giờ đây, Văn Bình hỏi đến tên đường. Nhưng chàng chưa kịp lên tiếng, nhà bác học đã nấc một tiếng ngắn. Chàng vội vàng kiểm điểm kinh mạch của nạn nhân. Những phân tử nguyên khí cuối cùng của Bửu Khoa đã thoát khỏi ngón tay cái. Tròng mắt đang nửa khép, nửa mở đã đóng chặt lại. Nấc xong, ông quẫy mình và cuộn tròn lại như con tôm luộc.
Bửu Khoa đã chết.
Từ nãy đến giờ, Diễm Hà ngồi im, phần vì nàng tin Bửu Khoa không chết, phần khác vì kỹ thuật đối thoại với người cấm khẩu với Văn Bình đã làm nàng say mê như thể bị thu hồn. Tiếng nấc vĩnh biệt của giáo sư Bửu Khoa lôi kéo nàng ra khỏi cơn mơ. Thấy người yêu co quắp sau khi giẫy đành đạch, nàng mới gọi lớn:
- Bửu Khoa, anh Bửu Khoa ? Anh làm sao thế ?
Dĩ nhiên là nhà bác học không nghe tiếng nàng kêu và cũng không thể trả lời. Diễm Hà khóc bù lu bù loa như vợ trẻ bị chồng đánh oan. Trong cơn khóc, nàng kể lể, thương xót tình nhân vắn số. Nghe tiếng "vắn số" Văn Bình không ngăn được cười. Trời ơi, suýt soát 80 tuồi mà nàng cho là vắn số, chẳng hiểu nàng muốn ông già chơi trống bỏi này sống đến năm thứ trăm mấy nữa?
Chàng kéo thi thể còn nóng của Bửu Khoa vào góc tường để được gần ánh đèn hơn rồi cắm cúi lục lọi túi quần và túi áo. Tất cả những vật gì tìm thấy, dầu chỉ là một mảnh giấy bé nhỏ, chàng cũng cất kỹ. Xong xuôi, chàng đứng dậy, nắm cánh tay Diễm Hà :
- Ta đi thôi.
Trên khuôn mặt ướt đẫm nước mắt làm son phấn nhòa nhoẹt cũa Diễm Hà hiện đầy kinh ngạc :
- Đi đâu, hả anh ?
Lệ ra chàng nói "đi tìm cách liên lạc với Tô Lan" song chàng chợt nghĩ đến mối tình ngang trái giữa hai người sinh lý bất bình thường nên cố tạo giọng ngậm ngùi và căm hờn :
- Đi tìm kẻ giết Bửu Khoa để rửa thù.
Mắt Diễm Hà sáng rực. Quả nàng yêu lão già bác học thật sự. Yêu bằng thể xác đã đành, nàng còn yêu bằng cả trọn vẹn tâm hồn nữa. Nàng xiết chặt tay chàng :
- Cám ơn anh. Nếu anh giúp em rửa thù, em sẽ mang ơn anh cho đến chết. Em sẽ cho anh biết tất cả bí mật về Song Ngư.
Lời nói của Diễm Hà làm chàng sướng phát điên. Nhưng chàng không dám để lộ trên mặt. Chuyến này, ông M., tổng giám đốc tình báo Anh quốc hết đường chống chế. Dĩ nhiên, ông sẽ vẫn đổ tội cho nhân viên như thường lệ, song để trám miệng ông Hoàng, ông sẽ phải (đau đứt ruột) rút cuốn chi phiếu và ký cho ông Hoàng một tờ (điều ông M. rất ít khi làm, vì lẽ ông là vua... rán sành ra mỡ trong làng điệp báo quốc tế).
Sắp trèo lên cầu thang, Diễm Hà bỗng quay lại:
- À, còn thi thể của Bửu Khoa...
Văn Bình giả vờ ngần ngừ một vài giây rồi đáp :
- Để mình liên lạc với cảnh sát, họ cho xe hồng thập tự đến chở đi. Cô dính vào bất tiện, vả lại, mình không có thời giờ.
Diễm Hà ôm mặt Bửu Khoa hôn hàng chục lần. Nghỉ khóc được một lát, nàng bắt đầu khóc lại. Nàng đúng là đàn bà Việt cổ xưa mặc dầu nàng nói tiếng tây thạo hơn tiếng mẹ đẻ, mặc dầu nàng mặc đồ tây và có nếp sống rất tây. Nàng là đàn bà 50 phần trăm, chứ nếu nàng trở thành 100 phần trăm với những bộ phận nẩy lửa như chàng có dịp ngắm nghía, chàng cũng không dám léo hánh tới. Niềm rung động mạnh mẽ đã tan biến, chàng đâm ra sợ nàng...
Lên đến tầng trên, Văn Bình hỏi Diễm Hà :
- Buổi tối Lệ Liên về nhà riêng ?
Nàng đáp :
- Vâng.
- Cô biết địa chỉ của Lệ Liên ?
- Có chứ.
Chàng đưa bút cho nàng :
- Cô ghi chỗ ở của Lệ Liên và của cô vào đây.
- Em sẽ dẫn anh đến đó ngay bây giờ.
- Không tiện. Tôi đi một mình tiện hơn. Người ta đang rình rập cô, có thể sẽ giết chết cô. Giờ này chắc bọn Rờnê đã báo cáo với Song Ngư.
- Anh đừng ngại. Chúng đinh ninh em là Song Ngư. Ngoài ra chúng không thể biết Song Ngư ở đâu và Song Ngư là ai.
- Đang còn những cơ quan khác nữa. Vì cô là đầu mối có thể dẫn đến Tô Lan.
- Anh lại lầm. Em không biết gì hết. Tuy yêu em, Bửu Khoa lại rất kín đáo.
Hai người trở lên căn phòng được dùng làm bàn giấy của giáo sư Bửu Khoa. Văn Bình lại hỏi Diễm Hà :
- Còn chú Sáu. Nghe nói chú Sáu ở đây với ông Bửu Khoa. Phòng chú Sáu ở đâu ?
Diễm Hà dậm chân xuống đất ra vẻ bất bình :
- Trời ơi, óc em đặc sệt, em chẳng còn nhớ gì nữa. Vâng, chú Sáu cũng ở đây với ông Bửu Khoa. Phòng của chú Sáu ở cuối hành lang. Giờ này chắc chú đang ngủ, chú ngủ sớm như người nhà quê. Khổ quá, nếu chú biết ông Khoa bị ám sát trong khi chú ngủ say có lẽ chú tự tử mất.
Văn Bình bước rảo ra hành lang. Không hiểu sao chàng vẫn có cảm giác rờn rợn. cảm giác này xâm nhập trí não chàng ngay sau khi chàng trở lại biệt thự của Bửu Khoa, và nó không chịu tan biến. Giáo sư Nguyễn Phước Bửu Khoa đã chết. Chú Sáu là người thân của Bửu Khoa. Thân, nghĩa là được Bửu Khoa cho biết nhiều điều quan trọng. Địch đã giết Bửu Khoa, địch khó thể buông tha chú Sáu sống.
Đến cửa phòng đóng im ỉm gần lối ra bao lơn nhìn xuống khu vườn đầy cây cối rậm rạp tối om, Diễm Hà đập nắm tay kêu :
- Chú Sáu, chú Sáu, mở cửa.
Bên trong hoàn toàn im lặng. Diễm Hà gắt:
- Ngủ gì mà ngủ lắm thế ? Giáo sư Bửu Khoa bị giết mà chú vẫn cứ ngủ ư ?
Một lần nữa, Văn Bình phải vận kình để phá cửa. cửa phòng chú Sáu cũng như cửa phòng Bửu Khoa được đóng bằng gỗ tốt khá dầy. Chàng gạt nhẹ Diễm Hà sang bên. Dưới sức đẩy của kình lực, cánh cửa kiên cố bị xụp gẫy.
Văn Bình nâng hai tay ngang ngực, chuẩn bị tung chưởng đối phó. Vì chàng nghi ngại kẻ địch rình núp trong phòng.
Nhưng không, căn phòng không có ai hết. Theo lời Diễm Hà, chú Sáu nằm trên cái giường nhỏ kê sát tường, đối diện cửa ra vào. Tuy sống ở Ba Lê đầy đủ tiện nghi của thế kỷ 20, chú Sáu lại gắn bó với sinh hoạt cổ xưa. Giường chú thuộc loại ván gổ giản dị, thô tháp, do chú tự tay xẻ cây, bào lắp. Chú tự tay đánh bóng vẹc-ni. Trên giường không có nệm lò so như thường lệ. Chú cũng không trải chiếu nữa. Lưng chú phải là lưng sắt mới chịu nổi mặt giường cứng đét. Để khỏi mang tiếng bẩn thỉu, chú chỉ dùng một tấm vải trắng tinh, được giặt ủi và hồ bột thường xuyên, trải thay chiếu.
Trên giường chú Sáu, Văn Bình không thấy chú Sáu. Tấm vải đã bị cuộn tròn nhàu nát, vứt bỏ lung tung trên đất. Cạnh giường là cái bàn nhỏ đựng rượu và ly cốc. Cái bàn này cũng bị lật ngửa, chai và ly vỡ nát. Rõ ràng một cuộc xung đột dữ dẳn vừa xảy ra trong phòng. Vừa xảy ra, vì Văn Bình thấy nhiều vết máu còn tươi ướt.
Chú Sáu đã biệt tích.
Địch đã nhanh chân hơn điệp viên z.28.
Chú thích:
1. Trung bình hàng năm một hãng rượu lớn ở Pháp bị vỡ độ 1100.000 chai xâm-banh.
2. Trên toàn nước Pháp có chừng 3.500 người biết nếm rượu, nhưng giới "thượng thừa" chỉ gồm trên 50 người, hợp thành Hội nếm rượu (compagnie des courtiers gourmets piqueurs de vins), nồi danh nhất là Jacques Blanchet, Bernard Grenouilleau, André Foulon...
3. Kỳ thi này được tồ chức tại trụ sở hội ở Bercy. Muốn nhập hội phải chờ khuyết chỗ (chỉ có 50 chỗ trọn đời), có 2 người đỡ đầu trong hội và phải thi đậu.
Những vết máu loang lỗ từ chân giường ra đến cửa phòng. Không đọng thành vũng lớn, tức là thương tích không lấy gì làm trầm trọng. Văn Bình không đoán được máu này là của ai, chắc là của kẻ địch. Chú Sáu đang ngủ, nghe tiếng động vội choàng dậy. Nhưng chú Sáu vốn ngủ say, khi chú choàng dậy thì địch đã lọt vào phòng, và chiếm được lợi thế. Địch toan bắt cóc chú thì chú kháng cự lại. Nhưng rốt cuộc chú yếu hơn địch, và chú bị khuất phục và dẫn đi.
Ngoài tấm vải nhàu nát và những mảnh ly chai vỡ, đồ đạc vẫn không bị suy suyển vị trí. Chú Sáu sống độc thân có khác, căn phòng của chú tiêu biểu cho chủ nghĩa bề bộn, nó là phòng ngủ, phòng đọc sách và là phòng... kho nữa. Cái tủ buýp-phê kê lọt trong góc có thể được coi là tiệm hàng xén thu nhỏ. Trên mặt được bầy đủ thứ, từ cây đèn bấm, cặp mắt kiến đến hũ cà-phê pha không cần lọc, và những chai tương, chai dấm, chai rượu đủ mầu...
Cạnh tủ buýp-phê là một cái tủ khác lộng kính chững chạc, đựng toàn sách. Chắc không phải truyện giải trí, mà là sách khảo cứu nhức đầu mỏi mắt vì cuốn nào cũng dầy cộm, được đóng gáy da, in chữ vàng rực rỡ và được giữ gìn hết sức sạch sẽ. Chú Sáu được giới thiệu là bếp kiêm bồi phòng, kiêm luôn tài xế ban đêm cho Bửu Khoa, nhưng tủ sách thượng lưu này chứng tỏ chú là người có học. Không phải học lè phè. Mà là học cao.
Văn Bình hỏi Diễm Hà :
- Sách này là của chú Sáu ?
Nàng đáp :
- Vâng. Chú Sáu là một gia nhân quái dị. Chú không đậu bằng nào cả mà dân khoa bảng học rụp xương cũng chưa theo kịp chú. Cái gì chú cũng biết, riêng về khoa học chú chưa chịu kém ai, dĩ nhiên chú chỉ khâm phục mỗi ông Bửu Khoa mà thôi. Chú đọc sách chăm chỉ hơn cả sinh viên sửa soạn kỳ thi nữa. Em không hiểu tại sao một người giỏi giang như chú Sáu lại nhận làm bồi phòng, đầu bếp và tài xế, quần quật từ sáng đến khuya, chủ nhật ngày lễ cũng không được nghỉ.
- Ngoài chú Sáu ra, không còn gia nhân nào khác nữa ư ?
- Không. Tính nết Bửu Khoa buồn giận hiền dữ thất thường, có khi thay đổi một ngày cả chục lần thì ại dám làm gia nhân nổi. Nghe nói trước kia Bửu Khoa cũng có thuê nhiều người giúp việc, song họ đều rủ nhau đi hết. Khi em đến đây thì chú Sáu đã có mặt.
Văn Bình tẩn mẩn cầm một chai whuýt-ky cạn non nửa, soi lên ánh đèn. Thường lệ, rượu whuýt-ky ngon có mầu sắc đẹp, giờ đây, cơn khát đang giầy vò cơ thể, màu sắc nó càng đẹp hơn, và mùi thơm nó còn thơm gấp chục lần. Chàng mở nút, toan ngửa cổ dốc vào cuống họng thì Diễm Hà ngăn lại. Chàng vội hỏi:
- Cô sợ gì ? Sợ thuốc độc phải không ?
Diễm Hà lắc đầu :
- Không. Em thấy cái máy thu thanh của chú Sáu.
Máy ra-dô là loại máy thông dụng trên thế giới, mán mọi trong rừng rậm Phi Châu còn không ngạc nhiên thì chẳng lẽ Văn Bình lại ngạc nhiên. Tuy vậy, chàng vẫn tạm ngưng thưởng thức rượu mạnh thần tiên, ghé mắt vào cái ra-dô 9 băng toàn bằng tăng-di-to của Nhật, mang tên một hãng rất quen thuộc là Sony, nhưng không hiểu tại sao Văn Bình lại khựng người. Vài giây đồng hồ khựng này đã làm cho chàng no ứ bao tử mặc dầu chàng đang đói meo, chàng cũng đột nhiên hết khát...
Diễm Hà kéo cái ra-dô về phía nàng và nói:
- May quá, nếu nó còn chạy thì có nhiều hy vọng tìm ra nơi chú Sáu bị giữ.
Nàng không nói rõ "nó" là gì song Văn Bình đã biết là một dụng cụ phát tín hiệu. Kỹ nghệ hiện đại đã sản xuất hàng chục thứ dụng cụ phát tín hiệu khác nhau, cất trong mình nó phát ra những tín hiệụ đặc biệt, người ở xa có thể nghe được bằng máy tiếp nhận riêng. Dụng cụ này được phổ biến rộng rãi đến nỗi nhiều bà vợ mắc bệnh ghen tuôn nặng đã lén mua quẹt máy hoặc bút máy phát tín hiệu bầy bán trên thị trường, bỏ vào túi áo đức lang quân, ban đêm đức lang quân đị với mèo nói dối là đi công việc làm ăn, các bà ở nhà chỉ cần mở máy là theo dõi được lộ trình. Người ta còn chế tạo cả một kiểu máy nghe tín hiệu và tính toán luôn vị trí khiến các bà vợ sư tử Hà Đông có thể phăng ra tồ ấm của ông xã dễ dàng...
Chú Sáu biết dùng máy phát tín hiệu không phải là chuyện lạ. Văn Bình chỉ lấy làm lạ tại sao chú Sáu lại dùng. Diễm Hà lên tiếng giải thích :
- Như anh đã thấy cái đồng hồ truyền điện của em, cái ra-dô thu tín hiệu này cũng do Bửu Khoa sáng chế. Tuy là nhà khoa học chuyên về di truyền, ông ta rất giỏi về điện tử. ông liên lạc với mỗi người một cách khác nhau. Với em ông dùng đồng hồ truyền điện nhẹ, còn với chú Sáu, ông xài dụng cụ phát tín hiệu. Bất cứ đi đâu, chú Sáu đều mang dụng cụ này đi theo, nó cũng là đồng hồ giống loại đồng hồ của em...
Văn Bình mở nút máy ra-dô. Từ ống loa nhỏ xíu, vọng ra một điệu nhạc giựt gân. Chàng bèn hỏi Diễm Hà bằng mắt. Nàng nói:
- Không, đó là nút vặn ra-dô. Những nút của ra-dô không liên quan đến bộ phận thu nhận tín hiệu. Vì vậy người ngoài không thể biết được.
Nói đoạn, nàng cắm cái đầu dây được dùng để tắt ống loa và để nghe riêng, và đưa đầu kia cho Văn Bình đút vào lỗ tai. Sợi dây nhỏ một đầu có cái nút đút vừa lỗ tai được gọi bằng Anh ngữ là earphone, giành cho giới mê nhạc muốn nghe riêng một mình, không làm phiền người khác.
Văn Bình đinh ninh sẽ nghe được những tiếng tút tút tít tít thường lệ của máy phát tín hiệu. Song chàng chỉ nghe được điệu nhạc. Nhưng không phải điệu nhạc giật gân của mấy anh chàng da đen thổi kèn. Mà là nhạc nhẹ. Nhạc đệm bằng măng cầm. Chàng bèn rút cái nút ra khỏi tai và đưa cho Diễm Hà :
- Cô thử coi, tôi chẳng nghe thấy gì cả.
Diễm Hà nghe một phút rồi mỉm cười, vẻ mặt tươi tỉnh :
- Có. Máy đang chạy. Em quên nói với anh về lối lắp ráp cầu kỳ của Bửu Khoa, ông ta sợ người ngoài nghe, có thể nghi ngờ nên thay âm thanh tút tút cổ điển của máy phát tín hiệu bằng tiếng đàn măng cầm.
- À ra thế. Nhưng tiếng đàn này chỉ chứng tỏ máy đang chạy, chứ nó không cho biết được chú Sáu đang ở đâu.
- Đó là điều em muốn nói với anh.
Diễm Hà mở tủ buýp-phê, lôi ra cái máy thu thanh hiệu Sony, giống hệt cái đặt trên bàn. Nàng lẹ làng mở miếng gỗ hình chữ nhật ở phía sau ra. Bên trong chàng thấy một cái hộp nhỏ, trông tương tự như máy điện tâm kế. Nó chỉ lớn bằng phần mười cái điện tâm kế do Nhật chế tạo, được y sĩ dùng để đo sức khỏe của trái tim. Điện tâm kế Ịuôn luôn có những cây bút tự động chạy trên tờ giấy, tình trạng trái tim rạ sao được ghi thành những nét cao thấp bằng mực. Diễm Hà lôi cái hộp ra ngoài, mở đèn thật sáng cho Văn Bình thấy rõ hơn.
Điều vừa mục kích làm chàng toát bồ hôi khâm phục. Bửu Khoa đúng là bộ óc khoa học kỳ quan. Các cơ quan điệp báo đàn anh trên thế giới đã sáng chế cái máy theo dõi điện tử, tuy nhiên loại máy này còn quá cồng kềnh, chỉ có thể đặt ở gần trung ương, chưa thể xách tay mang dọc đường, hơn thế, nó còn ở thời kỳ thử nghiệm. Cái máy của Bửu Khoa rất tiện lợi, nó vừa nhỏ, vừa nhẹ, treo trong xe hơi dễ dàng.
Diễm Hà loay hoay cắm điện rồi mở một giãy nút. Tiếng rè rè êm tai nổi lên, ngòi bút viết chữ đen từ từ lượn trên tờ giấy màu vàng, kẻ ô vuông nhỏ màu nâu. Nhưng ngòi bút chỉ chuyển động trong vòng 30 giây rồi ngưng.
Diễm Hà nói :
- Chú Sáu đã bị chở về nhà giam. Vì máy phát tuyến đứng lì một chỗ.
Văn Bình hỏi:
- Đồng ý. Cây bút ngưng lại tức là máy phát tuyến không xê dịch như trước nữa. Nhưng cô có thể biết được nhà giam chú Sáu tọa lạc tại khu nào, tại đường nào trong thành phố không ?
Nàng đáp "có chứ" một cách ung dung pha lẫn kiêu hãnh. Văn Bình khét tiếng về kiến thức khoa học ngay cả các nhà nghiên cứu có hàng đống bằng cấp trên vai nặng chĩu cũng không dám bịp chàng. Hễ có thời giờ rảnh rồi là chàng đọc ngấu nghiến, ông Hoàng lại lập cho chàng một thư viện bằng phim ảnh vi-ti với đủ sách báo và tài liệu được cập nhật hóa. Có thể nói không ngoa khối óc của chàng là một thư viện thu hẹp. Tuy vậy, chàng lại hoàn toàn mụ tịt về cách thức Bửu Khoa áp dụng để khám phá lộ trình kẻ bị theo dõi. Không hiểu nàng bấm nút ở đâu mà tờ giấy trên có ngòi bụt tự động trở thành sáng rực. Té ra bên dưới có đèn. Ngọn đèn được bật sáng vừa cho Văn Bình thấy một vật chàng không bao giờ ngờ tới.
Vật này là bản đồ thành phố Ba Lê. Kinh đô ánh sáng được liệt vào hàng thành phố đàn anh về khoản đông đảo và rộng rãi, những bản đồ in trên tờ giấy lớn bằng tờ nhật báo mà tên đường còn nhỏ li ti, huống hồ bản đồ nằm dưới được ánh đèn chiếu sáng này chỉ nhỏ như nửa tờ bìa cuốn truyện bỏ túi.
Diễm Hà mở ngăn kéo, rút ra cặp viễn kính. Nàng đeo vào mắt và bắt đầu quan sát tấm địa đồ. Nàng reo lên :
- Đây rồi...
Văn Bình đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Diễm Hà trao ống nhòm cho chàng. Trời đang đêm mà viễn kính rọi sáng như ban ngày, giữa trưa nắng rực. Bản đồ được vẽ bằng mực xanh, chỗ đậm chỗ nhạt. Con sông Seine ngăn đôi thành phố nổi bật một mầu hồng mát mắt và gợi cảm. Và ngay trên bờ hữu ngạn, chàng nhận thấy một vệt đen đậm ngoằn ngoèo như con giun để rồi cô đọng lại thành dấu chấm tròn thật lớn.
Dấu chấm tròn mầu đen là nơi chú Sáu bị giam. Nó tọa lạc ngay cuối đường cầu Mới. Trong khu Chợ Chính.
Khu chợ gồm một khoảng đất mênh mông với hàng chục đường phố nhỏ hẹp, vô danh, từng là nơi hành nghề của dân anh chị và hồng lâu từ nhiều thế kỷ, ngay giữa trung tâm Ba Lê, giữa những đoàn xe và người chật ních không còn chỗ chen chân và những cái tháp khổng lồ cao ngất làm bằng bắp xu, hành, măng tây, bom, mận và dưa bở. Chú Sáu bị giam tại khu chợ, việc giải cứu sẽ rất khó khăn vì Văn Bình không hiểu máy tính của Bửu Khoa được chính xác đến đâu, hơn nữa, ban đêm là thời khắc đông đúc nhất, ồn ào nhất, nhiều đường cấm xe cộ lưu thông, chàng phải đi bộ, và đến khi chàng rẽ được đám đông người ngợm và hàng hóa thì địch có thể cao bay xa chạy.
Diễm Hà lấy bút chì mở gạch dấu chữ thập gần cái chấm đen đậm trên bản đồ rồi nói với Văn Bình :
- Đúng rồi. Đây là đường Những Kẻ Ngây Thơ <1>. Em sẽ lái anh đến.
Chàng bỗng có cảm giác bị rình rập. Chàng cầm tay Diễm Hà, kéo nàng lại sát tường rồi tiến lên một bước, chắn ngang mặt nàng làm tấm kính che chở.
Nhưng chàng đã cẩn thận hơi quá đáng. Vì tứ phía vẫn vắng lặng. Tuy vậy, chàng chưa chịu tin là giác quan thứ sáu của chàng đánh hơi lầm. Địch đã giết bác sĩ Bửu Khoa, địch đã bắt chú Sáu, địch khó thể cho Diễm Hà tự do. Chàng lo lắng cho tính mạng của Diễm Hà hơn là tính mạng của chàng.
Chờ một lát không thấy gì khả nghi, chàng mới bằng lòng cho nàng ra ngoài hành lang, xuống sân. Chàng nói như ban lệnh :
- Mời cô đi trước.
Diễm Hà có vẻ phật ý :
- Anh sợ họ ám sát em ? Em chán ngấy cuộc sống, chán ngấy tất cả. Họ giết em chính là mang phúc lành lại cho em.
Văn Bình không đáp. Chàng không muốn cất tiếng, phần vì tránh khơi sâu nỗi đau đớn của Diễm Hà, phần khác vì cần đề phòng địch dựa vào tiếng động để mở cuộc tấn công.
Chiếc Alpine động cơ cực mạnh vẫn đậu bên trụ cổng. Đêm khuya thanh vắng, chàng tha hồ phóng nhanh. Diễm Hà tất tưởi ra sân. Sau khi hai người vào biệt thự, không có ai lẻn vào theo, bằng chứng hồi nãy chàng mở hé cánh cổng một gang tay để làm dấu, giờ đây khoảng cách vẫn còn nguyên một gang như cũ. Nếu người lạ đột nhập, cửa phải mở rộng hơn nữa. Dầu địch khép lại, khoảng cách vẫn phải thay đổi.
Diễm Hà không mở cửa xe mà nhảy luôn vào bên trong. Chiếc A-110 này thuộc kiểu mui trần. Công ty Rờnô (Renault) chỉ sản xuất xe A-110 mui sắt cứng đét, muốn biến mui sắt thành mui vải, có thể kéo lên, xập xuống bằng nút điện, chủ nhân phải mang xe đến một cơ xưởng chuyên môn và phải trả rất nhiều tiền. Làm mui vải đắt hơn mua xe hơi mới cắt chỉ.
Tuy nhiên, Văn Bình lạnh toát châu thân, vẩy ốc mọc đầy mặt và gáy. Cơn lạnh thất thường này không do thời tiết gây ra. Chàng vội kêu lớn :
- Diễm Hà, Diễm Hà, nhảy xuống ngay, kẻo...
Chàng định nói "kẻo gặp tai nạn hiểm nghèo" nhưng những tiếng nổ thật lớn lấn át. Tiếng nổ này từ chiếc Alpine xinh xẻo và đắt tiền phát ra, ngay sau khi Diễm Hà an vị, hấp tấp mở công-tắc cho xe chạy. Đó là tiếng nổ của lát- tích. Nền đất dưới chân Văn Bình rung chuyển dữ dội như thành phố Ba Lê lên cơn địa chấn. Gạch đá bắn tung tóe. Thanh âm ào rộng trong không khí tịch mịch ban đêm như hàng trăm, hàng ngàn đợt sóng một buổi biển động ngoài khơi... ầm ầm... ầm ầm....
Văn Bình đang bước rão thì xảy ra vụ nổ. Trong dĩ vãng, chàng từng gặp nhiều vụ nổ tương tự, song linh tính kỳ lạ đã giúp chàng nhìn thấy trước tai nạn và chàng kịp thời nằm rạp xuống hoặc tìm nơi ẩn núp an toàn. Đối với vụ nổ kinh hoàng này, chàng chưa kịp làm gì, ngoại trừ kêu Diễm Hà thoát thân.
Có lẽ nàng đã nghe tiếng kêu hoảng hốt của Văn Bình. Vì chàng thoáng thấy đầu nàng nhô lên. Chắc nàng sửa soạn nhảy ra ngoài. Sức nổ của lát-tích giấu trong xe đã nâng bỗng nàng lên trước khi tung nàng qua cổng sắt vào trong biệt thự. Văn Bình đứng sừng sững mà không bị thương nặng vì những miễng nổ vào sức nổ đã bị cột trụ bê- tông hai bên cổng cản lại.
Tai nạn thê thảm xảỵ ra trong vòng 5 giây đồng hồ. Sau đó, tất cả trở lại yên lặng. Chàng không nghe tiếng rên của Diễm Hà. Lửa bắt đầu cháy đỏ. Chàng vội nép mình sau trụ cổng. Tiếng nổ của thùng xăng trong xe hơi tiếp theo, những gì còn nguyên vẹn sau tiếng nổ đầu tiên đã bay lả tả, chiếc Alpine mỹ miều trở thành một đống sắt bốc lửa nóng rực.
Diễm Hà nằm sóng soãi trên nền cỏ. Trời tối, chàng không thấy rõ mầu cỏ, song chắc là cỏ non xanh tươi, chàng quỳ xuống, bàn tay chạm đất làn cỏ mịn màng như thể da thịt người đẹp. Như thể da thịt của Diễm Hà. Nàng chết mà hơn, vì nàng sống nàng sẽ khổ, với tấm thân căng cứng tình yêu mà không được hưởng thụ tình yêu do những trớ trêu của tạo hóa; Mắt nàng mở rộng, ngửa nhìn vòm trời không trăng sao. Chàng từ từ vuốt mắt nàng. Mặt nàng còn nguyên, thân thể nàng cũng còn nguyên, ngoại trừ những khoảng cháy khét, quần áo rách bươm. Lệ thường, nạn nhân các vụ nổ lát-tích khó được thân thể toàn vẹn. Một sự ngẫu nhiên mầu nhiệm đã giúp nàng...
Bỗng dưng chàng nảy ra ý định ôm Diễm Hà hôn. Đàn bà trăm phần trăm cũng vị tất hấp dẫn bằng nàng. Chàng cúi xuống. Trời ơi... nàng đã chết mà môi nàng vẫn nóng, vẫn chứa đựng một sự rung động khác thường...
Và, một lần nữa trong cuộc đời tung hoành bên cạnh những người đàn bà đẹp, cơn xúc cảm mềm yếu đã cứu Văn Bình z.28 thoát chết.
Vì chàng vừa rạp mình ngang với mặt đất để hôn Diễm Hà thì sau lưng chàng, trong tòa nhà cổ xưa của Bửu Khoa, một tiếng nổ kinh thiên động địa xảy ra. Chàng có cảm tưởng như hàng chục trái bom cỡ lớn cùng được pháo đài bay B-52 thả xuống sân nhà và cùng nổ một lúc. Trận gió hung hãn do vụ nổ tạo ra quét qua sân, mạnh đến nỗi những cái chậu sứ xếp thành hàng dài gần bực cấp cũng bị bốc lên và thổi bắn vào tường vỡ loảng xoảng. Nếu Vặn Bình ngồi hoặc đứng, trận gió giết người này đã cuốn chàng theo và chàng có nhiều triễn vọng biến thành thịt lầy lụa...
Mắt chàng tóe đom đóm đen sì, tai chàng ù hẳn. Tiếp theo tiếng nổ ghê gớm này là một loạt tiếng nổ khác, song chàng chỉ nghe được những âm thanh rất nhỏ, như bầu trời bao la đã được hãm thanh. Chàng cố vận nhỡn tuyến để quan sát. Chàng thấy lờ mờ một chái nhà bị đổ sụp. Trong chái nhà này có căn phòng của chú Sáu. Dưới hầm cũng có tiếng nổ. Có lẽ địch cốt làm phi tang. Địch không muốn ai nắm được chi tiết cỏn con nào khả dĩ dẫn đến Tô Lan... Bửu Khoa bị giết cũng chưa đủ, địch muốn thiêu luôn xác chết. Mọi giấy tờ liên quan xa gần đến Tô Lan chắc sẽ biến thành than. Phút này, Văn Bình chưa thấy bóng dáng xe cứu hỏa. Sự can thiệp của đội cứu hỏa thành phố sẽ dập tắt được đám cháy, song chàng không tin là những giấy tờ quan trọng sẽ được bảo vệ.
Thế là hết.
Hết hy vọng hợp tác với Nguyễn Phước Bửu Khoa. Chàng hy vọng vào nữ bí thư Diễm Hà thì hy vọng này đã bị tiêu hủy từ trong trứng nước. Nàng chưa giúp chàng được gì đáng kể thì bị tử thương. Và suýt nữa chàng cũng chết vùi dưới đống gạch vụn chất cao như núi.
Chàng bùi ngùi đứng dậy. Trong đêm, chàng nghe tiếng máy xe hơi và tiếng người nhốn nháo. Những chiếc xe của cảnh sát đã rú kèn ngoài đường. Khu vực nay thường lệ yên tĩnh mặc dầu tọa lạc ở trung tâm thành phố đang biến thành ồn ào, hỗn độn. Văn Bình xốc lại quần áo, thản nhiên đạp trên cánh cổng sắt bị giật đổ nằm ngổn ngang trên đất.
Ba Lê là thị trấn có nhiều cây to bóng mát, cho nên chàng có thể tàng hình dễ dàng. Khi cảnh sát lập xong nút chặn để tiến hành công cuộc cấp cứu thì Văn Bình đã ra đến đầu đường. Trong tầm mắt chàng là sông Seine. Giòng nước được văn nhân thế giới nức nở ca tụng. Trời êm và đẹp như đêm nay, nằm trên con tàu nhỏ với em bé, mặc cho nó bập bềnh, vốn là thú vui cố hữu của điệp viên hào hoa z.28 mỗi khi chàng ghé kinh đô ánh sáng.
Nhưng đêm nay, Văn Bình chẳng có em bé nào để ôm ấp trên sông tình tự. Chết, chết, chết, những ai gặp chàng đều chết. Mai sáng chàng phải tiếp xúc với Tô Lan. Tiếp xúc đúng 8 giờ sáng. Địa điểm : một nhà hàng, bảng hiệu gồm 4 chữ, chữ đầu là c và chữ cuối là p. Ba Lê có hàng ngàn, hàng vạn nhà hàng, mầy mò tìm ra nơi hò hẹn không phải dễ.
Chàng chỉ còn tia hy vọng cuối cùng: giáp mặt hai người thân còn lại của Nguyễn Phước Bửu Khoa, đó là chú Sáu và Lệ Liên. Chú Sáu đã rơi vào tay địch. Chàng đã biết nơi chú bị giam giữ. Giờ này không biết chú còn sống hay đã bị địch làm thịt. Khu chợ là nơi có nhiều cống rãnh, chỉ đấm nhẹ vào màng tang chú Sáụ bất tỉnh là đủ. Nạn nhân được tống xuống cống. Những cái cống thật sâu. Những cái cống nhằng nhịt dưới đất, không biết dẫn đi đâu. Những cái cống chứa toàn nước bẩn.
Và nhất là giống chuột. Chuột cống Ba Lê là chuột cống lớn nhất và dữ nhất năm châu. Họ hàng nhà chuột thường sống tập trung trong hệ thống cống ở khu chợ. Thi thể chú Sáu có thể biến mất trong vòng mười, mười lăm phút.
Chỉ còn lại Lệ Liên. Chàng có sẵn địa chỉ của nàng trong túi. Chỗ ở của nàng không xa bao nhiêu. Tuy nhiên, chàng không biết giờ này đang ở nhà hay nàng đi vắng. Hay nàng đã bị địch bắt? Hay nàng đã bị địch giết ? Lẽ nào địch đã chiếu cố đến Diễm Hà và chú Sáu, địch lại có thể bỏ quên tên nàng trong danh sách đoạn trường ?
Ruột gan Văn Bình rối như tơ vò. Chàng đang băn khoăn giữa hai việc, đến nhà Lệ Liên hay tiếp tục đi tìm chú Sáu. Cả hai việc đều quan trọng ưu tiên như nhau. Chàng không thể phân thân đến cả hai nơi cùng một lúc, cho nên chàng phải lựa chọn.
Nhưng lựa chọn cách nào?
Chàng nhún vai, rút ra đồng tiền kim khí 50 xu. Chàng nhẩm ghi từng mặt, mặt phải là Lệ Liên, mặt trái là chú Sáu., truớc khi tung đồng xu để coi sấp ngửa, chàng hơi rụt rè. Đúng ra, chàng phải đến nhà Lệ Liên. Vì Lệ Liên là phụ nữ. Phụ nữ chân yếu tay mềm. Và là phụ nữ có nhan sắc. Chú Sáu là đực rựa, mặt mày thiếu cảm tình, có đi tàu suốt sang bên kia thế giới cũng chẳng sao.
Nhưng ác hại là chú Sáu đang lâm nguy, chú Sáu lại thân cận Bửu Khoa hơn, chú Sáu có nhiều điều kiện giúp chàng phăng ra địa điểm tiếp xúc... Tuy phó thác cho thần may rủi, Văn Bình vẩn thầm mong Lệ Liên sẽ thắng chú Sáu.
Nhưng mặt trái của nửa đồng phật-lăng đã hiện ra chềnh ềnh. Định mạng muốn chàng đến khu chợ giải thoát cho chú Sáu. Chàng thở dài ném đồng xu đáng ghét vào lùm cây bên đường rồi bách bộ qua cầu, sang bên hữu ngạn. Sau lưng chàng, xe cộ kẹt cứng thành hàng dài. Vụ nổ trong biệt thự chỉ làm nhiều phòng sụp đổ, chứ không gây ra đám cháy nên đội nón đồng chỉ rú kèn, phóng xe hết tốc độ cho vui chứ không có cơ hội trổ tài. Đống lửa của chiếc Alpine được dập tắt ngay với sự hợp tác của nhân viên an ninh và dân chúng trong khu vực. Biệt thự của Bửu Khoa trở thành đống gạch vụn đã bị cô lập hoàn toàn bằng hàng rào cảnh sát.
Văn Bình ngoảnh lại nhìn lần cuối trước khi đặt chân lên cầu. Lòng chàng bỗng lắng xuống. Điềm nhiên như không có việc gì quan trọng, chàng nện bước qua đường Thị sảnh, sát bờ sông, xuyên qua một đường nhỏ đến đại lộ một chiều Rivoli chan hòa ánh đèn và đầy nhóc xe cộ, nam nữ du hí.
Từ tối đến giờ, chàng qua lại con đường thượng lưu này không biết là lần thứ mấy mà chàng không có dịp đậu xe, xô cửa một nhà hàng gắn máy điều hòa khí hậu mặc dầu bao tử của chàng đang kêu la dữ dội. Lần này nữa, chàng chỉ tạt qua, vẫy tắc-xi, chạy đến đường cầu Mới, ra lệnh quẹo bên phải.
Chợ trung ương tọa lạc trên đường này. Chàng xuống xe lội bộ xuyên qua đường Hàng Sành đến đường Những Kẻ Ngây Thơ. Chàng tủm tỉm cười một mình khi nghĩ đến tên đường Những Kẻ Ngây Thơ. Ngày xửa ngày xưa, chàng còn là du khách mới ghé kinh đô ánh sáng lần thứ nhất, chàng đã nôn nao đòi bạn bè dẫn đến chợ chơi và luôn tiện nếm cho biết những thú vui tại đó. Và chàng đã xửng vửng vì tài nghệ của một khuôn mặt hết sức ngây thơ, giọng nói hết sức ngây thơ chàng gặp tại đường Những Kẻ Ngây Thơ. Vào việc, nàng chẳng ngây thơ chút nào, chàng thanh niên z.28 lạc vào động đào có nửa giờ đồng hồ mà bị nâng luôn cái ví đựng toàn giấy bạc.
Ngoài cái kỷ niệm... cù lần ấy, Văn Bình đã có thiện cảm đặc biệt với khu chợ. Chàng là dân sành ăn, sành uống, một trong những món súp được chàng gắn bó là xúp hành.... cái tên nghe rất thường, đọc trên thực đơn ở Sàigòn thì tiệm ăn Tây nào cũng có, nhưng coi chừng... ngay cả đầu bếp ở Ba Lê chưa chắc nấu xúp hành ngon, chứ đừng nói tới mấy ông hỏa đầu quân ở xa Ba Lê hàng vạn cây số.
Xúp hành chỉ là món xúp gồm hành tây, bánh mì, phô-mát gờ-ruy-e, bột, bơ, muối, tiêu trộn với nước và rượu vang trắng. Nó chỉ gồm ngần ấy gia vị, tìm ở đâu cũng có, ấy thế mà thiên hạ chỉ có thể ăn xúp hành hợp khẩu cái ở trong khu chợ Ba Lê. Đêm đêm, khi vãn hát, trai thanh gái lịch ùn ùn kéo vào chợ. Văn nghệ sĩ, nhà triệu phú... mọi người đều lấy những tiệm ăn bình dân này làm nơi hẹn. Món xúp hành trong chợ ngon thật là ngon. Đêm nay, giá Văn Bình được kéo nghế ngồi xuống trước món súp nóng bỏng miệng, có mỹ nhân mắt biếc môi hồng chầu chực một bên thì...
Trời ơi, chàng không dám mơ tưởng đến mùi hành và mùi thơm của phó-mát nữa. Chàng cố tưởng tượng dạ dầy của chàng là một cô gái ngoan ngoãn để chàng an ủi "em chịu khó chờ anh một lát, công việc sắp xong rồi, chúng mình sẽ có thật nhiều thời giờ để hàn huyên với nhau".
Nhưng mặc cho chàng nhủ thầm dạ dầy, nước miếng của chàng cứ tiếp tục trào ra miệng. Vì hỡi ơi, chàng vừa đặt chân vào một khu vực nổi tiếng về món bao tử hầm. Bao tử đói meo được ngửi mùi bao tử hầm, nấu theo lối độc đáo của vùng Can <2> với đủ mùi thơm, mùi béo, mùi tiêu, mùi hành tỏi, boa-rô, cần ngò húng... thì đến đại tu sĩ ăn trường chay cũng động lòng, huống hồ đệ nhất ẩm thực gia Văn Bình.
Lâu lắm, chàng chưa được thưởng thức lại món bao tử hầm. Các chú con Trời ở Sàigòn cũng làm món bao tử và từng được nức nở khen ngon, nhưng nếu so sánh với bao tử hầm trong chợ Ba Lê thì chưa đi đến đâu. Úi chao, nấu món này cầu kỳ không kém rùa rắn, bao tử con bò tẩy trắng tinh được xắc thành hình con cờ ngâm trong la-de, rượu vang và cỏ-nhát. Nấu lẫn với chân bò để nó sền sệt. Chưa hết, nó còn phải phủ kín bằng những miếng mỡ bò lên trên khi đổ vào nổi. Mỡ bò có tác dụng ngăn khí trời nhiễm vào bao tử trong lúc hầm làm nó bị đen và kém ngon. Người ta còn bịt miệng nổi bằng một lớp bột kiên cố. Phải nấu từ 10 đến 12 giờ đồng hồ mới chín.
Thú nhất là khi múc ra đĩa. Bên ngoài, tuyết rơi rỉ rả, trời lạnh muốn thắt bao tử, những cái đĩa trinh nguyên được đặt ngay ngắn trên bàn. Đĩa được hơ thật nóng, vô phúc anh nào cù lần chạm vào là cháy da tay... Văn Bình đã cháy da tay như vậy nhiều lần, mặc dầu chàng không đến nỗi... than, ngay cả trong thời gian chàng mới làm quen với thủ đô Ba Lê. Chàng cháy da tay là do ý muốn. Thủ đoạn cháy da tay này do một người bạn thân thổ công thành phố truyền dạy lại cho chàng. Đi ăn với cô bạn con nhà lành khá nghiêm nghị, chàng giả vờ ôm cái đĩa trong khi mải mê tán tỉnh, rồi suýt soa kêu đau. Cô bạn hoảng hốt cầm lấy tay chàng. Thế là...
Những chuyện rí rỏm ấy xảỵ ra từ sâu song Văn Bình có cảm tượng như thời gian đứng lại. Bụng chàng trống rỗng và lạnh lẽo hơn bao giờ hết. Chàng hít một hơi Salem, đoạn cắm cúi bước rảo qua nhà hàng chuyên bán bao tử hầm, thực khách đông như dân nghèo chen chúc đi lãnh đồ chẩn tế.
Giờ này, giờ dân Ba Lê sửa soạn lên giường ngủ, lại là giờ dân trong chợ sửa soạn từ trên giường nhảy xuống. Buổi trưa trong chợ vắng tanh, vắng ngắt, chỉ trừ khu chợ hoa tô vẽ muôn hồng ngàn tía cho những gian hàng đang ngủ.
Máu giang hồ của Văn Bình cũng thức dậy với các hoạt động ban đêm của chợ trung ương. Đột nhiên chàng cảm thấy sức khỏe và trí sáng suốt gia tăng cho dẫu chàng đang đói muốn rục xương.
Chàng thở phào rồi dẩn vào hẻm. Tên hẻm này là gì, chàng không biết. Diễm Hà đã ghi rõ địa chỉ và chàng đã học thuộc. Nếu máy điện tử của Bửu Khoa không bị bé cái lầm tai hại thì chú Sáu đang bị giam trong căn nhà ở cuối hẻm, trông ra hai mặt đường.
Giống như các khu chợ lớn khác trên thời giờ, luật của kẻ mạnh được coi là khuôn vàng thước ngọc bên trong những đường hẻm. Vì vậy, Văn Bình không ngạc nhiên khi thấy một bọn đầu trâu mặt ngựa say rượu bí tỉ chửi nhau, đánh nhau ngay ngoài đường. Chàng vừa gặp một cuộc ẩu đả gần đổ máu vì giành gái, chàng lại đụng đầu một đám lỏi tì giựt bóp của khách bộ hành đang kéo nhau chạy như giặc. Chàng đi mép vào trong lề, cố gắng không gây phiền phức với bọn du đãng. Mặc dầu một số du đãng nặng trên một tạ thịt có bãn lãnh khác thường - như đã chứng tỏ trong nhà của Bửu Khoa - chàng vẫn không coi chúng ra gì, sở dĩ chàng tránh né vì chàng sợ hỏng việc. Chắc chắn địch phải bố trí đàn em chung quanh nơi giam giữ chú Sáu và tìm đủ mọi cách ngăn cản chàng đột nhập.
Căn nhà trông ra mặt đường là một cao ốc nhiều từng. Nó được xây cất từ mấy chục năm nay là ít, vì bộ mã nó mảnh khảnh như sắp đổ về phía trước, tường và mái đều đen bẩn, có lẽ từ ngày mọc lên đến giờ nó chưa hề được sơn phết lại. Tuy đây là hẻm buôn bán, nhà nào cũng mở toang hoác, nó tọa lạc giữa ngã ba đường mà cửa dưới, cửa trên, cửa lớn, cửa nhỏ đều đóng im ỉm. Thoạt nhìn, ai cũng nghĩ đó là nhà hoang. Nhà sắp bị triệt hạ, nhường chỗ cho một binh đinh tân tiến.
Văn Bình rảo bước qua và không dừng lại. Chàng nhận thấy nhiều gã đàn ông tóc râu xồm xoàm đang nằm la liệt trước ngưỡng cửa. Bọn này ghiền ma túy hoặc là ma-ca-bông với lối sống đầu đường xó chợ, hay là nhân viên của địch nằm canh gác? Văn Bình chưa thể quyết đoán. Chàng cần quan sát tường tận trước khi hành động.
Trạm quan sát lý tưởng đối với chàng là một quán cà-phê nhỏ xíu, lụp sụp ở bên kia ngã ba. Gọi là quán cà-phê, song người ta bán cả rượu mạnh và một số đồ nhắm. Không có thời giờ ăn cơm, chàng đành uống rượu vậy. Vả lại, rượu vốn là một hình thức cơm của chàng. Miễn là whuýt-ky chính cống.
Chàng ngồi xuống giữa đám đông hỗn độn và ầm ỹ. Mọi người đều trò chuyện như la thét. Tiếng thét dẫu lớn cũng chưa lớn bằng những âm thanh từ cái âm-li và ba thùng loa to tướng phát ra, sặc mùi kích động nhạc. Dân nhậu toàn là phu phen trong chợ, họ ăn mặc đủ kiểu, người mặc áo lạnh, quấn khăn len, đội mũ sùm sụp, đeo găng da dầu trời chưa lang, lại có người mặc vỏn vẹn cái áo thun lá. Họ không để ý đến người chung quanh nên Văn Bình bước vào thản nhiên. Chàng chỉ gặp khó khăn khi kiếm ghế, vì ghế nào cũng bị chiếm. Có khá nhiều ghế trống nhưng dân nhậu đã dùng để gác chân hoặc để đồ. Vất vả lắm chàng mới giành được một chỗ ngồi thích hợp ngó qua cao ốc xiêu vẹo, nơi chú Sáu bị nhốt.
Chàng mua một gói đồ chiên đựng trong những cái cọt-nê làm bằng giấy báo, dốc đổ xuống bàn. Mặt bàn được trải vải dầu nhầu nát. Quán cà-phê có bộ mặt không lấy gì làm sạch, khăn bàn dĩ nhiên là nơi chứa cặn rượu, tàn thuốc, cát bụi, đồ bẩn và vi trùng, nhưng Văn Bình lại bốc ăn đồ chiên một cách ngon lành. Chàng chiêu phần ba chai Vat 69, hạ chai xuống, toan ngừng vì sợ thiên hạ dòm ngó, song lại nâng lên, tu thêm một hơi nữa. Hớp này khá dài bên một phần ba khác đã chui tọt vào cổ họng chàng. Trong chớp mắt, bỏ thì thương, vương thì tội, Văn Bình khiêng luôn phần ba còn lại của chai whuýt-ky.
Mắt chàng đang ngứa xốn và kèm nhèm bỗng sáng hẳn ra. Triệu chứng giống người đau mắt hột này thường xảy ra mỗi khi chàng bị cai rượu. Và không riêng cặp mắt, mọi bộ phận trong cơ thể từ tai mũi miệng ở ngoài đến lục phủ ngũ tạng đều chạy êm ro như xe hơi mới được bơm mỡ và thay dầu nhớt.
Văn Bình chỉ thấy ánh đèn lờ mờ trên lầu 4, lầu cao nhất của tòa nhà cổ lỗ sĩ đối diện. Muốn lên lầu 4, chỉ có một cái hẻm tối om ngay bên cạnh. Chàng chưa biết hẻm này dẫn đến đâu, song chắc là một phần của cao ốc. Nếu địch đề phòng chàng đột nhập, họ sẽ đặt sẵn nhân viên trong đó.
Chàng xỉa tiền xuống bàn rồi đứng dậy. Mới uống một chai Vat, giá được uống thêm vài ba chai nữa, chàng cũng không say. Tuy vậy, chàng phải giả vờ chếnh choáng để khỏi bị chú ý. Không may cho chàng, trong cơn say kịch nghệ, chàng dẫm lên mũi giầy của một gã chuyên nghề vác thịt. Máu tươi còn chảy ròng ròng trên cái tạp-dề bằng vải ca-rô của hắn. Hắn đang mê ly bên chai vang đỏ, mặt hắn cũng đỏ lòm như ly vang đậy ắp trên bàn thì ngón chân hắn bị gót giầy của Văn Bình chận đè. Kể ra hắn chỉ đau xoàng và chỉ văng tục một tiếng là đủ. Khốn nỗi, hơi men đã làm hắn sửng cồ nhanh chóng và dễ dàng, Văn Bình lại quá nhỏ, quá thấp đối với hắn. Nếu hắn biết tài Văn Bình quật ngã như nhái bén những tay anh chị khuân vác trong Chợ, chắc hắn không dám gây sự tuy thần Lưu Linh đã làm hắn gia tăng can đảm. Bởi vậy, hắn trợn mắt, phồng mang, dằn mạnh chai rượu xuống bàn, cốt lôi kéo sự quan tâm của mọi người trong nhà hàng, trước khi chửi rủa một cách hạ cấp và vung quyền đánh Văn Bình.
Chàng thấy rõ quả đìa-rét của hắn ngay từ lúc hắn nhấc cánh taỵ lên. Chàng có dư thời giờ triệt đòn tận gốc. Chàng ngáng nhẹ là hắn mất quân bình và ngã tòm. Chàng cũng có thể né tránh. Song chàng chẳng làm gì cả. Chàng ung dung chìa mặt ra lãnh đòn. Vì chàng nghĩ thầm là trong trường hợp chàng thi thố tài nghệ chặn đòn hoặc né tránh, vô hình chung chàng sẽ tự quảng cáo với địch chàng là võ sư hữu hạng.
Quả thôi sơn rớt đúng xương hàm của chàng. Gã phu vác thịt đánh tận lực nên Văn Bình cảm thấy đau. Chàng giả vờ loạng choạng, phải dựa tường để khỏi té xỉu. Rồi chàng rẽ đám đông, toan lỉnh ra ngoài. Nhưng thái độ phục tùng của Văn Bình lại làm đối phương say men chiến thắng. Hắn thấy chàng lảo đảo, bèn rượt theo, đấm tiếp vào mạng sườn. Chàng đành nhào luôn vào ghế. Thiên hạ không bênh vực chàng thì chớ, họ còn nhảy vào đánh hôi nữa. Hai ba gã đàn ông vạm vỡ xúm lại để làm thịt chàng. Nóng mắt, chàng toan cho mỗi tên một ngọn cước. Nhưng một lần nữa, chàng lại nằm bất động, cả bọn chia nhau đấm đá lung tung. Sau cùng, thấy chàng không có phản ứng, chúng mới chịu buông tha. Hai tên xốc nách chàng, lôi sềnh sệch ra ngoài và xô vào đống rác chất cao ngất ngưởng. Cũng may, đống rác chỉ toàn cải bắp, cà chua, xúp lơ, hành tỏi bị thối hỏng, không có vật nhọn nên chàng chỉ phải nhức đầu lộn mửa...
Loa vi âm của tiệm cà-phê vẫn tuôn ra điệu nhạc kích động ong ỏng. Tiếng ồn của máy hát tuy vậy chưa át được tiếng cười khoái chí của bọn phu khuân vác vừa tẩm quất Văn Bình. Văn Bình vốn là người ít chịu nhịn nhục, hồi còn đi học, hễ bị trêu chọc là chàng quyết ăn thua đủ với kẻ dám vuốt râu hùm, lớn lên xông xáo giữa cảnh mũi tên hòn đạn, chàng vẫn tính nào tất ấy. Nếu điệp vụ này không ảnh hưởng mạnh mẽ đến sức khỏe của ông Hoàng, chàng đã vùng dậy, làm cỏ luôn một lượt. Chàng đá lia một vòng là cả đám khổng lồ sẽ đo ván. Nhân tiện chàng sẽ tặng mọi người trong quán cà-phê một bài học nhập môn đau điếng về thói ỷ thế hiếp cô.
Nằm trên núi rác, Văn Bình nhìn vào trong quán. Không ai lưu tâm đến chàng nữa. Chàng rón rén ngồi dậy, khập khà khập khiễng bước qua cái cống đầy nước đen ngòm. Vận chàng còn hên: hồi nãy, bọn họ tống chàng ra xa hơn chút nữa là chàng đã kết duyên với nước cống kinh niên, và chàng sẽ phải ngâm mình hàng tuần dưới sông Seine, thoa tẩm hàng thùng nước cốt hoa hồng mới xua đuổi được mùi hôi bất hủ...
Qua khỏi vùng sáng, Văn Bình thót nhanh vào hẻm tối. Thật ra hẻm không đến nỗi tối lắm, ở trong xa có ánh đèn lấp loáng. Căn cứ vào ánh đèn này, chàng biết là hẻm khá sâu. Chàng đi được 50 mét thì ở bên phải có một khung cửa lớn và cái cầu thang xi-măng với những bức tường và bực cấp bám mồ hôi, đờm rãi và đất bẩn.
Chàng rẽ vào song chưa vội đặt chân lên cầu thang. Chàng núp sau cửa trong tư thế nghe ngóng, chờ đợi. Mấy phút sau, chàng biết chắc là tình hình còn an toàn, chàng mới trèo ba bực một lên tầng trên. Đúng đây là nhà bỏ hoang vì gạch lót nền đã bong ra từng mảng, những cửa sổ còn dính tòng teng vào bản lề hoặc rớt xuống đất để lộ những khung chữ nhật đen ngòm thoang thoảng mùi mốc.
Tuy vậy, Văn Bình lại gia tăng thận trọng. Giới đi ngang về tắt thường lợi dụng những tòa nhà lớn không người ở vào mục đích nghề nghiệp. Làm nơi hò hẹn, nơi tra khảo hoặc giam giữ tạm thời thì tuyệt.
Lầu nhất không có ai. Ngoại trừ những con vật quen sống trong bóng tối. Ánh đèn nê-ông và tiếng ồn điếc tai đã loãng hẳn khi chàng lên đến lầu ba. Lầu tư dường như cách biệt với cuộc sống rồn rập phía dưới. Tầng này gồm một giãy phòng dài, phía trước có hàng hiên rộng và lan can sắt. Căn phòng chàng thấy tia sáng hồi nãy tọa lạc ở mặt đường bên kia. Văn Bình nép sát tường, toan đi men đến căn phòng có ánh đèn song vội khựng lại. Nhiều dấu hỏi quay cuồng trong óc chàng. Nếu là nhà bỏ hoang, tại sao có ánh đèn ? Có thể địch thắp đèn làm mồi để nhử chàng tới...
Nghĩ vậy, chàng bèn đẩy một cánh cửa, đỡ nhẹ cho nó khỏi đổ xuống, lọt vào bên trong, ráp cánh cửa lại như cũ, rồi lần mò ra bao lơn phía sau. Chàng đoán không sai, sau binh-đinh không có hàng hiên ăn thông phòng này với phòng khác mà chỉ có dãy ban-công nhỏ xíu của mỗi phòng. Những cái ban-công này ở cách nhau quá xa, chàng không hy vọng nhảy đến nơi, nhưng chàng không lấy làm lo ngại vì chàng vừa nhìn thấy những ống nước và ống máng chằng chịt.
Chàng hít một hơi thật dài, tống xuất thán khí đang đè ép tim phổi, đoạn bám lấy ống máng gần nhất. Như con sóc đu cành cây trong rừng thẳm, chàng chuyền tay thoăn thoắt từ ống này sang ống khác. Giây phút này, địch mai phục một tay súng trong hẻm thì chắc chắn chàng bị trúng đạn. Dầu không nhằm chỗ hiểm chàng cũng rớt xuống. Trời ơi, từ trên cao hơn 10 mét rớt xuống chàng khó tránh được thương tích trầm trọng....
Trong chớp mắt, chàng đã vượt được nửa đường. Chỉ còn 3 mét nữa là đến ban-công kế cận. Hai cánh tay của chàng như tăng thêm cường lực, chàng di chuyển bằng cánh tay mà lanh lẹ và dễ dàng như di chuyển bằng chân.
Nhưng... rắc một tiếng khô khan... điều chàng không ngờ tới đã xảy ra. Xảy ra giữa lúc chàng sắp đạt tới đích...
Ống nước bằng chì trở nên ròn tan như cái bánh tráng, nó kêu rắc một tiếng là đứt phăng ra, nó không hề báo hiệu cho chàng phòng bị trước. Một tay của Văn Bình chơi vơi trong khoảng không, song chàng chưa bị nguy hiểm vì đang còn tay kia bám chặt ống nước. Chàng xoay người nửa vòng và rướn lên, chộp lấy một ống khác, cách chàng độ hai mét.
Họa vô đơn chí... chàng bắt được ống nước này thì ống nọ bị gãy, cũng nghe tiếng rắc khô khan. Rồi hết. Mồ hôi lạnh toát đầm đìa. Chàng nín thở cho thân thể nhẹ bớt, mắt đảo chung quanh tìm một ống chì khác.
Rắc.... lại một tiếng rắc khô khan nữa, tiếng rắc khô khan thứ ba. Và ống chì thứ ba bị gẫy. Điểm tựa cuối cùng của Văn Bình đã bị gẫy. Tiếng rắc bi thảm nổi lên thì Văn Bình ngã nhào xuống.
Nhiều công nhân xây cất làm việc trên gióng cao thỉnh thoảng bị xẩy chân là thiệt mạng. Nhưng Văn Bình không chết, một phần vì số chàng còn đỏ, phần khác vì chàng là cao thủ trong võ lâm, chàng chỉ rơi từ lầu tư xuống lầu ba là bàn chân của chàng đã quặp được một máng xối bằng sành khá kiên cố.
Thân thể chàng mệt đừ. Trận đòn lãng nhách của bọn phu khuân vác giờ đây mới ngấm. Chàng muốn quặp cả hai chân cho vững song gân cốt đã rời rả, chàng đành treo lủng lẳng vào ống máng, chân bên trên đầu ở dưới, dốc ngược như nạn nhân bị treo lên để tra tấn.
Mắt chàng đối diện với một vòm trời lác đác tinh tú. Đằng Đông, một ngôi sao lấp lánh. Đằng Đông là quê hương thân yêu, với những hình bóng thân yêu. Những đêm dạo chơi ở xa thành thị đông đúc, chàng có thói quan nằm dài trên nệm cỏ hoặc bãi cát để nhìn trời. Tuy không phải là nhà thiên văn, chàng lại thích quan sát các vì sao. Mỗi lần chàng tự phụ, chàng nhìn trời là hết dám. Một vị lão sư dậy môn luyện nguyên khí cho chàng đã dặn chàng như vậy. Giải thiên hạ gồm khoảng hai trăm ngàn triệu vì sao, trong số đó loài người mới đếm được một triệu, mắt trần cũng mới nhìn thấy sáu ngàn, nên khi nhìn trời, những kẻ bách chiến bách thắng như chàng cũng cảm thấy quá nhỏ bé và quá tầm thường.
Đột nhiên ở đằng đông, chòm sao sáng nhất lóe lên như bốc lửa. Rồi ánh lửa phụt lên. Như thể ánh lửa của hỏa tiễn khi rời giàn phóng. Ánh lửa sáng dần, lớn dần và sau cùng bay xẹt vào không gian bao la. Đó là sao chổi. Văn Bình vừa nhìn thấy sao chổi. Không phải là lần đầu chàng gặp sao chổi trong đêm, vì hàng năm có chừng 9 tỉ sao chổi lớn nhỏ đủ cở và người thành thạo có thể đếm được trung bình mỗi giờ chừng 10 sao chổi trong phạm vi con mắt có thể nhìn thấy.
Ngôi sao chổi vừa tan biến trong bầu trời tối làm Văn Bình liên tưởng đến ông Hoàng. Sau nhiều năm chói sáng, đời ông sắp sửa tắt. Chuyến đi của chàng tới Ba Lê sẽ ảnh hưởng phần lớn đến tính mạng của ông tổng giám đốc. Chàng đang mệt đừ bổng phục hồi được sinh lực và như thể được chắp cánh, chàng chỉ rướn nhẹ là níu được một ống máng khác, trước khi buông thả hai chân xuống như cũ. Và một phút đồng hồ sau, chàng đã trèo lọt vào ban- công một phòng ở lầu ba.
Chàng xoa nắn lại các bắp thịt, vươn vai hít đầy dưỡng khí tốt lành rồi từ lầu ba thoăn thoắt chuyền ống máng lên lầu tư. Vụ hụt chết vừa qua đã giúp thêm kinh nghiệm nên chàng di chuyển có vẻ dễ dàng và nhanh nhẹn hơn.
Chàng đột nhập một căn phòng trống trơn, định thần nghe ngóng một lát. Tứ phía không có âm thanh nào khả nghi,Văn Bình bèn men ra hành lang. Ánh đèn yếu ớt của căn phòng gần cuối lọt qua kẽ hở cửa sổ chiếu ra ngoài những vết mỏng song hàng. Chàng khom lưng, núp dưới cửa sổ. Mắt chàng đã quen với bóng tối. Chàng biết chắc là ngoài chàng ra, không có ai mai phục ở hành lang. Tai của chàng rất thính, nếu trong gian phòng thắp đèn có người, tất chàng phải nghe tiếng hơi thở.
Vậy chú Sáu ở đâu ? Đối phương ở đâu?
Sợ lầm, chàng lắng nghe lần nữa. Chàng chỉ nghe được tiếng động của khu chợ bên dưới vẳng lên. Kỳ dư không có tiếng động nào khác. Thậm chí những tiếng động thật nhỏ do thạch sùng rớt từ trần nhà xuống đất gây ra cũng lọt vào tai chàng. Lẽ nào chàng không nghe được tiếng người thở.
Không trù trừ nữa, chàng đạp tung cửa.
Cũng như ở tầng dưới, cửa gỗ đã mục. Hai cái bản lề rỉ sét bị văng ra ngoài, cánh cửa rớt xuống theo. Bên trong là căn phòng trống trơn. Trống trơn như mọi căn phòng trong cao ốc bỏ hoang này.
Trong phòng chỉ có một ngọn đèn duy nhất treo tòng teng ở đầu sợi dây điện ám khói đen sì. Ngọn đèn không có chao, bóng điện chỉ được 25 nến là cùng.
Tuy vậy Văn Bình vẫn nhìn thấy rõ ràng như thể hàng chục đèn pha i-ốt cùng được mở sáng một lượt. Chàng đứng chôn chân trên ngưỡng cửa, cổ họng bất thần bị chặn nghẹn. Chàng không hề bị chém atêmi vào cổ họng, nguyên nhân khiến chàng nghẹt thở là một người đàn ông nằm sóng sượt ở giữa nhà.
Nạn nhân ngoảnh mặt về phía chàng, hai mắt nhắm nghiền. Đặc điểm của nạn nhân là bộ râu xồm xoàm. Hắn là người Á-Đông mà râu ria xồm xoàm hơn người phương Tây.
Tim Văn Bình đau nhói. Mọi hy vọng vừa nhú lên đã sụp đổ tan tành. Vì người đàn ông đang nằm trên đất là chú Sáu. Chàng tìm chú Sáu để phá màn bí mật. Nhưng chú Sáu đã chết. Màn bí mật càng dày thêm bí mật.
Chú thích:
1. Rue des innocents.
2. Món bao tử bung này gọi là tripes à la mode de Caen. z.28 xin làm quảng cáo không công cho nghệ thuật ẩm thực của Pháp, cũng như đã làm quảng cáo không công cho Trung Hoa trong "Gián điệp Hoa Quỳnh", cho Nam Mỹ trong "Người đẹp Qui-tô", cho Đông-Âu trong "Điệp vụ Săn người", vân vân...
Phản ứng đầu tiên của Văn Bình sau khi nhìn thấy xác chết là phi thân như chớp xẹt vào góc phòng. Đồng thời, chàng ngồi thụp xuống, cơ thể tỉnh táo và sẵn sàng, trừ phi địch núp ngoài ban-công phía sau để bắn lén, chàng có nhiều hy vọng ngăn chặn mọi cuộc tấn công của kẻ địch.
Tuy nhiên, chàng đã thận trọng không cần thiết. Một phút, hai phút, năm phút trôi qua, địch vẫn không xuất đầu lộ diện. Chàng vẫn nghe rõ những âm thanh quen thuộc của chợ đêm. Chú Sáu vẫn nằm tênh hênh. Trên mình và chung quanh chú Sáu không hề thấy một giọt máu. Cũng không hề thấy thương tích. Áo quần nạn nhân vẫn nguyên vẹn, nền nhà bám đầy đất bụi, vậy mà ngực sơ-mi của chú Sáu vẫn trắng tinh như mới mang ở thợ ủi về, chi tiết này chứng tỏ chú Sáu bị giết một cách êm thắm, không mảy may kháng cự.
Văn Bình rờ da nạn nhân, vẩn còn cảm thấy nong nóng. Nghĩa là chú Sáu mới bị giết. Bị giết trước khi chàng đột nhập cao ốc bỏ hoang. Tuy am tường bí quyết kuatsu của nhu đạo, chàng không nghĩ đến việc hồi sinh cho nạn nhân vì nhận thấy vô ích. Hung thủ đã xử dụng một atêmi độc hiểm, đánh ngay vào tâm huyệt. Giờ đây, mổ ngực, lấy trái tim ra xoa bóp và chích thuốc cho khỏe cũng chưa chắc nạn nhân sống lại, huống hồ phép kuatsu. Chàng đành thở dài kéo hai bàn tay của chú Sáu đặt trên bụng.
Địch là ai, chàng chưa biết, song địch quả là những kẻ có bản lãnh nghê gớm. Chàng sửa soạn gặp ai thì địch giết chết người ấy. Rõ ràng là địch quyết tâm cắt đứt những sợi dây cuối cùng nối chàng với nhà bác học di truyền Tô Lan...
Đang suy nghĩ, Văn Bình bỗng chồm dậy như bị ma đuổi, chàng vọt ra hành lang, quên cả giữ gìn, chạy băng băng xuống cầu thang bê-tông. Chàng không cần thận trọng nữa vì cuộc đua với cây kim đồng hồ đã đến hồi kết cuộc. Nếu địch giết chú Sáu, địch sẽ giết luôn Lệ Liên. Địch có thể gồm một hay nhiều tên, nhưng chàng có cảm tưởng là tên chỉ huy đã có mặt tại biệt thự của Bửu Khoa, và có mặt tại cao ốc trong khu Chợ. Tên chỉ huy không thể vắng mặt tại nhà Lệ Liên. May ra chàng có hy vọng đến trước. Hoặc đến sau, song có hy vọng cứu được nàng...
Ngày thường, chàng chỉ nhảy ba bậc thang để luyện cặp giò được dẻo. Đêm ấy, cầu thang từ lầu nọ xuống lầu kia gồm chừng 30 bậc mà Văn Bình chỉ nhảy 2 đến 3 lần. Chàng nhảy hết sức nhẹ nhàng nhưng cũng gây ra tiếng động lớn. Dân nhậu trong quán cà-phê ở ngã ba đường cũng nghe tiếng mặc dầu nhạc kích động tiếp tục kêu vang. Văn Bình không quan tâm gì đến ai nữa. Chàng phóng ra khỏi hẻm. Chàng húc vào một gã khổng lồ đang còng lưng vác trên vai cái bao nặng khoảng 1 tạ. Có lẽ bao này đựng bột mì. Dân vác bột mì trong Chợ Ba Lê cũng khỏe không kém dân vác thịt. Gã khổng lồ cúi lom khom, nửa mặt bị che khuất sau vuông vải lớn - vuông vải phu khuân vác thường lót trên vai - nên hắn không thể thấy chàng. Lẽ ra chàng phải thấy hắn. Thân thể hắn to lớn như bồ sứt cạp, đèn nê-ông lại chiếu sáng không kém sân khấu thoát y vũ. Nhưng trong cơn vội vã, chàng chẳng thấy ai. Gã khổng lồ bị cùi trỏ chàng thúc giữa mặt. Hắn rú một tiếng đau đớn rồi khuỵu xuống, bao bột đè chặn lên người.
Họa vô đơn chí... một đoàn cam-nhông vừa chở bột đến giao cho các lò bánh trong Chợ, nên phu khuân vác cũng làm việc hàng đoàn. Họ đi sát nhau, người nọ cách người kia một quãng ngắn, Văn Bình xô ngã tên dẫn đầu thế tất những tên đi sau sẽ đâm phải chàng. Bình bình... huỵch huỵch... việc phải xảy ra đã xảy ra, các bao bột rơi rớt xuống đường, bắn vãi tung tóe, bọn phu té ngã dính chùm. Gã phu thứ nhì vạm vỡ gấp rưởi chàng, hắn cân được 120, 130 kí là ít, trông hắn như King Kong trên màn ảnh, tuy vậy hắn vẫn bị đo đất dễ dàng vì xương thịt chàng rắn hơn, chàng lại đang chạy nhanh có trớn.
Bọn phu chửi rủa om sòm, một tên thập áo chàng toan làm dữ. Chàng vung tay đẩy hắn ra, những cánh tay lực lưỡng khác lại ào tới. Chàng đành xoay tròn một vòng, giải quyết chiến trận bằng cước pháp, đồng thời mở lối thoát thân qua đám đông hung hãn.
Bọn phu gồm chừng hai chục tên. Một phần ba gặp nạn, bưu đầu sứt trán, số còn lại khệnh khạng đặt bao bột trên vai xuống đất, tiến đến hỏi tội chàng. Họ tuy đông và khỏe, chàng cũng không nao núng, chàng chỉ sợ kéo dài thời giờ tính mạng của Lệ Liên sẽ lâm nguy. Nhưng trong khoảnh khắc, họ đã vây kín chàng. Từ nãy đến giờ, chàng chỉ hạ đòn nhẹ, với mục đích đánh ngã để đào tẩu. Giờ đây chàng không thể tiếp tục niệm tình được nữa.
Chàng đạp chân vào đống bao bột, dùng làm bàn nhúng để vọt lên cao, hai chân đá nhàu những cái đầu lố nhố, miệng chàng thét tiếng kai trời long đất lở. Tiếng thét võ sĩ đạo không thôi cũng đủ làm đám giặc cỏ hồn phi phách tán, huống hồ Văn Bình còn tung ra những ngọn đá tréo cực hiểm.
Ba, bốn tên phu khuân bột bị thương nơi mặt, vòng vây trùng trùng điệp điệp đột nhiên giãn rộng, và Văn Bình, không bỏ lỡ cơ hội bằng vàng, đã dẫm qua những khối thịt kếch sù vừa ngã để tông như bay vào hẻm. Khu Chợ chật chội và đông đúc đã trở thành đồng minh thân mến của điệp viên z.28. Hẻm này ăn thông với hẻm kia, ngang dọc nhằng nhịt như trong mê hồn trận. Chàng không thuộc đường, hễ thấy nơi nào không có ánh đèn là xông đại vào, bọn phu khuân bột rượt theo rần rần song không bám sát được chàng.
Và chỉ mấy phút sau, chàng đã thoát khỏi cuộc săn đuổi. Đại lộ đầy ánh đèn hiện ra trước mặt. Trời bắt đầu khuya nên xe cộ chỉ còn thưa thớt, khách bộ hành còn thưa thớt hơn. Đời sống của khu Chợ trung ương khác hẳn đời sống của thành phố.
Chàng bước rảo qua đường nhựa láng bóng, quẹo vào đường một chiều rồi nhô ra một đại lộ khác, ở đây, xe cộ và khách bộ hành gần như vắng bóng. Kinh đô ánh sáng đã đi ngủ.
Một chiếc xe buýt nặng nề lăn bánh qua. Trên hông xe chàng đọc thấy con số 130 to tượng. 13 là số xấu của thiên hạ, song lại là số tốt đối với chàng. Song, điều làm chàng quan tâm không phải số xấu, số tốt, mà là con số trên 100. Thành phố Ba Lê có chừng năm chục lộ trình xe buýt, chạy từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây, và xe buýt được chia làm hai loại, loại chạy trong thành phố được đánh số dưới 100, từ 101 trở đi là loại xe dành cho ngoại ô.
Chiếc xe buýt vừa nghênh ngang chạy qua mặt chàng là buýt ngoại ô. Dân Ba Lê thức khuya song xe buýt chẳng hiểu sao lại nghỉ sớm. 7 giờ sáng bảnh mới bắt đầu, mới hơn 9 giờ tối đã ngừng, chỉ trừ một số lộ trình ngoại ô là tiếp tục đến nửa đêm hoặc muộn hơn.
Vô tình chiếc buýt đeo số 130 vừa nhắc khéo Văn Bình là giờ hẹn với Tô Lan không còn bao lâu nữa. Nghĩa là chỉ còn vẻn vẹn 7, 8 tiếng đồng hồ.
Ngự xe buýt là cái thú vuị của du khách mới đến Ba Lê lần đầu. Nó chậm hơn xe điện ngầm nhiều, nhưng du khách lại có hoàn cảnh nhìn ngắm thỏa thích. Giá vé lại hợp với mọi túi tiền, mỗi cuốn vé gồm 20 tấm, mua cả cuốn vừa rẻ vừa tiện. Văn Bình quen xài những số tiền mang 6, 7 con số dê-rô phía sau, tiền chung hoang phí đã đành, tiền riêng cũng không hề kẹo, tuy vậy, ít khi chàng chịu xuất 0,25 quan mua tấm vé hoặc 3,70 mua cả cuốn, mặc dầu mỗi lần ghé qua kinh đô ánh sáng chàng đều dành hàng nữa ngày để ngao du trên xe buýt.
Thói quen không mua vé của Văn Bình là hậu quả của một cuộc gặp gỡ đầy nườc mắt trên xe buýt. Chàng ngẫu nhiên nhường chỗ cho nàng trên một chuyến xe đông như cá mòi đóng hộp, rồi hai người tâm tình với nhau. Nàng là thư ký trong phái bộ thương mại Anbani. Quốc gia Cộng sản gồm 2 triệu dân ở Nam-Âu này sống giựt lùi trong thời tiền chiến giữa những năm tiến bộ vượt bực của hậu bán thế kỷ 20 nên nàng hoàn toàn ngơ ngác khi đến Ba Lê. Tại Anbani, tư nhân không được phép sắm xe hơi riêng, sự di chuyển hoàn bằng xe đạp nhập cảng từ Hoa Lục hoặc bằng mấy đường xe buýt lèo tèo. Do đó, xe buýt Ba Lê đối với nàng là xa xí phẩm.
Nàng tôn trọng triệt để luật lệ đi xe, khi lên xe, nàng trình vé để bấm lỗ đàng hoàng, muốn xe đậu nàng vẫy tay hoặc kéo chuông đàng hoàng, lúc lên xe nàng còn lấy số - những số thứ tự in trên giấy do máy tự động phát ở các trạm chính - để tránh cảnh chen lấn. Chàng hỏi tại sao nàng lại ham mê xe buýt, ham mê trật tự trên xe buýt như vậy thì nàng đáp :
- Anh phải là công dân Anbani mới biết được giá trị của xe buýt.
Nàng nói đúng. Phải là công dân Anbani mới nhận chân được giá trị của nếp sống tự do... Nàng yêu chàng, chỉ sau một cuộc gặp gỡ tình cờ. Rồi nàng theo chàng trốn khỏi văn phòng của phái đoàn thương mãi. Chàng sửa soạn đưa nàng về Sàigòn. Thì tai biến xảy ra...
Trước giờ từ giả Ba Lê, nàng đòi được đi xe buýt và chọn chiếc xe buýt mà hai người quen nhau. Nàng vẩy xe đậu lại, trèo lên trình vé. Bấm vé. Kéo chuông. Xe ngừng. Nàng khoác vai chàng xuống. Xe vừa chạy khuất thì nàng té xỉu...
Văn Bình chở ngay nàng vào bệnh viện. Nhưng nàng đã tắt thở dọc đường. Luật y khám nghiệm ruột gan nàng cho biết nàng bị đầu độc bằng một hóa chất cực mạnh ngấm qua lỗ chân lông ngoài da làm thần kinh hệ bị tệ liệt và trái tim ngừng đập. Chàng mở cuộc điều tra và khám phá ra gã xét vé xe buýt là nhân viên đặc vụ Anbani. Hắn trao cho nàng những cuốn vé tẩm thuốc độc. Chàng đã giết hắn và thượng cấp của hắn để trả thù cho nàng. Nhưng từ đó trở đi, chàng đâm ra sợ mua vé xe buýt ở Ba Lê...
Như thể người đẹp bạc mạng năm xưa hiện ra trước mắt, nụ cười buồn làm cỏ cây trong thành phố một đêm cuối thu phải chảy nước mắt. Văn Bình nhảy đu lên xe buýt. Chạy được một quãng ngắn, chàng lẹ làng thót xuống. Chân chàng chấm đất mặc dầu xe buýt đang phóng nhanh trên một đoạn đường rộng rãi và tối vắng.
Chàng kêu tắc-xi, dặn lái qua sông Seine, sang bờ tả ngạn. Một lần nữa, chàng lại qua tòa án và nha cảnh sát. Rồi qua khu la-tinh, khu của sinh viên. Rồi đền thờ Danh Nhân, không hiểu sao lòng chàng thắt lại. Hồi chiều, Lệ Liên đã dẫn chàng qua tòa án, nha cảnh sát, khu la-tinh và đền thờ Danh Nhân...
Chàng nghĩ đến Lệ Liên. Nàng thuê một căn phòng ấm cúng gần vườn Lục-xâm-bảo. Tắc-xi chạy vòng đền Danh Nhân đến đường Soufflot. Một loáng sau, đến đại lộ Thánh Michel. Đối diện ngã ba này là công viên Lục-xâm-bảo, công viên nồi tiếng đẹp nhất Ba Lê, và cũng là được nhiều trai thanh, gái lịch dạo chơi nhất. Nhưng Văn Bình không có thời giờ tơ tưởng đến những bóng hồng tha thướt trong đêm, chàng phải giục tắc-xi rẽ về phía tòa lâu đài cổ kính của công viên hiện là trụ sở Thượng Viện. Căn phòng của Lệ Liên nằm trong một chung cư dọc theo con đường dẫn đến Thượng Viện.
Chàng tìm địa chỉ của nàng không mấy khó khăn. Chàng mặc cho tài-xế lái qua chung cư. Sau khi nhận được số nhà, chàng ra lệnh quẹo trái rồi đậu cách đó 200 thước. Chàng giả vờ đốt thuốc để quan sát. Trời không còn sớm nữa nên trên con đường nhỏ tranh tối tranh sáng này chẳng có ai. Chỉ có chàng là khách chơi đêm độc nhất. Trong bầu không khí thanh tịnh đêm khuya, mùi thuốc Salem bỗng thơm lừng như được trộn ma túy.
Văn Bình bước lộn lại ngã tư mà chàng ra lệnh tài xế tắc-xi quẹo trái trước đó mấy phút. Xe hơi đậu thành hai hàng dài trên vỉa hè. Binh-đinh của Lệ Liên thuộc loại trung lưu, tuy mới xây cất nhưng không có bộ mặt lộng lẫy. Nó vuông vức như cái hộp, các căn phòng cũng vuông vức chỉ trừ ô cửa gắn kiếng. Tường quét vôi trắng, cửa sơn xanh đậm. Tầng trệt không có cửa, mà có một hành lang rộng, một bên là phòng người gác dan, bên kia là lối dẫn xuống hầm được dùng làm ga-ra chứa xe hơi, khoảng giữa dành cho một cầu thang xi-măng rộng thênh thang, nằm ngang trên bực cũng còn dư chỗ và hai thang máy.
Chàng giơ tay vẫy chào gã đàn ông trung niên ngậm ống tẩu đang ngủ gà ngủ gật sau bàn. Gã là gác dan. Có lẽ gã đang say rượu, mi mắt dính bết vào nhau nên gã không buồn chào lại Văn Bình. Rút kinh nghiệm, chàng không bấm nút cầu thang máy. Trong khi chờ đợi thang máy hạ xuống, chàng có thể bị địch bắt gặp. Chàng đặt chân lên bậc bê-tông, lòng thầm mong gã gác dan tiếp tục ngủ gà ngủ gật. Song hắn đã mở bét mắt y như có phép quỷ thuật và đứng phắt dậy, rút cái píp to tổ bố khỏi miệng cá ngao :
- Ê, ông bạn kiếm ai?
Gần nửa đêm, đột nhập một binh-đinh lạ hoắc với bộ mặt lạ hoắc thì bị gọi giật chỉ là chuyện dĩ nhiên. Chành đành nhún vai, đáp giọng thân mật:
- Có hẹn.
Gã gác dan tiến lại, bàn tay kếch xù, ngón vuông, buông thỏng bên hông :
- Hẹn với ai ?
Văn Bình nhún vai lần nữa
- Phòng số 384.
3 là lầu 3. Lệ Liên ngụ ở lầu ba. Phòng số 82. Chàng đinh ninh gã gác dan chỉ hỏi lấy lệ vì mặt mũi chàng không đến nỗi hãm tài khiến hắn có thể nghi ngờ chàng là dân ăn sương chuyên nghiệp lẻn vào cao ốc để khoắn một mẻ. Nhưng gã gác dan cứ chăm chú ngó chàng bằng cặp mắt hoài nghi. Chàng không biết rằng quần áo chàng, tóc chàng bị dính đầy mạng nhện, đất bụi và... bột mì. Một cái màng nhện lớn bang nửa bàn tay nằm chềnh ềnh ngay trên ót chàng. Tóc mai chàng trắng hếu. Tay áo chàng đen sì. Những người thuê phòng trong cao ốc gần vườn Lục- xâm-bảo này đều là công tư chức lương thiện và chững chạc, họ không thể kết bạn với dân phục sức thiếu lương thiện và thiếu chững chạc như chàng.
Gã gác dan trợn mắt:
- Yêu cầu ông ra khỏi đây ngay, nếu không tôi sẽ gọi điện thoại cho cảnh sát.
Chàng cũng trợn mắt đáp lễ :
- Tại sao ?
Gả gác dan chột dạ trước giọng nói chắc nịch và bộ vó rắn rỏi của Văn Bình, vội lùi lại sau bàn :
- Chủ nhà 384 đã đi vắng từ ba tuần nay. Trong phòng không có ai.
Rõ khổ... biết thế chàng khai quách số phòng của Lệ Liên... Và tiện hơn chàng quạt cho gã gác dan một atêmi. Quạt nhẹ thôi. Hắnn ngủ một giấc đến sáng là đủ. Muộn rồi, chàng không thể rềnh ràng thêm nữa. Gã gác dan thoáng gặp tia mắt sáng rực của chàng, bỗng run cầm cập, ống vố đang được hắn nắm vững trong tay tuột rơi xuống đất kêu "cộp" một tiếng khô khan, hai chân hắn hoảng hốt bước lùi sát tường.
Văn Bình quan sát tứ phía. Nếu không thấy ai, chàng sẽ tặng gã gác dan một đòn bất tỉnh. Nhưng chàng khựng người vì nghe tiếng giầy nện lộp cộp, tiếng Pháp líu la líu lô rồi thấy khuôn mặt thận bấm ra sữa Con Chim của gã tài xế tắc-xi vừa lái cho chàng từ khu Chợ đến công viên Lục-xâm-bảo hiện ra trên ngưỡng cửa binh-đinh. Té ra trông mặt bắt hình dong là châm ngôn sai bét...
Gã tài xế mặt thận à một tiếng khoái trá khi nhìn thấy Văn Bình. Hắn chỉ chàng và nói bẻ que không kịp với người đàn ông đi bên "đúng nó đây rồi, đúng nó đây rồi.
Ngày hôm nay là ngày Văn Bình gặp nhiều chuyện bực mình nhất kể từ khi chàng đặt chân xuống kinh đô ánh sáng. Nếu chàng mang lá số tử vi ra nghiên cứu, chắc chắn ngày hôm nay phải là ngày của cô thần, quả tú, thiên không, thiên hình, đà la, địa kiếp, tang môn... nghĩa là tất cả những sao xấu. Hết bị đối phương đón giết, bọn khách trong quán nhậu và đám phu khuân bột đánh đòn hội chợ... giờ đây đến lượt cảnh sát.
Vâng, gã đàn ông bụng bự, đầu hói, thân thể mập thù lu đang ve vẩy cái dùi cui trắng trước mặt chàng là nhân viên cảnh sát. Cảnh sát viên Ba Lê uống nhiều rượu nho và chơi nhiều gái đẹp, cử chỉ của họ chậm rề rề, nên Văn Bình coi họ như pha. Phương chi người cảnh sát vừa dẫn xác tới lại có thùng nước lèo cự phách hơn cả thùng nước lèo nổi danh thế giới của Cút-Sép.
Gã cảnh sát xinh xịch tiến đến, một tay khuỳnh bên hông, tay kia chĩa dùi cui vào mặt chàng, ra lệnh :
- Giấy tờ.
Trong mình, chàng mang đủ giấy tờ tùy thân. Dĩ nhiên, có cả giấy tờ thật và giấy tờ giả. Tuy nhiên, chàng không tin gã cảnh sát sẽ cho chàng ra đi thong thả. Nếu gã cảnh sát chấp thuận, gã gác dan ngậm ống điếu sẽ đòi giải chàng về bót... Thành thử ra... tham thập lục kế dĩ... atêmi vi thượng, chàng không còn lối thoát đẹp đẽ nào khác.
Tên tài xế mặt thận đáng ghét và đáng tội hơn vì hắn đã mỏng môi trình báo với nhân viên công lực, chàng phải trừng trị trước tiên để làm gương. Mai kia, lái xe ban đêm, hắn sẽ không dám nghi ngờ những hành khách quần áo sốc sếch, dính bột trắng, bụi đen và mạng nhện là... đạo chích có môn bài nữa.
Chàng bước tréo từ trái sang phải, cánh tay chặt ngang vai gã tài xế. Chàng phải gượng nhẹ, không dám tấn công yết hầu sợ hắn mạng vong. Chàng chỉ gõ khớp xương quai xanh, nghe rộp khô khan, nạn nhân ngã lộn ngược qua ngưỡng cửa xuống bậc cấp. Gã nhân viên cảnh sát há hốc miệng trước ngón đòn đùa bỡn mà lợi hại của Văn Bình. Có lẽ trong thâm tâm hắn không ngờ được Văn Bình chỉ vươn tay mà gã tài xế đã đo ván.
Gã cảnh sát chỉ há hốc miệng chứ không phản ứng được gì. Thân thể hắn nung núc mỡ, mệnh lệnh phản ứng từ óc xuống tay chân chậm như rùa, nên hắn đứng trân trân, không thốt tiếng nào. Văn Bình khoèo ống quyển, gã tài xế bép xép ngã ngửa thì hắn ngã xấp. Ngã xấp có vẻ đau đớn hơn vì bộ mặt phì nộn và vầng trán hói trơn tru, láng bóng của hắn đã đập xuống đất. Hắn rống như bò bị thọc huyết. Rồi nằm lăn. Bất tỉnh.
Gã gác dan tất tưởi chạy ra cửa sau. Văn Bình đã giang tay chặn lại. Hắn chắp tay, xá lấy xá để :
- Xin lỗi ông anh, ông anh muốn làm gì tùy thích, em không dám kiếm chuyện nữa.
Chàng bóp xương sườn khiến gã gác dan tuột ống điếu lần nữa và kêu ai ái:
- Em lạy ông anh, xin mời ông anh lên lầu 384.
Văn Bình ra lệnh cho hắn mở cửa thang máy. Thiết tưởng binh nhì ngoan ngoãn nghiêm chào ông thống chế cũng chỉ lễ phép đến như hắn là cùng. Hắn rạp mình chờ chỉ thị mới. Chàng kéo hai khối thịt nằm chềnh ềnh trên nền nhà, xô tấp thành một đống trong góc thang máy. Gã gác dan bấm nút trang máy bằng bàn tay run run. Văn Bình quát:
- Cô Lệ Liên về chưa ?
Hắn vội đứng thẳng ro :
- Thưa... cô Lệ Liên ở 382.
- Phải.
- Dạ, em không biết. Hồi nãy có khách lên thăm cô Lệ Liên.
- Khách đã xuống chưa ?
- Thưa... thưa... em đang ngái ngủ nên....
Thang máy ngừng ở lầu ba. Đối với thiên hạ thì gã gác dan ngái ngủ, còn đối với chàng thì hắn lại có cặp mắt sáng như đèn pha xe đua. Vì thái độ bốc đồng khó hiểu của hắn, chàng đã phí mất 5 phút ở tầng dưới, 5 phút là thời gian quá đủ cho địch thi hành kế hoạch đen tối. Văn Bình cáu sườn tát trái cho gã gác dan một cái. Chàng không nặng tay vậy mà nạn nhân cũng quay lơ. Tưởng hắn giả vờ, chàng bồi thêm một cú đá, miệng gia giảm :
- Còn định ăn vạ nữa hả ?
Gã gác dan không hề ăn vạ như chàng tưởng lầm. Cái tác xiếc của chàng đã làm hắn chết giấc.
Cửa thang máy mở êm ru, hành lang dài rộng, trang trí thích hợp với tuồi trẻ. Đối diện thang máy là căn phòng của Lệ Liên chỉ cách một quãng ngắn. Gọi "căn phòng" không đúng, vì nó gồm nhiều phòng khác nhau, phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ, phòng bếp, phòng tắm, người Pháp đặt tên là a-pác-tơ-măn sang trọng trong khu vực Thượng Viện. Chắc nhà bác học di truyền Nguyễn Phước Bửu Khoa chi tiền cho nàng.
Văn Bình liếc thấy cửa phòng 382 mở hé. Mở hé vừa đủ cho ánh sáng bên trong hắt ra hành lang. Chàng mừng rơn như nhà nghèo bắt được của. Chàng còn mừng muốn nhảy câng câng vì chàng vừa nghe tiếng động, tiếng động từ phòng Lệ Liên vọng ra. Tiếng động này chứng tỏ địch đã mò mẫm đến tổ ấm của Lệ Liên và còn lưu lại trong phòng.
Chàng rón rén lại gần.