Bộ Bộ Sinh Liên Tác giả: Nguyệt Quan
-----oo0oo-----
Quyển 16: A Na Ngã Từ Si
Chương 137:Oan Liểu Minh, Tình Nan Khước ( 1+2)
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn: Sưu tầm
Da Luật Hưu Ca đại bại trong trận sơn khẩu Gia Sơn, tàn binh bại tướng hơn vạn người bị bao vây trùng điệp, họ vứt hết cờ trống chủ soái, toàn lực đột phá vòng vây phía tây mà tháo chạy về Đông Bắc, gắng sức trốn đến Bảo Châu.
Lúc này, Dương Kế Nghiệp kẻ chưa hề lộ diện chiến trận đã thống lĩnh binh mã tập kích bất ngờ tại Đường huyện, chiếm lại Đường huyện và chờ đợi tin tức ở đó. Sau khi Lý Hoa Đình và Lưu Đinh Nhượng làm cho Da Luật Hưu Ca đại bại, hắn lập tức cho người đi báo tin. Biết tin Da Luật Hưu Ca thất bại, biết chắc địch sẽ chưa thể chặn đường rút lui của mình, Dương Kế Nghiệp vội xuất binh từ Đường huyện, đột chiến một trận thâu đêm, gần hai ngày trời liều mạng mới cướp được sơn nguyên Đại Mậu từ tay binh thục quân Tống.
Chiếm lĩnh được thành trì này, quân Tống đã hoàn toàn cắt đứt mọi liên lạc của quân Liêu hai phía đông tây ở biên ải Tống Liêu, tiến vào Khắc Tây nhưng lại công Linh Khâu, đánh vào Linh Hổ ở giữa và tấn công cả Dịch Châu phía đông, tất cả đều làm bước tiến vững chắc cho cuộc phản kích này của quân Tống.
Trận chiến này, quân Tống đã thu phục được Đường huyện, Đường Sơn, Vọng Đô và các thành trì quanh Bắc Binh, chém giết tới ba vạn bảy ngàn thủ cấp, chiếm được mấy ngàn đầu ngựa, bắt giữ mười hai danh tướng và hơn ba vạn bại binh quân Liêu, ngoài ra còn thu được vô số khí giáp và binh đao. Cũng giống như trận chiến trên sông Cao Lương, Da Luật Hưu Ca đơn giản chỉ tranh thủ một sai lầm nhỏ của Triệu Quang Nghĩa, thừa cơ đột phá và xé rách quân trận, xoay chuyển cả cục diện từ thế phòng ngự chuyển sang toàn lực phản công, nắm chắc thế chủ động. Dương Hạo cũng vậy, hắn sao có thể bỏ qua cơ hội hiếm có này chứ?
Cuộc tổng phản công của quân Tống thực sự bắt đầu từ lúc tiến đánh ba vạn quân tinh nhuệ của quân Liêu trên sông Tiểu Đường, cuộc phản kích phát động từ đông sang tây, cả trận tuyến đều đồng loạt gương đao. Từ Nhạn Môn quan, Phủ Châu, Chúc Luân Xuyên, thậm chí cả chiến trường đông tuyến cũng nhập vào chiến đấu.
Quân Tống trước giờ vốn công phòng nhất loạt, nổi tiếng về thế phòng ngự chắc chắn. Sau khi binh đoàn của Tây Hạ được thống nhất thành một thể, ngày đầu tiên tham trận đã huy động trận hình toàn quân công tiến. Ngày thứ hai, Dương Duyên Lãng cùng Đồng Vũ dẫn binh phát động tiến công Bảo Châu. Da Luật Hưu Ca từ lúc đánh thắng ở U Châu vẫn chưa bị đại bại thêm lần nào, quân tiên phong của hắn hùng mạnh nên mọi chiến sự đều bình ổn, hắn không khỏi sinh kiêu ngạo đắc thắng, kết quả là chuốc lấy thất bại thảm hại dưới thành Định Châu, rơi vào thế bại trận ảnh hưởng đến cả chiến cuộc. Lúc này, hắn đang rơi vào cảnh cùng đường nguy nan.
Sau khi tháo chạy về Bảo Châu, hắn biết chắc quân Tống sẽ đuổi theo phía sau nêu lập tức bố trí phòng ngự, đồng thời tức tốc truyền lệnh đến quân Liêu các lộ, quyết định chuyển từ tấn công sang giữ thế phòng ngự toàn diện, dốc toàn lực bảo vệ thành trì đã chiếm được. Hắn cũng soạn một tấu thư, phái người phi ngựa nước kiệu đem về U Châu, vừa là để nhận tội vừa để tấu lại tình hình bất ngờ mà quân Tây Hạ hợp binh chiến trận cho thái hậu biết.
Nước Tống nắm trong tay nhiều chiến mã, lại huấn luyện kỵ binh dụng xa như vậy, chỉ có thể giải thích bằng một cách duy nhất, từ một nguồn duy nhất. Da Luật Hưu Ca lúc đầu dẫn binh tới Chúc Luân Xuyên, từng giằng co đấu trận hồi lâu với quân Tây Hạ, hắn hiểu rõ về quân binh Tây Hạ. Cũng từng nghe qua nước Tây Hạ có tới hai đội binh giáp hùng mạnh, đao trận kỳ quái. Lúc này nghĩ lại, hắn cũng không tài nào hiểu nổi, hắn rốt cuộc đã gặp phải thứ quái lạ gì ở sông Tiểu Đường?
Khi hắn biết tin Tây Hạ dụng binh ở Lũng Hữu, tin thám báo mới nhất hắn nhận được lúc đó là Dương Hạo đã xuất binh hướng đến Quan Trung. Trong tình hình này, nước Liêu đã chiếm được phía nam, ngoài việc thất bại ở U Châu hao tổn phần lớn nguyên khí, lại xảy ra hai việc lớn: Triệu Quang Nghĩa đột ngột băng hà, tiểu hoàng đế kế vị, nước Tây Hạ lại giao tranh trực tiếp với Đại Tống, tất cả việc này đều là cho Trung Nguyên rơi vào thế nguy nan, hai bên đều bị địch đánh phá.
Tình thế bây giờ là thế nào vậy? Quân Tây Hạ sao lại hợp binh với quân Tống? Chúng kề vai sát cánh chiến đấu sao? Rốt cuộc Trung Nguyên đã xảy ra việc gì?
Dương Duyên Lãng và Đồng Vũ đã dẫn binh tới chân thành Bảo Châu, không ngừng tiến công mãnh liệt. Sau khi quyết định dọn sạch vòng vây bên ngoài của địch, Đồng Vũ đích thân phô trương thanh thế tiếp tục công thành, còn Dương Duyên Lãng lặng lẽ chỉ huy quân binh rời khỏi Bảo Châu, chuyển sang tấn công các huyện trấn xung quanh vốn đang bị quân Liêu chiếm giữ. Đến đêm, Dương Duyên Lãng chiếm được Toại thành, lấy đây làm doanh cứ, đương nhiên doanh cứ này cũng vây chặn địch, trở thành cái gai trong mắt thành Bảo Châu.
Da Luật Hưu Ca rất muốn nắm rõ sự việc, làm sáng tỏ mọi nghi hoặc, chỉ tiếc rằng thám báo phái đi thăm dò chiến trận không thể dò tra ra việc đại sự gì đã xảy ra phía nội bộ đối phương. Da Luật Hưu Ca đành phải truyền lệnh, phải bắt sống vài tên lính của quân địch. Đồng Vũ đang chỉ huy quân công thành, lại cố tình nới lỏng vòng vây, nên hắn dễ dàng bắt sống vài tên Tống binh. Thế nên, Da Luật Hưu Ca hắn nhanh chóng biết rõ biến sự, hiểu ra rốt cuộc thì Trung Nguyên giờ đã xảy ra chuyện gì?
Đại sự này xảy ra ở Trung Nguyên, nhưng lại hoàn toàn bị che kín bởi vòng vây của đại quân Tây Hạ. Dương Hạo đã chặn kín nguồn tin báo, các tướng lĩnh và thủ quân biên ải nước Tống đều không hay biết gì, cho đến tận bây giờ cũng chưa chắc đã nắm rõ chân tướng sự thể. Nhưng binh quân của Đồng Vũ được điều từ Lũng Hữu đến Quan Trung, lại chuyển quân qua tam quan Biện Lương, ắt hẳn phải nắm rõ sự tình, lúc này hắn thực sự không khỏi kinh hãi.
Nếu Đại Tống và Tây Hạ đã hợp nhất, vậy đâu chỉ binh lực tăng bội phần, khí thế chiến đấu của quân binh hung hăng ngất trời, điều đáng lo ngại là đại quân nước Tống tại Hoàng Sơn vốn đang đấu đầu với Tây Hạ sẽ trở thành quân của nước Tây Hạ, quay ngay đầu lại là công tiến quân Liêu, lúc này chỉ e mười vạn quân Liêu tại Nhạn Môn quan thực sẽ lâm nguy. Da Luật Hưu Ca hắn lập tức có một cảm giác, thế địch quá mạnh không kháng lại được, nếu chỉ dựa vào sức phòng ngự thực không đủ, muốn bảo toàn chiến cuộc, giữ chặt những châu huyện đã chiếm giữ cũng không có khả năng, bây giờ chỉ còn cách duy nhất “chủ động rút quân”, rút về địa phận nước Liêu may ra mới trụ nổi thế trận.
Da Luật Hưu Ca nghĩ vậy liền hạ lệnh toàn quân rút lui, đồng thời ra lệnh cho toàn quân trấn thủ thành tức tốc chuẩn bị, ngày đêm đột phá vòng vây địch.
Đại quân vây thành của Đồng Vũ lại phòng ngự chủ yếu ở bắc thành. Đến đêm, Da Luật Hưu Ca mở cửa tây thành, toàn quân đột ngột xông ra công kích trận địch, tiêu diệt vòng vây trọng yếu, rồi tháo chạy hơn mười dặm chuyển hướng chạy về phía bắc. Cùng ngày đó, Phan Mỹ dẫn quân đuổi đến Bảo Châu nhưng tiếc thay, Da Luật Hưu Ca đã cao chạy xa bay. Bách tính thành Bảo Châu đa số đều được bình yên vô sự, không bị quân binh Da Luật Hưu Ca chém giết giết hại gì.
Việc này đương nhiên là do cuộc nam tiến của quân Liêu lần này chỉ đánh nhằm chiếm lĩnh lãnh thổ nước Tống, nên không giết hại bách tính địa phương, cũng là do cách dụng binh của Da Luật Hưu Ca, không cho phép bất cứ quân binh nào làm hại hà hiếp bách tính thường dân.
Hắn thực là một vị anh hùng quang minh lỗi lạc, nhưng vì lợi ích quốc gia đôi bên mà trở thành đối địch, thật đáng tiếc là không có duyên tương hữu.
Dương Hạo nghe tin đó cũng lấy làm tiếc, hắn tiếc một vị anh tài dũng tướng như vậy lại về phe đối địch mình, nhưng chỉ là tiếc nuối trong giây lát, bởi hắn có cả đại sự đang chờ đợi, chiến trận là phải công đánh toàn diện. Tuy phía Chúc Luân Xuyên, Phủ Châu và Nhạn Môn quan đã giành thắng lợi nhưng cũng không được thâm nhập trận địch quá sâu. Nhiệm vụ của họ chỉ là phô trương thanh thế, kìm chế binh mã Nam Viên của nước Liêu, Dương Hạo thực chất muốn tấn công chủ yếu... là vào phía Đông Bắc.
*
* *
Tại dãy Kỳ Liên Sơn, núi non trùng điệp phủ đầy tuyết trắng, nay đang là trận tuyết khai mùa đầu tiên, tuyết rơi nặng hạt vô cùng.
Chỉ trong một đêm, tuyết trắng tích đầy mặt đất, phủ kín khắp nơi, gió bắc gào thét hất tung mù mịt bụi tuyết, cứ thế nhằm vào cổ hay những chỗ hở ra của thân người mà luồn vào, cái lạnh len lỏi cắt đa cắt thịt. Trong hoàn cảnh như vậy, mọi dấu vết trên mặt đất đều bị thổi bay hết, muốn truy đuổi một đám người chỉ có mười mấy đầu binh như vậy thực không khác nào mò kim đáy bể, nhưng A Cổ Lệ không buông tay, trong lòng nàng giờ đây đang ngụt cháy uất hận.
Nàng mặc một chiến bào nam nhân, áo khoác màu trắng cùng với quần trắng, bên ngoài lại khoác thêm tấm choàng lông dày dặn, trên đầu đội mũ da kín mít, lưng thắt loan đao, duy chỉ lộ ra một đôi mắt to tròn vẫn đang vương đầy bụi tuyết.
Thúc ngựa đi tới một sườn núi, nơi này tuyết rơi không nhiều, A Cổ Lệ phi ngựa lên trước đăm chiêu nhìn cánh đồng tuyết trước mặt, cánh đồng trắng mịt mờ, che phủ cả bãi cỏ lẫn sông ngòi xung quanh, tất cả đều trắng xóa, trải dài xa tít.
Phía sau nàng là đội kỵ binh gần nghìn người, họ đều được tư trang những choàng giáp mũ áo bằng lông dày dặn. Tuy nhìn qua có vẻ rời rạc nhưng thực chất lại ẩn dấu huyền cơ, hành động cực kỳ nhanh nhẹn, họ có thể tùy biến mà hợp nhất tổ hợp ba binh thành một cùng phối hợp chiến đấu, triển khai phương cách phòng ngự.
Phía xa, một chấm người màu đen đang lao đến, rồi lại gần, càng lại gần hơn, nhìn kỹ hơn đó là một binh một ngựa.
Kỵ binh lập tức phi ngựa vụt lên trước, chạy vội lên sườn núi bao bọc lấy phía trước A Cổ Lệ, hung dữ mà quất dây cương, mãnh ngựa cứ thế trường hí húc móng ngựa đến mức văng mảng tuyết khắp nơi. Gió cứ thổi, vút qua làm lay động cả tấm lông mũ trên đầu A Cổ Lệ, tấm thân nàng lại giống như một bức bạch ngọc chắc chắn, đứng vững tại đó, không hề nhúc nhích.
“Báo, thuộc hạ đã dò xét được, Dạ Lạc Hột dẫn đi hơn hai mươi kỵ binh, giờ đã chạy thoát tới bộ lạc Lộc Ngưu”.
A Cổ Lệ nhíu mày: “Bộ lạc Lộc Ngưu? Lẽ nào bộ tộc đó không biết mệnh lệnh của ta sao? Bất cứ bộ lạc nào dám thu nhận tên Dạ Lạc Hột, giết không tha!”.
“Bẩm, biết... Họ đều biết, nhưng thủ lĩnh của bộ lạc Lộc Ngưu là Thiết Ma Kha vốn kết nghĩa huynh đệ với Dạ Lạc Hột, cho nên...”.
A Cổ Lệ cười nhạt một tiếng: “Kết nghĩa huynh đệ ư? Chẳng qua chỉ là kẻ ngu ngốc bị hắn lợi dụng mà thôi!”.
Nàng thúc mạnh cương ngựa, lớn tiếng quát: “Tiến lên, đột kích tộc Lộc Ngưu cho ta!”.
Lúc này tại bộ lạc Lộc Ngưu, Dạ Lạc Hột đang yên lòng ung dung uống rượu dùng tiệc cùng với Thiết Ma Kha, vừa luận tình huynh đệ tri ân lại đàm chuyện mưu đồ Đông Sơn tái khởi, lúc ấy sẽ dựng hẳn một lâu các địa thế tốt, chỉ để bố trí chiêm trướng cho người anh em Thiết Ma Kha. Dạ Lạc Hột thực đang lấy lòng Thiết Ma Kha, bây giờ chí khí hùng tướng bất bại của hắn thực sự chẳng còn gì, mệt mỏi đến nỗi lăn ra đệm lông sói mà say giấc.
Bên trong chiêm trướng bày biện đơn sơ, điều kiện sống của bộ lạc Lộc Ngưu cũng không mấy tốt đẹp nhưng trong trướng cũng rất ấm áp, đám lửa cháy hâm nóng cả gian trướng, đến lúc đám lửa tàn hơi cũng vẫn còn chút than hồng đỏ rực chiếu rọi cả trướng, mọi người đều đã ngủ say giấc.
Đã bại lại bại thêm, rút lui lại phải lui thêm nữa, bây giờ còn có thể trốn chạy về đâu đây? Rốt cuộc vẫn không dựa vào La Đan được, binh mã của Dương Hạo vừa đến, La Đan hắn lập tức đầu hàng lại còn lén đâm sau lưng mình một đao. Cũng may lão tướng hắn đây trước giờ vẫn đề phòng bất trắc, không dám quá tín nhiệm kẻ nào, tuy diệt quân binh hắn đến mức thảm bại nhưng cũng chưa lấy được mạng hắn. Sau đó, hắn lại tiếp tục thất bại, binh mã trong tay càng ngày càng ít, chỉ còn nước trốn đến Tây Tạng.
Dựa vào sự am hiểu của hắn quanh vùng hồ Thanh Hải trong hai năm qua, hắn liền mau chóng trốn thoát khỏi sự truy giết của ả A Cổ Lệ điên cuồng kia. Nhưng người phụ nữ đó lại ban lệnh khắp nơi: các tộc quanh vùng hồ Thanh Hải như tộc Hồi Hột, Thổ Phồn... Kẻ nào dám thu nhận hắn, tức đồng tội với hắn, giết không tha cả tộc. Thế là trong chốc lát, từ một đại hãn Hồi Hột cao quý, hắn trở thành thân phận đáng khinh: thân con chuột chui lủi đến đâu cũng bị người người đánh chửi.
Hắn cũng không hoàn toàn tin tưởng Thiết Ma Kha nhưng nếu không nhờ vả Thiết Ma Kha, đám quân hai mươi mấy đầu binh không lương thiếu ấm này của hắn sẽ phải bỏ xác nơi tuyết lạnh. Lúc này, hắn đã sắp xếp hơn hai mươi thân tín người của hắn canh phòng quanh trướng. Hắn nằm trong chăm ấm nhưng vẫn thầm nghĩ kế tháo chạy: “Nơi đây cũng không hề an toàn, ngày mai phải lập tức lên đường, cứ lấy chút lương thực rượu thịt từ Thiết Ma Kha rồi lên đường hành tây, xem ả nha đầu thối kia có đám truy đuổi đến nước Cao Xương không?”.
Rốt cuộc thì lão tướng Dạ Lạc Hột hắn sau bao ngày ăn gió nằm xương, lo âu đến dứt ruột, khó khăn lắm mới tìm được nơi chợp mắt cuối cùng mới thoải mái duỗi mình, quên nỗi suy tư về bước đường phía trước mà ngủ một giấc.
Lúc này, binh mã của A Cổ Lệ đã bí mật bao vây doanh trướng của bộ lạc Lộc Ngưu. Thực tế, với một bộ lạc sống cả đời trên thảo nguyên, chăn thả cừu dê, cuộc sống du mục ấy phải đấu tranh với cả trời, đất, thiên nhiên và con người để kiếm cái ăn, sống khổ cực, khí hậu vạn biến lại thêm lang sói thường trực tàn phá, các bộ lạc tranh đoạt lẫn nhau làm cho họ cực kỳ mẫn cảm, hình thành sự cảnh giác cao độ với mọi thay đổi hay biến chuyển xung quanh. Việc bao vây và đánh lén một bộ lạc như vậy thực không hề dễ dàng.
Mà A Cổ Lệ cũng không muốn đánh lén, nàng muốn dùng kế đánh bất ngờ.
Bấy giờ, chó chăn cừu của bộ lạc Lộc Ngưu điên cuồng cắn sủa, cả đám cừu dê bị làm náo động, cả tộc cũng bừng tỉnh, người người cảnh giác vơ lấy trường đao. Tiếng hô hét đồng thanh “giết” cứ thế vang lên từ tứ phía, vốn dĩ cảnh chém giết chỉ có tiếng người ngựa gào hét, giờ ở đây lại thêm tiếng khuyển cẩu cắn sủa, cừu dê náo loạn ầm ĩ, thiết ky của A Cổ Lệ đã xông hẳn vào bên trong.
Đoàn binh đạp lên doanh trướng mà phi vào chiêm trướng, không có chút cơ hội nào cho đối phương kịp trở tay, một trận đại giết bắt đầu. Kỵ binh gào thét mà xông vào, người trong tộc vội vã mà sợ hãi chạy loạn tới tiếp đánh, chẳng để ý xem trong tay họ cầm là binh khí hay nông cụ gì. Từng toán binh mã lao tới rồi vụt qua đám người trong tộc. Lưỡi đao vút sáng, đầu người rơi như ngả rạ, máu bắn tung thành vệt, thi thể của họ đổ xuống chất đầy lên nhau, không có lấy một tiếng động nào nữa.
Đêm khuya, trời tối đến mù mịt, thân mình còn không nhìn thấy đâu, lúc này tuyết trắng mới phát huy tác dụng của nó,c ả một vùng tuy lờ mờ nhưng vẫn có thể phân biệt được người với vật. Dưới lưỡi đao sắc bén của đại quân lại thêm đợi tiễn phóng tới, người ngựa tộc Lộc Ngưu chết trận liên tiếp, số phận của họ giống như bọn sơn dương, từng người từng người bị chém chết, sức phản kháng của họ chỉ là phần nhỏ không đáng kể.
Dạ Lạc Hột lúc này nửa mộng nửa tỉnh, đang mơ màng ngủ chợt nghe những tiếng kêu gào thảm thiết, hắn vội bật dậy chộp lấy thanh bội đao.
“Chuyện gì xảy ra vậy? A Cổ Lệ đuổi đến rồi sao? Hay là có bộ lạc khác đến cướp phá?”.
Dạ Lạc Hột trong lòng náo loạn, lo đến thắt tim. Mấy tên thị vệ tâm phúc của hắn quanh đó vội bước tới, trong tay cầm bó đuốc nói: “Đại hãn, có kẻ tập kích trong đêm!”.
Dạ Lạc Hột nhảy dựng lên, bỗng một mũi tên bay thẳng vào cổng trướng, chỉ kịp nhìn thấy khoái mã phi tới, tiếng gào thét chém giết, đao thương hung ác lẫn lộn. Thiết Ma Kha cùng đám võ sĩ hộ thân phản kích lại, cầm đao mà xông ra đánh chém nhưng cũng chỉ là lao vào chỗ chết. Giết khí từ ngoài cứ thế gào thét mà đến, không cho họ chút cơ hội phản kích lại.
Trong đêm, bóng người hỗn loạn, tiếng gào liên thanh, tuy Thiết Ma Kha và võ sĩ của hắn cũng dũng mãnh chống trả nhưng cuối cùng cũng lấy mạng đổi mạng. Đối phương bất ngờ tập kích, lại thêm quân binh đông mạnh, kết quả tức sẽ bị đánh bại thê thảm, việc chống trả lại cũng chỉ là hành động tự phát liều chết.
Lúc này đã có người bắt được vài kẻ du mục của tộc Lộc Ngưu, họ tra hỏi chỗ trú của Dạ Lạc Hột, rồi có tiếng nhiều người lục đục rời lưng ngựa bước xuống, giương thẳng lưỡi đao bóng loáng áp giết đến gần chiêm trướng của Dạ Lạc Hột.
Dạ Lạc Hột thực cũng muốn trốn chạy, nhưng do hắn vốn được tiếp đãi như trọng khách, được tiếp đãi nồng nhiệt và được ngụ tại chủ trướng nên ngựa của hắn không ở ngay ngoài trướng, nếu mạo hiểm xông ra ngoài thì lại gặp nguy hiểm càng lớn. Hắn chờ đợi và hy vọng rằng những kẻ cướp phá bên ngoài kia chỉ là một bộ tộc đói rét cùng quẫn nào đó bức quá gây chiến. Như vậy, hắn không chừng vẫn có cơ hội sống sót, dù A Cổ Lệ có hạ lệnh tiêu diệt hắn, thì hắn rốt cuộc vẫn là dòng dõi cửu tộc vương thị Hồi Hột đã lâu đời bá chiếm vùng hồ Thanh Hải này, các bộ lạc này đương nhiên cũng phải coi trọng huyết thống của hắn. Vương tử vẫn là vương tử, dù có rơi vào thế loạn lạc cũng không đến mức mất hết khí thế, đến mức có kẻ thần dân tộc Hồi Hột nào lại dám khinh nhục hắn.
Nhưng hắn nhanh chóng sẽ hoàn toàn tuyệt vọng, mấy dũng sĩ đều lao tới đánh trả, họ lại bị hất tung ra, ầm một tiếng, cả tấm thảm bao lấy trướng bị lật đổ tung, hắn và mấy tên hộ vệ xung quanh thận trọng chui ra ngoài, quanh đó càng thêm nhiều người vây tới, từng người từng người áp sáp nhau thành vòng tròn tứ phía quanh hắn. Phía trước mặt Dạ Lạc Hột lập lòe vài bó đuốc, lửa cháy theo gió hừng hực rọi sáng xung quanh. Tuy mỗi người đối phương đều khoác áo trùm kín nhưng vẫn hiển hiện một bóng dáng nhỏ hơn hẳn ở chính giữa, nàng chỉ để lộ ra đôi mắt, nhưng Dạ Lạc Hột vừa nhìn thấy đã tái xanh mặt mày.
“Ngươi trách ta sao? Trách ta? Cơ nghiệp Cam Châu khó giữ, vô số nhân tộc bỏ mạng nơi sa trường, người khác có thể chết được, lẽ nào ngươi lại không chết được?”.
Tứ phía đều bị bao vây, dưới ánh đuốc từng con mắt trừng trừng nhìn hắn, những ánh mắt lạnh lùng hung giết xen lẫn vẻ khinh thường, lúc này Dạ Lạc Hột thực sự tuyệt vọng, hắn chẳng còn đường thoát nào nữa.
A Cổ Lệ lặng dừng bước, lạnh lùng nói: “Vậy, ngươi ngầm phái A Lý về Cam Châu mưu đồ ám sát ta, xúi giục Hộc Lão Ôn và Tô Nhĩ Mạn phản bội, ngươi giải thích thể nào về việc này chứ, ngươi có thể chối được sao?”.
Dạ Lạc Hột vừa cảm thấy nhục nhã vừa tức giận nói: “Ta là Đại hãn, là đại hãn Hồi Hột, tất cả đều là của ta, từ đồng cỏ, cừu dê, đến cả tính mạng của các ngươi... Vì đại nghiệp thì có cái gì ta không thể hy sinh được chứ? Ta muốn các ngươi sống thì các ngươi được sống, muốn các ngươi chết, các ngươi bắt buộc phải chết! Vì ta là đại hãn của các ngươi, là đại hãn, kẻ nào đám giết ta chứ? Kẻ nào dám giết ta?”.
“Nhưng bây giờ không phải nữa!”. A Cổ Lệ lạnh lùng nói rồi chỉ ngón tay một cái, “vù vù vù...”, hàng loạt mũi tên được bắn tới tấp từ ngay phía sau nàng phi đến chỗ Dạ Lạc Hột. Chỉ trong phút chốc, mấy tên thị vệ bên người hắn đã bị bắn đầy mũi tên, nhanh chóng ngã ngục xuống đất, hắn cũng không thể tránh khỏi được trận tiễn vũ ác liệt này.
A Cổ Lệ lặng nhìn thi thể Dạ Lạc Hột, ánh mắt lộ vẻ hết sức phức tạp. Lát sau, một phúc tướng lặng lẽ tới gần nàng: “Đại nhân, chúng ta làm gì bây giờ?”.
A Cổ Lệ cởi bỏ tấm khăn che mặt, đôi môi hồng nhỏ nhắn của nàng chợt mấp máy: “Sau khi Dạ Lạc Hột thất bại, Ngả tướng quân sẽ vội vã rút quân rời đi. Nghe nói đại vương đang dụng binh với Bắc Liêu. Lũng Hữu vừa mới được thu phục, e là vẫn chưa bình ổn, chúng ta... Tạm thời cứ trấn thủ tại Lũng Hữu, phải bảo vệ tốt phía hậu viên cho đại vương!”.
“Tuân lệnh... Vậy xác của bọn chúng thì...?”.
“Có nơi nào mà hoàng thổ lại không chôn người chứ?”. A Cổ Lệ rồi cũng lấy tay vuốt mắt thi thể của Dạ Lạc Hột, kẻ đã từng là nam nhân của nàng, trong mắt nàng giờ đây đã không còn chút bối rối nào, đôi mắt nàng lóe sáng trong như giọt nước.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên Tác giả: Nguyệt Quan
-----oo0oo-----
Quyển 16: A Na Ngã Từ Si
Chương 138:Súc Thế ( 1+2)
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn: Sưu tầm
Mấy ngày này Triệu Phổ và Lô Đa Tốn đều bề bộn trăm việc, từ việc bình ổn triều đình và các vùng huyện trấn khác, khởi phục các chức quan lại và khôi phục quyền lực thống trị, khiển phái tiền lương rồi quân nhu, điều động dân phu và cả phụ chiến tăng quân... Chính sự nhiều vô kể khiến họ bận tối ngày. Nhưng sau khi nếm trải mùi vị bị phế khỏi tướng vị, cách quyền một thời gian dài, thì dù có bận mấy hai người họ vẫn cảm thấy tốt hơn hẳn, họ nguyện gánh chịu mọi vất vả.
Định Thừa Tông xem ra lại nhàn hạ hơn hai người Triệu Lô, thực tế hắn cũng bận rộn như Triệu Lô nhị, chỉ là hắn đang bận những việc bí mật, không dễ để kẻ khác phát hiện ra. Trong nha phủ của hắn, mỗi này đều có binh đội mật gián xuất thần liên tục ra vào, đến một khắc đêm khuya cũng không ngừng.
Dương Hạo thực đã chuyển toàn bộ lực lượng mật giám chủ yếu về nội cảnh nước Tống, tình hình và lòng dân khắp nơi, thái độ của quan địa phương với triều đình mới, chính luật mới hay tình hình tiền tuyến cũng như các phe phái tướng lĩnh trấn thủ các nơi, nơi nào nên dụng binh, kẻ nào đáng bị xử lý, người đáng được đề bạt, kẻ cần phải tăng cường giám sát... Tất cả đều được thu thập tấu báo tới đây, việc giám xét các quan lại đều có tốt lẫn xấu, trung thần gian nhân khó mà phân biệt. Dương Hạo bên ngoài rộng lượng bác ái, nhưng bên trong thực phải tốn biết bao công sức. Hắn buộc phải tốn công sức như vậy, nếu không giang sơn này khó mà giữ được, chỉ trong nháy mắt quyền lực sẽ hoàn toàn tan biến. Điều tra những việc mờ ám bất chính như vậy, giao cho chính đại ca thân thiết của mình thì Dương Hạo mới có thể yên tâm được.
Mặc dù Đinh Thừa Tông bận rộn luôn tay nhưng hắn cũng vẫn hài lòng, huynh đệ của mình làm bá chủ thiên hạ mới thực là việc đại hỷ. Lúc này lại thêm một tin vui nữa truyền tới, Diễm vương phi đã hạ sinh, hơn nữa lại là một vị hoàng tử. Trước đó không lâu, Oa Oa và Diệu Diệu cũng đã cùng hạ sinh, Oa Nhi sinh được một tiểu công chúa, Diệu Diệu lại sinh một hoàng tử, Dương Hạo lại có thêm tiêu hoàng tử, đã liên tục đón mừng hỷ sự, bây giờ Diễm vương phi hạ sinh thêm hoàng tử nữa, Dương Hạo lại có tới ba tiểu hoàng tử. Quả thực là điều đáng vui mừng, ở thời đại này, dù là bậc đế vương hay dân thường, cái sự ấu nhi chết non là việc thường xuyên xảy ra, có thêm con cháu thì lại càng yên tâm.
Hắn vốn muốn có một nhi tử nối dõi, nhưng Dương Hạo cũng không có nhiều tử tôn nối dõi cho lắm nên hắn không tiện mở miệng. Chờ đến khi huynh đệ mình có thêm nhiều con nối dõi, hắn dự định sẽ xin Dương Hạo một đứa làm người nối dõi cho mình. Thực vậy, bấy giờ đối với người ta mà nói, nối dõi tông đường cực kỳ quan trọng, dù có nhìn xa trông rộng, tài cao đến mấy nhưng vẫn lo lắng không nguôi việc có con cháu phụng dưỡng lâm chung, chăm lo cúng tế.
Sau một lúc hoan hỉ cực độ, Đinh Thừa Tông liền đích thân viết một phong thư, báo tin cho Dương Hạo, đồng thời phái người truyền tin đến Đường gia, gọi Đường gia tới thăm Hưng Châu. Hắn vừa làm xong việc, đang đặt lưng ngồi xuống nghỉ ngơi, chưa kịp uống hết chén trà thì Mã Diệc đã cấp tốc đi vào, mang theo một mật kiện trình lên cho hắn.
Đinh Thừa Tông vội đặt chén trà xuống, sau khi nghiệm xem phong thư vẫn còn phong dấu, hắn mới bỏ ra đọc cẩn thận.
“Bẩm, không ngoài dự liệu của quan gia, tên Vương Tiểu Pha này cũng có mưu đồ riêng, quan gia thu phục được thiên hạ, hắn tại Thục quốc liền lay động bất định, cứ kéo dài không chịu quy phục, chỉ e là có mưu đồ tự lập riêng”.
“Ha ha, chỉ là một tên tọa trấn Quan Trung nhãi nhép mà cũng phải khiếp sợ. Bây giờ Ngải Nghĩa Hải đang chỉ huy quân binh tiến tới, tên Vương Tiểu Ba e là không dám lộng quyền. Ừm, hắn đã hạ cờ đầu hàng triều đình, sự vụ quan tước ắt có Triệu tướng và Lô tướng lo liệu, mà nhất định phải làm cho thật thỏa đáng. Các thủ hạ chúng ta phái đi giám sát hắn đã rút về, bây giờ lại thiếu người rồi!”.
“Đúng vậy”.
Tri huyện Đan Dương?
Đinh Thừa Tông nhíu mày: “Các quan lại trong triều đều quy thuận quan gia, hắn chẳng qua chỉ là một tên quan huyện phụ mẫu lại dám ngang nhiên buông lời nhường vị hỗn xược. Hừm, mỗi ngày không hoang lạc thưởng tửu, gào khóc kêu la thì tụ họp tri kỷ rồi khiển trách mắng mỏ như kẻ điên dại...”.
Mã Diệc vội đáp: “Đại nhân, có cần phái người đến trừng trị hắn...”.
Đinh Thừa Tông nghĩ một lúc, lắc đầu nói: “Cứ mặc hắn, lúc cấp bách nhiều trọng vụ này, không cần lo việc khác. Chẳng qua chỉ là một tên điên cuồng, cứ mặc hắn náo loạn. Các ngươi có nghe nhìn thấy cũng mặc hắn không hành động gì, cứ để hắn lộ rõ bộ mặt phản tặc. Ta đã dự tính cả, với kẻ này, ta tin rằng Triệu tướng và Lô tướng sẽ giải quyết ổn thỏa”.
Đinh Thừa Tông lấy tay vuốt cằm, như đã suy tính kỹ mà nói: “Tuy nhiên, qua việc này cũng có thể nhìn ra được, giang sơn này thực vẫn chưa được bình ổn. Lũng Hữu là nơi chúng ta khoái đao trảm loạn, nhanh chóng cổ vũ tinh thần để trấn đoạt được. Tình hình tại đó phức tạp, vốn là nơi chủng tộc phồn đa, việc tăng cường cai trị, trấn an địa phương không phải là việc dễ dàng giải quyết trong chốc lát, nó cần phải trấn trị trong thời gian đài. Giang sơn rộng lớn của nước Tống là do quan gia mượn danh nghĩa ‘Kỳ Vương’ đoạt lại, vậy sự việc càng thêm phức tạp, e rằng phải mất ít nhất mấy năm trời mới có thể ổn định được. Chúng ta cứ thu thập mật tin các nơi cho đầy đủ, đợi quan gia trở về Biện Lương, chúng ta sẽ bắt tay vào xử trị mọi việc”.
Mã Diệc lại nói: “Vâng, chỉ không biết đại thúc... Khi nào thì đại thúc mới dừng việc bắc phạt?”.
Mắt nàng sáng rực lên, đột nhiên tung tăng nhảy nhót mà nói: “Chi bằng... Ta cũng đến Tam Quan để giúp đỡ đại thúc đi”.
Đinh Thừa Tông cười đáp: “Hồ đồ, con chỉ là thân phận nữ nhi, tới đó thì giúp được việc gì? Lẽ nào bảo con điều binh khiển tướng, xông pha trận mạc? Việc mật báo này lại không thể thiếu con được, nếu con làm việc này tốt, đại thúc Dương Hạo của con càng được nhẹ nhõm, như vậy là giúp được việc lớn rồi, lớn hơn cả việc con tới Tam Quan. Còn phía bắc...”.
Đinh Thừa Tông trầm lắng: “Con yên tâm, tới lúc ngừng lại, quan gia hiển nhiên sẽ ngừng lại!”.
“Ư”.
Khuôn mặt Mã Diệc sụp xuống, vẻ mặt càng ủ rũ. Nàng đã quen với việc quanh quẩn bên cạnh Dương Hạo. Lúc Dương Hạo luận đàm chính sự, tiếp gặp quan viên, nàng đều trốn ở nơi bí mật thầm chăm chú theo dõi từng cử chỉ, lời nói của Dương Hạo. Nàng không quan tâm đến thứ khác, chỉ cần nhìn thấy hình dáng của hắn, nghe thấy tiếng hắn, trong lòng lấy làm mãn nguyện, an bình lắm rồi. Cũng giống như một con mèo con, trốn ở một nơi mà chủ nhân không nhìn thấy, chủ nhân cứ bận rộn qua lại, con mèo lại nằm cúi xuống mà nhìn. Tuy có chút lơ là như không chú ý đến, nhưng chỉ cần chủ nhân vừa rời khỏi là nó lập tức bật dậy, vội vàng chạy theo sau.
Nàng đã không thể rời khỏi hắn được nữa, giống như cá không thể sống thiếu nước.
Lần trước khi tiến hành mai phục Biện Lương cùng với Chiết Tử Du, Đinh Ngọc Lạc và Trúc Vận, nàng vẫn chưa có cảm giác nhớ nhung mãnh liệt đến như vậy. Thứ nhất, là do từ bé nàng đã được đại thúc Dương Hạo kể về câu chuyện bất dạ chi thành, đó chính là thành Biện Lương, nàng mong chờ được đến đó tận mắt trông thấy thành. Thứ hai nữa, có thể do nàng vẫn còn nhỏ tuổi, thích những nơi náo nhiệt, lại được đi cùng Trúc Vận tỷ tỷ, người mà nàng nói chuyện hợp ý hơn cả.
Nhưng bây giờ chỉ có một mình nàng, Trúc Vận tỷ tỷ đã được gả cho đại thúc, còn nàng vẫn là nàng, một chú chó con nhỏ bé không chút nổi bật...
*
* *
Da Luật Hưu Ca cấp báo tin đến U Châu, Tiêu Xước biết tin mà thất kinh, mặt mày tái sắc.
Quân Tống thất bại bỏ chạy từ U Châu về phía nam, hao tốn binh lực gần tới gần mười vạn quân, trận chiến ở Quân Tử quan lại thiệt hại mất ba vạn nhuệ binh. Không tính đến đám quân thương vong, chỉ qua hai trận đại thắng, quân Tống đã tổn hao mất mười ba vạn quân, như vậy binh lực quân Liêu cũng có thể ngang ngửa với Tống, nhưng bất thành ở trận chiến sông Tiểu Đường, ba vạn quân Liêu tinh nhuệ đã bị thất bại, tháo chạy về chưa được tới một vạn người. Hoàng đế Đại Tống bấy giờ lại nhường vị giang sơn, số binh mã vốn bày bố ở Quan Trung để phòng bị quân Tây Hạ có thể được điều về phía bắc. Cùng lúc đó, binh mã Tây Hạ cũng kết hợp đi cùng tuyến với đội quân binh đó, như thế chỉ xét từ mặt binh lực cũng đã vượt xa quân Liêu, huống hồ giờ lại hợp nhất quân binh bộ và kỵ binh dũng mãnh, vừa phòng ngự tốt vừa tấn công, có kẻ nào có thể dễ dàng đánh bại được đây chứ?
Tình thế thực quá nghiêm trọng, vẻ mặt của Tiêu thái hậu cũng biến sắc nghiêm trọng, ngay đến cả Lao nhi suốt ngày chỉ ham chơi bên cạnh nàng cũng nhận ra vẻ mặt bất an của mẫu thân mình, tiểu hoàng đế rất thông minh cứ nắm lấy tay mẫu thân.
“Được, cứ làm như vậy đi, đồng thời hãy truyền lệnh ta cấp cho Ngũ Cáo Phi tám vạn quân bộ và kỵ binh Hán, nhanh chóng đi cứu viện Da Luật Hưu Ca”.
Tiêu Xước nhẹ giơ tay chỉ vào tấm bản đồ rồi nói: “Những vùng đã chiếm lĩnh được từ tay quân Tống có thể vứt bỏ, nhưng lãnh thổ Liêu Quốc phải giữ cho kỳ được, một tấc đất cũng không được bỏ. Tây lộ hãy lấy Nhạn Môn quan làm ranh giới, nam lộ lấy Ngõa Kiều Quan của Hùng Châu, Ích Tân quan của Phách Châu, Kỳ Câu quan của Trác Châu ba cửa ải này làm ranh giới, quyết không cho quân Tống bước đến nửa bước!”.
“Tuân chỉ!”. Hạ thần bên dưới vội vàng y lệnh phụng chỉ mà đi.
Ngũ Cáo Phi cũng là một mãnh tướng của nước Liêu, thời vua Thế Tông từng là võ trạng nguyên của Đại Liêu, dưới trướng hắn đều là binh mã nhà Hán, binh bộ có tới năm vạn, kỵ binh ba vạn quân. Nếu luận về chiến lực lại rất dũng mãnh thiện chiến, không hề thua kém cấm vệ quân trong cung hay quân tộc trướng nhà Liêu.
Người Hán ở phía bắc đã sớm hòa nhập vào cuộc sống chung với người Liêu, sống lâu đần thành quen. Người Hán ở vùng U Vân cũng nhanh nhẹn dũng cảm như các dũng sĩ tộc Khiết Đan, đám binh mã dưới tay Ngũ Cáo Phi này trước đây vốn đóng quân ở Tham Thánh Châu, là nơi từng xảy ra đại chiến Trác Lộc giữa hai hoàng đế Viêm Hoàng, giờ là vùng Hà Đông, thị khẩu của Trương gia, thuộc địa phận thượng lưu sông Vĩnh Định. Khi quân Liêu thi hành một nước hai thiết chế, quân Khiết Đan duy trì thiết chế vi dân, chiêu binh thời chiến như lệ thường, quân Liêu ngược lại thiết lập quân thường trực, đám quân người Hán này vì thế mà được rèn thiết quân chặt chẽ. Trong lần bắc phạt trước của Triệu Quang Nghĩa, khi tiến hành chiến đoạt U Châu, vì thế tiến công quá ư lợi hại, quân binh nhà Liêu phái đến đều là đội kỵ binh nghiêm chỉnh quân kỳ, được giáo luyện đầy đủ. Nhưng lần đó, Hán quân của Ngũ Cáo Phi được cử đi cứu viện là lần thứ ba, chưa kịp đến nơi thì Da Luật Hưu Ca đã đánh thắng trận, đánh đuổi quân Tống sợ phải rút khỏi Tam quan.
Vậy nên đám binh mã đến sau này đành phải lưu lại U Châu, một là làm quân hộ tống bảo vệ cho thái hậu và hoàng đế, hai là một khi Tam Quan bị công phá, cần có đội bộ binh của quân Hán này trấn thủ vùng địa phương, thiết lập Chính Tạp Phủ. Quân binh của họ không chỉ có đội bộ binh là cánh quân tiên phong, mà tất cả đều là người Hán, có thể dễ dàng móc nối với người Hán quanh những vùng bị chiếm lĩnh. Ví như tình hình nguy hiểm như bây giờ, cũng có thể dễ dàng điều phái đám binh mã này lên phía tiền trận.
Trầm ngâm trong chốc lát, Tiêu Xước lại hạ chỉ, nghiêm ý trách tội Da Luật Hưu Ca dám kiêu ngạo khinh xuất, làm cho địch có cơ hội áp chế lại đại quân, dễ dàng lật thế thắng bại. Sau đó nàng lại tiếp lời an ủi vài câu, lệnh cho hắn dốc sức chuyển đổi thế trận, ít nhất cũng phải giữ cho kỳ được thế giằng co ở Tam Quan.
Sau khi dặn dò hạ thần truyền chỉ, Tiêu Xước lại chậm rãi ngồi xuống phía cẩm đôn, tay ôm lấy tấm ống tay sưởi, hai tay nàng khoanh vào trong ống, nhưng lúc này đôi tay ấy vẫn cứ lạnh ngắt dù đã ủ trong ống.
“Dương Hạo hắn... Giờ đã trở thành thiên tử nước Tống, ta tránh được hắn càng xa càng tốt”.
Tiêu Xước thở dài một tiếng, nét mày nhạt hiện trên mặt nàng, khuôn mặt có chút yếu ớt, mệt mỏi nhưng đôi mắt vẫn không ngừng đảo. Tâm tình nhi nữ trong chốc lát đều bị nàng khống chế hoàn toàn, lúc này chỉ hiện lên vẻ căm giận, lạnh lùng quyết đoán đến mức buốt giá. Từ góc độ nào đó có thể thấy nàng giống hệt với A Cổ Lệ, những nữ nhân sống trên vùng thảo nguyên cũng ngoan cường, cứng cỏi như lạc đà suốt đời vượt qua gió cát sa mạc.
Ái tình tương thủy, khi ái tình tới, họ sẽ vứt bỏ tất cả để đi đến với tình yêu, không cần nghĩ đến đối phương có tiếp nhận tình cảm của mình hay không, cũng không nghĩ đến kết quả sẽ ra sao.
Còn khi thứ tình yêu “thủy” đó rời khỏi họ, họ sẽ đóng chặt mình lại, cô độc hứng chịu mọi gió cát bão cát sa mạc, kiên cường tiếp tục sống, nếu vui sướng thì cười sảng khoái, khóc hết mình, yêu cũng hết mình giống như mặt nước mùa xuân, khi lại ngậm đắng cay quyết liệt lạnh lùng như băng tuyết mùa đông. Trong dòng máu của họ cũng giống như các nam nhi trên thảo nguyên, dũng cảm cương nghị, yêu ghét phân minh.
Quân binh lộ tây của Đại Liêu đang tiến quân tới Nhạn Môn, lúc này họ vẫn chưa biết tin nam tuyến đã thảm bại, tín sứ thành nam đang hộc tốc thúc ngựa như điên như dại đuổi theo quân lộ tây, muốn nhanh chóng báo tin này đến cho họ: “Tống, Hạ đã hợp nhất”.
Quân lộ tây nước Liêu đã sử dụng binh mã của Điệp Lạt lục viện bộ, cùng với một bộ phận tộc quân, quân Hán, quân Kinh Châu và quân nước Thục.
Điệp Lạt lục viện bộ là đội binh mã tinh nhuệ nhất tây tuyến của nước Liêu, thiết chế binh dịch vẫn là dân binh hợp nhất truyền thống, nam đinh của cả bộ tộc đều được nạp vào làm dự binh và binh dịch, có trang bị đầy đủ khí giáp, chiến ngựa cho đến cung tiễn, phủ việt, hỏa thạch đao, kỵ cương. Còn những lộ binh mã khác chỉ có quân Hán là được lĩnh lương thảo, cho nên số lượng quân binh cũng không nhiều. Nhiều nhất là quân binh Kinh Châu, đa số đều là đinh tráng chuyển hộ của Phiền Hán. Riêng bảy huyện có mười bảy đội quân, các phủ, châu, thành của vùng tây Kinh nước Liêu tính ra, tổng số quân binh của Kinh Châu cũng tới hơn hai mươi vạn. Đương nhiên, lượng lớn binh mã như vậy, lương thảo thực cũng không cung cấp đủ.
Nhưng quân Liêu có thể nhanh chóng gom được ra một đội quân như thế có thể coi là cực tinh nhuệ rồi, quân Kinh Châu tạm thời chỉ có tám vạn quân xuất binh.
Tiết độ sứ Chương Quốc Quân, phò mã trị trung Tiêu Đốt Lý cùng với Lý Trọng Hối đô chỉ huy sứ Mã Bộ quân đều giữ trọng trách quân tiên phong lộ tây cho Đại Liêu, chỉ huy mười vạn đại quân, nhanh chóng tiến công Nhạn Môn quan. Họ muốn chớp lấy thời cơ, nhanh chóng tiến đánh, vì hành động nhanh nhẹn nên tín sứ của Da Luật Hưu Ca không thể đuổi kịp. Giờ Tiêu Đốt Lý và Lý Trọng Hối đã thống lĩnh mười vạn đại quân đằng đằng sát khí tiến đến Nhạn Môn quan.
Tuy nhiên quân Tống ở Nhạn Môn quan đã được tăng cường binh mã, lại được bổ xung lượng lớn thiết kỵ Tây Hạ, do đích thân Tào Bân tiếp quản phòng ngự. Qua thám báo biết được động tĩnh của quân Liêu, Tào Bân lập tức định kế chiến đấu: Chủ động xuất quân tiến đánh, chặn địch ngay từ phía ngoài biên ải.
Trước đây, khi đối mặt với cường địch, quân Tống rất ít khi sử dụng chiến lược này. Người phương bắc giỏi kỵ chiến, người phương nam lại giỏi việc trấn ngự thành trì. Đây cũng là điều đương nhiên, sở trường của hai bên cũng được hình thành do chính hoàn cảnh vị trí của họ. Cũng giống như binh mã vùng Giang Nam giỏi chiến thủy, nếu bắt họ cưỡi ngựa, đánh bộ binh quả thực là khó khăn. Dù có được luyện tập, cũng không thể hữu dụng, vì khó có binh đội nào chốc lát vừa cưỡi ngựa lại chốc lát đổi sang bơi thuyền?
Ngươi giỏi cưỡi ngựa bắn cung, vậy đó là bản lĩnh của ngươi. Ta giỏi phòng ngự thành trì là bản lĩnh của ta. Nếu đến địa bàn của ta, ngươi sẽ khó mà thể hiện tài sức được! Chắc chắn phải dựa theo quy luật của ta, người Hán tinh thông vệc phòng ngự. Đây vốn là phương cách chiến đấu rất thành công của cả xã hội nông canh xuyên suốt từ hơn trăm ngàn năm nay, chứ không coi việc vứt bỏ thế mạnh của mình mà đi bắt chước địch hay liều lĩnh chạy tới biên ải liều mạng với địch mới là dũng cảm. Phòng ngự cũng dũng cảm phi thường hơn nhiều, điều này không có gì là hổ thẹn cả.
Quân Liêu cũng quen với cách đánh này của quân Tống, quân lộ tây đã được chuẩn bị đầy đủ hơn hẳn quân lộ nam, lại mang theo vô số binh khí công thành mới đến đây. Uy phong bát diện mà hướng đến đánh phá Nhạn Môn quan.
Lúc này, quân trễn giữ Nhạn Môn quan lại đột ngột xuất thành, bỏ lại hiểm quan phía sau mà phục đánh quyết chiến với đối phương.
La Khắc Địch thống lĩnh bộ binh chủ lực của quân Tống, bày trận đón chờ địch ở cửa Bắc Nhạn Môn, Trương Sùng Nguy chỉ huy đội kỵ binh tinh nhuệ vòng qua đường khác bao vây chặn đánh từ phía sau địch, sử dụng lối đánh giống như Phan Mỹ dùng ở Nam tuyến, vẫn là chiến lệ lấy binh bộ và kỵ binh hỗn hợp để khắc chế kỵ binh của đối phương.
Tiêu Đốt Lý và Lý Trọng Hối đem quân đến Nhạn Môn quan, lập tức chạm trán ngay đại quân của quân Tống, cũng cảm thấy có chút kỳ lạ, nhưng họ vẫn đang hừng hực khí thế chiến đấu, đám quân đông đảo của quân Liêu còn đang khinh thường quân đối phương, không coi chúng ra gì trong mắt mình. Lúc này, lệnh khởi chiến được xuất ra, đại quân của La Khắc Địch mãnh liệt xông lên, hai bên dao thương xung khắc, chém giết lẫn lộn. Sau một hồi lâu, cục diện quân trận hỗn độn, kỵ binh quân Liêu hỗn chiến với bộ binh của quân Tống, bị mất đi khoảng không để lấy điểm cơ động, mất đi ưu thế, lúc này Trương Sùng Nguy mới giương cờ lộ binh, đột nhiên lao tới tấn công từ cánh bên và phía sau địch, quân Tống ở tiền trận lại càng được khích lệ, hung hăng đánh trả, toàn quân hợp lực phản kích.
Quân Liêu bị quân Tống bao vây hai bên tả hữu mà xế nhỏ quân, cắt đoạn thành từng đám nhỏ, sau đó dùng bộ binh chủ lực tấn công diệt sạch, nuốt ngọn từng đám quân Liêu đã được chia cắt. Kết quả thắng bại đã được định đoạt ngay từ khi hai cánh quân Tống đột ngột xông tới công kích.
Binh trận của bộ binh địch đang triển khai lượng lớn trước mặt quân Liêu, hai bên Tả Hữu lại bị vây cắt bởi đội kỵ binh tinh nhuệ, tình cảnh lúc này của quân Liêu thực giống như một mẫu mạch điền bị cắt phá. Trương Sùng Nguy phía xa thấy chỗ quân Liêu giương kỳ hiệu, biết ngay đây chắc chắn là chỗ của chủ soái. Hắn lập tức thống lĩnh quân đột phá lên trước, tiến thẳng về phía đại kỳ. Quân Liêu lại đang rơi vào thể hỗn loạn, nên không có binh tốt nào chú ý đến việc chặn đường tiến sâu của địch, kết quả bị hắn đánh thẳng vào tận trong lòng quân.
Lúc thâm nhập vào Tống doanh vượt qua hai mươi vạn quân để truy sát Triệu Quang Nghĩa, Trương Sùng Nguy đã may mắn hơn Da Luật Hưu Ca. Lúc đó một là vào buổi đêm, đột nhiên có quân xâm nhập khiến cho quân Tống hoảng loạn, hai là Triệu Quang Nghĩa đã sớm chạy trốn cùng với đám nội thị cận vệ. Còn Da Luật Hưu Ca, khi xông đến Tống doanh, chỉ còn thấy trên hoàng kỳ che ô phủ lụa kín, bên trong trống trơn không có ai. Lúc này, chủ tướng nước Liêu là Tiêu Đốt Lý lại không thể chạy đi được, hắn mà đi thì mười vạn quân này làm thế nào?
Trương Sùng Nguy xông vào Liêu doanh, giao chiến lại vừa đủ binh lực, chỉ một đao mà dễ dàng trảm được đầu của tiết độ sứ Chương Quốc Quân, phò mã thị trung Tiêu Đốt Lý, lúc này hắn còn chẳng biết họ là quan tướng gì. Nếu lúc sau không bắt được mấy tên binh tốt của địch để tra hỏi thì hắn vẫn chưa biết được thân thế mấy kẻ này. Thực tế là trong quan sử người Hán, họ thích lập công được tán dương, người Liêu lại quá trọng trí khí, đối với những trận chiến thất bại, chỉ đơn giản ghi chép vài điều, tuyệt đối không ghi chép lại tên tuổi những kẻ bại tướng quyền cao đã bỏ mạng hay bị làm tù binh vào sử sách.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên Tác giả: Nguyệt Quan
-----oo0oo-----
Quyển 16: A Na Ngã Từ Si
Chương 139: Hùng Bá Thiên Hạ ( 1+2)
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn: Sưu tầm
Trương Sùng Nguy một đao chém chết phò mã Tiêu Đốt Lý, thực khiến cho tam công chúa Da Luật Tú của nước Liêu trở thành quả phụ. Lý Trọng Hối tiết độ sứ Mã Bộ quân xa xa nhận thấy quân trận thất thế khó đạt dục ý, thế địch cường mạnh, thế quân lại hỗn loạn bất định, hắn cũng bất đắc dĩ, phải chịu thế bị động mà theo hướng đại quân cố gắng vừa đánh vừa chạy, không kịp mà quan tâm tới Tiêu Đốt Lý.
Tiêu Đốt Lý vừa chết, quân Liêu lại càng náo loạn, bị quân Tống chém giết tan tác, Lý Trọng Hối đành chỉ huy tàn quân vừa đánh vừa thoái lui. Lúc này chủ soái Da Luật Tà Chẩn thống lĩnh trung quân bọc hậu mới vội vàng đem quân đến viện trợ, tiếp ứng cho đám quân tiên phong tiền trận. Điểm lại tổn thất quân Liêu đã thương vong hơn quá nửa, trên vai của Lý Trọng Hối lại trúng thêm một mũi tên, hắn cắn răng rút ra rồi khó khăn lắm mới tới được chỗ của Da Luật Tà Chẩn báo cáo tình hình.
Da Luật Tà Chẩn dù sao cũng là danh tướng nước Liêu, kinh nghiệm chiến đấu đầy mình, vừa nghe hắn nói đến đại quân kỵ binh hùng hậu của quân Tống đột ngột xuất đánh, liền nghi hoặc vô cùng. Da Luật Tà Chẩn lập tức chọn nơi hiểm yếu đóng hạ địa bàn, phái người đi trinh sát. Bắt vài kẻ tra xét, tìm hiểu phía địch. Trước khi chưa nắm rõ được chân tướng sự việc, Da Luật Tà Chẩn không dám liều lĩnh manh động.
Quân Liêu lộ nam chỉ còn một phương châm chiến lược duy nhất là cố gắng chặn đứng mũi tiến của quân Tống tại phía nam này, dựa theo phòng tuyến Tống Liêu trước đây mà xác định binh lực địch bày bố binh trận. Da Luật Hưu Ca đau đầu nhức óc suy nghĩ, hắn càng không dám coi thường quân địch, từ khi rút lui về Bảo Châu, hạn chế bị quân Tống quấy nhiễu, hắn chỉnh đốn lại cơ cấu quân binh, đồng thời chủ động nhường lại một số thành trì phòng ngự không mấy vững chắc cho địch, bố trí phòng ngự lại lần nữa.
Con mắt nhìn nhận của Da Luật Hưu Ca thực rất sâu xa, hắn nhanh chóng phát hiện ra một điều, tuy bây giờ nước Tống có binh mã cường mạnh nhưng đại quân này vừa mới đặt chân tới trận tuyến, đặc biệt là quân Tây Hạ và cấm quân nước Tống, mỗi bên đều có thiết luật, thống soái riêng, việc thống nhất đầu não chỉ huy và thuộc bộ vẫn chưa thực đầy đủ và chắc chắn, đây chính là một điều kiện tốt có lợi cho quân Liêu. Hắn liền đánh vận động chiến trong thế phòng ngự, trước sau đều kết hợp kỵ binh tinh nhuệ, giao đánh với các mãnh tướng nước Tống như Long Cuồng phó chỉ huy sử kinh tự, Trương Sư thích sử Hùng Châu, Thôi Ngạn Tiến tiết độ sử Tam thành Hà Dương và cả Mễ Tín đô chỉ huy sử mã quân thị vệ. Trong trận giao chiến với Trương Sư của Hùng Châu, hắn đích thân thống lĩnh gần trăm thị vệ thân cận đột nhập vào lòng trận, chém ngã Trương Sư xuống ngựa!
Nhưng ngay sau đó, Da Luật Hưu Ca đã cảm thấy thực sự bất an, hắn lại không hề phát hiện ra một điều nữa. Điều này lại do chính miệng một tướng lĩnh có kinh nghiệm lâu năm dâng tấu lại cho hắn, tuy có chút không chính xác cho lắm: Sự phối hợp giữa các ngả Quân Tống không chặt chẽ là thực, nhưng dựa vào thế đại thắng mà địch vừa giành được, quân Tống tuyệt đối sẽ có đủ thực lực để tiến hành tổng tiến công, có thể dễ dàng thừa cơ quân Liêu rơi vào bại thế chưa thể trụ vững mà chiếm lĩnh cả trận tuyến biên ải, đoạt lại những vùng đất quân Liêu chiếm được từ tay nhà Tống. Vậy hà cớ gì mà Dương Hạo lại chưa làm như thế, hắn đang chờ đợi điều gì chứ?
Rất nhanh sau đó, Da Luật Hưu Ca đã hiểu rõ dụng ý của Dương Hạo, việc mà Dương Hạo định làm.
Dương Hạo đang tập kết đại binh: từ mã quân, bộ quân, thuyền đội với số lượng lớn, gom thêm nhiều lương thảo, xe thồ cả trâu ngựa...
Thanh thế to lớn như thế, trước đây chỉ có một lần duy nhất, đó là khi Triệu Quang Nghĩa tiến đánh trực điện, tấn công thẳng vào U Châu.
Quân Tống rất ít khi hành động quân sự quy mô lớn khi thời tiết chuyển sang đông. Ngoài việc do vận chuyển không thuận lợi, còn có nguyên nhân chủ yếu: để khắc chế thiết kỵ quân Liêu, quân Tống đã chuẩn bị đội cung thủ lớn, dây cung được làm bằng dây da, như vậy thời tiết giá lạnh của phương bắc sẽ làm cho dây cung co lại không đủ lực mở cung. Điều này khiến quân Tống mất đi ưu thế chiến đấu lớn nhất, cho nên mùa đông vốn là những ngày thuận lợi cho kỵ binh bắc triều gây rối nam triều “kiếm chút lương thảo”. Nhưng nay, quân Tống đã bổ xung lượng lớn kỵ binh, giảm bớt cung thủ, nước Tống thực sự có thể triển khai thế tấn công quy mô lớn được rồi.
Ngày mùng chín tháng mười một, là ngày trùng hầu sát bắc, có thể cúng tế, tháo rời, động thổ, xuất khởi qua cầu, khai thị đại cát.
Dương Hạo đã lệnh cho Phan Mỹ làm thống soái, phong cho Lý Hoa Đình, Lưu Đình Nhượng và Đồng Vũ làm đại tướng, thống lĩnh hơn mười vạn quân, xuất binh từ Ngõa Kiều Quan Hùng Châu tấn công Quy Nghĩa, Phạm Dương;
Lại cho Lý Kế Long làm thống soái, phong Điền Trọng Tiến, Thôi Ngạn Tiến và Mễ Tín làm đại tướng, thống lĩnh hơn mười vạn quân, xuất binh từ Cái Tân Quan Bá Châu, tấn công Vĩnh Thanh, An Thư;
Hùng Châu và Bá Châu binh mã đều tề xuất, Dương Kế Nghiệp đích thân chỉ huy một binh đội, xuất binh từ Đại Mậu sơn, đoạt lấy Phi Hồ, tấn công vào Úy Châu.
Bên phía quân lộ tây, tin tức Nhạn Môn Quan đại thắng vừa truyền tới. Dù cho phía bên đó có tin thắng trận hay không, Dương Hạo cũng đều chuẩn bị hạ lệnh xuất chinh. Tuy nhiên trọng điểm tiến công của hắn vẫn đang ở lộ nam, quân lộ tây chỉ là thực giả lẫn lộn. Nếu có thể khiến quân địch đại bại, lại có thể biến đánh nghi binh thành tiến công thực, rồi sẽ hội kích U Châu. Nếu chiến cục không thuận lợi, sẽ biến đánh thực thành đánh trận giả. Chỉ cần thành công trong việc áp chế binh mã tây bộ của quân Liêu là được.
Bởi vậy quân binh ngả tây lộ do Tào Bân thống soái, La Khắc Địch và Trương Sùng Nguy được phong là tướng, xuất binh từ Nhạn Môn quan, đoạt lấy các châu Hoàn, Sóc, Ứng và Vân Châu. Tháp Bạt Hạo Phong đã quay về Tây Hạ, hợp binh cùng với Dương Duyên Phổ đang trấn giữ Hoành Sơn, kết hợp với binh mã của Tào Bân hình thành kìm thế giáp công.
Dương Hạo thả lòng vùng biên ải, nơi đang chiến tranh giằng co với Da Luật Hưu Ca, bỏ qua cả đám thiên quân của họ, nhân cơ hội quân Liêu vẫn chưa thích ứng với lối đánh binh bộ và kỵ binh lẫn lộn của quân Tống mà đánh thẳng vào U Châu. Hắn đã dựa vào thực lực hùng hậu để tiến quân, tất cả đều lộ ra giã tâm bá chiếm của hắn, tấn công địch cũng tức tự giúp mình, đây thực sự đã được mưu tính rõ ràng.
Ngươi biết rõ mục đích của ta, nhưng ngươi không thể tiếp được chiêu, trong tay ta trấn giữ ngang dọc, lui hay tiến đã không còn do ngươi quyến định.
Đối mặt với tình cảnh như vậy, dù ngươi có mưu trí đến đâu, văn thao võ lược đến mấy thì cũng chỉ còn một nước đi duy nhất là chịu đòn của ta, đừng mong có cách nào thoát được. Da Luật Hưu Ca mới vỡ lẽ, tức tốc tập kết binh mã ngăn cản mũi tiến của quân Tống đồng thời bẩm báo tình hình trấn thủ đến U Châu.
Tiêu Xước biết tin, cũng đồng ý với ý định của Da Luật Hưu Ca, quyết định tận dụng địa hình có lợi vừa rộng vừa bằng phẳng và sở trường của kỵ binh, tập trung binh lực công phá quân lộ đông của quân Tống, sau đó di chuyển quân binh đánh bại địch, lệnh cho Ngũ Cao Phi hành quân mau chóng, đến thẳng Trác Châu cứu viện, lại lệnh cho Da Luật Mạt Chi ở Đông Kinh (Liêu Dương) đem quân đến viện trợ U Châu, đồng thời truyền lệnh phái Lâm Nha Hàn đem quân cứu viện La Khâu, còn Da Luật Tà thống lĩnh binh mã Sơn Tây, toàn quyền phụ trách chiến sự lộ tây.
Cơn ác mộng của Da Luật Hưu Ca giờ mới thực sự bắt đầu.
Huyết chiến máu lửa tại Trác Châu trong mười ba ngày, tử thi ngổn ngang, người chết vô kể. Đây thực sự là trận đại chiến công phòng ngang sức, không thể dùng đến bất cứ một âm mưu nào, tất cả đều dựa vào chiến lực, tinh thần chiến đấu, liều mình đánh trận bằng chính nhân mạng.
Nhiều lần đứng trước lúc nguy cấp, Da Luật Hưu Ca đích thân đứng trên đầu thành chỉ huy. Lúc tả hữu bắn cung, lúc chính tay dùng trường thương, liều mình chiếu đấu hay lớn tiếng giận dữ gào thét, chống trả lại thế công mãnh liệt và tiếng hò hét ầm ĩ của của quân Tống. Trên dưới thành, xen lẫn màu trắng của tuyết là màu đỏ tươi của máu, màu đỏ loang lổ khắp nơi, rồi lan ra đóng thành mảng. Bên tai, những tiếng gió gào thét ác liệt không ngừng.
Lại một trận đại chiến vừa kết thúc, Da Luật Hưu Ca đi tuần trên tường thành, giáp mũ của hắn bị đánh gẫy mất một mảng hộ tai, bên trong giáp tấm áo vẩn đục bẩn đến không chịu nổi. Sau lưng hắn vết máu loang lổ, giáp ngực của hắn đã bị đâm rách, hai bên cánh tay đều là vết tích đao chém. Thanh đại thương trong tay hắn dính đầy vệt máu khô, kết thành những mảng băng máu nhọn, đó là những vệt máu chưa kịp rỏ xuống đất đã bị gió lạnh đóng băng ngay tại chỗ.
May mắn thay, tám vạn quân Hán của Ngũ Cao Phi đã đến kịp thời, bổ xung thêm binh lực cho hắn. Sau khi nam thành bị đột phá, Da Luật Hưu Ca liền lợi dụng nước giếng trong thành trộn thêm cỏ dại, chỉ trong nửa đêm đã tạo thành lớp tường băng vững trãi bao bọc bên ngoài, bốn phía tường thành đều dội thêm nước ngăn địch tiến vào, nước vừa dội lên lập tức đóng băng, tường băng sáng bóng như một thủy tinh thành vừa tròn lại vừa cứng, như vậy có thể chặn đỡ được quân địch đến tận lúc có viện quân.
Chỉ trong một đêm, thành Trác Châu đã trở thành một thủy tinh thành, quân Tống lấy làm sợ hãi đặc biệt là Dương Hạo. Hắn cũng nhớ rằng thời trước nghe bình thư “Dương gia tướng”, đại soái Tam quan Dương Lục Lang khi đối mặt với quân Liêu khí thế hung hãn, trong lúc nguy cấp đã nghĩ ra diệu kế: Lấy nước hắt lên tường thành, tạo ra một tòa thành băng, sau đó bày bố ngưu trận, làm cho quân Liêu đại bại. Thực không ngờ, người Liêu cũng biết phương pháp này.
Kỳ thực, dân du mục phương bắc sớm đã biết dùng băng để xây thành, việc này bắt đầu từ bao giờ thì không rõ, nhưng trong một số sử sách văn hiến thời Hán có ghi chép phương cách này. Lúc đó dân du mục phương bắc đã di dân từ vùng trời tuyết lạnh đến một nơi. Họ liền biết dùng nước trộn với cỏ và bùn đất để xây vài kiểu tường thành đơn giản, vừa phòng lang sói, che chắn gió lạnh, đến khi xuân tới lại tiếp tục di dân đến nơi khác vì khi thời tiết ấm hơn, tường thành tự nhiên sẽ tan ra, đây là điều rất đỗi bình thường.
Nghĩ đến vị tiểu thuyết gia kia vì muốn làm nổi bật trí dũng của Dương Lục Lang nên mới viết rằng phương cách đó là diệu kế tuyệt vời độc nhất do chính Dương Lục Lang nghĩ ra.
Trác Châu tuy giữ được, nhưng Cố An ngay gần đó đã bị quân Tống chiếm được. Như thế Trác Châu lại trở thành một tòa thành đơn độc, trước mắt tuy các thành trì vẫn còn nhưng việc giữ được bao lâu lại thực khó nói. Da Luật Hưu Ca cho rằng, không nên tính toán hơn thiệt được mất với quân Tống đang thế cường mạnh ngoài kia, nhưng thái hậu lại không nghe theo, bà dù gì cũng là nữ nhi, không tránh khỏi tính gia tử.
Nước Tống viễn chinh tới đây, vận chuyển sẽ trở thành vấn đề khó khăn lớn, mục tiêu của họ là U Châu, đã vậy cứ lui giữ U Châu. Như thế, chiến tuyến của quân Tống có mở rộng ra, thì cũng có thể lợi dụng kỵ binh tập kích tuyến vận chuyển của địch. Còn U Châu, chỉ cần giữ chắc, U Châu sẽ không dễ để chiếm được. Chỉ cần yếu địa này không mất thì những chư châu khác sẽ không bị đe dọa, cuối cùng không cần tấn công quân Tống cũng tự rút lui. Thậm chí tự chuốc lấy một lần thất bại thảm hại chưa biết chừng.
Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng với các tướng, Da Luật Hưu Ca thu thập ý kiến của mọi tướng thành tấu biểu, phái người trình lên triều đình, cầu xin thái hậu tiệp nhận đồng thời khuyên thái hậu và ấu chúa nên rời về Thượng Kinh. Việc liên lạc giữa U Châu và Trác Châu chưa bị chặn đứng, vì quân Tống dùng thuật công thành tam vi nhất nghi, tức chặn tam lộ nhưng lưu lại cho một lộ sống, phía bắc vì thế không có binh mã vây thành.
Da Luật Hưu Ca biết rõ cách làm của Dương Hạo, đây tức là Dương Hạo đang xem xét chủ tướng đối phương, ví như tương nghi, lấy hư thực đối phó địch, tương mãng, lấy dụ dỗ, lão thành để vây hãm. Nếu đại quân của hắn thực bỏ khỏi phía bắc, tức dọc đường ắt có mai phục, nhưng biết là một chuyện, có lúc biết rõ sự việc như trong lòng bàn tay, biết đây là bẫy nhưng vẫn cứ đâm đầu vào, đây chính là chỗ lợi hại của mưu kế này, ngươi có hiểu được, cũng chỉ có thể phá giải được bên ngoài, cũng không có cách nào mà giải quyết được.
Tiêu Xước nhận được tẩu biểu của Da Luật Hưu Ca biết được tình hình tiền trận hết sức nguy hiểm, nếu không sớm quyết đoán e là Da Luật Hưu Ca và đại quân Trác Châu sẽ bị tiêu diệt sạch, phải rút đại quân đó trở về ngay lập tức, như thế ít nhất cũng giữ được một binh lực lớn bảo vệ mình. Sau khi bàn bạc với bá quan văn võ U Châu, Tiêu Xước chấp nhận ý kiến của Da Luật Hưu Ca lệnh cho hắn bỏ lại Trác Châu, dẫn quân về U Châu.
Tuy nhiên, với y nghị thứ hai của hắn, bà không hề đồng ý. Lúc này đang là lúc nước Liêu rơi vào thế nguy hiểm loạn lạc nhất, nếu bà đưa hoàng đế về Thượng Kinh ngay lúc này cũng giống như là sơ hãi bỏ chạy, dù có biện hộ giỏi đến mấy cũng không thể phủ nhận được, việc này sẽ khiến lòng quân hoang mang, tất dẫn đến bại trận. Vậy nên, bà quyết định không thể rời khỏi U Châu.
Xét từ lý trí mà nói, Tiêu Xước làm như vậy là đúng, nhưng trong tiềm thức, bà quyết định lựa chọn như vậy thực là có phần đáng trách. Bà dù sao cũng là một thiếu phụ nhẹ dạ, là thái hậu một nước đảm đương chính sự, bà thực vẫn chưa tu luyện đủ phẩm cách để trải qua được sóng gió cũng như vấn nạn này, bà thực đang đấu lại với Dương Hạo.
Được lắm, khi ngươi lâm vào đường cùng, ta đã giúp ngươi, ngươi dâng thành cho Đại Tống, phản bội bắc triều, ta nhịn ngươi, bây giờ ngươi đoạt được thiên hạ Trung Nguyên, giống với tên phản tặc Triệu Nhị, ngươi không màng thể diện mà tranh đoạt lãnh thổ của ta, ta và con trai ngươi cứ ở đây. Ngươi cái tên không có lương tâm, ta tuyệt đối không nhượng bộ nửa bước, cùng lắm thì hai tử mẫu ta phơi xác tại thành U Châu này.
Nhưng lúc này tình hình nước Liêu không mấy khả quan, khi Triệu Quang Nghĩa đại bại cũng là do nhà Liêu có chút may mắn. Rất nhiều quan lại, quý tộc thượng lưu nước Liêu sau khi nếm mùi trận chiến bắc phạt của quân Tống đều cho rằng, nếu Triệu Quang Nghĩa không bị tức chết, hắn mà bất chấp truy đuổi đến Biện Lương, thì giờ đây chưa chắc U Châu đã còn trong tay nhà Liêu. Vậy nên, lần này Dương Hạo tiến đánh, ý nghĩ bi quan cứ hiển hiện trong đầu họ, như thế nếu hai bên đánh nhau, nhiều tướng lĩnh của quân Liêu sẽ sớm trở nên nản trí.
Dưới tình hình như vậy, Tiêu Xước cũng đành phải lo nghĩ xem liệu có nên cùng hòa đàm. Sau khi nghĩ đi nghĩ lại, rồi cùng thương nghị với đại thần văn võ, Tiêu Xước quyết định điều binh tiến hành bảo vệ U Châu. Bà vừa cẩn thận cân nhắc, viết một bức quốc thư, phái sứ đưa đến cho hoàng đế Đại Tống Dương Hạo. Trực tiếp một đế một hậu vừa đấu đá chính sự vừa bắt đầu nói chuyện đạo lý.
“Trẫm lấy làm vui mừng khi nghe tin đại vương lấy danh quân chủ Tây Hạ để thu phục cả Trung Quốc. Dưới chân hoàng đế bệ hạ có biết bao bách tính nguyện trí cung phụng, khắp thiên hạ người người không ngớt lời ca ngợi bệ hạ là bậc thánh hiền. Liêu Quốc và Tây Hạ vốn hữu hảo dài lâu, Liêu và Đại Tống cũng vẫn giữ hòa bình. Tuy nhiên họ Triệu hung ác âm thầm đem binh gây chiến, phá hủy điều ước, ngang nhiên bắc phạt, binh mã các lộ, bất danh bất nghĩa mà đoạt lấy, chuông trống gieo hò thảo phạt, dĩ thì dĩ niên, đất nước vì thế mà phải phát binh điều thuế vừa cung vừa phục dịch, phía đông từ Hải Đại, nam đến Du Giang, dân chúng thưa thớt, đâu đâu cũng tiêu điều hoang tàn, khổ cực khôn cùng. Thiên hạ khốn đốn, tuy Trung Quốc vốn nơi phú địa, qua năm nay há cũng thẩm đẫm khổ cực?
Đặc biệt là bách tính hai bên biên ải, từ việc hưng binh xảy ra, tu sửa hết thành lũy, dâng cống ngũ lương, điều phối bách đoạn, đến tận các châu quận. Dân binh vong mạng tới quá nửa, bách tính khốn khổ không kêu được thành lời, quốc khố triều đình rỗng không, công tư cũng không tránh nổi. Bệ hạ nếu thực trị nước lấy dân làm gốc, xin hãy dừng binh để làm yên lòng bách tính, lấy ân huệ để thu phục thiên hạ. Trẫm thực chân thành cầu hảo Trung Quốc, nguyện kết tình hữu hảo vĩnh viễn, trường tồn muôn đời”.
Sứ giả đem thư đến không phải là người ngoài, chính là Mặc đại nhân Mặc Thủy Ngân, Hồng lự tự nước Liêu. Dương Hạo nhận lấy quốc thư của Tiêu Xước, hồi âm lại nói: “Việc bắc phạt Hưng binh không phải do quần thần cầu đến. Thứ nhất là do quân Liêu đã tiến quân xâm phạm biên ải, thứ hai, chí tại U Yến hai châu địa, nếu không đạt được mục đích này, binh sư tất không oai hùng, thật không dám xem thường thoái lui”.
Mặc Thủy Ngân không ngờ Dương Hạo lại nói thẳng thừng không chút che giấu như vậy, vội vàng trở về bẩm báo cho thái hậu. Thái hậu tức giận đến cắn chặt răng lại, không làm thế nào được với kẻ nam nhân đang chiếm cường thế như vậy, đành phải cố nén tức giận mà tái gửi quốc thư, liệt kê U Vân hai châu là thuộc sở, lần này bức thư lại dài hơn vạn chữ, Tiêu Xước cũng thật là người kiên cường, trong quốc thư chỉ nhất loạt tranh luận theo đạo lý, không xen chút tình cảm nữ nhi nào.
Yến Vân mười sáu châu nghe nói tới thật lớn, nhưng rốt cuộc là lớn tới cỡ nào, ở nơi nào đây? Kỳ thực, Yến Vân mười sáu châu chính là một bộ phận của vùng Sơn Đông và phía bắc Hà Bắc bây giờ. Nếu nói về lịch sử sâu xa, thì từ rất lâu trước đây, nhà Vũ định Cửu Châu đã bao gồm cả vùng này. Nhưng đến trước thời Viên Hoàng, nơi đây đã có trú dân, còn muốn tra rõ vùng này thuộc binh tộc nào, e là khó mà biết được.
Nếu nói từ cuối thời Đường, cuối thời Đường xưng hùng được phân nửa, hình thành cục diện lịch sử Ngũ Đại “Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu” và mười nước “tiền Thục, hậu Thục, Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Mân, Sở, Nam Hán, Hán Bình và Bắc Hán”. Yến Vân mười sáu châu vốn của chính dân bản địa, sau đó rơi vào tay người Sa Đà thời Hậu Đường Trang Tông.
Tiết độ sứ Hậu Đường Thạch Kính Đường muốn tạo phản mưu lập cơ đồ, liền dâng nơi đây cho nước Liêu, đồng thời nguyện làm “hoàng nhi” của nước Liêu. Hoàng đế nước Liêu là Da Luật Đức Quang đã đáp ứng nguyện vọng của hắn, đem năm vạn kỵ binh viện trợ Thạch Kính Đường.
Nếu nói bị cắt nhường, vùng này thực được nhường lại từ tay ai đây? Trước khi nhường lại, vùng này lại thuộc chủ quyền của ai? Sau đó Sĩ đại phu người Hán, các nhà sử học đều nói Thạch Kính Đường đã lấy lãnh thổ vốn thuộc về người Hán để nhường lại cho tộc Khiết Đan nước Liêu. Theo đó mà nói, kỳ thực “U Vân mười sáu châu” này cũng không thuộc về người Hán, mà là của người Sa Đà, chứ không thể nói nó thuộc về triều Đường, triều đại vốn đã bị diệt vong từ lâu?
Nước Tống kế thừa lại là y bát của Hậu Chu, lãnh địa chỉ gồm có vùng Hà Nam, rồi dựa vào quân sự mà tiêu diệt các triều như Thục, Đường, Ngô Viêt, Sở, Nam Hán, Nam Binh, Bắc Hán. Lúc đó, cũng không tỏ ý chiếm lấy Trung Nguyên làm tự cư, giương cờ “thu phục thất địa”.
Triệu Quang Nghĩa dựng cờ hiệu thu phục lại thất địa, chỉ là vì muốn phô trương thanh thế. Điều này Dương Hạo hiểu rõ, Tiêu Xước cũng hiểu rõ. Tiêu Xước cho rằng nước Liêu chiếm lĩnh vùng đất này là điều đương nhiên, nhưng Dương Hạo cũng có cách nghĩ của riêng hắn.
Vừa nhìn thấy bức quốc thư, bá quan văn võ của Dương Hạo hiển nhiên cũng không chịu thua bởi lý lẽ. Mỗi người đều hằm hè xắn tay đòi đấu lý với nước Liêu. Đương nhiên, cũng đồng thời tiến hành việc quân sự, Phan Mỹ ngờ rằng tài văn chương lý lẽ của quan văn khó thắng, hắn liền đưa ra ý kiến với Dương Hạo: Tốt nhất nên điều ra mấy đại học sĩ trong triều chơi trò bút giấy, người phương bắc vẫn còn kém xa lắm.
Dương Hạo lắc đầu, trực tiếp cho gọi Mặc Thủy Ngân tiết độ sứ nước Liêu đến. Nói thẳng lời trước mặt hắn: “Yến Vân mười sáu châu trước đây sao lại thuộc về nước Liêu, sao lại không thuộc về Hán, Tấn, Đường hay Nam Bình? Bởi vì nước Liêu đã dựa vào bản lĩnh của mình để đoạt nó, người Hán chúng ta không có bán lĩnh chiếm lại, sự thực là như vậy. Còn những lời khác có nói đến đàng hoàng đĩnh đạc như thế nào đi nữa, cũng không thể che đậy thác từ được.
Bây giờ, chúng ta đã có bản lĩnh đó rồi! Nên chúng ta sẽ đòi lại.
Một nơi thuộc về ai? Ai đang chiếm lĩnh nó tức là thuộc về người ấy.
Thiên hạ là của ai? Ai đoạt được nó là của người ấy.
Như vậy Yến Vân mười sáu châu là của ai? Bắc triều nếu đánh bại được ta, vậy nó sẽ là của bắc triều.
Trẫm vì sao hưng binh ư? Vì một vùng U Yến, nơi đây vừa dễ đánh lại vừa dễ thủ, lại là bình phong cho cả Trung Nguyên, việc được mất nó quan trọng mật thiết tới vận mệnh Trung Nguyên của trẫm. Nay trẫm binh lực đang cường thịnh không đoạt lấy nó lẽ nào để lại hậu họa về sau cho con cháu? Vậy nên trẫm phải đánh, việc này không thể thay đổi được”.
Những lời này của Dương Hạo có thể dùng câu nói của Triệu Khuông để giải thích: “Ngọa tháp chi bàng, khởi dung tha nhân hàm thụy?” (Giường ta, há để kẻ khác năm ngủ?).
Mặc Thủy Ngân nghe đến đây mặt mày tái mét, hoảng sợ mà chạy vội về U Châu. Tiêu Xước nghe xong cảm thấy đau khổ vô cùng, nhưng lại cảm thấy thêm phần hiểu mới về sự thẳng thắn và cường thế của Dương Hạo. Không sai, hai bên tranh đi tranh lại, kỳ thực là vì cái gì chứ? Nếu nơi này khói táng hoang tàn, không chút giá trị, các vị quân chủ Trung Nguyên liệu còn có ý định chiếm đoạt vùng U Yến này nữa không? Hôm nay lời nói của Dương Hạo lại khác xa với các vị chân đế đó, có thể xem như một vị nam tử hán quang minh lỗi lạc.
Tiêu Xước nghiêm mặt, trợn tròn mắt nhìn, cắn răng một cái rồi vò nát quốc thư vừa nhận được từ Dương Hạo: “Hòa đàm vô vọng, vậy thì ta đánh!”.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên Tác giả: Nguyệt Quan
-----oo0oo-----
Quyển 16: A Na Ngã Từ Si
Chương 140: Quân Hán tới vạn binh bất khả địch ( 1+2+3)
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn: Sưu tầm
“Nay đại quân quân Tống phất cờ kéo quân trở lại, khí thế hùng hồn như chưa từng có, lại cộng thêm binh mã Tây Hạ, binh lực lại càng mạnh. Thế tử cho rằng, thái hậu và ẩu chúa trong tay chỉ dùng một tướng dũng như Da Luật Hưu Ca sao có thể đánh lại được cường địch?”.
Người vừa nói là một người khoảng hơn ba mươi tuổi, diện mạo bình thường, không có nét gì nổi bật, duy chỉ có đôi mắt thực có thần sắc, lộ rõ vẻ khôn khéo hơn cả. Nếu là các nhân sĩ Trường An hoặc những người quen biết ắt hẳn đều nhận ra đó là Hồ Hỉ Nhi, quản sự trong phủ Tề Vương Triệu Quang Mỹ.
Ngồi ngay hàng đầu là một đại hán cũng khoảng gần bốn mươi tuổi, thân người cao lớn, râu ria đầy mặt, đầu đội mũ quan, mặc một bộ hán phục. Tuy nhiên bộ y phục trông thật bó chặt vào thân hình to lớn của hắn, cảm giác như chỉ cần hơn chút cử động là đường chỉ sẽ rách toạc ra. Với vóc đáng này của hắn, nếu mặc một bộ Hồ phục vạt trái, đội mũ lông cừu, trông sẽ uy phong oai vệ hơn, còn bộ đồ Hán phục này, thực làm khiến cho người khác buồn cười.
Người này tên là Da Luật Lưu Lễ Thọ, chính là Tống vương, Da Luật Hỉ Ấn thế tử.
Tống vương Da Luật Hỉ Ấn từng bị liên quan đến âm mưu phản bội do Đức vương Da Luật Tam bày ra, sau đó bị cấm đặt chân tới U Châu. Vị thế tử Tống vương này bây giờ lại chính là người chỉ huy thực sự của cả bộ tộc này.
Lưu Lễ Thọ khẽ vuốt râu, lắc đầu nói: “Lai giả bất thiện, kẻ đến thực có ác ý, đại trận do binh mã quân Tống bày ra đã đủ làm ta đau đầu, nay lại hợp lực với quân Tây Hạ, có thêm cả một đội kỵ binh vững mạnh. Quân Tống giờ đây giỏi công giỏi thủ, tiến thoái tùy ý thực khó đối phó. Còn Da Luật Hưu Ca, trận trước đại thắng đa phần là do dựa vào cách đánh trận lâu dài, dụ hoàng đế Đại Tống vào trận mai phục mà chiếm được lợi thế. Nếu luận về thực lực, quân binh nước Liêu ta... E là khó địch nổi người Tống”.
Hồ Hỉ Nhi cười đáp: “Kỳ thực, nếu luận sự kiêu đũng, binh mã của bắc triều ta ai nấy từ bé cũng đã được tập luyện cưỡi ngựa bắn cung, lại tác chiến ngay trên lãnh thổ của ta, thực là có phần lợi thế hơn như vậy không cần phải quá sợ người phương nam. Chúng ta liên tiếp gặp phải thất bại, thực không phải do binh mã Bắc quốc quá ít mà là do thái hậu quá dựa dẫm vào Da Luật Hưu Ca, vốn có ý muốn kết duyên với hắn. Điều này thực mất thể diện hoàng thất, sẽ dẫn đến lòng dân nổi loạn, binh sĩ bất an”.
Lưu Lễ Thọ vỗ đùi một cái, hưng phấn nói: “Đúng vậy, ngươi nói thật đúng lý, chính là như thế!”.
Hồ Hỉ Nhi lại nói: “Lần này, Da Luật Hưu Ca làm tổn thất mất ba vạn nhuệ quân, nhưng hắn chỉ bị thái hậu chỉ trích đơn thuần, không có một sự trừng phạt chính thức nào, điều này chứng tỏ rõ rằng, thái hậu thiên vị hắn. Lần trước cũng vậy, U Châu bị bao vây, có hai tướng quân mang binh đến cứu viện muộn mất ba ngày, kết quả thì sao? Bị thái hậu hạ chỉ, chịu đòn roi trước mặt bàn dân thiên hạ, giáng chức xuống hai cấp. Vậy thử so sánh hai việc này xem, thái hậu thực là vì tư tình mà thường phạt bất minh, như vậy ai có thể kính phục đây?”.
Lưu Lễ Thọ lớn tiếng nói: “Đúng vậy, đúng như thế, hừ! Ta đã biết rõ, ả ta xinh đẹp như hoa, tuổi trẻ nhưng lại ở góa, sao có thể chịu được cô đơn nơi khuê phòng! Đường đường một thái hậu tôn kính lại đi cầu hòa với một tên quan thần, khác nào bôi nhọ lên thanh danh của hoàng thất ta. Bây giờ những lời đồn đó có ở khắp nơi đầu đường trấn phủ, người nói qua kẻ nói lại, thật không thể lọt nổi tai. Ta mỗi lần nghĩ đến lại thấy thực sự xấu hổ.
Hồ Hỉ Nhi cười thâm hiểm nói tiếp: “Tuy nhiên, thế tử cũng không cần phải quá nóng giận như vậy. Ngài không thấy là, điều này chính là cơ hội tốt cho chúng ta sao?”.
Lưu Lễ Thọ ngẩn ra, vội vàng đáp: “Cơ hội, ngài nói thế là ý gì?”.
Hồ Hỉ Nhi đáp: “Thái hậu và tên thần tử có tư tình, như vậy đã mất hết thể diện hoàng gia. Các hoàng thất, thủ lĩnh đại nhân của các bộ tộc tất nhiên sẽ oán trách trong lòng. Thái hậu không biết tự trọng, tức đã không còn tư cách làm mẫu nghi thiên hạ, ấu chúa lại trẻ người non dạ chưa hiểu việc chính sự, sao có thể nắm giữ được thiên hạ nhà Liêu đây? Trong tình hình như vậy, nếu thế tử nhân cơ hội phát binh, giơ tay triệu hiệu, ắt được ba quan văn võ ủng hộ. Như vậy chỉ cần bãi bỏ ấu chúa, để Tống vương thế tử lên ngôi?
Trước đây Lưu Lễ Thọ vốn đã tham gia âm mưu phản loạn của Đức vương Da Luật Tam cùng với phụ thân mình, mưu đồ phản trắc sớm đã nhen nhóm trong đầu hắn, lúc ấy chỉ cần bọn hắn hành sự bí mật, thì đã không bị triều đình bắt được nhiều yếu điểm khi chưa thực bộc lộ hành phản. Thế nên chỉ có Tống vương bị nhốt lại, chưa bị liên lụy quá nghiêm trọng vào sự việc. Nếu có cơ hội cứu được phụ thân, sau đó tiếp tục tái phản, Lưu Lễ Thọ đương nhiên sẽ không do dự.
Chỉ là Lưu Lễ Thọ lại do dự trong chốc lát, thở dài mà nói: “Việc thực đã không thành, thái hậu quả cao tay hơn nhiều. Trong mấy năm này, cả vùng Thượng Kinh đều bị ả ta nắm chắc không lọt chút quyền hành gì. Ta tuy vẫn là thủ lĩnh của bộ tộc nhưng lại không có chút quyền lực, ta thực không binh không quyền. Giờ tạo phản, ngươi bảo ta lấy gì để tạo phản đây?”.
Hồ Hỉ Nhi mỉm cười đáp: “Thế tử nói như vậy là tự hạ thấp mình rồi, triều đình nước Liêu ta có biết bao trung binh nghĩa sĩ, chứng kiến thái hậu một tay thâu tóm quyền lực. Khống chế ấu chúa, quốc gia lại đang lâm nguy, kẻ nào lại không nghĩ tới việc tận trung báo nghĩa, phục đỡ chính nghĩa chứ? Nếu thế tử có lòng, tiểu nhân nguyện tiến cử một người, người này trong tay nắm giữ trọng binh, nếu có ý phò trợ thế tử, đại sự tất thành”.
Lưu Lễ Thọ hai mắt nhắm lại, nghi hoặc hỏi: “Ưm! Ngươi vốn chỉ là một gã thương nhân, sao lại mưu cầu đanh lợi việc này?”.
Hồ Hỉ Nhi cung kính đáp: “Cho dù có là địch quốc trù phú, thực cũng chỉ là một kẻ thương nhân ti tiện, tiểu nhân chỉ muốn hiến mưu xuất lực... Cống hiến chút tài khuyển mã phò trợ thế tử. Đến được ngày Tống vương ngài đăng cơ xưng đế, thế tử được được lên làm thái tử. Tiểu nhân... Như vậy tiểu nhân có thể thẳng lưng mà đường đường chính chính, có được thân phận đáng nể như Quách Tập, làm rạng danh tổ tiên, gây cơ đồ rộng mở cho con cháu sau này, như thế cũng là việc đáng làm cả đời thần”.
Quách Tập là đại thần nhà Hán, khi đó được đương kim thái hậu tin dùng, nay được phong làm xu mật sứ Nam viện, kiêm chức chính sự lệnh, tiết độ sứ Phong Võ Định quân, là kẻ dưới một người đứng trên vạn người. Lưu Lễ Thọ nghe vậy liền bật cười: “Nếu phụ thân ta lên ngôi, tất sẽ phong cho ngươi chức quyền của Quách Tập. Ha ha, mau... Ngươi nói có kẻ tướng lĩnh nắm trọng binh trong tay nguyện giúp ta hoàn thành đại sự, lời này có thực không? Hắn là ai?”.
Hồ Hỉ Nhi đứng thẳng người lên, ho nhẹ một tiếng rồi nói: “Vương huynh, thế tử cho hỏi, còn không mau ra bái kiến...”.
Lời chưa dứt, một người đã nhanh chóng bước ra từ sau tấm bình phong, thân người khoác một bộ giáp đen, đầu đội mũ lông quạ tay cầm bội kiếm, nhìn diện mạo có vẻ chưa tới bốn mươi tuổi, khuôn mặt mày ngài sắc nhọn, anh tuấn cường tráng.
Lưu Lễ Thọ cảm thấy kinh hãi, vội nhảy dựng lên, thất thanh nói: “Vương Quan Vũ! Vương chỉ huy sử ư?”.
Vương Quan Vũ cung kính cúi người hành lễ, cao giọng nói: “Đúng là mạt tướng, mạt tướng Vương Quan Vũ chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, thần đã từng được yết kiến Tống vương thế tử”.
Lưu Lễ Thọ được gặp người này không khỏi vừa mừng vừa sợ, thì ra đây chính là Vương Quan Vũ chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, dưới trướng có tới sáu vạn quân Hán trấn thủ Thượng Kinh. Nay chiến sự U Châu khẩn cấp, đến binh mã Liêu Dương ở Đông Kinh cũng bị điều đi. Quân cấm vệ cung, quân tộc trưởng ở Thượng Kinh cũng đi theo ngự giá, số binh mã lưu lại trấn thủ Thượng Kinh giờ do chính quân Hán làm chủ lực.
Tiêu Xước vốn nghĩ rằng, lần mưu phản trước đây đều do Khiết Đan cầm quyền, có rất ít quân Hán cùng tham gia tạo phản, nàng nghĩ rằng để quân Hán ở lại trấn thủ Thượng Kinh là thỏa đáng nhất. Không ngờ Trịnh gia lại hoàn toàn có ý phản trắc, muốn mưu đồ đoạt vị tại nước Liêu này.
Mấy vị tướng lĩnh quân Hán này đều xuất thân từ gia thế phương bắc. Thường dân bách tính người Hán trong mấy năm này cũng dần mở mày mở mặt, được lên làm quan chức. Trước đây, ngoài tộc Khiết Đan ra các tộc khác đều bị áp chế, con cháu người Hán bình thường đều không có quyền được học văn tập võ, nên chỉ có những nhà gia thế như vậy mới được giáo dục, được triều đình nhà Liêu trọng dụng.
Đương nhiên, cũng hoàn toàn do xuất thân của họ nên dù là võ nhân, họ cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa dân tộc mình, quan niệm truyền thống của người Hán, đối với họ, cuộc sống thường dân dù ở góa đơn độc, rồi tái giá cũng là chuyện bình thường, nhưng thái hậu lại là thân phận khác, chẳng phải là đấng tôn nghiêm cao quý sao? Thái hậu một nước lại dám có hành vi ấy, rõ ràng là loan luận bại đức, làm vấy bẩn lên phong tục dân tộc lâu đời, nhất định phải chịu sự khinh bỉ của bàn dân thiên hạ.
Tin đồn Tiêu Xước và Da Luật Hưu Ca có tư tình, vốn chỉ là do vài tên nghiệp dư nghe ngóng từ Chiết Tử Du mà bày đặt thị phi, cố ý truyền đi khắp nơi. Vốn dĩ bách tính thiên hạ cực kỳ để ý chuyện tư tình nam nữ, chỉ cần có người truyền ra là họ sẽ ầm ĩ hết lên. Chuyện đồn đại qua tai nhiều người thường lại càng bị nói phóng đại lên, một người nói một khác, tin đồn ai ai cũng biết, đến lúc Vương Quan Vũ nghe được cũng tin là thật.
Sau đó, Hồ Hỉ Nhi đã dùng quà các biếu xén để kết giao thâm tình, khéo léo dụ dỗ, dần thuyết thục được hắn, nói rằng Tiêu thái hậu không đoan chính, không có tư cách làm mẫu nghi thiên hạ, chỉ cần ta hưng binh phế truất, tất nhiên sẽ hợp ý tất cả các quý tộc hoàng thất.
Được họ ủng hộ, việc này chắc chắn sẽ thành công, vì vậy hắn mau chóng biến thành kẻ đồng mưu với Hồ Hỉ Nhi.
Có hai kẻ hạ thủ cùng bàn đại sự, Lưu Lễ Thọ nhất thời cảm thấy mừng rỡ, nhưng nghĩ lại lần chính biến trước bị thất bại, may mà lọt lưới nên mới thoát tội khi quân, hắn không khỏi thấy sợ hãi, hắn lo lắng hỏi: “Vương tướng quân, quân Hán trên dưới, ngươi có thể khống chế được hết không? Ngươi có biết rằng chỉ cần sơ xảy một chút là ta và ngươi đều sẽ bị chém đầu không?”.
Vương Quan Vũ cười ha hả đáp: “Trong số các cánh quân Thượng Kinh, quân Hán ta trước giờ đều bị cấm vệ quân, quân tộc trưởng coi thường, các tướng sĩ cũng bị bọn chúng xa lánh kỳ thị, bởi vậy luôn cùng nhau đoàn kết, ky luận thống nhất, Vương mỗ hiểu rõ quân Hán của mình như lòng bàn tay, tuyệt đối tin rằng ‘quân Hán trên dưới như một’”.
Vương Quan Vũ tự tin mà dứt khoát, giương giọng nói: “Các ngươi mau ra đây đi, cùng yết kiến thế tử...”.
Sau tấm bình phong lớn, xuất hiện năm người đều mặc áo giáp đi ra, đó là: Lý Kiếm Bạch phó đô chỉ huy sử quân Hán của Thượng Kinh, Trinh Thiên Hạo chỉ huy sử Mã quân, Ác Duy chỉ huy sử Bộ quân, úy Trì Phong đô ngu hầu quân Hán và Chu Khí, sáu vị đại tướng nổi danh của quân Hán đều tập trung tại đây. Lưu Lễ Thọ vui mừng khôn xiết mà vỗ tay khen ngợi: “Thế này thì đại sự tất thành!”.
Hồ Hỉ Nhi cười nham hiểm đáp: “Đây vẫn chưa đủ, tiểu nhân đã liên giao với cả mấy bộ lạc như Bạch Cam, ngoài ra cũng cử người đi thuyết phục bên phía Nữ Chân, Thất Vi, chỉ đợi mọi việc hoàn tất, thế tử có thể hành động, nhất cử mà chấn động cả thiên hạ”.
Lưu Lễ Thọ nhìn lên trời cười to, không biết hắn đang mừng hay sợ nữa...
*
* *
Tiêu Xước lại lần nữa phái Mặc Thủy Ngân đến đại doanh của quân Tống, lần này chỉ đem đến một hộp cẩm hạt.
Bên trong chiếc tráp, có một mẩu giấy, bên trên vẩy mực tung tóe, chỉ ghi có sáu chữ: “Quân muốn chiến, ta sẽ chiến!”.
Dương Hạo nhìn xong im lặng không nói gì, sau khi để Mặc Thủy Ngân quay về, mới trở vào thất phòng, tự mình cầm chiếc cẩm hạt mà trầm ngâm lúc lâu. Hắn lại nhẹ nhàng mở hộp ra, gỡ tờ giấy vẩy mực rồi mở tấm lụa phía dưới đáy hộp, bên dưới thực đã đặt sẵn những thứ đồ trang sức, từng chiếc từng chiếc một được lau bóng loáng xếp đặt đều đặn tỉ mỉ. Trang sức ánh sắc long lanh, có lẽ... Khi đêm khuya lúc mọi vật tĩnh lặng, Tiêu Xước thường hay lấy chúng ra ngắm nghía.
Tại sao phải biệt ly? Trâm cài người tặng trên mái đầu...
Tại sao lại nói điều ân cần? Hẹn thề một đôi sống chết...
Tại sao lại ước hẹn? Chung tay đến trời biển...
Tại sao lại kết ân tình? Mỹ ngọc nguyện một lòng...
Tại sao lại xa cách? Để lòng này tương tư...
Còn nhớ lần trước, Tiêu Xước đã giữ đến một nửa số trang sức, Dương Hạo hiểu rõ rằng nàng dùng nó để bày tỏ tâm ý của mình. Nàng đang hy vọng, sẽ có một ngày nào đó, chính tay Dương Hạo hắn sẽ đeo lên người nàng những thứ đồ trang sức đang thiếu mất một nửa này, nhưng...
Quân muốn chiến, ta sẽ chiến!
Dương Hạo thở đài một tiếng, trong lòng buồn bã: “Khoảng cách giữa hai chúng ta càng ngày càng lớn, có lẽ cả đời này cũng không còn cơ hội nữa rồi”.
“Tâu... Da Luật Hưu Ca tập kết binh mã, đánh tới Trác Châu, hòng chạy về phía bắc!”.
Dương Hạo vội đứng bật dậy, nỗi buồn lúc nẫy đã mau chóng biến mất, trên mặt hắn giờ đây đằng đằng sát khí!
Quân Liêu đã rút lại binh lực, cố thủ Nam Kinh, theo như kế hoạch của Da Luật Hưu Ca, cứ cố thủ Nam Kinh, từ đó làm tiêu hao quân chủ lực của Dương Hạo. Như vậy, quân lộ trung của Dương Kế Nghiệp đang đơn độc chiến đấu và quân lộ tây của Tào Bân hiển nhiên sẽ không làm được gì. Chúng sẽ tránh việc tiên phong giao chiến cho đến khi hợp lực toàn quân, chúng sẽ không chủ động quyết chiến với hắn.
Cuộc chiến bảo vệ U Châu lần thứ hai này, khi mưu đồ của Da Luật Hưu Ca bắt đầu, ba trong bốn vị vương gia trong vương phủ Khiết Đan là Da Luật Cảnh đại vương Nam viện, Bồ Nô Trữ đại vương Bắc viện, Trù Trữ Hề đại vương cùng với Bồ Lĩnh tuyên huy sử Bắc viện đã hội tụ tại U Châu của Nam Kinh nước Liêu này.
Đồng thời, Da Luật Hưu Ca đã mệnh lệnh cho binh mã các lộ vừa đến tập kết tại U Châu vừa tiến hành đánh du kích quân địch, quấy nhiễu tuyến vận chuyển lương thảo quân dụng của quân Tống, bày bố các cuộc tập kích nhỏ quân Tống, di dời dân thường của các châu huyện quanh đó, thực hiện kế vườn không nhà chống.
Nhưng đại quân của Dương Hạo lại hùng hổ tiến thẳng tới U Châu, căn bản không phân tán đóng quân ở những vùng huyện mà họ vừa chiếm lĩnh được, theo như Dương Hạo đã định, tấn công quân địch cũng tức là tự cứu được mình, ép cho địch phải lùi lại, binh mã tiền trận nước Liêu ắt không đánh mà lui.
Dương Hạo hành động nhanh nhẹn, thoạt nhìn cứ ngỡ cách đánh hoàn toàn giống với Triệu Quang Nghĩa, nhưng lực cơ động lại cực khác nhau. Cùng một chiến thuật nhưng hiệu quả lại không giống, lực uy hiếp đến quân Liêu cũng lớn hơn hẳn. Quân Tống chỉ có một nhược điểm quy nhất, đại khái chính là vấn đề cung ứng lượng lớn lương thảo vào trận tuyến. Dương Hạo đã dùng cả bộ thủy hai đường vận chuyên lương thảo, theo sát sau đại quân.
Phía đường thủy, trước có thuyền phá băng, sau là thuyền chuyên chở lại thêm binh đội hộ tống chặt chẽ. Nhưng có điều được vài quãng, thuyền phá băng vừa phá tan mặt băng dày, nước lại tiếp tục đóng tảng, không thể duy trì được tốc độ đã định, các binh sĩ buộc phải dùng chính sức mình di chuyển lương thảo trên tàu đi. Ngoài lương thảo ra còn có lượng lớn cỏ, họ đành phải chuyên chờ nó theo sau đó.
Phía đường bộ, quân Tống dùng thêm nhiều lừa ngựa thồ vận, binh mã của Dương Hạo thậm chí đã vượt qua cả binh đội của quân Liêu đang quay về bảo vệ U Châu, nhưng Da Luật Hưu Ca vẫn lệnh cho họ vừa quay về U Châu vừa đánh du kích quân Tống, lấy kỵ binh tấn công vào tuyến vận lương cả thủy và bộ của địch.
Trong lịch sử chiến tranh trong ngoài nước, cũng có những việc tuy rất nhỏ nhặt nhưng lại ảnh hưởng lớn thay đổi cả tình hình chiến cục. Trong hoàn cảnh hai phe vừa hành quân vừa tiến đánh này, dù chỉ là một vụ nổ pháo đạn đúng lúc. Trận mưa bão đột ngột, một lần giao chiến bất ngờ nằm ngoài dự liệu hay một đám binh sĩ ngộ chiến chỉ huy địch... Cũng rất quan trọng, may rủi đều đưa đẩy đến thắng bại.
Vào chập tối một ngày, Lưu Bảo Huân quan hộ tống áp lương của quân Tống đã mạo hiểm vượt qua bão tuyết, vận chuyển trăm xe lương thảo bằng đường bộ đến Kỳ Môn câu. Khi đi đến đoạn vòng khúc hiểm trở, từ đâu ồ ra hơn ba nghìn quân binh Liêu Quốc, chúng đã mai phục dọc theo đường này rồi xông ra đánh chém. Trong cả lộ tuyến này, tả hữu trước sau đều đông nghịt quân Tống, nhưng quân Liêu lại quen thuộc địa hình, nên đã thừa cơ quân Tống sơ xuất đến đột kích.
Lưu Bảo Huân ứng phó không xuể, không kịp xếp đặt xe thồ để cho bộ binh bày đại trận, hắn đành lệnh cho quân binh vội vàng vận chuyển xe lương vòng tròn mà chống lại quân Liêu, nhưng quân binh rơi vào thế bị vây hãm, quân Tống hoang mang khó mà trụ nổi công kích của quân Liêu. Quân Liêu tứ phía bủa vây, một trận chiến máu lửa tản ác xảy ra, Lưu Bảo Huân, Lưu Lợi Hiệp tào binh Khai Phong và cả Trung Thừa Khổng trung điện đều chết trận tại chỗ, binh tốt thương vong vô số, xe lương đều bị đốt sạch.
Khó khăn lắm mới hành binh tới gần Kỳ Môn câu, Lý Hoa Đình và Lưu Đình Nhượng lúc này mới nhìn thấy đám khói mù mịt cách hơn mười dặm về phía bên phải, họ vội vàng dẫn quân lao đến. Đám quân Liêu này vừa thoát khỏi Thiên Quan, cũng chính là nơi Lưu Đình Nhượng gặp trúng mai phục của quân Liêu, ba vạn đại quân của hắn bị đánh cho tơi bời. Hắn vốn đã căm thù quân Liêu ngút trời, giờ lại chứng kiến cảnh quân lương tan tác thảm bại, hắn lại thêm hận đến tận xương tủy, lập tức lệnh cho đoàn quân tốc hành đuổi theo.
Kỳ thật, trên cả chặng đường, quân Liêu đã lợi dụng việc dụng binh nhanh nhẹn, thông thuộc địa hình, dùng nó để bày trò đánh nhiễu quân địch. Thế nên việc truy kích là bất thành, Lý Hoa Đình vốn không muốn đuổi theo, hắn nghĩ rằng quân Liêu đột ngột công kích nhỏ lẻ như vậy chứng tỏ chúng đang kìm chế việc quân Tống kéo binh đến đánh U Châu, cũng đang tốc hành trở về, ắt sẽ sợ đối mặt trực diện đánh trận quyết chiến. Nhưng hắn lại không ngăn nổi Lưu Đình Nhượng vị lão tướng nước Tống đang sôi sục máu lửa này, đành phải theo đó mà dẫn quân truy kích. Thời tiết bấy giờ cũng không khả quan cho lắm.
Cuộc truy đuổi rồi cũng truy được tới địch. Lúc này, tuyết lớn đang rơi, trời đất khắp nơi mù mịt, bóng đêm đang dần buông xuống. Hai người dẫn quân truy kích nhưng trên mặt đất đã dần mất hết tung tích của địch, họ giờ thực đã bị lạc đường, đám quân Liêu sớm đã cao chạy xa bay, còn họ thì hồ đồ chạy loạn về phía trước. Tuy nhiên, đúng lúc này, tại một thôn trang hẻo lánh ven sông, họ bắt gặp một đám quân Liêu khác đang trú quân.
Đám quân Liêu trú quân ở đây không khỏi kinh ngạc mà tròn mắt há hốc mồm ra nhìn, đại quân quân Tống đột ngột từ đâu như trên trời đổ xuống, ào ạt tiến đánh.
Thì ra, đám quân Liêu này đang áp vận lượng lớn khí giới công thành thu được dưới chân thành U Châu từ lần trước, chuẩn bị chuyển đến cho binh đội chuyển vận ở biên ải Tống Liêu. Đám quân này lúc trước đang định vận chuyển khí giới đi thì nghe tin Da Luật Hưu Ca đại bại, kế hoạch thay đổi, tạm thời chưa cần tới khí giới công thành. Việc tạm thời dừng tiến, làm đám quân này phải đóng quân tại yếu địa giao thông bắc nam, họ liền trú ẩn ở thôn trang hẻo lánh này, đợi chờ thế cục thay đổi.
Nếu họ đem hủy hết số khí giới này là thỏa đáng nhất, nhưng người Liêu lại tiếc rẻ. Đối với họ mà nói, những khí giới tinh xảo như vậy nước Liêu khó mà tạo ra được, đây thực là bảo vật hiếm có. Những loại vũ khí mới mẻ như thế có giá trị lớn đối với họ, lợi dụng chúng họ sẽ có binh lực mạnh hơn nhiều, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, sao có thể hủy chúng được.
Hơn nữa, đám quân Liêu này lại không nắm rõ được tình hình tiền tuyến, họ chỉ biết tin Da Luật Hưu Ca trúng kế dẫn đến đại bại, giờ đang thu hợp quân binh, định ý ghìm trận giằng co với quân Tống ở Tam Quan, họ nghĩ đợi xem tình hình rồi quyết. Không ngờ quân Tống không bị vướng quân binh ở biên ải, lại sẵn sàng chuẩn bị đánh thẳng tới U Châu, lại còn hành tốc đi lên trước cả quân Liêu ở biên ải.
Tình hình vốn như thế, nhưng đám quân lại không nằm trong tuyến quân giáp trận, tin tức nhận được vốn đã thiếu sót, nếu muốn thăm dò hỏi tin cũng phải mất nhiều thời gian, cho nên hiện giờ vốn đã mất hẳn liên lạc với đầu quân.
Theo lý mà nói, họ trú quân tại nơi thôn trang hẻo lánh, dù quân Tống lại nóng lòng tiến đánh U Châu, thần tốc hành binh chắc không hơi đâu mà vòng qua càn quét nơi hẻo lánh không chút đáng giá này, cũng sẽ không phát hiện ra những thứ khí giới này. Ai ngờ đâu, Lưu Đình Nhượng và Lý Hoa Đình lại mạo hiểm truy đuổi, lạc đến nơi đồng không mông quanh này, để rồi bắt gặp toán quân nhàn hạ này, kết quả quân Tống đánh bậy đánh bạ vào đây, bắt được cả người lẫn vật, đoạt được một loạt vũ khí.
Có được số chiến lợi phẩm này, Lưu Đình Nhượng lấy làm mừng rỡ, lần đại chiến ở U Châu, vì gấp gáp rút lui, quân Tống gặp mai phục ở sông Cao Lương bị đánh tơi bời còn không kịp báo tin cho quân mình ở gần đó. Quân hắn thảm bại, mất hết sức chiến đấu, chỉ còn lại binh hậu cần và binh thợ, khả năng tự bảo vệ của đoàn quân cực thấp, nên bị sát hại tổn hao vô số.
Hơn nữa bây giờ đang là mùa đông, dù binh thợ có nhanh tay đến mấy cũng không kịp tạo đủ số khí giới như lần trước được. Nay có đượcc số khí giới này, quân Tống sẽ được lợi vô cùng, công đánh quân Liêu sẽ dễ dàng hơn. Lưu Đình Nhượng vừa giải thích, Lý Hoa Đình liền ngạc nhiên mà vui mừng, trận loạn đánh này lại hóa kiếm được đại công!
Ngay sau đó, Lý Hoa Đình vội vàng lênh quân áp tải những tù binh cùng với khí giới lên đường, nhưng lão tướng Lưu Đình Nhượng có phần suy nghĩ cẩn trọng hơn. Hắn biết được tầm quan trọng của những khí giới này, đối với người Liêu, thứ bảo bối này còn trọng yếu hơn cả quân lương, lại nói về trận đánh vừa nãy, hai phe đều đột ngột giao chiến, phía địch đã có vài binh tốt chạy trốn được, một khi chúng thoát về bên quân Liêu và báo lại cho chủ tướng, chúng sẽ đem quân trở lại tấn công quân ta cướp lại bằng được khí giới. Nghĩ vậy, hắn liền nhắc nhở Lý Hoa Đình, phải thông báo việc này cho chủ tướng quân lộ đông, để họ mang quân tiếp ứng.
Lý Hoa Đình mới vỡ lẽ, lại lập tức phái người đi liên lạc với chủ soái, tín sứ vừa đi được nửa ngày, họ đã gặp được một đoàn quân khác đang tốc hành ngay sau, hỏi thăm tình hình mới rõ việc khí giới, nhận biết là việc trọng đại, đội binh này liền mau chóng hộ tống quân của Lý Đình Hoa lên đường, hành động nhanh nhẹn.
Đến đêm quả nhiên có một đạo quân Liêu tới đột kích, có khoảng đến bảy ngàn quân, dẫn đầu là Tiêu Thát Lẫm. Hắn cũng là một mãnh tướng nước Liêu, văn thao võ lược, trí dũng song toàn, chứ không phải là loại dũng tướng tầm thường. Hắn cũng có ý chí tiến thủ cao, trước đây khi Da Luật Hưu Ca được thăng chức như bay hắn cũng không phục, đối với hắn mà nói, hắn giỏi không thua kém gì Da Luật Hưu Ca, nếu có kém cũng chỉ là không gặp may thôi.
Vừa nghe tin quân Tống đoạt được khí giới, hắn biết là việc nghiêm trọng, thứ này vốn là vũ khí sắc bén nhất để công phòng thành trì về phương diện nào đó đủ để quyết định thắng bại. Thiếu thứ này, quân Tống sẽ khó mà công thành, quân Liêu sẽ bớt được gánh nặng. Kể cả hủy nó đi, quân Tống sai người chế tạo lại cũng phải mất nhiều thời gian, thậm chí không kịp mà hoàn thành.
“Thật là ngu xuẩn, đống khí giới đó lúc nào cũng phải chất cỏ khô lên trên, nếu thấy bất lợi lập tức đốt hủy ngay, các ngươi gặp phải quân Tống lại chỉ lo thoát thân, đúng là dâng vào miệng địch mà!”.
Dưới cơn thịnh nộ, Tiêu Thát Lẫm đã hạ lệnh chém chết mấy tên vừa tháo chạy về, tự mình dẫn quân đi truy sát quân Lý Hoa Đình, đồng thời hắn phái người đến báo tin cho binh mã các ngả phía vùng biên ải và cả đám quân đang truy đuổi quân chủ lực phía Dương Hạo của Tiêu Can và Hàn Khuông Tự.
Binh mã của Lý Hoa Đình, Lưu Đình Nhượng và Đồng Vũ đánh một trận đẫm máu với quân của Tiêu Thát Lẫm, hai bên đều bị trọng thương. Quân Tống bảo vệ tới cùng chỗ khí giới, quân Tiêu Thát Lẫm lại càng không bỏ qua, hai bên không ngừng giằng co, vừa đánh vừa tiến, một mạch giao chiến tới tận chiều ngày thứ hai. Lúc này quân bộ điền trọng quân Tống đã biết tin cũng đem quân xông tới viện trợ, quân Tống giao chiến lại càng hưng phấn.
Tiêu Thát Lẫm nhận thấy sắp không trụ được, đang định ra lệnh rút lui thì Tiêu Can và Hàn Khuông Tự đã dẫn quân đến, rốt cuộc cũng kịp lúc. Quân Liêu thấy thế lại càng hăng hái, hai bên thành ra ngang ngửa thế trận, lại tiếp tục giao chiến đến tận hoàng hôn rồi lại mải miết đánh chém đến nửa đêm. Lúc trận chiến đang hung hãn nảy lửa nhất thì Phan Mỹ đã nhận được tin báo, hắn tức tốc thống lĩnh quân binh quay lại cứu viện.
Vì một lần bị quân Liêu cướp phá lương thực, làm cho lão tướng Lưu Đình Nhượng của quân Tống oán hận mà đuổi theo, lại bất ngờ đoạt được chỗ khí giới công thành này. Quân Liêu các ngả nghe tin lại lấy làm lo sợ, hộc tốc phản ứng lại, mong rằng kịp thời phá hủy đống khí giới này khỏi tay quân Tống trước khi đại quân của địch hợp lại. Kết quả chỗ khí giới của Triệu Nhị Thúc tạo ra lại trở thành một mồi lửa dẫn dụ cả đám thiêu thân chạy tới.
Hai bên giao chiến đến tận khi trời sáng, giờ mới có ý định rút lại binh mã. Trên một vùng đồng bằng lớn, hai đám quân đen kịt đang giằng co, đến lúc nhìn lại thế trận, chủ tướng hai bên không khỏi kinh hãi.
Khí giới trong tay quân Tống được bảo vệ chặt chẽ, họ đã bố trí binh tốt vây quanh bên trong, kỵ binh lập vòng vây bên ngoài, tránh cho quân Liêu nhảy vào phá hỏng. Tống binh lực bấy giờ khó mà tính được, chỉ nhìn qua đám kỵ binh, cũng phải đến hơn tám vạn. Còn đám quân Liêu, khắp nơi tụ đến cho nên đều là kỵ binh, đám quân của Tiêu Thát Lẫm, Tiêu Can và Hàn Khuông Tự cũng vậy, cứ thế đối diện mà đứng.
Qua đó có thể nhận thấy cục diện thực đang thăng bằng, binh lực hai bên đa phần đều là kỵ binh, vị trí lại cùng trên bình nguyên trống trải.
Vậy một khi xảy ra việc kỵ binh đối mặt kỵ binh, hai bên giằng co không phân thắng bại thì phải làm sao đây?
Chỉ có một biện pháp duy nhất, quyết chiến! Tử chiến!
Quân đoàn bộ binh giằng co thì có thể tự do rút lui, kỵ binh mà giao chiến như vậy, lại thêm địa hình xung quanh bằng phẳng không núi non, không thể vừa rút vừa chống đỡ được địch, kết quả chỉ có một cách duy nhất, chưa chết thì chưa dừng.
Bởi vì, chiến mã dù có được huấn luyện tốt đến đâu thì vẫn chỉ là súc vật, không phải là người. Một khi thoái lui ắt rối loạn trận hình, nếu đối phương cũng là kỵ binh, như vậy sẽ được lợi mà toàn quân xông kích, kết quả bị giết hại cả loạt.
Ai cũng không ngờ lại gặp phải một trận đánh như vậy, quân Liêu vốn đang né tránh quyết chiến với quân Tống để mau chóng trở về U Châu, lại biết rõ địa thế nước mình như lòng bàn tay, nên quân Tống muốn tìm quân Liêu quyết chiến cũng thực khó khăn. Nay nhờ chỗ bảo bối này lại xảy ra đại trận, binh mã không ngừng đổ bộ về đây. Ban đêm hỗn loạn đánh chém, đợi đến khi mặt trời rọi sáng mới vỡ lẽ, phát hiện ra vấn đề nghiêm trọng, việc quyết chiến đã không thể né tránh được.
Vạn mã cùng hí vang tiếng, chiến trường chợt tĩnh lặng, Phan Mỹ đã dẫn quân đến, hùng hổ tiến đến như điên đại. Đang lúc mơ tưởng tìm được quân chủ lực của địch, tiêu diệt đến sạch sẽ trước khi xảy ra trận đại chiến ở U Châu hóa ra đã ở ngay trước mắt, có thể thực hiện nguyện vọng đó ở ngay đây.
Cưỡi trên lưng ngựa bệ vệ, Phan Mỹ quất roi ngựa chi về phía đại quân quân Liêu, cao giọng quát: “Quân Liêu đã ngay trước mặt, tướng soái nào nguyện vì bản soái mà phá trận?”.
“Mạt tướng nguyện đi!”. Lý Hoa Đình, Đồng Vũ đồng thanh nhận lệnh, hai người nhìn nhau một hồi, Đồng Vũ lại cười nói: “Lý tướng quân, quân của ngài chỉ có tới một vạn thiết kỵ, quân địch lại đông không dưới bảy vạn, trận này nên để Đồng mỗ ra tay!”.
Lý Hoa Đình vẻ mặt hung hăng, sát khí đằng đằng nói: “Muốn diệt được địch, ắt dựa vào tướng, phá trận này Lý mỗ ta chỉ cần một vạn binh mã là đủ!”.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên Tác giả: Nguyệt Quan
-----oo0oo-----
Quyển 16: A Na Ngã Từ Si
Chương 141:: Chỉ có thể chiến mà thôi. ( 1+2+3)
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn:Vip Van Dan
Đả tự : 4VN
Share by: Mộng Hoa Trang
"Các tướng sĩ. Liêu kị đang ở trước mặt. tùy ý chém giết, chặt đầu tướng cướp cờ hiệu, lập đại công hiển hách!"
Lý Hoa Đình giơ cao thanh đao lên không trung, hô lên hiệu lệnh ngắn ngủi, rồi xông tới làm tiên phong hướng về phía quân Liêu.
"Giết!"
Hàng loạt đại thương đại thuần chĩa thẳng lên trời đi theo nó là những tiếng gào thét rầm vang, sĩ khí kị binh ngùn ngụt xông lên phía trước.
"Giết!'
Gần nghìn kị binh với vô số phi mã lại giơ đao sáng lóa cùng với hàng binh sĩ thứ hai lại hét lớn xông tói.
"Giết!"
"Giết!"
"Giết!"
Từng đội Tống kị dàn hàng theo hình chữ Khiết xông lên. hơn mười tầng quân Tống kị hình thành một đầu mũi tên cực đại, phi thẳng về trung quân của Tiêu Thát Lâm.
Vừa nhìn thấy uy thế của Lý Hoa Đình. Phan Mỹ không khỏi vuốt râu khen ngợi: "Lý tướng quân thật là anh đũng!"
"Hán nhi uy vũ, quân ta tất thắng! Hán nhi uy vũ, quân ta tất thắng!"
Những tướng sĩ còn lại người giơ đao người giơ thuẫn, người giơ thương, hô lên những âm thanh vang dội làm chấn động lòng người, dùng tiếng hô của mình để làm tăng thêm sĩ khí chiến đấu cho chính mình.
Mắt thấy Tống quân chỉ có hơn mấy trăm kị nhưng thế lại như hổ báo. Tiêu Thát Lâm tức giận thôi râu. nắm chặt cán trường thương hô to: "Nghênh địch."
Khói bụi mịt mù. liên miên không đứt. Lý Hoa Đình mang theo một vạn thiết kị. thế như vũ bão, xông thẳng về bổn trận của Liêu quân, nhất thời người ngã ngựa đổ. tiếng chém giết tàn khốc vang lên.
Sự tức giận lan tràn, tiếng hô gầm như sóng cuộn, cả một bình nguyên khắp nơi đều là chiến mã điên cuồng chạy, giữa không trung đêu là những mũi trường thương, lợi đao. cơ chiến chĩa thẳng lên. một vạn hán kị đã xông vào bổn trận Liêu quân, lại giống như một chảo dầu sôi đột nhiên bị đội một gáo nước lạnh vào, lập tức nổ tung tóe.
Lúc này năm vạn kị binh bộ Đồng Vũ ở sau điện vẫn đứng yên không nhúc nhích, yên tĩnh như núi nhạc, tuyệt nhiên không có tiếng động, chỉ có chiến kì bay phấp phới, càng tăng thêm một áp lực vô hình, ai biết đến lúc nào thì bọn họ sẽ ùn lên như ong vỡ tổ chứ?
Bởi vậy LÝ Hoa Đình khi lấy gần một vạn kị binh liều mạng xông vào bổn doanh quán địch đương nhiên là trong thời khắc xông vào đã phải bỏ ra sự hi sinh cực lớn. nhưng một khi đã đột nhập vào được địch quân thì lại như cá gặp nước, dũng mãnh vô địch, làm cho bôn trận Liêu quân trời long đất lở.
"Đại vương đã lấy được thiên hạ. đại vương đã xưng thiên tử. hợp hai nước Tổng Hạ, dưới trướng danh tướng như mây. đại trượng phu không nhân lúc nàv lập được đại công, dũng cảm làm tiên phong, tranh công cầu chiến thì phải đợi đến lúc nào đâv?"
Lý Hoa Đình thật sự đã liều mạng, phía sau có viện quân, không phải lo lắng gì cả. hắn chỉ cần tiến lên trước, tiến lên trước, phá vỡ. xé tan. Dẫn tất cả bộ binh trào lên như nước thủy triều. Cả bốn doanh Liêu quân như bị chấn động, theo quán tính, cả quân doanh Liêu quán như nước ớ trong một cái nồi lớn. lắc đi lắc lại. trận hình đại loạn.
"Đồng tướng quân, thắng bại là ở thời khắc này, bộ quân của ngài có thể xông lên rồi!"
Mắt thấy Lý Hoa Đình đã làm đại loạn trận hình Liêu quân, đã có cơ hội thừa dịp xông lên, lão tướng kinh nghiệm đầy mình. Phan Mỹ lập tức nắm bắt thời cơ. đứt khoát hạ lệnh.
"Mạt tướng tuân mệnh!"
Lời của Phan Mỹ vừa dứt thì Đồng Vũ. kẻ đã đứng chờ đợi sắp không thể kiềm chế được lập tức vui mừng đáp lời. giơ trường thương lên. hét lớn: "Huynh đệ. chớ để cho Lý tướng quân giành hết công lao. cho họ thấv thủ đoạn của huynh đệ chúng ta như thế nào đi. Giết!"
"Giết!"
Năm vạn kị binh lập tức chia làm hai lộ. Trình Kiểm Hình bao vây lấy chủ lực của Liêu quân, cùng lúc đó Tiêu Thát Lâm cũng hạ lệnh cho tướng lĩnh của hai bên cánh quân lập tức nghênh đón phục kích của Trình Nhạn Sí. cuộc xung kích như nước thủy triều, vũ tiễn, đao sơn, thương lâm hội tụ thành một bức tranh bi tráng.
Liêu quân vừa lui vừa đánh, hơn nữa ba vị chủ soái Tiêu Thát Lâm. Tiêu Can. Hàn Khuông Tự quan châu, mỗi người có một bộ quân riêng, hiệu lệnh không thống nhất bằng Tống quân. Lý Hoa Đìrih và Đông Vù lại giống như con hồ đói. ào lên lập tức làm dao động cả Liêu quân.
Chi trong chốc lát. cuộc thoái lui đã trở thành hỗn chiến, khí thế hoàn toàn thay đổi. Đại quân của hai người Lý Đông đã hình thành một áp lực đối với cả cục diện.
Trận chiến đấu này có một ý nghĩa trọng đại trong lịch sử chiến tranh ngắn ngủi giữa Liêu và Tống, trong mấy trăm năm kéo dài về sau. Tống quốc không bao giờ còn có được một trận đấu đối kháng với ngoại địch bẳng lực lượng kị binh hoàn chỉnh như thế này. đây cũng là lần duy nhất, cũng là lần hoàn toàn thắng, vì thế nó luôn được học viện quân sự Đại Tống, tiền thân là Diễn Võ Đường Lô châu liệt vào làm ví dụ kinh điển về kị chiến, cũng theo đó mà rất nhiêu tướng lĩnh, hai bên Liêu Tống cùng với binh sĩ có biêu hiện kiệt xuất cũng được ghi chép lại vào trong sử sách.
Mấy trăm năm sau. trong một bài giảng về tổng kết chiến dịch này. Hoa Mạn Thiên tiên sinh, người tư tâm giáo đâu của Diễn Võ Đường của Đại Tống đã giới thiệu như sau với học sinh:
"Trong lịch sử, khi người Liêu gọi người Hán là Hán Nhi. người Hán cùng đã tự xưng như vậy. qua mấy mươi năm. Hán Nhi theo thói quen cũng truyền xưng cái tên này. nhưng sau khi phân chia nam bắc Hán nhân, người Tống từ đó đã tự xưng là người Hán. người Hán của Liêu quốc lại xưng là Hán nhi. mà lúc đó vẫn chưa phân thành như thế nàv. Vì vậy đột nhiên nghe thấv tiếng hô "Hán Nhi tất thắng", những nam nhân Hán gia ờ trong trận doanh Liêu quân cho dù về mặt tình cảm hay tâm lí từ lâu đã coi mình là người Liêu, vẫn cảm thấy một sự đả kích cực lớn trong lòng.
Đặc biệt là tiếng hô của mấy vạn người, sự đả kích cường đại và sức chấn động đó không có cách nào đùng lời để hình dung được, những người Hán bắc quân với huyết mạch người hán bất giác mất đi đại khí. Điểm này đối với việc một vạn kị birih của Lý Hoa Đình xông vào địch trận mà nói. đã tạo ra một tác đụng không thể lường hết được. Có thể nói. đây là một ví dụ cực kì thành công về chiến lược đánh tâm lí.
Ngoài ra. khi Liêu quán đang giữa đường lui về bảo vệ Nam Kinh, lại phát động phản kích cục bộ. với tình hình này bọn họ nên lựa chọn chiến thuật nhất kích không trúng, lập tức bò xa. vì nếu một khi hình thành thế cục quyết chiến chính điện thì đối với những tướng sĩ Liêu quốc sớm đã không còn lòng chiến đấu mà nói sẽ là một việc vô cùng nguy hiêm. về điểm này người Liêu lại một lần nữa mắc sai lầm.
Điểm thứ ba chính là. khi đó Phan Mỹ tướng quân, người thống soái các bộ tướng lĩnh đông lộ lại kịp thời trở về cứu viện, đích thân chỉ huy trận này. quân lệnh ban xuống, trên dưới nhất thể. Còn Liêu quốc lúc đó lại có tới ba vị tướng lĩnh Tiêu Can. Tiêu Thát Lầm. Hàn Khuông Tự, lân lượt chia nhau nắm giữ các lộ quân, quân giới và quyền lực thực sự của ba vị này cũng không phân cao thấp, nó đã tạo thành tình trạng quân ai người đó chiến, không có cách nào điểu động toàn quân đây cũng là một nhân tố quan trọng quvết định chiến bại trong cuộc chiến này.
Đương nhiên tướng sĩ quân ta trên dưới một lòng, tác phong chiến đấu ngoan cường, đã phát huy tác dụng vô cùng lớn trong cuộc chiến này. Ngoài ra, còn có một nguvên nhân quan trọng khác, không cho phép các trò bỏ qua. đó chính là ánh hưởng của nhân tố ngoài dự đoán đối với chiến tranh. Ví dụ như trong trận chiến này. có một quan viên của nước ta làm tuyên phủ sứ ờ Giao Chi. lúc đó còn là một tiêu hiệu úv, tên là Đinh Phong. Đinh Phong trước đây là diêm đinh nhỏ bé ở Thục Trung, vì tham gia vào nghĩa quân của tướng quân Đồng Vù nên đã trớ thành một phân tử của cánh quân này.
Trong lúc chiến đấu hắn đã bị thương, ruột lòi cả ra ngoài. Khi hắn không thể ngồi vững trên ngựa nữa. liền đưa tay lấy phục đao. chém đứt chân của con ngựa đang phi tới trước mặt. làm cho địch quán trên ngựa ngã xuống, sau đó Đinh Phong liền thuận thế chém đâu địch nhân đó. nhưng hắn hoàn toàn không ngờ rẳng kẻ bị hắn chém đầu đó lại chính là Yến Vương Hàn Khuông Tự của Liêu quốc.
Hàn Khuông Tự là người Kế Châu Ngọc Điền. Hắn giỏi y thuật; hoàng hậu đời trước thương hắn như con. Hoàng đế Liêu quốc sau này là Da Luật Hiền cơ thể nhiều bệnh, mà Hàn Khuông Tự y đạo cao mình, vì thế hai người rất nhanh đã kết giao tình thâm hậu. đông thời hoàng hậu của Da Luật Hiển...khụ khụ... người nàv... chính là Tiêu thái hậu Liêu quốc, người đã để lại rất nhiều truyền thuyết ái muội với thánh tổ hoàng đế nước ta, bà ấy đã từng có hôn ước với con trai của Hàn Khuông Tự Hàn Đức Nhượng, nhưng khi Đức Vương mưu phản. Hàn Đức Nhượng đi tháp tùng theo Da Luật Hiển, rồi đỡ cho hắn một mũi lạnh tiễn, sau đó là mất mạng, cho nên để bù đắp lại. thêm nữa lúc đó Da Luật Hiển quả thật cũng thiếu tâm phúc, cho nên Hàn Khuông Tự đã được phong làm Yến vương.
Đến đây ta đặc biệt nói rõ một chút. Các trò này. những truyền thuyết dân gian đó đều là đo sau khi kí hiệp định đình chiến, hai nước Liêu Tống qua lại mật thiết, nước ta đã viện trợ kinh tể cho nước Liêu, và những người đứng đầu hai nước thường qua lại với nhau, vì thế đã làm cho những học giả biên tập lịch sử nhiêu chuvện phát ngôn ra những lời hoang đường. Thánh tổ hoàng đế Văn Thành Võ Đức ta tuyệt đối sẽ không làm ra những chuyện như vậy. Trong chính sử hai nước Tống liêu, đối với những truvền thuyết này hoàn toàn không tìm ra một chút marih mối kiểm chứng nào. Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu còn viết ra rất nhiều truyền xướng biểu diễn khúc tấu có liên quan đến thánh tổ và Tiêu hậu. đây đều là những kẻ mê muội. Các học trò nàv. chớ có đem văn nghệ biến thành lịch sử nhé. chớ bị ảnh hưởng bởi những truyền thuyết dã sử này.
Khụ khụ, thôi, chúng ta lại trở về chủ đề chính. Cái chết bất ngờ của Yến vương Hàn Khuông Tự đã làm cho lòng quân Liêu quốc đại loạn, vì thế càng làm cho quán Liêu đại bại nhanh hơn. từ đó mà cho cả chiến cục nhanh chóng nghiêng về phía quân ta. làm cho quân ta chi cần bỏ ra một ít thương vong mà đã đổi lấy được đại thắng. Các học trò. trên chiến trường một khắc vạn biến, chưa đến thời khắc cuối cùng thì cũng chưa thể nói được ai thắng ai bại. một nhân vật nhỏ. một sự kiện nhỏ. một tình huống bất ngờ đều có thể triệt để thay đổi chiến cục.
Last edited by conem_bendoianh; 03-12-2011 at 05:47 AM.