Ghi chú đến thành viên
Ðề tài đã khoá
 
Ðiều Chỉnh
  #1  
Old 05-05-2008, 08:02 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
TẦN NHƯỢNG THƯ - Ưu Đàm Hoa

Hồi 1

Sơn Đông Hưu Tứ Phụng
Tế Nam Hiện Nhất Long

Thời Chiến Quốc, nước Tề trên bán đảo Sơn Đông, có một nhân vật rất nổi tiếng về lòng hiểu khách và hào phóng.
Tên tuổi của ông ta sau này đã trở thành danh từ để tượng trưng cho tính cách của bậc Đại Thiện Nhân. Người ấy chính là Mạnh Thường Quân, Quân Điền văn, em trai của quan tướng quốc Điền Ky!
Cùng thời với Mạnh Thường Quân còn có ba nhân vật nữa như Tín Lăng Quân Ngụy VÔ Ky nước Ngụy, Xuân Thân Quân Hoàng Yết nước Sở và Bình Nguyên Quân Triệu Thắng nước Triệu.
Ba người này cũng cư xử, hành động như Mạnh Thường Quân, nghĩa là trong nhà lúc nào cũng chứa hai ba ngàn khách cả văn lẫn võ Tuy nhiên, không hiểu sao hậu thế lại chỉ tôn sùng Mạnh Thường Quân?
Gương sáng cổ nhân được con cháu noi theo, nên giờ đây, ở đất Tế Nam tỉnh Sơn Đông, có một người xưng là võ lâm Mạnh Thường Quân!
Lão này có lê đúng là hậu duệ của Mạnh Thường vì cũng ở họ Điền, tên gọi Đông Giám, tuổi độ năm mươi hai. Do lão rất giỏi kiếm pháp nên đã thêu hai chữ võ lâm vào danh hiệu của tổ phụ.
Điền Đông Giám giàu nứt đố đổ vách, sở hữu mấy vạn mẫu ruộng tốt ở quanh thành Tế Nam, cùng hàng chục tiền trang ở khắp tỉnh Sơn Đông. Với gia tài cự vạn ấy, Điền Đông Giám thừa sức nuôi ngàn khách cho xứng với cái danh hiệu Mạnh Thường Quân !
Khách của nhà họ Điền đa số là hào kiệt võ lâm, chỉ có vài chục mống học trò nghèo đến ăn nhờ ở đậu, chờ ngày ứng thi!
Gần ngàn hào kiệt đến làm khách của Điền Gia Trang đều thuộc hạng áo vải, mới xuất đạo thanh danh chưa nổi, nhưng thỉnh thoảng cũng có những cao thủ lẫy lừng ghé qua chơi vài ngày rồi đi.
Khi đọc sừ hoặc truyện võ hiệp, chúng ta thường gặp lời tự khiêm là hai chữ "áo vải" hoặc "bố y". BỐ y chính là quần áo được dệt, may bằng vải gai dầu.
Gai dầu là loại thực vật thân thảo một năm, thuộc họ dâu tằm, được trồng rộng rãi ở Trung Hoa, từng là nguyên liệu chủ yếu để may y phục. Sợi gai dầu dài mà dai, khó mục, có thể dệt vải bạt, vải buồm, vải chống thấm nước, thảm trải nền nhà... Tất nhiên, người nghèo mới mặc loại vải này. Còn lụa là, gấm vóc để dành cho kẻ sang giầu!
Tóm lại, dù văn hay võ thì cũng vì nghèo nên mới đến Điền Gia Trang mà ăn chực , ở nhờ !
Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ, vì trong số thực khách của nhà họ Điền nổi bật lên mấy chục chàng thiểu hiệp xuất thân đại phú, thế gia. Họ đến đây không phải vì đói, mà vì nhan sắc bốn cô con gái của Điền Đông Giám!
Điền phu nhân đẻ sàn sàn năm một, cho ra đời bốn ả tố nga rồi từ trần. Họ đều xinh đẹp như hoa, có tuổi từ mười chín đến hai mươi hai. ước mơ của người nghèo thường mãnh liệt hơn kẻ giàu, do vậy, đám thanh niên áo vải chưa vợ kia chắc cũng rắp ranh bắn sẻ, mong mỏi trở thành rể họ Điền!
Hai năm qua, kẻ đến người đi cũng nhiều, nhưng bốn cặp mắt xanh kia vẫn chưa ghé vào ai. Và quan trọng nhất là cặp mắt của đại tiểu thư Điền Ngọc Trâm. Theo phong tục Trung Hoa thì trưởng nữ phải xuất giá trước rồi mới đến các em !
Khốn nỗi, Điền đại tiểu thư tuy đẹp nhất nhà nhưng tính tình kiêu kỳ, ngạo mạn, nóng nảy dữ dằn như Trương Phi, xem nam nhân trong thiên hạ như cỏ rác!
Ngọc Trâm được chân truyền pho Tích Lịch Kiếm Pháp của cha, võ nghệ cao siêu, được giới võ lâm Sơn Đông đặt cho danh hiệu HỔ Hồng Nhan (nàng hổ cái).
Họ Điền không có con trai nối dõi, nên rể đầu sê là người hưởng thừa kể lớn nhất Điều này đã khiến Ngọc Trâm trở thành mục tiêu số một của các chàng trai.
Nhưng ngoài dung mạo, HỔ Hồng Nhan còn ra điều kiện rằng ứng viên phải dưới hai mươi lăm tuổi, và có võ công cao hơn nàng! Võ lâm nhiều gã đẹp trai song không ai trong lứa tuổi ấy đánh bại nổi Ngọc Trâm.
Khoảng cách không hơn ba tuổi từ đâu mà có trong đầu mỹ nhân thì chẳng ai biết được, mọi người chỉ đoán rằng lão thầy bói chết tiệt nào đấy đã nhét vào đầu Ngọc Trâm ý niệm đáng ghét này!
chính Võ Lâm Mạnh Thường Quân cha nàng, cũng bực mình tiếc rẻ khi thấy con gái loại bỏ những chàng trai tuyệt diệu, chỉ vì họ quá hăm lăm. ông từng giận dữ mỉa mai:
- Trâm nhi ráng chờ đến năm tam thập rồi lấy đại lão già góa vợ nào đấy! Lúc ấy thì khỏi cần điều kiện gì hết!
Ngọc Trâm hung dữ với người ngoài nhưng lại rất hiếu thuận, chỉ cười đáp:
- Sau này phụ thân sê biết Trâm nhi có Điền lão thở dài:
- Tính tình ngươi như thế làm sao chọn được bậc chính nhân? Chẳng qua thiên hạ háo sắc, háo tài nên mới quy lụy ngươi đó thôi!
Ngọc Trâm giận dỗi, ngoe nguẩy bỏ đi, lo việc nhà Nàng chính là người quán xuyến Điền Gia Trang, phụ trách tiếp đón và nuôi nấng cả ngàn thực khách!
Sáng ngày Thất Tịch, mùng bẩy tháng bảy, Điền Gia Trang có thêm khách mới, người này là chàng trai độ quá hai mươi, áo học trò bằng vài xấu, màu xanh bạc phếch. Trên đầu chàng ta là chiếc nho cẩn (khăn nhà nho) màu đen cũ kỹ, có dải dài rũ xuống lưng.
Tuy y phục là của đám thư sinh, song vai chàng lại mang trường kiếm, ra dáng con nhà võ. Điều này sê khiến chủ nhân phải phân vân, không biết để chàng ta ở với bọn hào khách hay học trò.
Chàng ta xuống ngựa, được gã gia nhân gác cổng Điền Gia Trang đưa vào Nghênh Tân Đình gần đấy chờ đợi.
Lát sau, Điền đại tiểu thư ra đến, khách vội đứng lên vòng tay kính cẩn nói:
- Tại hạ là Tần Nhương Thư, quê đất Sơn Tây!
Điền Ngọc Trâm thản nhiên ngồi xuống sau án thư, mở sổ, đổ chút nước vào nghiên mực, chuẩn bị ghi chép. Nàng lạnh lùng hỏi:
- Phiền Tần túc hạ cho xem thẻ đinh!
Thời xưa, thẻ đinh là loại giấy tờ tùy thân duy nhất của Trung Hoa. Trong ấy không có hình ảnh, dấu tay, chỉ ghi tên họ, nguyên quán, trú quán và chiều cao hoặc thêm vài đặc điểm như: răng hô, mắt lé, cụt chân. . . do nội dung sơ sài vậy nên những người có dung mạo, tầm vóc tương tự có thể lấy của kẻ khác mà dùng!
Trong trường hợp này thì chẳng có gì đáng ngại bởi vì đôi tai của Tần Nhương Thư rất đặc biệt, chúng lớn và đầy đặn như tai của những pho tượng Như Lai trong các chúa chiền. Và gương mặt chàng cũng mang nét đẹp nhân từ, phúc hậu, khiến cho người đối diện yên tâm.
Ngay trong thẻ đinh cũng miêu tả diện mục Nhương Thư bằng hai chữ: "Phật Nhĩ" Tuy nhiên, chẳng ai khen Phật tổ là người anh tuấn như Phan An, Tống Ngọc, nên nhan sắc của Nhương Thư không làm cho trái tim các mỹ nhân rung động. Cái đẹp và cái thiện chẳng phải bao giờ cũng giống nhau!
Hơn nữa, Tần Nhương Thư sinh năm Mậu Thìn, nay đã hai mươi sáu, vượt ngoài tiêu chuẩn của Ngọc Trâm, nên nàng không hề để tâm đến.
Điền đại tiểu thư ghi xong phần lai lịch, liền hờ hững hỏi thêm:
- Tần túc hạ học nghệ môn phái nào?
Nhương Thư điềm đạm đáp:
- Bẩm tiểu thư! Tại hạ là đệ tử tục gia của chùa Phật Quang, núi Ngũ Đài Sơn!
Ngọc Trâm bỡn cợt:
- Tướng mạo trang nghiêm như túc hạ sao không xuất gia, còn lưu luyến hồng trần làm gì nữa?
Nhương Thư thật thà đáp:
- Tại hạ vốn có ý nguyện ấy nhưng gia sư không cho. Người bảo rằng tại hạ mang nặng sát nghiệp và tình nghiệp, không có duyên với cửa Phật!
HỔ Hồng Nhan che miệng cười khanh khách và chế nhạo:
- Nực cười thực! Bổn cô nương cho rằng lệnh sư đã quá lời rồi đấy! Chỉ có đám ni cô mới ái mộ túc hạ mà thôi!
Câu nói của Ngọc Trâm xem ra cũng chẳng có gì quá đáng, nhưng không hiểu sao lại tác động mãnh liệt tới Nhương Thư. Đôi mắt chàng trai hiền lành kia bỗng lóe sáng những tia thù hận và tàn nhẫn ánh mắt ấy sắc bén, lạnh lùng chụp lấy gương mặt kiều diễm của Ngọc Trâm, khiến nàng khiếp sợ đến nỗi toàn thân đông cứng lại.
CÔ gái ngang tàng, ngược ngạo này rơi vào trạng thái kinh hoàng, tựa kẻ lữ hành bất ngờ đối diện mãnh hổ vậy!
Khi nét mặt Nhương Thư dịu đi nàng mới hoàn hồn, phát hiện lòng bàn tay ướt đẫm. Nàng líu ríu gọi ả tỳ nữ Tiểu Lan đang quét dọn ngoài cửa Nghênh Tân Đình, bảo cô bé đưa khách vào khu nhà mé hữu. Lạ thay, nàng lại dặn Tiểu Lan dành cho Nhương Thư tòa tiểu viện đẹp nhất!
Khu nhà khách của Điền Gia Trang chỉ đúng mười căn tiểu xá đặc biệt, dành để đón tiếp những nhân vật lẫy lừng, hoặc chưởng môn các phái. Nay Nhương Thư được ở đấy cũng là một vinh dự rất lớn!
Khách đi rồi, Ngọc Trâm ngồi phịch xuống ghế suy nghĩ miên man. Cơn sợ hãi đã qua hoàn toàn, bản tánh ngang ngạnh nổi lên, nàng hậm hực lẩm bẩm:
- Thực là xấu hổ! Bậc anh thư như ta mà lại sợ một gã vô danh hay sao? Ngày mai ta phải kiếm cớ đánh cho gã một trận mới được !
Nhưng rồi một ý niệm khác lại nổi lên:
- Lạ thực! Tướng mạo y hiền lành trưng hậu thế kia, sao lúc giận lại có cái nhìn khủng khiếp như thế? Phải chăng câu nói của ta đã vô tình chạm vào điều đại ky của Nhương Thư? Hay mẹ y là ni cô?
Con người đầy bí ẩn của Nhương Thư đã khiêu gợi óc tò mò của Ngọc Trâm, nàng quyết định phải tìm hiểu cho rõ. Vả lại, nàng còn muốn đem nhan sắc khuynh thành của mình chinh phục kẻ đã làm cho HỔ Hồng Nhan phải chết khiếp! Khi gã họ Tần chịu quỳ gối quy phục thì chính là lúc nàng trả được mối nhục hôm nay!
Viễn cảnh độc ác ấy đã khiến Ngọc Trâm vui vẻ hơn, quay về khuê phòng.
Nàng kể cho ba cô em gái nghe về Nhương Thư và kế hoạch báo thù của mình!
Ngọc Trâm không ngờ mình đã khích động lòng hiếu kỳ của ba em, khiến nàng nào cũng âm thầm tự nhủ rằng sê tiếp cận Tần Nhương Thư. Chàng là người thế nào mà lại dọa khiếp được bà chị cả Trương Phi của họ?
Trước tiên, đám tỳ nữ thân tín của bốn nàng được huy động giám sát Tần Nhương Thư. Trong bốn ngày, họ đã báo cáo lại toàn bộ hành vi, cử chỉ, thói quen của họ Tần.
Chàng trai này ngày ngày đi dạo khắp trang để ngắm cảnh và làm quen với những người đến trước. Dường như Nhương Thư đang hỏi han, tìm kiếm một lão già họ Trác nào đó.
Ngọc Trâm hiểu ngay rằng Nhương Thư đang ôm một mối huyết thù sâu nặng, đến đây để điều tra tung tích cừu nhân, chứ chẳng phải muốn ăn nhờ ở đậu Điền Gia Trang!
HỔ Hồng Nhan bắt đầu lân la đến thăm Nhương Thư, trong những bộ y phục đẹp nhất, và ban phát những ánh mắt đổ nước nghiêng thành. Nhưng Nhương Thư chỉ hờ hững đối đáp, cung kính mà lạnh nhạt, không hề tỏ ra xao xuyến trước nhan sắc phi phàm của mỹ nhân.
Ngọc Trâm vô cùng tức giận và hổ thẹn, song cố tự an ủi rằng thời gian còn dài, trước sau gì đối phương cũng phải say mê mình, y như tất cả những nam nhân khác trong thiên hạ.
Tại sao nàng biết Nhương Thư sê còn lưu lại nhiều ngày nữa? Đó là bởi tháng tám hàng năm mới là thời điểm mà Điền Gia Trang đông đảo nhất.
Hiện tượng này xảy ra suốt sáu năm, từ lúc giới võ lâm nghe được tin đồn rằng núi Thái Sơn là nơi tạo hóa của thiên hạ đệ nhất kỳ nhân, Thần Quang Chân Quân công Tôn Khuê. Và một ngày tháng tám nào đó, khi đỉnh Thái Sơn rực cháy thì đấy là lúc kẻ hữu duyên có thể tìm thấy bảo kiếm và di học của ông ta.
Truyền thuyết này cực kỳ mơ hồ và vô căn cứ, thế mà vẫn có nhiều người tin, năm nào cũng đổ xô về Sơn Trang chờ đợi!
Thực ra thì hành động này cũng chẳng có gì là khờ dại, vì Thái Sơn là một trong những ngọn núi đẹp nhất Trung Hoa, nhất là vào buổi đầu thu! Hơn nữa, việc ăn ở đã có Điền Gia Trang chu toàn, tội gì không đi chơi một chuyến?
Thành Tế Nam nằm ở hướng Bắc rặng Thái Sơn, cũng là địa phương có phong cảnh tuyệt mỹ. Cái làm cho Tế Nam lừng danh chính là những con suối nước ngầm.
Lãnh thổ Trung Hoa rộng lớn, số lượng nước suối ngầm lớn nhỏ lên đến hàng chục vạn, nổi tiếng nhất có hơn trăm cái, và ở Tế Nam có con suối đứng đầu thiên hạ.
Tế Nam nằm ở nơi giao nhau giữa sườn Bắc núi Thái Sơn với đồng bằng nên có rất nhiều suối ngầm, khả dĩ xưng tụng rằng "Nhà nhà có suối".
Trong hàng ngàn dòng suối của Tế Nam, có bảy mươi hai cái nổi danh, đứng đầu là bốn suối: Báo Đột, Trân Châu, Hắc Hổ, Kim Tuyến. Đến thời vua Càn Long nhà Thanh sau này, suối Báo Đột đã được phong làm "Thiên hạ đệ nhất tuyền".
Suối này nằm ở ngoài cửa phía Nam thành Tế Nam. Địa thế phía Nam cao, phía Bác thấp, ba mặt Đông Tây và Bắc đều bị chặn bởi loại đá không thấm nước, khiến dòng suối chịu sức nén mạnh, vọt lên khỏi mặt đất. Miệng suối rộng gần trượng, sâu hơn sải tay, có ba gióng nước cuồn cuộn chảy ra tựa như ba vòi rồng, cách vài trăm mét vẫn nghe được tiếng nước chảy. Chất lượng nước suối cực kỳ thanh khiết, vị ngon ngọt phi thường, xứng đáng đứng đầu các suối trong thiên hạ!
Do vậy, tháng tám nào, hào kiệt bốn phương cũng kéo đến Tế Nam trước là du ngoạn, sau là chờ đợi luồng ánh sáng thần kỳ trên đỉnh Thái Sơn. Tất nhiên là họ ăn sạch kho gạo của Điền Gia Trang!
Không ai chê Mạnh Thường Quân là ngu, thì việc tự nguyện nuôi báo cô người ngoài của Điền Gia Trang chủ cũng không đáng trách!
Người Trung Hoa say mê kiếm tiền nhưng lại luồn muốn chứng tỏ mình là kẻ hào phóng, xem tiền tài như phấn thổ.
Điều này có lê xuất phát từ cái tật hiếu danh!
Dạo chơi vài dặm cho vui, giờ chúng ta quay lại với những nhân vật của mình!
Đến cuối tháng bảy thì Điền đại tiểu thư phát hiện việc ba cô em gái thường đến trò chuyện với Nhương Thư, tình cảm ngày càng thắm thiết! Dường như cả ba đều say đắm gã họ Tần chết tiệt kia!
Ngọc Trâm tá hỏa tam tinh khi nghe tỳ nữ mật báo:
- Bẩm đại tiểu thư! Không hiểu gã họ Tần kia có gì hay ho mà cả ba tiểu thư nhà ta cứ quấn quít, cùng gã chuyện trò đến tận cuối canh hai mới chịu thôi !
Ngọc Trâm nổi lôi đình, gọi ba em ra hỏi. Tứ tiểu thư Điền Uyển Xuân tính tình tinh quái, ranh mãnh nhất nhà đáp rằng:
- Bọn tiểu muội thấy Tần công tử thờ Ơ với đại thư, vì thành kiến ban đầu, nên định giúp một tay, chàng mà mê ai là xem như kế hoạch báo thù của đại thư đã thành công!
Ngọc Trâm cứng họng và không hề tin tưởng cô em út này, liền xoay qua hỏi Điền Bạch Cúc. Tam muội của nàng nổi danh là người không biết nói dối, tính tình cương trực, thẳng thắn, Bạch Cúc thản nhiên đáp:
- Nhương Thư nhân phẩm cao quí, trí tuệ tuyệt luân, xứng đáng là bậc quân tử để tiểu muội gởi thân. Đại thư chê chàng lớn tuổi hơn qui định nhưng tiểu muội thì không!
Ngọc Trâm đuối lý, cố gỡ gạc bằng cách nói:
- Tam muội đã chấm họ Tần thì ta cũng không cản. Nhưng vì sao cả nhị muội và tứ muội cũng thân mật với Nhương Thư làm gì?
vừa nói nàng vừa nhìn vào mặt nhị tiểu thư Điền Mã Lan, người hiền lành, thùy mị nhất bọn. Mã Lan thẹn đỏ mặt, ấp úng đáp:
- Ti êu . . . muộ i . . . ti êu muộ i . . . chẳng dám tranh giành với tam muội... nhưng không gặp chàng không được !
Ngọc Trâm chết điếng người, hiểu rằng Mã Lan cũng yêu say đắm Nhương Thư!
Nàng điên tiết hỏi Uyển Xuân:
- Còn ngươi thì sao?
Tứ tiểu thư cười khanh khách:
- Chị em thờ chung chồng là chuyện thường! Bọn tiểu muội quyết không để Nhương Thư lấy người ngoài!
Ngọc Trâm cơ hồ té xỉu, lắp bắp mắng:
- các ngươi điên rồi! Phải chăng gã họ Tần kia đã dùng tà thuật để mê hoặc?
Nàng đùng đùng chạy vào thư phòng giữa vườn hoa để bảo cho Điền Trang chủ biết chuyện động trời này. Điền Đông Giám cơ trí thâm trầm, vui buồn không hề lộ ra trên sắc mặt. Nghe xong lời kể của ái nữ, ông vuốt chòm râu cằm dài và đen nhánh, cân nhắc rồi từ tốn nói:
- Ba em của con tính nết khác nhau mà cùng để ý một nam nhân, tất Tần Nhương Thư phải là người rất đặc biệt! Để ta gọi hắn đến xem tính cách thế nào?
Ngọc Trâm hậm hực quay về thư phòng, miệng lẩm bẩm chửi rủa Nhương Thư, song trong lòng lại thấp thoáng nghi van:
- Không lê chính ta mới là người ngu ngốc, không nhìn ra chân tướng Nhương Thư, bỏ lỡ mối lương duyên? Ba con quỉ cái kia cũng khó tính, kén cá chọn canh mãi, đâu dễ gì lầm lạc được?
Trong lúc ấy Điền Trang chủ đã gọi Tổng Quảng Triệu Linh Vũ đến để hỏi han về Nhương Thư.
Triệu lão tuổi đã sáu mươi lăm, trước đây tung hoành miền Tây Bắc với danh hiệu Hồ Tâm Đạo. Mười chín năm trước, Triệu Linh Vũ bị Hạt Nhãn Thần Ma đả thương và đuổi khỏi Lam Châu, lưu lạc vào Trung Nguyên, rồi trở thành thủ hạ đắc lực của Điền Gia Trang!
Họ Triệu tuy đã già nhưng đầu óc vẫn còn tinh minh, sắc bén, được Điền Đông Giám giao nhiệm vụ giám sát khách khứa. Muốn mua tiếng Mạnh Thường Quân, Điền Đông Giám phải chứa chấp hàng ngàn cao thủ tứ xứ. Nếu không có lực lượng ngầm để quản lý thì làm sao biết ngay gian, mà giữ gìn tài sản khổng lồ của họ Điền?
Do vậy, Triệu Tổng quản đã đào tạo, chỉ huy bọn gia đinh, tỳ nữ trong trang, nắm rõ hành vi của từng người khách. Hồ Tâm Đạo nghe chủ nhân hỏi về chàng trai họ Tần liền cau mày đáp:
- Bẩm trang chủ! Quả thực là nhân phẩm, tính cách của Nhương Thư rất tuyệt diệu! Gã ít nói nhưng luôn vui vẻ, đối với ai cũng khiêm cung, chí thành khiến người người yêu mến. Do việc được các tiểu thư ái mộ, họ Tần cũng bị nhiều chàng trai khác ganh ghét, buông lời mỉa mai, khiêu khích, thậm chí khiêu chiến nữa! Tuy nhiên, Nhương Thư không hề biến sắc, chỉ nhẫn nhịn bỏ qua, độ lượng ấy quả là hiếm có! Còn về võ công thì lão phu không thể ước lượng được, song có cảm giác rằng bản lãnh họ Tần cao thâm đến mức tinh hoa nội liễm, chẳng lộ ra ngoài!
Điền Trang chủ gật gù thích thú, và hỏi thêm:
- Trâm nhi cho rằng Nhương Thư dùng tà thuật, hay thủ đoạn đường mật quỉ quái nên quyến rũ được cả ba ái nữ của ta! Yù Triệu lão huynh thế nào?
Linh Vũ mỉm cười:
- Làm gì có việc ấy! Chẳng qua "hữu xạ tự nhiên hương", hoa thơm thì ai cũng biết, và say đắm! Nhương Thư không quá anh tuấn, lại trầm lặng ít nói, song con người lại toát ra vẻ trưng hậu, tôn quý, vững chắc, khiến nữ nhân hoàn toàn tin tưởng, muốn nương tựa. Nhưng lão phu cho rằng chưa chắc Nhương Thư đã chịu ở lại đây làm rể Điền Gia Trang. Gã nuôi mối thù sâu với lão họ Trác nào đó, tất không thể dừng chân được!
Điền trang chủ cười mát, nói đùa:
- Hình như Triệu tổng quản cũng bị chàng trai ấy hấp dẫn nên đánh giá y rất cao! Biết đâu ngoài dung mạo, y chỉ là kẻ lục lục thường tài?
Triệu Linh Vũ gượng cười :
- Không phải lão phu nhẹ dạ, mà vì Nhương Thư chính là ngọn lửa ấm áp trong cuộc đời lạnh giá này!
Sáng mùng ba tháng tám, khách của Điền Gia Trang đã lên đến số ba ngàn, và có không ít những đại nhân cao thủ thành danh của võ lâm. Điền trang chủ bận tíu tít nên chưa thể nói chuyện với Nhương Thư. ông chỉ nghe Triệu tổng quản báo cáo rằng Nhương Thư vẫn kiên nhẫn hỏi thăm từng người khách mới đến về một lão cao gầy, tên Trác Thiên Lộc, sáu mươi mốt tuổi, trên mặt có vết sẹo kéo dài từ tai trái đến cằm! Đặc điểm thứ hai là họ Trác quê đất Triều Châu!
Cuối giờ mùi hôm ấy, tai họa giáng xuống Điền Gia Trang với hình dáng hiền lành của một cỗ kiệu phủ sa đen, được khiêng bởi bốn đạo sĩ áo trắng tuổi đôi mươi. Khi dện cửa trang, bốn đạo nhân này đồng thanh niệm ê a:
- Tứ. . . Phạn. . . Thiên Cung sứ giả giá lâm!
Lời tự giới thiệu đơn giản, nhẹ nhàng ấy đập vào tai mọi người, biến thành tiếng sét dữ dội, không phải do cường độ âm thanh mà bởi kỳ ức hãi hùng về thanh danh của tổ chức Tứ Phạn Thiên.
Thực ra, Tứ Phạn Thiên là một ý niệm trong đạo giáo Trung Hoa, để chỉ miền tịnh độ, siêu thoát tam tai, luân hồi. Nơi ấy dành cho những kẻ đã tu luyện thành tiên, và được tiếp dẫn bởi Tây Vương mẫu!
Quái ác thay, cách đây hơn ba chục năm, có một cặp vợ chồng đã tự xưng là Thanh Linh Thủy Lão và Kim Mâu (tức Tây Vương Mâu, vợ cả của Ngọc Hoàng đại đế) Họ dựng lên một bang hộ lấy tên là Tứ Phạn Thiên Cung, khủng bố võ lâm và đột nhiên biệt tăm hồi mười ba năm trước!
Không ai biết Tiên Cảnh Tứ Phạn Thiên kia ở chốn nào, vì tất cả những người được họ mời đi làm "tiên" đều mất tích!
Năm nào cũng có vài nhà đại phú được vinh hạnh dạo chơi miền tiên cảnh, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen! Khi đi, họ còn mang theo vàng để làm lễ vật cúng dường. Số vàng này ít hay nhiều tùy theo gia sản của nạn nhân, song tối thiểu cũng phải ba ngàn lượng!
Tất nhiên có nhiều người không thích thành tiên nên đã từ chối bằng cách kháng cự, báo quan hoặc bỏ trốn. Nhưng những kẻ cứng đầu ấy đều phải chịu cảnh toàn gia lưu lạc, tài sản mất sạch!
các phái võ lâm dưới sự thống lãnh của minh chủ, đã dốc hết sức điều tra và chỉ biết được rằng cao thủ Tứ Phạn Thiên Cung rất giỏi khinh công, kiếm pháp, nhưng thường giết người bằng chất độc vô hình, vừa nhanh vừa gọn. Để cảnh cáo mọi người chớ quá tò mò, Tứ Phạn Thiên Cung đã lần lượt sát hại bốn đời minh chủ, khiến chẳng còn ai dám ra ứng cử, tranh ngôi nữa!
Mười ba năm qua, Tứ Phạn Thiên Cung không hề xuất hiện, khiến lòng người nhẹ nhõm, tưởng tà hội quỉ quái kia đã bị trời đánh chết! Võ lâm khởi sắc và những kẻ giàu sang mới dám phô trương của cải. Trong số đó có võ lâm Mạnh Thường Quân Điền Đông Giám.
Nào ngờ, Tứ Phạn Thiên Cung lại hồi sinh và chọn đúng họ Điền làm đối tượng khai trương!
Bất cứ kẻ học võ nào cũng được nghe kể về truyền thuyết Tứ Phạn Thiên nên bốn ả tố nga xanh mặt, chạy đi tìm phụ thân Điền Trang chủ buồn rầu bảo:
- Lão phu vì háo danh nên mang họa vào thân, chỉ tự trách mình! Các con hãy thương yêu, đùm bọc nhau, giữ gìn cơ nghiệp họ Điền!
Ba nàng kia khóc vùi, nhưng Ngọc Trân lại trợn mắt nói:
- Nhà ta lúc nào cũng có cả ngàn cao thủ, lê nào lại phải sợ ai?
Điền Đông Giám lắc đầu, mỉm cười thê lương:
- Với chất độc vô hình và thủ đoạn phi thường của Tứ Phạn Thiên Cung thì dù có cả vạn người cũng vô dụng! Hơn nữa, chắc chắn là đối phương đã vì vài người trong số hai ngàn hào khách mới đến!
ông quay sang nói với Hồ Tâm Đao:
- Xin Triệu lão huynh vì chút nghĩa tri âm mà chu toàn cho bọn trẻ.
Triệu Linh Vũ ứa nước mắt gật đầu:
- Trang chủ cứ yên tâm ! Lão phu chịu ơn cưu mang hai chục năm, quyết xả thân hầu hạ các tiểu thư!
Điền Đông Giám cúi mình vái thật sâu để cảm tạ rồi quay gót, đi ra đón tiếp tử thần Bốn nữ nhân khóc sướt mướt, lão đêo theo cha già. Tứ tiểu thư Uyển Xuân bỗng hỏi Hồ Tâm Đạo:
- Triệu lão bá! Chẳng lê chúng ta không thể bỏ cả gia tài này ra để mua mạng phụ thân được sao?
Triệu lão trầm ngâm đáp:
- Đúng là có thể dùng vàng chữa cháy, nhưng lại phải thêm một điều kiện nữa, là có người chịu đi thay, và người này phải đả bại được sứ giả của Tứ Phạn Thiên!
Uyển Xuân hớn hở reo lên:
- Tần Nhương Thư!
Ngọc Trâm cười nhạt:
- Dẫu gã ấy có đủ tài cũng chẳng dại gì chết thay phụ thân !
Nàng nói quá chí lý nên chẳng ai dám kỳ vọng vào Tần Nhương Thư nữa.
Gia đình họ Điền ra đến sân trước thì ba ngàn hào kiệt đã tề tựu đông đủ. Có thể họ sê vì đạo nghĩa mà nghe lời Điền Đông Giám chống lại sứ giả của Tứ Phạn Thiên Cung, nhưng chính bản thân họ Điền lại không dám hành động! Lão không muốn bốn ái nữ và hai trăm gia nhân phải chết thảm vì sự trả thù của tổ chức đáng sợ kia. Điền trang chủ vái cháo quần hùng, đón nhận những ánh mắt nồng nhiệt của họ, rồi lẳng lặng tới trước cỗ kiệu. ông cố giữ vẻ ung dung mà nói:
- Lão phu là Điền Đông Giám, xin bái kiến sứ giả!
Từ trong cỗ kiệu phủ sa kín mít kia vọng ra tiếng nam nhân già nua:
- Bổn sứ giả thừa lệnh Kim Mẫu đến mời Điền thí chủ về miền Tứ Phạn Thiên, sống đời an lạc, thoát cảnh luân hồi! Thí chủ hãy mang theo vạn lượng hoàng kim để cúng dường Thủy Lão và Kim Mẫu!
Đúng giờ Tý đêm nay sê có tiên nhân đến rước đi!
Điền Đông Giám đắm chìm trong tuyệt vong, song cố níu kéo:
- Bẩm sứ giả, lão phu còn bốn ái nữ chưa thành gia thất, chẳng nỡ bỏ đi ngay lúc này! Lão phu xin dâng năm vạn lượng hoàng kim để cúng đường chư tiên!
Người trong kiệu có vẻ hài lòng trước số vàng lớn lao ấy, hòa hoãn nói:
- Điền thí chủ bận tâm chăm sóc cho con cái nên bổn tiên cũng thể tất, nhưng theo qui định của tiên giới thì phải có người tài giỏi đi thay! Điều kiện này đã được truyền bá rộng rãi khắp võ lâm suốt ba chục năm qua, bổn tiên không thể tùy tiện phế bỏ được!
Điền Đông Giám thiểu não van xin:
- Mong sứ giả thương tình nhận mười vạn lượng mà hoãn cho mười năm!
Quần hùng chấn động, tự hỏi rằng Tứ Phạn Thiên có vì số vàng khổng lồ kia mà phá qui củ hay không?
Nhưng lão sứ già đã giận dữ quở trách:
- Bổn cung là tiên giới, xem vàng bạc như vật vô dụng, chỉ là cách biểu lộ lòng thành của người mới đến! Ngươi tưởng có thể mang tài sản ra mà mặc cả được sao? Bổn nhân thực hiện đúng qui củ, chỉ nhận hai vân lượng nếu có người thay đủ tư cách!
Trong đám người đông đảo đứng chung quanh kia, có ai đó phẫn nộ chửi đổng:
- Mẹ kiếp! Lão ỷ mình già cả, luyện võ mấy chục năm, ai mà địch lại, lão mà ở tuổi bốn mươi thì Tào mỗ đánh chết tươi ngay!
Người phát ngôn chính là Thiết Kình Ngư Tào ưng, đệ tử phái Vương ốc, năm nay tròn tứ thập, nổi tiếng ngang tàng, chẳng biết sợ là gì! Ngoài tài bơi lội như cá, Tào ưng còn giỏi kiếm pháp, đứng đầu trong đám cao thủ trưng niên!
Nãy giờ quần hùng rất tức giận trước hành vi bá đạo của Tứ Phạn Thiên Cung, may được Thiết Kình Ngư khơi mào liền xôn xao hẳn lên, thi nhau chửi rủa Tứ Phạn Thiên Cung.
Lão sứ giả nổi lôi đình, quát vang:
- Câm ngay! Kẻ nào còn dám xúc phạm đến Tứ Phạn Thiên Cung thì Điền Gia Trang sê gánh hết hậu quả đấy!
Điền Đông Giám vội vái dài, xin mọi người im lặng cho. Nhưng có một người không nghe, vẫn mở miệng nói:
- Tại hạ xin được đi thay Điền Trang chủ, mong sứ giả chỉ giáo cho vài chiêu!
Quần hùng Oà lên kinh ngạc khi thấy chàng trai hiền lành họ Tần đủng đỉnh bước ra. Họ đều biết chàng được sự sủng ái của các cô gái nhà họ Điền, nhưng phỏng có ích gì khi phải đi ngay đến Tứ Phạn Thiên Cung nộp mạng?
Dâu sao, hành động dũng cảm này cũng khiến mọi người ngưỡng mộ, vỗ tay cổ vũ Ba nàng con gái của Điền Đông Giám cảm kích trước sự hy sinh của Tần Nhương Thư, chạy đến quì xuống đất lạy chàng như tế sao và khóc nức nở.
Nhương Thư cúi xuống đỡ ba nàng lên, hòa nhã nói:
- Tam vị tiểu thư chớ có bi lụy, mạng của tại hạ rất lớn, dẫu có lọt vào Tứ Phạn Thiên Cung cũng chẳng hề hấn gì !
Điền Bạch Cúc gạt lệ nói ngay:
- Tiểu muội sê cùng công tử đi đến Tứ Phạn Thiên Cung, có chết thì chết chung!
Lời thổ lộ chân tình này đã khiến Nhương Thư cảm động, vòng tay đáp:
- Tại hạ hổ thẹn vì không xứng đáng với lòng ưu ái của tam tiểu thư!
Uyển Xuân phụng phịu xen vào:
- Tiểu muội cũng đi nữa!
Mã Lan không nói gì nhưng đôi mắt nhung huyền kia đã thay lời. Thiết Kình Ngư nóng ruột trước cảnh biệt ly ướt át, lê thê, thét lớn lên:
- Này Tần lão đệ, ngươi có đánh hay không thì bảo, bọn ta mỏi cổ rồi đấy!
Nhương Thư vội vã bước đến trước cỗ kiệu, trước tiên vái chào Điền Đông Giám:
- Vãn sinh Tần Nhương Thư bái kiến Trang chủ !
Điền lão vái trả rồi buồn rầu nói:
- Công tử còn trẻ hà tất phải liều mạng!
Lão phu vô cùng cảm kích nhưng không thể lãnh thụ mối ân tình này được !
Chợt lão nghe tiếng truyền âm:
- Trang chủ yên tâm ! Vãn sinh đã có cách giải nguy mà chẳng ai phải đến Tứ Phạn Thiên Cung!
Dù bán tình bán nghi nhưng chút hy vọng đã bùng lên, Điền lão thở dài lui ra sau, để mặc ân nhân hành động. Nhương Thư quay sang nói với người trong kiệu:
- Mời tôn giá bước ra !
Màn kiệu vén lên, xuất hiện một lão đạo sĩ áo đen, râu tóc pha sương, mang mặt nạ bằng đồng mỏng rất tinh xảo.
Đồng diện kia chỉ che hết phần mũi, để lộ cái miệng rộng với đôi môi mỏng thâm sì Lão ta lặng lê quan sát Nhương Thư rồi bảo:
- Cốt cách của Tần thí chủ rất khá, bổn tiên nhân quả không nỡ giết đi !
Nhương Thư cười mát, hỏi lại:
- Tôn giá đứng hàng thứ mấy trong mười hai vị HỘ Cung Chân Khanh của Tứ Phạn Thiên?
Đạo sĩ kia giật mình đáp:
- Thứ tư, vì sao thí chủ lại biết rõ nội tình của bổn cung như vậy?
Nhương Thư điềm đạm đáp:
- Tại hạ còn biết tọa lạc của Thiên Cung nữa kì a !
Lão sứ giả choáng váng, còn Tào ưng cười rộ và nó i :
- ở đâu? ở đâu? Chúng ta kéo đến đấy xem các tiên có mặc quần hay không?
Mấy ngàn người cười vang như sấm, càng khiến lão đạo sĩ áo đen bối rối! Bí mật của căn cứ là yếu tố quan trọng số một cho quyền lực đen tối của Tứ Phạn Thiên Cung. Nếu để lộ ra, quân triều đình vác đại pháo đến thì tiên thật cũng chết, huống hồ gì tiên giả!
Đệ tứ chân Khanh cố trấn tĩnh, tìm cách dò hỏi xem hư thực thế nào. Lão vờ không tin, bĩu môi cười khinh miệt:
- Nói láo! Ngươi đừng rung cây nhát khỉ uổng công.
Nhương Thư bỏ dở cuộc đối thoại, rút kiếm ra. Hắc Y Đạo sĩ tuy ấm ức nhưng vẫn phải vào trận. Lão quyết định giết cho được gã tiểu tử đáng ngờ này để diệt khẩu Nhương Thư ôm kiếm vái rồi thủ thế.
Chàng trẻ tuổi hơn đối phương nên sê được quyền xuất thủ trước . Nhương Thư không tấn công ngay, mà dựng trường kiếm trước mặt, mắt khép hờ như đang buồn ngủ. Lão sứ giả Tứ Phạn Thiên cung cũng chỉ xéo kiếm trân trời, tay tả bắt kiếm ấn, tư thế trang nghiêm, trầm ổn như núi Thái, lộ rõ một trình độ kiếm thuật thượng thừa!
Kiếm của lão có nước thép xanh biếc, ai cũng nhận ra là nó tốt hơn kiếm của Nhương Thư. Chàng họ Tần kia sừ dụng một cây kiếm tầm thường trị giá chỉ độ vài lượng bạc. HỔ Hồng Nhan sợ chàng kiếm thế, vô tình buột miệng trách móc:
- Sao y lại nghèo đến nỗi không mua lấy một thanh kiếm cho ra hồn! Loại thép mục ấy chỉ vài chiêu đã gãy, làm sao thắng nổi đối phương?
Uyển Xuân nhanh nhảu tháo kiếm của mình, định đưa cho Nhương Thư, thì chàng đã ra tay.
Quần hùng nhất tề Oà lên thán phục khi thấy chàng trai trẻ tuổi thi triển phép ngự kiếm. Trong trăm năm trở lại đây, chưa có kiếm thủ tuổi dưới năm mươi nào tinh thông Ngự Kiếm thuật. Và ngay cả trong đám cao thủ lão thành cũng chẳng mấy người đạt đến trình độ thượng thừa này của kiếm đạo.
Phép ngự kiếm đòi hỏi công lực thâm hậu và nhất là căn cơ võ học bẩm sinh.
Có người luyện kiếm sáu chục năm mà vẫn không sao hiểu ngộ được yếu quyết Ngự Kiếm. Kiếm thuật thuộc về ý, còn kiếm đạo được giác ngộ bằng cái tâm vô nhiễm!
Thành tựu vượt bậc của Nhương Thư phải có sự dìu dắt của bậc minh sư! Vậy sư phụ của chàng là bậc kỳ nhân nào?
Chuyện ấy khoan bàn đến vì lão sứ giả Tứ Phạn Thiên Cung đã tiếp đón chàng bằng một màn kiếm quang xanh biêng biếc, đầy những tia sáng dọc ngang như ánh chớp. Đây chính là pho Hao Thiên kiếm pháp lừng danh của Tứ Phạn Thiên Cung, mấy mươi năm bất bại.
Hao Thiên là hai chữ đầu trong danh hiệu của vị thần tối cao mà đạo giáo thờ phụng. Nguyên cây ấy là Hao Thiên Kim Thuyết Ngọc Hoàng Đại Đế. ông này còn được gọi là Ngọc Thanh, đứng đầu Tam Thanh. Chắc chắn Ngọc Hoàng chẳng phải là người sáng tạo ra pho kiếm ác độc ấy, song mức độ lợi hại của nó quả là quán thế!
Khi đọc Tây Du Ký, chúng ta thấy rằng Ngọc Hoàng kém xa Phật tổ Như Lai, thì trong trường hợp này cũng vậy, luồng kiếm ảnh mờ mờ, mềm mại mà chẳng chút sát khí của Nhương Thư như bàn tay Phật mở lớn ra, nuốt chửng đạo kiếm quang rực rỡ và diêm dúa của đối thủ.
Hai thanh kiếm chạm nhau liên hồi, tiếng trong trẻo của thép tốt hòa với tiếng đục chát của thanh kiếm rẻ tiền, thành một tiếng ngân kỳ quái.
song phương dội ra, rơi xuống đất, rồi lập tức áp sát ngay. Lúc này, người xem mới nhận ra một đoạn mũi kiếm dài nửa gang nằm trên mặt cỏ. Nghĩa là thanh kiếm rẻ tiền của Nhương Thư ngắn đi.
Mọi người Oà lên tiếc rẻ khi thấy ngực lão sứ giả kia rách một đường dài, lộ rõ áo trong màu trắng, đẫm máu. Nếu kiếm của Nhương Thư không gãy thì lão khó mà sống sót.
RÕ ràng đệ tứ HỘ Cung Chân Khanh sợ hãi thuật Ngự Kiếm của Nhương Thư nên chủ động bám riết lấy chàng, dùng kiếm thuật thông thường mà áp đảo. Lão thi triển pho khinh công Kim Khuyết thân pháp, di chuyển nhanh như gió liên tiếp ập vào giáng những đòn bão táp. ánh tà dương mùa thu mỗi lúc mỗi nhuộm hồng màn kiếm quang xanh biếc, khiến nó dần tím lại! Kim Hao kiếm pháp vừa độc ác, vừa diễm lệ phi thường!
Tuy chán ghét Tứ Phạn Thiên Cung nhưng lòng hiếu võ đã khiến khách quan chiến phải vỗ tay khen ngợi lão sứ giả.
Vả lại, kiếm pháp nào cũng mang mục đích giống nhau, ác hay thiện là do lòng dạ người học kiếm. Kẻ thì dùng sở học giết đồng loại mà mưu lợi cầu danh, kẻ chỉ mong tự vệ hoặc diệt ác cứu bách tính Song chẳng bao lâu sau, mọi người lại tán thưởng Nhương Thư, vì với thanh kiếm gầy mũi và đầy những vết sứt mẻ nơi lưỡi, chàng vẫn kiên cường chống cự, chẳng hề chịu kém.
Họ Tần dùng đấu pháp dĩ tịnh chế đ»™ng, di chuyển những bước ngắn, ung dung giải phá những đợt sóng kiếm vũ bão của đối phương, mắt sáng rực một niềm phấn khởi. Có vẻ như chàng ta vui mừng được tỷ kiếm với tay kiếm lão luyện như lão sứ giả kia vậy! Tuy nhiên, chàng phải trả giá bằng những vết rách không sâu trên cơ thể. Các thương tích này đã khiến lão đạo sĩ mang mặt nạ đồng kia khoái trá, hăng hái tấn công quyết liệt, chẳng ngờ việc có người mê học kiếm đến nỗi đem thân ra chịu đòn.
Nhưng đến chiêu thứ sáu trăm, lão ta thức ngộ được dụng ý của Nhương Thư, vì phát hiện đối thủ đã bỏ qua nhiều cơ hội để giết mình. Lão chột dạ nghĩ:
- Quỉ quái thực! Chẳng lê tiểu tử này thông minh đến mức có thể học lỏm võ công trong lúc giao đấu hay sao?
Lão liền dồn toàn lực, ra một loạt đòn sấm sét, và sừ dụng cả tay áo đạo bào dài thượt để hỗ trợ. Bề ngoài, chiến thuật này chỉ có tác dụng làm rối mắt Nhương Thư, nhưng bên trong, lão sứ giả âm thầm phóng kỳ độc. Dường như họ Tần biết được, tức khắc múa tít trường kiếm, tấn công dồn dập như bão táp mưa sa, tiện phăng tay áo và không để đối phương kịp đổi hơi.
Lúc này quần hùng mới được chứng kiến bản lãnh chân thực của chàng, tròn mắt khâm phục trước những đạo kiếm quang chập chờn, lung linh như ngọn lửa.
Lão sứ giả đã nhận ra lai lịch pho kiếm này, than thầm:
- Phật Đăng kiếm pháp!
Vậy là đã rõ, Nhương Thư chính là học trò Phật Đăng Thượng Nhân, cao thủ số một của Phật Môn, vừa tọa hóa hồi cuối năm ngoái ở tuổi chín mươi.
Khác với Thiếu Lâm Tự và Vạn Niên Tự ở núi Nga Mi, các chùa trên núi Ngũ Đài Sơn không hề thành lập võ phái, không nhận đệ tử tục gia. Võ nghệ chỉ truyền cho tăng chúng như phương tiện rèn luyện thể lực, và bảo vệ chùa. Tuy nhiên, Phật Đăng Thượng Nhân đã khiến cho cả võ lâm phải nghiêng mình kính phục trước nền võ học núi Ngũ Đài! Sau khi Thần Quang Chân Quân công Tôn Khuê tạ thế, Thượng Nhân được tôn là thiên hạ đệ nhất cao thủ.
Phật Đăng Thượng Nhân rời chùa Phật Quang năm bốn chục tuổi, vân du khắp Trung Hoa. Suốt ba mươi năm, cải hóa hoặc phế bỏ võ công của hàng trăm đại ma đầu cái thế, mang lại thanh bình cho võ lâm. Hai chục năm trước, ông quay lại Ngũ Đài Sơn thiền định, được mười chín xuân thì nhập niết bàn.
Chỉ vài cao tăng chùa Phật Quang và Nhương Thư biết vì sao Tứ Phạn Thiên Cung ẩn mặt mười ba năm. Chính Phật Đăng Thượng Nhân đã tìm ra sào huyệt Thiên Cung, một mình đột nhập, khống chế Kim Mẫu, bắt Thanh Linh Thủy Lão phải đóng cửa Thiên Cung, không được tác oai tác quái nữa. Nay Thượng Nhân tọa hóa, Tứ Phạn Thiên Cung mới dám tái xuất giang hồ.
Nhưng xui xẻo cho họ, vừa khai trương đã đụng phải đệ tử của khắc tinh, khiến lão sứ giả vô cùng hoang mang sợ hãi, nhất là khi đôi mắt Nhương Thư bốc lên những tia tàn nhẫn và ác độc, kèm theo giọng truyền âm lạnh lẽo:
- Chắc lão biết ta là ai? Nếu muốn sống thì tuyên bố bãi bỏ việc mời Điền Trang chủ đến tiên cảnh và quay về báo với Thanh Linh Thủy Lão rằng Phật Đăng Thượng Nhân đã có học trò kế nghiệp.
Tần mỗ lại tàn ác khác hẳn gia sư, đừng để ta đến nơi hỏi tội!
Chàng vừa hăm dọa vừa xuất kỳ chiêu đâm thủng áo đối thủ, làm cho lão đạo sĩ khốn khổ kia chẳng còn chút dũng khí nào cả. Lão rầu rĩ đáp:
- Bần đạo xin tuân mệnh! Mong thì chủ dừng tay cho !
Nhương Thư khê gật đầu, dặn dò thêm vài câu rồi tung mình nhẩy lùi bãi chiến.
Lão sứ giả đình thủ, tra kiếm vào vỏ, hắng giọng nói lớn:
- Thì ra sư thừa của Tần thiếu hiệp đây có chút uyên nguyên với bổn cung! Nể mặt y, bổn cung hoãn việc triệu tập Điền thí chủ, để đưa Nhương Thư về ra mắt nhị vị cung chủ đại tiên. Xin cáo biệt.
Quần hùng ngơ ngác trước thái độ nhũn nhặn của Tứ Phạn Thiên Cung, và thắc mắc về lai lịch của Nhương Thư, sao Ngũ Đài Sơn lại có liên quan với bọn tà ma? Hay là chàng họ Tần đã khai man lý lịch?
Riêng đối với cha con nhà họ Điền thì dẫu chàng là ai cũng mặc, vì đã cứu mạng Điền Đông Giám! Ba nữ nhân chạy ra vừa khóc vừa cười níu áo Nhương Thư, Uyển Xuân nói ngay:
- C ông tử không được đi ! Thăm người quen thì lúc nào chẳng được ! Năm nay không gặp thì sang năm, có gấp gáp gì?
Bạch Cúc thì thản nhiên nói:
- Công tử mà đi thì tiểu muội sê tháp tùng!
Nhương Thư đang bối rối thì Mã Lan thỏ thẻ:
- Tần công tử quên việc tìm lão Trác Thiên Lộc rồi sao? Tháng tám này Tế Nam tụ tập hàng vạn hảo hán bốn phương, là cơ hội tốt nhất để chàng điều tra!
Lúc đầu, Nhương Thư vì sợ đa mang tình ái nên bảo Đệ Tứ Chân Khanh nói như thế Nay ba nàng quá thiết tha, và chàng cũng cần ở lại, nên đành phải thay đổi kế hoạch, Nhương Thư vòng tay nói với lão sứ giả:
- Tôn giá cứ về trước! Cuối năm nay tại hạ sê đến bái kiến Thủy Lão và Kim Mẫu!
Lão ta gật đầu, nói giả lả:
- Thế cũng được! Bổn tiên sê về báo lại với Nhị vị cung chủ đại tiên! Mong thiếu hiệp chớ lỗi hẹn!
Nói xong, lão lên kiệu chuồn thẳng, được quần hùng tống tiễn bằng tràng cười chết giễu! Mọi người quay sang tán thưởng Nhương Thư, Tào ưng hỏi thẳng:
- Này Tần lão đệ! Chẳng hay nội tình như thế nào?
Không ngờ Nhương Thư lảo đảo khuy xuống, ngồi xếp bằng điều tức, mặt xám đen, máu rỉ ra khóe miệng. Điền Trang chủ vội quát thủ hạ lập thành vòng đai dầy đặc quanh chỗ Nhương Thư ngồi, đề phòng bất trắc. Trong lúc này, chỉ một mũi ám khí nhỏ bé cũng đủ sức lấy mạng họ Tần. May thay, hai khắc sau, Tần Nhương Thư đã thoát hiểm, mở mắt lẩm bẩm:
- VÔ Hình Chi Độc quả là lợi hại!
Quần hùng càng thêm thán phục khi thấy chàng trục được chất độc lừng danh kia. Uyển Xuân cười khanh khách:
- Tần đại ca mau vào trong thay y phục, mùi hôi của đại ca thật là khó ngửi!

Hồi 2

Điếm Trung Kết Đệ Huynh
Lâu Thượng Phùng Cửu Tặc

Suốt tháng tám Nhương Thư ở lại Điền Gia Trang bầu bạn với các tiểu thư và nỗ lực xúc tiến việc truy tầm tung tích của lão già mặt sẹo Trác Thiên Lộc. Bọn môn khách trong trang cũng vì chàng mà lùng sục khắp thành Tế Nam hỏi han hào kiệt tứ xứ về họ Trác. Họ làm như thế phần vì ngưỡng mộ Nhương Thư, phần vì giải thưởng ngàn lượng vàng cho bất kỳ ai cung cấp tin tức về kẻ thù của chàng.
Điền Đông Giám ngầm xem Nhương Thư là rể nên đã treo giải thưởng ấy. Hơi vàng sẽ khiến mọi người ra sức tìm tòi.
ông vô cùng cao hứng vì chọn được rể đông sàng nhân phẩm xuất chúng võ nghệ phi thường, và còn nuôi ý định gả cả Ngọc Trâm cho họ Tần. Khổ thay, Ngọc Trâm lại mang mặc cảm, tránh không gặp Nhương Thư, dù lòng ngày càng say đắm! Khi được cha hỏi ý kiến, nàng cay đắng đáp :
- Chắc hài nhi và Nhương Thư chẳng có duyên nợ. Thứ nhất là y quá số tuổi mà BỐ Y Thần Toán đã bói. Thứ hai, ngay lúc sơ ngộ, hài nhi đã lỡ lời khiến y giận dữ.
Nhưng mọi việc chưa ngã ngũ thì đầu tháng chín Nhương Thư lặng lẽ bỏ đi để lại phong thư:
Điền trang chủ nhã giám!
Năm xưa, vãn sinh vô tinh ăn lầm loài Nấm Quỷ, tuy nội lực bản thân tăng tiến vượt bậc nhưng vãn sinh sẽ không thọ quá ba năm nữa. Do vậy, kẻ hèn này đành phụ lòng yêu thương của trang chủ và các tiểu thư. Ngàn vạn lần cúi xin chư vị lương thứ cho.
Nhương Thư bái bút! "
Ba mỹ nhân khóc vùi như cha chết, còn Ngọc Trâm lén gạt lệ trở lại khuê phòng!
Vài ngày sau, HỔ Hồng Nhan đến tìm Thiết Kình Ngư Tào ưng, nghiêm nghị noi:
- Tiểu muội muốn nhờ đại ca hộ tống đi tìm Tần công tử!
Tào ưng trợn tròn đôi mắt, gãi đầu đáp:
- Thế mà tại hạ tưởng cô nương chán ghét gã họ Tần? Không ngờ chính đại tiểu thư mới là người nặng tình nhất.
Ngọc Trâm hổ thẹn nhăn mặt:
- Tào đại ca có đi không thì bảo?
Tào ưng cười khà khà:
- Đi chứ! ăn chực mãi cũng có ngày phải trả nợ!
Thế là mờ sáng mùng sáu, hai người âm thầm rời trang. Đến trưa, Điền Uyển Xuân sang thăm chị cả, phát hiện tờ hoa tiên trên gối, liền chu tréo lên.
Ba nàng hậm hực trách móc Ngọc Trâm chơi trò phỗng tay trên, nằng nặc đòi đi cả! Điền trang chủ liền trấn an:
- Các con hãy cố chờ thêm một thời gian nữa! Ta đã thỉnh giáo Sơn Đông đại thần y, biết rằng Nhân sâm ngàn năm có thể cứu mạng Nhương Thư. Đơn đặt hàng đã được gửi đi Liêu Đông và Cao Ly, chỉ vài tháng là có tin! Nay ba đứa ngươi đều thân thiết với Nhương Thư, chỉ mình Trâm nhi là còn xa cách. Nếu nó tìm được Tần công tử, kề cận gây tình cảm, sau này cùng chung thuyền chẳng vui hơn sao? Vả lại chẳng lê các ngươi lại nhẫn tâm bỏ lão phu cô quạnh một mình?
Ba nàng con gái đang yêu nghe hữu lý nên đồng ý ở lại. Tuy nhiên, Uyển Xuân đã giao hẹn:
- Sau ba tháng nữa, nếu không có Thiên Niên Tuyết Sâm thì bọn hài nhi sẽ đi tìm chàng đấy!
Điền lão phì cười mắng yêu:
- Đúng là nữ nhi ngoại tộc, vì trai mà quên cả cha già.
Môn khách quá nhiều nên không ai để ý rằng cùng mất tích một lượt với Nhương Thư là một lão già gầy gò, trầm lặng, tên gọi Quách Tàn Bôi. Họ Quách tuổi độ năm mươi bốn, gương mặt thanh tú, trán cao, mắt sáng nhưng sắc diện u ám, sầu héo như mang trong lòng nỗi khổ vời vợi Lão đến nương náu Điền Gia Trang từ buổi đầu xuân, ăn ít uống nhiều, ai chọc ghẹo cũng chỉ cười trừ.
Cuối canh tư sáng mùng hai tháng chín, khi Nhương Thư bỏ lại con ngựa gầy, vác hành lý vượt tường, thì đụng độ Quách Tàn Bôi. Lão cũng mang theo tay nải bằng vải cũ mèm, cứ như là đã được Nhương Thư rủ theo vậy. Họ Quách mỉm cười :
- Lão phu sợ công tử đi một mình buồn chân nên tháp tùng cho vui !
Nhương Thư lấy làm lạ nhưng vẫn hiền hòa đáp:
- cảm tạ Quách lão! Đúng là độc hành thì buồn thực!
Hai người dở khinh công chạy một mạch, đến bình minh thì đã rời xa cửa Tây Thành Tế Nam được vài chục dặm.
Thấy bên đường có phạn điếm mở sớm, Nhương Thư nói:
- Mời Quách lão vào quán dùng điểm tâm!
ăn xong, Nhương Thư nghiêm nghị hỏi:
- Tôn giá chủ tâm đi theo tại hạ chắc là có điều muốn chỉ giáo?
Quách Tàn Bôi uống cạn chung rượu, gật đầu xác nhận và hỏi lại:
- Phải chăng công tử là truyền nhân của Phật Đăng Thượng Nhân chùa Phật Quang?
Nhương Thư giật mình hoang mang, không ngờ lão già vô danh này nhận ra tuyệt học Ngũ Đài Sơn! Sư phụ của chàng ít khi xuất thủ chốn đông người, chỉ âm thầm tìm đến chỗ kẻ đại ác ma giáo huấn, cho nên mấy ai được mục kích pho Phật Đăng kiếm pháp, trừ những nạn nhân.
Chàng c au mày đáp :
- Vì sao tôn giá biết?
Sắc diện Quách Tàn Bôi tươi tắn lên, cười khà khà đáp :
- Mười ba năm trước, khi lệnh sư trên đường đi Tứ Xuyên thì gặp lão phu thọ trọng thương nằm ở bìa rừng. Thượng Nhân liền cho uống linh đan và truyền công cứu mạng già này! Hôm đó công tử cũng có mặt, sao lại vội quên?
Nhương Thư đã nhớ ra, mừng rỡ nói:
- Đúng rồi! Sau này gia sư kể rằng tôn giá tung hoành đất Thục với biệt danh Dạ Quân Tử! Ký ức tôn giá quả là đáng khâm phục, nhận ra cả một đứa bé sau mười mấy năm xa cách.
Quách Tàn Bôi cười mát:
- Nào có khó gì! Công tử có đôi tai phật, trong vành tai lại điểm nốt ruồi son!
Nhương Thư ngượng ngùng hỏi lại:
- Tai nào vậy?
Họ Quách cười ngất:
- Không lẽ công tử chẳng hề để ý đến dung nhan của mình?
Nhương Thư cười trừ:
- Quả đúng thế! Tại hạ rất ít khi soi gương.
Quách Tàn Bôi hỏi thăm về lễ mai táng và nhập tháp của Phật Đăng Thượng Nhân rồi tư lự nói:
- Lão phu tuy là người của Hắc Đạo nhưng vẫn còn giữ được chút lương tâm, lòng không hổ thẹn với đất trời . Mong công tử cho phép lão phu đem chút sức già theo hầu hạ!
Nhương Thư không đáp mà lại hỏi:
- Vì sao tôn giá lại rời đất Thục, lưu lạc đến tận đây?
Quách Tàn Bôi biến sắc, thở dài thườn thượt:
- Ba năm trước, lão phu đột nhập một trang viện trong thành Quảng Nguyên, cạnh bờ sông Giang Lăng, không ngờ đấy lại là tư gia của vợ bé bang chủ Hồng Kỳ Bang Vương Thiên Bảo. Khi lão phu vào đến hậu viện thì thấy họ Vương đã bị đâm chết, nằm trên giường. Sợ vạ lây, lão phu chuồn ngay, nhưng lại bị bọn tuần tra phát hiện, tuy đào thoát được nhưng tình ngay lý gian nên bị Hồng Kỳ Bang truy nã ráo riết, phải bỏ xứ mà đi!
Nhương Thư nhíu mày:
- Thế tôn giá có nghi ngờ ai là thủ phạm hay không?
Quách Tàn Bôi quắc mắt đáp:
- Không phải chỉ nghi ngờ mà còn biết chắc ả tiểu thiếp kia là hung thủ. Lão phu thấy rõ ả lén lút rời khỏi hiện trường. Sau này, lão phu đã điều tra ra thị trước đây từng khét tiếng ở Hồ Nam với cái tên Tống Phong mỹ nhân Chúc Miên Thu!
Nhương Thư là kẻ đọc sách tất phải biết hai chữ Tống Phong kia ám chỉ tính dâm loạn, lẳng lơ. Nó xuất phát từ hai câu thơ:
Chỉ nghinh nam bắc điểu
Diệp tống võng lai phong!
Dịch:
Cành đón chim nam bắc
Lá tiên gió lại qua!
chỉ có bọn kỹ nữ mới thường đón đưa như thế!
Chàng đã rõ hoàn cảnh của Quách Tàn Bôi, hiểu rằng lão đã quá chán ngán cảnh lẩn trốn, sợ sệt, muốn theo chàng ngang dọc. Bản lãnh của chàng sẽ bảo vệ được lão ta trước Hồng Kỳ Bang!
Bởi thế, Nhương Thư vui vẻ nói:
- Tôn giá muốn đồng hành với tại hạ thì phải khuất tất nhận Thư tôi làm em đấy!
Quách lão hoan hỉ đáp ứng:
- Có được gã tiểu đệ anh hùng cái thế như công tử thì Quách mỗ chết ngay cũng vẫn vui! Vả lại, lệnh sư tuổi tác còn cao hơn gia sư, chúng ta xưng hô huynh đệ là chí phải !
Lão hồ hởi nâng chén mời đứa em kết nghĩa :
- Lễ nghi chỉ là hình thức, chúng ta chỉ cần một chung rượu để đất trời chứng giám cho tình nghĩa gắn bó không rời, sống chết có nhau!
Lão đổ một chút xuống đất, Nhương Thư cũng làm theo. Hai người uống cạn, nhìn nhau cười, ánh mắt ấm áp ân tình!
Dạ Quân Tử hỏi về ẩn tình trong cuộc chiến với sứ giả Tứ Phạn Thiên Cung, được Nhương Thư kể rõ. Nghe xong, lão nghiêm giọng:
- Tần hiền đệ! Võ nghệ lão phu tuy không bằng ngươi nhưng kinh nghiệm và thủ đoạn thì có thừa. Mong hiền đệ hãy chú ý đến những thiển kiến của già này!
Nhương Thư vội đáp:
- Tiểu đệ mới xuất đạo, còn rất non nớt, xin đại ca tận tình dạy bảo cho !
Quách lão gật gù:
- Ta biết ngươi là bậc kỳ nam quân tử, lòng dạ rộng rãi, khiêm tốn, tất không tự ái vặt! Nay hiền đệ đã trở thành mục tiêu số một của Tứ Phạn Thiên Cung, sẽ không tránh khỏi những đòn ám toán. Tốt nhất ngươi hãy nhẫn nhục cải trang mới mong thảnh thơi mà truy tầm kẻ gia cừu!
Nhương Thư cười mát:
- Tiểu đệ là đệ tử Phật Môn, chẳng xem danh lợi ra gì! Nhưng tiểu đệ nào biết nghề dịch dung!
Quách lão đắc ý đáp :
- Ngươi quên lão phu là ai rồi sao? Dạ Quân Tử nổi danh trong làng đạo chích cũng là nhờ tài biến hóa đấy!
Hai người rời phạn điếm vào cánh rừng già gần đấy mà hóa trang. Thì ra trong tay nải của họ Quách có đủ đồ nghề, từ thuốc vê cho đến râu tóc giả!
Xuất phát từ việc Tứ Phạn Thiên Cung không hề ngờ rằng Nhương Thư lại sớm cải dạng nên dung mạo chàng chỉ cần sửa đổi chút đỉnh là đủ. Quách lão gắn cho chàng đôi lông mày xếch, rậm rì và hàng râu mép xanh đen. Sau đó, lão dùng keo dán kéo hai vành tai ép sát xương đầu, đúng như kiểu tướng đẹp "kiến diện bất kiến nhĩ".
Bản thân Quách Tàn Bôi cũng cạo sạch chòm râu đẹp của lão, điểm xuyết thành một hán tử tứ tuần. Nhương Thư soi gương, lòng rộn lên những cảm xúc vui vui, lạ lẫm! Hai người đi thêm vài dặm, vào đại trấn dưới chân núi Vương ốc để mua ngựa.
Vương ốc sơn ở phía Tây Tế Nam, là nơi phát nguyên của dòng sông Tế Thủy.
Do thành Tế Nam nằm trên bờ Nam sông Tế nên mới có tên là Tế Nam. Tế Thủy chỉ là dòng sông nhỏ, dài vài trăm dặm, nhưng lại là một trong bốn con sông đổ thẳng ra biển, gồm: Hoàng Hà, Trường Giang, Hoài Hà và Tế Thủy. Người Trung Hoa gọi chúng là Tứ Độc. Sông Tế chạy song song với Hoàng Hà, xuyên qua tỉnh Sơn Đông mà đến biển chứ không mượn đường của ai cả!
Thời xưa, lừa ngựa là phương tiện đi lại duy nhất nên địa phương nào cũng có chỗ bán. Đến nơi, nhìn bầy tuấn mã lực lưỡng, đẹp mã, Nhương Thư ngại ngùng nói nhỏ:
- Quách đại ca! Tiểu đệ chỉ còn hơn trăm lượng lộ phí, e rằng không đủ để mua ngựa tốt !
Quách Tàn Bôi phì cười:
- Ngươi tưởng ta mặc áo vài thô, ăn chực nhà họ Điền mà trong túi không có vàng sao? Nghề của lão phu ở đâu cũng dùng được cả! Hay ngươi tự xem mình là bậc quân tử nên không dám xài của phi nghĩa?
Nhương Thư lúng túng lắc đầu, lòng tự nhủ:
"Lão này có cái miệng quả là sắc bén!
Ta đành phó thác mọi sự cho lão thôi ! " Ngựa quí có giá trị rất lớn, nên cũng là một trong những mục tiêu của đạo chích.
Dạ Quân Tử đã nhiều lần ăn trộm ngựa, tất phải tinh thông phép xem tướng ngựa, nếu không sẽ bể nồi cơm!
Người Trung Hoa cổ thuần dưỡng thú rừng làm gia súc rất sớm. Có thể nói rằng những chủng loại gia súc, gia cầm chủ yếu sau này đều có từ đời Tam Đại! Điều lý thú là vài ngàn năm trước, các cụ đã xem chó như vật tế lễ và là loại ăn thịt chính, cùng với trâu, lợn dê. Trâu thì cho Vương Hợi, ông tổ thứ bảy của vua Thang Thương thuần dưỡng được. Còn việc ngựa trở thành vật kéo xe là nhờ công lao của ngài Tương Thổ, tổ thứ mười một nhà Thương.
Đã nuôi thi có kinh nghiệm về giống tốt xấu, nên bá Nhạc nước Tần nổi tiếng sành tướng ngựa, và Ninh Thích nước Vệ giỏi xem tướng trâu mà thành danh!
Quách Tàn Bôi không phải là học trò của Bá Nhạc, nhưng đã thuộc lài những chương nói về ngựa trong bộ sách "xem tướng lục súc" gồm ba mươi tám quyển nên sở học cũng kha khá!
Đến gần trưa Quách lão mới chọn được vài con ngựa tốt nhất, mỗi con xấp xỉ ba trăm lượng bạc. Lão không hề kỳ kèo, vì đó là tính cách chung của những tay trộm cướp Chẳng phải đồng tiền mồ hôi nước mắt thì hà tiện làm quái gì?
Sau ngựa nghẽo là đến y phục, kẻ nghèo mạt mà đột nhiên mặc áo gấm thượng hạng thì càng khác lạ! Kiếm thì khỏi phải mua vì Tứ tiểu thư Điền Uyển Xuân đã tặng Nhương Thư thanh kiếm tốt của nàng. Trong bộ vó mới toanh, hai người đủng đỉnh lên lầu của tòa Tế Nguyên Đại Tửu Lâu dùng bữa trưa.
Nhương Thư nhìn qua khung cửa ngắm cảnh thu trên núi Vương ốc. Mùa thu tuy tiêu điều ảm đạm, nhưng lại có nét đẹp riêng. Giờ đây, màu xanh của Tùng Bách được điểm xuyết thêm màu lá đỏ, vàng của những mảnh rừng phong, trở nên diễm lệ. Nhương Thư lan man nhớ về Ngũ Đài Sơn, nơi chàng gắn bó mười bảy năm ròng. Phong cảnh chốn ấy đẹp hơn núi Vương ốc rất nhiều!
ăn xong, hai người nhâm nhi chén trà thơm trò chuyện. Quách Tàn Bôi cười hỏi:
- Vì sao hiền đệ lại chạy trốn khỏi vòng tay của ba vị tiểu thư sắc nước hương trời kia vậy?
Nhương Thư ngập ngừng đáp:
- Thuở còn thơ ấu tiểu đệ lạc vào rừng sâu, ăn phải loài Quỉ Nấm, thọ mạng không quá ba mươi, đâu thể kết hôn được !
Quách Tàn Bôi kinh hãi, nhăn tít cặp chân mày rậm, ngón tay nhịp trên mặt bàn như cân nhắc một điều gì. Lão tư lự bảo:
- Theo lão phu được biết thì Quỉ Nấm là con dao hai lưỡi, giúp cho con người thụ hưởng có thêm mười hai năm chân khí, nhưng khiến kinh mạch sớm khô cứng lại. Tuy nhiên, trong bản thảo cương mục của Trung Hoa Thần Y Lý cùng thời Trân có chỉ ra rằng một số dược vật quí như linh chi, sâm già, hà thủ ô... có thể giải trừ hậu quả ấy. Lão phu biết một nơi cất giữ nhánh thiên niên hà thủ ô, sẽ đến đấy lấy tặng ngươi !
Nhương Thư cảm động trước mối quan tâm của đối phương, tuy không nói ra song ánh mắt tràn ngập vẻ biết ơn!
Quách Tàn Bôi hài lòng nói sang chuyện khác. Lão hỏi:
- Thế hiền đệ định đi đâu để tìm Trác Thiên Lộc?
Nhương Thư cười buồn:
- Trời đất mênh mông, biết lão ở chốn nào? Tiểu đệ chỉ có cách lang thang khắp nơi mà dò hỏi thôi!
Quách lão thận trọng nói:
- Lão phu mạo muội muốn biết tội lỗi của lão ta?
Sắc mặt Nhương Thư lập tức tái xanh, ánh mắt ngập tràn thống khổ và oán hận.
Chàng run gi ong đáp :
- Đương nhiên, lão cẩu tặc ấy đã dâm sát gia mẫu là một ni cô ở chân Ngũ Đài Sơn rồi bỏ chùa trốn mất tăm. Gia sư sợ tiểu đệ không địch lại lão nên bắt phải luyện xong Phật Đăng kiếm pháp mới cho hạ sơn !
Quách Tàn Bôi thở dài:
- Lão khốn khiếp ấy là đại đệ tử của Thượng Nhân, công lực lại thâm hậu hơn, làm sao tiểu đệ giết được lão ta?
Nhương Thư cười lạnh:
- Tiểu đệ chỉ kém phần tu vi, vì họ Trác không học được ba chiêu tuyệt kiếm cuối cùng! Dù lão ấy giỏi nghề che dấu dã tâm, nhưng không qua được phật nhãn của gia sư!
Dạ Quân Tử yên tâm gật gù:
- Hay lắm! Thế thì lão phu sẽ giúp ngươi tìm ra kẻ thù!
Nhương Thư mừng rỡ, nhưng chưa kịp hỏi lão dùng cách nào thì đứa bé gái độ bốn năm tuổi, của cặp vợ chồng ngồi bàn gần đấy, chạy đến vung kiếm gỗ đâm vào người chàng, rồi bật cười ròn rã. Cha nó là một hán tử áo gấm xanh tuổi tam thập, dung mạo thô lậu xấu xí, liền quát gọi:
- Li ên nhi !
Mẹ của Liên nhi vội rời bàn bước đến nghiêng mình tạ lỗi:
- Liên nhi tính tình hiếu động nghịch ngợm, lỡ mạo phạm đến công tử, xin người lượng thứ cho!
Nhương Thư mỉm cười:
- Trẻ thơ vô tội! Tại hạ cũng từng là một đứa trẻ bất trị, sao lại giận Liên nhi?
Đại tẩu chớ bận tâm!
Nữ nhân kia bồng con về bàn mắng mỏ và dặn dò. Chỉ lát sau cô bé lại tuột ra khỏi lòng mẹ, chạy tung tăng khắp nơi, nhưng vũ khí đã bị tịch thu. Liên nhi lại mon men đến gần bàn của Nhương Thư, nhìn chàng bằng ánh mắt thích thú.
Nhương Thư đang định hỏi han đứa bé thì tiếng dây cung bật lên tanh tách, và mười mấy mũi trường tiễn bay qua các khung cửa lớn nhỏ của tửu lâu, chạm vào vật cản liền nổ lóc bóc, tỏa khói trắng mù mịt.
Quách Tàn Bôi lão luyện giang hồ, nhận ra ngay nguy hiểm, liền quát:
- Khói độc! Mau thoát ra!
Lão vơ lấy hai tay nải, lướt ra lan can nhẩy xuống đất. Nhương Thư thì chụp ngay Liên nhi, mang cô bé thoát khỏi vòng nguy hiểm. Song thân Liên nhi chậm hơn một bước, vì người mẹ không biết võ công nên cha nó phải bồng nàng mà chạy. Ba người vừa chạm đất đã phải đối phó với một toán cao thủ đông độ năm sáu chục, y phục không đồng nhất.
Lúc đầu Nhương Thư tưởng họ là người của Tứ Phạn Thiên Cung, và chỉ hiểu ra khi cha của Liên nhi phẫn nộ hét lên:
- Cưu Bang! Các ngươi quả là đốn mạt!
Cưu Bang là một bang hội nhỏ ở núi Cưu Sơn, ngọn núi này nằm ngày giữa ranh giới giữa ba tỉnh Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông nên chẳng biết nó thuộc quyền cai trị của ai? Tỉnh này đùn đẩy cho tỉnh kia thành ra vùng Cưu Sơn chẳng hề có quan quân Cưu nghĩa là chim tu hú! Có lê cưu sơn đầy loài chim xảo quyệt này nên mới mang tên ấy!
Hai năm trước, Cưu Bang được thành lập, quy tụ toàn những tay vong mạng, những kẻ đại ác bị triều đình truy nã.
Người võ lâm chỉ biết Cưu Bang sống bằng nghề trộm cướp nhưng không có chứng cớ. Dường như chúng hành nghề ở xa sào huyệt để bảo toàn cho vỏ bọc của mình!
Nhương Thư hạ sơn đã gần năm từng nghe đến tà bang này song chưa từng chạm trán. Giờ đây, thủ đoạn hèn hạ, độc ác của họ đã khiến chàng chán ghét, dù không hề quen biết cha mẹ của Liên nhi.
vả lại, chàng không thể cho đứa bé vô tội kia chết được!
Phe Cưu Bang lên tiếng:
- Tất Cung Bảo, nếu ngươi muốn bản thân và thê nhi được toàn mạng thì hãy mau thực hiện yêu cầu của bổn bang!
Vậy là cha của Liên nhi họ Tất, gương mặt rắn rỏi kia đanh lại, và Cung Bảo kiên quyết đáp:
- Đừng hòng ! Ta thà chết c ả nhà chứ không muốn nối giáo cho giặc!
Lão già áo trắng râu dài, đội nón rộng vành kia giận dữ quát:
- B ắt sống gã cho ta !
Thủ hạ Cưu Bang lập tức ùa vào, thế lực cực kỳ hung hãn !
Lúc này, phe Nhương Thư đã có thêm hai trợ thủ. Họ là người của Tất Cung Bảo, nãy giờ ở tầng dưới để nhậu cho thoải mái, khi có biến mới chạy ra, mặt đỏ gay!
Nhương Thư trao Liên nhi cho họ Tất rồi vung kiếm mở đường máu.
Do dược tính của Quỉ Nấm nên một kẻ hiền lành, quen chay tịnh, kinh kệ như chàng có những cơn thịnh nộ cực kỳ đáng sợ Nếu không luyện Nhiên Đăng tâm pháp từ năm chín tuổi thì chàng đã biến thành tên đồ tể, giết người không gớm máu!
Phật Đăng Thượng Nhân từng nói:
- Con chính là sát tinh của bọn tà ma, làm rạng rõ chính khí võ lâm. Nhưng nếu con gây quá nhiều sát nghiệp thì phải tự gánh lấy quả báo!
Nhương Thư quì xuống hứa rằng sẽ không lạm sát, song chàng đã chẳng giữ được lời! Khi nổi giận, tâm trí chàng hừng hực ngọn lửa sát nhân.
Xui xẻo cho bọn Cưu Bang, chúng đã vô tình trở thành vật tế cờ, khai trương cho sự nghiệp giết chóc của Nhương Thư! Ngay đường kiếm đầu tiên chàng đã đâm thủng ngực ba gã, chặt tay gã thứ tư.
Những vòi máu và tiếng rên la càng kích thích lòng hiếu sát của Nhương Thư. ánh mắt chàng rực lên những tia oán độc, hung ác, môi điểm nụ cười thản nhiên thọc kiếm vào bọn Cưu Bang bằng những thức kiếm ảo diệu và nhanh như ánh chớp!
Không một tên nào đủ sức đỡ gạt hay tránh né. Nhương Thư tiêu diệt tất cả những ai dám cản đường, xác người đổ xuống tới tấp và tiếng kêu rên bi thiết vang dậy.
Chưa đầy nửa khắc chàng đã hạ sát hai mươi mấy kẻ địch, đưa đoàn người ra đến cổng tửu lâu.
Lão già Bạch y, đội nón rộng vành cố nến kinh hoàng trước tài nghệ và lối giết người mau lẹ của đối phương, cung đao đón đường. Lão là đầu lĩnh của toán quân Cưu Bang tất võ nghệ chẳng tầm thường, đường đao mãnh liệt như sóng dữ, chặn đứng Nhương Thư lại.
Điều này chỉ làm cơn giận dữ trong lòng đại sát tinh họ Tần bốc cao thêm.
Nhương Thư nghiến răng xuất một loạt chiêu thần tốc, kiếm ảnh hóa thành trăm lưỡi lửa xanh chập chờn, len lỏi qua màn dao quang, liếm vào ngực đối phương.
Nạn nhân rú lên thảm khốc, ngã ngửa ra chết tốt, tâm thất đầy những lỗ thủng.
Như rắn mất đầu, bọn Cưu Bang còn lòng dạ đâu mà đánh đấm, tháo chạy như bầy vịt, biến mất trong những ngõ hẻm gần đấy!
Mục tiêu không còn, lòng Nhương Thư dịu lại, ngơ ngẩn nhìn những thi thể đẫm máu trên sân gạch của tửu lâu, bàng hoàng, sợ hãi! Chàng rùng mình lẩm bẩm:
- Chẳng lê ta đã biến thành một ác ma khát máu rồi sao? Ta còn mặt mũi nào mà niệm phật nữa đây?
Quách Tàn Bôi nghe thấy thế, lên tiếng an ul:
- Hiền đệ chớ tự kết tội mình! Cưu Bang tập trưng toàn những tên độc ác ngập đầu, có chết cũng là đáng lắm! Để chúng sống chỉ khổ cho bách tình!
Nhương Thư chua xót đáp:
- Gia sư cũng diệt ác nhưng chưa từng phải giết ai cả! Tiểu đệ đã phụ lòng giáo huấn của người rồi!
Tất Cung Bảo bước đến, cắt ngang câu chuyện, quỳ xuống lạy:
- Tất mỗ suốt đời ghi lòng tạc dạ đại ân cứu mạng của đại hiệp ! Xin người cho biết phương danh để nhà họ Tất phụng thờ!
Vợ con của Cung Bảo cũng quỳ theo, khiến Nhương Thư ngượng ngùng xua tay:
- Xin đại huynh và đại tẩu chớ làm thế mà tiểu đệ thêm hổ thẹn!
Liên nhi ngây thơ nói:
- Đại thúc không cho biết tên thì Liên nhi chẳng đứng lên đâu. úi chà, đau đầu gối quá!
Nhương Thư phì cười trước gương mặt nhăn nhó rất dễ thương của cô bé, nói với Cung Bảo:
- Tiểu đệ là Tần Nhương Thư, mong đại huynh bình thân giùm cho !
Vợ chồng Cung Bảo dập đầu lạy ba lạy rồi mới đứng lên. Họ Tất nghiêm giọng:
- Mời Tần ân công về tệ trang ở Tế Châu để Tất mỗ tỏ chút lòng thành!
Quách Tàn Bôi nhắc nhở:
- Chúng ta nên đi chỗ khác bàn chuyện, bách tính sắp vây chặt nơi này rồi !
Tất Cung Bảo vội vẫy chưởng quầy tính tiền ăn uống. Cả bọn lấy xe, ngựa rời khỏi trấn Phương tiện di chuyển của gia đình họ Tất là một cỗ xe song mã rất đẹp.
Nhương Thư sợ họ lại gặp nạn nên quyết định hộ tống về đến nhà. Năm ngày sau, đoàn người có mặt tại Tất gia trang trong thành Tế Châu.
Tế Châu nằm ở cực bắc Lương Sơn Bạc, mang tên này từ thời nhà Nguyên, sau đổi thành Tế Ninh. Tế Châu là một địa phương sầm uất, trù phú, chỉ kém Tế Nam một chút.
Nhương Thư và Quách Tàn Bôi chỉ ở lại nghỉ ngơi hai ngày là đi ngay, dù Cung Bảo hết lời lưu khách.
Trước lúc chia tay, Cung Bảo kính cẩn tặng cho Nhương Thư một hộp gỗ cũ kỹ, trong đựng quyển kinh Đại Bát Nhã cũng già nua chẳng kém. Gã vui vẻ nói:
- Tần thiếu hiệp xuất thân từ cửa Phật ắt sẽ vui lòng nhận bản kinh văn được in từ thời nhà Đường này! Chút lòng thành xin ân công đừng từ chối.
Tuy không xuất gia nhưng Nhương Thư làu thông kinh điển, ngưỡng mộ Phật pháp, nên rất hân hoan khi được tặng bản kinh văn do chính Huyền Trang đại sư (tức Tam Tạng) dịch và in ấn lần đầu.
Huyền Trang là nhà phiên dịch vĩ đại nhất của lịch sừ phật giáo Trung Hoa.
Tuy không hề được Tôn Ngộ Không, Sa Tăng, Bát Giới hộ tống như Tây Du Ký đã kể, ông đã lên đường đến ấn ĐỘ để cầu chân nghĩa, tìm hiểu nhiều chỗ nghi ngờ, khó hiểu. Trong mười bảy năm, ông đã đi năm vạn dặm, qua hơn một trăm mười nước, khắc phục những khó khăn mà người thường khó tưởng tượng nổi, cuối cùng đem về Trường An năm trăm hai mươi quyển kinh, sáu trăm ba mươi bảy bộ sách Phật chữ Phạn.
Sau đó, Huyền Trang đại sư miệt mài dịch thuật suốt hai mươi năm, xong được phần kinh Đại Thừa, tổng cộng bảy mươi lăm bộ, một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển !
Tóm lại, giá trị của món quà nhỏ bé này vô cùng to lớn đối với Nhương Thư!
Phương trượng chùa Thiếu Lâm sẽ mất ngủ khi biết chùa Phật Quang được báu vật ấy!
Do quyển kinh cổ mà Nhương Thư quay về Ngũ Đài Sơn, trước là dâng kinh cho phương trượng sư huynh Chân Không, sau dự lễ cầu siêu cho sư phụ!
Phật Đăng Thượng Nhân từ trần hôm rằm tháng chạp năm ngoái!
Hai anh em đi về hướng Tây Bắc, vượt qua Hoàng Hà, đến thành An Dương chiều ngày mười sáu tháng mười. Họ không vào khách điếm mà ghé nhà bà con của Quách Tàn Bôi.
Chủ nhà là Quách Hưng, biểu đệ của Dạ Quân Tử, lão ta hân hoan nói:
- Trời cao có mắt nên biểu huynh đã ghé vào đây! Tiểu đệ vừa nhận thư ở quê, nhắn rằng có gặp biểu huynh thì gọi về gấp vì bá mẫu đang lâm bệnh nặng!
Quách Tàn Bôi tái mặt, rầu rĩ nói với Nhương Thư:
- Tần hiền đệ! Gia mẫu tuổi đã tám ba, nay người lâm bệnh thì rất nguy. Lão phu phải về Tứ Xuyên ngay mới được !
Lão vì chữ hiếu mà đi nên dù lo lắng Nhương Thư cũng không thể ngăn cản.
Quách lão hiểu lòng chàng, trấn an ngay:
- Hiền đệ yên tâm! Ta còn rất nhiều bằng hữu chí cốt ở cố quận, và với tài hóa trang, ta sẽ qua mắt được Hồng Kỳ Bang!
Nhương Thư gật đầu:
- Đại ca cứ lên đường, sang xuân tiểu đệ sẽ đi Tứ Xuyên ngay!
Quách lão liền nói rõ nơi cư trú và cách thức liên lạc sau này! Lão không lưu lại thêm, tức tốc khởi hành.
Nhương Thư ở lại nhà Quách Hưng một đêm, sáng sớm cũng tạ từ để đi Sơn Tây.



Các chủ đề khác cùng chuyên mục này:

Tài sản của than_long_vn

  #2  
Old 05-05-2008, 08:21 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 3

Hồng Nhan Thiên Lý Tầm Phu Tướng
Hạt Nhãn Ly Hương Ngộ Sát Tinh

Thời gian còn rất dư dật, Nhương Thư đủng đỉnh tìm nơi ăn sáng. Chàng luôn chọn chỗ đông người với niềm hy vọng mơ hồ sẽ tìm thấy kẻ thù, là lão sư phá giới họ Trác, vốn có pháp danh là Chân Từ.
Có những địa phương không bao giờ đổi tên, An Dương là một trong số ấy, mặc cho vật đổi sao dời. Ba ngàn năm trước, An Dương là kinh đô nhà Thương, và giữ mãi cái tên gắn liền với lịch sừ khai quốc của Trung Hoa (tính đến nhà Minh).
Trên con đường lót đá phẳng phiu, rộng bốn mươi bước chân, người ngựa qua lại tấp nập, gồm thương lái và du khách. Nhương Thư dừng cương trước tòa Duyệt Tân Lâu ba tầng, nơi bán cả điểm tâm lẫn món nhậu!
Người xưa gọi rượu là thánh thủy nhưng chỉ có những kẻ liều mạng hoặc chán sống mới uống rượu vào sáng sớm.
Khách giang hồ không chán sống song ỷ vào sức khỏe mà nhậu tì tì, bất kể thời gian! Giờ đây, trên tầng hai của Duyệt Tân Lâu có đến năm sáu bàn đang rộn rã tiếng cười, tiếng cụng chén côm cốp!
Có lẽ do Nhương Thư mang kiếm mặc võ phục, nên gã tiểu nhị đã tự động mang ra một bình rượu nhỏ, kèm theo mấy món ăn sáng. Gã tưởng chàng cũng giống đám bợm kia.
Thực ra, Nhương Thư ky rượn, phần do mười bảy năm trai giới, phần vì rượu sẽ kích động nộ hỏa dễ bùng phát. Chàng chỉ uống khi lòng thật vui, thật thanh thản và chỉ vài chung.
ăn xong, Nhương Thư gọi bình trà "Ngọc Dịch Trường Xuân", một trong những loại trà nổi tiếng nhất, xuất hiện từ thời Tống. Ngang hàng với Ngọc Dịch Trường Xuân còn có: Long Đoàn Trà, Long Phụng Trà, Thạch Nhũ Trà, Bạch Nhũ Trà, Vạn Xuân Ngân Diệp. . .
Trung Hoa là quê hương của trà.
Thuật trồng trà, chế biến trà, uống trà đều bắt nguồn từ Trung Hoa. Trong thư tịch và truyền thuyết cổ, có nhiều nơi nhắc đến trà. Thuần Nông Thuật Kinh viết:
"Uống trà lâu khiến người khỏe, trí tuệ minh mẫn". Còn Hoa Đà, danh y thời Đông Hán viết trong thực luận: "Trà đắng uống lâu càng thấy sáng suốt! " Thời Viễn Cổ, các cụ thường coi trà như một thứ dược liệu, gọi là Đồ. Họ hái lá non của những cây trà hoang dại nấu lên, chẳng sao tẩm, chế biến gì cả, nên nước trà có vị đắng chát như thuốc, bèn gọi là "Khố Đồ" Thời Tần Hán thì khá hơn, lá chè tươi hái về được chế biến thành trà bánh, khi uống bóp vụn bỏ vào bình, chế nước sôi, rồi thêm các gia vị như hành, gừng, quất Đến tận thời Minh, người ta mới tìm ra cách sao chè xanh, giữ được màu sắc, hương vị của trà nguyên chất, không cần bỏ hành, gừng, quất vào nữa!
Do vậy, bình trà của Nhương Thư tuy mang cái tên đời Tống mà hương vị lại thuần khiết và ngon ngọt hơn nhiều!
Cũng như hầu hết các nhà sư, Nhương Thư cũng nghiện trà! Trà là thứ thức uống gắn liền với lịch sừ Phật giáo Trung Hoa! Trà chống buồn ngủ khi Thiền định, giúp đầu óc tỉnh táo, minh mẫn, sáng suốt hơn.
Các chùa chiền đua nhau trồng trà, thúc đẩy sự phát triển của việc uống trà, có thời người ta còn nói rằng: Trà phật là một (Trà phật nhất vị) Nhương Thư vừa thưởng thức trà ngon, vừa suy nghĩ về cuộc chém giết ở chân núi Vương ốc. Vì sao, lúc ở Điền Gia Trang, chàng có thể bình thản trước những lời khiêu chiến của bọn môn khách, mà sau này lại nổi lôi đình trước Cưu Bang?
chàng mường tượng rằng việc này có liên quan đến một kỷ niệm mơ hồ thời thơ ấu Ngày ấy, cha chàng, Trần Tử Chính, trên đường đưa đứa con trai năm tuổi về quê nội, đã bị một toán người bịt mặt vây đánh. ông đã đưa Nhương Thư thoát đi, rồi chết trong một cánh rừng vắng, gần Nam Dương, vì những vết thương quá nặng, bỏ chàng bơ vơ ở chốn cách nhà ngàn dặm.
Phải chăng, chính vì thế mà chàng đã phát điên lên khi bị bọn Cưu Bang vây đánh?
Nhương Thư thở dài, tự nhủ sẽ luôn miệng niệm Phật khi rơi vào hoàn cảnh tương tự! Chàng hơi yên tâm, lắng nghe câu chuyện của hào khách. Thì ra họ đang trên đường đến Lã Gia Trang ở phía tây nam thành An Dương, cách chừng sáu bảy dặm!
Lã Gia Trang chính là nhà của cố minh chủ võ lâm Lã Xuân Tốn, người đã bị Tứ Phạn Thiên Cung giết hồi mười bốn năm trước Hiện nay, bào đệ của Xuân Tốn là Lã Tập Hiền, năm mươi mốt tuổi, dường như đã luyện thành thần công tuyệt thế, nên quyết định đổi tên Lã Gia Trang thành Chính Khí Trang. ông ta hiệu triệu võ lâm để tiêu diệt tất cả những thế lực tàn ác mang lại thanh bình cho Trung Nguyên.
Hùng tâm vạn trượng kia đã được các phái Bạch đạo, cùng hiệp khác bốn phương, nhiệt liệt hoan nghênh, đến tham dự lễ khai đàn rất đông !
Tuy nhiên, sự tái xuất của Tứ Phạn Thiên Cung ở Điền Gia Trang, đất Tế Nam, đã khiến tình hình đổi khác. Chính Khí Trang sẽ phải đương đầu ngay với cường địch đáng sợ kia, trước vì việc công, sau vì thù riêng. Mọi người còn đồn đãi rằng không chừng Tứ Phạn Thiên Cung sẽ chẳng để yên cho Lã Tập Hiền múa may trong ngày lễ khai trương.
Nhương Thư vô cùng mừng rỡ vì đây là cơ hội để chàng gặp gỡ nhiều người, hỏi thăm kẻ thù. Dù biết hành động của mình chỉ như "mò kim đáy biển" song chàng chẳng còn cách nào khác cả!
Chàng chỉ tận lực cho tròn đạo hiếu chứ không hy vọng tìm ra Trác Thiên Lộc trong lãnh thổ mênh mông và đông đến gần bảy trăm ức người.
Trung Hoa là nước có ngành thống kê nhân khẩu, ruộng đất tốt nhất thế giới, hoàn bị từ thời nhà Chu và được thực hiện liên tục trong mấy ngàn năm. Tài liệu để lại vô cùng phong phú, giúp hậu thế nắm được tình hình dân số từng thời kỳ. Ví dụ cuộc điều tra vào năn đầu Vịnh Lạc, đời nhà Minh, cho biết rằng thuở ấy nước Trung Hoa có độ hơn sáu mươi sáu triệu người! Nhưng hơn hai trăm sau, đến đầu triều nhà Thanh tổng nhân khẩu chỉ còn một nửa (ba chục triệu).
Vậy Nhương Thư sẽ làm cách nào để tìm cho ra họ Trác, khi chàng chỉ còn sống được vài năm nửa thôi?
Thù của mẹ đã thế, thù giết cha còn khó báo hơn, vì chàng không hề biết bọn người bịt mặt năm xưa là ai cả.
Đôi lúc, Nhương Thư lâm vào tâm trạng tuyệt vọng trước hai mối thâm thù không có lối thoát này. Có lẽ đấy cũng là một trong những lý do của những cuộc chém giết điên cuồng!
Thường dân đã sớm rời Duyệt Tân Lâu để lo sinh kế, song khách giang hồ lại đông thêm, khiến khung cảnh càng náo nhiệt Nhương Thư muốn đi theo họ đến Chính Khí Trang nên nán lại. Chẳng thể ngồi uống trà mãi, chàng đành gọi thêm món vịt quay để nhâm nhi với bình rượu đã mang ra từ lúc đầu !
Hai người khách mới lên khiến Nhương Thư giật mình kinh ngạc, họ chính là HỔ Hồng Nhan Điền Ngọc Trâm và Thiết Kình Ngư Tào ưng.
Ngọc Trâm đứng yên ở đầu câu thang, quan sát khắp lượt tửu khách như muốn tìm ai đó. Còn Tào ưng xăm xăm bước đến bàn trống gần Nhương Thư để xí chỗ.
Gã quay lại cằn nhằn Ngọc Trâm:
- Đại tiểu thư cứ ngồi cái đã! Nếu Tần công tử không ở đây tức là đã về Ngũ Đài sơn, lo gì không tìm được?
Nhương Thư kinh ngạc, chẳng ngờ HỔ Hồng Nhan lại lặn lội đi tìm mình! Chẳng lẽ nàng hổ cái kia cũng đã nặng tình với chàng!
Nhương Thư nghe ấm lòng, dạt dào niềm cảm kích. Thật ra chàng cũng không hề giận hờn gì Ngọc Trâm cả.
Phần do nàng tự mặc cảm nên ít gặp gỡ, phần bởi Nhương Thư nghĩ mình sắp chết nên chẳng mặn mà với ai làm gì!
Nay Ngọc Trâm dám bỏ nhà, bỏ cả tự ái, vượt đường ngàn dặm đuổi theo, đã biểu lộ một mối chân tình tha thiết, dù biết rõ đối tượng chẳng còn sống được bao lâu nữa.
Nhương Thư xúc động xong lại chua xót vì hiểu rằng mình không có cách nào để đền đáp mối ân tình ấy!
Ngọc Trâm uể oải bước lại, ngồi xuống ghế, tay chống cằm nhìn bâng quơ về dãy núi xa xa. Đôi mắt đen láy của nàng giờ đây buồn vời vợi, khiến dung nhan ảm đạm, hiền lành, khác hẳn lúc trước. Tào ưng gọi liền một mâm cơm thịnh soạn và vò rượu lan sinh lâu năm, giá đắt như vàng. Gã đang hộ tống một trong những mỹ nhân giàu có nhất Trung Nguyên, nên có quyền tự chiêu đãi mình trọng hậu.
Họ Tào mời lơi một tiếng rồi động đũa, ăn uống như rồng cuốn, trong khi HỔ Hồng Nhan chỉ nhấm nháp chiếc bánh hấp nhân tôm.
Dường như nỗi buồn lại khiến Ngọc Trâm đẹp hơn, thu hút nhãn tuyến của Nhương Thư. Nàng quay sang bắt gặp ánh mắt say mê của chàng trai lạ mặt bàn bên, không phát tác như thường lệ mà chỉ quay đi.
Tào ưng đã lửng dạ, cảm thấy ngượng, giả lả hỏi:
- Đại tiểu thư có nghĩ đến việc Nhương Thư từ chối hay không?
Ngọc Trâm lắc đầu:
- Tiểu muội sẽ bám chặt lấy chàng, dẫu bị xua đuổi cũng không đi, chẳng lẽ chàng không động lòng?
Tào ưng nhún vai :
- Lòng dạ nữ nhân quả là khó hiểu! Tào mỗ xin chịu thua!
Gã lại tiếp tục ăn nhưng chậm rãi hơn, và Ngọc Trâm đã nghe được câu chuyện về Chính Khí Trang, mà bọn hào khách đang nói oang oang, liền bàn:
- Tào đại ca! Hay là chúng ta thử đến Chính Khí Trang xem sao? Nhương Thư chẳng bao giờ bỏ qua những chốn đông đảo như vậy?
Tào ưng tán thành bằng cách gật đầu vì miệng đang chứa đầy thức ăn.
Tửu lâu lại có khách mới, gồm một lão nhân áo gấm lam nhạt, mặt đỏ như quan công, râu tóc bạc phơ, và một chàng trai tuổi quá hai mươi. Người có danh như cây có bóng, bọn hào khách xôn xao thì thầm:
- Hồng Diện Tôn Giả! Lão ta ở tận vùng Bát Đạt Lĩnh, sao lại đến đây làm gì?
Nhương Thư từng nghe sư phụ kể về bậc kỳ nhân này. Lão ta tên gọi Hoàng Huy Do, tuổi đã bảy mươi tám, xếp hàng thứ tư trong Vũ nội tứ thần. Người đứng đầu chính là Phật Đăng Thượng Nhân, sư phụ Nhương Thư.
Hồng Diện Tôn Giả tính tình nóng như lửa, cổ quái chứ không tàn ác, theo ý riêng mà hành động, được xem là kẻ ở giữa chính tà !
Nhương Thư thích thú ngắm nhìn chàng trai võ phục trắng đứng cạnh Tôn Giả. Gã anh tuấn đến nỗi hấp dẫn cả nam nhân chứ đừng nói đàn bà con gái. Trên gương mặt ngọc kia, mọi nét đều đẹp, và quyến rũ nhất là đôi mắt sáng long lanh, âm áp.
Gã nhìn thấy HỔ Hồng Nhan Điền Ngọc Trâm, liền rảo bước đến, nở nụ cười tình tứ rồi vòng tay nói bằng giọng ngọt ngào như mật:
- Tại hạ là Vạn Lý Thần Điêu Bạch Thúy Sơn, một kẻ quê mùa vùng quan tái phía Bắc, lần này theo sư phụ vào Trung Nguyên để mở mang tầm mắt. Nay được diện kiến tiểu thư ở đây mới hiểu thế nào là nét đẹp của tiên nữ chốn Thiên Cung!
Câu tán dương khéo léo với nghệ thuật bậc thầy này của chàng trai trẻ đẹp như Phan An, chắc chắn sẽ làm rụng rời trái tim của mọi nữ nhân trong thiên hạ.
Nhưng khổ thay, HỔ Hồng Nhan kiêu kỳ bậc nhất, tai quen nghe hàng vạn lời ca tụng, nên chẳng hề xao xuyến. Bản chất ngang ngạnh của nàng có dịp bộc lộ, liền lạnh lùng nói:
- Các hạ mới đi được hơn ngàn dặm, kiến văn kém cỏi nên không xứng là người bình phẩm nhan sắc bổn cô nương!
Sau này các hạ gặp người đẹp hơn ta thì sẽ dùng ngôn từ gì để ca ngợi?
Bạch Thúy Sơn chưa bao giờ thất bại, nên đòn bất ngờ này đã khiến gã choáng váng, mặt tái đi vì hổ thẹn, ngượng ngùng biện bác:
- Tại hạ không tin là trong thiên hạ có người đẹp hơn cô nương!
Khi say người ta can đảm hơn lúc tỉnh, vì vậy, trong đám thực khách có vài người phá lên cười chế giễu Thúy Sơn.
Cây cao gió cả! Gã quá đẹp trai nên đã khiến bọn nam nhân đồng trang lứa ganh ghét. Thiết Kình Ngư Tào ưng sợ Hồng Diện Tôn Giả phát tác liền đứng lên vòng tay nói:
- Mời lão tiền bối và công tử ngồi chung cho vui !
Bạch Thúy Sơn mừng rỡ vòng tay vái tạ rồi quay lại kéo sư phụ ngồi xuống.
Nãy giờ Hoàng Tôn Giả chỉ tủm tỉm cười mà chẳng nói năng gì! Cứ như là lão hài lòng khi thấy đồ đệ bị hố vậy! Tôn Giả xua tay cười bảo:
- Lão phu chỉ sợ chưa ăn xong bữa đã bị con bé lợi hại kia đuổi đi! Sơn nhi có gan thì cứ ngồi, lão phu tìm chỗ khác vậy!
Lão xăm xăm bước đến bàn Nhương Thư và hò i :
- Tiểu oa nhi có vui lòng đối ẩm với già này hay không?
Nhương Thư từng nghe ân sư nhận xét rất tốt về Hồng Diện Tôn Giả nên vội đứng lên, cung kính đáp:
- Kính thỉnh tiền bối an tọa! Vãn sinh ngồi một mình cũng buồn!
Bên kia, Bạch Thúy Sơn đang giả lả chuyện trò với Tào ưng, thỉnh thoảng hỏi Ngọc Trâm một câu. Không nghe đối phương giới thiệu danh tính theo đúng lễ giang hồ, gã đành phải hỏi:
- Tại hạ mạo muội muốn biết phương danh của tiểu thư?
Ngọc Trâm cười nhạt:
- Chúng ta bèo nước gặp nhau, các hạ cần gì phải biết danh tánh của ta?
Bạch Thúy Sơn thẹn đỏ mặt nhưng không giận, tủm tỉm hỏi:
- Vì sao tiểu thư lại có ác cảm với tại hạ?
Ngọc Trâm nhìn thẳng vào mắt đối phương, chậm rãi đáp:
- Cổ nhân có câu trai tài gái sắc, nay các hạ xinh đẹp quá mức nên sẽ say đắm bản thân mình, chú trọng vẻ ngoài mà không nỗ lực củng cố tài năng bên trong.
Thứ hai, những gã đẹp trai thường như bướm vờn hoa, đa mang khắp chốn mà không thể mang lại hạnh phúc cho riêng một nữ nhân nào !
Hồng Diện Tôn Giả vỗ đùi lớn tiếng khen ngợi:
- Thực là cao luận! Không ngờ trong đám quần thoa lại có người sáng suốt như thế?
Nhương Thư cũng phục sát đất và hiểu rõ bản chất của Ngọc Trâm hơn. Nàng kiêu kỳ, khó khăn cũng vì đám nam nhân chung quanh chỉ là những chú gà trống tốt mã, bất tài! Được một bậc kỳ nữ yêu thương, Nhương Thư thầm tự hào, hãnh diện. VÔ tình, Nhương Thư nhìn HỔ Hồng Nhan bằng ánh mắt trìu mến, thân thương. Hồng Diện Tôn Giả nhận ra, cười hỏi:
- Phải chăng ngươi biết ả cọp cái ấy?
Nhương Thư hãnh diện gật đầu:
- Bẩm tiền bối! Nàng ta là HỔ Hồng Nhan Điền Ngọc Trâm, trưởng nữ của võ lâm Mạnh Thường Quân đất Tế Nam.
Tôn giả nhíu đôi mày bạc, dài đến nỗi rủ xuống đôi mắt:
- Lão phu nghe đồn họ Điền có đến bốn nữ. Thế nhan sắc của ba ả còn lại sao?
Nhương Thư cười đáp:
- Họ cũng xinh đẹp chẳng kém chị cả, mỗi người một vẻ riêng, bản tính cũng vậy Hoàng lão cười tinh quái:
- Sao ngươi lại tỏ tường gia sự họ Điền như thế?
Nhương Thư bối rối đáp:
- Vãn sinh từng làm khách ở đấy hơn tháng!
Tôn Giả quả là người lão luyện và minh mẫn, nhận ra ngay ẩn tình:
- Lạ thực ! Vì sao họ không nhận ra ngươi? Và nếu có việc ấy thì ngươi cũng phải đến chào hỏi và ngồi chung bàn chứ?
Bao năm giữ giới trọng ngữ nên Nhương Thư không quen nói dối, chàng lúng túng nghĩ cách trả lời. Khi định nói rằng mình nghèo, không đủ tiền mời Ngọc Trâm, thì chợt nhớ tấm ngân phiếu mà Quách Tàn Bôi đã tặng, đành thôi !
Hồng Diện Tôn Giả biết ngay gã tiểu tử này thật thà, không giỏi giảo ngôn, liền giáng thêm một đòn, hạ giọng mỉa mai:
- Phải chăng ngươi đã cuỗm tài sản của Điền Gia Trang trốn đi nên không dám gặp họ?
Nhương Thư giật mình chối bai bải:
- MÔ phật ! Làm gì có chuyện ấy?
Hồng Diện Tôn Giả quắc mắt, gằn giọng:
- Nếu ngươi không nói thực ra thì lão phu sẽ la lên đấy!
Nhương Thư nhăn nhó, ngập ngừng thú nhận:
- Bẩm tiền bối! Vãn sinh không dám thọ lãnh tình cảm của các tiểu thư nhà họ Điền nên phải bỏ đi. Không ngờ Nhương Thư lại đuổi theo!
Hoàng lão kinh ngạc hỏi lại:
- Ngươi dùng chữ "các" phải chăng hàm ý rằng có ít nhất hai ả đã say mê ngươi?
Nhương Thư lỡ khai, chẳng giấu giếm làm gì . Chàng ngượng ngùng đáp :
- Dạ bẩm tiền bối ! Cả bốn chị em họ !
Rồi chàng năn nỉ:
- Vãn sinh có hoàn cảnh rất đặc biệt, không thể kết hôn được. Kính mong tiền bối đừng để Ngọc Trâm biết tại hạ ở đây!
Hoàng lão cười khà khà:
- Té ra ngươi chính là gã Tần Nhương Thư đã đuổi chạy Tứ Phạn Thiên Cung, cứu mạng lão họ Điền. Vậy là ngươi đang hóa trang chứ gì?
Cũng may là lão nói rất nhỏ, nếu không thì bàn bên đã nghe thấy.
Rượn thịt được dọn ra, Tôn Giả róc rượn, bắt Nhương Thư phải uống với mình. Nhương Thư bị nắm gáy đành chiều ý lão già tinh quái kia. Cảnh rù rì tương đắc của hai người đã khiến Bạch Thúy Sơn ngạc nhiên. Gã hỏi vọng sang:
- Sao hôm nay ân sư lại hạ cố thân mật với hàng hậu bối như thế?
Tôn Giả cười khanh khách:
- Hôm nay lão phu cao hứng phi thường vì đã gặp chàng trai tuyệt diệu này! Y chính là rồng phượng chốn nhân gian, đứng đầu lớp trẻ trong võ lâm đương đại !
Lời khen ngợi này của một bậc kỳ nhân khó tính đã khiến mọi người kinh ngạc, chú mục nhìn về phía Nhương Thư.
Thúy Sơn chạm tự ái, hừ nhẹ:
- Chẳng lẽ y còn hơn cả đồ nhi?
Tôn Giả gật đầu:
- Đúng vậy ! Y xứng đáng để ngươi theo hầu đấy!
Thúy Sơn hậm hực nói:
- ĐỒ nhi không tin!
Tôn Giả không thèm cãi, quay lại nghiêm nghị nói với Nhương Thư:
- Từ việc ngươi dọa khiếp được Tứ Phạn Thiên Cung, và tiếng "mô phật" lúc nãy, lão phu có thể đoán được ngươi chính là đồ đệ của Phật Đăng Thượng Nhân Có đúng thế không?
Nhương Thư vô cùng khâm phục, bên lên gật đầu. Hoàng lão đắc y vuốt râu nói tiếp:
- Hai mươi hai năm trước, lệnh sư đã đến núi Thái Sơn chơi vài ngày, đem chánh pháp ra giác ngộ lão phu. Nhờ vậy mà bản tính của Hồng Diện Tôn Giả đã khác xưa rất nhiều. Lão phu vẫn coi lệnh sư là huynh trưởng, vì vậy, ngươi phải gọi ta là sư thúc.
Nhương Thư lại gật đầu, Tôn Giả lại đổi giọng bùi ngùi:
- Này Tần sư điệt! Lão phu năm nay đã gần bát thập, những vết thương thời trai tráng đã phát tác trở lại, chắc sẽ sớm theo lệnh sư về chốn niết bàn. Nay lão phu xin phó thác đứa học trò khờ dại là Bạch Thúy Sơn cho ngươi, rồi trở về núi tu hành. Mong hiền diệt vì mối giao tình giữa lão phu và lệnh sư mà chiếu cố cho Thúy Sơn. Ngươi hãy hứa bảo bọc Sơn nhi cho đến lúc y thành gia thất! Chút nguyện vọng này, mong hiền diệt thành toàn cho .
Nhương Thư thầm nghĩ: "Gã họ Bạch kia anh tuấn phi phàm, chắc sẽ sớm tìm được vợ Ta lo cho gã một, hai năm cũng chẳng sao ! " . Nhưng nghĩ đến tử nạn của mình, Nhương Thư rụt rè đáp:
- Tiểu diệt xin tuân lệnh sư thúc.
Nhưng có điều thân mang tuyệt chứng chỉ sống được ba bốn năm nữa, e rằng không đồng hành với Bạch sư đệ được lâu dài !
Hoàng lão kinh hãi hỏi dồn, được Nhương Thư kể về Quỉ Nấm. Lão bấm tay tính toán, nhìn Nhương Thư mỉm cười :
- Tướng ngươi thọ đến trăm tuổi, đừng quá bận tâm vì Quỉ Nấm. Lão phu đoán chắc ngươi sẽ gặp thần y, hương dược, thoát khỏi sát kiếp!
Nghe giọng cả quyết của Tôn Giả, Nhương Thư nhẹ cả người, cảm kích vòng tay nói:
- Lời của sư thúc đã phá tan mây mù trong lòng tiểu diệt! Thư này nhận lời bảo bọc Thúy Sơn!
Hồng Diện Tôn Giả khoan khoái nhắc lại:
- Hay lắm! Đã hứa thì phải giữ lời đấy!
Lão phu sẽ vì ngươi mà sang Liêu Đông tìm thuốc.
Nói xong, Tôn Giả đứng dậy, gọi Thúy Sơn:
- Sơn nhi lại đây!
Chàng trai mặt ngọc vội bước đến, ngơ ngác khi nghe sư phụ nói:
- Sơn nhi ! Sư phụ đã tìm được người dìu dắt ngươi cho đến lúc thành ơi a thất !
Từ nay, ngươi phải đi theo gã tiểu tử này!
Vừa dứt lời, Tôn giả bay vút qua lan can lầu, lên lưng ngựa phi mau.
Thúy Sơn bỡ ngỡ gọi vang:
- Sư phụ ! Sư phụ !
Gã chán nản ngồi phịch xuống ghế, nhìn Nhương Thư, xem thử hán tử râu mép rậm rì này có gì hay ho mà Tôn Giả lại chọn mặt gửi vàng. Nhương Thư hiền hòa nói:
- Ta là... Điền Tế, hai mươi sáu tuổi.
Theo vai vế giữa hai vị sư phụ thì ta là sư huynh của đệ!
Thúy Sơn lạnh lùng hỏi:
- Thế lệnh sư là ai?
Nhương Thư thì thầm:
- Gia sư là Phật Đăng Thượng Nhân, mong Bạch sư đệ giữ kín giùm cho !
Đôi mắt tuyệt đẹp của Thúy Sơn sáng rực lên, gã đã hiểu vì sao sư phụ mình chọn gã họ Điền này. Suốt những năm học võ với Tôn giả, Thúy Sơn luôn được nghe lão ca tụng võ công và đức độ của vũ nội Đệ nhất thần. Thúy Sơn nghi hoặc, vòng tay nói:
- Được Điền sư huynh hướng dẫn trong bước hành hiệp, tiểu đệ vô cùng vinh dự!
Trong lúc ấy, Ngọc Trâm đã âm thầm tính tiền cùng Tào ưng rời khỏi tửu lầu.
Thúy Sơn nhìn thấy nhưng không tiễn, chỉ mỉm cười rồi tiếp tục trò chuyện cùng Nhương Thư.
Gã cười hăng hắc :
- Cái tên sư huynh kỳ cục quá! Điền Tế chẳng phải là rể nhà họ Điền sao?
Quả thực gã đoán đúng. Nhương Thư sợ gã la toáng lên, khi Ngọc Trâm còn ở đấy, nên nói đại như thế, dẫu sao hai chữ Điền Tế cũng đúng sự thực! Nếu thoát chết, chàng sẽ không phụ lòng bốn cô gái họ Điền!
Nhương Thư tư lự hỏi:
- Phải chăng Bạch hiền đệ đã say đắm vị cô nương lúc nãy?
Thúy Sơn cười khanh khách:
- Làm gì có! Tiểu đệ xem nữ nhân trong thiên hạ như tượng gỗ, gặp thì bỡn cợt cho vui đấy thôi!
Nhương Thư thở dài:
- Tính trăng hoa của hiền đệ sẽ khiến nhiều người phải khổ đấy! Sao không thận trọng tìm cho mình một đối tượng tốt mà gá nghĩa?
Nói hết câu chàng mới nhớ ra mình đã dan díu với cả bốn chị em họ Điền, tư cách đâu mà bảo Thúy Sơn? Bị chạm nọc, Thúy Sơn đanh mặt đáp:
- Việc riêng của ta, các hạ lấy quyền gì mà xen vào. Phải chăng vì tướng mạo tầm thường nên các hạ đố ky ta? Không cùng chí hướng, xin miễn đồng hành!
Gã đùng đùng nổi giận, rời khỏi tửu lâu Nhương Thư chán nản, không ngờ Thúy Sơn lại ngang ngạnh, nóng nảy như vậy Chàng thầm hổ thẹn vì thất hứa với Hồng Diện Tôn Giả, nhưng cũng đành bất lực Nhương Thư tự nhủ:
- Gã còn thông tuệ hơn ta, lẽ nào không đủ tài chống chọi với đời. Hơn nữa, với danh tiếng của Hồng Diện Tôn Giả, làm gì có ai dám hại hắn?
Hơi yên tâm một chút, chàng gọi tiểu nhị tính tiền rồi rời khỏi tửu lâu.
Giữa giờ mùi, Nhương Thư có mặt trước cổng Chính Khí Trang. Cơ ngơi của gióng họ Lã nằm trên đỉnh một ngọn đồi, được che mát bởi những cây bách già nua, cao vút và xúm xuê.
Bách là loài cây thân gỗ, cao đến gần mười trượng, thường xuyên xanh thắm, không trụi lá vào dịp thu động. Bách chứ nhựa và sầu thơm phong phú, chất gỗ cứng rắn, mịn phẳng, vân đẹp.
Họ Bách gồm nhiều loài như: Bách Mộc, Biển Bách, Bách Gai, Hồng hội, Bách Thơm....
Nhương Thư nhận ra rằng Chính Khí Trang cũng trồng loài Bách Thơm như chùa Phật Quang của chàng.
Sườn đồi thoai thoải, nên ky sĩ có thể thúc ngựa đi lên. Cổng chính của trang mở về hướng nam bằng đá núi, có dịch lâu lợp ngói lưu ly xanh. Bức tường kiên cố, cao đến hai trượng kia chắc là mới được xây, cùng với tấm bảng son mang ba chữ thiếp vàng chói lọi: Chính Khí Trang. Mé tả đại môn có chiếc bàn gỗ hình chữ nhật. Đấy là nơi khách đến ghi danh, khai báo lai lịch. Nhương Thư xuống ngựa, bước đến nói với lão già áo đen ngồi sau bàn:
- Tại hạ Điền Tế, hai mươi sáu tuổi, quê đất Sơn Tây!
Hắc y lão nhân lạnh lùng hỏi:
- Danh hiệu trên giang hồ là gì?
- Quỉ Tâm Kiếm!
Lão nhân nhếch mép cười nhạo, vì chưa hề nghe danh hiệu này bao giờ!
Nhương Thư không cần gã xem trọng, chỉ tự an ủi rằng mình đã không phạm giới, chàng đúng là một trang kiếm có cái tâm của quỷ dữ!
Một tên gia đinh áo xanh chỉ cho chàng đường đến khu chuồng ngựa, Nhương Thư thả ngựa xong, đủng đỉnh tiến vào trong.
Lã Gia Trang chiếm một diện tích hàng chục mẫu, khu trưng tâm là một đại lâu hai tầng, với sân gạch rộng mênh mông ở phía trước. Giờ đây, chậu kiểng trên sân đã được dọn dẹp, giành chỗ cho bày mấy trăm chiếc bàn đón tiếp quần hùng.
Sáng mốt mới là ngày khai đàn nên lượng khách chỉ độ gần ngàn, đa số là đệ tử các phái Bạch đạo, hoặc những người tự nhận mình là chính phái !
Nhìn thấy Bạch Thúy Sơn ngồi một mình, Nhương Thư mừng rõ bước đến, tươi cười:
- Bạch hiền đệ! Ngu huynh có lỡ lời thì mong hiền đệ tha lỗi!
Thúy Sơn làm mặt lạ, tỉnh bơ nói:
- Các hạ đừng thấy người sang bắt quàng làm họ! Ta và các hạ có liên quan gì mà xưng huynh gọi đệ?
chắc họ Bạch đã tự giới thiệu mình là học trò chân truyền của Hồng Diện Tôn Giả, nên được nhiều người xu phụ.
Những kẻ ấy cười rộ lên, mỉa mai:
- Thôi biến đi. Tướng mạo như ngươi mà đòi làm huynh đệ với bậc quí nhân như Bạch công tử sao?
Nhương Thư thẹn chín người nhưng không nổi giận. Dường như chàng chỉ bị khích động trước những gì liên quan đến quá khứ mà thôi, còn dẫu có ai nhục mạ cũng chẳng khiến chàng động tâm.
Nhương Thư phân vân, không biết có nên níu kéo gã em trời ơi đất hỡi kia nữa hay thôi?
Thúy Sơn cười nhạt:
- Ta đã nói đến thế mà các hạ cũng chưa hiểu sao? Các hạ không xứng để ngồi chung bàn với Bạch mỗ !
Mọi người chú mục nhìn, tưởng rằng một kẻ mang gươm sẽ không bao giờ chịu nhục, tất phải có đánh nhau.
Nhưng một giọng thánh thót vang lên:
- Trên đời này, có những kẻ mà cả Khổng Phu Tử cũng chịu thua, không dạy nổi! Túc hạ chớ phí lời nữa, hãy đến đây để tiểu muội được hầu chuyện.
Người nói chính là HỔ Hồng Nhan Điền Ngọc Trâm, kẻ được hâm mộ hơn hẳn học trò của Hồng Diện Tôn Giả. Ai chẳng nghĩ đến lúc mình du ngoạn Tế Nam, vào làm khách của Điền Gia Trang? Thế nên quần hùng sửng sốt khi thấy Nhương Thư xem trọng gã râu rậm vô danh kia!
Nhương Thư không thể tránh né, đành bước đến, ngượng ngùng ngồi xuống.
Chàng chưa kịp nói gì thì Ngọc Trâm đã kéo ghế sát vào, bùi ngùi nói:
- Chẳng lẽ Tần đại ca không muốn nhìn mặt tiểu muội hay sao?
Nhương Thư bàng hoàng, chẳng ngờ mình bị lộ quá dễ dàng! Chàng đáp:
- Ngu ca rất cảm kích mối chân tình của hiền muội, nhưng thân này sống chết chưa rõ , đâu dám . . .
Nhương Thư đỏ mặt trách:
- Té ra đại ca đã nghe lén cuộc nói chuyện của tiểu muội với Tào ưng đó à?
Nhương Thư gật đầu, nhìn nàng âu yếm rồi hỏi lại:
- Vì sao Trâm muội nhận ra ta?
HỔ Hồng Nhan cười khúc khích:
- Thanh kiếm của Tứ muội thì ai còn lạ gì?
Nhương Thư nhớ ra, cười thầm sự bất cẩn của mình. Chàng tủm tỉm hỏi:
- Thúy Sơn anh tuấn như tiên đồng, sao Trâm muội lại lạnh nhạt với gã?
HỔ Hồng Nhan trợn mắt, cắm năm móng tay nhọn vào sườn Nhương Thư trách móc:
- Đại ca đã nghe hết mà còn trêu ghẹo tiểu muội nữa sao?
Nhương Thư co rúm người, than thở:
- Nàng thật xứng danh HỔ Hồng Nhan, ta đành bỏ chạy thôi !
Ngọc Trâm cười khanh khách, túm chặt áo chàng :
- Tiểu muội đã bắt được cừu non tất chẳng bao giờ chịu buông tha!
Thái độ thân mật này khiến mọi người sửng sốt, kể cả gã Tào ưng vừa đi tiểu tiện vào đến. Gã ngồi xuống, nhìn chàng thật kỹ rồi vỗ trán bật thốt:
- Ta đúng là có mắt như mù!
Nhương Thư vội ra hiệu, bảo gã chớ tiết lộ rồi hạ giọng dặn dò, Tào ưng vô cùng ngưỡng mộ Nhương Thư nên gật đầu lia lịa, miệng cười toe toét!
Bạch Thúy Sơn nhìn thấy hết, cau mày suy nghĩ: "Phải chăng Điền Tế chẳng phải là kẻ tầm thường như dung mạo bên ngoài?".
Thúy Sơn được Hồng Diện Tôn Giả cho ăn mười viên Thiên Niên Tuyết Linh Chi nên giờ đây sở hữu đến ba mươi năm chân khí, tự coi mình là đệ nhất cao thủ trong hàng hậu bối. Chính vì vậy, gã không tin rằng đệ tử của Phật Đăng Thượng Nhân lại hơn được mình. Dù Điền Tế luyện võ từ năm bốn tuổi thì công lực cũng không bằng gã!
Thúy Sơn đã hiểu Điền Tế hóa trang nên lúc đầu Ngọc Trâm và Tào ưng không nhận ra. Tuy nhiên, mặt thực của chàng chắc cũng tàm tạm vậy thôi !
Gã biết Ngọc Trâm không chuộng hình thức tất sẽ coi trọng võ công. Vậy thì phải chăng gã Điền Tế kia bản lãnh quán thế nên nàng mới xem thường đồ đệ của Hồng Diện Tôn Giả?
Thúy Sơn mãi trầm ngâm nên không để ý có người tiến đến từ mé tả.
Có ai đó lo sợ cho Thúy Sơn thét lên cảnh báo:
- Hạt Nhãn Thần Ma !
Thúy Sơn bừng tỉnh quay sang nhìn, nhận ra kẻ tử thù của Hồng Diện Tôn Giả.
Cả võ lâm đều biết việc Hoàng lão đánh trọng thương Thần Ma hồi tám năm trước Thúy Sơn rùng mình trước ánh mắt lạnh lẽo tà mị bắn ra từ đôi mắt hí, như hai sợi chỉ của lão áo trắng cao gầy kia.
Việc Thần Ma có mặt nơi này là điều không ai ngờ! Chính Hoàng Tôn Giả đã dặn dò đồ đệ đừng bao giờ vác mặt đến miền Tây Bắc!
Thúy Sơn kinh hãi rời chỗ, đặt tay vào chuôi kiếm phòng bị. Hạt Nhãn Thần Ma Mộc Đức mỉm cười ghê rợn:
- Lão quỉ già Hoàng Duy Do đâu mà để ngươi đến đây một mình?
Thúy Sơn run giọng:
- Ai a sư . . . cũng sắp . . . đến rồ i !
Mộc lão quỉ gật gù:
- Hay lắm! Để bần đạo bẻ gãy hai tay ngươi trước rồi chờ lão tặc đến cũng vừa.
- Lão dám loạn động ở chốn này sao?
Hạt Nhãn Thần Ma ngửa cổ cười dài:
- Chẳng ai bênh vực ngươi đâu. Bần đạo được mời đến đây để giữ chức quân sư Chính Khí Trang đấy !
Câu này khiến toàn trường ngỡ ngàng, vì Thần Ma chẳng được xem là người tốt, sao lại có thể thành quân sư của Chính Khí Trang, tổ chức tượng trưng cho tinh thần nghĩa hiệp? Tuy không có chứng cớ cụ thể nhưng võ lâm vẫn có lời đồn Hạt Nhãn Thần Ma hàng tháng đều hút máu một đồng nam! Do lão hành động cẩn mật nên chưa bao giờ bị bắt quả tang hay để lại dấu vết.
Phật Đăng Thượng Nhân đã tìm đến Lan Châu cảnh cáo Thần Ma, song lão chối bai bải, không hề nhận tội.
Hồng Diện Tôn Giả chẳng cần lý lẽ hay bằng cớ, tình cờ gặp là đánh ngay.
Mộc lão quỉ bị đấm một quyền hộc máu nhưng đã nhanh chân đào tẩu.
Giờ đây, Bạch Thúy Sơn phải gánh chịu mối hận thù ấy, tình mạng khó bảo toàn Trong đám quần hùng đã có người lên tiếng mỉa mai họ Bạch:
- Sao Bạch công tử lại run như cầy sấy thế kia? Thật nhục nhả cho Hồng Diện Tôn Giả! Lúc nãy công tử oai phong lắm mà?
Thế là ccó mấy trăm người cười rộ, chế giễu Thúy Sơn. Nếu lúc nãy gã tỏ ra khiêm tốn, không ỷ thế sư phụ thì giờ đây đã được người ta thương xót! Đấy là bài học cho những kê hợm hĩnh, cao ngạo!
Thúy Sơn vô cùng hỗ thẹn nhưng tứ chi rũ liệt, lòng chàng chẳng còn chút dũng khí nào trước ánh mắt tà quái của Thần Ma.
Nước mắt gã trào ra như trẻ thơ bị đứa lớn bức hiếp vậy! Gã sực nhớ đến Điền Tế liền lấy can đảm, nói với Mộc lão quỉ:
- Ta mới học võ nên không địch lại lão.
Hãy chờ ta mời sư huynh ra đối phó !
Cả Thần Ma lẫn quần hùng đều ngạc nhiên khi thấy Thúy Sơn chạy đến bàn Ngọc Trâm, nhăn nhó vái lạy Điền Tế:
- sư huynh! Tiểu đệ không chống nổi cặp mắt quỉ của Thần Ma, mất cả đởm lược, xin sư huynh vì thanh danh của gia sư mà xuất thủ cho !
Tào ưng nóng mặt quát:
- Ngươi còn khiếp nhược hơn cả đàn bà nữa! Nhục ơi là nhục!
Nhưng Ngọc Trâm đã nói:
- Đúng là ánh mắt Thần Ma rất đáng sợ Tiểu muội ngồi xa mà cũng rợn tóc gáy, tim đập thình thịch!
Lúc này Mộc lão quỉ đang hiếu kỳ nhìn về phía Ngọc Trâm nên nàng mới nhận ra tác dụng của Quỉ Nhãn.
Nhương Thư thấy Thúy Sơn thực sự khiếp sợ, tay chân run lẩy bẩy, hiểu rằng chẳng phải gã bày trò đẩy mình chết thay.
Chàng trầm giọng bảo:
- Bạch hiền đệ yên tâm! Ngu huynh sẽ đỡ đòn giùm ngươi !
Ngọc Trâm lo lắng hỏi:
- Liệu đại ca có địch lại lão Quỉ ấy không?
Nhương Thư mỉm cười:
- Nếu thua ta sẽ bỏ chạy! Nàng hãy chuẩn b ì nhé !
Chàng liền trao tay nải cho Ngọc Trâm, rút kiếm tiến về mộc đài, nhảy lên đứng chờ. Phong thái ung dung không chút sợ hãi của chàng khiến quần hùng thán phục, vỗ tay hoan hô vang dội. Họ vốn chẳng ưa gì lão già mắt hí, hút máu trẻ em kia.
Mộc Đức Nhuận cũng rút thanh bảo đao có kích thước hơi khác với đao thường, nó mỏng và nhỏ bản hơn.
Hạt Nhãn Thần Ma là đại hành gia trong nghề khoái đao, lại có bàn tay tả cứng như thép hỗ trợ, nên càng bội phần đáng sợ.
Mộc lão quỉ thấy đối phương chỉ độ hai mươi mấy, lòng rất khinh thường. Lão cướp tinh thần gã trẻ tuổi bằng cách biểu diện khinh công tuyệt thế. Thân hình họ Mộc bốc lên không trưng, hai ống tay áo đạo sĩ rộng thùng thình phồng lên, xòe ra, giúp lão là đà bay chếch về phía mộc đài, tư thế đẹp tựa tiên nhân giáng phàm.
Thần Ma chưa kịp thưởng thức tràng vỗ tay tán thưởng của quần hùng thì phát hiện đối thủ đã hóa thành kiếm quang đầy những lưỡi lửa lung linh bay vút đến.
Lúc này, hai bàn chân Mộc lão quỉ còn cách sàn mộc đài hai ba gang. nghĩa là lão không điểm tựa để di chuyển, chỉ còn cách tiếp tục hạ xuống và múa đao chống đỡ Nhương Thư đã tính toán rất kỷ, chọn đúng thời điểm tối ưu mà dùng phép Ngự Kiếm, đánh chiêu Phật Hỏa Chiếu U Minh! Chàng biết công lực mình thua xa đối phương, phải giành được thượng phong ngay chiêu đầu mới mong thắng được Khi song phương chạm mặt nhau, đạo kiếm quang của hòa thượng đột nhiên sáng rực lên và kẻ địch của chàng nhận ra hàng trăm kiếm ảnh hư hư thực thực, uy hiếp toàn thân, chẳng chừa một chỗ nào.
Thần Ma kinh hãi, cắn răng vũ lộng bảo đao, dệt lưới quanh thân, tả thủ dương trào hộ vệ tâm thất.
Tuy lão có tu vi thâm hậu hơn, song vừa tiếp đất, tấn không vững nên sau mấy chục tiếng thép chát tai, lão bị đẩy lùi và đao quang lộ sơ hở.
Mũi kiếm của Nhương Thư như có mắt, len qua một khe hẹp ấy, không nhắm vào ngực mà lại đâm thủng vai trái của Thần Ma. Chàng hiểu rằng bàn tay thép của lão bảo vệ tâm thất rất chu đáo, rất khó xâm nhập nên mới chọn bả vai.
Nhát kiếm này đã biểu lộ được thiên bẩm võ học của Nhương Thư, chàng luôn tùy thời mà biến hóa, không lệ thuộc vào chiêu thức gốc.
Hạt Nhãn Thần Ma đau đớn rú lên, nhẩy lùi để tránh chiêu kế tiếp của đối thủ. Mộc đài dài độ ba trượng, chỗ Thần Ma đứng chỉ cách mép đài non trượng nên lão lọt ngay xuống dưới, thoát khỏi sự truy kích.
Thần Ma đứng sau chiếc bàn trống, điểm huyệt chỉ huyết, ngoác miệng chửi:
- Mả mẹ ngươi ! B ẩn đạo sẽ phân thây đồ đánh lén!
Lão không biết mình đã chạm vào điều đại ky khi xúc phạm đến mẫu thân Nhương Thư.
Trước mắt chàng lập tức hiện ra cảnh một mỹ nhân trưng niên, thân xác lõa lồ, cỗ họng bị cắt đứt, máu me vương vải cùng những mảnh tăng bào rách nát.
Cơn thịnh nộ xâm chiếm tâm hồn Nhương Thư, biến chàng thành ác quỉ, Nhương Thư gầm lên man rợ, từ trên đài bay xuống vị trí của Thần Ma.
Lão vung cước đá chiếc bàn gỗ để chặn đường Nhương Thư rồi nương theo đấy mà tấn công bằng một chiêu cực hiểm.
cơn giận đưa Nhương Thư vào trạng thái say máu, thèm khát giết chóc, nhưng lại không hề làm chàng mất cảnh giác hoặc sơ suất.
Bản lãnh chàng vẫn thế, khả năng biến hóa cũng vậy, chỉ có điều Nhương Thư điều khiển thanh kiếm bằng trái tim ác thú, lạnh lùng và tàn ác.
Nhương Thư mất đi nhân tính thì lại càng xảo quyệt hơn bình thường. Chàng chẳng dại dột va chạm với chiếc bàn gỗ quý, cứng rắn, mà dùng mũi kiếm điểm vào cạnh bàn, mượn sức bay chếch sang Nhương Thư hạ thân xuống chiếc bàn khác, nhún chân tung mình đuổi theo Thần Ma. Lão ta đã theo chiếc bàn kia nhẩy trở lại mộc đài, đổi vị trí với Nhương Thư. Thần Ma lùi sát mé tây đài tranh thủ nuốt vài viên linh đan màu đỏ tươi, chờ đợi đối thủ.
Nhương Thư lên đến sàn đài, thấy lão ma lướt về phía mình bằng một bộ pháp quanh co, liền bỏ ý định thi triển Ngự Kiếm, xông đến tấn công bằng kiếm thuật .
Dường như mấy viên thuốc kia đã làm tăng công lực Thần Ma nên nhãn quang lão chói lọi hơn trước. Song lão chợt chột dạ khi nhận ra ánh mắt đối thủ còn đáng sợ hơn bội phần.
Nhương Thư nhếch mép cười độc ác, liên tiếp tung ra những chiêu kiếm ảo diệu tuyệt luân, lăm le lấy mạng Mộc Đức Nhuận Hạt Nhãn Thần Ma đã nhận ra Phật Đăng kiếp pháp, rùng mình sợ hãi, nhưng thanh danh mấy chục năm không cho lão bỏ cuộc. Hơn nữa, lão tin vào đao pháp và nội lực thâm hậu của mình. Ba viên Huyết Đan kia là tinh chất của máu và tủy xương đồng nam, có tác dụng trị thương và bồi bổ công lực rất thần hiệu.
Chính vì vậy mà lão không ngán Hồng Diện Tôn Giả.
Quả đúng như thế, đao của lão loang loáng dưới nắng chiều, không chỉ đẹp mắt mà còn mãnh liệt tựa sóng Hoàng Hà, lớp lớp xô nhau công phá màn kiếm quang của gã tiểu tử đáng ghét.
Nhương Thư chẳng hề nao núng, trường kiếm đảo lộn, tốc độ như sao băng, mỗi cái vung tay đã vê lên hàng trăm lưỡi lửa xanh, chống đỡ kiên cường và phản công quyết liệt.
Quần hùng nín thở, say mê theo dõi cuộc chiến hấp dẫn, thỉnh thoảng Oà lên khi một đấu thủ thoát chết trong gang tấc.
Dĩ nhiên lòng họ ủng hộ Nhương Thư vì chàng còn quá trẻ so với lão đạo sĩ ác độc kia.
Ngọc Trâm lo sợ cho tình quân, nước mắt chảy dài trên gò má mịn màng, miệng niệm phật liên hồi.
Hai khắc sau, nàng rú lên thất thanh khi thấy Nhương Thư trứng một đao vào tay trái. Nhưng Tào ưng lại hể hả nói:
- Lão cẩu tặc họ Mộc còn dính một kiếm nặng hơn. Thực là thống khoái.
Nhưng trận đấu ngày càng khốc liệt hon, song phương quấn quít lấy nhau, tan hợp trong chớp mắt và máu của họ hóa thành sương bay mịt mù đấu trường. Tốc độ đổi đòn nhanh đến nỗi người ngoài không thể biết ai trứng thương nhiều hơn ai.
Thực ra, Nhương Thư đã vướng đến sáu nhát đao, tuy không trí mạng nhưng máu tuôn như suối. Thần Ma trứng tám kiếm song sức lực vẫn dồi dào hơn chàng.
vì vậy Nhương Thư phải sớm kết thúc cuộc chiến, trước khi kiệt lực. Chàng nhẫn nại rình cơ hội vì chỉ có thể đắc thủ với yếu tố bất ngờ.
Chợt có tiếng quát vang như sấm:
- Dừng... tay!
Công phu Sư Tử Hống của Thiếu Lâm thật danh bất hư truyền, Hạt Nhãn Thần Ma bị chấn động. Nhưng Nhương Thư thì không! Chàng luyện thần công phật môn Nhiên Đăng tâm pháp đến lớp thứ bảy, núi sập trước mặt cũng chẳng động tâm.
Do vậy, Nhương Thư lập tức nhận ra sơ hở của Thần Ma, thọc kiếm đâm thủng sườn phải của lão.
Gan bị tổn thương nặng, Mộc lão quỉ đau dớn rú lên, rồi lặng im vì yết hầu đã bị nhát kiếm thứ hai tiện đứt.
Thầunma ngã vật xuống sàn đài, hai tay cào cấu lồng ngực vì máu tràn vào khí quản, bít kín hơi thở. CỈ lát sau, lão chầu trời Quần hùng vỗ tay nhẩy nhót, reo mừng hoan hô Nhương Thư quá cỡ. Tào ưng ngứa miệng hét lên:
- Hoan hô Tần công tử!
Thế là mọi người hô theo dù không chắc kẻ chiến thắng kia có ở họ Tần không? Ngọc Trâm và Thúy Sơn đã sớm nhẩy lên mộc đài, vừa khóc vừa cởi áo Nhương Thư để xem xét vết thương.
Tiếng khóc bi thiết của họ đã làm Nhương Thư thoát khỏi tâm trạng quỉ ám ! Chàng rùng mình ngơ ngác một lúc, rồi mỉm cười:
- Sơn đệ là đàn ông mà cũng khóc nhiều như thế ư?
Thúy Sơn giật mình, đưa tay áo lau lệ rồi cắm cúi làm tiếp. Lúc này, Chính Khí Trang chủ Lã Tập Hiền và năm vị chưởng môn các phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Hoa Sơn, Nga Mi, Cái Bang đã lên đến trên đài Lã Tập Hiền thở dài trước tử trạng của Hạt Nhãn Thần Ma rồi cau mày trách Nhương Thư:
- Khánh Hỉ đại sư đã bảo dừng tay sao ngươi không nghe, lại cố tình giết chết Mộc tiền bối?
Ngọc Trâm nổi tam bành, dựng ngược đôi mày liễu cãi ngang:
- Kẻ đại ác như Hạt Nhãn Thần Ma có chết thì thiên hạ ăn mừng! Còn như lão muốn ngăn cản xung đột sao không xuất hiện từ sớm?
Dưới này, Thiết Kình Ngư xách động quần hùng:
- Thần Ma chết là đáng tội! Điền tiểu thư nói rất phải !
Tất nhiên, quần hùng đều bênh vực mỹ nhân, đồng thanh tán thành. Bạch Thúy Sơn đã lấy lại phong thái hiên ngang, cười nhạt bảo :
- Vì sao Lã trang chủ lại mời một kẻ hút máu trẻ em về làm quân sư của Chính Khí Trang? Tại hạ bắt đầu nghi ngờ đức độ và mục tiêu của trang chủ rồi đấy!
Gã vận công mà nói nên ai cũng nghe thấy, xôn xao chê bai Lã Tập Hiền.
Họ Lã lạnh lùng đáp:
- Dĩ độc công độc là kế sách của bậc đại trí, bọn ấu trĩ như ngươi làm sao hiểu nổi?
Thúy Sơn móc bình kim sang trao cho Ngọc Trâm rồi ngửa cổ cười khanh khách:
- Khiếp nhược như lão mà dám xưng là đại trí thì thực nực cười! Tứ Phạn Thiên Cung là cái quái gì mà phải khiến bậc quân tử quy lụy bọn tà ma? Lão đã từng nghe có người đuổi chạy sứ giả của Tứ Phạn Thiên Cung ở Tế Nam hay chưa?
Lã Tập Hiền bị chửi, song cố nhẫn nhịn ra vẻ cao cả hỏi lại:
- Chẳng lẽ bậc anh hùng ấy chính là ngươi?
Nhương Thư vội cướp lời:
- S ơn đệ ! Chúng ta đi thô i ! Ngu huynh kiệt sức rồi!
Nói xong, chàng lảo đảo, Thúy Sơn hoảng hồn vội đỡ lấy, dìu đi.
Ngọc Trâm càu nhàu:
- BỘ ngươi không bồng nổi Tần đại ca hay sao?
Thúy Sơn đảo mắt lia lịa, cúi người ẵm Nhương Thư, nhảy xuống đất. Khánh Hỉ đại sư nhìn theo hỏi các chưởng môn kia:
- vị Tần thí chủ ấy là ai mà mới quá hai mươi đã đủ sức giết được họ Mộc nhỉ? Lão nạp nhận ra y không bị ảnh hưởng bởi công phu Sư Tử Hống, và còn lợi dụng cơ hội đó mà hạ thủ. Nếu y sa vào tà đạo thì sẽ thành đại họa của võ lâm.
Bang chủ Cái bang VÔ ưu Cái Hầu MỘ Thiên cười đáp :
- Y chính là người được giao sứ mạng sát ma, khai trương sự nghiệp bằng cách lấy mạng lão ác quỉ họ Mộc này! Ba năm nữa y sẽ quét sạch rác vẩn trong võ lâm, chẳng cần Chính Khí Trang hay Chính Nghĩa Hội cũng thành công!
Lã Tập Hiền tái mặt:
- sao Hầu bang chủ lại dám đoan chắc như thế?
Chưởng môn Võ Đang Triều Châu Chân Nhân cũng hò i :
- Vị Tần thí chủ kia xuất thân thế nào?
VÔ ưu Cái đắc ý cười vang:
- Lão mũi trâu quả là kém mắt nên không nhận ra Phật Đăng Kiếm Pháp, đáng bị phạt mười vò rượu !
Chân nhân hân hoan nói:
- Nếu Phật Đăng Thượng Nhân có truyền nhân xuất sắc như vậy là đại phúc cho võ lâm !
Lã Tập Hiền cười nhạt:
- Gã bị thương dưới tay Hạt Nhãn Thần Quân thì làm sao địch lại Thanh Linh Thủy Lão và Kim Mâu?
VÔ ưu Cái phang ngay một câu:
- Vậy phải chăng Lã trang chủ tự tin mình thắng nổi?
Lã Tập Hiền cao ngạo đáp:
- Một chọi một thì tại hạ không sợ bất cứ ai !

Hồi 4

An Dương Lã Thị Mưu Chung Đỉnh
Chính Khí Khai Trang Huyết Mãn Môn

Sáng ngày mười tháng chín, lễ khai đàn của Chính Khí Trang được cử hành.
Quần hùng đến tham dự đông đến gần ba ngàn, sẽ nuốt của nhà họ Lã hơn vạn bạc rượu thịt Nhưng nhờ có mâm cỗ đầy mà không khí vui vẻ và náo nhiệt phi thường. Tuy nhiên, mới chỉ có trà, rượu và lạc rang được dọn ra.
Bọn Ngọc Trâm cũng có mặt. Nàng ríu rít nắm tay gã thư sinh mày thanh mắt sáng, dung mạo đoan chính, đôn hậu, hai vành tai lớn và dầy như tai phật.
Quần hùng thầm chê HỔ Hồng Nhan đa tình, lãng mạn vì không thể ngờ rằng gã thư sinh áo xanh kia lại chính là kẻ bị thọ thương gần chết hai hôm trước.
Bạch Thúy Sơn đã tạ lỗi bằng cách đem hết linh đan diệu dược ra chữa trị cho Nhương Thư. Nhưng chủ yếu vì thương tích không sâu, trong máu chàng lại có dược chất của Quỉ Nấm, nên Nhương Thư bình phục mau chóng đến không tưởng.
Sáu vết thương đã liền miệng, được băng chặt bằng vải sạch, nhìn bề ngoài không ai có thể phát hiện!
HỔ Hồng Nhan đã thôi chán ghét Thúy Sơn vì gã khôn ngoan gọi Nhương Thư là đại ca, còn nàng là đại tẩu.
Nhương Thư không phản đối, chỉ cười bảo:
- Đúng là lưỡi ngươi không có xương, lúc đầu thì tán tỉnh, sau nhận là chị dâu!
Thúy Sơn cười khúc khích:
- Tiểu đệ không thể sánh với đại ca, đành chịu thua mà tìm mối khác vậy!
Thiết Kình Ngư Tào ưng thì lại cảnh giác, nghĩ thầm:
"Họ Bạch quá đẹp trai, không hiểu kề cận lâu ngày, có cô ả nào xiêu lòng phản bội Tần công tử hay không đây? Lòng dạ mỹ nhân như biển khôn dò, tốt nhất là đừng để họ có cơ hội sa ngã! Ta phải cảnh tỉnh Nhương Thư mới được ! " Từ lúc ấy, gã luôn để ý theo dõi thái độ của Thúy Sơn.
Nhắc lại, bốn người ung dung tiến đến dãy bàn mộc dài, vì bối phận Hồng Diện Tôn Giả rất cao, Bạch Thúy Sơn có quyền ngồi ngang hàng với các bọn trưng niên. Đấy là chưa kể đến vai vế của Nhương Thư, vì các chưởng môn đều phải gọi Phật Đăng Thượng Nhân là sư Nhãn quan của VÔ ưu Cái quả là đáng sợ Lão nhìn Nhương Thư một lúc đã nhận ra, nháy mắt với chàng. Nhương Thư nhớ lại Phật Đăng Thượng Nhân từng đưa chàng đến thăm lão ăn mày hay cười kia. Dù năm ấy chàng mới mười hai, song với lý ức phi thường của VÔ ưu Cái, lão dễ dàng đoán ra chàng!
Nhương Thư khẽ cúi đầu đáp lễ và vận c ông truyền âm :
- Tiểu đệ Tần Nhương Thư xin bái kiến Hầu lão ca!
VÔ ưu Cái đáp ngay:
- Hiền đệ có đủ sức thượng đài hay không? Lão phu e rằng Lã Tập Hiền đang mưu đồ cưỡng đoạt ngôi vị minh chủ võ lâm đấy! Lão phu rất nghi ngờ nhân phẩm của họ Lã, không thể để y nắm cổ võ lâm được !
Nhương Thư từng nghe sư phụ tán dương cơ trí và nhiệt huyết vì chính nghĩa của VÔ ưu Cái, nên khẳng khái đáp:
- Nếu lão ca tìm được cách ấn định thắng bại trong chỉ một chiêu thì tiểu đệ tự tin có thể chém rách áo bất cứ ai !
VÔ ưu Cái mừng rỡ:
- Thế thì lão phu rất an tâm ! Khi ta ho ra hiệu thì ngươi lên ngay nhé !
Nhương Thư kể cho bọn Ngọc Trâm nghe, bảo họ hộ vệ cho chàng vận khí, cố phục hồi thêm công lực để phá vỡ âm mưu của Lã Tập Hiền!
Ngọc Trâm phụng phịu:
- Đại ca đang thọ thương, hà tất phải quan tâm đến chuyện võ lâm làm gì?
Nàng quay sang bảo Thúy Sơn:
- Nay Bạch hiền đệ dửng ra gánh vác giùm đại ca chuyện này đi !
Thúy Sơn lúng túng đáp! Tiểu đệ chẳng dám từ chối nhưng chỉ sợ thua thôi! Sơn này chỉ có ba mươi năm công lực nhưng kiếm pháp không bằng một nửa đại ca!
Gã áy náy móc một lọ sành, đổ ra viên thuốc duy nhất có màu trắng như tuyết, thơm phưng phức, đưa cho Nhương Thư.
- Đại ca! Viên Thiên Niên Tuyết Linh Chi này sẽ giúp đại ca khôi phục ngay mười thành c ông lực !
Ngọc Trâm nguýt gã:
- Sao hôm trước ngươi chẳng chịu đem ra? Ngươi tiếc lắm phải không?
Thúy Sơn biện bạch:
- Thuốc quý khó tìm, chỉ dùng trong trường hợp nguy cấp! Mong đại tẩu chớ hiểu lầm tiểu đệ!
Ngọc Trâm hài lòng với lời giải thích, nhét thuốc vào miệng Nhương Thư.
Chàng nhai thật kỹ, chiêu một ngụm rượu rồi vận khí.
Không ai phát hiện ra vì mắt Nhương Thư vẫn mở trừng trừng, môi điểm nụ cười Còn Ngọc Trâm và Thúy Sơn ngồi sát lại, kẹp hai bên, thò đầu chuyện trò, phe phẩy quạt xếp.
Tào ưng thì ngồi nghiêng, giám sát hậu tâm Nhương Thư.
Giữa giờ thìn, cuộc lễ khai mạc. Người xuất hiện đầu tiên chính là lão già áo đen ghi danh sách trước cổng. Lão tự giới thiệu mình là Bành Đạo Nha, giữ chức đại tổng quản Chính Khí Trang.
Cái tên này gợi cho quần hùng nhớ đến một nhân vật có hành vi mờ ám ở vùng phía bắc Cam Châu, danh hiệu Hắc Lang.
Thương lái di buôn qua lối Ngọc Môn Quan đã mang về Trung Thổ lời đồn rằng Hắc Lang dâm ác tuyệt luân, song lời đồn chẳng phải là chứng cớ nên không ai dám lên tiếng vạch mặt họ Bành.
Trước tiên, Bành tổng quản đọc danh sách những bang hội tham gia, những nhà quan thế trong võ lâm đã cử đại biểu dện đây Tổng cộng có đến gần trăm phái lớn nhỏ, đủ tư cách đại diện cho võ lâm!
Nghe nói, Lã gia trang đã cho người lặn lội hàng ngàn dặm, mang thiếp và lễ vật hậu hĩnh đến tận nơi mời mọc, khiến các phái không thể không đi.
Sau đó, Bành Đạo Nha giới thiệu các nhân vật đầu não của Chính Khí Trang, gồm năm chức danh: Trang chủ, phó trang chủ, quân sư, đại tổng quản, chưởng kỳ sứ.
Trang chủ dĩ nhiên là Lã Tập Hiền, Phó trang chủ là một nữ nhân tuổi ba mươi, tên gọi Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Đại Ngọc, đồ đệ của vũ nội đệ tam thần Địch Thánh Dư Minh Thiền!
Ngọc Trâm hừ lên bực bội, nhìn nữ nhân có thân hình nảy lửa kia với cặp mắt đố ky. Không phải vì Đại Ngọc đẹp hơn nàng, mà bởi Bạch Ngọc chính là cái tên khác của loài hoa Ngọc Trâm!
Bạch Ngọc Tiên Tử không có ác tính, là học trò của bậc kỳ nhân, lại kiều diễm, quyến rũ nên được quần hùng ái mộ, vỗ tay hoan hô ầm ý!
Hạt Nhân Thần Ma đã chết nên chức vụ quân sư dành cho Ngọa Long Tú Sĩ LÔ Đăng Hân ở núi Cổ Gia Công, ngoại thành Trường Sa đất Hồ Nam.
Họ LỖ đang tuổi sáu mươi, nổi tiếng đa mưu túc trí, đầy bụng thao lược, nên tự xưng là Ngọa Long, ví mình với Khổng Minh.
Song lại có dư luận rằng LỖ Tú Sĩ chuyên nghề thầy dùi cho các giới hắc đạo phương Nam để chia chác số tài sản cướp được !
Giờ đây, nhìn gương mặt tròn, sáng như trăng rằm của họ Lỗ, quần hùng bỗng nghi ngờ sự chính xác của những lời đồn đãi kia!
chánh tổng quản là Bành Đạo Nha đã nói qua, còn Chưởng Kỳ Sứ thì khá đặc biệt. Người này được giới thiệu bằng cái tên Hoàng Nghi Tuyệt, hai mươi tám tuổi, quê đất Liêu Đông, không có danh tiếng gì, nhưng lại là học trò của Đao Đế Liêu Vân Nhạc, người đứng thứ hai trong vũ nội tứ thần.
Nghi Tuyết không xấu xí song sắc diện âm trầm, lạnh giá như lớp băng trên đỉnh núi Trường Bạch, nhân thần thỉnh thoảng lại lóe lên những tia sáng kỳ dị, làm xốn xang lòng người đối diện.
Tóm lại, trong năm đại nhân vật ấy, chỉ có mình Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Đại Ngọc là dễ thương nhất.
Ngay Lã Tập Hiền cũng không được ưa chuộng vì trong mấy ngày qua đã có tin đồn xấu về lão. Chẳng hiểu kẽ độc mồm độc miệng nào đã là người đầu tiên nói rằng: Lã Tập Hiền đã bày kế giết chết chị dâu và cháu trai, tức vợ con cố minh chủ võ lâm Lã Xuân Tốn, để chiếm đoạt cơ nghiệp họ Lã.
Tuy không có bằng cớ xác thực nhưng ai cũng thầm công nhận điều này hữu lý!
Hoàng Kim Hắc Thế Nhân Tâm! Vàng nhuộm đen lòng dạ người đời! Tập Hiền nuôi mộng dương danh thiên hạ tất phải cần rất nhiều tiền. Theo phong tục Trung Hoa, Tập Hiền là thứ nam, chỉ được một phần rất nhỏ, số còn lại thuộc về cháu đích tôn!
Hết phần giới thiệu là đến nghi lễ tế cáo thiên địa, ra mắt võ lâm. Tiếng đàn, sáo, trống, kèn vang len inh ỏi, và bọn Lã Tập Hiền sì sụp khấn vái.
Họ vừa cúng xong thì Nhương Thư xả công, mắt sáng long lanh, mặt hồng hào sung mãn. Chàng dịu giọng nói với Thúy Sơn:
- Cảm tạ Bạch hiền đệ.
Thúy S ơn ngượng ngùng đáp :
- Chúng ta là huynh dê, tình thân nhu thủ túc, sao đại ca lại nói thế?
Ngọc Trâm bĩu môi:
- sao lúc đầu ngươi lại xua đuổi và hạ nhục Tần đại ca?
Thúy Sơn đỏ mặt vái dài :
- Trăm lạy đại tẩu! Xin đừng nhắc lại chuyện cũ nữa ! Trước đây tiểu đệ ỷ mình võ nghệ cao cường nên xem thường Tần đại ca, sau mới biết mình chỉ là đom đóm c ạnh ánh trăng rằm !
Bỗng gã tươi tỉnh lên, cười hề hề, ánh mắt đầy vẻ giễu cợt:
- Dường như đại tẩu cũng có hơn gì tiểu đệ? Sau này nghe Tào ưng kể rằng đại tẩu đã từng lạnh nhạt với đại ca cơ mà?
Ngọc Trâm xấu hổ, lườm gã và chữa thẹn:
- Ta . . . ta và đại c a ngươi . . . chỉ c Où chút hiểu lầm mà thôi!
Cơm rượu được dọn ra, cắt ngang cuộc đối thoại Hàng trăm tiểu nhị của bốn phạn điếm lớn nhất thành An Dương, tất bật bưng ra năm món ăn nóng hổi và thơm phức!
Lã trang chủ mời mọi người nâng chén, động đũa, rồi cùng bộ sậu xuống ngồi ở bàn riêng, cạnh bàn của các chưởng môn !
Thịt béo, rượu nồng đã khiến quần hùng cởi mở tâm tình, hết lời khen ngợi lòng hiếu khách của chủ nhân. Gần giữa giờ Ngọ, mọi người đều đã ngà say, hào hứng vỗ tay khi Lã trang chủ theo thang gỗ bước len đài. Lão hắng giọng, vòng tay nói:
" Kính cáo chư vị chưởng môn, chư vị võ lâm tiền bối, cùng đồng đạo! Lão phu tuy tài hèn sức mọn, nhưng lòng nhiệt tâm thì chẳng thiếu! Lão phu nguyện noi gương gia huynh, đứng ra gánh vác võ lâm, tiêu diệt tà ma nên mới bạo gan thành lập Chính Khí Trang!
Nay Tứ Phạn Thiên Cung đột nhiên tái xuất khiến cục diện giang hồ càng bội phần nguy ngập! Do vậy, lão phu mạo muội cúi xin võ lâm ngộ biến tùng quyết, cho phép kẻ hèn này được thừa kế trọng trách của gia huynh, đối phó với Thiên Cung! Sau khi trừ được tai họa ấy, lão phu xin từ chức ngay để chư vị chọn tân minh chứ .
Có cả ngàn người ủng hộ Tập Hiền, hoan nghênh đến khản cổ! Song số còn lại thì im lặng như thóc, e sợ lòng dạ của họ Lã!
Tuy nhiên dù tán thành hay phản đối cũng vô ích vì quyết định cuối cùng cũng thuộc về hội đồng võ lâm, gồm năm vị chưởng môn bạch đạo! Chính lịch sừ đã trao cho họ cái đặc quyền ấy.
Nhưng hội đồng võ lâm chưa cho ý kiến thì trong quần hùng đã có người phát biểu. Đó chính là bang chủ Hán Bang ở vùng Tây Bắc phủ Hồ Bắc.
Hán Bang thu lợi trên đoạn giữa sông Hán Thủy, từ ranh giới Hồ Bắc, Thiểm Tây xuống Chương Phàn, dài sáu trăm dặm. Đương nhiên là gồm cả sanh ý của các địa phương dọc hai bờ sông. Có thể nói rằng thế lực Hán Bang ở Hồ Bắc chỉ thua có mình phái Võ Đang trên Ngọc Nữ Phong.
Đến tận hôm nay quần hào mới rõ tướng mạo của bang chủ Hán Bang Liêu Văn Chiêu. Họ Liễu tuổi độ sáu mươi lăm, vóc người cao gầy, mặt xương xầu, tóc hoa râm, mui thẳng, mắt sâu, miệng rộng... trông rất uy nghiêm.
Lão là khách mời của Chính Khí Trang thế mà giờ đây lại ngạo nghễ hỏi:
- Bản lãnh Lã bang chủ cỡ nào mà đòi làm minh chủ, thống lãnh võ lâm? Nếu sở học nhà họ Lã thực sự cao thâm, thì lệnh huynh đâu đến nỗi chết thảm?
Quần hùng Oà lên công nhận lão nói có lý! Liêu Văn Chiêu thừa cơ vòng tay nói tiếp:
- Kính cáo võ lâm! Theo thiển ý của lão phu thì chúng ta cứ xem hôm nay là đại hội võ lâm, dùng cách tỷ võ để chọn tân minh chủ. Nếu chọn dịp khác chưa chắc đã đông đủ hào kiệt tứ xứ như bây giờ.
Họ Liễu đánh trứng vào lòng hiếu võ, hiếu sự của khách giang hồ nên được đa số tán đồng.
Lã Tập Hiền cũng thản nhiên chấp nhận, lão cao giọng:
- Yù kiến của Liễu bang chủ quả là tuyệt diệu! Chính Khí Trang tình nguyện phục vụ cơm rượu trong suốt những ngày đại hội!
Họ Lã được hoan hô rất nhiệt tình vì chẳng ai chê những bữa nhậu miễn phí, trong lúc xem đấu võ.
Năm vị chưởng môn đã sớm bàn bạc, thống nhất ý kiến. VÔ ưu Cái đại diện phát biểu quyết định của hội đồng võ lâm.
Lã Tập Hiền hạ đài, nhường cho Hầu bang chủ. Họ Hầu cười rất tươi, vui vẻ noi:
- Kính cáo đồng đạo! Yù kiến của Liễu bang chủ không phải là dở, nhưng nếu làm thế thì sai luật, và vị minh chủ được bầu sẽ chẳng có thực quyền! Sau này những hào kiệt không có mặt ở đây sẽ có cớ không phục tùng minh chủ, khiến võ lâm nổi loạn. Bởi thế, bọn lão phu quyết định rằng cứ tổ chức đại hội, người giỏi nhất sẽ trở thành đại diện của võ lâm, thách đấu với Thanh Linh Thủy Lão. Khi vị anh hùng đó giết xong Thủy Lão tất sẽ danh chính ngôn thuận mà lên ngôi minh chủ mà chẳng ai dám phàn nàn!
Quần hào chẳng cần biết làm trước, làm sau, quí hồ có đánh nhau là được. Họ phấn khởi đồng ý, trong lúc Lã Tập Hiền đau như bị thiến, lòng rủa thầm lão ăn mày xảo quyệt.
Bốn vị hòa thượng, đạo sĩ kia thì hiền lành, dễ bị che mắt, chỉ mình VÔ ưu Cái là lợi hại. Hầu MỘ Thiên chính là linh hồn của hội đồng võ lâm. Lão được bốn người còn lại khâm phục và tin tưởng tuyệt đối!
Thế cờ đã bị lật ngược, Lã Tập Hiền vô cùng chán nản, cố gỡ gạc :
- Hội đồng võ lâm sai rồi! Dù có giết được Thanh Linh Thủy Lão thì vẫn còn Kim Mẫu! Người đàn bà ấy lợi hại hơn chồng mấy bậc !
VÔ ưu Cái cười khà:
- Trang chủ cứ yên tâm ! Mười ba năm trước, Kim Mâu đã bị Phật Đang Thượng Nhân phế võ công rồi! Nhờ vậy mà võ lâm được thanh bình hơn chục năm, nay Thượng Nhân nhập niết bàn nên Thủy Lão mới dám ló mặt!
Bí mật này lộ ra khiến mọi người chấn động, vô cùng biết ơn vị cao tăng núi Ngũ Đài Sơn Lã Tập Hiền chẳng còn cớ phản bác, ngồi xuống bàn bạc với quân sư là Ngọa Long Tú Sĩ.
Bang chủ Hán Bang là Văn Chiêu đứng lên hỏi:
- Nhưng chúng ta không biết địa điểm của Tứ Phạn Thiên Cung thì làm sao gửi thư thách đấu?
vô ưu cái tủm tỉm đáp:
- Lão phu biết!
Mọi người tò mò, nhao nhao đốc thúc họ Hầu nói ra! VÔ ưu Cái nghiêm giọng:
- Tứ Phạn Thiên Cung nằm trong ngọn Càn Sơn, cạnh bờ Bắc sông Hoàng Hà, ngay ranh của hai tỉnh Sơn Tây, Hà Nam.
Ai xuôi ngược Hoàng Hà cũng đều nhìn thấy đỉnh ngọn Càn Sơn mà không ngờ rằng nơi ấy là sào huyệt của tổ chức khủng bố số một võ lâm. Cử tọa chấn động, ồn ào như chợ vỡ.
VÔ ưu Cái xua tay, bảo quần hùng im lặng rồi nói cụ thể:
- Càn Sơn được bao bọc bằng cánh rừng rậm, trồng đầy loài Mông Hãn Hoa, loại hoa màu tím này có năm phiến lá nhỏ, mùi hoa không nồng thắm, nhưng nếu ai ngửi phải thì sẽ ngủ mê man, vài khắc sau mới tỉnh! Chính vì vậy mà mấy chục năm qua sào huyệt của Tứ Phạn Thiên Cung vẫn bảo toàn. Trong võ lâm, chỉ có mình Phật Đăng Thượng Nhân, luyện đến lớp chót của Nhiên Đăng Thần Công nên mới không sợ Mông Hãn Hoa!
VÔ ưu Cái dừng lại lấy hơi rồi tiếp lời:
- Mười mấy năm nay, hội đồng võ lâm đã tốn bao nhiêu vàng bạc, mời danh y bào chế thước giải Mông Hãn Hoa, để phòng ngày Tứ Phạn Thiên Cung tái xuất.
Nhưng rất tiếc rằng mọi nỗ lực đều thất bại.
Thiết Kình Ngư phẫn nộ thét lên:
- Sao không chờ mùa nắng gắt, phóng hỏa đốt quách khu rừng quái quỉ ấy đi?
Cử tọa đồng thanh khen phải! Song VÔ ưu Cái lại lắc đầu:
- Không được ! C ác vị thần y Trung Nguyên đã khẳng định rằng Mông Hãn Hoa khi bị cháy sẽ biến thành chất tuyệt độc, theo gió bay xa hàng chục dặm, sát hại người và gia súc.
Một hảo hán khác thất vọng than:
- Thế thì chắc gì Thanh Linh Thủy Lão đã chịu nhận lời thách đấu?
VÔ ưu Cái mỉm cười:
- Lão ta phải nhận lời vì bọn lão phu đã tìm ra thời điểm Mông Hãn Hoa không có độc tố. Quan quân sẽ dùng đại pháo cày nát rừng, mở đường tiến vào. Song đấy chỉ là hạ sách nếu Thủy Lão từ chối phó ước!
Lão tinh quái nói:
- Vị nào là người của Tứ Phạn Thiên Cung đang có mặt chốn này, xin hãy về báo lại rằng võ lâm mời Thanh Linh Thủy Lão đến chân núi Thiếu Thất, đúng giờ Thìn ngày rằm tháng hai sang năm.
Nếu lão không đến thì đừng trách hội đồng võ lâm cầu viện đến triều đình!
Đương nhiên chẳng ai ứng tiếng nhận mình là cha ăn cướp. Mọi người nhìn nhau nghi hoặc, chẳng biết kẻ nào là gian Lã Tập Hiền đã đứng dậy tuyên bố:
- lẽ đài quá nhỏ, không thích hợp với việc tỷ võ, cho nên, chiều nay chỉ tiến hành việc đăng ký danh sách thượng đài.
Khoảng bốn ngày nữa lôi đài mới sẽ dựng xong, sáng hai mươi bốn sẽ khai mạc đại hội. Việc ăn ở của đồng dạo sẽ do bổn trang đài thọ.
VÔ ưu Cái cười nhạt:
- Đăng ký trước sẽ gây cảnh tàn sát, loại trừ nhau. Do vậy, sáng hai mươi bốn làm luôn thể !
Lã Tập Hiền biến sắc, gượng cười:
- Hầu b ang chủ dạy chí phải !
Lảo thượng đài cảm tạ cử tọa rồi tuyên bế bế mạc lễ khai đàn và mời mọc vào sau trang nghĩ ngơi.
Chẳng phải ai cũng nhận lời, phần lớn kéo về Thành An Dương tìm chỗ trọ, trang thủ tham thú thắng cảnh cố đô xưa nhất nước, hoặc hưởng lạc thanh lâu, tửu quán, đỗ trường. Bọn Nhương Thư quay lại nhà họ hàng Ngọc Trâm nghỉ ngơi. HỔ Hồng Nhan đòi đi dạo và mua sắm, Nhương Thư liền sai Thúy Sơn đi giùm.
Lát sau, dù không được nhờ vả, Thiết Kình Ngư cũng ra phố, âm thầm theo dõi hai người ấy, trước là bảo vệ, sau dò xét.
Gã linh cảm rằng Nhương Thư quá tin người nên sẽ mất vợ!
Xế chiều, VÔ ưu Cái tìm đến, cùng Nhương Thư trò chuyện. Lão thở dài bảo:
- Cục diện võ lâm đã đến hồi nguy cấp lắm rồi! Lão phu sẽ cố gắng xoay xở nhưng nếu không có sự hỗ trợ của Tần hiền đệ thì không xong.
Nhương Thư cau mày:
- Theo thiên ý của tiểu đệ thì kế sách của Hầu lão ca rất tuyệt diệu, dù Lã Tập Hiền là kẻ ác cũng phải diệt xong Tứ Phạn Thiên Cung rồi mới lên ngôi minh chủ. Hơn nữa, Thủy Lão tuổi đã tám mươi, bản lãnh thông thần, tất sẽ giết được họ Lã.
VÔ ưu Cái rầu rĩ lắc đầu:
- Lão phu vừa nhận được tin của nội gián ở Tứ Phạn Thiên Cung báo về rằng Thanh Linh Thủy Lão âu Dương Phạn mới từ trần cách nay bốn ngày. Con trai lão tên gọi âu Dương Lăng lên thay, tuổi mới bốn sáu, võ công thua xa Thủy Lão.
Nay Lã Tập Hiền chiêu mộ được cả Hạt Nhãn Thần Ma, tất bản lãnh không thể kém Thần Ma được. Như vậy, Lã Tập Hiền thừa sức giết tân Thủy Lão và chính thức trở thành minh chủ.
Nhương Thư bâng khuâng hỏi:
- Thế lão ca muốn tiểu đệ phải làm gì?
VÔ ưu Cái vuốt chùm râu hoa râm, nhăn vầng trán cao rộng, cân nhắc một hồi rồi bảo:
- Ta biết hiền đệ mới thọ thương, bản lãnh sút đi vài bậc, chưa chắc đã địch lại Lã Tập Hiền. Nhưng trinh sát của lão phu đã nhìn thấy lá cờ của Huyết Tâm Giáo trong thư phòng của họ Lã, cho nên bằng mọi cách phải ngăn chặn Lã Tập Hiền trở thành minh chủ.
Nhương Thư rúng động hỏi:
- Nhưng hai mươi bốn năm trước, Huyết Tâm Đế Quân đã bị gia sư cùng các chưởng môn vây đánh, dồn lão xuống vực thẳm cạnh núi Vu Sơn rồi mà? Sào huyệt của Huyết Giáo cũng bị quần hùng thiêu rụi?
VÔ ưu Cái cười buồn:
- Tiếc rằng số giáo chúng đào thoát được khá nhiều, nếu có kẻ tìm được Huyết Tâm lệnh kỳ thì sẽ khống chế được họ, hoặc thế hệ kế tiếp! Lão phu đoán rằng Lã Tập Hiền có cả cờ lẫn bí kíp Huyết Tâm, từ lâu khổ luyện, nên mới dám mưu đồ bá chủ! Họ Lã từng tuyên bố rằng nếu đơn đấu thì chẳng sợ bất cứ ai !
Nhương Thư quá rõ bản chất man rợ, tàn ác của Huyết Tâm Giáo, liền nghiêm giọng:
- Nếu thế thì tiểu đệ chỉ còn cách liều chết, chẳng giết được Lã Tập Hiền thì cũng làm lão trọng thương, không thể thắng được âu Dương Lăng!
VÔ ưu Cái nhìn chàng trìu mến, khẽ than:
- Hiền đệ tuổi tác chưa đến ba mươi mà đã phải gánh cả võ lâm trên vai, thật đáng thương ! Nhưng ngươi đã là đệ tử của Phật Đăng Thượng Nhân thì không thể thoái thác được!
Rồi lão cười khà khà trấn an:
- Hiền đệ cứ an tâm mà phù trì chánh đạo Tướng của ngươi không thể chết non được! Lão phu xin lấy đầu mình ra đặt cược đấy !
Lão là người thứ hai nói như thế khiến lòng Nhương Thư rất phấn khởi. Chàng cười đáp :
- Nếu biết chắc không chết thì còn sợ gì nữa? Hầu lão ca cứ về báo lại với hội đồng võ lâm rằng Thư này sẽ tận lực quét sạch tà ma.
VÔ ưu Cái hài lòng, trao cho chàng một lọ sành và dặn dò:
- Trong này có bốn viên linh đan chí bảo của bốn phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Hoa Sơn. Hiền đệ hãy uống để thương thế mau lành, có sức mà thượng đài ! Cứ uống cả bốn viên một lúc vì dược vị không xung khắc.
VÔ ưu Cái đi rồi thì Thiết Kình Ngư về đến, kế đó là HỔ Hồng Nhan Điền Ngọc Trâm và Vạn Lý Thần Điêu Bạch Thúy Sơn.
Họ Bạch khệ nệ mang vác đủ thứ hàng hóa, từ tơ lụa, phấn son cho đến gương lược, giầy, nón. Gã nhăn như khỉ:
- Phận làm em quả là khốn khổ, cứ phải lẽo đẽo theo chị dâu từ cửa hàng này sang hiệu buôn khác, tay xách nách mang, trông chẳng ra thể thống gì cả!
Ngọc Trâm cười duyên an ủi:
- Thôi mà, hiền đệ! Ngươi trả ơn cho đại ca bằng cách theo hầu hạ ta là quá phải đạo rồi! Đâu phải ai cũng có vinh dự đi chung với HỔ Hồng Nhan?
Trong bữa cơm tối, Nhương Thư kể cho mọi người nghe câu chuyện của VÔ ưu Cái, Thúy Sơn lộ vẻ lo lắng:
- Đại ca! Tiểu đệ nghe gia sư kể rằng công phu Huyết Tâm Giáo không có hình thức đặc biệt, chỉ người phải đối phó mới nhận biết sự lợi hại. Kiếm pháp nhanh như chớp, tạo ra những sóng âm quái dị, khiến đối phương bồi hồi khiếp sợ, không tập trưng được chân khí. Đại ca phải thận trọng đấy.
Nhương Thư điềm đạm đáp:
- Ngu huynh cũng biết việc ấy, và đã có cách đối phó. Cảm tạ Sơn đệ đã quan tâm.
Đêm ấy, chàng uống thuốc, điều khí, ngủ một giấc rất sâu, sáng ra, bắt đầu khổ luyện. Nhương Thư không muốn Ngọc Trâm vì mình mà mất vui nên lại bảo Thúy Sơn đưa nàng đi chơi. HỔ Hồng Nhan chối đây đẩy, song cuối cùng cũng đi Nàng là nữ nhân con nhà giàu nên không thể bỏ lỡ cơ hội mua sắm khi đến địa phương lạ.
Tào ưng lẳng lặng bám theo, đúng giờ Ngọ trở về dùng cơm với Nhương Thư.
Gã bỗng hỏi:
- Công tử có được lệnh sư kể cho nghe việc cứu mạng Vương ốc lão nhân hồi mười bảy năm trước hay không?
Nhương Thư lắc đầu:
- Gia sư chỉ dặn tại hạ sau này xuất đạo phải chú ý tương trợ phái Vương ốc !
Tào ưng cảm động nói:
- Không ngờ Thượng Nhân lại luôn quan hoài đến tệ phái như vậy? Tại hạ chỉ có cách theo phò công tử mới đền đáp được ân nghĩa ấy mà thôi !
Nói là làm, gã quỳ một chân, bái liền ba bái. Nhương Thư rời ghế, bước đến nơi thì Tào ưng đã lạy xong. Chàng bối rối nói:
- Sao túc hạ không xem ta như đứa em, bày chi ngôi chủ tớ?
Tào ưng cười khì :
- Đâu được! Gia sư còn gọi Thượng Nhân là sư thúc mà! Tại hạ đâu dám phạm thượng?
Gã hân hoan róc rượu mời Nhương Thư:
- Người ngoài không cần biết, nhưng Tào mỗ đã thề suốt đời trưng thành với công tử, dẫu chết chẳng thay lòng!
Việc đã lỡ, Nhương Thư đành chấp nhận, hiền hòa nói:
- Tần mỗ và Tào túc hạ sống chết có nhau, họa phúc cùng chung hưởng.
Hai người uống cạn, bàn chuyện thân mật. Bỗng Tào ưng ấp úng:
- Tào mỗ có đôi lời thẳng thắn, cúi mong công tử xem xét.
Nhương Thư nhíu mày không hiểu, chỉ gật đầu. Tào ưng chậm rãi nói:
- Nữ nhân vốn nhẹ dạ, dễ xiêu lòng trước cái đẹp và lời nói ngọt ngào! Nay Thúy Sơn anh tuấn tuyệt thế, lại có cơ hội gần gũi HỔ Hồng Nhan, e rằng hậu quả khó lường. Mong công tử sớm tách rơm và lửa xa nhau.
Nhương Thư lặng im một lúc rồi mỉm cười thanh thản:
- Các hạ nói chí phải! Nhưng ta với Điền đại tiểu thư chưa hề có hôn ước, nếu nàng thực lòng yêu Thúy Sơn thì ta cũng không thể ngăn cản. Hơn nữa, Thư này vẫn mang nặng tử nan ba năm, lỡ không thoát khỏi sẽ làm khổ người hôn phối !
Tào ưng gật gù:
- Công tử quả là người nhân hậu, khoáng đạt, luôn nghĩ đến người khác trước! Tào mỗ sẽ xử sự theo đúng ý công tử Nhương Thư biết gã chưa thực sự thoải mái, liền rủ ra vườn luyện kiếm. Kiếm pháp khắp thiên hạ đều qui về kiếm đạo.
Do vậy, Nhương Thư dễ dàng nhìn ra khiếm khuyết trong sở học Tào ưng, tận tình chỉ điểm cho gã. Họ Tào vui mừng khôn xiết, hết sức rèn luyện, chỗ nào không thông thì hỏi Nhương Thư.
Liên tiếp bốn ngày, Ngọc Trâm đều đi phố, mua về hàng xe đặc sản của An Dương. Tình thân với Bạch Thúy Sơn càng thêm sâu đậm.
Người ngoài hiểu lầm, trầm trồ khen ngợi họ là cặp tiên đồng, ngọc nữ, vô cùng xứng đôi vừa lứa. Ngọc Trâm đỏ mặt, bắt Thúy Sơn phải đi cách xa mình, nhưng lòng nàng nghĩ gì thì có trời mới biết được.
Tào ưng không đi theo nhưng mướn một tên ăn mày theo dõi cặp nam thanh nữ tú kia, nắm rõ mọi hành vi của họ. Lão không nói ra nhưng lòng thầm chê HỔ Hồng Nhan là hạng gái hời hợt! Nàng nói thì rất hay nhưng lại không thực hiện được Sáng hai mươi bốn, bọn Nhương Thư lên ngựa đi đến Chính Khí Trang. Đồng hành với họ là hàng ngàn hào kiệt, người ngựa xếp hàng dài thượt trên quan đạo.
Lê đài mới dựng xong, ngay vị trí của lễ đài hôm trước. Giờ đây, nó vuông vức mỗi bề sáu trượng, sàn lót ván dày và bằng phẳng. Bàn của ban giám đài kê sát mép phía Bắc, cao hơn mặt lễ đài gần sải tay để tiện quan sát.
Đây là đại hội võ lâm đầu tiên mà quần hùng được ngồi xem và có rượu thịt để trợ hứng.
vô ưu cái thượng đài:
- Kính cáo võ lâm! Thanh Linh Thủy Lão tuy không bằng Kim Mẫu nhưng võ công cũng cao hơn Hạt Nhãn Thần Ma vài bậc. Do vậy, mong chư vị tự lượng sức mình rồi hãy đăng ký.
Hầu bang chủ không thể nói ra việc Thủy Lão âu Dương mới chết vì sợ lộ vai trò của nội gián đang tiềm phục trong Tứ Phạn Thiên Cung.
Những kẻ từng vào sinh ra tử rất biết lẽ tiến thoái nên rốt cuộc chỉ có năm người đăng ký, gồm Chính Khí trang chủ Lã Tập Hiền, bang chủ Hán Bang Liễu Văn Chiêu, Võ Di Sơn Chủ Từ Bạch âu đất Phúc Châu, Quảng Đông Thần Đao Cốc Hậu Nhan và Tần Nhương Thư.
Khi VÔ ưu Cái đọc đến tên chàng và giới thiệu sư thừa thì quần hùng ồn hẳn lên, nhất là khi Hầu bang chủ nói rõ việc chàng chính là kẻ giết Hạt Nhãn Thần Ma mấy hôm trước !
Trong số những người mới đến có kẻ từng làm môn khách Điền gia trang, nên đã tự hào kể lại cuộc chiến giữa Nhương Thư và đệ tử Châu Khanh Tứ Phạn Thiên Cung. Thế là mọi người xem chàng là ứng cử viên số một. Nhưng đại hội đã phát sinh quái sự khi có người lên tiếng, trong lúc năm đối thủ kia đứng lên lôi đài ra mắt quần hùng:
- Tại hạ Hoàng Nghi Tuyệt, hai mươi tám tuổi, đổ đệ của Đao Đế đất Liêu Đông, xin ghi danh tranh tài !
Toàn trường sửng sốt vì họ Hoàng đang là Chưởng Kỳ Sứ của Chính Khí Trang, sao lại chơi trò gà nhà bôi mặt đá nhau?
Lã Tập Hiền giận dữ nạt:
- Hoàng lão đệ! Ngươi điên rồi sao?
Nghi Tuyệt phi thân lên đài, lãnh đạm nói với họ Lã:
- Tại hạ luyện đao hai mươi năm, vào Trung Nguyên để dương danh đất Liêu Đông chứ không phải tìm miếng cơm manh áo! Chức vụ Chưởng Kỳ Sứ kia xin trang chủ giao cho người khác.
VÔ ưu Cái đã bàn bạc với ban giám đài, tức hội đồng võ lâm, liền lên tiếng:
- Hoàng thiếu hiệp làm như thế là không phải đạo! Tuy nhiên, nể mặt Đao Đế, ban giám khảo chấp thuận! Song thiếu hiệp và Lã trang chủ phải đấu trận đầu, trong hai phải chọn một để dự thi.
Lã Tập Hiền tức ói máu mà không làm sao được ! Lão nhìn Hoàng Nghi Tuyệt với ánh mắt oán độc! Lão ăn mày già chết bằm kia chẳng hề nể mặt Lã cố minh chủ, luôn gây bất lợi cho Chính Khí Trang.
VÔ ưu Cái sang sảng đọc điều lệ so tài rồi tuyên bố:
- Cặp thứ hai sẽ gồm bang chủ Hán Bang Liêm Văn Chiêu và VỎ Di Sơn Chủ Từ Bạch âu. Cặp thứ ba là Quảng Đông Thần Đao Cốc Hậu Nhan với Tần thiếu hiệp!
Chẳng để ai có dịp phản đối, lão kết thúc ngay:
- Mời Lã trang chủ và Hoàng thiếu hiệp khai mạc đại hội.
Quần hùng reo hò như sấm, mừng vì sắp được xem đấu võ và . . . cá cược ! Cờ bạc là đặc tính không thể thiếu của khách võ lâm! Nói rộng ra là dân tộc Trung Hoa có máu đỏ đen. Họ đã sáng tạo ra biết bao trò thắng thua từ lớn đến nhỏ: đá gà, đá dế, đua ngựa, chọi trâu, tài xỉu, mạt chược, bài cẩu, cá mưa nắng, cờ tướng, cờ vây (Những trò này đã lan đi khắp thế giờ từ rất lâu, đến nỗi ít ai nhớ rằng những viên xúc xắc và quân cờ domino là phát minh của Trung Quốc) Trong lúc quần hùng rộn ràng đặt cược thì trên lễ đài, hai đấu thủ đã rút vũ khí gườm nhau. Bảo kiếm, bảo đao sáng quắc, tỏa sát khí dàn dua khiến kẻ từ bi là Huệ Nghiêm thiền sư, chưởng môn phái Nga Mi, vội nhắc nhở:
- A di đà phật ! Xin đừng gây đổ máu !
Ai chém rách áo đối thủ trong thời gian nửa tuần nhang là đủ để thắng rồi.
Theo qui củ bao đời, cuộc chiến tranh ngôi minh chủ chỉ kéo dài nửa tuần nhang, tức hai khác là phải dừng lại để ban giám khảo thẩm xét. Nếu chưa ai thọ thương hoặc rách áo thì sẽ đấu tiếp hai khắc nữa. Nhưng thực ra, hiếm khi có cặp nào ngang tài ngang sức đến mức ấy!
Thường thì máu đã chảy ngay trong hiệp đầu Hoàng Nghi Tuyệt nhỏ tuổi hơn tất được quyền xuất thủ trước . Nhưng gã vẫn đứng im, đao dựng xéo trước mặt, bàn tay tả bắt kiếm ấn, (hai ngón trỏ và giữa và trỏ chỉ thẳng, ba ngón còn lại cụp xuống) đặt hờ nơi tâm thất.
Đao Đế Liêu Vân Nhạc đứng thứ hai trong vụ nội tứ thần, bản lãnh chỉ kém có mình Phật Đăng Thượng Nhân. Bốn mươi năm trước, lão xách đao vào Trung Thổ tung hoành, tìm đến tất cả những nhân vật nổi tiếng trong võ lâm mà tỷ thí.
Trong mười năm, Đao Đế lần lượt đả bại hon trăm cao thủ thành danh. Dĩ nhiên, không ít kẻ bị tàn phế dưới lưỡi đao của họ Liêu.
Phật Đăng Thượng Nhân sợ tinh hoa võ lâm bị hủy hoại hết, liền nhờ Cái Bang gởi lời thách đấu với Đao Đế, ở chân núi Tung Sơn. Sau hai ngàn chiêu, Liêu Vân Nhạc bị chém đứt búi tóc, biết đối phương nương tay, liền nhận bại, trở về Liêu Đông.
Sau ba mươi năm ẩn cư, chắc chắn là Tuyết Hoa Đao Pháp của ông ta đã đạt đến mức tận thiện tận mỹ. Nhưng liệu Hoàng Nghi Tuyệt tiếp thu được bao nhiêu thành hỏa hầu?
Họ Hoàng biểu hiện bằng cách thi triển phép Ngự Đao, ngay trong chiêu đầu. Đất Liêu Đông nổi tiếng với rặng núi Trường Bạch quanh năm tuyết phủ, đầy dấy nhân sâm, có củ già đến vài trăm hoặc ngàn nham tuổi! Hoàng Nghi Tuyệt đã được Đao Đế cho ăn một đoạn Thiên Niên Tuyết Sâm nên tu vi tăng thêm mười năm khổ luyện, gã sở hữu tròn ba mươi năm c ông lực .
VỌ học rất phổ biến trên lãnh thổ Trung Hoa, ai cũng có thể luyện tập. Tuy nhiên, chẳng phải tuổi càng cao thì nội lực càng tăng! Nhân sinh đầy phiền muộn, đắng cay, lại phải lo chuyện áo cơm cho bản thân và gia đình hoặc bận tâm vì danh vọng, do thế, việc luyện công thường bị bỏ bê, gián đoạn. Rốt cuộc, có những võ sĩ sáu bảy chục tuổi mà tu vi thua kém kẻ ba mươi.
Chính vì vậy, những trang oai hùng của lịch sừ võ lâm đều được viết nên bởi những cao thủ có nghị lực phi thường, hoặc may mắn ngộ kỳ trân.
Hoàng Nghi Tuyệt có đủ hai yếu tố ấy.
Gã miệt mài rèn luyện suốt hai chục năm, không bỏ một ngày nào và lại được ban sâm quý. Cho nên giờ đây, họ Hoàng đã đạt đến trình độ Ngự Đao, hóa thành trái cầu óng ánh những bông hoa thuyết.
Bên kia, Lã Tập Hiền cũng đã động thân, kiếm quang mờ nhân ảnh, lấp loáng dưới ánh dương.
Khoảng cách hai trượng được rút lại nhanh chóng, song phương chạm trán, đao kiếm ngân dài và bắn ra những tia lửa nhỏ . Hàng trăm thể thức được đánh ra trong chỉ vài cái chớp mắt, công thủ có đủ, hơn thua bằng bản thân chiêu thức chứ không còn kịp biến hóa. Trong võ lâm, chỉ có mình Phật Đăng Thượng Nhân và Nhương Thư đạt đến trình độ tùy ngộ nghi an trong Ngự Kiếm thuật. Việc chàng đâm thủng vai trái Hạt Nhãn Thần Ma đã chứng minh khả năng ấy.
Song Lã Tập Hiền và Hoàng Nghi Tuyệt không được như thế, tâm ý hòa vào đao kiếm, chẳng còn tự chủ được nữa.
Sau khi va chạm bởi những thức tương hợp, đao và kiếm có khoảng trống để chạm cơ thể đối phương.
Tuy nhiên, do Huyết Tâm Kiếm Pháp và Tuyết Hoa Đao Pháp đều là tuyệt học hãn thế, chiêu thức hoàn bị, sơ hở rất ít, nên mỗi người chỉ thọ thương hai vết, độ nông sâu khác nhau.
Song phương dội ra, rời xa một trượng rồi lại nhập vào đổi đòn, chiết chiêu bằng lối đánh thông thường, vì phép Ngự Kiếm, Ngự Đao rất hao tổn chân khí, chẳng thể thi triển hai chiêu liên tiếp.
Quần hùng ồn ào hẳn lên vì nhận ra vi tả và ngực trái Hoàng Nghi Tuyệt bị đâm thủng, máu loang ướt đẫm lớp gấm màu nguyệt bạch. Ngược lại, Lã Tập Hiền cũng đổ máu bắp tay trái và đứt mất vạt áo trường bào phía trước, vị trí ngay rốn.
Vậy là họ Lã đã nhinh hơn một chút trong lần va chạm đầu tiên. Giờ đây, lão vũ lộng thanh bảo kiếm cố áp đảo luồng đao ảnh trắng muốt, gồm hàng vạn bông hoa thuyết.
Bảo đao của Hoàng Nghi Tuyệt có màu trắng, lấm tấm những chấm bạc óng ánh như giọt sương, tạo nên đao quang đặc trưng của võ học Liêu Đông.
Họ Hoàng biết công lực mình kém Lã Tập Hiền hai bậc, song vẫn đặt niềm tin vào đao pháp kỳ tuyệt của ân sư. Chiêu thức ảo diệu là yếu tố quan trọng, bù đắp cho sự chênh lệch tu vi.
Hoàng Nghi Tuyệt cũng là một nhân tài võ học, căn cơ rất tốt, lại kiên nhẫn hơn người, nên đã tiếp thu được gần hết sở học của Đao Đế.
Gã quắc đôi mát sói, từ tốn đánh ra những chiêu đao mãnh liệt và kín đáo.
Đao kình lạnh như ngọn bắc phong vì Đao Đế sở trường pho nội công Huyền Băng Chân Khí.
Khí lạnh sẽ ngày càng gia tăng và xâm nhập vào cơ thể đối phương, trước tiên là khiến tay chân kẻ ấy cóng lại, mất hẳn sự linh hoạt.
Đao kiếm chạm nhau vang rền, bóng người đảo lộn, chập chờn như đôi bướm quyện lấy nhau, trọng vô cùng đẹp mắt.
Cây hương chỉ thời gian đã cháy được phần tư, cho biết một khắc đã trôi qua mà vẫn chưa phân thắng bại.
Song chỉ giây lát, Hoàng Nghi Tuyệt đã lâm vào thế hạ phong, phải lùi dài. Gã kinh hoàng vì đôi màng nhĩ liên tiếp nhói đau khủng khiếp bởi sự công phá của loại âm thanh rất nhỏ và cao vút. Kẻ bị đâm vào màng tai thì sức lực đâu mà đánh đấm, bởi vậy, họ Hoàng trứng thêm hai kiếm vào đùi.
Gã định tuyên bố chịu thua thì nhìn thấy nụ cười ác độc trên môi Lã Tập Hiền. Biết đối phương quyết giết chết mình, Nghi Tuyệt không dám mở miệng hoặc nhẩy lùi, tạo cơ hội cho địch hạ độc thủ.
Nghi Tuyệt còn cách mép đài đến hơn hai trượng, chẳng thể nhảy ngược một cái mà xuống đất được. Do thế, gã cắn răng chống đỡ, vừa đánh vừa lùi dần.
Khổ thay, màn kiếm ảnh của Lã Tập Hiền ngày càng mù mịt và âm thanh quỉ quái kia cũng sắc bén hơn trước! Nghi Tuyệt chẳng còn dám chần chờ, dùng hết sức tàn phóng bảo đao vào người họ Lã rồi tung mình thoái hậu, cố rời nơi hiểm địa.
Hoàng Nghi Tuyệt hạ thân cách mép đài nửa trượng, ngã quy xuống vì vết thương nơi hai đùi rách toang ra. Và Lã Tập Hiền đã né được thanh đao, lướt đến nơi, hung hãn chụp lưới kiếm xuống thân hình yếu ớt của chàng trai đất Liêu Đông.
Ban giám đài vội quát vang:
- Dừng i ay !
Nhưng đã quá muộn vì Lã Tập Hiền không nuôi ý định ấy. Nào ngờ, từ dưới đất có hai bóng đen bay vút lên đài, nhắm thẳng vào họ Lã.
Bóng thứ nhất lao rất nhanh, xé gió vù vù, chạm vào lưới kiếm của Lã Tập Hiền.
Lão nghe cổ tay chấn động, kinh hãi nhảy lùi xa, nhận ra mình đã chém nát chiếc đôn bằng gỗ quí của chính nhà mình!
còn bóng thứ hai chính là gã Tần Nhương Thư, tay lăm lăm trường kiếm, đứng che cho Hoàng Nghi Tuyệt.
Lã Tập Hiền giận điên người, tra kiếm vào vỏ, rời khỏi lôi đài.
Trong lúc Khánh Hỉ đại sư tuyên bố Lã Tập Hiền thắng thì Nhương Thư điểm huyệt chỉ huyết cho Nghi Tuyệt, và xé vạt áo trường bào băng bó.
Điền Ngọc Trâm và Thúy Sơn đã lên đến, mở bọc lấy thuốc kim sang và băng sạch. HỔ Hồng Nhan trách móc:
- Tiểu muội đã chuẩn bị rất nhiều vải sạch, sao đại ca lại phải xé áo?
Nhương Thư mỉm cười:
- Vì cấp bách nên ta quên mất.
Nghi Tuyệt không hề nói tiếng nào, mát nhắm nghiền, để mặc cho Nhương Thư chăm sóc mình.
Khi nghe chàng nói:
- Ngoại thương không có vết nào nặng nề, thực là may mắn! Dám hỏi bên trong cơ thể Hoàng túc hạ có tổn hại gì chăng?
Gã mở mắt lắc đầu, đứng lên xuôi hai tay dọc sườn, cúi xuống bái Nhương Thư một bái, nhận lấy thanh Huyền Băng Đao trong tay Thúy Sơn, rồi tập tễnh hạ đài, rời khỏi đại hội.
Họ Hoàng đi khỏi là có nhiều người mở miệng chê trách gã là kẻ bạc bẽo, thọ ơn cứu mạng mà chàng nói lời cảm tạ.
Ngọc Trâm và Thúy Sơn không nói ra nhưng mặt đầy vẻ bất mãn.
Nhương Thư hiểu lòng họ, vui vẻ nói:
- Nghi Tuyệt sinh trưởng nơi quanh năm phủ tuyết, vắng bóng người, nên quen ít lời, vả lại, gã là đại trượng phu nên không phải lúc nào cũng thế thốt hoặc cám ơn rối rít như đàn bà.
Ngọc Trâm xấu hổ lườm chàng:
- Đại ca xem thường tiểu muội quá đấy! Nào phải nữ nhân mới nghĩ thế, cả gã Thúy Sơn kia cũng vậy mà.
Bạch Thúy Sơn cười hăng hắc:
- Xin đại tẩu đừng gắp lửa bỏ tay người khác! Tiểu đệ đâu hề có ý định chê trách họ Hoàng!
Ngọc Trâm tức tối bất ngờ giáng vào vai Thúy Sơn một quyền đau điếng. Gã đau đớn ẹo người nhưng vẫn cười sặc sụa.
Theo đúng lễ chị dâu em chồng dù kết nghĩa, cũng không được làm thế. Thiết Kình Ngư nóng mũi nói bâng quơ:
- Chốn đông người mong nhị vị cẩn trọng để tránh hiểu lầm.
Ngọc Trâm tái mặt, lén liếc nhìn Nhương Thư, thấy chàng vẫn thản nhiên nhìn lên lôi đài, nàng mới yên tâm.
Thực ra, Nhương Thư đã nhìn thấy hết, vì nghĩ rằng cặp uyên ương kia rất xứng đôi Tuy hơi cay đắng nhưng lại hợp lý vì chàng đã quyết liều thân với Lã Tập Hiền.
Qua trận giao đấu lúc nảy, chàng tự hiểu rằng mình khó thắng họ Lả, chỉ có cách đổi mạng.
Song không phải hôm nay, vì cặp đấu thứ hai là Hán Bang Liễu Văn Chiêu và Võ Di Sơn Chủ Từ Bạch âu.
Sàn lôi đài đã được rửa sạch vết máu và hai cao thủ sắp sữa ra tay.
Võ Di là một danh sơn ở đất Phúc Kiến, Từ Bạch âu dựng nhà trên ấy, tự xưng là Sơn Chủ! Cũng như bang chủ Hán Bang, họ Từ ít khi xuất thủ nên võ lâm không thể ước lượng được bản lãnh của họ .
Đây là lần đầu hai người này biểu diễn võ thuật trước mặt quần hùng.
Những người tham gia cá cược chỉ có thể dựa vào tuổi tác mà đánh giá cao Từ Sơn Chủ. Lão hơn họ Liễu hai tuổi, một khoảng cách rất nhỏ bé không có ý nghĩa quan tọng.
Võ Di Sơn Chủ có vóc người tròn trịa, phương phi, mặt hồng hào phúc hậu, râu năm chòm điểm bạc trông rất đẹp lão.
ông thấp hơn Liễu Văn Chiêu nửa xích nhưng to ngang hơn.
Vũ khí của họ Từ là cây Tam Tiết Côn bằng ống thép dầy, gồm ba đoạn được nối vào nhau bằng những khoeo sắt. Mỗi đoạn còn có chiều dài tương với trường kiếm, thân to bằng cổ tay trẻ con mới sinh Tam Tiết Côn là vũ khí độc môn, xếp hàng thứ tám trong binh khí phổ, ít được làng võ ưa chuộng vì cồng kềnh, thô kệch và khó học. Chỉ có Võ Di Sơn Chủ là người giỏi nhất trong nghề đánh Tam Tiết Côn.
Loại vũ khí này lợi hại ở chỗ có thể vươn xa đến hơn trượng, khi cận chiến thì trở thành đoản côn hoặc song đoản côn.
Quần hùng vô cùng cao hứng được chứng kiến thần oai của một loại binh khí hiếm hoi, reo hò thúc giục như chợ vỡ.
Nhưng kẻ được quyền xuất thủ trước lại là bang chủ Hán Bang Liêu Văn Chiêu, lão đã khiến cử tọa bàng hoàng bằng một đòn Ngự Kiếm thượng thừa.
Lưỡi kiếm của lão mạ vàng nên kiếm quang rực rỡ đến chói mắt, dường như còn có tác dụng che dấu lộ số.
Chắc các vị đọc giả thắc mắc muốn biết thời xưa người ta mạ vàng vào kim loại bằng cách nào? Xin thưa rằng rất đơn giản, họ mài vàng thành hạt nhỏ, ngâm trong thủy ngân, là chất có thể hòa tan được vàng. Sau đó họ quét thứ hỗn hợp này lên mặt ngoài những vật cần mạ, rồi dùng lửa hơ khiến thủy ngân bốc hơi, chỉ còn lại vàng bám chặt. Cuối cùng, họ dùng mã não mài ép, làm lớp vàng mỏng kia thành sáng bóng.
Người Trung Hoa cổ xưa đã biết phương pháp mạ vàng này từ thới Xuân Thu - Chiến quốc, tồn tại qua các đời không hề gián đoạn. Thủy ngân thì chẳng thiếu vì ở đất Quý châu có rất nhiều hồ lớn chứa đầy thứ kim loại lỏng ấy.
Giờ hãy quay lại với lôi đài để xem Võ Di Sơn Chủ đối phó thế nào trước chiêu kiếm óng ánh sắc hoàng kim kia.
Từ Bạch âu không hề lúng túng, song thủ nắm chặt đoạn giữa, vũ hợp hai đoạn ngoài, dựng nên bức tường thép cực kỳ kiên cố và kín đáo như da trời.
Hai ống thép nặng nề xoay tít như chong chóng, giáng những đòn nặng như búa tạ vào lưới kiếm, đánh văng Liễu Vân Chiêu ra xa!
Quần hùng hoan hô Từ lão nhiệt liệt, xuýt xoa tán dương côn thuật núi Võ Di.
Từ Bạch âu phấn khởi, vũ lộng Tam Tiết Côn phản kích bằng bốn chiêu liên hoàn, đẩy lùi họ Liễu hơn trượng.
Lúc này cử tọa mới biết Võ Di Sơn Chủ thần lực kinh nhân, dẫu tuổi đã gần thất thập Lão xử dụng cây côn ba khúc, nặng bốn chục cân rất nhẹ nhàng, thoải mái.
Liễu Văn Chiêu cắn răng chống đỡ những nhát côn như trời giáng, hoặc tận dụng khinh công mà né tránh, dùng phép du đấu, chờ cơ hội phản đòn.
Dưới này, Nhương Thư dần dần nhận ra sự quen thuộc trong kiếm pháp của Liễu Văn Chiêu. Nó rất giống với pho Hao Thiên Kiếm Pháp mà Đệ Tứ Châu Khanh của Tứ Phạn Thiên Cung đã thi triển ở Điền gia trang.
Thì ra Liêu Văn Chiêu là người của Thiên Cung. Lão mạ vàng trường kiếm để che những vệt sáng đặc trưng trong Hao Thiên Kiếm Pháp.
Nhương Thư là người duy nhất so kiếm với cao thủ Thiên Cung, trong suốt mười ba năm qua, chàng lại có ký ức rất tốt nên mới khám phá ra quỷ kế .
Thấy bang chủ Hán Bang đang cố tìm cách di chuyển về hướng Tây, chiếm vị trí đầu ngọn gió, Nhương Thư vội vận công nói lớn:
- Từ Sơn Chủ không được để cho họ Liễu chiếm hướng gió! Lão ta sắp phóng VÔ Hình Chi Độc đấy!
Từ lão hoảng hồn, liền mở rộng lưới côn, quét văng Liêu Văn Chiêu trở lại hướng Đông.
Quần hùng nghe nói đến VÔ Hình Chi Độc sợ đến đứng cả lên, ồn ào khôn tả.
VÔ ưu Cái nói ngay:
- Tần thiếu hiệp! Chẳng lẽ Liễu Văn Chiêu là người của Tứ Phạn Thiên Cung?
Nhương Thư nghiêm giọng đáp!
- Tại hạ đoan chắc như thế! Họ Liễu đang thi triển Hao Thiên Kiếm Pháp !
Từ khi biết Nhương Thư là học trò của vị thánh tăng núi Ngũ Đài Sơn, quần hùng vô cùng ngưỡng mộ và tin tưởng.
Trong số họ có không ít người trực tiếp hay gián tiếp mang ơn Phật Đăng Thượng Nhân Vì thế, mọi người hô vang:
- Giết gian tế!
Rồi họ nhảy xổ vào mười ba gã tùy tùng của Liễu Van Chiêu đang ngồi quanh bàn tiệc.
Kể tiên phong chính là Bạch Thúy Sơn và Tào ưng. Họ Bạch quả xứng danh Vạn Lý Thần Điêu, từ bàn mình bốc lên cao, bay chếch hai trượng, bủa lưới thép xuống đầu kẻ địch. Trường kiếm của gã quét ngang theo hình nan quạt, đâm thủng đầu ba gã Hán Bang.
Thiết Kình Ngư Tào ưng chậm hơn một bước nhưng cũng đâm thủng ngực được một tên. Chín gã còn lại rút kiếm chống cự nhưng rốt cuộc cũng chết sạch dưới sự phẫn nộ của đám đông.
Cũng lúc ấy, có hai bóng người phi thân lên lôi đài, nam mặc áo xanh thẫm, nữ võ phục lam nhạt.
Nữ nhân áo lam nhạt ấy chính là Bạch Ngọc Tiên Tử Lam Đại Ngọc, phó trang chủ Chính Khí Trang. Nàng nhanh chân hơn nên lên trước Nhương Thư, vung Thiết Địch lướt đến tấn công hậu tâm bang chủ Hán Bang.
Nhương Thư đành đứng một bên quan chiến, đề phòng họ Liễu đào tẩu. Chàng kinh ngạc khi nhận ra nét căm hờn trên gương mặt của Tiên Tử. Dường như nàng có mối thù sâu đậm với Thiên Cung vậy!
Cây Thiết Địch đen bóng có hoa văn khảm chỉ vàng kia chính là vũ khí thành danh của Địch Thánh Dư Minh Thiều, nó không dầy nhưng được làm bằng huyền thiết nên rất rắn chắc. Phải chăng Địch Thánh đã tạ thế mới trao vật tùy thân cho đệ tử?
Địch Thánh đứng hàng thứ ba trong vũ nội tứ thần, nhưng do tính lão ôn nhu, văn nhả, không hiếu tháng, nên khó biết bản lãnh thực như thế nào? Họ Dư từng đánh thắng Hồng Diện Tôn Giả, song lại tự nhận mình kém Đao Đế và Phật Đăng Thượng Nhân, dù không hề tỷ thí .
Nay Nhương Thư được tận mắt chứng kiến chiêu sáo của Đại Ngọc, lòng tự nhủ rằng chưa chắc Đao Đế xứng với vị trí thứ hai.
Cây Huyền Thiết Địch kia rít lên, hóa thành trăm bóng ảnh, uy hiếp từ đầu đến đùi sau của họ Liêu.
Trước sau đều ngộ địch, bang chủ Hán Bang chỉ còn cách mở đường máu đào vong.
Lão nghiến răng đánh bạt cây côn của Võ Di Sơn Chủ rồi quay ngoắt lại đối phó với Bạch Ngọc Tiên Tử.
Chẳng cần phải giấu giếm võ công nữa, họ Liễu xuất chiêu Mãn Thiên Tinh Đẩu, kiếm quang hiện rõ những vệt sáng dọc ngang như ngàn sao đang băng qua bầu trời.
Nếu Hao Thiên Kiếm Pháp tầm thường thì Tứ Phạn Thiên Cung đã chẳng nổi danh, cộng với công lực thâm hậu, họ Liêu đã giải phá được chiêu sáo của Bạch Ngọc Tiên Tử. Kiếm chạm Thiết Địch vang lên những âm thanh trong trẻo và thọc mũi vào ngực Lâm Đại Ngọc.
Tiên Tử thất kinh, đảo bộ lùi xa để né tránh Liễu Văn Chiêu như hổ dữ cùng đường, lập tức tung mình xông đến, toan hạ thủ để rộng đường thoát thân.
Nhương Thư thấy lão cụp năm ngón tay của bàn tay tả lại, đặt dưới rốn, liền nhớ ra rằng Đệ Tứ Châu Khanh cũng từng có động tác ấy, và sau đó chàng trứng độc. Chàng vội vung kiếm, xuất chiêu Minh Đăng Thất Hiện, lao vào mé hữu của lão.
Khi kiếm của Liễu Văn Chiêu vừa chạm lưới sáo của Lâm Đại Ngọc thì lão kín đáo vung tả thủ lên. Nhưng Nhương Thư đã đến nơi, trường kiếm vẽ nên bảy bóng ảnh sáng trắng, lung linh như ngọn lửa.
Liễu Văn Chiêu vội xoay kiếm chống trả, điểm liền mười tám thức, nhưng không sao giải phá được tuyệt học Ngũ Đài Sơn Lão rú lên thảm thiết, ngã ngửa ra sàn đày dấy dua, máu từ hai vết thương nơi ngực tuôn như suối.
Quần hùng hân hoan reo cười, không để ý rằng Bạch Ngọc Tiên Tử đã quy xuống vì trứng độc. Nhương Thư đã can thiệp kịp thời nên nàng chỉ hít phải có một ít, song cũng không đứng vững nổi, phải ngồi xuống vận công trục ra ngay.
Nhương Thư cau mày bước đến nói:
- CÔ nương hãy dồn chân khí vào kinh Thủ Thái âm Phế, tại hạ sẽ giúp một tay.
Nói xong, chàng ngồi xuống sau lưng nạn nhân, hữu thủ áp vào Mệnh Môn, tả thủ đặt lên vai trái, ngón trỏ bấm vào huyệt Vân Môn, ở bờ dưới đầu ngoài xương đòn.
Luồng chân nguyên hùng hậu của Nhương Thư trút vào người Tiên Tử như thác lũ, giúp nàng nhanh chóng trục hết dư độc ra ngoài cơ thể theo mồ hôi.
HỔ Hồng Nhan Điền Ngọc Trâm đã lên đến, cầm kiếm đứng cạnh hai người, tư thế thì như hết lòng bảo vệ, mà lòng thì hậm hực, chỉ muốn đâm cho Bạch Ngọc Tiên Tử một nhát chết toi. Nàng trẻ đẹp thế này mà còn mê chàng, huống hồ gì cô ả gái già kia?
Ngọc Trâm ghen cũng phải vì nhan sắc của Lâm Đại Ngọc cũng thuộc hàng nhất lưu và thân thể đương nhiên nẩy nở, hấp dẫn hơn HỔ Hồng Nhan.
Thời gian sao trôi qua quá chậm, phải chăng ả họ Lâm kia đã khoẻ mà cố tình ngồi lì để được kề cận Nhương Thư?
Đúng khắc sau, Nhương Thư mới thu tay về, nhắm mắt điều tức, tái tạo lại số chân nguyên hao hụt.
Bạch Ngọc Tiên Tử thoát chết, quỳ lên bò ra xa một chút rồi quay lại, lạy tạ ân nhân Nhưng nàng không bỏ đi mà cứ quỳ như thế để chờ đợi, mắt dán vào gương mặt nhân từ đôn hậu của chàng trai có đôi tai Phật.
Ngọc Trâm nghe máu ghen dồn lên óc, cười nhạt bảo :
- Thuyết phu thi ân bất cầu báo, cô nương bất tất phải chờ đợi! Hơn nữa, y phục của cô nương đã ướt đẫm và hôi hám, cần phải thay rồi đấy.
Bạch Ngọc Tiên Tử ngửi được mùi dấm chua của ghen tuông, tủm tỉm trả đũa:
- ồi chà! Té ra Tần công tử đây là trượng phu của Điền đại tiểu thư đấy sao?
Thế mà mấy hôm nay ta cứ tưởng Bạch Thúy Sơn mới là rể của họ Điền! Không phải mình ta mà nhiều người cũng hiểu lẩm như thế đấy !
Đòn đau điếng này khiến mặt Ngọc Trâm lúc đỏ lúc tái xanh. Nàng giận dữ nạt:
- Tiện tỳ chớ nói càn!
Bị mạt sát, Tiên Tử đứng phắt dậy, chỉ mặt HỔ Hồng Nhan gằn giọng:
- Thân nhi nữ dù học võ cũng giữ lễ!
Nay nàng buông tuồng nhởn nhơ dạo phố với trai tơ, còn dám mắng người nữa sao?
Nếu không nể Tần công tử thì ta đã xé rách miệng nàng ra rồi!
Ngọc Trâm thẹn quá hóa giận, rút kiếm định chém Tiên Tử thì Tào ưng nhảy vào giữa hai người. Gã lạnh lùng bảo:
- Lâm cô nương nói rất chí lý, sao tiểu thư lại phát tác?
Ngọc Trâm chết điếng khóc lóc:
- Đến Tào ưng đại ca mà cũng nghi ngờ tiểu muội nữa sao? Chẳng qua tiểu muội muốn thử lòng Thúy Sơn để phòng sau này y gặp mặt ba đứa em gái của tiểu muội. Nếu họ Bạch có chút tà ý là tiểu muội sẽ có cớ đuổi đi ngay! Vẻ anh tuấn của Thúy Sơn chính là tai họa cho Nhương Thư đấy!
Tào ưng nghe cũng có lý, gãi đầu nói:
- Sao nàng không nói trước? Hơn nữa, có những việc phải mà vẫn chẳng được phép làm, đi qua ruộng dưa thì chớ cúi xuống sửa giày, để lâm vào cảnh tình ngay lý gian.
Bạch Ngọc Tiên Tử mỉa mai:
- Bắt cá hai tay mà còn giả đò chính chuyên, thúi thực !
HỔ Hồng Nhan chưa kịp nổi tam bành thì Nhương Thư đã đứng lên, ôm nàng vỗ - Ta đã hiểu tấm lòng của hiền muội.
Ngọc Trâm gục vào ngực chàng khóc rấm rức, lòng vô cùng hối hận. Nàng quen thói ngang ngạnh, nghĩ mình đúng là cứ làm nên mới có cảnh này.
Bạch Ngọc Tiên Tử nghiêng mình bái rối nói:
- ơn cứu mạng hôm nay thiếp chẳng dám quên.
Dứt lời nàng nhảy xuống đất đi mất.
Bọn Nhương Thư cũng đã hạ đài được quần hùng xúm lại tán dương.
VÔ ưu Cái khám xác Liễu Văn Chiêu, phát hiện lão có mang mặt nạ, và trong cổ tay tả có dấu một túi the mỏng chứa độc phấn cực mịn.
ông rất hân hoan trước chiến lợi phẩm này, dùng đũa gắp bỏ lọ sành mang về cho các danh y nghiên cứu cách giải độc.
Đã cuối giờ Tỷ nên Hầu bang chủ tuyên bố nghĩ trưa, đầu giờ Thân sẽ đấu trận của Nhương Thư và Quảng Đông Thần Đao Cốc Hậu Nhan.
Cơn trưa được dọn ra, dĩ nhiên không ngon lành bằng tiệc của Chính Khí Trang ngày khai đàn.
Người võ lâm chỉ cần nhiều rượu là đủ nên chẳng hề phàn nàn. Họ vừa ăn uống vừa tranh luận về diễn biến bất ngờ lúc nãy. Dĩ nhiên là họ hết lời ca tụng Tần Nhương Thư, người đã phát hiện ra âm mưu của Tứ Phạn Thiên Cung. Từ nay, thanh danh của chàng lẫy lừng tứ hải, dù có trở thành quyền minh chủ hay không.
Nhưng Nhương Thư đã sớm rời khỏi Lã gia trang, quay lại thành An Dương nghĩ ngơi, thời gian hai canh giờ quá dài để ngồi nghe người khác tán tụng mình.
Bạch Thúy Sơn đã nghe được lời bộc bạch của Ngọc Trâm nên xấu hổn rủ Tào ưng ở lại.
Về đến chỗ trọ, tắm táp và ăn uống xong, HỔ Hồng Nhan chui vào phòng đóng cửa lại, nằm khóc tỷ tê !
Khu phòng dành cho khách nam giới ở khá xa nên Nhương Thư không nghe thấy tiếng khóc, thản nhiên cởi áo ngả lưng cho khó e .
Chẳng lẽ la làng lên để bị dám gia nhân trong nhà biểu huynh cười, Ngọc Trâm nín khóc, cắn môi suy nghĩ một lúc lâu rồi sang phòng Nhương Thư.
Cửa không đóng, HỔ Hồng Nhan bước vào, gài then cẩn thận, đi qua bức bình phong, đến trước giường của tình lang.
Nhương Thư đã ngồi lên, cười hỏi:
- Sao mắt của hiền muội đẫm lệ thế kia?
Điền Ngọc Trâm quị xuống, gục mặt vào gối Nhương Thư mà khóc thút thít.
Nàng mới gội đầu nên mái tóc huyền còn ẩm, buông xõa trên lưng và thoang thoảng mùi hương thơm của hoa lài.
Người ta đã tẩm tinh dầu hoa lài vài những viên bồ kết để thân thể và tóc được thơm tho. Chỉ có những giàu mới dám dùng loại này.
Trễ lắm là vào thời nhà Đường, người Trung Hoa đã biết dùng bồ kết để tắm gội. cách chế biến viên bồ kết rất đơn giản, còn được ghi lại trong bản thảo cương mục của danh y lý thời Trân Triều Minh: "Tháng mười hái bồ kết về, đun chín, giã nát, hòa với bột mì trắng và hương liệu rồi viên lại ! " Nhương Thư vuốt tóc nàng rồi đỡ lên, đặt ngồi vào lòng. Thân hình mềm mại, ấm nóng và ngát hương của Ngọc Trâm đã khiến tâm hồn chàng lâng lâng một cảm giác hạnh phúc diệu kỳ.
Chàng ở trần để lộ thân trên săn chắc, bắp thịt không nở nang nhưng nắm lại thành múi rất rõ. Người học võ, ngoài việc luyện nội công còn phải nâng cao sức chịu đựng của cơ bắp và khung xương. Ví như kẻ bẩy đá, dù khỏe mạnh mà dùng đòn bằng gỗ nhỏ, yếu thì thất bại vì đòn bị gậy.
Tóm lại, các đại cao thủ đều kiêm thông nội công và ngoại công! Nhương Thư cũng vậy nên cơ thể rất đẹp, khiến cho Ngọc Trâm bị quyến rũ, dù đầy những vết thương chưa liền miệng. Nàng chìm dần vào trạng thái say đắm, run rẩy vuốt ve bờ ngực trái của chàng.
Nhương Thư có định lực rất thâm hậu, nhờ trai giới suốt mười mấy năm ròng, tuy xao xuyến nhưng vẫn không nổi tà tâm.
HỔ Hồng Nhan mỗi lúc thêm háo hức, nhìn chàng đắm đuối và đỏ mặt thì thầm:
- Đại ca! Tiểu muội xin dâng hiến để chứng tỏ lòng mình.
Nhương Thư mỉm cười:
- Nàng chứng tỏ tình yêu bằng cách ấy chỉ tổ khiến ta kiệt lực, tứ chi bải hoải, làm sao chiều nay có sức mà thượng đài?
Ngọc Trâm thẹn chín người, nhe răng cắn vào vai Nhương Thư rồi hờn dỗi bỏ về phòng mình.
Giữa giờ Mùi, hai người lên ngựa đi đến Lã gia trang. Được vài dặm, đường quan đạo nhỏ xuyên qua cánh rừng Hoàng Đàn già nua, vươn ra đến gần giữa lộ, tỉa mùi thơm thoang thoảng.
Hoàng Đàn thuộc họ long não, là loài thân gỗ lớn, thường xanh, thu về không rụng lá như ngô đồng. Chính vì thế, lữ khách khó có thể nhận ra những tên thích khách mặc y phục xanh lục ẩn mình trên cây May thay, do giận dỗi nên HỔ Hồng Nhan chẳng thèm chuyện trò với Nhương Thư, giả đò ngắm nghía phong cảnh.
Nàng tức tối và hổ thẹn vì đã lở miệng hiến thân cho gã ngốc kia, để bẽ mặt vì bị chỗ i từ ! . . . Dù rằng, lòng nàng rất khâm phục nhân phẩm của Nhương Thư, nếu là nam nhân khác thì chẳng mèo nào chê mỡ! Là nàng chợt nghĩ đến cảnh bụng mình to ra khi chưa cưới hỏi liền bật cười khúc khích! Rồi ánh mắt nàng chạm phải một đống lù lù trên tán cây bên đường, kinh hãi thét lên:
- Đại ca! Coi chừng mai phục!
Cả hai gò cương, rút kiếm phòng thân.
Thấy đã bị lộ, bọn thích khách đành nhảy xuống, chạy đến tấn công. Chúng đông độ hai chục tên, toàn thân phủ kín bàng vải màu xanh lá, chỉ chừa hai lỗ mắt, tay lăm lăm kiếm tuốt trần, chẳng hiệu thuộc bang hội nào?
Nhương Thư quắt mắt nói mau:
- Trâm muội cứ tìm cách thoát đi trước, để ta đoạn hậu cho.
HỔ Hồng Nhan lắc đầu:
- Không ! Uyên ương sống chết c Où đô i !
Dứt lời, nàng thúc gót giầy vào bụng ngựa, tuấn mã chồm lên, lao vào hàng ngũ đối phương. Nhương Thư cũng phải bám theo ngay.
Đôi ngựa phi song song nên mỗi người chỉ phải đề phòng một phía, và trước mặt.
Nhương Thư nhoài người vung kiếm chém vào một tên vừa áp sát. Gã cử gươm đỡ đòn, nào ngờ nhát kiếm kia nặng tựa nghìn cân, lại từ trên cao giáng xuống, đã đánh văng vũ khí của gã, tên sát thủ chưa kịp thoái hậu thì mũi kiếm đối phương đã biến thế đâm thủng trán.
Bên kia, HỔ Hồng Nhan cũng đả thương được một gã, hứng chí tiến lên.
Nhưng bọn phục binh đã vung tay phóng ám khí như mưa, khiến Nhương Thư và Ngọc Trâm phải loang kiếm bảo vệ châu thân Họ không thọ thương nhưng đôi ngựa hí lên não ruột, khuỵu xuống vì chân cắm đầy những mũi phi tiêu tẩm độc Phi tiêu là loại ám khí rất phổ biến, chế tạo dễ dàng và thủ pháp phóng cũng không khó. Nó cấu tạo bởi một đoạn thép dẹp, nhọn, dài nửa gang, đuôi cột chùm tơ để luôn bay thẳng. Chùm tơ ấy có tác dụng như những cái cánh ở đuôi trường tiễn. Nhờ thế, bất cứ ai cũng có thể phóng phi tiêu sau hơn tháng luyện tập.
Tiếng ngựa hí bi thương kia dường như đã đánh thức một kỷ niệm đẫm máu trong quá khứ của Nhương Thư! Ngày ấy, bọn bịt mặt cũng đã dùng ám khí đánh đòn phũ đầu, giết chết tuấn mã của cha chàng, khiến ông phải cõng chàng mà phá vây.
Sau này, khi điều tra ra lai lịch của Nhương Thư, Phật Đăng Thượng Nhân đã đến Trường Sa rước thân mẫu chàng đi Ngũ Đài Sơn sum họp. Chính bà cũng không biết vì sao có kẻ lại muốn giết một kiếm sĩ chưa thành danh như Tần Tử Chính?
Cái chết oan uổng, đầy nghi vấn của ông đã khiến kỷ niệm xưa càng hằn sâu tâm hồn Nhương Thư. Giờ đây, sát khí phủ mờ gương mặt nhân hậu và mắt chàng lập lòe những tia oán độc.
Nhương Thư lại biến thành kẻ say máu, phóng tay chém giết. Nhưng trong phe đối phương có đến sáu, bảy cao thủ, bản lãnh tương đương hoặc hơn Thiết Kình Ngư.
Chỉ sau vài chiêu, chàng đã nhận ra gốc tích phe địch. Những sóng âm quái dị đang công phá màng nhĩ chàng chính là đặc tính của Huyết Tâm Kiếm Pháp.
Vậy là Lã Tập Hiền quả thật đã trở thành giáo chủ Huyết Tâm Giáo. Lão e ngại Nhương Thư nên cho thủ hạ diệt trừ, hoặc để tìm hiểu xem chàng có kháng cự nổi ma thanh như Phật Đăng Thượng Nhân hay không?
Năm xưa, Huyết Tâm Đế Quân vong mạng, tan nát cơ đồ cũng vì có kẻ giỏi nghề giả điếc như Phật Đăng!
Tuy tận mắt chứng kiến Nhương Thư phải lấy máu đổi mạng Hạt Nhãn Thần Ma, tức bản lãnh kém xa mình, song họ Lã vân chưa yên tâm! Trong võ lâm, không ai biết chắc pho kiếm pháp Phật Đăng có bao nhiêu chiêu, dường như cứ mỗi lần đụng phải đi thủ cao cường hơn là Thượng Nhân lại ló ra một chiêu ảo diệu hơn.
Phật Đăng là bậc kỳ tài trong võ học, đã dựa trên sở học Ngũ Đài Sơn mà sáng tạo ra Phật Đăng Kiếm Pháp và Nhiên Đăng Kiếm Pháp, khiến cả võ lâm đê đầu bái phục!
Nhiên Đăng Chân Khí màu nhiệm vô song, giải trừ bách độc và các thứ tà pháp trên đời. Nhơ thiên bẩm và Quỷ Nấm, Nhương Thư đã luyện xong lớp thứ bảy của thần công, nên không chết bởi VÔ Hình Chi Độc và xem thường ma âm của Huyết Tâm Giáo.
Chàng dồn công lực tạo thành màn cương khí bảo vệ toàn thân, nhảy xổ vào gã sát thủ đối diện. Gã không ngờ đối phương chẳng hề hấn gì trước sáu đạo ma âm, kinh hãi cử kiếm đón chiêu.
Có thể nói rằng khi rơi vào trạng thái khát máu, đường kiếm của Nhương Thư lợi hại hơn bình thường. Những chiêu kiếm nhu hòa đã biến hóa theo hướng hiểm độc, không chừa một vị trí nào!
ánh mắt dã thú của Nhương Thư đã khiến đối thủ rợn mình, song mũi kiếm của chàng mới mang đến sự chết chóc.
Chiêu Nghiệp Chướng Nan Đào chỉ có mười tám thức, đơn giản nên nhanh như chớp giật, trổ một lỗ lẻ loi trên ngực trái nạn nhân.
Đồng đảng của gã đâu chịu đứng im, ba tên liên thủ uy hiếp hậu tâm và tả hữu của Nhương Thư. Đối với kiếm thủ thượng thừa, vũ khí chẳng bao giờ lưu lại trong xác chết quá lâu, nên kiếm của Nhương Thư đã sớm rút về, hóa thành chiếc tán che thân.
Không chỉ đơn giản là dỡ đòn, mà là chiêu Dạ Xoa Tán Hoa, rải muôn nghìn đóa kiếm ảnh chặn đứng ba lưỡi kiếm kia và trùm lấy tên mé hữu. Gã cắn răng giữ tấn trụ lại chứ không lùi, loang kiếm tự vệ, hy vọng hai đồng bọn giải vây.
Lòng dũng cảm của gã đã thành vô ích vì Nhương Thư vừa thọc kiếm vào bụng dưới của gã xong là đề khí bốc lên cao ngay. Lưng chàng vướng kiếm đau rát nhưng không sâu, vẫn hung hãn sà xuống tấn công hai đối thủ của HỔ Hồng Nhan ở gần đấy Hành động bất ngờ này đã thu được lãi to, Nhương Thư dễ dàng rạch đứt gáy hai gã xấu số, giải tỏa bớt áp lực cho Ngọc Trâm.
HỔ Hồng Nhan nãy giờ chiến đấu kiên cường, tóc tai rũ rượi, y phục vương đầy máu của ba gã áo lục thuộc hàng tốt đen, và bờ mông trái mơn mởn của nàng đã bị phe đối phương đâm thủng.
Vết thương ở phần thịt mềm nên không đau đớn lắm, chỉ chảy máu nhiều và khiến HỔ Hồng Nhan tức giận, lo lắng.
Đối với nàng, một vết sẹo dù ở chỗ nào cũng làm giảm đi nhan sắc khuynh thành.
Do vậy, khi được Nhương Thư sát cánh, nàng hùng hổ lao vào hàng ngũ địch để trút hận.
Tuy nhiên, có lẽ vì quá khiếp đảm kiếm pháp của Nhương Thư nên mười hai tên còn sống sót thay đổi đấu pháp.
Chúng vây chặt lấy hai người, khi kẻ nào bị tấn công thì hai gã bên cạnh lập tức liên thủ chống chọi, và cùng lùi lại. Nhờ vậy, chúng giảm thiểu được thương vong, cầm chân đối thủ.
Ngọc Trâm thức ngộ ra, la lên:
- Đại ca! Chúng không muốn ta đến đại hội kịp giờ!
Nhương Thư gật đầu:
- Nàng hãy bám sát ta mà phá vây!
Dứt lời, chàng dũng mãnh xông lên, tiếng kình rít lên như tiếng xé lụa, kiếm quang loang loáng dưới ánh nàng gắt làm hoa mắt người.
Nhương Thư đã dồn hết công lực thi triển phép khoái kiếm đến độ chót để mở đường máu. Chàng giết liến hai gã dại dột cản đường, đả thương thêm hai gã nữa, phá thủng vòng vây, dẫn htr đào thoát Bọn sát thủ kinh tâm táng đởm không dám có ý định duỗi theo, rút cả vào rừng.
Chạy được hai dặm, Ngọc Trâm nói:
- Đại ca! Chúng ta ghé vào rừng băng bó vết thương chứ! Chẳng lẽ để thế này mà chường mặt trước mấy ngàn người?
Nhương Thư gật đầu, cùng nàng rẽ phải vào rừng Hoàng Đàn, đến chỗ có suối nước liền dừng lại, chàng nóng ruột vì sợ trễ nên nói ngay:
- Nhanh tay lên, không thì trễ mất !
Ngọc Trâm thẹn thùng:
- Đại ca nhắm mắt lại đi!
Nhương Thư bật cười:
- Nhắm mắt làm sao thấy đường chăm sóc vết thương? Lúc trưa thì nồng nhiệt mà giờ thì bẽn lẽn, thực là khó hiểu!
HỔ Hồng Nhan đỏ mặt càng bội phần xinh đẹp Nhương Thư động lòng, bước đến cởi giải thắt lưng hộ nàng. Ngọc Trâm chỉ còn cách nhắm mắt để mặc chàng hành động, giọt lệ thẹn thùng ứa ra.
Đứng phơi trên bờ e không tiện, Nhương Thư bồng nàng mà đi xuống dòng suối, chọn chỗ nước xâm xấp đến mông, đặt Ngọc Trâm đứng xuống.
Thấy vết thương chẳng đáng gì, chàng cười bảo :
- Vết rách không sâu, tắm xong băng cũng được ! Nàng tự cởi áo hay nhờ ta?
Một liều ba bảy cũng liều, Ngọc Trâm mở mắt, cởi bỏ chiếc áo đầy máu, chỉ còn lại yếm đào.
Dường như, sau mỗi lần bị kích động bởi cơn say máu, định lực của Nhương Thư giảm đi. Chàng say đắm bước đến hôn hít, vuốt ve gương mặt và thân hình ngà ngọc của mỹ nhân! Yếm đào cũng sớm trôi theo gióng nước suối!
HỔ Hồng Nhan rạo rực, ngất ngây ôm lấy tình lang, lát sau nàng sực tỉnh, khẽ nhắc:
- Đại ca! Sắp đến giờ Thân rồi!
Nhương Thư chỉ gật đầu mà chẳng chịu buông, định gầy cuộc ái ân. Ngọc Trâm bắt đầu sợ, nhắc thêm:
- Tiểu muội không tiếc thân nhưng chiều nay chàng còn thượng đài nữa!
Nhương Thư cười mát:
- Dầu có hai lão Quảng Đông Thần Đao ta cũng chấp!
Tuy nói thế nhưng chàng đã kiềm chế được dục vọng, bồng nàng lên. Hai người xức thuốc kim sang cho nhau, mặc lại y phục ướt rồi lên đường. May mà họ đã ném chúng lên bờ.
Trong lúc ấy, đại hội võ lâm xôn xao vì sự vắng mặt của Nhương Thư. VÔ ưu Cái nhấp nhổm như ngồi trên bàn chông.
Qua đầu giờ Thân chừng nửa khắc, Lã Tập Hiền lên tiếng:
- Có lẽ Tần công tử đã bỏ cuộc! Xin hội đồng võ lâm tuyên bố Quảng Đông Thần Đao thắng trận này!
Bạch Thúy Sơn vội lên tiếng bênh vực:
- Lã trang chủ sợ y hay sao mà lại gấp thế? ít ra cũng phải chờ đúng một khắc rồi sẽ tính!
Quần hùng yêu mến Nhương Thư nên lên tiếng tán thành! Thời gian nặng nề trôi qua theo làn gió nhẹ của cây hương trên bàn giám đài. Nó vừa cháy đến vạch một khắc thì Quảng Đông Thần Đao Cốc Hậu Nhan lạnh lùng nói:
- Mong ban giám đài giữ đạo công bằng cho! Nếu không, Cốc mỗ chẳng để yên đâu!
VÔ ưu Cái rầu rĩ rời bàn, đi ra giữa đài, chuẩn bị tuyên cáo. Nào ngờ, từ phía ngoài cổng trang vọng vào tiếng quát trầm hùng:
- Khoan đã!
Hầu bang chủ thở phào, mặt tươi tỉnh hẳn lên. Nhương Thư và Ngọc Trâm vào đến nơi, y phục rách rưới và ẩm ướt, khiến mọi người ngỡ ngàng.
có kẻ nói đùa:
- Chắc đôi uyên ương này mãi mê quần thảo với nhau nên quên cả giờ giấc!
Cử tọa phát lên cường hô hố, khiến Ngọc Trâm đỏ mặt ngượng ngùng. Họ đã nói đúng một phần sự thật nên nàng không thể cãi! Nếu hai người không ôm ấp nhau dưới suối thì đâu đến nỗi trễ!
Nhương Thư phi thân lên đài, vòng tay nghiêm giọng:
- Kính cáo ban giám đài và chư vị đồng đạo! Tại hạ gặp mai phục ở cánh rừng Hoàng Đàn nên mới chậm chân!
Toàn trường sửng sốt Oà lên phẫn nộ khi Nhương Thư cởi áo để lộ vết thương dài sau lưng.
Một tay có lòng thương hương tiếc ngọc nào đó đã tỏ dạ quan tâm:
- Tần công tử mà còn thọ thương thì chắc Điền tiểu thư khó toàn vẹn.
Ai đó mừng rỡ thét lên:
- Ta thấy rồi! Quần của nàng bị rách ở mông !
HỔ Hồng Nhan vội quấn chặt áo choàng, ngồi gục đầu xuống bàn, chẳng dám ngẩn lên, chết lịm vì tiếng cười diễu cợt của mấy ngàn gã nam nhân khả Oá !
VÔ ưu Cái ra hiệu cho họ im rồi hỏi:
- Tần công tử có nhận ra lai lịch của họ hay không?
Nhương Thư gật đầu, chậm rãi đáp, nhấn mạnh từng chữ:
- Huyết... Tâm.. Giáo...!
Bọn thanh niên không biết nhưng đám võ sĩ già đều tái mặt, xầm xì bàn tán.
Ngọc Trâm giật mình ngẩng lên vì nghe giọng thánh thót ngọt ngào của Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Đại Ngọc:
- Công tử có chắc không? Và vì sao họ lại chặn đường chàng?
Đây cũng là thắc mắc chung nên toàn trường im lặng lắng nghe. Nhương Thư điềm đạm đáp:
- Quyết Tâm Kiếm Pháp phát ra tà âm công phá não bộ đối phương qua đường thính giác, đặc điểm này thì ai cũng biết! Còn về lý do khiến họ muốn giết tại hạ chính là vì chức danh quyền minh chủ võ lâm!
Chàng không thể chỉ mặt tố cáo Lã Tập Hiền vì nhân chứng duy nhất là Hoàng Nghi Tuyệt đã bỏ đi. Gã bị hại bởi ma âm mà không biết đấy là sở học của Huyết Tâm Giáo. Nếu gã có mặt, tất sẽ làm chứng rằng Lã Tập Hiền đã đả bại mình bằng một thứ âm thanh quái dị.
Song như thế cũng đủ để quần hùng nghi ngờ họ Lã và hai ứng cử viên còn lại là Quảng Đông Thần Đao và Võ Di Sơn Chủ!
Lã Tập Hiền phá lên cười khanh khách:
- Ngươi quả là khéo ngậm máu phun người! Huyết Tâm Đế Quân đã chết và biệt tích gần ba mươi năm, làm gì còn nữa?
Nhương Thư không phải là người giỏi khẩu chiến liền im tiếng, quay sang vái Quảng Đông Thần Đao:
- Tại hạ đã khiến Cốc đại hiệp phải chờ lâu, thật đắc tội!
Họ Cốc tươi cười hỏi:
- Tần thiếu hiệp đã thọ thương, liệu có giao đấu được không?
Nhương Thư gật đầu, rút kiếm chào rồi thủ thế. Cốc Hậu Nhan cũng rút bảo đao chờ đợi, vì đối phương được quyền xuất chi êu trước .
Không thù, không oán, Nhương Thư chậm rãi lướt đến tấn công, bằng một chiêu rất ôn hòa. Họ Cốc giải phá dễ dàng, đáp lễ bằng những đường đao đơn giản, dường như muốn thăm dò sở học của đối phương.
Lát sau, vết thương nơi lưng Nhương Thư bật máu khiến chàng phải dấy nhanh tốc dộ trận đánh, kết liễu sớm để còn băng lại.
Quảng Đông Thần Đao Cốc Hậu Nhan đang ở tuổi tứ thập, tướng mạo mập mạp, mặt phúng phính phúc hậu. Gã mở trường dạy võ ở Các Châu, đệ tử đông đến gần ngàn, tính tình hào sảng được xem là bậc hiệp sĩ.
Do vậy, Nhương Thư không có ý định máu lan nhanh. Dĩ nhiên, chân khí chàng giảm sút mau chóng, đường gươm mất uy lực, lúc này Cốc Hậu Nhan bắt đầu phản công quyết liệt, giáng những đòn như sấm sét Nụ cười vẫn nở trên môi, song ánh mắt gã thấp thoáng những tia ác độc.
Nhương Thư thức ngộ rằng mình đã trứng độc của Quảng Đông Thần Đao, một kẻ phật diện xà tâm! Chàng cố nén phẫn nộ, đứng im vận khí trục độc, điều khiển trường kiếm bằng sức mạnh của cơ bắp.
Nhiên Đăng Tâm Pháp mầu nhiệm ở chỗ có thể điều tức bằng mọi tư thế, dù đứng, nằm hay đang bước .
Quần hào kinh ngạc khi thấy cục diện trận đấu đã hoàn toàn đảo ngược. Giờ đây, Nhương Thư yếu ớt như cây liễu ngả nghiêng trước gió, di chuyển những bước thật ngắn, cố chống chọi với cơn bão thép của đối phương.
Nhưng cũng chính lúc này mới thấy được hết trình độ kiếm thuật siêu phàm của Nhương Thư. Đường kiếm của chàng không nhanh, không mạnh nhưng cực kỳ chuẩn xác, mỗi nhát kiếm đều nhắm đúng sơ hở trong nước đao, khiến họ Cốc khiếp vía phải bỏ lỡ chiêu công mà chống đỡ.
Kỳ diệu ở chỗ là kiếm của chàng chẳng hề chạm vào đao, nếu không đã bị đánh văng ra.
Tuy nhiên, Nhương Thư cũng chẳng phải là hoàn toàn lành lặn. Lưỡi đao của họ Cốc đã rạch mười mấy đường trên vai, ngực bụng, đùi Nhương Thư, dẫu chỉ rách da nhưng cũng đủ khiến chàng tả tơi, thê thảm, y phục đứt nát.
Ngọc Trâm đau lòng khóc ngất và gọi vang:
- Đại ca chịu thua đi!
Quần hùng và các chưởng môn ngơ ngác, không hiểu điều gì đang xảy ra. Khi cây nhang cháy gần đến giới hạn hai khắc thì VÔ ưu Cái mới thức ngộ được ẩn tình, thất thanh:
- Nhương Thư trứng độ c !
Khánh Hỉ đại sư liền vận thần công Sư Tử Hống quát vang như sấm :
- Dừng i ay !
Quảng Đông Thần Đao Cốc Hậu Nhan còn kém xa Hạt Nhãn Thần Ma nên giật bắn mình, tay chân bủn rủn. Đúng lúc này, Nhương Thư ập đến xuất chiêu Tu La Hiến Bảo, mũi kiếm hóa thành chín đốm sáng, rực rỡ như châu ngọc.
Họ Cốc cố gượng lùi lại và cử đao đỡ gạt nhưng không còn kịp nữa. Gã rú lên thê thiết, buông đao ôm ngực, lảo đảo quy xuống.
Nhương Thư cũng buông gươm ngồi xuống sàn lôi đài, xếp bằng trục nốt dư độc Dầu sao thì ngồi kiết già vẫn hơn.
Phổ Chứng thiền sư, chưởng môn phái Nga Mi, vội rời bàn, bước đến ngồi xuống sau lưng chàng, truyền công hỗ trợ Người thân của Nhương Thư đã nhảy lên vây quanh, gồm Ngọc Trâm, Tào ưng, Thúy Sơn và... Bạch Ngọc Tiên Tử.
VÔ ưu Cái thì cùng ba vị chưởng môn kia đến cạnh xác Cốc Hậu Nham khám xét Quảng Đông Thần Đao không mang mặt nạ nhưng trong chùm tơ xanh ở chuôi đao lại có giấu một túi the nhỏ chứa chất độc, còn trong thắt lưng lại giấu mảnh ngọc bội hình trái tim bằng mã não đỏ, trên khắc bốn chữ: Nam Đường đường chủ!
VÔ ưu Cái thở dài nói nhỏ:
- Có thể là Huyết Tâm Giáo và Tứ Phạn Thiên Cung đã liên kết với nhau!
Dã tâm của Lã Tập Hiền thật đáng sợ!
Nhưng không có cách gì để chứng minh, bốn vị chưởng môn đành trở về bàn giám đài để thương lượng, tính toán.
Ba khác sau Nhương Thư mới thoát hiểm hoàn toàn. Chàng nghiêng mình vái tạ Phổ Chứng thiền sư:
- Đệ từ đội ơn thiền sư đã ra tay tế độ !
Phổ Chứng cười hiền:
- Sao lại xưng hô như thế? Ngươi phải gọi ta là sư huynh mới đúng chứ!
Nga Mi, Thiếu Lâm, Phật Quang đều là chùa thiền tông, có quan hệ rất mật thiết, thường qua lại thăm hỏi và bàn luận bàn luận kinh điển. Nhương Thư là sư đệ của trụ trì chùa Phật Quang, vì Phật Đăng Thượng Nhân là sư thúc của Chân Không đại sư! Mà Phổ Chứng thì ngang hàng với Chân Không, ở vai sư huynh của Nhương Thư là phải.
Nhương Thư mỉm cười:
- Phật huynh để râu dài bạc trắng nên tiểu đệ ngượng miệng.
Quần hùng chưa rõ sự việc nên nhao nhao hỏi han:
- Tần công tử! Phải chăng lão họ Cốc kia đã phóng độc?
Nhương Thư quay xuống, vòng tay đáp:
- Thưa phải ! Lão ta dùng chất độc đặc biệt, ngửi thì không sao nhưng gặp vết thương là theo máu mà xâm nhập.
Trong cử tọa cũng có người trí giả, người này đưa ra cao luận:
- Lão phu cho rằng đây là bước tiếp theo của trận mai phục mà công tử đã gặp! Đối phương không hy vọng giết được công tử, chỉ mong cầm chân, hoặc gây thương tích để Quảng Đông Thần Đao hoàn tất âm mưu!
Mọi người rất khâm phục suy luận ấy, và có kẻ đã nhận ra lai lịch bậc cao nhân, mừng rỡ gọi vang:
- Bất Trí Thư Sinh!
Tuy mang danh Bất Trí nhưng Cao Trườngtoản lại là người thông minh tuyệt thế, kình địch số một của Ngọa Long Tú Sĩ.
Họ Cao năm mươi lăm tuổi, trước giờ ẩn cư ở núi Tử Kim, đất Tứ Xuyên. Lão mang tướng ngũ bộ, xấu xí, thô kệch, dung mạo kém xa Ngọa Long Tú Sĩ, nhưng tài cán thì chưa biết ai hơn ai?
Bất Trí Thư Sinh tinh thông tam giáo, mặc áo học trò nhưng thông hiểu cả Đạo Tạng lẫn kinh điển nhà Phật. Lão thường đến những chùa lớn, cùng các bậc cao tăng đàm đạo về phật pháp, biểu lộ một trí tuệ siêu phàm, khiến ai cũng phải kính phục.
Cao Trường Toàn cũng tìm đến các phái đạo giáo như Võ Đang, Hoa Sơn, Thiên Sư, Toàn Chân. . . mà học hỏi tư tưởng Lão Trang. Thực ra, họ Cao còn giỏi hơn bọn đạo sĩ, làm họ kinh ngạc, lắc đầu Cao Trường Toàn còn là bạn vong niên của bang chủ Cái Bang, xưng hô là huynh đệ mà kính nhau như bằng hữu! Nay họ Cao đột nhiên xuất hiện chốn này, Hầu MỘ Thiên mừng rỡ gọi:
- Cao hiền đệ! Ngươi mau lên đây ngồi với bọn ta!
Bốn chưởng môn kia cũng mời mọc nên Bất Trí Thư Sinh đành tuân mệnh.
Trong lúc ấy, bọn gia nhân Lã gia trang dọn dẹp lôi đài, mang xác Quảng Đông Thần Đao ra phía sau. Phần Nhương Thư thì được đưa vào chỗ kín đáo để chăm sóc vết thương.
Thiết Kình Ngư Tào ưng cau mày bảo:
- Điền tiểu thư hãy tránh mặt để ta và Thúy Sơn làm được rồi! Nàng là gái ở đây không tiện.
Chẳng lẽ khai ra rằng mình và Nhương Thư đã từng lõa thể ôm ấp nhau, Ngọc Trâm đành b Où di .
Bạch Thúy Sơn cứ đứng im như phỗng khiến Tào ưng bực bội nạt:
- Sao không phụ ta cởi y phục của công tử?
Thúy Sơn vội bước đến, dùng kiếm cắt quần, gỡ những mảnh vải tang thương ra khỏi các vết thương.
Lát sau, cơ thể của Nhương Thư chẳng còn chút gì che đậy, lồ lộ trước ánh mắt ngượng ngùng của Vạn Lý Thần Điêu. Gã đỏ mặt, hổ thẹn đến nỗi run tay. Tào ưng phì cười:
- Nam nhân với nhau có gì mà ngươi phải xấu hổ! Sẽ có ngày đến lượt ngươi phải thọ thương thì cơ thể cũng phơi ra thôi Họ Tào xách vò rượu năm cân lấy từ bàn tiệc, mở nắp rồi nói tiếp:
- Ta sẽ rưới rượu lên thương tích, còn ngươi dùng vải sạch lau hết máu me đi.
Thúy Sơn líu ríu tuân lệnh, nhưng run như cầy sấy Gã cắn răng lau chùi huyết tích, không dám nhìn vào dương vật của Nhương Thư.
Tào ưng còn cười khà khà, tấm tắc khen:
- Tần công tử có thân hình rắn chắc và thần thương thật dễ nề! Ai mà làm vợ công tử thì phúc bảy mươi đời!
Nhương Thư cũng hơi ngượng ngùng nhưng không để lộ ra. Chàng chỉ cười đáp:
- Ai mà chả thế, chúng ta là võ sĩ mà!
Tào ưng bác ngay:
- Không phải ! Như gã họ B ạch này tuy là đệ tử danh gia, có đến ba mươi năm công lực mà thân hình gầy ốm, mảnh khảnh, cơ bắp nhỏ xíu, có gì đẹp đâu.
Bạch Thúy Sơn lí nhí biện bạch:
- Ta ghét vẻ vai u thịt bắp nên không luyện ngoại công.
Tào ưng mỉa mai:
- Ngươi lười biếng thì có! Sau này khi lâm vào hoàn cảnh tương tự như Tần công tử, làm sao có đủ sức cầm vững kiếm mà chống chọi.
Thúy Sơn lặng im không dám cãi, chăm chú làm việc! Thấy các vết thương phía trên đã sạch máu và rượu bẩn còn dính đầy hạ thể của Nhương Thư, Tào ưng nói:
- Gi Ơø rửa đến phần dưới !
Thúy Sơn run bắn người, ấp úng:
- Ta không làm được đâu !
Nhương Thư cũng thấy kỳ:
- Để ta tự rửa cũng được !
Tào ưng liền trao vò rượu cho Thúy Sơn:
- Ngươi hãy đổ rượu để c ông tử rửa ! Ta đi tìm chưởng môn phái Hoa Sơn xin thuốc kim sang! Sinh nhục tán của họ tốt nhất võ lâm!
Thúy Sơn máy móc đưa tay nhận lấy vò rượn, ngẩn ngơ như người trong mộng, nhìn theo bước chân của họ Tào.
Luật âm dương chi phối vạn vật, trong dương có âm và ngược lại. Do vậy, một số nam nhân lại giàu nữ tính, không đến mức đồng tình luyến ái nhưng rất hay xấu hổ trước người cùng phái.
Nhương Thư hiểu điều ấy nên an ủi Thúy Sơn:
- Bạch hiền đệ chớ quá mềm yếu như thế! Đã dấn thân vào giang hồ là phải cứng cỏi, dầy dạn. Người không bỏ được tính cả thẹn thì sẽ mất dần tính nam nhi đấy! Chúng ta là huynh đệ chứ đâu phải xa lạ.
Thúy Sơn thở dài, hít một hơi lấy dũng khí, nâng và đổ rượu vào chỗ kín của Nhương Thư. Họ Bạch cúi gầm mặt nên chàng không thể nhìn thấy ánh mắt kỳ quái của gã.
Tào người đã trở lại, hớn hở vì xin được thuốc quý. Gã cẩn trọng rắc loại thuốc bột màu xám kia lên thương tích của Nhương Thư.
Chư vị độc giả đọc truyện võ hiệp sẽ thường thấy nhắc đến linh đan trị nội thương và thuốc kim sang dùng ngoài da của bọn khách giang hồ. Thực ra, loại này đều có chung một dược vị chính, đó là sâm tam thất !
Tam thất cùng họ với ngũ gia bì, là loài thân thảo, sống nhiều năm, tác dụng dược lý của nó và nhân sâm không hoàn toàn giống nhau, nhưng hình thái thì tương tự, nên gọi là sâm tam thất.
Tam thất có thân rễ thịt bò ngang, đầu thân có lá hẹp hình bàn tay xòe mọc rộng, mùa hạ ra hoa nhỏ màu vàng lục nhạt.
Loài dược thảo quý này mọc ở Vân Nam, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Tây Tạng của Trung Hoa, và có cả ở việt Nam và miền Bắc ấn Độ!
Tam thất rút ngắn thời gian đông máu, tăng thêm tiểu cầu, làm liền vết thương, giảm đau, tan chỗ bầm sưng nên trở thành thuốc kim sang.
Ngoài ra, bột tam thất còn có tác dụng làm tan hòa khối trong máu, chủ trị té ngã, dập thương và các chứng xuất huyết nội. Người té ngã từ trên cao xuống, cả người bầm tím, sưng vù đau đớn, hoặc bị đánh hộc máu tươi, dùng bột tam thất mà trong uống ngoài thoa là thoát hiểm.
Tóm lại, người học võ đã dùng bột tam thất làm dược vị chủ yếu trong thuốc trị nội, ngoại thương. Tùy theo trình độ y thuật của từng phái, người ta thêm vào một ít những dược vị khác để làm tăng công dụng.
Sinh Nhục Tán của Hoa Sơn cũng bào chế bằng bột tam thất, song nhờ phối hợp chung trong một toa bí truyền, nên diệu dụng như thần, nổi tiếng võ lâm.
Nhương Thư khoan khoái nghe vết thương mát rượi và chẳng còn đau đớn, và Thúy Sơn dùng những dải vải sạch quấn chặt thân thể chàng, Nhương Thư hỏi:
- Trận so tài giữa Lã Tập Hiền và Võ Di Sơn Chủ sao rồi?
Ĩ ào ưng đáp :
- Lúc Tào mỗ vào đến thì họ vừa nhập cuộ c !
Nhương Thư lộ vẻ lo lắng:
- Tội nghiệp cho Võ Di Sơn Chủ, ta sợ rằng ông ta không thoát khỏi độc thủ của họ Lã! Tập Hiền nhất định sẽ giết lão để diệt khẩu, để che giấu việc thi triển ma am.
Quả đúng như chàng dự đoán, tiếng thét lìa đời thảm khốc của Từ Bạch âu đã vọng đến, ngay lúc Nhương Thư vừa mặc xong y phục. Chàng đã phải mượn áo quần của Thiết Kình Ngư.
Ba người rời khỏi vườn hoa, phi thân trở lại khu lôi đài, đau lòng nhận ra Võ Di sơn chủ đã toi mạng. Nhương Thư phẫn nộ nhảy lên lôi đài, nhận ra đôi mắt họ Từ trợn trừng, đầy vẻ oan khuất.
Chàng vuốt mắt cho lão rồi thầm khấn:
- Tại hạ thề sẽ báo thù cho lão bá!
Chàng đứng lên, chỉ vào mặt Lã Tập Hiền và mắng:
- Quân cẩu tặc! Lão lấy được Huyết Tâm Lệnh Kỳ, luyện thành Huyết Tâm Kiếm Pháp, âm mưu đoạt ngôi minh chủ, dùng tàn dư Huyết Tâm Giáo để thống trị võ lâm! âm mưu ấy đã bị lộ rồi, khôn hồn thì bẻ kiếm qui ẩn đi, ta không để lão đắc ý đâu !
Tuy không có bằng chứng song cũng đủ để lòng người chấn động, nghi ngờ và chán ghét Lã Tập Hiền. Vả lại, họ đâu có mù mà không thấy việc Võ Di Sơn Chủ đột nhiên xuống sức trong lúc giữ thế quân bình?
Toàn trường xôn xao, nói lên nhận xét của mình. Riêng Bạch Ngọc Tiên Tử thì phản ứng rất gay gắt. Nàng nhảy lên lôi đài, vòng tay nói:
- Kính cáo võ lâm! Kể từ nay Lâm Đại Ngọc không còn là người của Chính Khí Trang nữa !
Quần hùng liền vỗ tay hoan hô sự thức tỉnh của nàng. Lã Tập Hiền giận run, không ngờ sự có mặt của Nhương Thư lại khiến cơ đồ của lão sắp tan tành. Khi chuẩn bị khởi nghiệp, lão không hề tính đến gã đồ đệ của Phật Đăng Thượng Nhân!
Lã Tập Hiền chưa kịp quạt lại Nhương Thư thì VÔ ưu Cái đã đứng lên, lạnh lùng tuyên bố:
- Hội đồng võ lâm cảm thấy rằng cái chết của Võ Di Sơn Chủ có điều khuất tất Vì vậy hội đồng quyết định giải tán đại hội và sẽ tiến hành điều tra! Nếu quả thực Lã trang chủ có tội đúng như lời tố cáo của Tần Nhương Thư thì vụ việc sẽ được đưa ra công đường phủ Hà Bắc!
Cử tọa đồng thanh tán thành nên Lã Tập Hiền cứng họng. Lão trút hận lên đầu Nhương Thư, gằn giọng bảo:
- Ngươi vu oan giá họa, làm nhục lão phu và tông môn họ Lã. Thù này không thể bỏ qua, lão phu chính thức hẹn ngươi tử đấu vào đúng giờ Tỵ ngày đầu tháng hai tại đỉnh Sáp Vân, gần Nam Dương!
Quần hùng có dịp la hét, đốc thúc Nhương Thư nhận lời! Chàng điềm tỉnh gật đầu:
- Được! Tại hạ cũng đang muốn diệt trừ tai họa cho võ lâm!
Tài sản của than_long_vn

  #3  
Old 06-05-2008, 02:34 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 5

Thủy Thượng Tróc Xà Vương
Hồ Biển Kiến Đại Cừu

Ba ngàn hào kiệt hớn hở rời Lã gia trang, hẹn sang xuân sẽ đến xem cuộc phó ước! Bọn Nhương Thư cũng quay về thành An Dương. Trong bữa cơm tối, Nhương Thư bàn rằng:
- Nay ta nhận lời phó ước với Lã Tập Hiền, phải về núi khổ luyện thêm để chuẩn bị. Ngọc Trâm là gái, không tiện ở trong chùa, hãy quay lại Tế Nam cho Điền Trang Chủ yên tâm. Chúng ta sẽ gặp nhau ở Nam Dương trước ngày đầu tháng hai, Tào ưng và Thúy Sơn sẽ hộ tống nàng về nhà!
Ngọc Trâm phụng phịu giận hờn, nằng nặc đòi theo Nhương Thư, nhưng chàng kiên quyết không chịu. Thúy Sơn phục lăn trước bản lãnh đàn ông của Nhương Thư, vui vẻ nó i :
- Đại tẩu nên nghe lời đại ca! Hai bên chưa có hôn ước, đại tẩu lấy tư cách gì để về ra mắt tăng lữ chùa Phật Quang?
Tào ưng thì bảo Nhương Thư:
- Tại hạ đưa Điền tiểu thư về đến Tế Nam là đi Ngũ Đài Sơn ngay!
Canh ba đêm hôm ấy, HỔ Hồng Nhan mò vào phòng Nhương Thư, nối lại cuộc ân ái chưa thành lúc chịu. Song lạ thay, chàng lại hiền như bụt, ôm mỹ nhân ngủ một mạch đến sáng. Ngọc Trâm tức tối, hậm hực chia tay, lòng thầm rủa tình lang là kẻ quái đản!
Ba người kia đi rồi, Nhương Thư cũng rời An Dương. Trên đường đi ra cửa Bắc thành, Nhương Thư gặp rất nhiều hảo hán phương Bắc. Họ xúm lại chào hỏi và tán dương chàng đến tận mây xanh. Nhương Thư nghe nhột nhạt khó chịu, vội mượn cớ để quên đồ, quay lại nhà người anh cô cậu của Ngọc Trâm. Hàn Xuân ngạc nhiên hỏi lý do, nghe chàng kể gã bật cười :
- Người khác muốn nổi danh mà không được, còn công tử thì sợ!
Nhương Thư hỏi mượn gương đồng, mang chiếc mặt nạ mà Dạ Quân Tử Quách Tàn Bôi đã tặng, chàng hài lòng khi thấy mình biến thành xa lạ, vơi gương mặt của một hán tử tam tuần, xấu xí, đầy nốt ruồi và mụn cóc! Nhương Thư khoác thêm áo lông cừu mỏng yên tâm lên đường, quả nhiên lần này không ai thèm nhìn đến!
Chàng hòa vào dòng người ngược Bắc, nghe bọn hào khách nói về Tần Nhương Thư, cả khen lẫn chê, lòng cũng vui vui.
Riết cũng chán, Nhương Thư chậm lại, đi một mình cho đỡ rát tai, và có dịp ngắm cảnh thu dọc đường.
Chàng chợt nóng mặt khi nhớ đến thân hình nõn nà, kỳ diệu của HỔ Hồng Nhan, và trận động tình dưới suối. Chàng biết rằng trong tâm mình ẩn chứa ác căn, phát lộ dưới hình thức những cơn thịnh nộ.
Không chỉ lòng hiếu sát mà cả dục tính cũng không buông lung !
Phải chăng đó là tác dụng của Quỷ Nấm, hoặc hậu quả của quãng đời thơ ấu bi thảm, hoặc do di truyền? Cả mẫu thân chàng cũng không biết rõ lắm về lai lịch của cha chàng! Bà chỉ biết quê chồng ở Trường An nhưng không rõ địa điểm!
Nhương Thư thở dài, cố xua đi những mặc cảm và nghi vấn, nghĩ về Lã Tập Hiền. Chàng còn kém Hạt Nhãn Thần Ma, tất không địch lại họ Lã! Vậy thì sao chàng dám đại ngôn trước mặt VÔ ưu Cái?
Việc này xuất phát từ ba chiêu cuối cùng trong Phật Đăng Kiếm Pháp! Với chúng, Nhương Thư có thể đổi mạng với những cao thủ có bản lĩnh cao hơn chàng vài bậc! Song đấy chỉ là chuyện bất khả kháng! Chàng hy vọng không phải dùng đến hạ sách ấy, vì thức ngộ rằng cứ sau mỗi lần chạm cường địch, kiếm thuật mình tinh xảo hơn trước !
Dòng suy tưởng bị cắt ngang bởi tiếng vó ngựa phía sau dồn dập. Ky sĩ kia đã bắt kịp Nhương Thư, nhìn mặt chàng, thấy không quen nên thất vọng bỏ đi.
Người ấy chính là Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Đại Ngọc, học trò của Địch Thánh.
Có lẽ nàng nhận ra vóc dáng Nhương Thư nên định đến chào hỏi, nào ngờ lại là một hán tử xa lạ! Nhương Thư hơi áy náy nhưng không dám lên tiếng gọi. Vướng vào bốn chị em nhà họ Điền là đã quá khổ sở rồi, chàng không muốn quen biết thêm một nữ nhân nào khác nữa!
Hai người đi cách nhau vài chục trượng, cùng đơn độc mà không hề có ý đồng hành ! Nhưng trưa hôm ấy, kẻ trước người sau nghé vào phạn điếm duy nhất bên đường. Bạch Ngọc Tiên Tử không hề để ý rằng gã áo cừu kia đang ngắm mình qua vành nón tre lụp xụp, từ một bàn gần đấy Nhương Thư sợ lộ đôi tai đặc biệt nên không bỏ nón ra. Người ngoài tưởng rằng chàng hổ thẹn vì gương mặt xấu xí.
Nữ nhân ăn nhỏ nhẹ như mèo nên Nhương Thư đã ăn xong bữa mà Lâm Đại Ngọc vẫn còn dang dở. Chẳng biết làm gì, chàng bèn nhìn quanh và bị thu hút bởi gương mặt trái xoan kiều diễm và đôi mắt nâu sâu thẳm ẩn chứa một nỗi buồn mênh mang vô tận.
Bạch Ngọc Tiên Tử có dung mạo trẻ hơn số tuổi ba mươi. Địch Thánh ẩn cư trên dãy Lã Lương Sơn, thuộc vùng Tây Bắc tỉnh Sơn Tây, nên Lâm Đại Ngọc cũng nổi danh ở đất ấy! Nghe nói, năm hai mươi bốn tuổi, Tiên Tử định kết hôn với Thiểm Bắc Thần Long Lạc Nhất Lôi, do Địch Thánh từ trần nên việc cưới hỏi phải hoãn lại ba năm để cư tang. Nhưng chỉ một năm sau, Lạc Nhất Lôi đã mất kiên nhẫn, bỏ nàng lấy con gái của bá chủ vùng Tây Hạ! Có lẽ đấy chính là vết thương lòng, khiến Lâm Đại Ngọc luôn sầu muộn !
Trong phạn điếm lúc này có mặt cả toán người khách mà Nhương Thư đã tách ra. Họ đến trước, quen tật ăn nhậu cà kê dê ngỗng nên vẫn còn ngồi. Trong đám ấy có khá nhiều người trẻ tuổi, song họ chỉ dám lén nhìn say đắm chứ không dám bước đến tán tỉnh hay làm quen với Bạch Ngọc Tiên Tử.
Trước là vì võ nghệ nàng cao hơn họ, sau vì bối phận của Lâm Đại Ngọc. Võ lâm cũng có tôn ti trật tự, nghiêm ngặt hay không là do ý của người trên trước.
Nếu vui, Tiên Tử có thể gọi một gã tam tứ tuần là đại huynh, khi buồn nàng có thể xem gã ấy như con cháu!
Đó là do Địch Thánh đã tám mươi sáu tuổi, nếu còn sống, ngang hàng với sư tổ của đám thanh niên trong võ lâm!
Nhương Thư cũng rơi vào cảnh ngộ ấy, nên thường xưng tại hạ với những kẻ hơn mình đến hai ba chục tuổi !
Mới cuối giừ ngọ mà mây đã kéo xám xịt cả trời, hứa hẹn một cơn mưa tầm tã.
Lữ khách vội lên đường cho kịp chuyến đò qua sông Phồn Thủy, cách đấy mười dặm! Khi mưa to, gió rất mạnh, đò ngang sẽ chẳng dám vượt sông ! Nhương Thư cũng biết thế nên bám theo đoàn nhân mã phía trước mà phi nước đại, chạy song song với Bạch Ngọc Tiên Tử.
Được một vài dặm, đoàn người ngựa đến một ngã ba, nghĩa là quan đạo có thêm nhánh nhỏ bên hữu, trổ xéo vào rừng tùng. Đấy chỉ là một con đường mòn lớn dành cho những cỗ xe trâu kéo gỗ ra.
Cây lớn đã bị chặt trụi nên việc khai thác gỗ đình chỉ hơn năm nay, cỏ lại có dịp mọc đầy, chiếm lại đất đai của mình.
Đương nhiên, chẳng có ky sĩ nào có ý định rẽ vào hướng ấy, song trên đoạn quan đạo trước mặt họ lại xuất hiện một đoàn trâu đông độ bốn, năm chục con. Và điều đáng nói là chúng đột nhiên nổi điên lên, phóng rầm rập về phía ngã ba, sừng chĩa ra đe do ạ !
Chẳng lẽ thúc ngựa nhảy xuống thửa ruộng trừng, đầy nước mưa ở hai bên đường, mấy gã đi tiên phong rẽ vào đường mòn, những người đi sau cũng phải nối gót. Khổ thay, đàn trâu điên lại không chạy chẳng mà rẽ trái, tiếp tục truy đuổi đám khách giang hồ. Nhương Thư và Lâm Đại Ngọc giờ đây trở thành mục tiêu gần nhất của những cặp sừng trâu!
Bọn hào khách vừa quất ngựa túi bụi vừa chửi thề ỏm tỏi, lôi tổ tông mười tám đời của chủ đàn trâu ra mà nguyền rủa, song chẳng có ai nghe vì lũ trâu kia không có người chăn dắt! Các ky sĩ có đủ sức phi thân lên những cành cây cạnh đường mòn, nhưng lại chẳng nỡ bỏ mặc ngựa của mình. Tuấn mã luôn là người bạn đường thân thiết của khách giang hồ, nhiều con thông minh hiểu được từng dấu hiệu nhỏ của chủ nhân.
Ngựa vốn chạy nhanh hơn trâu, nhưng trên con đường mòn gập ghềnh đầy bụi rậm này thì tốc độ của chúng giảm sút rất nhiều Người kỹ sĩ không thể liều mạng chạy càn, vì biết đâu sau lớp cỏ kia là một tảng đá hay một Oå gà sâu hoắm!
Đoàn người đã chạy được hơn hai dặm mà đàn trâu vẫn chưa chịu buông tha, và khổ thay, tuấn mã Lâm Đại Ngọc bất ngờ trật khớp vó trước, bên tả, và khuy xuống.
Tình huống bất ngờ này đã khiến một cao thủ như Lâm Đại Ngọc cũng phải lúng túng. Theo quán tính, nàng cũng chúi theo, đè lên đầu ngựa và sắp sửa cắm xuống đất. May thay, Nhương Thư đã nghiêng người, vươn hữu thủ, nắm lấy bắp tay nàng nhấc bổng lên, đặt vào lòng.
Ngựa của chàng vẫn tiếp tục phóng đi, còn tuấn mã của Lâm Đại Ngọc bị đàn trâu hất tung và dầy xéo, hí lên những tiếng não nùng!
Bạch Ngọc Tiên Tử đã hoàn hồn, thẹn thùng cựa quậy, định rời vòng tay vững chắc của ân nhân, ra đứng sau mông ngựa, tài khinh công của nàng thừa sức để làm điều ấy. Nhưng ánh mắt Tiên Tử chợt pháp hiện một đường ngửidưới cằm hán tử áo cừu, hiểu ngay rằng gã mang mặt nạ! Và vành tai luân cách phân minh, thùy châu đầy đặn, có chấm son đỏ kia chính là của Nhương Thư!
Hồi sáng, Lâm Đại Ngọc đã nhận ra tấm lưng quen thuộc, giờ thì hoàn toàn có thể khẳng định đối phương là Tần Nhương Thư hóa trang. Sáu năm trôi qua, hình bóng của người tình phụ bạc, Thiểm Bắc Thần Long đã phai mờ từ lâu, song Tiên Tử vân chưa yêu ai khác, vì không tìm được nam nhân xứng đáng!
Sau khi được Nhương Thư cứu mạng, trái tim của Lâm Đại Ngọc đã rộn rã nhịp hân hoan. Phần vì ân nghĩa, phần vì tài mạo, nhân phẩm của họ Tần, chàng không anh tuấn như Thiểm Bắc Thần Long, song bản lãnh và tâm địa thì hơn hắn. Tiên Tử hiểu rằng mình đã gặp được nam nhân lý tưởng, đáng để nàng trao thân gởi phận. tình yêu đã đâm chồi nảy lộc chẳng cần thời gian, bất chấp tuổi tác, nhưng lại gặp sự cản trở của HỔ Hồng Nhan!
Giờ đây, tình cờ gặp lại nhau, chịu thêm ơn cứu tử lần nữa, Lâm Đại Ngọc càng thêm bội phần luyến ái Nhương Thư. Nàng lặng người trong cảm giác hạnh phúc, úp mặt vào bờ vai rắn chắc của người trong mộng, hít lấy mùi da thịt nồng nàn, tay hữu quàng chặt lưng Nhương Thư.
Do tư thế này, gò ngọc phong trinh nguyên, đầy đặn của Lâm Đại Ngọc áp sát ngực trái Nhương Thư. Nhịp rung động của vó câu đã khiến nàng nhận thấy rõ sự cọ xát giữa hai cơ thể, thẹn thùng vì cảm giác nhột nhạt nơi đầu vú làm thịt da rạo rực!
Năm xưa, khi quen biết với Thiểm Bắc Thần Long, nàng và gã chỉ dám nắm tay nhau chứ chưa hề ôm ấp, gần gũi thế này!
Tiên Tử lén liếc Nhương Thư thấy mắt chàng vẫn trong veo, chẳng hề có chút xuân tình, lòng cũng đỡ ngượng. Chẳng lẽ im lặng mãi, Lâm Đại Ngọc liền thỏ thẻ:
- Tiện thiếp hai lần chịu ơn cứu mạng, biết lấy gì đền đáp đại ân của Tần công tử đây!
Nhương Thư cười gượng:
- Nhãn lực của Tiên Tử quả là sắc bén!
Thế mà tại hạ tưởng cô nương không nhận ra!
Và chàng nói thêm:
- Tiên Tử hãy dùng ám khí hạ sát những con trâu đầu đàn để cản chân cả đàn! Nếu không chúng sẽ rượt chúng ta đến tối mất!
Lâm Đại Ngọc dạ rất ngoan, luồn ra phía sau lưng Nhương Thư, ngồi quay ngược lại, mở tay nải nhỏ vẫn khoác trên vai, lấy ra những thỏi bạc năm lượng.
Nàng vận công, liên tiếp ném mạnh những ám khí đắt tiền ấy vào đầu của bốn con trâu. Chúng không chết nhưng choáng váng, lăn kềnh ra ngay, cản đường lũ phía sau. Cả đàn dồn lại, té ngã, nghé Oï vang trời và thôi không chạy nữa!
Toán ky sĩ phóng thêm nửa dặm mới dừng lại. Họ nhìn nhau phá lên cười vì cảnh ngộ khôi hài lúc nãy. Mang danh là võ sĩ mà bị trâu rượt chạy có cờ thì quả là nực cười. Một gã trưng niên hậm hực thoá mạ:
- TỔ bà đứa nào nuôi trâu mà không biết dạy, để bọn lão gia phải chạy đến tháo mồ hôi hột!
Giọng gã oang oang làm chấn động cả cùng rừng tĩnh mịch. Cảng vật nơi đây khá xinh đẹp vì hai bên là rừng thông non thoai thoải, rì rào tiếng gió thổi qua kẽ lá.
Nhưng khi hai chục ky sĩ quay đầu ngựa chuẩn bị trở ra đường quan đạo Bắc Nam thì từ trong rừng ùa ra hàng trăm kiếm thủ áo xanh bịt mặt. Chúng bịt chặt hai đầu đường và tràn ngập đồi thông, vây kín đám hào khách.
Nhương Thư hiểu ngay đối phương là người của Huyết Tâm Giáo. Lã Tập Hiền quyết lấy mạng chàng nên đã bố trí mai phục ở đây, dùng đàn trâu dồn chàng vào bẫy. Người của lão luôn bám sát chàng nên phát hiện việc chàng quay trở lại Hàn gia trang và trở ra với mặt giả. Bọn hào khách đồng hành vô tình đã bị vạ lây mà không biết!
Nhương Thư phẫn nộ gầm vang, rời lưng ngựa lao vào hàng ngũ bọn lục y, mở đường máu. Bạch Ngọc Tiên Tử thấy thế cũng rút Huyền Thiết Địch chạy theo chàng. Hướng Nam của đường mòn được trấn giữ bởi hơn ba chục gã áo xanh.
Chúng đón tiếp Nhương Thư và Lâm Đại Ngọc bằng những ngọn phi tiêu tẩm dốc, nhưng đã bị hai người đánh bật ra.
Nhương Thư động sát cơ, thi triển ngay phép ngự kiếm, thân hình rời mặt đất, nương theo kiếm quang bay vút đi. Bọn lục y hung hãn vung kiếm liên thủ đỡ đòn, song không sao cản nổi trái cầu thép lấp loáng như gương kia. Vũ khí của chúng văng khỏi tay và có đến bốn tên kêu rên đau đớn.
Nhương Thư lọt vào giữa hàng ngũ đối phương, gieo rắc cái chết bằng những đường kiếm tàn nhẫn và nhanh như thiểm điện. Bạch Ngọc Tiên Tử cũng đã giết được hai tên, vào với Nhương Thư sát cánh tiến lên. Ma âm không làm gì được Nhương Thư nhưng vẫn có tác dụng dối với Bạch Ngọc Tiên Tử. Nàng vội thò tay vào thắt lưng lấy ra một chiếc lục lạc lớn cỡ quả chanh, bằng ngọc trắng, có núm nhỏ để xỏ tơ qua. Lâm Đại Ngọc đeo lục lạc nơi cổ tay hữu rung lên, tạo ra những âm thanh trong vắt hóa giải Ma âm của bọn Huyết Tâm Giáo. Thì ra, Địch Thánh tinh thông âm luật nên đã tạo ra vật khắc chế tà pháp của Huyết Tâm Đế Quân, để lại cho học trò.
Nhờ vậy, giờ đây Bạch Ngọc Tiên Tử ung dung chiến đấu, thi thố hết sở học, biểu diễn cho Nhương Thư thưởng lãm.
Nàng thuận tay trái nên có thể đi song song với chàng mà không sợ vũ khí của họ vướng nhau. Thỉnh thoảng hai người lại bị đối phương dồn ép, vai lưng kề cận truyền cho nhau chút hơi ấm của tình đồng độ i .
Nhương Thư giết hai tên thì Lâm Đại Ngọc cũng làm thịt được một, tiến lên rất nhanh. Những tiếng ngựa hí, tiếng quát tháo phía sau đã im lặng, vì mười tám gã hảo hán yểu mệnh kia đã gục ngã. Phe đối phương rảnh tay kéo cả đến để bao vây hai con mồi cuối cùng.
Chúng tập trưng nhiều ở hướng Nam đường mòn vì sợ bọn Nhương Thư thoát ra quan đạo, Những tên đứng ngoài vòng liên tiếp phóng những mũi phi tiêu tẩm độc khiến đôi nam nữ kia phải phân tâm đối phó, bước tiến chậm dần. Lâm Đại Ngọc giàu kinh nghiệm hơn Nhương Thư, nhận ra hiểm cảnh liền đề nghị:
- Công tử! Chúng ta chạy vào rừng thôi!
Quả đúng như vậy, cây cối sẽ chắn cho họ trước những ngọn phi tiêu, và với khinh công của hai người, việc thoát đi sẽ dễ dàng hơn. Nhương Thư gật đầu, cùng nàng đổi hướng, đánh thốc về phía đồi thông hướng Tây, chàng múa tít bảo kiếm mở đường, còn Lâm Đại Ngọc thì đoạn hậu.
Nhương Thư trợn mắt đánh những đòn hiểm ác nhất, giết liền mười hai gã lục y, phá thủng vòng vây, tiến lên đồi cây. Phe đối phương cuống cuồng đuổi theo sát nút, quyết không tha. Dường như chúng được lệnh phải giết được chàng bằng bất cứ giá nào.
Tiếng chân người thình thịch và tiếng chửi rủa cứ bám theo nên đôi nam thanh nữ tú vẫn phải cắm đầu mà chạy. Phía sau đồi thông là một cánh rừng nguyên sinh rậm rạp, ngoài tùng bách còn có cả những loài cây phương Bắc khác, thảm thực vật phía dưới phong phú và rậm rạp.
Nhương Thư và Lâm Đại Ngọc không còn cách nào khác là chui vào đấy. Chàng vung kiếm chặt những cành ngang để mở đường, cùng Lâm Đại Ngọc vào sâu vài dặm thì không còn nghe tiếng đối phương nữa. Hai người dừng bước thở hổn hển, nhìn nhau cười, mừng vì thoát nạn.
Họ ngồi xuống hai tảng đá, nghỉ ngơi và quán sát nơi mình đến. Khu vực này cây cối khá thưa thớt, mặt đất bằng phẳng, ít bụi rậm, lại có cả một hồ nước trong xanh, đường kính rộng độ bốn năm trượng. Trời đã xế chiều, ánh tà dương không xuyên qua nổi rừng cây rậm rạp chung quanh, khiến quang cảnh có phần âm u. Tuy nhiên, bầu trời phía trên đầu hai người đã trong sáng lại chứ không đe doạ đổ mưa như lúc trưa nữa.
Nhìn gương mặt lem luốc và y phục rách nát đẫm mồ hôi của Lâm Đại Ngọc, Nhương Thư cười bảo:
- Tiên Tử hãy xuống ao tắm rửa, tại hạ quay lại xem phe địch đã rút hết chưa?
Lâm Đại Ngọc thẹn thùng gật đầu, yểu điệu đi về phía hồ nước. Tay nải vẫn còn trên vai nên giờ đây nàng mới có quần áo sạch mà thay! Nhương Thư đi khuất, Lâm Đại Ngọc nhanh tay thoát y, nhảy xống hồ, khẽ run lên vì nước lạnh toát. Đáy hồ rất sâu nên chân nàng không chạm đáy, đứng lửng lơ mà kỳ cọ, tắm gội. Nàng vuốt ve đôi gò nhũ phong săn chắc, tròn trịa và tự nhủ rằng mình vẫn còn trẻ trưng, dù tuổi đã ba mươi. Điều này giúp nàng thêm can đảm để dám mơ mộng đến Nhương Thư.
Thực ra, Bạch Ngọc Tiên Tử xinh đẹp chẳng kém HỔ Hồng Nhan. Nhan sắc của nữ nhân vốn là cái khó thẩm định, so sánh nhất trên đời! Mỹ nhân là vật sống chứ chẳng phải là tượng đá, nụ cười, ánh mắt, nét mặt, ngôn từ của họ là một phần trong nhan sắc Ngọc Trâm tươi tắn, hoạt bát như hoa Xuân, còn Đại Ngọc u sầu, đằm thắm như Cúc thu, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Bạch Ngọc Tiên Tử thích thú vẫy vùng. Bơi quanh hồ, thân hình trắng phau, thon dài cứ thấp thoáng dưới làn nước bạc, trông quyến rũ lạ lùng. Nhưng khi đến giữa hồ, nàng chợt phát hiện mình đã rơi vào vùng xoáy nước rất mạnh, hung hãn lôi nàng xuống đáy. Lâm Đại Ngọc kinh hoàng rú thất thanh, chân tay quạt nước cố bơi ra khỏi vũng xáy chết người .
Nhương Thư đã nghe thấy, vội quay lại, lướt nhanh như tên bắn, và tung mình vượt khoảng cách hai trượng rưởi, tả thủ nắm tay nàng lôi đi. Công lực của Nhương Thư rất thâm hậu, bàn tay như mái chèo quay tít, nên đã thắng được sức hút của guồng xoáy, đưa Đại Ngọc thoát ra.
Tiên Tử ngợp nước nên đã ngất xỉu, Nhương Thư vội đưa nàng lên bờ, đặt tạm xuống bãi cỏ, trải nhanh áo choàng rồi bồng nàng để lên. Sau những động tác cần thết, Lâm Đại Ngọc hồi tỉnh, hổ thẹn nằm xấp xuống mà khóc rưng rức !
Nhương Thư lấy y phục sạch trải lên người nàng rồi xuống hồ tắm gội. Dĩ nhiên chàng không dám ra giữa hồ, chỉ nhìn về phía ấy mà thắc mắc, vì nước ao tù làm gì có xoáy?
Quay lại vẫn thấy Lâm Đại Ngọc nằm im thút thít, Nhương Thư thở dài, lên bờ lau khô người, thay y phục rồi nằm xuống cạnh nàng. áo choàng của khách giang hồ thường rộng đến gần sải tay, đủ chỗ cho hai người. Chàng nằm nghiêng, vuốt ve thân hình mượt mà của Đại Ngọc.
Nàng thôi khóc trở mình ôm lấy chàng, lát sau mạnh dạn lần cởi áo Nhương Thư.
Cuộc ái ân khởi đầu lặng lẽ, đầu chàng rộn rã những âm thanh hoan lạc. Mãi đến sẫm tối, Nhương Thư mới chịu rời tấm thân nồng nàn, khêu gợi của Bạch Ngọc Tiên Tử, đi tìm củi nhóm lửa.
Đêm ấy, tuy bụng đói nhưng hai người vẫn đủ sức mây mưa, sau khi nuốt vài viên linh đan dỡ dạ. Sáng ra, Nhương Thư bị đánh thức bởi tiếng chim rừng ríu rít, tỉnh dậy trước, nhẹ nhàng gỡ vòng tay người ngọc mà ngồi lên. Sương thu ướt đẫm tấm chăn, là chiếc áo choàng thứ hai, nhưng không làm lạnh giá nổi da thịt của những kể có nội công thâm hậu như Nhương Thư và Đại Ngọc!
Nhương Thư bước xuống ngâm mình và rửa mặt, nghe tâm hồn sảng khoái, thư thái, minh mẫn phi thường! Phải chăng những trận ái ân đêm qua đã như ánh dương xua bớt mây mù trong tiềm thức u ám của chàng? Hoặc đấy chính là diệu dụng của việc quân bình âm dương?
Nhương Thư không rõ, chỉ biết giờ đây lòng mình thanh thản, bao dung hơn trước bội phần. Dường như, kỷ niệm đầy máu và nước mắt của một quãng đời thơ ấu đày đọa đã nhạt mờ đi, không còn ám ảnh tâm hồn chàng nữa !
Sau khi cha chàng Tần Tử Chính chết giữa rừng vắng. Nhương Thư thư đã lưu lạc nơi đầu đường xó chợ, ăn xin để sống qua ngày, chịu vô vàn tủi nhục. Trời cao có mắt nên một đứa bé năm tuổi mới tồn tại được ba năm, sống sót đến lúc được Phật đăng thượng Nhân cứu vớt.
Mặc xong y phục, Nhương Thư phát hiện Bạch Ngọc Tiên Tử khẽ rên lên vì lạnh Cái đói đã làm giảm sút khả năng đề kháng của cơ thể nàng. Nhương Thư thì khác, chàng luyện thần công Phật môn, thường phải tịnh cốc sáu bảy ngày nên đã quen. Nhương Thư mỉm cười khi thấy mặt hoa nhăn nhó trông rất đáng yêu, liền nằm xuống chui vào áo choàng, ôm nàng để sưởi ấm cho cơ thể mỹ nhân yếu đuối Đại Ngọc ngái ngủ nép sát vào người tình lang rồi ngủ thiếp đi. Hai khắc sau, bình minh đã le lói xuyên qua tàn cây, rọi đến chỗ họ . Nhương Thư đánh thức người đẹp lười biếng bằng cách kéo mép áo choàng xuống, để gió thu ve vuốt đồi ngực mịn màng, ngồn ngộn kia!
Nhương Thư ngắm không chán mắt, lòng nổi sóng tình, đưa tay mơn man đôi tạo vật diệu kỳ. Bạch Ngọc Tiên Tử rùng mình mở mắt, tình tứ trách móc:
- Tướng công không đói sao? Thiếp đã rã ruột, sức đâu mà hầu hạ chàng nữa?
Nhương Thư ngượng ngùng ngồi lên, gượng cười chữa thẹn:
- Mỗi lần đến giai đoạn luyện công quan trọng, ta thường phải nhịn đói vài ngày nên quen!
Bạch Ngọc Tiên Tử vệ sinh, thay y phục rất nhanh. Hai người nắm tay nhau rời khỏi khu rừng, nhưng lạ thay, họ đi một hồi lâu lại trở về bên hồ nước!
Nhương Thư cười khổ:
- Té ra chiều qua chúng ta vô tình đâm vào một trận kỳ môn vây quanh hồ nước!
Không ra được thì chắc là chết đói mất!
Đại Ngọc đang đắm chìm trong hạnh phúc nên rất lạc quan, bật cười khúc khích nói đùa:
- Thiếp sẽ ăn thịt tướng công như loài Đường Lang vậy?
Đường Lang chính là bọ ngựa, con mái thường ăn thịt con trống sau khi giao hợp! Nhương Thư trưng hậu, ít lời, chỉ cười thôi! Chàng dựa vào hướng mặt trời, kéo Đại Ngọc tìm cách phá trận lần nữa, song chỉ hoài công!
Hai người đều đói ruột, nghĩ đến chuyện kiếm thực phẩm trước đã. Bụng rỗng thì chẳng thể là được gì! Khổ thay, trong phạm vi trận pháp chẳng hề có thú rừng, và dưới hồ cũng vắng bóng cá tôm!
Nhương Thư đã lặn xuống tìm kiếm mà không thấy một sinh vật nào, dù là một c on tép nhỏ !
Đôi uyên ương lại phải nuối những viên thuốc trị thương cuối cùng để chống đói Ngoài tam thất, trong ấy có cả những dược vị bổ dưỡng như sâm nhung, hà thủ Oâ nên khá nhi êu năng lượng .
Nhương Thư đã trèo lên ngọn cây cao nhất, nhìn ra ngoài, song chỉ thấy khói sương mù mịt, cả vầng dương cũng biết mất, dù lúc chàng ở dưới đất nó vẫn còn rực rỡ. Tuy chán nản nhưng chàng cũng phải khâm phục tài trí của kẻ bày ra trận pháp này! Nhương Thư chợt nhớ lời sư phụ kể về một bậc kỳ nhân là Trại Tôn Tấn Vệ Hồng.
Họ Vệ là người giỏi trận đồ nhất thiên hạ, biệt tích chục năm, nếu còn sống thì tuổi đã bảy mươi sáu. Nhương Thư xúc động linh cơ, vận công nói lớn:
- Vệ tiền bối! Kẻ hậu sinh bị truy đuổi nên mới lạc vào cấm địa! Mong tiền bối nể mặt gia sư là Phật đăng thượng Nhân mà tha thứ cho !
chàng chỉ hành động cầu may, nào ngờ lại có tác dụng. Một giọng già nua vọng đến:
- Té ra tiểu tử ngươi là đệ tử của lão Đinh Doãn đấy ư?
Đinh Doãn chính là thực danh của Thượng Nhân, chỉ những người rất thân mới biết được! Bạch Ngọc Tiên Tử chết điếng vì hổ thẹn, tự hỏi lão già chết toi kia có rình xem cảnh mây mưa của nàng và Nhương Thư hay không?
Trên kia, Nhương Thư phấn khởi đáp :
- Vãn bối là Tần Nhương Thư và thuyết thê Lâm Đại Ngọc xin bái kiến Vệ tiền bối!
Trại Tôn Tân lặng im một lúc lâu mới hỏi:
- Sư phụ ngươi còn tráng kiện hay đã ngỏm rồi?
Nhương Thư nghiêm trang đáp:
- Bẩm tiền bối! Gia sư đã nhập niết bàn hồi cuối năm ngoái!
Vệ Hồng thở dài thương tiếc, âm thanh rất rõ, cứ như lão đang đối diện với Nhương Thư. Vài con ong vo ve quanh đầu đe doạ, khiến chàng họ Tần sợ hãi, chuồn mau xuống đất. Đại Ngọc ân cần phủi bụi, gỡ mạnh nhện trên tóc và y phục của tình quân, âu yếm nói:
- May quá ! Không ngờ lại gặp người quen! Thiếp ăn ít nhưng không thể nhịn đó i được !
Vẻ hí hửng của nàng có chút ngây thơ của trẻ con, khiến Nhương Thư bật cười:
- Ta mới là kẻ gặp may vì không bị nàng ăn thịt!
Đại Ngọc thẹn thùng định trả đũa thì Trại Tôn Tần lên tiếng:
- Này Tần hiền diệt! Nể mặt Thượng Nhân, lão phu sẽ phá lệ tha cho hai ngươi. Nhưng hiền diệt phải là giúp ta một việc!
Nhương Thư vội đáp:
- Xin tiền bối cứ dạy!
Vệ Hồng chậm rãi nói:
- Mười năm trước lão phu luyện công sai đường, Nhâm Mạch bị tổn thương, thị lực giảm dần. Lão phu tinh thông y thuật nên biết rằng mật của loài Bạch Thủy Xà Vương có thể chữa lành, liền ra sức truy tầm. Khi đến đây lão phu phát hiện có một con dưới hồ nước, nhưng mắt đã quá kém nên không sao bắt được. Đúng giờ Ngọ, phiền Tần hiền diệt hãy xuống hồ mang Bạch Thủy Xà Vương lên giùm, sống hay chết gì cũng được !
Bạch Ngọc Tiên Tử cướp lời Nhương Thư:
- Bọn vãn bối đang đói đến bủn rủn tứ chi, mong Vệ tiền bối ban cho ít thực phẩm! Có no bụng mới đủ sức thu phục Bạch Thủy Xà Vương!
Trại Tôn Tấn đáp:
- Lão phu sẽ sai thần ưng mang đến cho c ác ngươi ít thịt !
Chỉ lát sau, một con chim ưng lông vàng to lớn, sải rộng đến hơn trượng bay đến, thả xuống một đùi dê hun khói, nguội và cứng ngắc. Nhương Thư rạng rỡ nhặt thêm cành khô bỏ vào đống than đêm qua còn sót, thổi bùng lên rồi nướng lại đùi dê ấy!
Đại Ngọc chứng tỏ sự đảm đang chu đáo của mình bằng cách mở tay nảy lấy ra một lọ muối trắng ! Dĩ nhiên nàng được Nhương Thư khen ngợi. Nàng còn giành thanh trường kiếm, cắt từng miếng thịt trao cho tình lang, dù chẳng ngon lành gì nhưng đang đói nên họ ăn sạch chiếc đùi dê , chỉ trừ xương !
Còn mấy khắc nữa mới đến chính ngọ, Nhương Thư và Đại Ngọc ngồi nghỉ dưới bóng cây. Bạch Ngọc Tiên Tử bỗng cau mày nghĩ ngợi, lát sau chủ động xà vào người Nhương Thư, lả lơi hôn cổ chàng, song lại thì thầm với giọng là lạ:
- Tướng công! Tiên sư đã từng kể về loài Bạch Thủy Xà Vương này! Nó có tuổi thọ rất cao, khi sống đủ ba trăm năm sẽ có lớp da trắng như tuyết, vảy óng ánh bạc, thân dài đến hai trượng và to bằng bắp tay người lớn! Lúc ấy, trên đầu Bạch Thủy Xà Vương mọc ra một nhánh sừng đỏ, giống như nhung lươn vậy! Trong sừng chứa tinh huyết mấy trăm năm của Xà Vương nên rất thần diệu, quý hơn cả mật, giúp cho người luyện võ tăng tiến chân nguyên! Nay Vệ lão chỉ cần mật, tướng công hãy hút lấy giác huyết của Bạch Thủy Xà Vương, coi như tự thưởng công vậy! Và đấy là cách giết nó nhanh chóng nhất !
Nhương Thư vốn chẳng có lòng tham nên phân vân, vì dẫu sao con vật kia cũng thuộc về Trại Tôn Tấn. Đại Ngọc hiểu ý xuống giọng buồn rầu:
- Nếu chàng không thèm công lực thì làm sao thoát chết dưới tay Lã Tập Hiền?
Chẳng lẽ tướng công không thương thiếp và con của chúng ta hay sao?
Nhương Thư rợn tóc gáy, ngơ ngác hỏi:
- Mới gần gũi có một đêm, sao lại mang thai nhanh thế?
Biết Nhương Thư khờ khạo trong việc trai gái, Đại Ngọc giả đò bẽn lẽn:
- Tướng công biết gì mà nói! Việc thụ thai nào có khó khăn! Khi hôm qua chàng liên tục phá thành đoạt lũy khiến thiếp nhiều phen bay bổng? Thiếp linh cảm việc có con là chắc chắn đến chín phần!
Nhương Thư tưởng thật, tư lự nói:
- Nếu vậy thì ta không thể thí mạng được nữa! Con thơ nào có tội tình gì mà phải sớm chịu cảnh mồ côi?
Đại Ngọc giấu nụ cười đắc ý bằng cách hôn lên má chàng thắm thiết, rồi dặn luôn:
- Chóp sừng rất mềm, chàng chỉ cần cắn mạnh là đứt ngay. Trại Tôn Tấn có nhìn bên ngoài cũng chẳng phát hiện được !
Nhương Thư gật đầu, bất giác đặt tay lên bụng Đại Ngọc như nghe ngóng thai nhi Nàng bật cười ngặt nghẽo:
- Phải bốn năm tháng nữa con chúng ta mới cựa quậy! Tướng công thực là ngốc!
Nhương Thư cũng tự cười mình, hôn nàng tới tấp. Hai người âu yếm nhau đến lúc vầng thái dương chiếu thẳng xuống mặt hồ. Và Trại Tôn Tấn cũng lên tiếng nhắc nhở:
- Nhương Thư! Đã đến lúc rồi đấy!
Bạch Thủy Xà Vương sẽ rời hang lên tắm nắng!
Nhương Thư liền cởi áo và giày vải, chỉ mặc quần dài, cầm kiếm trầm mình xuống nước, nhổ bụi cỏ ven hồ che đầu, bơi ra giữa. Lúc này, vùng trưng tâm hồ bỗng xao động xoáy tít, bọt nước bắn tung toé chứ không lặng lẽ như hôm qua.
Sau đó, một con rắn to lớn, dài ngoằng, vẩy trắng bạc, nổi lên, bơi thành vòng tròn. Thì ra chính nó đã tạo nên xoáy nước bằng lối đùa giỡn kỳ lạ kia.
Nhương Thư lặn sâu xuống, lao đến nhanh như cá kình, trồi lên ngay phía dưới quái vật, thọc kiếm đâm vào bụng nó. Nào ngờ, da Bạch Thủy Xà Vương cực kỳ bền chắc, cứ như lớp vẩy hóa sừng, đẩy mũi kiếm trượt đi. Bạch Thủy Xà Vương lập tức quấn lấy thân hình gã hỗn láo kia, và há rộng cái miệng gớm ghiếc táp vào đầu con mồi.
Trên bờ Bạch Ngọc Tiên Tử sợ hãi thét vang trước cảnh ngộ hiểm nghèo của Nhương Thư, nàng đâu ngờ con vật ấy lại lợi hại đến thế! Song Nhương Thư đã kịp vung kiếm thọc xuống họng quái xà, nó đau đớn ngậm miệng lại, rút đầu về, giật mất vũ khí của chàng.
Bạch Thủy Xà Vương lắc đầu mấy cái, cố nhả thanh thép kia ra, rồi há họng tiếp tục đớp Nhương Thư. Lâm nguy bất loạn, chàng trai họ Tần nghiêng đầu né tránh, dùng hai tay chụp lấy cổ Bạch Thủy Xà Vương bóp mạnh và kéo ghì xuống. Nhờ dày công luyện tập cả nội ngoại công bàn tay Nhương Thư cứng như thép, lực đạo mạnh đến mấy trăm cân, khiến con vật vô cùng đau đớn. Thân nó hơi lỏng ra, Nhương Thư liền trườn lên, cố cắn vào mũi nhọn của chiếc sừng đỏ rực. Nếu Bạch Ngọc Tiên Tử không dặn trước thì lúc này chàng đã chẳng biết làm thế nào để giết Bạch Thủy Xà Vương. Nó mà kịp lặn xuống đáy là chàng tiêu đời!
Giờ thì chẳng phải vì tham lam mà vì tính mạng của mình, Nhương Thư hút lấy hút để chất dịch tanh hôi trong chiếc sừng rắn. Dường như dòng tinh huyết ấy thông với não rắn, nên khi mất đi, rắn nước khổng lồ liền mê man, không cựa quậy được nữa !
Nhương Thư mừng rỡ lôi nó vào bờ.
Đại Ngọc cười mà nước mắt nhạt nhòa:
- Tướng công là thiếp sợ muốn chết được !
Nhương Thư cười đáp:
- Không ngờ da nó cứng rắn đến nỗi kiếm đâm không thủng!
Đại Ngọc lộ vẻ ăn năn:
- Tiên sư không hề nói đến việc ấy nên thiếp chẳng thể cảnh báo tướng công!
Và nàng chợt biến sắc lẩm bẩm:
- Lạ thực! Vì sao Trại Tôn Tân đã nhiều phen bắt hụt Bạch Thủy Xà Vương lại chẳng nói cho tướng công biết rằng da nó không sợ gươm đao?
Nhương Thư biện minh dúm họ Vệ:
- Có lẽ Vệ tiền bối chưa lần nào đâm trứng quái xà cho nên không biết!
Chàng vận công cao giọng:
- Vệ tiền bối! Tiểu diệt đã giết được Bạch Thủy Xà Vương!
Giọng nói già nua của Trại Tôn Tân chẳng c Où chút vui mừng :
- Tốt lắm! Ngươi hãy mang nó đi về hướng Đông, khi đến gốc cây bách lớn nhất thì đi theo thứ tự sau: tả ba bước, tiến năm bước, rồi sang hữu hai bước, sau đó lại tiến năm bước !
Nhương Thư vác phần đầu, Đại Ngọc nắm chóp đuôi Bạch Thủy Xà Vương, đi về hướng Đông, theo đúng chỉ dẫn của Vệ Hồng mà vượt trận. Gần khắc sau, trước mặt họ xuất hiện một tòa nhà lục giác xây bằng đá núi, mái ngói đầy lá mục và những loại cây ký sinh! Trên tường cũng chi chít dây leo, như màn treo cửa.
Tòa thạch ốc quái dị kia nằm dưới một vòm cây rậm rạp, đến nỗi ánh dương quang không xuyên qua nổi. Do vậy, không gian trong nhà cực kỳ tăm tối dù cửa chính rộng mở. Nhương Thư ngỡ ngàng dừng bước, lên tiếng gọi:
- Vệ tiền bối!
Lão ta đáp ngay:
- Ta đây! Hai ngươi cứ đi thẳng vào nhà!
Hai kẻ hậu sinh vội tuân mệnh tiến vào Và một mùi hương hăng hắc xông vào mũi họ, khiến Nhương Thư và Đại Ngọc ngã lăn ra bất tỉnh. Lát sau, Nhương Thư mở mắt, bàng hoàng nhận ra mình bị trói chặt chân tay, treo lơ lửng cách mặt đất vài gang. Cách chàng không xa là Bạch Ngọc Tiên Tử, cũng lâm vào tình trạng như thế, nhưng thân thể lõa lồ, chẳng còn một mảnh vải.
Không gian trước thạch thất đã sáng sủa hơn vì năm khung cửa sổ đều đã được mở toang. Nhờ vậy, Nhương Thư nhìn thấy gương mặt của lão già áo xanh đang ngồi uống rượn, ngắm nghía thân hình nõn nà của Đại Ngọc, chàng chết điếng người, thét lên lạc giọng:
- Trác Thiên Lộc!
Bao ngày tìm kiếm kẻ thù, nào ngờ hôm nay lại rơi vào tay lão! Nhương Thư điên cuồng vùng vẫy nhưng huyệt đạo đã bị phong tỏa, chân khí bế tắc và tứ chi mềm rũ!
Trác Thiên Lộc cười khanh khách, bước đến vuốt ve những đường cong trên cơ thể Đại Ngọc, mắt loé lên những tia dâm đãng và khoái trá. May mà Đại Ngọc công lực yếu kém nên vẫn chưa tỉnh lại mà cảm nhận được nỗi nhục nhã thống khổ Nhương Thư đau lòng vô hạn khi thấy họ Trác mạnh tay dày vò da thịt người yêu, chàng phẫn nộ mắng:
- Trác Thiên Lộc! Vì sao một bậc cao tăng như lão mà lại trở nên đốn mạt đến mức ấy? Mẹ con ta nào có thù oán già với lão?
Họ Trác cười ghê rợn:
- Mẹ con ngươi không có tội nhưng cha ngươi thì đáng bị lão phu băm vằm muôn mảnh! Nay Tần Tử Chính đã chết, lão phu đành phải trút hận lên đầu vợ con của hắn!
Nhương Thư kinh ngạc hỏi:
- Nói láo! Lão và phụ thân ta nào có quen biết nhau? Ta về Ngũ Đài Sơn học nghệ khi gia phụ qua đời đã ba bốn năm!
Trác Thiên Lộc lắc đầu, đưa tay sờ vết thẹo trên mặt, mắt chói lọi hận thù, nói bằng giọng oán hờn:
- Ba mươi năm trước, lão phu và tên khốn khiếp Tần Tử Chính có chân trong một tổ chức giết mướn có tên gọi Báo ứng Hội. Ngày ấy, ta và hắn được cử đến Hán Trung hạ sát Tứ Xuyên Thần Kích Mao Tâm ương, để chiếm tấm họa đồ dẫn đến lăng mộ của Thần Quang Chân Nhân Lão phu định mang về dâng lên hội chủ, nào ngờ giữa đường bị Tần Tử Chính ám toán rồi cướp lấy!
May mà sư phụ đi ngang qua, cứu mạng lão phu. Ta biết mình không thể quay lại với Báo ứng Hội nên dấu nhem sự việc, chỉ nói rằng mình bị kẻ cướp, rồi khẩn cầu Thượng Nhân thu nạp. Thù xưa tưởng chừng đã bị xoá nhòa bởi kệ kinh, nào ngờ mẹ con ngươi lại dẫn xác đến Ngũ Đài Sơn. Cách nay ba mươi năm, lão phu tình cờ được nghe sư phụ tiết lộ tên cha ngươi là Tần Tử Chính, cộng với đôi vành tai của ngươi, ta biết chẳng thể lầm!
Thế là lửa hờn bùng cháy. Trác mỗ liền dâm sát con mụ ni cô hơ hớ là mẹ mi !
Nhương Thư cố dằn cơn giận điên cuồng vì nhận ra Lâm Đại Ngọc đã tỉnh lại và nháy mắt ra hiệu. Hình như nàng đang toan tính việc thoát thân? Như đã nói ở đoạn trên, sau khi ân ái với Tiên Tử, tâm hồn Nhương Thư bớt cuồng nộ hơn xưa, nên giờ đây mới nhẫn nhục được Chàng run rẩy nó i :
- Nhưng vì sao lão lại có mặt nơi này?
Trác Thiên Lộc đắc ý đáp:
- Trại Tôn Tần đã từng gởi thư cầu viện sư phụ, đúng lúc ta đang định giết mẹ ngươi rồi bỏ trốn! Vì thế, ta bóc thư xem rồi hủy đi. Sau khi rời Ngũ Đài Sơn, ta đến thẳng đây, giả vờ nói rằng được sư phụ cử đi. Nhân lúc Vệ Hồng sơ ý. Ta giết lão, đoạt lấy chỗ này!
Nhương Thư lại nhận thêm cái nháy mắt của Đại Ngọc nên tìm cách kéo dài thời gian:
- Vậy sao trong ba năm qua lão không hề xuống hồ bắt Bạch Thủy Xà Vương thu lấy mật?
Trác Thiên Lộc cười hăng hắc nói:
- Ngươi không nhớ rằng lão phu suốt đời sợ rắn hay sao? Vả lại lão phu đâu có kém mắt mà cần đến mật của Bạch Thủy Xà Vương? Khi ngươi lên tiếng, ta mới nghĩ ra độc kế, vừa có mật rắn vừa diệt được mầm họa!
Chợt lão cau mày:
- Nhương Thư! Ta đã lục soát khắp ni am mà không thấy tấm bản đồ ! Mẹ ngươi không giữ thì chẳng lẽ là ngươi?
Nhương Thư cười nhạt:
- Lúc ta về chùa Phật Quang nào có mang theo vật gì đâu?
Tuy nói thế nhưng lòng chàng lại nhớ đến mảnh đồng tiền khắc đầy những nét kỳ lạ mà mình đeo nơi cổ hồi nhỏ để lấy phước, kỷ vật được chàng giữ gìn suốt ba năm lưu lạc, đến tuổi mười lăm mới tháo ra, hiện cất trong tăng xá ở chùa Phật Quang ! Phải chăng cha chàng đã thu nhỏ họa đồ lại, khắc lại trên một mặt của đồng tiền?
Bạch Ngọc Tiên Tử đã giải được huyệt đạo, cong người lên đạp vào Trác Thiên Lộc. Nếu trứng chiêu này thì lão không chết cũng trọng thương! Đáng tiếc thay họ Trác võ nghệ cao cường, vừa nghe tiếng dây chão kẽo kẹt là quay lại đỡ đòn ngay. Song thủ của lão đánh bạt đôi chân, rồi điểm nhanh những huyệt trên đùi và sườn đối phương.
Đại Ngọc tức tối và tiếc nuối cơ hội ngàn vàng này, bật khóc nức nở. Nhưng Nhương Thư thì lại thở dài thườn thượt.
Trác Thiên Lộc cười đanh ác:
- Nhương Thư! Lão phu sẽ cho ngươi được chứng kiến cảnh phong lưu hoan lạc lần cuối cùng! Ngươi càng đau khổ thì lão phu càng thấy khoái!
Nói xong, lão vươn tay khóa hàm Bạch Ngọc Tiên Tử, đề phòng nàng cắn lưỡi tự sát Lão tháo dây trói, đặt thân hình mềm rũ của Đại Ngọc xuống sàn nhà, rồi cởi y phục, chuẩn bị cưỡng bức nàng!
Dòng lệ tuyệt vọng, đau đớn tràn ra khỏi đôi mắt bi thương của nữ nhân.
Cảnh tượng này đã gợi lại cái chết thảm của mẹ hiền, khiến cơn giận sôi sục trong lòng Nhương Thư, song không có cách phát tiết, uất khí công tâm làm chàng thét lên một tiếng rồi hộc máu thành vòi.
Tình cờ, dòng máu nóng kia bay vào mặt Trác Thiên Lộc, chạm trứng mắt phải. Lão giận dữ, nhặt áo lau mặt, và kinh hãi vì cảm giác đau rát nơi tròng mắt, cứ như bị sát muối.
Đồng thời, sau khi hộc máu, Nhương Thư phát hiện một luồng chân khí nóng hổi từ đan điền cuồn cuộc lưu chuyển khắp người, giải tỏa những huyệt đạo bị phong bế. Công lực phục hồi, chàng mừng rỡ uốn người, phóng song cước vào ngực lão họ Trác. Lão đang khổ sở vì con mắt mờ đi và đau nhức khôn tả nên không tránh kịp chỉ đưa tay đỡ. Thân thể Trác Thiên Lộc văng vào vách tường. Lão hộc máu, nhưng vẫn còn đủ sức khập khiễng bỏ chạy.
Nhương Thư giật đứt dây trói tay, hạ xuống đất, lao ra ngoài để truy đuổi kẻ đại thù, nhưng lão ác ôn đã biệt tăm trong rừng cây rậm rạp. Lo cho Đại Ngọc, Nhương Thư bỏ cuộc quay lại dược thất.
Được giải huyệt xong, nàng ôm chàng khóc ngất. Nữ nhân dẫu thùy mị cũng có lúc nổi tam bành, Đại Ngọc vừa khóc vừa chửi:
- TỔ bà lão chết tiệt họ Trác! Thiếp mà bắt được lão thì sẽ móc mắt, chặt tay rồi mới giết!
Nhương Thư phì cười:
- Sao lại dã man thế?
Đại Ngọc hậm hực:
- Lão quỷ ấy làm gì thiếp bộ chàng không thấy sao?
Biết chắc Trác Thiên Lộc thọ trọng thương, không dám quay lại. Hai người quyết định ở lại đây thêm một đêm.
Giường chiếu đầy đủ, thực phẩm dồi dào.
Thạch ốc quả là một tổ ấm lý tưởng.
Mặc xong y phục, Lâm Đại Ngọc tò mò hỏi:
- Chẳng lẽ tướng công giỏi đến mức có thể phun máu mà đánh mù mắt Trác lão quỷ?
Nhương Thư đã suy nghĩ nhiều về điều này nên cười khổ:
- Không phải đâu! Hình như trong máu của ta có độc nên mắt lão Trác mới bị đau đớn như vậy !
Đại Ngọc kinh hãi lẩm bẩm:
- Hay là tinh huyết của Bạch Thủy Xà Vương mang độc tính?
Nàng vội bước đến kệ sách trên vách lục lọi, tìm được quyển Sơn Hải Kinh, lật ra xem. Đến trang nói về Bạch Thủy Xà vương nàng thấy có đoạn viết rằng "Tinh huyết lỏng chứa trong sừng Bạch Thủy Xà Vương ba trăm tuổi có lẽ là dược vị rất trân quý, song nó lại tuyệt độc nên dược tính chưa được nghiên cứu chu đáo!" Bạch Ngọc Tiên Tử rụng rời tay chân, mếu máo nói:
- Thiếp đã hại tướng công rồi!
Nhương Thư cũng đứng bên cùng đọc liền vỗ về:
- Ta thấy cơ thể vẫn khoẻ mạnh chứ đâu có hiện tượng gì khác! Có lẽ Quỷ Nấm ăn được năm xưa đã giúp ta kháng cự lại chất độc của máu sừng rắn!
Và chàng tươi cười:
- Hơn nữa, nến không nhờ máu chứa độc thì giờ đây ta cùng nàng đã sống dở chết dở dưới tay Trác Thiên Lộc rồi!
Đại Ngọc đỏ mặt, bắt Nhương Thư phải tĩnh tọa kiểm tra kinh mạch, trong lúc này nàng lôi xác Bạch Thủy Xà Vương ra phía sau mổ bụng. Nhương Thư tọa công thấy công lực tăng chút ít, kinh mạch thông suốt, có điều da thịt chàng dường như hơi bị căng cứng hơn bình thường! Nhương Thư biết là chuyện lạ nhưng không nói cho Đại Ngọc nghe làm gì Nữ nhân vốn hay lo lắng vu vơ, nhỏ xé ra to!
Mùi xào nấu từ căn bếp nhỏ phía động thạch ốc bay vào mũi Nhương Thư khiến con tỳ vị của chàng sôi sục. Lát sau, Đại Ngọc bưng mâm cơm lên đến, ríu rít nói:
- Tướng công! Nơi đây có cả loại gạo ngon của phương nam, gia vị, thịt khô đầy đủ, chúng ta ở lại đây cả tháng cũng không lo đói!
Nhương Thư ngỡ ngàng:
- Sao lại thế!? Sáng mai chúng ta sẽ rời đây rồi mà?
Bạch Ngọc Tiên Tử xụ mặt:
- Luyện võ ở đây cũng được, thiếp còn có điều kiện hầu hạ tướng công! Về chùa rồi gần nhau sao tiện?
Nhương Thư thực thà đáp:
- Nhưng máu của ta rất độc, đâu thể ân ái với nàng được?
Đại Ngọc hổ thẹn nguýt chàng:
- Tướng công kỳ cục quá! Thiếp nào phải vì chuyện ấy?
Rồi nàng đánh trống lảng, bới cơm, gắp thịt rắn cho Nhương Thư, rồi thúc g!ục :
- Tướng công ăn nhiều vào! Tim gan của Bạch Thủy Xà Vương chắc là rất bổ dưỡng!
Chợt nhớ đến túi mật, nàng tất tả chạy xuống bếp lấy lên, thuận tay sách luôn vò rượu Đại Ngọc cười bảo:
- Thiếp quả là đãng trí! Suýt nữa thì quên mất vật báu này! Tướng công hãy nuốt nó đi!
Biết nàng hối hận nên tìm đủ mọi cách để đền bù, Nhương Thư đành phải chiều ý, không hề phản bác, dù chẳng rõ hậu quả ra sao?
ăn xong, Đại Ngọc lo quét dọn tổ ấm, Nhương Thư thì đi một vòng quan sát địa thế, rồi quay lại xem tủ sách của Trại Tôn Tần. Chàng vốn là kẻ ham đọc nên thường mặc áo thư sinh. Nay nhìn thấy hàng trăm cuốn sách vở, liền háo hức lật xem.
Ngoài binh thư và sách kỳ môn trận pháp còn hiện diện vài chục quyển kinh phật. Trong đó có một quyển Đại Bát Nhã, bản in đời Tống. Nhương Thư tò mò muốn biết nó có khác bản in đầu tiên hay không, nên lục tay nải, lấy hộp gỗ đựng kinh mà Tất Cung Bảo đã tặng chàng ra so sánh!
Nhờ vậy chàng phát hiện một tờ rời kẹp trong quyển kinh đời Đường chi chít mấy trăm nét chữ rất nhỏ. Vẻ mặt kinh ngạc của Nhương Thư đã khiến Đại Ngọc chạy đến. Nghe chàng giải thích xong, Đại Ngọc căng mắt đọc thử. Nhận ra toàn là tên huyệt đạo và kinh lạc, nàng cau mày bảo:
- Tướng công! Có lẽ đây là một loại thần công thất truyền mà tất trang chủ muốn tặng chàng để đền ơn cứu mạng.
Giấy này không được tốt, Oá vàng và sắp mủn ra, chàng hãy cố học thuộc, sau này sẽ nghiên cứu!
Nhương Thư nghe lời nàng, cầm lấy lẩm nhẩm ghi vào óc. Thơ văn có câu cú mạch lạc nên dễ dàng nhớ, nhưng khẩu quyết võ công thì lủng củng, trúc trắc, chỉ nhớ sai thứ tự một huyệt là đủ vong mạng! Nửa canh giờ sau, Nhương Thư mới tự tin đã thuộc lòng, và mảnh giấy trên tay cũng rách nát. Chàng cẩn thận nâng niu, định ghép nó lại, bỏ vào quyển kinh thì Đại Ngọc hỏi:
- Tướng công thuộc chưa, đọc thử cho thiếp kiểm tra?
Nhương Thư liền đưa mảnh giấy cho nàng, đọc lại chẳng sai một chữ, Đại Ngọc mỉm cười, xoa tay biến tờ giấy kia thành bột và nói:
- Nó là của riêng tướng công đấy!
Nhương Thư bật cười:
- Đúng là đàn bà! Lúc nào cũng chỉ muốn trượng phu của mình hơn thiên hạ!
Bạch Ngọc Tiên Tử tủm tỉm đáp:
- Trung hậu như tướng công thì làm sao hiểu rõ lòng dạ nữ nhân?
Vũ khí đã rơi xuống đáy hồ. Nhương Thư bèn lấy thanh kiếm cũ treo trên vách xuống dùng. Có lẽ đây là di vật của Trại Tôn Tấn? Chàng luyện kiếm đến khi hoàng hôn tím lịm mới thôi. Cơm nước đã sẵn sàng, ngoài thịt Bạch Thủy Xà Vương kho còn có tô canh rau dại.Cảnh ấm cúng và hạnh phúc này đã khiến Nhương Thư thêm yêu mến Bạch Ngọc Tiên Tử. Tình cảm càng nồng thắm, sâu đậm hơn những gì chàng dành cho chị em nhà họ Điền. Tình yêu vốn là điều kỳ diệu nhất thế gian, không có quy luật và vượt ngoài yếu tố thời gian.
Tối hôm ấy, trò chuyện mãi mà chẳng thấy tướng công phất cờ khởi nghĩa, Đại Ngọc tấm tức bật khóc:
- Phải chăng tướng công chê thân thể thiếp đã Oâ uế dưới tay họ Trác nên không thèm đụng đến nữa?
Nhương Thư thở dài:
- Nào phải vậy! Ta chi sợ di hại đến nàng đấy thôi!
Đại Ngọc phụng phịu nói:
- Thiếp có cắn chàng chảy máu đâu mà ngộ độc?
Rồi nàng chủ động thoát y dâng hiến thân hình rũ mềm, gợi cảm cho Nhương Thư. Nàng nồng nhiệt gấp bội đêm qua, như muốn xóa tan nỗi ám ảnh của cuộc cưỡng bức lúc trưa? Lòng dạ Nhương Thư trong sáng, quảng đại nên không tỳ vết bởi tai nạn ấy, hào hứng đáp ứng, làm nguôi ngoại nỗi hổ thẹn và mặc cảm thất tiết của ái thê!
Lễ giáo thời xưa rất nghiêm khắc, khi nữ nhân có chồng mà bị gã đàn ông khác lột xiêm y, sờ mó cơ thể, thì cũng xem như bị hiếp. Nhiều người tự vẫn vì nhục nhã, dù trượng phu không hề bắt lỗi! Có lẽ Nhương Thư hiểu điều ấy nên nâng niu mãi người ngọc, mây mưa đến tận nửa đêm.
Đại Ngọc liên tiếp chơi vơi trên đỉnh sóng tình, hiểu rằng Nhương Thư vãn yêu mình như trước, mãn nguyện thiếp đi!
Nhương Thư không hề thấy mệt mỏi, biết ngay đấy là tác dụng của tinh huyết Bạch Thủy Xà Vương.
Cuối tháng mười đôi tình nhân mới rời tổ ấm, đi về Ngũ Đài Sơn, có mặt ở chân núi lúc trưa hôm mười bốn tháng mười một. Theo kế hoạch đã bàn, hai người chia tay nhau ở chốn này, Bạch Ngọc Tiên Tử về Lã Lương Sơn ăn tết với cha già, sang xuân sẽ đến chùa Phật Quang cùng Nhương Thư đi Nam Dương phó hội!

Hồi 6

Danh Chính Tâm Bất Chính
Biển Thước Phục Lương Ma

Lâm Đại Ngọc đi khuất, Nhương Thư vác bọc sách quý của Trại Tôn Tấn để lại, nhanh chóng thượng sơn. Đông về, tuyết phủ trắng những bậc thang của sơn đạo, chẳng hề làm chậm bước chân của một kẻ quen lên xuống! Xa chùa gần năm, nay trở lại, Nhương Thư nghe lòng rộn rã, bồi hồi như đứa con phiêu lãng hồi gia!
Chùa Phật Quang là một trong mười ngôi chùa lớn nổi tiếng ở Ngũ Đài Sơn, được xây dựng từ thời Hiến Văn Đế nhà Bắc Ngụy. Chùa quay mặt về hướng Đông, các công trình lần lượt nằm trên ba tầng bình đài. Đại điện nằm trên bình đài thứ ba, xây năm Đại Trưng thứ mười một nhà Đường (857), sau cùng là vách đá dựng đứng.
Cổng tam quan nằm ở tầng bình đài thấp nhất, gồm ba cửa, giữa lớn, hai bên nhỏ hơn, tượng trưng cho ba cửa giải thoát là Không Môn, VÔ Tướng Môn và VÔ Tác Môn.
ở hai bên cửa, có hai pho tượng Kim Cương lớn, tức Dạ Xoa, cầm binh khí bảo vệ chùa, cũng gọi là "Chấp Kim Cương".
Người đời sau, căn cứ vào truyện Phong Thần Diễn Nghĩa gọi hai pho tượng ấy là "Hanh Cáp Nhị Tướng!". Kỳ thực trong kinh Phật không có tên gọi đó !
Nhương Thư qua cổng tam quan, được bọn tiểu tăng quét tuyết trên sơn đạo mừng rỡ đón chào. Một gã trẻ tuổi mau miệng nói:
- Sư thúc làm gì giờ này mới hồi sơn, khiến cả chùa lo lắng vô cùng? Có bang chủ Cái Bang và Bất Trí Thư Sinh đến chờ đã mấy ngày nay rồi !
Và gã cười hì hì:
- Phen này sư thúc nguy rồi! Có ba vị nữ thí chủ họ Điền vì sư thúc mà đến đây ăn vạ!
Nhương Thư bối rối hỏi lại:
- Huệ Nghi ! Thế họ đang ở đâu?
Gã trợn mắt ra vẻ hào hứng:
- Tám ngày trước ba vị tiểu thư ấy thượng sơn, đòi bái kiến phương trượng.
Trước tiên, họ cúng đường cho chùa ta ngàn lượng vàng công đức. Sau đó mới thú nhận mình là vị hôn thê của sư thúc, xin phép được ở lại để đợi chờ! Phương trượng há miệng mắc quai, đành phải cho họ ngụ ở tiểu xá của sư thúc !
- Hèn gì sư thúc tổ Phật Đăng Thượng Nhân không cho sư thúc xuất gia! Sư thúc mới rời chùa chẳng bao lâu đã mang về đến ba vị hôn thê !
Nhương Thư rầu rĩ đáp:
- sai rồi! Năm chứ không phải chỉ ba đâu!
Trong lúc đám tiểu tăng trợn mắt kinh ngạc, chàng lướt nhanh lên bình đài thứ hai. Kiến trúc trên bình đài này là Thiên Vương Điện, trong thờ tượng Phật Di Lặc ở giữa, chung quanh phật là tượng thần hộ pháp - Vi Đà BỒ Tát và Tứ Thiên Vương. Trước Thiên Vương Điện có hai gác chuông !
Cơ ngơi quan trọng nhất và nổi tiếng nhất của Phật Quang Tự chính là Đại Hùng Bảo Điện, nằm trên bình đài cao nhất Đại điện này là công trình hiếm có trong nền kiến trúc cổ đại Trung Hoa. Nó gồm bảy gian, dài mười trượng, rộng hơn năm trượng. Mái điện trái đào, góc nhà cất cong lên.
Trong điện có ba mươi chín pho tượng đời Đường. Trên cột và xà có đề từ, trên tường có bích họa. Có thể nói là bốn loại hình nghệ thuật đời Đường đều tập trưng ở đây: kiến trúc, điêu khắc, thư pháp, hội họa! Sau đại điện là các công trình khác như thiền đường, pháp đường, tổ sư đường, phòng phương trượng, tàng kinh các Sơ lược vài nét thế thôi, vì Nhương Thư đã bị ba ả họ Điền túm lấy. Họ đang xúng xính áo cừu dạo trước sân ngắm cảnh thì phát hiện mục tiêu, liền xúm lại níu áo ! Nhương Thư ngượng ngùng gắt:
- Đây là Phật địa, các nàng phải giữ ý!
Điền Uyển Xuân nũng nịu nói:
- Công tử chớ lo! Phương trượng sư huynh rất mến bọn tiểu muội, chẳng la rầy gì đâu!
Bạch Cúc thản nhiên nói:
- Phật tổ ngày xưa cũng có vợ mà?
Mã Lan e ấp hỏi:
- Công tử có gặp gia tỷ hay không?
Nhương Thư giật mình:
- Có! Nhưng ta đã nhờ lão Tào ưng và một người nữa đưa Ngọc Trâm về Tế Nam hồi cuối tháng chín rồi mà!
Uyển Xuân tủm tỉm cười:
- Lúc ấy bọn tiểu muội đã rời nhà, tất nhiên không gặp!
Trong tri khách xá có người gọi vang:
- Tần hiền đệ! Ngươi còn chưa chịu vào nữa hay sao?
Đấy là giọng của VÔ ưu Cái Hầu MỘ Thiên! Thế là ba nàng lúp xúp theo Nhương Thư vào ra mắt các trưởng bối !
Chân Không phương trượng đang hầu trà hai khách quý, hiền hòa nói:
- Sư đệ về trễ vài ngày chắc lão nạp đến chết với ba nữ thí thủ đây! Ngày nào họ cũng đến hỏi han, khiến lão nạp rối cả óc!
Nhương Thư thẹn đỏ mặt, đền bù cho lão bằng quyển kinh quý đời Đường và mấy chục quyển sách khác cũng khá xưa!
Chân Không phương trượng tuổi bẩy mươi, chẳng giỏi võ công, chỉ chuyên về Phật pháp. Nay được tặng kinh báu, ông hoan hỉ phi thường, mang cả về phòng xem ngay cho thỏa.
Còn lại số sách về y học và thuật kỳ môn, Nhương Thư tặng luôn cho Bất Trí Thư Sinh! Cao Trường Toán cũng vui mừng khôn xiết, hết lời cảm tạ chàng. VÔ ưu Cái tinh quái hỏi:
- Lão phu nghe đồn hiền đệ và Bạch Ngọc Tiên Tử gặp phục binh, chạy thoát vào rừng, tao ngộ thế nào hãy kể thử xem?
Nhương Thư ngạc nhiên:
- Sao thiên hạ lại biết chuyện ấy mà đồn đãi?
vô ưu cái cười đáp:
- Trong mười tám hảo hán hôm ấy có không ít những kẻ lão luyện giang hồ, vừa bị thương đã giả chết thoát nạn, về kể lại!
Ba ả họ Điền nghe nhắc đến Bạch Ngọc Tiên Tử, lửa ghen sôi sục, đốc thúc Nhương Thư kể rõ ngọn ngành. Chàng không quen nói dối, đành phải thuật lại, nhưng giấu giếm những tình tiết gay cấn, những trận ân ái mùi mẫn. Tuy nhiên, chỉ cần ghe giọng ngập ngừng và ánh mắt ngượng ngùng, ai cũng biết chàng chưa nói hết sự thực!
VÔ ưu Cái cười, đỡ đòn cho Nhương Thư:
- việc hiền đệ thu dụng máu sừng của Bạch Thủy Xà Vương rất đáng ngại! May mà có Bất Trí Thư Sinh ở đây, lão ta sẽ xem thử thế nào?
Cao Trường Toàn gật đầu bảo:
- Lão phu đã nghĩ đến chuyện ấy! Giờ chúng ta đưa Tần công tử vào phòng kín để khám kỹ toàn thân mới được !
Tam tiểu thư Điền Bạch Cúc là người nói thật lòng mình, chẳng biết sợ là gì:
- Tần đại ca hôi hám quá! Để bọn tiểu nữ tắm cho y xong đã!
Thế là ba ả tố nga lôi Nhương Thư về tòa tiểu viện ở sườn núi hướng Đông Bắc, nới ẩn cư của thầy trò Nhương Thư, cách khá xa đại điện. Giờ đây, nó đã trở thành chỗ trú chân của ba chị em họ Điền.
Nhương Thư ngán sợ nhất là Bạch Cúc, nên chẳng dám cãi, Thực ra, lòng chàng lại rất tôn trọng bản chất thẳng thắn, cương liệt của nàng. Bạch Cúc đã yêu thì không thay đổi, sẵn sàng chết vì người mình yêu.
Đến nơi, Nhương Thư nhăn mặt khi thấy chốn thân yêu thay đổi diện mạo. Ba nàng tiểu thư thiên kim kia đã trang trí chỗ đơn sơ của chàng bằng màn trướng sặc sỡ, vật dụng đắc tiền và thơm ngát mùi son phấn! Trong nhà, bàn ghế, giường chiếu, bình phong, tủ kệ đều là thứ gỗ quý đắt tiền, thay thế những đồ cũ kỹ của chàng.
Nhương Thư rợn tóc gáy hỏi:
- Chẳng lẽ ba nàng định ở đây lâu dài?
Uyển Xuân cười nắc nẻ:
- Xuất giá tòng phu! Trước sau gì bọn tiểu muội cũng phải về ở Ngũ Đài Sơn này! Đây chỉ là chỗ tạm, nhà của chúng ta sẽ là trang viện của lão phú hộ dưới chân núi ! Chị em thiếp đã mua xong, đang cho sửa chữa, sơn phết lại, chắc chắn sẽ xong trước tết !
Mã Lan tiếp lời:
- Chân Không phương trượng sư huynh nổi tiếng giỏi thư pháp, đã đích thân viết tặng ba chữ Tần gia trang trên bảng gỗ ở đại môn.
Nhương Thư biến sắc, thở dài:
- Té ra Tần mỗ là kẻ nhờ vợ mà được giàu sang phú quý ư?
Câu nói chua chát này khiến ba nàng sợ hãi nhìn nhau. Nhưng họ lại thức ngộ rằng đây là lần đầu tiên Nhương Thư mở miệng chính thức công nhận thê thiếp!
Uyển Xuân láu lỉnh nháy mắt với hai chị, cùng nhau nghiêng mình bái:
- Cảm tạ tướng công đã thừa nhận mối lương duyên với bọn thiếp !
Nhương Thư cười khổ:
- Có nói ra cũng thế thôi! Tần mỗ nào phải là kẻ vô tình! Tuy nhiên, các nàng đừng đưa ta vào thế khó xử!
Điền Mã Lan chớp đôi mắt huyền u uẩn, dịu dàng phân giải:
- Tướng công vốn là bậc chân nhân thông đạt ý nghĩa nhân sinh, sao lại bận tâm vì chút tiểu tiết? Của cải trên đời như phù vân, chỉ có tình nghĩa là trường tồn, nhà cửa dẫu mang tên ai thì có quan trọng gì? Cuộc đời của chị em thiếp còn dâng cả cho tướng công, xá gì tài sản?
Nhương Thư cứng họng chịu thua:
- Thôi được! Ba nàng muốn làm gì thì làm!
Ba ả đắc ý cười khúc khích, xúm lại lôi kéo tình quân vào phòng tắm! Vài khắc sau, Nhương Thư sạch sẽ, tươi tỉnh tìm đến khách xá của VÔ ưu Cái! Bất Trí Thư Sinh lập tức tiến hành việc chẩn bệnh. Lão thăm mạnh hỏi han và trích lấy máu để nếm thử! Cao lão cau mày tư lự:
- Đúng là Quỷ Nấm đã trưng hòa được độc tính của tinh huyết Bạch Thủy Xà Vương. Hiện nay, trong máu của Nhương Thư không hề có độc. Tuy nhiên, chẳng hiểu vì sao mà dược lực chẳng thể phát tán để làm tăng tiến chân khí như y kinh đã nói?
Nhương Thư mỉm cười:
- Không biến thành độc nhân là may lắm rồi ! Tại hạ chẳng cần thu lợi !
Cao Trường Toàn lắc đầu:
- Có thu lợi rồi đấy chứ! Giờ đây, không có chất độc nào trên đời có thể làm hại ngươi được nữa!
VÔ ưu Cái hoan hỉ vỗ đùi:
- Hay lắm! Quả là trời đã giúp chúng ta!
Thấy Nhương Thư ngơ ngác, Hầu bang chủ giải thích:
- Số là thế này! Lão phu và Cao Trường Toàn đến đây tìm Tần hiền đệ vì một việc có liên quan đến ân oán của Phật Đăng sư bá, cũng là an nguy của võ lâm! Hơn hai mươi năm trước, Độc Biển Thước Tả Nho Quan đất Tứ Xuyên, một cao thủ độc môn khét tiếng tàn ác, đã bị Thượng Nhân và hai vị tiền bối võ lâm nữa khống chế, bắt lão ta suốt đời quy ẩn ở Thái Hoàng Sơn. Cái Bang có tránh nhiệm giám sát Độc Biển Thước suốt mấy chục năm qua, hơn nửa tháng trước đã phát hiện người của Tứ Phạn Thiên Cung và Chính Khí Trang đến tìm kiếm họ Tả. Dường như hai phe này đã phong thanh biết Tả Nho Quan ẩn cư ở tại núi Thái Hoàng, nhưng chưa rõ vị trí chính xác Nếu để họ lôi kéo được Độc Biển Thước thì võ lâm nguy mất. Vì vậy, Tần hiền đệ phải đi ngay đến đấy ngăn chặn!
Nhương Thư lấy làm lạ:
- Tại sao phải là tiểu đệ?
VÔ ưu Cái mỉm cười:
- Vì họ Tả chỉ khâm phục có mình sư phụ ngươi, tất sẽ nể mặt ngươi mà nghe lời khuyến cáo! Kỳ dư, bất cứ cao thủ bạch đạo nào vào Hắc ưng Cốc cũng đều bị giết!
Nhương Thư trầm tư hỏi lại:
- Nhưng nếu lỡ Độc Biển Thước quyết tâm tái xuất để hành ác thì sao?
VÔ ưu Cái nghiêm giọng:
- Lúc ấy, hiền đệ phải vì đại cục giang hồ mà trừ khủ họ Tả. Nếu không nỡ giết chết thì hãy phế võ công của lão ta!
Nhương Thư chấn động:
- Chẳng lẽ Độc Biển Thước lại đáng sợ đến thế sao?
Bất Trí Thư Sinh lên tiếng:
- Công tử không biết đấy thôi! Năm xưa, chỉ trong ba ngày, họ Tả đã phóng độc giết sạch hơn sáu trăm nhân thủ của Môn Sơn Trại. May mà đám nạn nhân đều là cường đạo nên võ lâm mới nương tay với Độc Biển Thước!
Lão rùng mình nói tiếp:
- Ngày ấy, bách tính gần đấy phải di tản vì mùi hôi thối của xác chết bốc lên c ả tháng trời vẫn chưa hết !
Nhương Thư nổi da gà nhăn mặt:
- Nghe kể sơ sơ cũng đã biết sự lợi hại của họ Tả! Tiểu đệ nối chí ân sư tất phải lĩnh tránh nhiệm này!
VÔ ưu Cái mừng rỡ nói:
- Hay lắm! Bọn lão phu sẽ đưa hiền đệ đến Hắc ưng Cốc!
Bàn bạc thêm một hồi lâu, Nhương Thư trở lại tiểu viện. Ba nàng nghe kể liền nằng nặc đòi theo! Chẳng lẽ mới gặp lại bắt họ phải xa, Nhương Thư đành nhượng bộ, nhưng chỉ cho phép ba nàng đi đến An Dương, rồi ở đấy chờ đợi, để mình chàng nhập cốc!
Gần cuối tháng mười một, bọn Nhương Thư tiến vào thành An Dương từ của Bắc, họ ngạc nhiên khi nhìn thấy nơi đây tràn ngập khách giang hồ, hắc bạch đều có đủ.
VÔ ưu Cái liền ngoắc một gã ăn mày lại để hỏi. Tên này báo cáo:
- Bẩm bang chủ! Gần đây xuất hiện một tin đồn rằng Thần Quang Chân Nhân Công Tôn Khuê thực ra đã tọa hóa ở Thái Hoàng Sơn chứ chẳng phải Thái Sơn! Có kẻ còn khẳng định rằng đã nhìn thấy con lươn lông trắng, chấm đỏ của Chân Nhân gặm cỏ tại bìa rừng chân núi Mộc Sơn!
Thế là bao hào kiệt các phủ lân cận đổ về như thác lũ! Các phái bạch đạo cũng không dám không tin!
VÔ ưu Cái bứt râu than trời:
- Thôi chết rồi! Độc Biển Thước hiện nay ở Mộc Sơn, quần hùng mà đến đấy xâm phạm Hắc ưng Cốc thì khó mà toàn mạng!
Bất Trí Thư Sinh tư lự:
- Có le Tứ Phạn Thiên Cung hoặc Chính Khí Trang đã bày ra chuyện này.
Tuy nhiên, thật là khó đoán dụng ý của họ!
Điền Uyển Xuân hồ hởi nói:
- Trăm nghe không bằng một thấy!
Chúng ta cứ đến đấy xem sê rõ ! Nhương Thư nhíu mày:
- Chốn thị phi, nguy hiểm ấy đâu phải chỗ của các nàng?
Uyển Xuân nũng nịu:
- Công tử! Tình thế đã đổi khác, giờ nơi ấy có cả ngàn người, lẽ nào bọn tiểu muội không thể đến?
Điền Bạch Cúc mỉm cười:
- Công tử không cho tháp tùng thì bọn tiểu muội đi riêng cũng được!
Nhương Thư ngao ngán:
- Thôi được ! Ta chịu thua các nàng rồi !
Ba ả mừng rỡ cười khanh khách, thúc giục đám nam nhân đi vào phạn điếm gần đấy để dùng cơm trưa! Hồng Xương Đại Tửu Điếm nổi danh với những món ăn Quảng Đông, tuy chỉ có một tầng nhưng lại rộng mênh mông, bày được cỡ trăm bàn!
Giờ đây, hào khách võ lâm ngồi chật cứng khiến kẻ mới vào ngại chẳng có bàn. Quần hào xôn xao khi thấy có bóng hồng xuất hiện, và xuýt xoa ganh ty với diễm phúc của Nhương Thư, có kẻ thì nói bâng quơ:
- Gã họ Tần này tốt số thật! Song làm thân kiếm khách mà lúc nào cũng kè kè mỹ nữ thì còn gì chí khí trượng phu nữa?
Hắn nói rất lớn nên ai cũng nghe thấy, chú mục nhìn về phía ấy. Thì ra là một hán tử tuổi độ ba mươi sáu, tướng mạo nghiêm trang, oai võ và đoan chính. Có người nhận ra lai lịch vội nói lớn lên để khoe khoang:
- Chính Tâm Kiếm Khách Đường Khả Toại!
Đường Khả Toại là con út của Đường Gia Tứ Xuyên, nổi danh quân tử đất Thục, thường trừ gian giết bạo, xem kẻ ác như cừu nhân! Võ công của gã rất lợi hại, nhờ có ám khí tuyệt độc của Đường Môn.
Nhương Thư không biết gã là ai, và cũng chẳng hề giận, thản nhiên cùng năm người kia an tọa. Nhưng Uyển Xuân thì không nhịn nổi, hậm hực nghe người xung quanh xầm xì. Có kẻ khen Nhương Thư rộng lượng, người bảo chàng sợ ám khí nhà họ Đường. Nàng ghé tai Bất Trí Thư Sinh hỏi nhỏ:
- Cao tiền bối! Chẳng hay gã Đường Khả Toại kia đã lập gia thất hay chưa vậy?
Cao Trường Toàn cười đáp:
- Chưa ! Thực ra, gã chỉ là kẻ nguy quân tử, cố che dấu bản chất tiểu nhân bằng những hành động anh hùng hiệp nghĩa! Đường Khả Toại vốn hiếu sắc, trác táng từ năm mười sáu, đến tuổi hai mươi ngoài thì bị liệt dương, vì thế mới đóng vai đạo mạo!
Uyển Xuân cười khúc khích:
- Vì sao tiền bối lại kể rõ nhược điểm của gã như thế, phải chăng người muốn xuân Nhi trát bùn lên mặt họ Đường?
Bất Trí Thư Sinh gật đầu:
- Phong hóa suy đồi cũng bởi những tên đạo đức giả! Chúng còn đáng sợ hơn những kẻ ác thực thụ! Tuy nhiên, gây oán với lũ tiểu nhân là việc chẳng nên!
Đường Môn mà trở thành kẻ thù của Nhương Thư thì rất tai hại, Xuân Nhi hãy bỏ qua việc này!
Điền Mã Lan ngồi sát bên em gái nghe được liền nhỏ nhẹ:
- Cao tiền bối dạy rất phải! Tứ muội hãy vì tướng công mà nhẫn nhục !
Uyển Xuân giận dỗi:
- Tiểu muội xin nghe lời, nhưng nếu gã chó chết ấy còn mở miệng ra lần nữa thì tiểu muội sẽ ra tay đấy!
Cơm rượn được dọn lên, sáu người ăn uống vui vẻ vì ba nữ nhân tranh nhau gắp cho Nhương Thư. Tiếng cười rúc rích của họ khiến đám lão hán xao xuyến, thầm trách tổ tiên mình ăn ở kém đức nên con cháu không được như Tần Nhương Thư!
Có vài người vì ngưỡng mộ mà đứng lên nâng chung mời Nhương Thư cạn chén ! Chàng ngượng ngùng đáp :
- Cảm tạ túc hạ ! Thư này không quen uống rượn, xin được phép nhấp môi!
Như thế cũng đủ vui, đám hào khách nhao nhao mời rượn chàng hiệp sĩ lừng danh và luôn khiêm tốn. Chính Tâm Kiếm Khách cũng làm thế, nhưng lại kèm theo một câu nói đùa:
- Tại hạ ghen với cảnh "chuột sa hũ nếp" của công tử đấy!
Đường Khả Toại cười khanh khách song toàn trường lại lạnh gáy, chờ đợi phản ứng của Nhương Thư! Nào ngờ, chàng trai họ Tần chẳng hề có sắc giận, ngượng ngùng cười đáp:
- Có lẽ nhờ kiếp trước dày công tu hành nên kiếp này Tần mỗ mới được thế này!
Uyển Xuân giận dỗi đỏ mặt, định phát tác thì bị Mã Lan giữ lại. Nhưng tiểu thơ Điền Bạch Cúc đã đứng dậy, nghiêm nghị noi:
- Đường Khả Toại! Tướng công của bọn ta rộng lượng không chấp tiếng sủa của chó điên, chứ không phải vì sợ hãi Đường Môn! Ngươi tự xưng là bậc quân tử sao lại mở miệng khích bác, xúc phạm người khác như vậy?
Khi giận dữ, mặt nàng đỏ hồng, mắt phượng long lanh, uy nghiêm như mẹ chửi con, khiến quần hào phục lăn, vỗ tay tán thưởng! Đường Khả Toại nhục nhã đến tái mặt, song vẫn điềm tĩnh đáp:
- Ta chỉ đùa không ngờ lại bị hiểu lầm!
Bậc trượng phu chẳng chấp nữ nhi, nhưng Tần Nhương Thư phải đứng ra tạ lỗi, nếu không thì máu sẽ đổ!
VÔ ưu Cái cau mày nói nhỏ:
- Lạ thực ! Dường như hắn cố tình khiêu chiến Nhương Thư! Tần hiền đệ hãy cẩn thận!
Điền Uyển Xuân nổi tam bành, ong óng mắng họ Đường:
- Nữ nhi không đáng trọng sao? Mẹ ngươi cũng là đàn bà đấy thôi, hay ngươi chui từ lỗ nẻ ra?
Thực khác phá lên cười hô hố, chế giễu họ Đường. Thế mà gã vẫn không nao núng, đốc thúc Nhương Thư:
- Tần công tử tính sao?
Bất Trí Thư Sinh nãy giờ quan sát sáu người ngồi chung bàn với Chính Tâm Kiếm Khách, chợt nhận ra một lão già bảy mươi, có vẻ quen quen. Quá khứ hiện về trong ký ức, Cao Trường Toán đã biết lão mũi ưng có vành tai trái cụt mất thùy châu kia là ai. Bất Trí Thư Sinh run giọng bảo:
- Thì ra Đường Khả Toại là người của Báo ứng Hội!
Nhương Thư giật bắn mình, lòng ngập tràn sát khí Sau lần chạm trán Trác Thiên Lộc, chàng đã biết kẻ giết cha mình là Báo ứng Hội! VÔ ưu Cái vội nhắc nhở:
- Hãy bình tâm mà đối phó! Ngươi quên mình là đệ tử của ai rồi sao?
Nhương Thư tỉnh ngộ, gật đầu để trấn an lão rồi đứng lên:
- Đường túc hạ cố tình khiêu chiến, Tần mỗ chẳng thể chối từ được! Xin mời ra vườn cho rộng chỗ!
Vườn sau của Hồng Xương Đại Phạn Điếm tuy rất rộng rãi nhưng lại chẳng hề được chăm sóc, chỉ là chỗ cho thực khách thả ngựa! Giờ đây, mặt cỏ úa loang lổ vì tuyết đọng từng mảng. Mấy trăm hào kiệt đã kéo cả ra để xem đấu võ khiến lão chưởng quỷ bối rối vì chưa ai tính tiền cơm. Nếu họ hỗn chiến rồi bỏ chạy thì xem như quán lỗ vốn to !
Hai đấu thủ đứng cách nhau hơn trượng, mặt mũi hiền hòa chẳng có chút sát khí Đường Khả Toại tươi cười, vòng tay nói:
- Gia mẫu luôn luôn nhắc đến lệnh sư với lòng tôn kính vô vàn, nay tại hạ phải so tài với công tử cũng là điều bất đắc dĩ.
Việc này cũng là do lỗi của tại hạ đã lắm lời, chỉ xin lĩnh giáo trăm chiêu rồi rút lui ngay!
Nhương Thư cười đáp lễ:
- Tại hạ cũng từng nghe tiên sư tán dương gia phong Đường Môn Tứ Xuyên, quyết chẳng phụ lòng Đường Lão Thái !
Đường Khả Toại không hiểu rõ câu nói ấy, chỉ đoán rằng đối phương sẽ không quá quyết liệt Nhương Thư nói tiếp:
- Tại hạ kém tuổi, xin được phép xuất thủ trước!
Giọng chàng hơi run nhưng chỉ người thân mới biết vì sao! Nhương Thư dựng kiếm trước ngực, chậm rãi tiến lên bốn bước rồi bất ngờ hóa thành luồng kiếm quang, bốc lên cao rồi xa xuống đầu đối thủ.
Đòn chớp mắt này đã vượt ngoài dự liệu của Đường Khả Toại. Gã kinh hoàng múa kiếm chống cự, còn tay tả xuất hiện vũ khí lừng danh là Hỏa Lân Đồng. Một tiếng nổ đinh tai phát ra, và chiếc ống thép dài gần gang kia phun luồng lửa đỏ rực, trùm lấy Nhương Thư. Trong lưới lửa ấy còn ngầm chứa mấy trăm mũi độc châm nhỏ như lông bò, có khả năng xuyên thủng bất cứ luồng chân khí nào, kể cả lớp da bền chắc của những người luyện Thiết BỐ Sam.
ám khí tuyệt độc này là vật chí bảo của Đường Môn Tứ Xuyên, chỉ mình Đường Lão Thái được quyền sừ dụng trong trường hợp cấp bách. Thế mà giờ đây, Đường Khả Toại mang theo trong người, chứng tỏ gã quyết tâm hạ sát Nhương Thư. Nếu song phương giao đấu bình thường, chắc chắn Nhương Thư khó thoát chết dưới đòn ám tập của loại vũ khí khủng khiếp này.
Bọn Báo ứng Hội đã tính toán rất chu đáo khi sừ dụng Đường Khả Toại, do mối giao tình giữa Đường Gia Tứ Xuyên và Phật đăng thượng Nhân. Nghĩa là Nhương Thư dù bị khiêu khích cũng không dám nặng tay với Đường Ngũ C ông Tử !
May thay, bên cạnh Nhương Thư lại có Bất Trí Thư Sinh, và lão này đã nhận ra một cao thủ của Báo ứng Hội. Thù cha đã khiến Tần Nhương Thư thi triển phép ngự kiếm ngay trong chiêu đầu. Chàng nóng lòng kết liễu Đường Khả Toại sớm để còn hỏi tội lão nhân bị đứt thùy châu kia.
Nhờ Ngự Kiếm Thuật mà luồng kiếm quang quanh thân chàng dày đặc, kín đáo và kiên cố như tường đồng vách sắt, xem thường cả lửa hồng lẫn độc châm.
Nhương Thư dũng mãnh vượt qua vũ khí trấn môn của Đường Môn, ập xuống như lôi thần chính Tâm Kiếm Khách lại thành danh chẳng phải nhờ kiếm nên cũng chống đỡ một cách tuyệt vọng. Song Nhương Thư nhớ lời sư phụ nên không giết con cháu họ Đường, chỉ chặt đứt cánh tay tả của gã, và điểm vào huyệt BỘ Lang trên sườn trái.
Sau tiếng rú thảm khốc của Đường Khả Toại là tiếng quát sang sảng của VÔ ưu Cái:
- Bắt lấy sáu tên Báo ứng Hội !
Uyển Xuân tiếp lời ngay:
- Môi tên trị giá ngàn lượng bạc!
Thế là bọn hào khách mừng rỡ rút vũ khí lao vào sáu tùy tùng của Đường Khả Toại. Mật ít ruồi nhiều, ai cũng sợ mất phần nên tranh giành nhau mà tấn công, chỉ tổ vướng tay vướng chân. Vì thế sáu sát thủ lão luyện kia chẳng hề nao núng, sát cánh chống cự.
Kiếm pháp của Báo ứng Hội không hoa mỹ, đẹp mắt, nhưng lại vô cùng chuẩn xác và độc ác. Tay tả của họ lại liên tiếp bắn ra những mũi độc châm đả thương liền bảy tám hảo hán giang hồ.
Quần hào động nộ, vét túi trút hết ám khí thủ thân vào sáu gã cứng đầu kia.
ám khí vốn là công phu tiểu xảo, rất dễ luyện và cũng rất hữu dụng. Do vậy, trừ những kẻ tay chân quá vụng về hoặc mắt kém, hầu hết khách giang hồ đều cố luyện nghề ám khí. Dễ nhất là phi tiêu, tụ tiễn. Nhờ có cánh ở đuôi nên luôn bay thẳng, còn khó nhất chính là liễu diệp phi đao và độc châm.
Trong số ngoại lệ phải kể đến những bậc đại hiệp chính phái, xem ám khí kém phần quang minh nên không thèm luyện.
Thật ra, ám khí rất hữu dụng trong cả đơn đấu lẫn loạn chiến. Ngay bản thân Nhương Thư cũng rèn luyện thủ pháp phóng hạt thiết bồ đề, song chàng lại chẳng bao giờ mang theo!
Quay lại với đấu trường, ta sẽ thấy một trận mưa ám khí đủ loại bao phủ sáu gã sát thủ Báo ứng Hội. Bọn hảo hán đã lùi xa nên không còn sợ độc châm nữa, và những ám khí nặng của họ phát huy được uy lực! Rốt cuộc có năm cái bia bị hạ gục, chỉ còn lại mình lão già áo đen mũi ưng Quần hào mừng rỡ reo hò:
- Năm ngàn lượng !
Và ai cũng nhận rằng chính ám khí của mình đã chạm đích đầu tiên! Nhương Thư bước vào, lạnh lùng hỏi lão cụt tai:
- Phải chăng chính Báo ứng Hội đã giết cha ta hồi hai mươi mốt năm trước?
Lão hắc y căm hờn rít lên:
- Đúng vậy! Cha ngươi, Tần Tử Chính, đã phản bội bổn hội, cướp lấy báu vật nhà họ Mao! Ngươi muốn được yên thân thì hãy hoàn trả lại vật ấy cho bổn hội !
Quần hào không ngờ Nhương Thư lại là con của một tên đạo tặc, xầm xì bàn tán, chẳng xem trọng chàng nữa! Ba ả họ Điền không vui khi nhận ra thái độ chê bai của bọn hảo hán kia!
Dù xã hội Trung Hoa không phân biệt giai cấp rõ rệt như ấn Độ, người thuộc hạng cùng đinh mà có tài thì cũng vẫn có thể trở thành quan to hay bậc danh sĩ. Tuy nhiên, tâm lý quần chúng vẫn mang nặng vấn đề dòng dõi, xem trọng những ai xuất thân từ thế gia vọng tộc. Nhương Thư lại có cha là ăn cướp thì quả là nhục nhã cho chàng và các nàng dâu!
Nhương Thư tu hành từ nhỏ, hiểu rõ nghiệp quả, nhân duyên nên chẳng hổ thẹn vì phụ thân, điềm đạm đáp:
- Tần mỗ hiện dang giữ vật ấy! Túc hạ hãy về bảo quý hội chủ mang đầu của Trác Thiên Lộc đến núi Xáp Vân, đúng ngày đầu tháng hai tới mà đổi lấy!
Lão nhân mũi ưng biết mình thoát chết thở phào nói:
- Được ! Họ Trác hiện đang ở tổng đàn của bổn hội nên việc giết lão chẳng hề khó! Mong công tử giữ lời hứa!
Nói xong lão quăng ra một lọ sành đựng thuốc giải để chữa trị cho những người trứng độc châm. Nhờ vậy vòng vây mới dán ra, chừa sinh lộ cho lão ta mang Đường Khả Toại đi!
Chủ quán đã báo quan nên bọn công sai kéo đến. Gặp VÔ ưu Cái họ chẳng dám hạch sách, chỉ làm án văn qua loa rồi đưa năm xác chết đi! Không chờ bị đòi nợ, Uyển Xuân mau mắn lấy ra sáu ngàn lượng bạch ngân bằng ngân phiếu, vui vẻ trao cho bọn hào khách để họ chia nhau.
Vị chi, mỗi người cũng được hai ba chục lượng, ai nấy hớn hở nói lời cảm tạ!
Bạch Cúc còn bảo em gái thanh toán hết chi phí ăn nhậu của quần hào, càng thu phụ được nhân tâm! Đúng là giàu vì bạn, sang vì vợ, thái độ hào phóng, cởi mở của ba nữ nhân đã khiến mọi người quên ngay gốc gác của Nhương Thư, xin tháp tùng bọn chàng đi Thái Hoàng Sơn.
Chiều hôm sau, đoàn người rầm rộ tiến vào Trấn Sơn Hòa, cách chân núi Mộc Sơn vài dặm. Những tên tiểu cái ở đây đã dễ dàng tìm ra chỗ trọ cho bang chủ, trong nhà một phú hộ họ Trang.
Trang nhị giàu có và nhân hậu, thường bố thí cho kẻ khốn cùng. Trái lại, bọn khất cái đã quanh quẩn gần Trang gia trang để bảo vệ, khiến cho bọn đạo chích không dám bén mảng! Nay được chúa ăn mày giá lâm, Trang nhị hân hoan đón tiếp, bố trí ba phòng đẹp nhất, và mở tiệc thịnh soạn mà đãi đằng.
Tối hôm ấy, VÔ ưu Cái và Bất Trí Thư Sinh đến phòng Nhương Thư. Hầu lão nghiêm giọng:
- Nay gốc gác ngươi đã bị tiết lộ, và đương nhiên phe tà ma sẽ khai thác việc ấy để khiến ngươi nhụt chí, rơi vào cảnh thân bại danh liệt. Nhưng ngươi lại là cột trụ chống đỡ võ lâm, quyết không được vì những lời nhục mạ, chê bai của thiên hạ in à suy sụp !
Nhương Thư cười buồn:
- Cha ăn mặn con khát nước là chuyện thường tình! Tiểu đệ sẽ cố nhẫn nhịn, giả điếc là xong!
Bất Trí Thư Sinh nhấp hớp trà, nhăn vầng trán dô thông tuệ, tư lự bảo:
- Tần hiền đệ thử cho bọn lão phu xem di vật mà lệnh tôn đã để lại!
Nhương Thư vội tháo sợi dây tơ treo đồng tiền trên cổ xuống, đưa cho lão Cao Trường Toán. Lão căng mắt nhìn những hoa văn ở mặt đồng tiền, lắc đầu chịu thua, về phòng lấy dụng cụ. Đấy là một mảnh pha lê trong suốt, dạng bán cầu, có tắc dụng phóng to những hình ảnh đặt phía dưới, Bất Trí Thư Sinh vừa xem vừa vẽ lại ra giấy, với kích thước lớn hơn nhiều lần.
Ba người sửng sốt khi nhận ra một ngọn núi có mây vờn quanh, và rải rác những chữ của hai câu thơ:
Huynh đệ tương tàn tâm toái hếu Ly sơn cố thổ vinh nan hồi!
Dịch:
Anh em chém giết lòng tan vờ Đất cũ Ly Sơn chẳng dám về!
VÔ ưu Cái thảng thốt nói:
- Đây đâu phải họa đồ đưa đến mộ phần của Thần Quang Chân Quân, mà chỉ là chút tâm sự của Tần Tử Chính ký thác cho Nhương Thư mà thôi !
Bất Trí Thư Sinh thì phân vân:
- Nhưng năm xưa Tần Tử Chính bị giết chết trên đường đưa Nhương Thư về thăm quên nội mà?
Rồi lão hỏi lại:
- Tần hiền đệ! Lệnh đường có nói về xuất xứ của đồng tiền hay hay không?
Nhương Thư gật đầu:
- Gia mẫu kể rằng vật ấy có trên cổ của tiên phụ từ lúc họ mới quen nhau. Sau khi tiểu đệ ra đời thì tiên phụ mới đeo vào cổ Ĩ hư này !
Cao Trường Toán nhíu mày suy nghĩ, ngón tay nhịp đều trên một chiếc bàn. Lát sau lão kết luận:
- Lão phu đã cân nhắc mọi lẽ, chọn ra giả thuyết là Tần Tử Chính còn một người anh em trai nữa, và nhà ở gần núi Ly Sơn, Thiểm Tây! Sau khi Tần Tử Chính ám toán Trác Thiên Lộc, liền chạy về Ly Sơn. Anh em họ đã đánh nhau và một trong hai người táng mạng, Người còn sống hối hận bỏ nhà đi, lưu lạc đến Trường Sa, lấy mẹ của Nhương Thư!
Nhưng khi có con trai, ông ta lại muốn nó trở thành cao thủ võ lâm nên trở lại Ly Sơn để lấy tấm bản đồ quý báu kia!
VÔ ưu Cái bác ngay:
- Không hợp lý lắm! Tần Tử Chính là sát thủ chuyên nghiệp, lòng dạ tàn nhẫn, dám ám toán cả đồng đảng là Trác Thiên Lộc để đoạt bảo, thì sao lại hối hận và để họa đồ ở lại nhà mà làm gì? Có nặng nề, cồng kềnh đâu mà không mang theo được?
Cao lão mỉm cười đắc ý:
- Hầu lão ca nói chí phải, nhưng lại không để ý tiểu đệ dùng chữ "người còn sống" chớ chẳng nêu tên Tần Tử Chính.
Nghĩa là cha của Nhương Thư lỡ tay giết chết Tần Tử Chính nên mới chôn cả họa đồ theo xác, lấy tên người chết làm tên mình để vơi bớt mặc cảm tội lỗi!
Nhương Thư nghe rất hữu lý, buộc miệng nói:
- Thế thì họ phải là anh em song sinh nên Báo ứng Hội mới không nhận ra sự khác biệt!
VÔ ưu Cái vỗ đùi khen:
- Đúng vậy! Giờ chúng ta chỉ cần đi núi Ly Sơn một chuyến, hỏi xem nhà họ Tần nào đã sinh đôi hai đứa con trai là rõ ngay!
Hai lão về rồi, Nhương Thư còn ngơ ngẩn vì những bí ẩn trong lai lịch của phụ thân! Chàng chợt hổ thẹn khi phát hiện mình mong mỏi không phải là con của Tần Tử Chính! Thì ra việc ấy cũng đã âm thầm khiến chàng hổ thẹn! Dù sao có cha làm đạo tặc, giết mướn chẳng dễ chịu chút nào !
chàng cũng hiểu nỗi khổ tâm của ba nàng dâu kia, liền lần sang phòng họ để chia sẻ bí mật. Họ ở cách phòng chàng một vườn hoa nhỏ, giờ đây vẫn còn thức mà trò truyện! Nhương Thư định gõ cửa thì nghe nhị tiểu thư Điền Mã Lan nói:
- Tội nghiệp tướng công! Liệu chàng có chịu đựng được cái gia thế oan nghiệt ấy hay không nhỉ? Chị em ta phải gắng sức an ủi chàng mới được !
Bạch Cúc chậm rãi lên tiếng:
- Có gì mà phải bận tâm? Minh Thái TỔ Chu Nguyên Chương chẳng đã từng làm giặc đấy sao?
Nhưng điền Uyển Xuân thì lại lo lắng:
- Tiểu muội chỉ sợ cha sẽ buồn đấy mà thôi!
Câu nói này đã khiến Nhương Thư tư lự, lặng lẽ quay trở về phòng riêng!
Mờ sáng hôm sau, Nhương Thư cùng hai trăm hảo hán giang hồ tiến về núi Mộc Sơn! Quang cảnh nơi đấy cực kỳ náo nhiệt, với hàng ngàn chiếc lều vải trải suốt chiều dài của bìa cánh rừng dưới chân núi !
Khói bếp nghi ngút bốc lên hòa với màn sương tuyết lất phất, tạo nên chút sương mù hiếm hoi lúc đông về. Mọi người đang chuẩn bị cơm sáng, ăn thật no và mang theo để lót dạ buổi trưa! Phân đàn chủ Cái Bang đã túc trực nơi đây từ vài ngày trước, giờ đến báo cáo:
- Bẩm bang chủ! Quả thực là trong khu rừng rậm dưới chân núi Mộc Sơn này có xuất hiện một con lươn lông trắng, lấm tấm chấm đỏ. Nó chỉ lớn hơn con chó, song chân dài, chạy nhanh như gió, luồn lách như chồn, nên chẳng ai bắt được. Vả lại, khu rừng kia rất rậm rạp, tối tăm, đầy những bụi gai lớn bằng nửa căn nhà.
Huyết Hoa Lộc mà chui vào đấy thì có trời mới tìm ra!
VÔ ưu Cái ngắt lời thủ hạ:
- Thế đã có ai tiến sát vào chân núi Mộc Sơn chưa?
- Bẩm chưa! Quần hùng mải mê bắt lươn quý, vì trước sau gì nó cũng phải chạy về hang, khi bị đuổi quá rát!
VÔ ưu Cái thở phào:
- May thực ! Chúng ta vẫn chưa quá trễ !
à! Tình hình hai phe Tứ Phạn Thiên Cung và Chính Khí Trang ra sao?
Phân đà chủ An Dương đáp :
- Bẩm bang chủ! Hai lực lượng ấy cũng đều kéo hết cao thủ đầu não đến đây Tứ Phạn Thiên Cung do Thanh Linh Thủy Lão Đệ Nhị Đại âu Dương Lăng thống lãnh, còn Chính Khí Trang do trang chủ Lã Tập Hiền! Hai phe này giả vờ không nhìn thấy nhau, chỉ dồn sức truy bắt Huyết Hoa Lộc!
Bất Trí Thư Sinh nhăn trán:
- Lạ thực! Chẳng lẽ còn có lực lượng thứ ba, là kẻ đứng sau chiếc bẫy này!
VÔ ưu Cái gật đầu:
- Có thể lắm!
Rồi ông dặn dò thủ hạ:
- Ngươi hãy điều đệ tử bổn bang đi thông tri cho người của các phái bạch đạo rằng lão phu đã đến đây, và yêu cầu họ tập trưng lại thành một mối, tiến vào sau cùng, chờ lệnh mới được ra tay!
Sau khi gởi ngựa cho đám tiểu cái. Phe Nhương Thư tiến vào rừng. Quần hùng không hề nhận ra vì chàng mặc áo cừu, đội mũ lông rất kín đáo! Vả lại, Huyết Hoa Lộc chỉ xuất hiện khi mặt trời đã lên được hai sào, ai đi sớm cũng chỉ hoài công, để ý là quái gì!
vô ưu cái đã quá quen thuộc đường vào Hắc ưng Cốc, đưa cả đoàn tiến lên rất nhanh. Khi còn cách chân núi hơn dặm, cây cối khá thưa thớt, và Uyển Xuân là người đầu tiên thấy con lươn hiếu động, chẳng chịu ngủ Đông kia.
Nàng khẽ rú lên:
- Huyết Ho a LỘ c ! Trời ơi ! Nó đẹp và dễ thương quá !
Cả bọn vội dừng chân, nấp sau một bụi cây để ngắm nhìn, quả xứng danh là thần vật trên đời, Huyết Hoa Lộc mang bộ lông trắng muốt, điểm những chấm sao đỏ hung. Trên đầu có sừng bốn nhánh không dài. Và do nó đứng ở đầu hướng gió nên bọn Nhương Thư nghe được mùi xạ hương thơm hăng hắc, thơm thơm. Bất Trí Thư Sinh giải thích:
- Con vật này là lai giữa hươu sao và hươu xạ nên lông có đốm, đầu có sừng, và có cả túi xạ, thu đông là mùa sanh dục, con lươn này đang tỏa mùi rất mạnh để tìm bạn tình!
Điền Mã Lan thì thào ao ước:
- Giá mà chị em ta có được nó để nuôi?
VÔ ưu Cái phì cười:
- Ngươi muốn cả võ lâm kéo đến đốt nhà ư?
Lão cười hơn lớn nên Huyết Hoa Lộc nghe thấy, phóng đi mất dạng. Bọn Nhương Thư tiếp tục đi, nửa khắc sau tiếp cận một khoảng rừng nhỏ hình cánh cung, ôm lấy vách núi Mộc Sơn. Xa xa chợt vọng lại tiếng hắt hơi của ai đó, VÔ ưu Cái giật mình bảo:
- Có người vào! Chúng ta hãy nấp lên cây xem chúng là ai, đến đây vì tình cờ hay có chủ ý!
Năm người kia vội làm theo ý ấy! Ba nữ nhân nũng nịu bắt Nhương Thư giúp đỡ mình vì cành quá cao. Chàng mỉm cười ôm từng nàng nhảy lên, bị họ bắt phải ngồi chung trên một chạng ba chật chỗ i !
Sau mấy chục ngày xây tổ ấm với Bạch Ngọc Tiên Tử, Nhương Thư trở thành kẻ lịch duyệt chốn tình trường, quen mùi ân ái nên bạo dạn hơn xưa. Giờ đây, chàng đặt Mã Lan vào trong lòng, còn hai nàng kia thì ôm chặt vai. Hơi ấm của cơ thể và mùi phấn son, nước hoa trùm lấy Nhương Thư, mang lại cảm giác hạnh phúc ôn nhu. Chàng bất ngờ hôn vào má ba ả tố nga, khiến họ hài lòng và sửng sốt. Uyển Xuân ranh mãnh thì thầm:
- Phải chăng tướng công từng âu yếm gia tỷ như vậy?
Yù nàng ám chỉ HỔ Hồng Nhan, Nhương Thư khẽ gật đầu, ánh mắt sượng sùng vì nhớ đến trưa nào dưới suố i !
Phe đối phương đã vào đến nơi, đông đến bốn năm chục, phe võ phục vàng, phe đạo bào trắng. Lã Tập Hiền thì đã quá quen. Nhương Thư chăm chú nhìn gã đạo sĩ không râu đầu đội mũ Kim Quan, chàng đoán đấy là Thanh Linh Thủy Lão Đệ Nhị Đại âu Dương Lăng, kẻ vừa lên kế nghiệp cha!
Tuy nội gián của VÔ ưu Cái về báo rằng võ công của Tân Thủy Lão không cao, song Nhương Thư lại nghi ngờ điều ấy! Sắc diện và thần khí của âu Dương Lăng rõ ràng là của một kiếm khách thượng thừa. Là kiếm sĩ, Nhương Thư đủ kinh nghiệm để nhận ra kình địch của mình. Sĩ tốt của phe tà mà dàn hàng ngang bảo vệ vòng ngoài, chỉ còn lại đám đầu sỏ cùng nhau đối đáp.
Bọn Nhương Thư nín thở, chẳng dám gây ra bất cứ tiếng động nào, Nếu bị phát hiện, họ hoàn toàn không có cơ hội thoát thân! Đây cũng là dịp may hiếm có để họ hiểu rõ dã tâm của Lã Tập Hiền. Họ Lã lên tiếng:
- âu Dương Cung Chủ ! Nay chúng ta đã lập đàn thề thốt, nguyện chia đôi thiên hạ, vậy mong Cung Chủ tiết lộ vì sao chúng ta lại tung ra tin tức về Huyết Hoa Lộc, để cả võ lâm kéo đến đây?
âu Dương Lăng mỉm cười lạnh lẽo:
- Bổn nhân chỉ làm theo mệnh lệnh của một bậc võ lâm tiền bối! Lát nữa diện kiến, Lã túc hạ sẽ hiểu rõ nguồn cơn!
Lã Tập Hiền cau mày:
- Ai là người có thể ra lệnh cho Tứ Phạn Thiên Cung?
âu Dương Lăng chỉ vào cánh rừng có trận pháp trước Hắc ưng Cốc nghiêm nghị kể:
- Hai mươi mấy năm trước, bậc kỳ nhân của đất Tứ Xuyên là Độc Biển Thước Tả Nho Quan, đã bị Phật Đăng Thượng Nhân và hai cao thủ võ lâm nữa truy sát đến nơi này. Họ khống chế được Tả tiền bối, bắt phải ẩn cư suốt đời trong Hắc ưng Cốc, phía sau khoảnh rừng kia.
Nào ngờ, đây là nơi tọa hóa của Thần Quang Chân Quân, cao thủ số một của mọi thời đại. Với máu quý của con Huyết Hoa Lộc, Tả tiền bối đã trị lành vết thương, sở hữu đến trăm năm công lực, và còn luyện thành tuyệt học của Chân Quân!
Hai tháng trước, Tả tiền bối đã xuất cốc đến Thiên Cung, nhận bổn nhân làm đệ tử và chỉ dạy kế sách gồm thâu thiên hạ!
Lã Tập Hiền lạnh toát cả người vội ngắt lời âu Dương Lăng:
- Phải chăng những người ở đây đều đã trứng độc?
âu Dương Lăng cười đắc ý:
- Trang chủ thông minh thật ! S áu tháng sau, chất độc Tiên Trường Vụ sẽ phát tác, và bốn ngàn kẻ tham lam kia sẽ đến đây quy phục Thần Quang Giáo !
Lã Tập Hiền tái mặt giận dữ:
- chúng ta đã thề thốt liên minh, sao cung chủ lại trở mặt, bắt tay với Độc Biển Thước? Chia đôi võ lâm, mỗi người hùng cứ một phương chẳng tốt hơn làm nô lệ cho Tả Nho Quan hay sao?
ánh mắt âu Dương Lăng loé lên những tia nhìn kỳ dị, oán độc, khiến một kẻ sảo quyệt, tinh minh như Lã Tập Hiền đoán ra ẩn tình. Họ Lã thở dài:
- Té ra Cung Chủ bị khống chế?
Ngay lúc ấy, từ cánh rừng có một bóng đen bay vút ra, chỉ cái nhoáng đã đến bên Lã Tập Hiền! Lã trang chủ thần tốc rút kiếm chém liền, song chẳng trứng vào đâu, cứ như đối phương là ảo ảnh vậy. Và Lã Tập Hiền nghe mặt mình mát rượi bởi một luồng gió có mùi hăng hắc. Lão kinh hãi lùi nhanh nhìn kẻ mới đến rồi rụng rời khi nghe nói:
- Giờ thì sanh mạng của ngươi cũng nằm trong tay lão phu rồi đấy! Hãy thử kiểm tra huyệt Ngọc Đường nơi Tâm Thất thử xem?
Lã Tập Hiền làm theo lời kẻ thù, thất sắc lẩm bẩm:
- Thế là hết !
Nhưng lão lại có một hành động khiến ai cũng bất ngờ, là quỳ ngay xuống lạy Độc Biển Thước:
- Nếu tiền bối không nhận Lã mỗ làm học trò thì đừng mong thu được thiên hạ!
Độc Biển Thước phá lên cười khanh khách:
- Xảo quyệt nhưng biết đạo tiến thoái!
Ngươi xứng đáng làm học trò của lão phu!
Lã Tập Hiền hoan hỉ dập đầu lạy chín lạy và hô hoán:
- ĐỒ nhi mừng có được minh sư!
Họ Lã đứng lên, quay lại bảo đám đồng đảng đến ra mắt Tả Nho Quan. Độc Biển Thước hoan hỉ nói:
- Tất cả các ngươi hãy vào trong Hắc ưng Cốc để nghe chỉ thị của lão phu!
Không cần phải canh gác vì đã có trận kỳ môn trấn giữ của vào !
Tà ma đi sạch, bọn Nhương Thư mới dám nhảy xuống đất, VÔ ưu Cái rầu rĩ noi:
- Không ngờ lòng từ bi của Phật Quang Thượng Nhân lại lưu lại đại họa cho đời!
Nếu năm xưa cứ giết quách Tả Nho Quan đi thì giờ này đâu xuất hiện một đại ác ma?
Bất Trí Thư Sinh cũng bùi ngùi:
- Độc thì còn có thể giải, nhưng võ công của lão ta mới đáng sợ, chỉ một chiêu đã khuất phục được Lã Tập Hiền!
Uyển Xuân thấy Nhương Thư mãi đăm chiêu không nói, liền hỏi nhỏ:
- Công tử đang nghĩ gì vậy?
Họ Tần sực tỉnh:
- Ta đang cố phá giải chiêu chưởng lúc nãy của Độc Biển Thước!
Bạch Cúc bàn ngay:
- Công tử không sợ độc, chỉ kém phần công lực! Nay gia phụ đã gởi mua Thiên Niên Tuyết Sâm ở Liêu Đông, có lẽ đã được mang đến! Chúng ta hãy về Tế Nam, tìm cách bồi bổ chân nguyên cho chàng!
Bất Trí Thư Sinh phấn khởi xen vào:
- Tuyệt lắm! Lão phu đang giữ một toa thuốc bí truyền, chỉ cần có Thiên Niên Tuyết Sâm làm vị chính là sẽ giúp Nhương Thư tăng tiến thêm vài năm công lực!
VÔ ưu Cái thở dài:
- các ngươi quên chất độc Tiên Trường Vụ rồi sao?
Bất Trí Thư Sinh mỉm cười:
- Tiểu đệ đọc hàng vạn quyển sách, y thuật cũng kha khá, tin chắc sẽ tìm được thuốc giải. Lão ca cứ yên tâm lo lắng cục diện võ lâm, sáu tháng sau tụ quân tiêu diệt Thần Quang Giáo!
Hầu bang chủ vui mừng khôn xiết, vỗ vai Cao Trường Toán:
- Không ngờ lão đệ cũng là một thần y, thế mà ta không biết! Đại sự sống còn này, lão phu giao cho hiền đệ đấy!
Nhương Thư đăm chiêu nói:
- Ba nàng hãy theo Cao Thư Sinh về Tế Nam! Ta quay lại Ngũ Đài Sơn dự lễ giỗ đầu của tiên sư rối sẽ đi sau!
Bất Trí Thư Sinh cười mát:
- Tần hiền đệ mương thân cửa Phật đã nhiều năm mà còn cố chấp có với không nữa sao? Ngươi đi Tế Nam mà tâm vẫn ở Ngũ Đài Sơn tưởng niệm sư phụ là đủ rồi! Nay Lã Tập Hiền đã thành học trò của Độc Biển Thước, tất sẽ được dạy tuyệt học của Thần Quang Chân Quân, ngươi không có thêm công lực liệu có địch lại chăng?
Nhương Thư cười khổ:
- Tiểu đệ đã hai lần hưởng dụng kỳ trân dị dược, chỉ có hại chứ chẳng lợi lộc gì!
Giờ thêm Thiên Niên Tuyết Sâm vào, không chừng sẽ trẻ đi vài chục tuổi như Độc Biển Thước thì nguy to!
Uyển Xuân bật cười khanh khách:
- Đúng vậy! Tả Nho Quan đã ngoài tám mươi mà mặt mũi nhẵn nhụi, râu tóc đen mun như người b a chục ! Nếu tướng công cũng cải lão thì e rằng thành đứa tiểu hài mất!
Ba ả họ Điền xưng hô lộn xộn, lúc thì công tử, lúc thì tướng công, tùy theo tâm trạng!
Tài sản của than_long_vn

  #4  
Old 06-05-2008, 02:38 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 7

Hồng Nhan Tâm Địa Vô Năng Trắc
Tặc Ổ Thùy Tri Hữu Cố Nhân

Quá nửa tháng chạp, bọn Nhương Thư về đến thành Tế Nam, vui mừng vì gặp cả Hổ Hồng Nhan và hai vệ sĩ. Mẹ của Tào Ưng lâm bệnh nên gã phải lưu lại để chăm sóc, không đi Ngũ Đài Sơn như đã hứa. Nay Tào mẫu đã khang kiện, gã lại la cà ở Điền gia trang để chờ Nhương Thư.
Bất Trí Thư Sinh được chào đón nồng nhiệt, nhưng lại không vui vì thiên niên tuyết sâm chưa có. Cao Trường Toản đành tập trung vào việc bào chế thuốc giải Tiên Trường Vụ. Ông cũng trúng độc nên dùng bản thân để thử nghiệm, rất dễ phát hiện công hiệu!
Nhương Thư thì miệt mài luyện võ, đồng thời chỉ bảo thêm cho người thân. Phần Bạch Thúy Sơn dường như biết rõ phận mình nên chỉ quanh quẩn bên Nhương Thư và Tào Ưng, ít tiếp xúc với bốn vị tiểu thư.
Cổ nhân có câu “Hồng nhan họa thủy”, nhưng trong trường hợp này, vẻ anh tuấn tuyệt luân của Bạch Thúy Sơn lại là nguyên nhân của tai họa. Khổ thay, kẻ sa ngã lại chính là Hổ Hồng Nhan Điền Ngọc Trâm!
Nàng đã có nhiều thời gian gần gũi Thúy Sơn nên bị chinh phục lúc nào cũng chẳng hay. Hơn nữa, số tuổi hai mươi ba của họ Bạch rất khớp với lời tiên đoán của Bố Y Thần Toán. Điều này đã ám ảnh nàng từ tuổi cập kê, chẳng dễ bị xóa nhòa!
Ngọc Trâm vô cùng đau khổ và hổ thẹn với Nhương Thư, nhưng trái tim ngày càng in đậm bóng hình họ Bạch! Trong cảnh tuyệt vọng, nàng đâm ra oán hận Nhương Thư đã cưu mang Thúy Sơn nên việc này mới xảy ra! Hổ Hồng Nhan gầy đi, tính tình càng nóng nảy hơn, mượn cớ bận việc nhà mà tránh cả Nhương Thư lẫn Thúy Sơn, dù môn khách chỉ còn vài trăm.
Có một người hiểu được thầm kín này, đó là cha nàng, Điền trang chủ. Một tối đầu xuân, ông cho gọi trưởng nữ đến thư phòng căn vặn. Ngọc Trâm liền òa khóc và giãi bày tâm sự! Điền Đông Giám thở dài:
- Khi Bạch Thúy Sơn đến đây, ta đã có linh cảm xấu, lo cho Uyển Xuân, nhưng không ngờ nạn nhân lại là con! Thực ra thì Thúy Sơn rất xứng đáng làm rể họ Điền, do tài mạo và gia thế! Gần đây, tin đồn về gốc gác của Nhương Thư đã lan đến Tế Nam, khiến ta rất bối rối! Ơn cứu mạng tuy lớn song không thể sánh với thanh danh dòng họ Điền!
Nay ba em con thì đã lỡ, nhưng con là trưởng nữ phải có một cuộc hôn nhân xứng đáng để cứu vãn tình hình! Vả lại, Nhương Thư đã được đến ba mỹ nhân, lẽ nào hẹp hòi đến mức không thể nhường ngươi cho Thúy Sơn? Con cứ yên tâm, tối nay ta sẽ nói chuyện với Nhương Thư!
Ngọc Trâm thờ thẩn quay lại khuê phòng, chẳng hiểu nên vui hay nên buồn!
Nhưng cha con họ Điền không ngờ rằng câu chuyện của mình đã lọt vào tai của một người, Thiết Kình Ngư Tào Ưng. Gã là người thứ hai nhận ra sự phản bội của Ngọc Trâm, luôn âm thầm theo dõi nên đã rình nghe!
Tào Ưng tức lộn ruột, đến phòng Nhương Thư kể lại những gì mình nghe thấy! Chàng trai họ Tần lặng người suy nghĩ rồi nói:
- Đi thôi! Ta ở lại đây chỉ khiến họ thêm khó xử!
Giữa canh tư, hai người âm thầm sách hành lý vượt tường, rời Điền Gia Trang, đội tuyết mà đi. Trong túi Nhương Thư còn số vàng ngân phiếu do Dạ Quân Tử tặng nên không thiếu tiền mua ngựa mới, cũng như lộ phí dọc đường!
Sáng ra, theo lệ thường, Uyển Xuân đến gọi Nhương Thư dậy, thấy cửa phòng chỉ khép hờ chứ không cài then nàng đẩy cửa vào, ngơ ngác nhận ra tay nải và trường kiếm đều biến mất!
Uyển Xuân vội chạy đi thông báo cho các chị! Cả nhà đổ xô ra, nhưng không có Tào Ưng. Họ đến phòng Thiết Kình Ngư thì phát hiện trên vách có mấy câu nguệch ngoạc:
Lão hiếu danh vong nghĩa
Thiếu hiếu sắc vong tình
Thiển hề! Nhục hề!
Dịch:
Già hiếu danh quên nghĩa
Trẻ ham sắc bội tình
Nông cạn thay! Nhục nhã thay!
Bất Trí Thư Sinh cười nhạt hỏi Điền Đông Giám:
- Phải chăng tối hôm qua trang chủ và con gái đã bàn chuyện gì bất nghĩa với Nhương Thư để Tào Ưng nghe được?
Điền Ngọc Trâm hổ thẹn đứng chết trân, không nói nên lời, nước mắt chảy như mưa! Điền Đông Giám thì bối rối nói:
- Lỗi tại Nhương Thư mang Thúy Sơn về đây nên Trâm nhi sa ngã, tâm sự với lão phu! Thiết nghĩ, họ Tần đã có ba, nhường một cho Thúy Sơn cũng là phải đạo!
Đã hiểu ra căn do, ba cô em bật khóc, xỉ vả chị cả. Người nặng lời nhất chính là tam tiểu thư Điền Bạch Cúc:
- Tiểu muội thật xấu hổ khi làm em của hạng gái bất trinh!
Ngọc Trâm thét lên một tiếng, hộc máu té xỉu ngay, được Uyển Xuân và Mã Lan đỡ lấy. Bạch Thúy Sơn thì lạnh lùng mắng vào mặt trang chủ:
- Lão tưởng ta sẽ vì nhan sắc và tài sản mà ta phản bội Tần đại ca hay sao?
Nói xong, gã về phòng lấy bọc hành lý bỏ đi, chẳng thèm từ giã. Hai ngày sau, Hổ Hồng Nhan hồi phục, nằng nặc đòi xuống tóc quy y cửa phật. Điền trang chủ không thể ngăn cản, đưa ái nữ đến Thiền Vân Ni Viện ở cửa Nam thành!
Ba cô con gái kia cũng theo Bất Trí Thư Sinh đi tìm Nhương Thư. Chàng đã hẹn tử đấu với Lã Tập Hiền vào đầu tháng hai! Thế là mới mùng sáu tết mà Điền gia trang vắng cả tiếng nói cười, chỉ còn lại hai lão nhân đối ẩm. Điền Đông Giám thở dài bảo Triệu tổng quản:
- Lão phu còn mặt mũi nào mà gọi Nhương Thư là rể nữa!
Nhắc lại, Nhương Thư và Tào Ưng ra đi, ghé Vương Ốc Sơn thăm Tào mẫu. Nhương Thư tặng bà ba ngàn lượng bạc và mướn người hầu hạ, rồi mới yên tâm để Tào Ưng đi theo mình.
Chính vì vậy mà Bạch Thúy Sơn đã vượt hai người mà không hay biết. Nhương Thư, Tào Ưng mua ngựa đi về hướng Tây Nam, theo đường Tế Châu để đến Nam Dương. Dọc đường, Nhương Thư bỗng hỏi Tào Ưng:
- Ta nghi ngờ Bạch Thúy Sơn là gái giả trai!
Thiết Kình Ngư gật gù:
- Bất Trí Thư Sinh cũng nghĩ thế, tại hạ bảo thử kiểm tra. Hồi trước Tết, tại hạ vờ vô ý chạm vào ngực họ Bạch, và không hề thấy cộm lớp lụa bó ngực! Chẳng lẽ gã là nữ nhân mà vú xẹp như đàn ông?
Nhương Thư mỉm cười:
- Có thể lắm chứ! Lần sau túc hạ thử sờ hạ thể Thúy Sơn xem sao?
Tào Ưng giật mình, chối đây đẩy:
- Không được! Nếu y đúng là gái thì chết tại hạ! Còn công tử thì lấy Thúy Sơn cũng chẳng sao, vì dường như y cũng yêu mến công tử đấy!
Nhương Thư đỏ mặt:
- Ta đâu thể làm thế!
Chiều mùng tám tháng giêng, hai người đến thành Tế Châu. Không muốn quấy nhiễu gia đình Tất Cung Bảo, Nhương Thư tìm quán trọ, tắm gội, gởi ngựa, rồi đến phạn điếm gần đấy dùng cơm.
Tuyết vẫn còn rơi mù mịt, ai cũng kím mít trong áo, mũ lông, dẫu là bằng hữu cũng phải nhìn kỹ mới nhận ra nhau. Đang ăn, Nhương Thư chợt nghe ba người bàn bên nói chuyện:
- Đáng phục thay Tất Cung Bảo. Con gái bị bắt cóc mà vẫn kiên quyết không giao Bạt Sơn Thần Lựu cho Cưu Bang! Sáng nay, lão phu đến Tất gia trang, thấy vợ y khóc lóc thảm thiết không chịu nổi nên bỏ về ngay!
Gương mặt thơ dại, đáng yêu của Liên nhi hiện ra, làm lòng Nhương Thư xốn xang và phẫn nộ! Chàng bảo Tào Ưng:
- Ăn nhanh đi! Tất gia trang gặp họa rồi!
Tào Ưng cũng nghe thấy những lời kia nên bàn rằng:
- Khoan đã! Chắc chắn Cưu Bang sẽ cho người giám sát động tịnh Tất gia trang! Chúng ta chờ trời tối hẳn hãy đến đấy! Có như vậy mới tạo được bất ngờ!
Nhương Thư tán thành:
- Ta quả là ấu trĩ, may mà có túc hạ nhắc nhở!
Tào Ưng cười buồn:
- Ai mới xuất đạo mà chả thế! Tại hạ lặn lội giang hồ hai mươi năm, nếm đủ mùi cay đắng mới có được một chút kinh nghiệm!
Màn đêm buống xuống, tuyết rơi dày là không gian tăm tối, người qua lại trên dường cũng thưa thớt. Lúc này, Nhương Thư và Tào Ưng đã áp sát tường sau Tất gia trang. Khinh công họ Tào hơi kém nên Nhương Thư nắm tay gã cùng nhảy vào trong!
Nhương Thư từng ở đây hai ngày nên biết rõ địa hình, nhanh chóng đến được khu hậu viện. Tiếng khóc tỉ tê của Tất phu nhân cho biết vợ chồng họ có ở khuê phòng.
Bọn Nhương Thư vượt qua những chậu cảnh, đến cửa sau thì nghe tiếng Tất Cung Bảo:
- Phu nhân tưởng ta không đau từng khúc ruột hay sao? Nhưng nếu giao Bạt Sơn Thần Lựu cho bọn tà ma giết hại đồng đạo võ lâm và bách tính thì tất mỗ có chết ngàn lần cũng không đủ tạ tội với tổ tiên.
Lời chính khí ấy khiến Nhương Thư vô cùng khâm phục và ngưỡng mộ. Chàng đưa tay gõ cửa và gọi:
- Tất trang chủ! Tiểu đệ là Nhương Thư đây!
Có tiếng rú mừng rõ của Tất phu nhân, và cửa thông ra vườn lập tức mở toang, Tất Cung Bảo bước ra, nhìn thấy gương mặt nhân hậu của người hiệp sĩ trẻ, run rẩy nói:
- Đa tạ hoàng thiên! Tần hiền đệ đã đến đây rồi!
Gã ôm lấy Nhương Thư, nước mắt dàn dụa nhưng miệng cười rất tươi. Họ Tất kéo khách vào phòng thì Tất phu nhân quỳ ngay xuống lạy lục:
- Tiện phụ dập đầu cầu khẩn Tần thiếu hiệp cố cứu lấy Liên nhi! Nó mới năm sáu tuổi, nào có tội gì mà phải chết!
Tào Ưng cau mày:
- Đại tẩu đừng khóc lớn, phe đối phương đang rình rập bên ngoài! Nếu chúng biết được Tần công tử tới đây thì làm sao cứu được người?
Tất Cung Bảo nghe chí lý vội đỡ vợ đứng lên vỗ về, Nhương Thư nghiêm nghị trấn an bà:
- Đại tẩu yên tâm! Tiểu đệ sẽ đem Liên nhi về an toàn!
Danh tiếng Nhương Thư giờ đã lừng danh bốn biển, lời hứa nặng hơn cửu đỉnh nên Tất thị yên lòng gạt lệ. Lo việc tiếp đãi. Tất Cung Bảo cũng vậy, gương mặt thô kệch của gã giãn ra, không còn u ám nữa. Gã vui vẻ hỏi:
- Sao Tần hiền đệ lại biết được tin này mà đến đây?
Nhương Thư giới thiệt Tào Ưng với chủ nhà rồi kể lại việc mình đi phạn điếm, tình cờ nghe được chuyện nhà họ Tất. Tất Cung Bảo gật gù:
- Lão già ấy là Lương Sơn Trại Chủ Trương Sưởng, có giao tình với gia phụ. Lão có trong tay độ năm mươi thủ hạ, tuy sức yếu nhưng vẫn khẳng khái đòi đi Cưu Sơn cứu Liên nhi! Ngu huynh biết không thể thành công nên đã từ chối!
Nhương Thư hỏi Tào Ưng:
- Tào túc hạ có lương sách gì không?
Thiết Kình Ngư thầm cao hứng khi được tin tưởng, hắng giọng đáp:
- Theo thiển ý của tại hạ thì hai ta sẽ âm thầm đột nhập tổng đàn Cưu Bang, giải thoát cho Liên nhi. Tất trang chủ và lực lượng Lương Sơn Trại phục kích nơi chân núi, dùng Bạt Sơn Thần Lựu để tiêu diệt bọn truy kích!
Tất Cung Bảo vỗ đùi khen:
- Diệu kế! Chỉ cần mang được Liên nhi xuống núi là tại hạ thừa sức san phẳng Cưu Sơn!
Tào Ưng cười bảo:
- Khủng khiếp thế ư! Sao Tất trang chủ không cho bọn ta xem thử thứ vũ khí lợi hại ấy?
Tất Cung Bảo gật đầu rời phòng, lát sau trở lại với một túi da hươu nặng nề. Gã lấy ra một vật hình trụ lớn cỡ cổ tay, cao nửa gang, vỏ bằng đồng, trên đỉnh có chốt nhỏ sơn đỏ rực. Gã nhìn vật ấy với anh mắt say mê tự hào:
- Tại hạ thử nghiệm suốt mười mấy năm trời mới chế tạo được thứ hỏa khí này. Chỉ cần ấn mạnh nút đỏ này ném đi, nó sẽ nổ khi chạm vào bất cứ vật gì! Sức mạnh của Thần Lựu có thể phá sập nhà, hoặc sát thương trong bán kính hai trượng.
Tào Ưng thở dài lo lắng:
- Kẻ giữ ngọc có tội! Nếu Tứ Phạn Thiên Cung hoặc Chính Khí Trang biết túc hạ chế được thứ vũ khí này, ắt sẽ tìm mọi cách chiếm đoạt!
Tất Cung Bảo buồn rầu đáp:
- Tại hạ cũng biết vậy nên sau khi cứu được Liên nhi sẽ dọn nhà đi Bắc Kinh, vào làm trong bộ phận quân khí của bộ binh! Triều đình mời mọc đã lâu mà tại hạ chưa nhận lời!
Nhương Thư khuyến khích:
- Nay rợ Mông và rợ Mãn luôn dòm ngó biên cương, Tất đại huynh đem tài ra giúp nước là rất phải đạo!
Ba người bàn bạc kế hoạch đến tận cuối canh hai thì có thêm khách. Tất gia trang mấy đời trượng nghĩa nên được khá nhiều người trợ giúp. Vài tay hắc đạo đã âm thầm vẽ lại sơ đồ sào huyệt Cưu Bang tặng cho Tất Cung Bảo. Người đem địa đồ đến chính là Lương Sơn Trại Chủ Trương Sưởng. Nghe Tất Cung Bảo giới thiệu, họ Trương nhìn Nhương Thư chăm chú rồi hỏi:
- Thế Tần công tử định cứu Liên nhi bằng cách nào?
Tào Ưng là người bày mưu nên dáp ngay, kể cho Trương lão nghe kế hoạch . Trương Sưởng vuốt chòm râu đen ngắn ngủi, lắc đầu, rồi trải họa đồ ra:
- Nhị vị hãy xem thử địa hình của Cưu Sơn sẽ biết kế sách kia không sử dụng được!
Trương lão giải thích thêm:
- Tổng đàn Cưu Bang nằm trên một bình đài cao hơn chục trượng, hình bán nguyệt, vách đá trơn trượt, dựng đứng. Người ngoài muốn vào tổng đàn phải được thúng mây kéo lên. Tất nhiên, kẻ ấy phải được sự hướng dẫn của bộ phận tiền trạm. Do vậy, muốn cứu được Liên nhi thì phải có người công khai đến làm khách của Cưu Bang, thừa cơ giải cứu cô bé ấy rồi xuống bằng đường cũ!
Cả nhà thở dài nhìn nhau chán nản. Tất phu nhân run giọng:
- Trương đại ca! Làm sao Cưu Bang dám để Tần thiếu hiệp lên đến sào huyệt?
Trương Sưởng nheo đôi mắt dài xảo quyệt, cười khà khà:
- Sao lại không? Bọn chúng sẽ cung kính mời Nhương Thư lên là đằng khác!
Tào Ưng nãy giờ hơi thẹn vì kế của mình không xài được, liền hậm hực bảo:
- Lão nói quách ra xem nào?
Trương Sưởng trại chủ nhăn vầng trán rộng ra vẻ cao mưu:
- Trong giới hắc đạo Sơn Tây có một gã tên là Hồ Linh Cấu, biệt danh Sách Huyết Kiếm, đang tuổi ba mươi ba. Mấy tháng trước, gã vô tình giết người em trai tri phủ Sơn Tây nên phải bỏ xứ để trốn đi. Họ Hồ đến Lương Sơn nương náu, mới đây đã tính chuyện ám hại lão phu để đoạt trại. May mà Trương mỗ sớm đề phòng nên thoát chết và giết được gã ta!
Tào Ưng nóng ruột cằn nhằn:
- Lão nói dông dài gì thế? Sách Huyết Kiếm đã chết rồi thì còn tác dụng gì nữa?
Trương Sưởng là người rộng lượng vui vẻ nói:
- Lão phu chưa nói hết! Số là sau khi giết Hồ Linh Cấu, lão phu mới phát hiện ra gã mang mặt nạ. Nay dáng vóc Tần công tử đây cũng tương tự, nếu mang mặt nạ Sách Huyết Kiếm đến gia nhập Cưu Bang thì rất tuyệt.
Nhương Thư khẳng khái tán thành:
- Tại hạ xin đặt mình dưới sự xếp đặt của Trương túc hạ!
Sáng mười bốn tháng giêng, một chàng kỵ sĩ lỏng tay cương đi vào trấn Lạc Phách dưới chân núi Cưu Sơn. Địa phương này chỉ có độ trăm căn nhà gỗ, nằm dọc theo con đường đất đá lởm chởm, lầy lội vì tuyết phủ.
Nhà cửa nơi đây đều bằng gỗ, mái lợp lá, xộc xệch và thô kệch, và được dựng lên bởi đám thợ mộc bất đắc dĩ. Chủ nhân của chúng là những tay vong mạng tứ xứ, không còn đất dung thân, chỉ quen giết người cướp của, chưa hề cầm đến cưa, bào, búa, đục! Có kẻ đi một mình, có người mang cả vợ con theo, nên làm nhà cho họ ở.
Đám tiểu hài trong trấn chỉ độ hai, ba chục đứa, nhem nhuốc, bẩn thỉu và mất dạy không thua gì cha mẹ! Chúng chẳng phải đèn sách, chỉ suốt ngày chạy nhảy, đánh nhau và học nghề đạo tặc. Giờ đây, những đứa trẻ bất hạnh ấy đang chơi trò ném tuyết.
Chúng nhìn người khách mới đến với cặp mắt tò mò, xấc xược và tinh quái. Đứa cầm đầu bọn trẻ khẽ ho lên và cả bọn nhất tề ném tuyết vào hán tử áo cừu trắng muốt, đội nón tre rộng vành.
Không phải là tuyết sạch mà là tuyết trộn với bùn nhão, đủ sức biến chiếc áo choàng lông trắng tinh thành giẻ lau nhà! Nhưng người khách lạ đã rút kiếm nhanh như chớp, kiếm quang thoáng sắc hồng, kiếm kình rít rợn người, đánh bạt tất cả những nắm tuyết dơ bẩn kia đi.
Hồng quang tắt lịm thanh kiếm đã được tra vào vỏ, và hán tử áo cứu hất ngược vành nón, chiếu tia mắt oán độc tàn nhẫn vào mặt lũ trẻ du côn.
Tuy sinh trưởng trong sào huyệt của cái ác, song chưa bao giờ những đứa bé này nhìn thấy một ánh mắt khủng khiếp đến thế! Chúng lạnh người, xanh mặt bỏ chạy toán loạn. Vả lại, chúng cũng hiểu rằng cha mẹ mình không thể địch lại cái gã có chiếc mũi ưng cong khoằm đáng nghét ấy!
Hán tử áo cừu kéo thấp vành nón xuống, môi nở nụ cười hiền hậu, trái ngược với cách biểu hiện lúc nãy! Bọn trẻ kia không biết rằng nếu chúng lỳ lợm hơn chút nữa thì đối phương cũng chẳng làm gì được mình!
Gã Sách Huyết Kiếm giả hiệu này đã từng là một đứa trẻ đầu đường xó chợ, không người dạy dỗ, tất rất thông cảm với kẻ cùng cảnh ngộ!
Sách Huyết Kiếm Hồ Linh Cấu đến Lương Sơn nương náu đã kể khá rõ về cuộc đời mình cho Trương Sưởng nghe. Khi bị giết, gã đã để lại cả bí kíp của pho Sách Huyết Kiếm pháp lừng danh và túi ám khí Hồng Thiết Đạn.
Nhương Thư có bốn ngày để học hỏi và bắt chước phong thái, cử chỉ của Hồ Linh Cấu, tuy không được mười phần cũng đủ qua mắt thiên hạ, vì họ Hồ ở tận Sơn Tây xa xăm, chẳng dễ gì có người nhận ra hư thực!
Kẻ nổi danh thường chỉ có nghĩa là tiếng tăm được nhiều người biết đến, còn dung mạo thì chưa chắc! Hoặc cùng lắm thì người ta nhớ lõm bõm rằng Sách Huyết Kiếm có chếc mũi ưng ác độc, cặp mắt lạnh lẽo, mái tóc dài buông xõa. Chiêu bài thứ hai là vũ khí, thanh Huyết Kiếm có sơn hai đường đỏ tươi dọc bản để tạo mầu máu cho kiếm quang!
Hiếu danh là tật xấu lớn nhất của khách giang hồ! Họ đem xương máu tạo dựng nên thanh danh, sống chết vì nó và đánh mất chính mình! Câu thành ngữ "bậc trượng phu đi không đổi tên, ngồi không đổi họ!" luôn luôn được người võ sĩ hãnh diện nhắc đến!
Sách Huyết Kiếm cũng thế! Gã có thể lột mặt nạ, búi tóc lên, thay vũ khĩ để sống yên ổn ở đất Sơn Tây! Nhưng nếu làm thế thì cái danh sẽ tiêu vong. Gã bèn chấp nhận trốn tránh sự truy nã và tự nhủ rằng Sách Huyết Kiếm vẫn còn tồn tại trong võ lâm!
Nhắc lại, Nhương Thư đủng đỉnh lỏng tay cương đi sâu vào trấn Lạc Phách, lòng kinh ngạc khi thấy nơi đây có đủ những hình thức buôn bán, sinh hoạt như bất cứ khu dân cư nào khác!
Tuy nhỏ bé, xập xệ nhưng các tiệm tạp hóa, tiệm vải vóc, quán nhậu, quán cơm, kỹ viện... vẫn có người lui tới. Phải để ý mới biết chủ và khách đều một giuộc như nhau mặt mày đầy sẹo và mắt sắc tựa dao cạo!
Lạc Phách trấn không chỉ là bình phong ngụy trang cho Cưu Bang mà còn là chỗ dựa tinh thần. Chính ở đây, đám côn đồ nhận được hơi hướm của một xã hội bình thường, để khỏi phải phát điên lên vì mặc cảm bị ruồng bỏ.
Trừ đám kỹ nữ, tất cả những người trong trấn đều là thủ hạ Cưu Bang. Kẻ có vợ con thì kinh doanh để kiếm thêm chút bạc thế thôi!
Đoạn giữa của đường trục trong trấn mở rộng ra thành một quảng trường, và chễm chệ tọa lạc một tửu quán bằng gỗ rất lớn. đây là nơi náo nhiệt, vui vẻ nhất trấn Lạc Phách, vì ngoài việc ăn nhậu, người ta còn có thể đánh bạc với nhau.
Không cửa sổ, bốn cạnh cửa tửu quán này đều trổ cửa chính rất lớn, có lẽ đào tẩu cho dễ. Tường đông cửa cửa quán có treo một bảng gỗ đã mục, lờ mờ mấy chứ xiêu vẹo: Túy Tiên Tửu Quán!
Nhương Thư đã biết đây chính là cửa ải thứ nhất của Cưu Bang, nơi thẩm xét lai lịch khách lạ và tiến cử về tổng đàn, Người phụ trách tửu quán là Ngoại Vụ Phó Bang Chủ, Thiên Lý Du Hồn Địch Dương Hùng.
Họ Địch tuổi đã bẩy ba, có bốn mươi năm phiêu bạt, một mình một đao trộm cướp từ Nam chí Bắc, kiến văn rất rộng. Nhương Thư chỉ sợ nhất là bị lão phát hiện, chỉ thầm van vái đối phương chưa gặp Sách Huyết Kiếm bao giờ. Chàng cố trấn tĩnh, xuống ngựa, buộc dây cương vào cột chống mái hiên, chậm rãi nện gót đi vào quán!
Nhương Thư hồi hộp chờ ai đó lên tiếng nhận bà con với Hồ Linh Cấu, may thay, chẳng tửu khách nào mở miệng, chỉ yên lặng nhìn bằng cặp mắt dò xét. Nhương Thư ngồi xuống một bàn gần cửa, sát tường để đề phòng ám toán sau lưng.
Chiếc bàn gỗ mộc bẩn thỉu vì dầu mỡ, nước tương, xông lên mùi hôi hám. Cả những đôi đũa trong ống cũng mốc trắng chẳng sạch sẽ chút nào! Vật dụng và không khí trong quán nhầy nhụa, tởm lợm. Chưa kể đến những gương mặt cô hồn của thực khác.
Nhương Thư kín đáo quan sát lão già áo đen, tóc hoa râm, ngồi sau chiếc bàn gỗ ọp ẹp. Thấy lão nhìn mình mà ánh mắt không lộ vẻ kinh ngạc hay mừng rỡ, Nhương Thư yên lòng đóng tiếp vai kịch. Một gã tiểu nhị thấp bé, mặt gian xảo như chồn, bước đến tươi cười hỏi han:
- Quý khách dùng chi?
Nhương Thư lạnh lùng đáp:
- Rượu một cân, lạc một đĩa!
Gã tiểu nhị quay gót, mau mắn bưng ra, đặt xuống bàn rồi chìa tay:
- Mong quý khách cho xin mười lượng!
Cái giá cắt cổ này khiến Nhương Thư xót ruột nhưng vẫn phải bóp bụng móc trả. Ánh mắt gã tiểu nhị sáng lên khi thấy cọc ngân phiếu dày cộm trong túi bạc của khác. Gã không nhận đĩnh bạc, lắc đầu tủm tỉm:
- Mười lượng vàng chứ không phải bạc!
Lương Sơn Trại Chủ vì nhà họ Tần mà sai bái đệ là Dương Châu Thần Thâu Bạch Tú Nhiên đến gia nhập Cưu Bang nên nắm rất rõ nội tình. Gã tiểu nhị mặt chồn này vốn thực là một đường chủ Cưu Bang, trước đây, nổi tiếng đất Triết Giang với danh Tiểu Hồ Ly Chung Kim Dục.
Họ Chung xảo quyệt tàn ác phi thường, bị truy nã về tội giết sạch Hoàng gia trang, bốn chục người lớn nhỏ, trong chỉ một đêm. Gã sở trường hai môn Nhiếp Mệnh Châm và Mê Hồn Phấn!
Tiểu Hồ Ly có nhiệm vụ tra xét, nhưng thường ức hiếp những kẻ mới đến để thỏa mãn cái tâm độc ác của mình! Nhương Thư đã được căn dặn chu đáo nên biết cách đối phó. Chàng cười nhạt bảo:
- Hồ mỗ suốt đời ngang dọc, chưa từng để kẻ tiểu nhân đắc chí! Ngươi muốn sống thì đừng chọc giận đến Sách Huyết Kiếm đất Sơn Tây!
Tiểu Hồ Ly biến sắc lùi xa, hậm hực đáp:
- Đã vào đến chốn này mà ngươi còn sính cường sao? Sách Huyết Kiếm thì là cái thá gì?
Vừa dứt lời, song thủ của gã cất lên, phóng liền mười mũi độc châm xanh biếc. Nhương Thư đã đề phòng, hất ngược chiếc bàn gỗ che thân, đề khí bốc lên cao, bủa lưới kiếm xuống đầu đối phương.
Chẳng phải tay vừa, Tiểu Hồ Ly tung liền hai nắm Mê Hồn Phấn kèm theo Nhiếp Mệnh Châm. Nhưng luồng kiếm quang phớt hồng của đối phương vẫn không hề bị chặn lại, lướt đến như vũ bão. Tiểu Hồ Ly kinh hãi lao xuống gầm chiếc bàn gần đấy.
Luồng kiếm quang vẫn bám theo, chặt đôi mặt bàn, liếm vào lưng kẻ ở dưới. Tiểu Hồ Ly rú lên vì đau đớn và vì sợ bị giết. Nhưng Sách Huyết Kiếm không hạ thủ mà chỉ hỏi:
- Vàng hay bạc?
Tiểu Hồ Ly rên rỉ đáp:
- Miễn phí!
Đám thực khác phá lên cười nắc nẻ, chề giễu họ Chung! Sách Huyết Kiếm, tức Nhương Thư, ngồi xuống một bàn khác, ung dung chờ đợi, Tiểu Hồ Ly Chung Kim Dục vào sau băng bó chẳng thấy trở ra, nên lão chưởng quỷ đích thân bưng hũ rượu và đĩa lạc thứ hai đến.
Thiên Lý Du Hồn đến đối diện với khách, hờ hững bảo:
- Nếu ngươi muốn tìm chỗ nương thân thì hãy đi nơi khác! Cưu Sơn không có chỗ cho Sách Huyết Kiếm!
Nhương Thư không đáp mà hỏi lại:
- Lão là ai mà dám nói câu ấy?
Lão ta cười mát:
- Phó Bang Chủ Cưu Bang, Thiên Lý Du Hồn Địch Dương Hùng!
Nhương Thư vòng tay:
- Thất lễ! Thất lễ! Không ngờ tôn giá lại là địa chủ chốn này! Nhưng tại hạ đến đây chẳng phải vài nương thân mà là vì muốn thương lượng một đại sự!
Địch lão mỉa mai:
- Kẻ đang bị truy nã như ngươi mà cũng có đại sự để bàn hay sao?
Lương Sơn Trại Chủ đã tiên liệu trường hợp này nên bày sẵn phương án đối phó. Nhương Thư bình thản đáp:
- Chính là nhờ bỏ xứ phiêu bạt mà tại hạ đã tình cờ phát hiện một mỏ vàng đang được bí mật khai thác bởi một lực lượng đông đến hơn trăm. Vì tự lượng sức mình không cướp nổi nên muốn hợp tác với Cưu Bang! Nếu tôn giá không thích thì tại hạ đi tìm người khác vậy!
Nghe đến vàng, đám thực khách chấn động, xúm cả lại những bàn gần đấy để lắng nghe. Địch Dương Hùng gật gù:
- Hấp dẫn đấy! Hãy nói cho lão phu nghe thử!
Nhương Thư mỉm cười:
- Tại hạ cần gặp quý bang chủ để nói rõ điều kiện giao dịch! Hồ mỗ đơn thân độc mã tất phải cẩn thận!
Thiên Lý Du Hồn quắc mắt:
- Lão phu đủ tư cách đại diện bang chủ để quyết đinh tất cả! Vả lại, đã vào đến đây thì dẫu ngươi không nói cũng không được!
Nhương Thư không hiểu vì sao Địch Dương Hùng lại có ác cảm với mình và xử sự một cách bá đạo như thế, khác hẳn với những gì mà Dương Châu Thân Thần đã kể lại? Chàng quyết đinh hành động theo tính cách hiếu thắng, quật cường của Sách Huyết Kiếm, đứng phắt dậy, gằn giọng:
- Phế ngôn! Hồ mỗ sinh ra không biết sợ là gì!
Và chàng vung cước hất chiếc bàn về phía Thiên Lý Du Hồn, rồi lao theo tấn công ngay. Họ Địch nổi danh Du Hồn tất khinh công cực kỳ lợi hại, lập tức lộn người trở lại quầy quỉ, chụp lấy vũ khí.
Thanh kiếm đen của lão có tên Xà Hình Kiếm, thân ngoằn ngèo, mũi có dạng như đầu rắn được tẩm chất kỳ độc Kiến Huyết Phong Hầu, đã từng sát hại rất nhiều người.
Họ địch có hành tung vô định, không dừng chân lâu ở bất cứ địa phương nào nên dã thoát được sự truy lùng của Phật Đăng Thượng Nhân và các hiệp sĩ chính phái.
Nhương Thư đã nghe nhiều về đối phương, quyết nhân dịp này trừ hại cho võ lâm. Chàng không sợ bang chủ Cưu Bang oán hận vì bản chất của giới hắc đạo là trọng tài khinh nghĩa. Nếu chàng giỏi hơn Thiên Lý Du Hồn thì được trọng dụng, không chừng thay thế lão vào làm phó bang chủ!
Đã có chủ ý, Nhương Thư liên tiếp xuất những đòn mãnh liệt chẳng chút nương tay! Chàng chỉ luyện dược chút vỏ ngoài của pho Sách Huyết Kiếm pháp, song cũng đủ che giấu sở học của mình. Màn kiếm quang màu hồng đã làm mờ những kiếm ảnh hình ngọn lửa trong kiếm thuật Phật Đăng.
Bàn ghế trong tử quán văng tứ tán, mỗi khi hai đấu thủ di chuyển đến. Bọn tửu khách đã chạy ra cửa đứng nhìn vào, khoái trá bàn bạc và chưa có ý định hỗ trợ phó bang chủ.
Thiên Lý Du Hồn đau lòng bởi đồ đạc trong quán bị gãy nát, và giận dữ vì gã tiểu tử họ Hồ kia đã dám hung hăng với mình, liền dồn năm chục năm chân khí vào pho Hắc Xà Kiếm pháp, tấn công quyết liệt.
Tiếng thép chạm nhau liên hồi chát cả tai suốt gần trăm hiệp mà chưa ai chiếm được thượng phong. Hai luồng kiếm quang đỏ đen quấn lấy nhau, tan ra, hợp lại nhanh như chớp.
Càng đánh, Địch Dương Hùng càng kinh ngạc trước kiếm thuật siêu phàm của Sách Huyết Kiếm. Theo lời đỗn đại thì bản lãnh của Hồ Linh Cấu đâu lợi hại đến thế.
Phần Nhương Thư cũng nóng ruột vì sợ đánh lâu sẽ lộ, xuất liền chín chiêu liên hoàn, kiếm ảnh mịt mù tỏa rộng. Thanh Huyết Kiếm rung động xé không gian, đâm liền hàng trăm thức trong khoảnh khắc, phá thủng được màn hắc quang, đâm vào ngực trái đối phương.
Lúc này, Thiên Lý Du Hồn đã bị dồn đến vách gỗ hướng đông. Mặt tái mét vì khiếp sợ cái chết đang chập chờn. Song lão đã thoát ra bằng cách nhẩy ngược về phía sau, dùng lưng phá sập lớp vách quán đã mục. Nhương Thư phóng theo ra ngoài chẳng chịu buông tha. Thiên Lý Du Hồn ra đến sân cỏ liền trụ lại và quát:
- Tiến lên!
Thế là đám thủ hạ Cưu Bang rút vũ khí ùa vào, khí thế cực kỳ hung hăng. Nhương Thư thọc tay tả vào túi da nai đeo theo nơi hông trái, bốc một nắm Hồng Thiết Đạn rải theo hình nan quạt. Công lực chàng còn thâm hậu hơn Sách Huyết Kiếm, lại từng luyện thủ pháp phóng Thiết Bồ Đề, nên uyển lực rất mạnh.
Bọn Cưu Bang múa đao kiếm chống đỡ, nhưng không ngờ khi chạm vật cản, những viên đạn màu đỏ tươi kia lại vỡ tan ra thành bột, tỏa mùi cay mãnh liệt. Tuy không chết người nhưng thứ bột quái quỷ ấy là cho nạn nhân xốn xang hai mắt, hắt hơi liên tục, chẳng còn thấy đường và sức lực mà chiến đấu.
Chính Nhương Thư cũng bất ngờ trước tác dụng quái ác của Hồng Thiết Đạn. Trước đây, chàng vẫn thắc mắc rằng vì sao một kẻ tàn nhẫn như Hồ Linh Cấu lại sử dụng loại ám khí tròn nhẵn không có khả năng đả thương?
Nhương Thư yên tâm lao đến tấn công họ Địch, mặc cho vòng vây vẫn mỗi lúc một dày đặc. Người trong Lạc Phách trấn đã kéo đến đây để xem trận đấu hấp dẫn. Đánh nhau thì ngày nào cũng có, nhưng cùng là người trong bang nên ít quyết liệt, khác với việc người ngoài bang vào đây nắm đầu Phó Bang Chủ mà nện!
Đám nữ nhân đã giữ chân chồng mình lại, không cho hỗ trợ Địch Dương Hùng, và họ ngoác miệng khích bác:
- Địch lão tài ba quán thế, hãy đánh cho gã họ Hồ kia biết Cưu Bang chúng ta lợi hại thế nào?
Thì ra, đám đàn bà này đều là con nợ của phó bang chủ, chỉ mong lão bị giết để giũ sạch nợ nần nặng lãi!
Thiên Lý Du Hồn bị Nhương Thư đánh rát quá, muốn mở miệng cầu cứu cũng không được. Lão than thầm trong bụng, cắn răn chống đỡ nhưng chiêu kiếm thần tốc của đối phương.
Chợt một ý niệm loé lên trong đầu Địch Dương Hùng, lão kinh hoàng định thét lên nhưng không có cơ hội. Mũi kiếm của Hồ Linh Cấu luôn uy hiếp những tử huyệt, sẵn sàng kết liễu khi lão có một sơ xuất nhỏ. Thiên Lý Du Hồn đã tận dụng thân pháp sở trường vẫn không sao dứt ra được, và trên người rải rác tám vết thương rách thịt.
Bỗng phía chân núi vọng lại tiếng tù và, báo hiệu lực lượng trên tổng đàn đã xuống đến. Bọn thủ hạ ngoài này sợ bị tội liền cãi lời vợ con xông vào tấn công Nhương Thư. Chàng lại phải rải Hồng Thiết Đạn để đối phó, tạo cơ hội cho Địch Dương Hùng nhẩy lùi. Lão vừa rời xa tầm kiếm của Nhương Thư liền gầm lên:
- Ngươi không phải...!
Nhương Thư đã sớm đề phòng, vận công nạt như sấm để át tiếng:
- Sát!
Đồng thời chàng ôm kiếm lao vút đi như mũi tên rời dây cung, bay về phía họ Địch.
Thiên Lý Du Hồn biết gã Sách Huyết Kiếm giả hiệu kia muốn giết mình để diệt khẩu, liền lách sang tả tránh đòn. Với khinh công của lão, chỉ khẽ đảo bộ là đã rời xa vị trí cũ gần trượng, xem ra rất an toàn!
Nào ngờ, thay vì lướt thẳng đến mục tiêu cũ, kiếm quang kia lại bẻ góc gần như vuông thước thợ, chụp lấy Địch Dương Hùng!
Chiêu kiếm quái dị này vượt ra ngoài sức tưởng tượng của họ Địch nên lão chỉ còn cách chống đỡ trong tuyệt vọng. Trường kiếm của đối phương lập tức đâm thủng ngực và chặt phăng cần cổ gầy gò, giúp Địch Dương Hùng thanh thản đền tội!
Trong lúc cấp bách, Hồ Linh Cấu đã thi triển chiêu Kính Đảo Quang Phương ( gương xoay hướng sáng ), kết hợp giữa khinh công và kiếm thuật dùng trong trường hợp biết chắc đối phương sẽ tránh đòn sang tả hoặc hữu. Chính kiếm kình xoáy cuồn cuộn như chong chóng đã giúp chàng đổi hướng một cách đột ngột, vượt ngoài lẽ thông thường!
Đám phụ nhân trong trấn bật khóc nức nở, vật vã vì thương tiếc cho phó bang chủ, nhưng thực ra chẳng có giọt nước mắt nào! Họ biết ơn Sách Huyết Kiếm nên chẳng hề chửi mắng gã, lòng còn thầm cảm tạ!
Tiếng tù và mỗi lúc một gần, hòa cùng tiếng vó ngựa dập dồn, và tám gã kỵ sĩ áo vàng lực lưỡng, tay cầm trường côn xuất hiện. Tuy nhìn thấy xác Địch Dương Hùng mà họ cũng thản nhiên, giao ngựa cho đám tốt đen, đứng thành hai hàng như chờ đợi ai đó! Chỉ lát sau, một đôi kỵ sĩ nữa chậm rãi đi đến, gồm một nam một nữ.
Nhương Thư choáng váng khi nhận ra hán tử áo cừu kia chính là Hoàng Nghi Tuyệt, đệ tử chân truyền của Đao Đế. Gã biệt tăm từ sau ngày thọ thương ở Chính Khí Trang, không ngờ có mặt chốn này? Phải chăng gã là đầu sỏ của bọn đạo tặc Cưu Sơn?
Chàng cố nén tiếng thở dài quan sát nữ nhân đội nón mây rộng vành có rèm bằng the đen mỏng phủ đến ngực, loại nón này có tên là Duy Mạo, xuất hiện từ thời nhà Đường, được phụ nữ sử dụng khi ra đường!
Do có lớp the nên Nhương Thư không thể nhìn thấy rõ dung nhan của nàng ta, chỉ thấy thấp thoáng làn da trắng như ngọc và đôi môi đỏ hồng.
Lúc này, toàn thể những người hiện diện đã quỳ xuống và tung hô:
- Bang chủ vạn an!
Không phải Hoàng Nghi Tuyệt mà chính nữ nhân kia xua tay, nói thánh thót:
- Miễn lễ!
Té ra bang chủ Cưu Bang lại là một nữ nhân tuổi không cao! Dương Châu Thần Thâu tiềm nhập Cưu Sơn, vẽ địa đồ xong là bỏ đi ngay nên chưa diện kiến bang chủ! Gã không biết thì Nhương Thư cũng vậy! Bang chủ Cưu Bang cao giọng hỏi Nhương Thư:
- Sách Huyết Kiếm! Ngươi uống mật gấu hay sao mà dám đến đây giết người của bổn bang?
Nhương Thư vòng tay đáp:
- Bẩm bang chủ! Tại hạ đến đây với tấm lòng thành, muốn hợp tác cùng quý bang để chiếm một mỏ vàng lộ thiên. Do Địch Dương Hùng cố tình ngăn cản, không cho tại hạ bái kiến bang chủ để bàn bạc nên mới xảy ra cớ sự này!
Nữ lang gật đầu:
- Bổn nhân đã nghe báo lại! Xem ra túc hạ không phải là người khiêu khích trước! Tuy nhiên, dẫu sao thì túc hạ cũng không được phép nặng tay như vậy!
Nhương Thư cười nhạt:
- Hồ mỗ hiếu sát thành tật, khi đã rút gươm là phải giết người, mong bang chủ lượng thứ cho! Nếu tại hạ nương tay thì đâu còn là Sách Huyết Kiếm?
Khẩu khí cuồng ngạo này là của Hồ Linh Cấu, và đã làm đối phương nổi giận. Bang chủ Cưu Bang hừ nhẹ:
- Đừng tưởng Cưu Sơn chẳng còn nhân tài! Bổn nhân sẽ cho Hộ Bang Bát Thị Vệ dạy cho ngươi một bài học!
Tám gã áo vàng cầm trượng côn lập tức vây lấy Nhương Thư, chờ lệnh bang chủ. Nàng lạnh lùng nói tiếp:
- Nếu ngươi đủ tài thoát khỏi Bát Quái Côn Trận này thì bổn nhân sẽ tha tội giết người và phong là phó bang chủ!
Nhương Thư nghiêm nghị đáp:
- Nếu Hồ mỗ lỡ tay giết chết thêm vài người, mong bang chủ chớ buồn!
Nữ lang gật đầu và phất tay ra hiệu. Tám cây trường côn bằng ống thép lập tức lồng lộn lên, theo phương vị bát quái mà uy hiếp mục tiêu trung cung.
Yếu tố lợi hại nhất của côn trận là sự phối hợp nhịp nhàng, mỗi cây côn nhắm vào vị trí trên thân thể Nhương Thư, khiến chàng phải đồng thời đối phó với bốn người, rồi đến bốn người kế tiếp. Do vậy, đường côn nối nhau liên miên bất tuyệt chẳng lúc nào dứt.
Nhương Thư bắt buộc phải xoay chuyển, như chong chóng để chống đỡ bốn mặt, khiến kiếm bay vun vút, đánh bạt những cây côn hiểm ác.
Tiếng ống thép nhân nga vang dội tạo niềm phấn khích cho người xem. Họ vỗ tay tán thưởng tài đánh kiếm tuyệt luân của Hồ Linh Cấu, vì gã đã hiên ngang cầm cự hơn khắc thời gian mà vẫn chưa hề kém thế.
Thực ra, Nhương Thư chỉ thủ chứ không tấn công được đòn nào, và nếu chẳng sớm phá được côn trận, chàng sẽ kiệt lực và bỏ mạng. Khi đơn đấu, chàng không sợ bất cứ ai, nhưng côn trận này ảo diệu khôn lường, khiến chàng phải khốn đốn.
Nhương Thư nghiến răng dệt lưới kiếm quanh thân, lao vào hai gã trước mặt. Nào ngờ, trận thế biến hóa theo, cả tám cây trường côn nhất tề tấn công chứ không chia làm hai đợt nữa.
Nhương Thư chỉ đỡ được bảy đòn và trúng một côn như trời giáng vào lưng. Chàng hự lên một tiếng vì đau đớn, máu trào ra khoé miệng, thân hình lảo đảo. Bọn phụ nhân trong trấn có cảm tình với kẻ đã xóa nợ cho gia đình nên rú lên thương tiếc.
Nhưng Nhương Thư không ngã mà vẫn chống cự rất kiến cường, làm cho Hoàng Nghi Tuyệt phải lắc đầu khâm phục. Bang chủ Cưu Bang cũng kinh ngạc, quay sang hỏi:
- Hoàng đại ca! Gã họ Hồ kia luyện môn ngoại công gì mà thân thể cứng rắn như vậy? Nếu là người khác thì đã gãy xương dập phổi rồi!
Hoàng Nghi Tuyệt lắc đầu:
- Ta không biết! Sách Huyết Kiếm vốn chẳng được xem là cao thủ hạng nhất, không ngờ võ nghệ lại rất cao cường! Nhân tài như thế chẳng lẽ Từ hiền muội lại định giết đi?
Thì ra bang chủ Cưu Bang mang họ Từ! Nàng nghiêm nghị đáp:
- Hồ Linh Cấu tướng mạo tàn ác phản phúc, không thể sử dụng được, tốt nhất là giết đi!
Tiếng rú của đám đàn bà lại vang lên và Sách Huyết Kiếm đã trúng thêm hai côn vào vai trái và hậu tâm.
Đòn thứ tư quét ngang, lực đạo vô cùng mãnh liệt, đã đánh văng thân hình Hồ Linh Cấu về phía trước. Nhưng thay vì rơi xuống mặt tuyết nằm chết lịm thì Sách Huyết Kiếm lại lướt dài, lao vào chân một gã áo vàng, gã này hốt hoảng vung côn giáng xuống, song Hồ Linh Cấu đang tư thế nằm ngửa, cử kiếm đỡ đòn và tiếp tục áp sát.
Gã cầm côn hồn phi phách tán, vội tung mình về phía tả, bỏ trống phương vị để Sách Huyết Kiếm thoát khỏi trận, Họ Hồ đứng lên, đưa tay lau máu miệng, lạnh lùng nói:
- Tại hạ đã may mắn thoát khỏi Bát Quái Côn Trận, mong bang chủ giữ lời hứa!
Nữ lang họ Từ bật cười khinh bạc:
- Lời hứa của đàn bà thì có gì đáng để tin? Ngươi phải chết để đền mạng cho Địch lão thôi!
Nhương Thư cố vớt vát:
- Chẳng lẽ bang chủ không cần đến mỏ vàng?
Nữ lang mỉm cười hỏi lại:
- Phải chăng ngươi muốn nói đến mỏ vàng dưới chân núi Côn Sơn ở cạnh sông thì phải?
Nhương Thư ngơ ngác gật đầu, và chua sót khi nghe đối phương chậm rãi nói tiếp:
- Ngươi ngu lắm! Mỏ vàng ấy đang được Cưu Bang khai thác đấy!
Thế là hết, Nhương Thư thở dài cho số phận của Liên nhi. Chàng còn đủ sức phá vây mà đào tẩu, nhưng hy vọng cứu Liên nhi đã tiêu tan. Nhương Thư giật mình khi nghe bang chủ Cưu Bang bảo Hoàng Nghi Tuyệt:
- Hoàng đại ca hãy giết gã họ Hồ dùm tiểu muội!
Hoàng Nghi Tuyệt lưỡng lự:
- Thanh Huệ! Hắn đã thọ thương, ta mặt mũi nào mà ra tay?
Giờ đây, Nhương Thư mới biết tên đối phương là Thanh Huệ. Chàng thầm lo sợ cho Hoàng Nghi Tuyệt khi thấy gã thân cận với nữ nhân có cái tâm độc ác. Ả ta đang nũng nịu thuyết phục họ hoàng:
- Đại ca cứ giữ cái tâm của đàn bà thì làm sao dựng thành nghiệp lớn được? Hay đại ca muốn tiểu muội ra tay?
Hoàng Nghi Tuyệt vội đáp:
- Thôi để ta! Nàng đang khó ở không nên xuất thủ.
Gã tung mình rời ngựa, hạ thân xuống đứng đối diện Nhương Thư và điềm đạm bảo:
- Các hạ đã thọ thương, tại hạ nhường ba chiêu!
Nhương Thư hiền hòa:
- Hoàng Nghi Tuyệt! Các hạ vì nữ sắc mà sa vào vũng bùn nhơ này, liệu Đao Đế ở chốn suối vàng có vui chăng?
Họ Hoàng kinh hãi:
- Sao ngươi biết ta?
Nhương Thư mỉm cười:
- Tại hạ có mặt trong ngày lễ khai đàn của Chính Khí Trang!
Chàng đổi giọng nghiêm nghị:
- Nay Độc Biển Thước Tả Nho Quan đã luyện thành tuyệt học của Thần Quang Chân Quân, lại thu được cả Chính Khí Trang lẫn Tứ Phạn Thiên Cung, sắp dìm võ lâm vào biển máu. Các hạ là người kế nghiệp Đao Đế sao không đem tài hợp lực cũng phe bạch đạo giáng ma, lại chôn vùi ở chốn cặn bã?
Bang chủ Cưu Bang cũng sửng sốt chen vào:
- Tin này ngươi nghe ở đâu vậy?
Nhương Thư khẳng định:
- Tại hạ tận mắt chứng kiến chứ không nghe lời đồn!
Từ Thanh Huệ tư lự nói với Hoàng Nghi Tuyệt:
- Nếu đúng thế thì việc đoạt Bạt Sơn Thần Lựu lại càng cấp bách. Không có nó làm sao chúng ta dám đương đầu với Chính Khí Trang và Tứ Phạn Thiên Cung?
Hoàng Nghi Tuyệt gật đầu, quay lại bảo Nhương Thư:
- Tuy các hạ tội ác ngập đầu, nhưng xem ra cũng có lòng với võ lâm. Tại hạ tha mạng cho các hạ đấy, hãy đi đi!
Từ Thanh Huệ giận dỗi trách:
- Sao đại ca lại tha cho hắn?
Nhưng nàng chẳng dám trái ý họ Hoàng, bèn hách dịch bảo Nhương Thư:
- Nể mặt Hoàng đại ca, ta cho phép ngươi được sống đấy!
Nào ngờ Sách Huyết Kiếm bình thản lắc đầu:
- Ta không đi nếu Hoàng Nghi Tuyệt không chịu ly khai Cưu Bang!
Họ Hoàng kinh ngạc:
- Ta và ngươi nào có liên quan gì?
Nhương Thư trầm giọng:
- Nếu một nhân tài như các hạ sa vào ma đạo là di họa cho võ lâm, và làm nhục thanh danh Đao Đế! Chẳng thà ta giết các hạ ngay bây gờ còn đỡ đau lòng hơn!
Hoàng Nghi Tuyệt cười nhạt:
- Chim sẻ là sao hiểu được chí hướng của Hoàng Hạc! Ngươi chán sống rồi sao mà dám mắng ta?
Gã rút phăng thanh Huyền Băng Đao thủ thế, sát khí phủ mờ gương mặt rắn rỏi, vốn đã lạnh tanh. Nhương Thư thở dài lẩm bẩm:
- Nếu biết có ngày này thì Tần mỗ đã để ngươi chết dưới tay Lã Tập Hiền cho xong!
Hoàng Nghi Tuyệt đang dồn hết tâm ý, công lực vào chiêu Ngự Đao nên tai mắt rất minh mẫn, nghe được câu nói ấy. Gã hốt hoảng hạ đao hỏi lại:
- Ngươi là ai?
Nhương Thư không đáp, vung kiếm vẽ liền bảy kiếm ảnh hình ngọn lửa chập chờn. Hoàng Nghi Tuyệt chấn động, tra đao vào vỏ, quỳ một chân xuống, chống một tay, kính cẩn gọi:
- Tần ân công!
Nhương Thư chua chát lắc đầu:
- Nếu các hạ còn nhớ đến ta thì hãy mau hồi đầu, đừng để anh linh của Đao Đế phải tủi hổ!
Mọi người sửng sốt trước diễn biến lỳ lạ này, chẳng hiểu gì cả. Bang chủ Cưu Bang xuống ngựa, nghiêng mình bái:
- Tiểu muội từ Thanh Huệ xin ra mắt ân công!
Nhương Thư cẩn thận lột mặt nạ, để lộ dung mạo đường chính, nhân hậu, rồi nghiêm giọng:
- Nếu cô nương quyết tâm lôi kéo Hoàng Nghi Tuyệt xuống bùn thì Tần mỗ thề sẽ tưới máu Cưu Sơn!
Hoàng Nghi Tuyệt vội đứng lên, bước đến biện bạch:
- Bẩm ân công! Tuyệt tôi vô tình lạc đến đây, cùng Từ cô nương nối mối duyên giao tình và đã thuyết phục được nàng đưa Cưu Bang quay về chính đạo, hợp cùng các phái để tiêu diệt Chính Khí Trang và Tứ Phạn Thiên Cung. Sau khi đoạt được Bạt Sơn Thần Lựu là khởi sự tấn công Lã gia trang ngay!
Nhương Thư mừng rỡ buộc miệng:
- Thiện tai! Thiện tai! Nếu được như vậy thì Hoàng túc hạ có công lao rất lớn với võ lâm!
Chàng tu hành từ nhỏ nên đôi khi quen nói cách nói của nhà chùa.
Từ Thanh Huệ phì cười:
- Sư gì mà dữ tợn thế? Tiểu muội từng nghe Hoàng đại ca kể, giờ mới được diện kiến vị sát tinh mặt Phật!
Nhương Thư ngượng ngùng nói sang chuyện khác:
- Nàng hãy thả Liên nhi ra đi. Ba mươi trái Bạt Sơn Thần Lựu đã thuộc về ta rồi! Chúng ta sẽ hợp lực giáng ma.!

Hồi 8

Mĩ Nhân Đổ Bắc Thần Giai Bại
Quân Khứ Hoàn Tuyền Thiết Cấp Truy

Gần cuối tháng giêng, thành Nam Dương tràn ngập khách giang hồ. Họ đến đây để xem trận đấu giữa Tần Nhương Thư và Lã Tập Hiền.
Trưa hai mươi bảy, có thêm ba người nữa vào thành, đó là Nhương Thư, Tào Ưng và Hoàng Nghi Tuyệt. Vừa qua cửa Đông, họ đã bị một gã khất cái chặn đường. Gã ta khom lưng vái dài:
- Tần công tử! Các vị chưởng môn đang nóng lòng chờ đợi! Mời công tử đi theo tiểu nhân!
Bọn Nhương Thư được dẫn đến một tòa trang viện rất lớn trên phố Quỳnh Hoa, người đầu tiên mà Nhương Thư gặp chính là Bạch Thúy Sơn. Ánh mắt gã ngập tràn niềm hân hoan, miệng cười rạng rỡ, chân tình, khiến Nhương Thư nghe ấm lòng. Họ Bạch lao vút đến, nắm chặt tay chàng, trách móc:
- Đại ca định bỏ rơi tiểu đệ hay sao?
Nhương Thư cười hiền lành:
- Ta ra đi để ngươi có được vợ đẹp, tròn lời hứa với lệnh sư!
Thúy Sơn đỏ mặt càu nhàu:
- Đại ca tính dồn tiểu đệ vào chỗ bất nghĩa ư? Sơn này mắng cho lão họ Điền một trận rồi bỏ đi ngay sáng hôm ấy!
Thiết Kình Ngư Tào Ưng hài lòng, giơ ngón tay cái khen ngợi:
- Giỏi lắm! Có thể đáng mặt trượng phu!
Thúy Sơn quay sang hỏi Hoàng Nghi Tuyệt:
- Hoàng túc hạ vì sao gặp được Tần đại ca?
Họ Hoàng mỉm cười:
- Chuyện dài lắm!
Nụ cười hiếm hoi này đã rọi sáng gương mặt âm trầm lạnh lẽo của chàng dũng sĩ đất Liêu Đông!
Bốn người cười nói, đi qua mảnh sân rộng, tiến vào khu hoa viên ở sau dãy nhà hướng Bắc. Trên mảnh vười rộng đến mấy mẫu đầy kỳ hoa dị thảo này tọa lạc một khách sảnh hình lục giác rất tráng lệ, cùng mấy căn tiểu xá thanh nhã, xinh đẹp.
Khách sảnh có mái lợp bằng ngói lưu ly xanh, sáu góc uống cong kiêu hãnh, vách trổ những ô cửa rất rộng, che kín bằng pha lê Hà Lan, để người bên trong dễ dàng thưởng ngoạn cảnh vật trong hoa viên. Nhương Thư vừa đặt chân lên bậc tam cấp của hành lang quanh sảnh thì nghe tiếng hô hoán:
- Tướng công! Đại ca!
Và từ trong có ba bóng trắng bay ra, chụp lấy chàng như chim vồ mồi. Họ là ba ả tố nga đất Tế Nam! Thấy họ sụt sùi, Nhương Thư dịu giọng:
- Các nàng xem mình là nữ hiệp, sao lại mau nước mắt như vậy?
Uyển Xuân nhoẻn miệng cười ranh mãnh đáp:
- Bọn tiểu muội chưa đánh trận nào, đâu thể gọi là nữ hiệp?
Bạch Cúc thẳng thắn trách:
- Sao tướng công vì chuỵên của đại thư mà bỏ cả những kẻ vô tội như bọn thiếp?
Nhương Thư rất yêu mến cô nàng không biết nói dối này, và cũng có phần ngán sợ chuyện dan díu với Bạch Ngọc Tiên Tử, nên áy náy đáp:
- Ta quả không có ý ấy! Vì muốn thanh toàn cho Thúy Sơn và Ngọc Trâm nên ta phải âm thầm ra đi đấy thôi! Mong hiền muội hiểu cho lòng ta!
Tào Ưng cằn nhằn:
- Sao lại cứ ở lỳ đây mãi thế này? Ta đói rã ruột ra rồi đấy! Để tối nay tâm sự đến sáng chẳng hay sao?
Nhị tiểu thư Điền Mã Lan đỏ mặt cự nự:
- Tào đại ca nói kỳ quá!
Nhương Thư biết nàng cả thẹn, ít lời, dường như chịu thiệt thòi nhất trong cảnh chồng chung, liền nắm tay nàng dắt đi. Mã Lan vô cùng sung sướng nhưng lại xấu hổ nói líu ríu:
- Tướng công không sợ các trưởng bối cười sao?
Nhương Thư nhìn nàng âu yếm:
- Ai cười làm gì! Cả võ lâm, đều biết ta có được ba người vợ đẹp như tiên là các nàng!
Uyển Xuân phì cười:
- Không ngờ chỉ xa nhau gần tháng mà đại ca đã học được nghề nịnh hót đàn bà, thật là đáng kinh ngạc!
Nhương Thư gật gù:
- Ta họ được của Hoàng túc hạ đấy!
Hoàng Nghi Tuyệt nhăn mặt nhưng môi thoáng cười, chẳng thèm biện bác. Cả bọn vào đến khu uống trà ở vách hướng Bắc, nơi mà năm vị chưởng môn bạch đạo và một lão nhân tóc bạc đang trò chuyện. Nhương Thư, Hoàng Nghi Tuyệt, Tào Ưng vội vòng tay thi lễ. Vô Ưu Cái nói ngay:
- Tần hiền đệ! Đây là Văn trang chủ, bào huynh của Thông Thiên Chân Nhân, chưởng môn phái Võ Đang!
Nhương Thư vội vái lão:
- Tiểu đệ Tần Nhương Thư xin bái kiến trang chủ!
Lão nhân cười ha hả:
- Lão phu tên gọi Tích Đường, mừng được gặp bậc anh hùng trẻ tuổi như công tử!
Vô Ưu Cái cũng giới thiệu Hoàng Nghi Tuyệt và Tào Ưng với họ Văn, rồi cả bọn an tọa! Trước tiên các chưởng môn hỏi han Hoàng Nghi Tuyệt. Nghe gã kể xong, mọi người vô cùng mừng rỡ, không ngờ họ Hoàng lại cải hóa được Cưu Bang! Bất Trí Thư Sinh cũng hiện diện cau mày hỏi thêm:
- Bát Quái Trường Côn Trận là tuyệt học lừng danh đất Hồ Châu, sao Từ cô nương lại có được?
Hoàng Nghi Tuyệt nghiêm nghị đáp:
- Thanh Huệ chính là hậu duệ của Thái Cực Môn đất Từ Châu. Tám vị Hộ Bang Bát Thị Vệ đều là tám sư huynh của nàng! Sau khi Thái Cực Môn bị chết gần hết trong cuộc chiến với Hải Long Giáo, chín người ấy đã đến Cưu Sơn nương náu và thành lập Cưu Bang!
Phổ Chứng Thiền Sư, chưởng môn phái Nga Mi, tiếp lời Bất Trí Thư Sinh:
- Xin hỏi Tần thí chủ đã làm cách nào để phá được Bát Quái Côn Trận?
Nhương Thư sượng sùng đáp:
- Đệ tử phải đưa lưng chịu bốn đòn mới tìm cơ hội thoát ra ngoài!
Thiền sư giật mình:
- Trường côn của Thái Cực Môn nặng ba mươi cân, lực đánh nát đá tan vng, sao thí chủ lại chịu nổi?
Vô Ưu Cái phấn khởi:
- Phải chăng hiền đệ đã tìm được bảo y hộ thân?
Nhương Thư lúng túng đáp:
- Không có bảo y! Song dường như cơ thể tiểu đệ cứng rắn, bền chắc như người luyện công phu thiết bố sam, không thể bị trọng thương được!
Cử tọa ồ lên kinh ngạc, còn Bất Trí Thư Sinh thì vỗ đùi cao giọng:
- Đấy chính là tác dụng của tinh huyết Bạch Thủy Xà Vương! Từ nay, ngay cả Độc Biển Thước cũng không thể giết được ngươi!
Mọi người hân hoan chúc mừng Nhương Thư, rồi bàn về cuộc tử đấu trên Sáp Vân Phong và cục diện giang hồ!
Tối hôm ấy, đám người trẻ tuổi tụ tập trong tiểu xá dành riêng cho Nhương Thư trò chuyện. Nhương Thư nghe kể về việc Ngọc Trâm đã xuống tóc quy y ở Thiền Vân Ni Viện, chỉ thở dài mà không có ý kiến gì! Uyển Xuân thương chị, ứa nước mắt trách Bạch Thúy Sơn:
- Chỉ tại túc hạ nên mơi ra cớ sự này!
Họ Bạch rầu rĩ cúi đầu, chẳng dám cãi! Nhương Thư bất nhẫn nghiêm giọng:
- Thúy Sơn lòng dạ quang minh như nhật nguyệt, chỉ tại Ngọc Trâm tự xe dây trói mình! Từ nay các nàng không được oán trách Sơn đệ nữa!
Bạch Cúc lên tiếng:
- Tướng công nói chí phải! Bọn thiếp xin tuân lệnh!
Cuối canh hai, ai nấy quay về phòng riêng. Ít khắc sau, Nhương Thư nhớ đến dáng điệu khổ sở của Thúy Sơn, liền tìm đến phòng của gã, Thúy Sơn mở cửa, bối rối hỏi:
- Sao đại ca lại đến đây giờ này?
Nhương Thư tủm tỉm cười:
- Anh em xa cách lâu ngày, đêm nay ta sẽ ngủ với ngươi!
Thúy Sơn gượng cười:
- Tiểu đệ đã quen ngủ một mình nên không thể chìu ý đại ca được!
Nhương Thư cười mát:
- Ngươi là nam hay nữ?
Thuý Sơn giật bắn mình:
- Tất nhiên là nam rồi!
Nhương Thư gật gù:
- Thế thì ngủ chung cũng chẳng sao!
Chàng xăm xăm đi thẳng vào phòng, trèo lên giường nằm và gọi:
- Sơn đệ, lên đây trò chuyện cùng ta!
Thúy Sơn lưỡng lự, khêu nhỏ bấc đèn rồi vào nhà sau một lúc mới ra trèo lên giường, kéo chăn bông đắp kín người. Trời rất lạnh nên dù có lò sưởi cũng phải dắp chăn mới đủ ấm.
Nhương Thư cũng chui vào trong chăn, ôm lấy gã, bàn tay tả cố ý đặt lên trên ngực Thúy Sơn. Quả đúng lời Tào Ưng, ngực của Thúy Sơn bằng phẳng nhưng không hề rắn chắc bằng chàng. Tuy nhiên, cơ thể Thúy Sơn lại khác mềm mại và thơm mùi hoa trộn chút hương bồ kết. Thú Sơn run giọng:
- Té ra đại ca muốn kiểm chứng xem tiểu đệ có phải giả trai hay không? Giờ thì đại ca đã hài lòng chưa?
Nhương Thư cười khà khà:
- Ngươi đoán đúng đấy! Ta vốn không tin trên đời lại có nam nhân xinh đẹp đến thế?
Thúy Sơn rụt rè:
- Đại ca không hề giận tiểu đệ về vụ Hổ Hồng Nhan chứ?
Nhương Thư gật đầu:
- Không! Ta đau lòng nhưng chẳng hề oán trách ai cả! Và dường như sau việc này, ta càng yêu mến ngươi hơn!
Thúy Sơn sung sướng cười đáp:
- Cảm tạ đại ca! Phải chi tiểu đệ là nữ nhân, tất sẽ lấy đại ca để bồi thường thiệt hại!
Nhương Thư sinh nghi, giả đò gác chân lên hạ thể Thúy Sơn thấy dương vật cồm cộm mới yên tâm! Thúy Sơn biết nhưng chẳng nói ra, chỉ bảo Nhương Thư kể lại thời thơ ấu cho mình nghe. Giữa canh tư, Nhương Thư mới thuật xong quá khứ đau buồn, ôm chặt Thúy Sơn mà thiếp đi.
Nguyên ngày hôm sau, Nhương Thư ráo riết luyện kiếm. Thúy Sơn và Hoàng Nghi Tuyệt giúp chàng bằng cách liên thủ tấn công, dưới sự giám sát của các vị chưởng môn.
Về lý thuyết, nếu Nhương Thư địch lại hai cao thủ này thì sẽ thắng Lã Tập Hiền. Nhưng trong thực tế thì kết luận này lại không chắc chắn lắm. Lý do đơn giản là cả ba người đều chẳng dám nặng tay với nhau, chỉ điểm trúng là rút kiếm về. Bất Trí Thư Sinh đề nghị:
- Đánh thế này thì Nhương Thư sẽ chẳng thu được lợi ích gì. Ba người hãy sử dụng kiếm gỗ mũi bằng mà giao đấu!
Trong Văn gia trang có sẵn mộc đao, mộc kiếm để đám gia đinh luyện võ nên chẳng phải mất công đẽo gọt. Phải vài khắc sau ba người mới quen vũ khí mới, tận lực thi thố hết sở học.
Trong buổi sáng, Nhương Thư trúng sáu đòn. Trong đầu giờ chiều, chàng trúng thêm một đao của Hoàng Nghi Tuyệt, nhưng sau đó dần dần chiếm được thượng phong, liên tiếp đâm trúng hai đối thủ. Dường như càng gặp cường địch, kiếm thuật của Nhương Thư càng tinh xảo. Khi hoàng hôn buông xuống, Bạch Thúy Sơn kiệt lực chịu thua, Hoàng Nghi Tuyệt cũng buông đao đứng thở dốc. Cả hai ướt đẫm mô hôi và mệt đứt hơi trong khi Nhương Thư chỉ lấm tấm ướt trán, sức lực còn rất sung mãn!
Khánh Hỉ đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm hân hoan tán dương:
- Lành thay! Lành thay! Bản lãnh của Tần thí chủ đã khiến bọn lão nạp thêm yên lòng khi phải đối phó với tà ma!
Nhương Thư nghiêm giọng:
- Tiên sư từng nói rằng Thần Quang Chưởng Pháp lợi hai vô song, tiểu đệ không dám chắc mình có thể chống lại nên chỉ tận lực mà không bàn đến kết quả!
Vô Ưu Cái kết luận rất lạc quan:
- Tấm thân sắt thép của ngươi chính là khắc tinh của Thần Quang Chưởng Pháp! Gậy sắt ngươi còn không sợ mà!
Cả nhà cười vang, công nhận lão rất có lý! Đêm đến, Nhương Thư chợt phát hiện mình đang có ý định sang ngủ chung với Thúy Sơn, liền mỉm cười tự chế giễu:
- Lạ thực! Chẳng lẽ ta lại mê gã họ Bạch rồi!
Chàng quyết định không đi và trằn trọc mãi, cuối cùng cũng xuống giường sang gõ cửa phòng Thúy Sơn. Gã mở cửa tủm tỉm hỏi:
- Sao đại ca không ngủ chung với ba chị em họ Điền mà cứ tìm đến tiểu đệ?
Nhương Thư thực thà đáp:
- Ta cũng muốn như vậy nhưng sợ bụng họ lớn ra thì nguy to! Ngủ với ngươi chắc ăn hơn!
Thúy Sơn bật cười, kéo Nhương Thư vào phòng. Cũng như hôm qua, gã đi xuống nhà vệ sinh rồi mới lên giường. Nhương Thư ôm gã, khoan khoái nói:
- Quỉ quái thực! Nằm cạnh ngươi ta bỗng nghe ấm áp và thư thái tâm hồn!
Chàng đặt tay trái lên ngực phải Thúy Sơn mà trò chuyện. Lát sau, theo thói quen trong những ngày sống với Bạch Ngọc Tiên Tử, chàng bất giác mơn man vú gã. Thúy Sơn nhột nhạt, gạt tay chàng ra và hỏi:
- Phải chăng đại ca đã kinh qua chuyện mây mưa nên mới có cử chỉ này? Tiểu dệ đoán nữ nhân ấy chính là Bạch Ngọc Tiên Tử?
Nhương Thư vô cùng khâm phục đầu óc Thúy Sơn, ngượng ngùng thú nhận:
- Bạch hiền đệ đáng mặt tri kỷ của ngu huynh! Ta cùng Lâm Đại Ngọc đã có những ngày ân ái mặn nồng!
Chàng thở dài rồi nói tiếp:
- Ta đang lo lắng không thấy Lâm nương đến Nam Dương! Vô Ưu Cái đã cho đệ tử đi kiếm khắp thành mà chẳng có âm hao!
Thuý Sơn an ủi chàng:
- Chắc vì bận gia sự nên Lâm Đại Ngọc chưa đến được. Đại ca có lo cũng chẳng ích gì, hãy cố ngủ sớm để mai có sức mà tiêu diệt Lã Tập Hiền!
Nhương Thư tán thành, lại đặt tay lên ngực Thúy Sơn rồi nhắm mắt. Chàng ngủ rất say mà họ Bạch vẫn thao thức, đôi mắt nhung đen huyền dán vào gương mặt thanh tú, trung hậu của Nhương Thư. Chàng trai họ Tần không xứng danh mỹ nam tử nhưng cũng đủ để bọn thê thiếp hãnh diện. Thúy Sơn khẽ thở dài, nhẹ nhàng xoay người Nhương Thư nằm ngửa ra, ôm lấy chàng mà thiếp đi!
Sáng hôm sau đã là ngày đầu tháng hai, ăn điểm tâm xong, bọn Nhương Thư lên ngựa đi đến Sáp Vân Phong, cách của bắc thành Nam Dương chín dặm.
Sáp Vân Phong (núi xuyên mây) cao gần ngàn trượng, đỉnh luôn phủ đầy băng tuyết, hoặc chìm trong những đám mây mùa hạ. Tất nhiên, chẳng ai dại gì mà leo lên đến tận ngọn để tỷ đấu, mà người ta chọn Sáp Vân Phong vì một lý do khác: sườn Nam của nó có một bình đài bằng phẳng, rộng đến vài chục mẫu, đủ sức chứa hàng vạn khán giả. Hai là, bình đài này bị cắt rời khỏi núi mẹ bằng một khe sâu hun hút, mịt mù sương khói nên chẳng thấy đáy đâu.
Bình đài cao độ bốn chục trượng nhưng khe vực thì sâu hơn nhiều. Nó chỉ rộng báy tám trượng, hoàn toàn thiếu dưỡng khí nên không ai có thể xuống đấy mà thám hiểm, đo đạc. Đấy mới là lý do chính đáng để những kẻ oán thù nhau chọn Sáp Vân Phong làm mồ chôn! Họ sẽ thách đấu chí chết rồi hất xác đối phương xuống vực, đỡ tốn cho gia đình nạn nhân một chiếc áo quan!
Xã hội nào cũng có luật pháp, và việc chém giết nhau luôn bị cấm đoán. Tuy nhiên, võ lâm Trung Hoa có luật lệ riêng của mình. Phàm là những kẻ đã tự xưng là khách giang hồ đều phải tuân thủ. Nghĩa là, trừ trường hợp bị ám sát, vợ dại con thơ không phương báo phục, mới được nhờ đến nha môn. Kỳ dư, anh em con cháu đều phải tự lực báo thù hoặc mướn bằng hữu võ lâm hỗ trợ. Điều này còn xuất phát từ tâm lý muốn tự tay đâm chém, giết chết cái kẻ khốn khiếp đã làm hại người thân của mình!
Tóm lại, quan quân địa phương luôn tảng lờ trước một cuộc thanh toán của bọn hào khách, ai chết mặc ai, không có đơn kiện là xong! Lương bổng thì chẳng bao nhiêu, lo toan những vụ trộm vặt đã mệt, hơi đâu để ý những kẻ thích chết ồn ào?
Đầu giờ thìn thì bình đài đã ngập tràn hơn ba ngàn hào kiệt võ lâm từ khắp bốn phương kéo đến. Xem tỷ võ là một lạc thú, một phần đời của khách giang hồ. Dẫu đang đúng vụ mùa gặt hái, đám đàn ông vô tích sự này cũng bỏ đấy cho vợ con rồi lên ngựa đi đến nơi có cảnh máu chảy đầu rơi! Khi trở về, họ lại uổng phí thêm hàng tháng nữa để lê lết nơi trà lâu tửu quán, oang oang kể lại cho người ở quê mình nghe những gì đã xảy ra để được cái tiếng là kiến văn rộng rãi!
Quần hùng luôn đến sớm để thực hiện một việc lý thú là cá cược xem ai thắng! Cuộc đỏ đen sẽ khiến người xem hào hứng hơn với trận đấu. Và trong võ lâm những chuyên gia tổ chức cá độ luôn hiện diện trong bất cứ thịnh hội nào. Họ đều là những tay đại phú, hầu bao luôn đây ắp ngân phiếu, bảo đảm chung chi đây đủ cho người tham dự. Kẻ nổi tiếng nhất có tên là Huyết Đổ Thần Cù Kim Dụng, năm nay đã gần bảy chục tuổi. Nhà họ Cù ở ngay đất Nam Dương này nên không thể vắng mặt được!
Ngoài ta hôm nay còn hiện diện một nhân vật nổi tiếng nữa là Tử Bất Đổ Vu Trường Lục, người đất Hồ Bắc.
Danh hiệu của hai lão tổ sư cờ bạc này tuy hàm ý chết chóc, máu me, song chẳng có quái gì là đáng sợ! Huyết Đổ Thần chuyên về các cược những trận so tài, thường bắt cá ai là người bị thương trước. Còn Tử Bất Đổ chỉ có nghĩa là họ Vu sẵn sàng đánh cược với bất kỳ ai, trừ người đã chết!
Huyết Đổ Thần đứng trên một gò cao, chung quanh có mười gã thủ hạ, tay cầm những xấp giấy trị giá từ mười lượng đến ngàn lượng bạch ngân. Họ Cù sang sảng tuyên bố:
- Lão phu bắt Chính Khí Trang Chủ Lã Tập Hiền thắng, tỷ lệ là một ăn hai!
Cách đấy không xa, Tử Bất Đổ Cù Kim Dụng cũng rao:
- Lão phu bắt Tần công tử thắng một ăn ba!
Hai lão khác ý nhau sao chẳng cá với nhau cho xong? Thưa rằng luật của nghề cá cược không cho phép hai đầu nậu đấu với nhau! Thế là quần hùng tùy theo phán đoán của mình, móc hầu bao để lấy những mảnh giấy có đóng mộc của họ Cù hay họ Vu!
Huyết Đổ Thần lại giở đến chiêu máu me:
- Lão phu bắt Tần công tử thọ thương trước, tỷ lệ một ăn bốn!
Bọn Nhương Thư đã có mặt, chị em họ Điền tức lộn ruột khi thấy lão họ Cù kia cứ trù ẻo cho tình quân của mình thua với trúng đòn, liền bàn bạc cùng nhau. Uyển Xuân hỏi Mã Lan!
- Nhị thư! Chúng ta còn bao nhiêu vàng?
Điền Mã Lan đáp:
- Hơn ba vạn lượng!
Uyển Xuân hậm hực nói:
- Thế thì chúng ta sẽ bỏ ra hai vạn lượng để các với lão mặt ngựa đáng ghét kia!
Nào ngờ điền Bạch Cúc lại bảo:
- Chỉ cần chừa số lẻ, Tứ muội cứ đặt cả ba vạn cho lão ta sạt nghiệp luôn!
Mã Lan thận trọng bảo:
- Để ta xin ý kiến tướng công xem sao, nếu tự ý làm càn chàng sẽ giận đấy!
Ba nàng rảo bước đến chỗ Nhương Thư và các chưởng môn, trình bày ý định. Nhương Thư nhíu mày suy nghĩ một lúc rồi mỉm cười:
- Thắng thì không chắc nhưng việc kiếm vài giọt máu trên người họ Lã thì chẳng khó. Các nàng cứ làm đi!
Ba ả tiên nga mừng rỡ chạy đến khu vực của Huyết Đổ Thần. Uyển Xuân cao giọng hỏi:
- Này lão Cù! Ông mang theo bao nhiêu vốn vậy?
Cù Kim Dụng đắc ý đáp:
- Mười vạn lượng hoàng kim, liệu có đủ không?
Uyển Xuân cười nhạt:
- Không đủ! Bổn cô nương định đặt đến ba vạn lượng, bắt họ Lã lưu huyết trước. Vị chi lão phải chung mười hai vạn lượng! Hãy cho người về lấy thêm đi!
Quần hùng chấn động trước món cá cược khổng lồ, bàn tán rất náo nhiệt. Ngay Huyết Đổ Thần cũng run sợ trước máu liều của ba cô gái họ Điền, nhưng không nhận thì còn gì thanh danh của Huyết Đổ Thần nữa? Cù lão cắn răng nói vọng về phía Tử Bất Đổ:
- Vu lão đệ cho ta mượn năm vạn lượng ngân phiếu!
Vu Trường Lục là một lão già to béo, mặt tròn, mắt hí, đầy vẻ mưu mẹo. Lão đi đến, đếm ngân phiếu trao cho đồng nghiệp rồi hờ hững nói:
- Sau trận này Cù lão huynh có thể giải nghệ được rồi đấy! Tiểu đệ xin thành thật chia buồn!
Huyết Đổ Thần tái mặt nhưng vẫn nói cứng:
- Lão phu nhìn người chưa hề lầm bao giờ!
Mã Lan trao ngân phiếu cho đối phương, sắc diện vẫn an nhiên tươi tắn, đôi mắt trong veo tràn ngập sự tự tin. Trái lại, Huyết Đổ Thần run tay, mặt mũi rầu rĩ như đưa đám.
Cù lão không ngờ Nhương Thư có ba mụ vợ hiếu thắng và xem vàng như đất cát. Trong đời cờ bạc, chưa bao giờ lão lại phập phồng, lo sợ đến thế này!
Lão rủa thầm ba ả họ Điền đi theo trai mà vác đến mấy vạn lượng vàng, đúng là thứ con bất hiếu! Nếu tính cả số bạc của quần hùng thì thua keo này lão sẽ mất đứt mười lăm vạn lượng vàng!
Khổ thay, có nhiều người noi gương chị em họ Điền, đặt cược vào Nhương Thư, làm cho số vàng ngày càng tăng, sắp bằng toàn bộ cơ nghiệp của họ Cù ở Nam Dương!
Gần cuối giờ Thìn thì Lã Tập Hiền và lực lượng Chính Khí Trang đến nơi, lão tươi cười vòng tay chào các chưởng môn:
- Không ngờ chư vị lại hạ cố giá lâm để quan chiến! Đây quả là một vinh dự lớn lao cho tại hạ!
Vô Ưu Cái nghiêm giọng:
- Lã túc hạ và Tần công tử đều là nhân tài kiệt xuất, là tướng tiên phong trong sự nghiệp giáng ma, vệ đạo, do vậy bọn lão phu chẳng thể vắng mặt. Trước hết, hội đồng võ lâm mong rằng cuộc tỷ võ này chỉ phân thắng bại trong vòng một canh giờ, không nhất thiết phải có người chết mới thôi! Thứ hai, do số vàng cá cược của đồng đạo võ lâm đã lên đến vài chục lượng vàng nên song phương không đựơc mặc áo giáp. Tốt nhất là nên cởi trần để giao đấu!
Lã Tập Hiền biến sắc nhưng không thể phản đối vì mấy ngàn cái họng đã ngoác ra tán thành. Lão hậm hực hỏi:
- Họ cá thế nào?
Vô Ưu Cái cười đáp:
- Ai là người trúng kiếm, chảy máu trước!
Phe bạch đạo không hề tiết lộ việc Lã Tập Hiền qui phục Độc Biển Thước, khiến họ Lã vẫn cố giữ cái vỏ bọc danh mộ chính phái, phải tuân phục hội đồng võ lâm.
Lúc hai đối thủ cởi áo, các chưởng môn thấy Lã Tập Hiền mặc một chiếc áo lót bó sát, dầy và đen bóng, biết đấy là bảo y, song họ tảng lờ như không! Khi họ Lã bước về phía bờ vực thì Khánh Hỉ đại sư mới nói:
- A di đà phật! Nếu không có cao kiến của Cao thí chủ thì Nhương Thư đã nguy rồi! Chiếc áo lót đen ấy chính là Hắc Giao Bì Giáp của giáo chủ Hải Long Giáo ngoài biển đông!
Bất Trí Thư Sinh được khen mà nét mặt vẫn ưu tư. Lão thở dài bảo:
- Lão phu cũng đã nhận ra vật ấy và lo rằng Hải Long Giáo cũng đã liên minh với Độc Biển Thước!
Chưởng môn phái Hoa Sơn là Ngọc Tâm Tử lên tiếng:
- Việc ấy tính sau! Giờ chúng ta phải giám sát trận đấu này cái đã!
Nhương Thư cũng đã ra đến đấu trường, đứng cách đối thủ ba trượng. Thân hình rắn chắc đầy những múi thịt rất đẹp của chàng đã khiến mấy trăm nàng nữ hiệp xao xuyến! Họ đông nên chẳng sợ ba ả cọp cái họ Điền, công khai tán dương Nhương Thư bằng những câu đại loại như:
- Cơ thể Tần công tử tuyệt đẹp và đầy nam tính!
- Ai được làm vợ chàng sẽ là kẻ diễm phúc nhất trên đời!
- Ta mà được ngủ chung với chàng một đêm rồi chết cũng mãn nguyện!
Chị em họ Điền tức cành hông mà chẳng làm được gì, chỉ thầm mắng bọ gái lẳng lơ, dám mơ tưởng đến chồng của người khác! Nhưng toàn trường bỗng choáng voáng vì một câu nói rất lớn:
- Cha ăn cướp thì con cũng chẳng ra gì!
Đúng như dự đoán của Vô Ưu Cái và Bất Trí Thư Sinh, phe đối phương sẽ cho người nhục mạ để làm rối loạn tâm trí Nhương Thư. Đã được dặn trước, Uyển Xuân cao giọng:
- Ai giết được kẻ vừa xúc phạn Tần công tử sẽ được thưởng năm trăm lượng vàng!
Thế là một góc của rừng người bỗng nhốn nháo, hỗn loạn, vang lên tiếng đấm đá chưởi thề ỏm tỏi. Lát sau, một toán hảo hán lôi xềnh xệch một xác người đến giao cho Uyển Xuân. Mặt mũi của nạn nhân đã dập nát, sưng vù, chẳng thể nhận ra dung mạo nữa. Tất nhiên, gã đã chết queo dưới tay của đám đông.
Điền Mã Lan vui vẻ lấy ngân phiếu trao cho họ và nói lời cảm tạ. Bọn hào khách vừa đi vừa cãi cọ:
- Sao ta chỉ được hai chục lượng? Chính ta đã đấm gã kia cả chục quyền cơ mà?
- Ta phải được trăm lượng vì đã liều mạng lăn vào ôm chặt chân gã để các ngươi hạ thủ!
Cuối cùng thì cũng chia chác êm xuôi, và toàn trường bắt đầu chú ý những kẻ đứng gần, chờ ai đó mở miệng chửi là xông đến ngay! Nhưng tiếc rằng cái chết của tên kia đã khiến bọn gian tế sợ hãi, chẳng dám lên tiếng nữa! Lúc này Vô Ưu Cái đã nói lời khai trận:
- Theo quy củ võ lâm, Tần công tử nhỏ tuổi hơn nên được quyền xuất thủ trước! Xin mời!
Nhương Thư và Lã Tập Hiền đều đứng cách xa mép vực hai trượng, kiếm tuốt trần dựng trước mặt, tả thủ bắt ấn kiếm!
Ai cũng đoán rằng ngay chiêu đầu song phương sẽ thi triển ngự kiếm thuật vì có đủ khoảng cách. Quả đúng thế, Nhương Thư loang kiếm hóa thành đạo hào quang màu hồng bay vút đi.
Quần hùng ngỡ ngàng khi thấy chàng không nhắm vào Lã Tập Hiền mà lại bay lệch khỏi mục tiêu hơn trượng. Ngay bản thân họ Lã cũng chẳng hiểu gì cả, chỉ còn cách xoay ngang mà phòng thủ. Nào ngờ, Nhương Thư đột ngột bẻ góc vuông, lao về phía Lã Tập Hiền. Chiêu thức quái dị này đã khiến lão ta hoàn toàn bị động, đành nghiến răng múa kiếm chống đõ.
Luồng kiếm kình mãnh liệt đã chặn bớt lực đạo của chiêu ngự kiếm nên Nhương Thư không đủ sức giết đối phương nữa. Hai thanh thép chạm vào nhau chát chúa, kiếm quang loang loáng làm hoa mắt người xem. Có tiếng ai rên khe khẽ, và Nhương Thư tung mình nhảy lui hai trượng, đứng mỉm cười!
Quần hùng hoan hô như sấm dậy khi thấy bắp tay trái và ngực của Chính Khí trang chủ Lã Tập Hiền rách hai đường, máu loang hồng làn da trắng trẻo!
Nhương Thư đã thi triển chiêu Kính Đảo Quang Phương, đả thương họ Lã để thê thiếp ẵm trọn mười hai vạn lượng vàng của Huyết Đổ Thần. Chàng không ưa cái nghề cờ bạc trên xuơng máu của họ Cù! Uyển Xuân nhảy nhót reo vang:
- Thắng rồi!
Các nàng chạy đến Huyết Đổ Thần để nhận cả vốn lẫn lời. Những hảo hán theo phe Nhương Thư cũng nhao nhao đòi nợ. Chỉ nửa khắc sau, Huyết Đổ Thần trở thành kẻ nghèo mạt rệp. Lão cũng không hy vọng vào số vàng thắng cược khi Nhương Thư bại trận, vì xem chàng chẳng thể thua được.
Lúc này trận đấu đã trở nên quyết liệt, hai kiếm thủ quấn lấy nhau như hình với bóng, đổi đòn như chớp giật. Công lực họ Lã thâm hậu gấp bội Nhương Thư nhờ những viên huyết đan của Hạt Nhãn Thần Ma, nhưng kiếm pháp lão lại kém Nhương Thư một bậc.
Huyết Tâm Kiếm Pháp lợi hại nhờ Ma Âm, nay họ Tần sở đắc thần công Phật môn, bách tà bất nhâp, nên pho kiếm kia mất đi hiệu dụng.
Sau lần tỷ đấu với Hộ Sơn Bát Thị Vệ, kiếm thuật của Nhương Thư đã khác xưa, và chàng còn tiến bộ hơn nữa khi phải một mình chống chọi với Thúy Sơn, Hoàng Nghi Tuyệt. Phật Đăng Kiếm Pháp mầu nhiệm khôn cùng, càng luyện càng xâm nhập vào chỗ uyên thâm và không hề có giới hạn.
Trình độ kiếm thuật siêu phàm của Nhương Thư đã bù đắp được sự thua sút về chân khí, giúp chàng chiếm được thượng phong, sau nửa canh giờ đã rạch sáu vết thương trên cơ thể Lã Tập Hiền. Tất cả đều không sâu và Nhương Thư luôn phải rút kiếm về để phòng Thần Quang Chưởng Pháp. Nếu mũi kiếm cắm ngập vào xương sẽ bị kẹt lại, dù chỉ trong khoảng khắc nhưng cũng đủ cơ hội cho họ Lã phản kích.
Đấu pháp khôn ngoan này đã khiến Lã Tập Hiền vô cùng chán nản. Lão đã âm mưu đánh lén một đòn phách không chưởng để kết thúc ngay mà chẳng để lộ thuyệt học Thần Quang Chưởng Pháp. Ngờ đâu, Nhương Thư lại biết trước việc lão lạy Độc Biển Thước là sư phụ nên có sẵn cách đối phó.
Tám vết kiếm thương đã biến họ Lã thành một con người máu, trông rất thê thảm. Thế là những người bắt độ Nhương Thư gào lên, yêu cầu lão ta chịu thua.
Vô kế khả thi, Lã Tập Hiền quyết định thi triển tuyệt học Thần Quang Chưởng Pháp, bất chấp việc mất đi vỏ bọc chính phái. Lão bất ngờ tung mình lùi xa, thoát khỏi tầm kiếm của Nhương Thư, rồi lại ập vào bằng một thân pháp chập chờn như ma muội, tả thủ khoa nhanh, vẽ nên những vòng chưởng quái dị.
Nhương Thư biết đã đến hồi quyết liệt, dồn chân khí bảo vệ tâm thất rồi lướt đến tiếp chiến bằng chiêu Đăng Hỏa Đương Phong. Thanh huyết kiếm rít lên những tiếng như xé lụa, kiếm ảnh gồm mười tám ngọn lửa hồng chao đảo trước luồng chưởng kình vũ bão. Chiêu tuyệt kiếm Phật Môn đã xé nát được hầu hết những vòng tròn chưởng ảnh, nhưng vẫn còn sót lại. Nhương Thư nghe bụng, ngực đau đớn như bị chùi sắt nện vào, song vẫn cắn răng tiến lên
Lã Tập Hiền đã bồi thêm bằng một chiêu kiếm ở tay phải, đinh ninh sẽ thủ lợi. Song Nhương Thư chẳng hề gẫy xương, đường kiếm vẫn còn mãnh liệt và thần tốc. Huyết kiếm xuyên qua khe hở, đâm thẳng vào má trái, rạch xép xuống hớt đứt mép và một phần môi dưới của họ Lã.
Mũi kiếm còn chạm vào răng khiến Lã Tập Hiền tê tái cả đầu óc, vội đảo bộ lùi xa. Quần hào hoan hô Nhương Thư vang dội dù miệng chàng đang rỉ máu tươi. Có kẻ nói oang oang:
- Ối chà ghê quá! Mặt của họ Lã tiêu mẹ nó rồi!
Tất nhiên Lã Tập Hiền cũng biết thế, lão điểm huỵêt chỉ huyết, nuốt vội mấy viên linh đan đỏ tươi, ném kiếm đi rồi múa song chỉ ập vào. Khi lão sử dụng hai tay thì mọi người mới thấy hết được sự lợi hại của Thần Quang Chưởng Pháp. Đấy là Lã Tập Hiền mới luyện không bao lâu, nếu như Độc Biển Thước ra tay thì càng bội phần đáng sợ.
Song chưởng của họ Lã từ khoảng cách hơn trượng liên tiếp giáng vào người Nhương Thư. Chàng lướt đến thì lão ta đã hoán vị với một bộ pháp kỳ ảo tuyệt luân. Nhương Thư trúng đến tám chín chưởng, máu miệng trào như suối nhưng vẫn không chịu gục ngã.
Ba nữ nhân họ điền bật khóc nức nở còn những người thân khác thì mặt mày nặng trĩu lo âu. Bất Trí Thư Sinh thở dài nói:
- Lã Tập Hiền chỉ học được có tám chiêu Thần Quang Chưởng Pháp, thế mà Nhương Thư cũng không địch lại! Võ lâm nguy mất rồi!
Vô Ưu Cái chợt ngắt lời:
- Xem kìa!
Thì ra Nhương Thư đã bị đối phương dồn đến mép vực, kiếm quang che kín thân mình, không trúng đòn nhưng bị sức phản chấn đẩy đi.
Lã Tập Hiền nở nụ cười đanh ác, múa tít song thủ, vẽ nên tám chưởng ảnh mù mờ, chụp lấy mục tiêu. Dĩ nhiên lão phải dùng lại chiêu đã thi triển mấy lần.
Tiếng rú thất thanh của ba ả họ Điền vừa cất lên thì Nhương Thư cũng bất ngờ xê dịch sang mé hữu một bước rồi bay vút lên không trung, sa xuống như nhát búa của lôi thần. Thân hình chàng ẩn kín trong luồn kiếm ảnh hình ngọn lửa duy nhất, phớt hồng nhờ hai sợi chỉ máu dọc trên huyết kiếm.
Lã Tập Hiền vội cử chưởng đẩy liền sáu đạo chưởng phong để chặn đường gã họ Tần, ngỡ rằng có thể đánh văng đối phương xuống vực thẳm. Tiếc rằng chiêu Thiên Hỏa Giáng Ma lại là chiêu Ngự Kiếm duy nhất trong võ lâm có thể thi triển ở khoảng cách gần và từ trên cao đánh xuống. Do vậy, huyết kiếm đã xé nát các đạo chưởng kình, tiện dứt tả thủ và cắm xuyên vào ngực Lã Tập Hiền, theo tư thế xéo từ trên xuống.
Nhương Thư đã thành công nhưng hoàn toàn kiệt lực bởi những vết chưởng thương và chiêu Ngự Kiếm lúc nãy. Chàng mệt mỏi đến mức không tài nào di chuyển được nữa, chỉ đứng thở hồng hộc. Nhưng Lã Tập Hiền chưa chết dù máu trong phổi trào ra khoé miệng. Lão trợn mắt căm hờn lẩm bẩm:
- Ngươi thua rồi! Trời sinh lão phu có trái tim ở ngực phải!
Dứt lời, lão vung cước đá mạnh vào bụng Nhương Thư, hất văng chàng xuống vực thẳm, cách đấy chưa dến một trượng! Diễn biến này vượt ngoài dự kiến của mọi người. Họ đang reo hò hoan hô Nhương Thư, nào ngờ kẻ phải chết lại là chàng!
Người thân của Nhương Thư bàng hoàng đau đớn đến mức chết đứng như trời trồng. Nhưng Bạch Thúy Sơn lại phản ứng khác, gã nhanh chóng lướt như tên bắn về phía Lã Tập Hiền, khi còn cách hơn một trượng đã ném mạnh một vật hình trụ. Trái Bạt Sơn Thần Lựu nổ vang trời, xé tan thân thể họ Lã, và còn làm cho lớp truyết trên sười núi Sáp Vân Phong lở ra, trút xuống vực thẳm. Không hề dừng chân, Thúy Sơn tiếp tục lao đến mép vực, thét lên ai oán:
- Tần đại ca!
Rồi gã gieo mình xuống khoảng không gian mịt mù sương khói và tuyết vụn. Bọn Vô Ưu Cái vội điểm huyệt ba chị em họ Điền để đề phòng vụ tự sát thứ hai, rồi mới kéo đến cạnh khe vực mà quan sát.
Tuyết vẫn trút xuống ồ ạt, tạo nên tiếng động ầm ầm như sấm. Các chưởng môn nhìn nhau tuyệt vọng, biết chắc hai anh em Nhương Thư không thể nào sống sót.
Lát sau quần hùng giải tán, ngậm ngùi ca ngợi tình bằng hữu giữa Thúy Sơn và Nhương Thư.
Nhưng nếu để hai gã Tần, Bạch chết đi thì đúng là trời cao không có mắt hay sao? Vậy thì họ phải sống sót, song bằng cách nào?
Trước tiên chúng ta hãy quay lại với Tần Nhương Thư, chàng trúng cú đá của Lã Tập Hiền trong lúc tay vẫn nắm chặt chuôi kiếm. Khi văng đi, lưỡi kiếm bị rút ra, cản bớt đà bay nên rơi rất sát vách vực..
Nhương Thư vì quá kiệt sức nên không còn vẫy vùng được nữa, để mặc thân thể gieo xuống. May thay, khi rơi được chục trượng, mông chàng chạm vào tàn của một loài cây lạ mọc trên vách. Nhánh cây gãy răng rắc và chàng tiếp tục rơi, nhưng lại chạm cây thứ hai, thứ ba, và cuối cùng nằm lại trên tàn cây thứ mấy không rõ. Nỗi đau ở mông, lưng đùi đã khiến chàng tỉnh táo lại, ngồi lên móc hũ linh đan nuốt liền bốn viên. Đây là quà tặng của Bất Trí Thư Sinh, lão đã tận dụng tài sản của nhà họ Điền để mua dựơc liệu quý, bào chế thuốc giải Tiêu Trường Vụ, tiện tay làm ít thuốc trị nội ngoại thương!
Bỗng chàng nghe một tiếng nổ ì ầm từ trên vọng xuống, đoán rằng phe mình đã sử dụng Bạt Sơn Thần Lựu. Nhương Thư ngước lên nhìn, phát hiện một bóng vàng sa xuống.
Không hiểu vì sao chàng lại nghĩ đến Bạch Thúy Sơn, có lẽ vì sáng nay gã đã mặc một bộ võ phục vàng rất diêm dúa. Chẳng chút chần chừ, Nhương Thư thò hữu thủ chụp lấy cánh tay đang đang rộng của nạn nhân. Đà rơi quá mạnh giật trốc gốc cây khỏi vách, rơi xuống đáy vực cách chừng mười trượng. Chân Nhương Thư quặp chắc tàn cây nên cả hai người vẫn dính lại ở đây, rơi bằng tốc độ với cái cây kỳ lạ kia. Đáy vực lại đầy lá mục nên họ đã sống sót.
Bạch Thúy Sơn dùng tay phải sửa khớp vai tả bị trẹo do cú giật, rồi ôm Nhương Thư khóc vùi:
- Tiểu đệ tưởng đại ca đã chết nên nhảy xuống theo. Không ngờ hai ta lại vẫn còn được gặp nhau trên chốn dương gian!
Nhương Thư cảm động đến nghẹn lời, ngồi lên dịu dàng hỏi:
- Sao hiền đệ dại thế?
Thúy Sơn lười chàng:
- Thiếu đại ca thì tiểu đệ còn sống làm gì nữa?
Lúc này, tuyệt đã rơi xuống đến đáy vực, Thúy Sơn vội đỡ Nhương Thư dậy và hớt hải nói:
- Tiểu đệ đã dùng Bạt Sơn Thần Lựu xé xác lão họ Lã! Có lẽ vì vậy mà làm cho tuyết trên núi lở xuống!
Nhương Thư đã suy nghĩ rất nhiều về địa thế Sáp Vân Phong, đặt cả tình huống rơi xuống vực thẳm này nên bình tĩnh trấn an:
- Lượng tuyết trên sườn núi không nhiều, chẳng thể chôn vùi chúng ta được. Trái lại, vụ truyết lở còn mang lại một lượng dưỡng khí rất lớn cho đáy vực. Hai ta vẫn còn khoẻ mạnh, lo gì không thoát lên nổi?
Thúy Sơn bỗng hỏi:
- Lúc nãy, trước khi nhảy xuống tiểu đệ có gọi rất lớn, đại ca có nghe không?
Nhương Thư lắc đầu khiến Thúy Sơn chán nản:
- Nếu vậy thì người ở trên cũng chẳng nghe thấy chúng ta!
Gã thấy Nhương Thư khập khiễng liền bồng lên, lướt về phía vách vực hướng tây, nơi có vẻ ít tuyết đổ xuống. Hai người mừng rỡ khi thấy nơi ấy có một ao nước trong veo nằm dưới một động khẩu ở chân vách. Họ ẩn vào đấy cho đến lúc tuyết thôi tuôn xuống. Không gian mờ tối nên Thúy Sơn nhặt nhạnh cành khô chất thành đống cạnh bờ ao, đốt lên cho sáng sủa, và còn hy vọng người ở trên nhìn thấy.
Trong lúc Nhương Thư điều tức trị thương, Thúy Sơn quan sát ao nước, mừng rỡ khi thấy có khá nhiều cá. Gã đeo kiếm khi nhảy xuống nên giờ đây có vũ khí mà đâm cá, được hai con, một lớn màu đen, một nhỏ màu trắng. Thúy Sơn nướng xong thì Nhương Thư cũng xả công.
Chàng cởi phăng chiếc quần dài rách nát và đôi võ hài rồi nhảy xuống ao tắm táp. Nghe lưng đau rát, chàng hỏi:
- Bạch hiền đệ, lưng ta thế nào?
Thúy Sơn bước đến xem xét, cười bảo:
- Có đến mấy chục đương rách nhưng không sâu! Đại ca sắp thành kim cương bất hoại rồi đấy!
Chờ chàng tắm xong, gã lấy thuốc kim sang xức lên, xé áo choàng mà băng lại. Nhương Thư rất đói bụng vì trận tử chiến nên ăn sạch con cá lớn. Lát sau chàng nghe mi mắt nặng trĩu, liền nằm trên sàn động ngủ vùi. Thúy Sơn ngồi kế bên, âu yếm nhìn gương mặt đôn hậu của Nhương Thư. Thấy chàng không có gối, gã bèn kê đùi mình xuống dưới đầu.
Ngủ được hơn khắc bỗng Nhương Thư rên rỉ và lăn lộn. Người nóng như lửa. Thúy Sơn kinh hãi lay gọi mà chàng vẫn không hồi tỉnh, gã sợ quá chẳng biết làm sao, nằm ôm chặt lấy Nhương Thư mà khóc. Chợt gã phát hiện dương vật họ Tần cương cứng liền ngồi bật dậy thì thấy mắt chàng mở lớn đầy khát vọng, hai tay run rẩy cố ôm lấy mình.
Thúy Sơn liền hiểu ngay con cá đen kia có dâm tính cực mạnh nên đã khuất phục người có định lực thâm hậu như Nhương Thư. Và nếu lúc này không được giao hợp thì chàng sẽ chết hoặc phát cuồng.
Thúy Sơn thở dài, thò tay điểm huỵêt Nhương Thư rồi đứng lên thoát y. Gã chỉ còn một bộ duy nhất này nên không thể để chàng xé rách được.
Phải chăng Thúy Sơn định giở trò kê gian? Thưa không, khi mảnh vải cuối cùng rời khỏi thân thể thì Thúy Sơn hiện rõ bản chất nữ nhi, chỉ thiếu có đôi nhũ phong nẩy nở. Trời sinh nàng không có ngực nên tủi phận cải nam trang! Nàng yêu Nhương Thư say đắm nhưng mặc cảm mà chẳng dám nói ra!
Nay để cứu tình quân, Thúy Sơn sẵn sàng hy sinh trinh tiết, vì ngay cái chết nàng cũng chưa hề sợ! Nàng ngồi xuống, giải huyệt cho Nhương Thư rồi dâng hiến. Thúy Sơn nội công thâm hâu, dễ dàng vượt qua đau đớn khuê môn, lại hết lòng yêu họ Tần nên tâm lý thanh thản, nồng nàn, đạt được khoái cảm, dù Nhương Thư chỉ hành động như dã thú!
Vài khắc sau, Nhương Thư mới thoát khỏi tác dụng của dâm ngư, lăn ra ngủ vùi. Thúy Sơn lặn lẽ tắm táp cho mình, rồi rửa ráy cho tình quân, lòng tràn ngập hạnh phúc và một chút hoang mang.
Mãi đến chiều Nhương Thư mới tỉnh giấc, hoan hỉ nói:
- Sơn đệ! Dường như con các kia có tác dụng rất tốt. Ta nghe những vết nội thương đã hết đau nhức, cơ thể sảng khoái sung mãn. Hiền đệ bắt thêm vài con cá nữa đi!
Thúy Sơn thẹn đỏ mặt, quay ra ao, dùng kiếm xiên thêm hai con giống hồi trưa. Nhương Thư ăn xong lại buồn ngủ và đi vào trạng thái khát tình. Thúy Sơn lại lặng lẽ chịu đựng sự dày vò của chàng, và cũng nhận nhiều lạc thú hơn lần trước!
Sáng hôm sau, Thú Sơn không dám cho Nhương Thư ăn hắc ngư nữa mà chuyển qua loại cá có màu trắng bạc, may thay nó không hề có dâm tính!
Hai người cùng nhau đi khảo sát khắp nơi, trừ những chỗ bị tuyết chôn vùi. Đáy vực rất tối tăm nên họ phải cầm theo cành khô làm đuốc.
Mỗi ngày cứ thế trôi qua, tám lượt thì xuân cũng về đến đất Nam Dưong, tuyết trên núi tan nhanh, chảy xuống vực ào ạt, mang thêm dưỡng khí trong lành. Mặt trời xuân cũng rực rỡ ban phát ánh sáng mờ mờ cho đáy vực.

Hồi 9

Phục Sinh Báo Gia Cừu
Hồi Hương Tầm Thân Thế

Niềm tuyệt vọng càng lớn khi đàn cá dưới ao sắp hết. Trưa ngày rằm hai người đang gượng gạo trò chuyện ngay chỗ đã rơi xuống thì phát hiện có những vật nhỏ rơi xuống. Trước tiên là một con gà quay, một vò rượu và sau đó là tro tàn của giấy tiền vàng bạc.
Biết có người đến cúng tế, Nhương Thư mừng rỡ vận công rú lên cao vút. Nhờ nhưng con Hắc Ngư kỳ lạ kia, chàng đã luyện xong lớp thứ chín của pho Thiên Đăng Tâm Pháp, nội lực tương đương bốn chục năm tu vi, nên tiếng rú đã vượt qua độ cao hơn trăm trượng.
Lát sau, một tảng đá có quấn vạt áo được ném xuống, trên có mấy dòng chữ bằng máu:
"Nếu hiền đệ còn sống thì hãy rú lên một lần nữa! Lão phu là Quách Tàn Bôi đây!"
Nhương Thư hoan hỉ hú vang, và lại nhận được huyết thư:
"Cảm ơn lão trời già! Lão phu đi tìm người đến cứu ngươi đây!"
Chỉ vài khắc sau lão đã quay lại, thả dây chão xuống, có cả thư:
"Dây chão rất chắc chắn và được sáu người kéo. Nếu Bạch Thúy Sơn cũng còn sống thì hãy cùng lên một lượt cũng chẳng sao!"
Nhương Thư quấn quanh bụng, thắt lại rồi bảo Thúy Sơn ôm cổ mình. Chàng giật dây báo hiệu để phía trên bắt đầu kéo. Tuy chậm chạp nhưng cuối cùng họ cũng lên đến miệng vực, ôm lấy lão trộm già họ Quách. Dù nước mắt dàn dụa nhưng ai cũng cười ha hả.
Dạ Quân Tử giới thiệu năm gã hán tử cùng kéo dây:
- Nhị vị hiền đệ! Họ là Tô Châu Ngũ Kiếm, hảo hán đất Tứ Xuyên, con cùng một mẹ, mang họ đồng. Năm người này ngưỡng mộ uy danh của hiền đệ nên nhờ lão phu tiến cử làm thuộc hạ. Hôm qua đến đây, nghe tin hiền đệ rơi xuống vực thẳm này, họ vô cùng thất vọng, định quay về cố quận. May mà Ngũ Kiếm còn vương vấn mấy kỹ viện trong thành nên mai mới khởi hành.
Năm gã ngượng ngùng nhìn nhau rồi quỳ xuống. Tuổi họ sàn sàn nhau, từ khoảng ba mươi đến ba mươi lăm, dung mạo dữ dằn vì râu rậm, mắt ốc nhồi, mũi ưng, môi mỏng lét. Tuy nyhiên, vầng trán thấp và khoảng cách giữa hai mắt khá xa đã nói lên rằng họ không được thông minh lắm.
Mắt mũi na na nhau nhưng chiều cao thì chênh lệch rất đều. Nghĩa là khi họ quỳ xuống cạnh nhau thì tạo thành một đường dốc rõ rệt. Người cao nhất thì hơn Nhương Thư, còn người thấp nhất thì chỉ đến vai Thúy Sơn. Nhưng gã lùn nhất lại là đại ca, gã nói rổn rảng:
- Mong công tử nhận năm anh em tại hạ làm thủ hạ! Chúng ta nguyện suốt đời trung thành, dẫu chết cũng chẳng thay lòng đổi dạ!
Gã kế bên buột miệng tiếp lời:
- Lương bổng không quan trọng, chỉ vài chục lượng cũng đủ!
Người thứ ba thêm vào:
- Thỉnh thoảng mong công tử ban cho chút đỉnh gửi về quê cho mấy mụ vợ và lũ trẻ!
Người thứ tư rụt rè:
- Còn khoản thanh lâu chỉ xin mỗi tháng một lần!
Người thứ năm là gã cao kều:
- Nếu lỡ chết thì xin chiếc quan tài bằng gỗ tốt!
Bạch Thúy Sơn chịu không nổi, phá lên cười sặc sụa, Nhượng Thư thì tủm tỉm nói:
- Được! Ta đồng ý!
Năm gã họ Đồng mừng rỡ dập đầu theo nhịp đếm của anh cả:
- Một, hai, ba,..., chín!
Nhương Thư cũng vái trả, lòng rất vui mừng vì có những thủ hạ cổ quái này. Gã thứ tư là đồng Tứ có chiều cao tương tự Nhương Thư nên mở tay nải đưa cho chàng mượn một chiếc áo. Gã cười hể hả:
- Bẩm công tử! đây là chiếc áo mới nhất của thuộc hạ đấy! Mong công tử giữ kỹ giùm cho!
Nhượng Thư quay sang kính cẩn hỏi họ Quách:
- Chẳng hay tình hình bá mẫu thế nào rồi?
Dạ Quân tử cười đáp:
- May mà gia mẫu đã hồi phục, giờ đây hoàn toàn khỏe mạnh!
Tám người xuống núi, quay ngựa trở lại thành Nam Dương. đồng đại và đồng Nhị cưỡi chung một con, nhường một con cho Nhương Thư và Thúy Sơn. Vừa đi được một quãng ngắn, Thúy Sơn ranh mãnh nói:
- Để tạo niềm vui bất ngờ, phiền Quách đại ca cho bọn tiểu đệ mượn hai chiếc mặt nạ!
Dạ Quân Tử cười khà khà, trao cho họ Bạch và Nhương Thư, mỗi người một cái, Lão đắc ý bảo:
- Tần tiểu đệ! Cái của ngươi là do lão phu lột được từ mặt của gã Tiểu Thám Hoa Trần Thượng Bãng, một dâm tặc vùng phía Tây đất Tứ Xuyên. Bốn năm trước, lão phu tình cờ đi ngang vùng rừng núi Lac Sơn, phát hiện gã nằm chết, liền lột lấy da mặt rồi mới chôn!
Thúy Sơn rùng mình sợ hãi!
- Thế cái của tiểu đệ thì sao?
Dạ Quân Tử cười ruồi:
- Cũng là của một kẻ đã chết! Nhưng ngươi đâu phải là đàn bà mà nhát gan thế nhỉ?
Có tật giật mình! Thúy Sơn vội mang vào ngay. Gã ngửa mặt nhìn Nhương Thư rồi khen:
- Té ra Tiểu Thám Hoa cũng là một gã đẹp trai đấy chứ!
Nhương Thư cười đáp:
- Còn ngươi thì rỗ chằng rỗ chịt trong mà phát khiếp!
đoàn người tiến vào thành, đi thẳng đến Văn Gia Trang, hy vọng bọn Vô Ưu Cái vẫn còn ở đấy! Quả nhiên, có vài tên tiểu cái đang ngồi bắt rận cho nhau trước cửa trang, dưới bóng mát của một cây quế cổ thụ. Cạnh đấy, hai gã gia đinh áo xanh say mê đấu cờ. Dạ Quân Tử hắng giọng hỏi:
- Này tiểu huynh đệ! Chẳng hay Hầu bang chủ còn ở đây không?
Gã hán tử cụt tay chiếu ánh mắt nghi ngờ hỏi lại:
- Tôn giá là ai mà lại hỏi thăm tệ bang chủ?
Họ Quách nghiêm giọng:
- Lão phu là Quách Tàn Bôi, bái huynh của Tần công tử, vừa từ Tứ Xuyên đến!
Gã cụt tay dường như có biết việc này, vội đứng lên cung kính nói:
- Thì ra là Quách đại Gia! Mời chư vị đi theo tiểu nhân! Hai gã kia mê cờ chắc chẳng chịu đứng lên đâu!
Tám người xuống ngựa, giao cho đám tiểu cái rồi nhập trang. Trong tòa khách sảnh hình lục giác ở vườn hoa đang hiện diện đầy đủ những gương mặt thân yêu của Nhương Thư, chỉ thiếu bốn vị chưởng môn Tãng đạo mà thôi!
Sắc diện bọn họ cực kỳ sầu héo, u ám, nhất là ba cô gái họ điền. Giờ đây, mặt hoa hốc hác, mắt sưng vù vì than khóc. Gã hóa tử cụt tay vào trước để bẩm báo:
- Bẩm bang chủ! Có bái huynh của Tần công tử là Quách đại gia xin đến chia buồn!
Vô Ưu Cái gật đầu:
- Mời lão ta vào đây!
Gã cụt tay trở ra, và bọn Nhượng Thư bước vào. Họ Tần hoan hỉ nhìn từng gương mặt thân yêu, nhận ra ai cũng khổ đau, kể cả hai gã Tào Ưng và Hoàng Nghi Tuyệt. Mặt họ đầy râu, mắt đỏ ngầu, đang uống cạn từng bát rượu đầy chẳng cần thức nhắm. Hầu bang chủ giới thiệu phe mình, và theo đúng lễ, ba ả họ điền phải ra chào bái huynh của người chồng quá cố!
Vô Ưu Cái rầu rĩ nói:
- Quách lão đệ đến rất đúng lúc! Sáng mai bọn lão phu sẽ xuống vực thẳm tìm xác Nhương Thư và Thúy Sơn! Tuyết tan, nước chảy thành thác tất đáy vực sẽ không thiếu dưỡng khí!
Bất trí Thư Sinh bỗng nghiêm giọng!
- Này Quách Tàn Bôi! Vì sao lão lại đưa những kẻ bại hoại như Tiểu Thám Hoa, Xú Diện Khuyển đến đây? Cả năm gã Tô Châu Ngũ Tặc kia cũng chẳng có tốt lành gì?
Cao Tường Toản kiến vãn như biển lại ở Tứ Xuyên nên đâu lạ gì những gương mặt mốc của giới Hắc đạo! Lúc này Nhương Thư mới biết năm gã họ đồng kia không phải là Ngũ Kiếm mà là Ngũ Tặc, còn gương mặt rỗ của Thúy Sơn vốn là của gã Xú Diện Khuyển nào đấy! Quách Tàn Bôi chẳng hề bối rối, cười khanh khách đáp:
- Lão phu xuất thân Hắc đạo tất phải đồng hành với Hắc đạo, có gì là lạ?
Vô Ưu Cái cằn nhằn:
- Nhưng Tiểu Thám Hoa là dâm tặc, tuyệt đối chẳng thể chấp nhận được! Ngươi không đuổi gã ấy thì có chuyện đấy!
Quách Tàn Bôi xua tay:
- Hầu Bang chủ lầm rồi! Chính cái gã dâm tặc này lại là truyền nhân duy nhất của Dạ Lang đại Pháp Sư. Gã ta sẽ dùng phép thuật hồi sinh cho Nhương Thư và Thúy Sơn!
Vô Ưu Cái giận giữ nạt:
- Cuồng ngôn! Ngươi tưởng bọn ta là con nít chãng?
Hoàng Nghi Tuyệt lạnh lùng lên tiếng:
- Lão hãy đi đi! đừng để ta lỗi đạo với Nhương Thư vì đã giết lão!
Thúy Sơn nhận ra ánh mắt đầy hy vọng của ba cô gái họ điền, liền khàn giọng bảo:
- Ba nàng muốn ở góa hay muốn thử một phen? Pháp thuật của bọn ta cao siêu nhất thiên hạ đấy!
Mã Lan không còn kềm chế được nữa, rời ghế bái Vô Ưu Cái và khóc ròng:
- Quách Lão là nghĩa huynh của chuyết phu, lẽ nào lại dám lộng ngôn! Xin Bang chủ cho phép họ làm thử, biết đâu thành công thì sao?
Dạ Quân Tử cũng nói:
- Lão phu xin lấy đầu mình ra để đảm bảo!
Vô Ưu Cái thở dài:
- Thôi được! Các ngươi đã tin tưởng thì lão phu cũng không cản!
Thúy Sơn cười khanh khách nói thêm:
- Tốt lắm! Nhưng chư vị phải trả công chứ!
Mã Lan gạt lệ đáp:
- Giá cả không thành vấn đề!
Thúy Sơn gằn giọng:
- Nghĩa là nàng chấp nhận bất cứ giá nào!
Mã Lan gạt lệ:
- Đúng vậy!
Thúy Sơn tủm tỉm nói:
- Rẻ thôi! Chỉ cần nàng hôn gã Tiểu Thám Hoa kia một cái là xong!
Tào Ưng giận giữ gầm lên:
- đồ đốn mạt! Ngươi muốn chết chãng?
Nhưng Bất Trí Thư Sinh lại gạt đi và bảo Mã Lan:
- Tức muội cứ việc làm theo lời của Xú Diện Khuyển!
Cả nhà kinh hãi, không ngờ lão hồ ly này lại xử sự quái đản đến mức khuyên em dâu thất tiết!
Mã Lan run rẩy, chẳng biết phải làm sao, nước mắt tuôn như suối!
Gã Tiểu Thám Hoa kia đã chủ động bước đến, khiến nàng sợ hãi lùi lại. Tên dâm tặc lên tiếng:
- Lan muội! Ta đã trở lại với các nàng!
Giọng nói trầm ấm, dịu dàng kia như tiếng sét giáng vào tâm thức Mã Lan và mọi người. Nàng tròn mắt nhìn ngơ ngác, và rú lên khi Tiểu Thám Hoa lột mặt nạ. điền nhị tiểu thư lập tức xỉu đi, được Nhương Thư ôm trong vòng tay rắn chắc! Hai cô em cũng chạy ra, ôm chàng khóc lóc.
Nhưng bọn nam nhân thì reo hò như sấm dậy, nước mắt ràn dụa. Bất Trí Thư Sinh nạt:
- Thúy Sơn! Ngươi còn định trốn nữa sao?
Xú Diện Khuyển vuốt mặt, ngượng ngùng bảo:
- Nhãn lực của Cao huynh quả là đáng sợ!
Mã Lan đã hồi tỉnh, ngỡ ngàng vuốt ve gương mặt tình quân, tỉnh táo khi bị Nhượng Thư hôn lên má!
Nhượng Thư buông thê thiếp bước đến ôm các nam nhân. Họ vỗ lưng nhau bồm bộp, cười vang đến nỗi rung rinh cả những mảnh pha lê quanh vách.
Văn trang chủ nghe tin vui vội chạy đến mừng Nhương Thư và Thúy Sơn!
đương nhiên lão cho dọn ngay tiểu yến để mọi người quây quần nghe kể về kỳ tích thoát chết của hai gã Tần, Bạch!
Ba ả họ Điền đã lôi Nhương Thư vào phòng tắm, chẳng chút thẹn thùng, ra sức kỳ cọ cho chàng. Nhương Thư động tình, hôn hít họ rất nồng nhiệt. Bạch Cúc nhìn chàng say đắm và bộc bạch:
- Nếu không bị mọi người ngãn cản thì bọn thiếp đã lao xuống vực chết theo tướng công rồi!
Nhương Thư mỉm cười:
- Ta biết! Nhưng cũng may là ba nàng không làm thế! Dưới vực chỉ có vài chục con cá, lấy gì mà ăn để chờ đến lúc Quách đại ca đến tế?
Mã Lan ấp úng:
- Bọn thiếp rất hối hận vì không sớm hầu hạ chãn gối cho tướng công, may ra có được giọt máu họ Tần mà an ủi đời góa bụa.
Nhương Thư gật gù:
- Cũng chưa muộn! Tối nay ta sẽ sang tìm nàng!
Uyển Xuân cười khúc khích:
- Phòng của chị em thiếp gần nhau đấy!
Họ đùa giỡn hỏi lâu nên khi ra đến thì cả nhà đã hiện diện, cơm rượu cũng sẵn sàng. Nhương Thư vừa ãn được hai chén đã buông đũa kể lể vì biết mọi người đang nóng ruột.
Vô Ưu Cái tấm tắc khen:
- Thân thể ngươi đúng là bằng thép nên không bị dập nát khi bị đập vào mấy chục tàn cây trên vách!
Bất Trí Thư Sinh thì hỏi kỹ:
- Tần hiền đệ! Chẳng hay những con cá đen bổ dưỡng dưới vực còn có đặc điểm gì nữa không?
Thúy Sơn làm cá nên rõ hơn:
- Nó có hình dạng của cá chép nhưng không vẩy, lưng đen tuyền mà bụng đỏ như son, đuôi vây có mấy sọc vàng óng!
Cao lão cau mày suy nghĩ, mỉm cười đắc ý và chẳng nói ra! Nhương Thư hỏi đến cục diện võ lâm. Vô Ưu Cái tư lự đáp:
- Trinh sát Cái Bang báo về rằng lực lượng Chính Khí Trang đã sát nhập vào Tứ Phạn Thiên Cung! Và dường như cả độc Biển Thước cũng có mặt ở Càn Sơn. Có khả nãng đối phương sẽ tập kích Hoa Sơn trước tiên!
Nhương Thư cau mày:
- Vì sao vậy?
Vô Ưu Cái đáp:
- Năm xưa, chính tiền nhiệm chưởng môn Thần Y Tử, sư phụ của Ngọc Tâm Tử, đã là người vô hiệu hóa được chất kỳ độc của Tả Nho Quan nên lão mới bị khống chế. Hai là, vị trí núi Hoa Sơn cách xa huyện thành, không sợ quan quân đến tiếp ứng! Nội gián của chúng ta ở Càn Sơn cũng đã xác nhận ý đồ này!
Bất Trí Thư Sinh bàn rằng:
- Chắc đối phương chưa đánh Hoa Sơn ngay! Chúng ta cứ đến Ly Sơn điều tra lai lịch Nhương Thư, khi có biến thì đi hỗ trợ phái Hoa Sơn!
Cử tọa đều khen phải. Hãng hái nhất là ba ả họ điền, làm dâu kẻ cướp chẳng vinh dự gì nên hy vọng gốc gác chồng mình sớm sáng tỏ. Nhưng Nhương Thư trầm ngâm hỏi:
- Hầu lão ca! Hạ lạc của Trác Thiên Lộc thế nào?
Họ Hầu kể:
- Vì nghe tin hền đệ đã bỏ mạng dưới vực sâu nên họ Trác chẳng còn phải trốn tránh, ngang nhiên xuất hiện ở Lạc Dương, phụ trách một phân đà bí mật của Tứ Phạn Thiên Cung! Nhờ có nội gián nên lão phu biết được việc này!
Nhương Thư cười nhạt, mắt loé hào quang:
- Tốt lắm, sau khi đi Hoa Sơn, tiểu đệ sẽ đến Lạc Dương tìm lão ta!
Bất Trí Thư Sinh nghiêm giọng:
- Thực ra! Việc tiêu diệt Trác Thiên Lộc cần phải tiến hành sớm! Và nếu độc Biển Thước biết hiền đệ còn sống sẽ bắt họ Trác tiết lộ Phật Đăng Kiếm Pháp. Khi lão đã nắm vững sở học Ngũ đài Sơn thì hiền đệ sẽ nguy đấy!
Nhương Thư nghe sống lưng lạnh toát, thở dài đáp:
- đa tạ Cao lao huynh cảnh tỉnh! Sang mai đệ sẽ đi Lạc Dương!
Bất Trí Thư Sinh chợt hỏi:
- Hiền đệ và Thúy Sơn mang mặt nạ này từ lúc rời Sáp Vân Phong chứ? Nếu đúng thế thì rất tốt, và đây sẽ là đòn bất ngờ cho đối phương!
Quách Tàn Bôi đắc ý cướp lời nghĩa đệ:
- Phải đấy! Lão phu sẽ biến Nhương Thư thành một người hoàn toàn khác, làm cho tà ma phải điên đầu .
Tan tiệc, Nhương Thư gặp riêng Vô Ưu Cái để hỏi tin tức Bạch Ngọc Tiên Tử! Hầu Bang chủ chớp mắt trấn an:
- Ngươi cứ yên tâm! Phân đà Sơn Tây báo về rằng Lâm Trang chủ bị bệnh nên đại Ngọc phải ở lại chăm sóc! Sau vụ Hoa Sơn chúng ta sẽ đến đấy thăm họ!
Nhương Thư là người đôn hậu, lại tuyệt đối tin tưởng Vô Ưu Cái nên không phát hiện ra ánh mắt của họ Hầu. Chàng an lòng quên đi mối lo về Bạch Ngọc Tiên Tử.
Trăm hoa đua nở trong vườn Vãn Gia Trang, cảnh chiều xuân đẹp lạ lùng. Bọn người trẻ tuổi bày bàn trà ngoài hoa viên mà trò chuyện. Năm gã Tô Châu Ngũ Tặc rụt rè bước đến đồng đại nói ấp úng nhưng giọng vẫn oang oang như chuông bổ:
- Bẩm công tử! Mong người phát lương cho, bon thuộc hạ chẳng còn xu nào cả.
Điền Mã Lan là người giữ tiền nên lên tiếng:
- Thế chư vị định ấn định mức lương tháng là bao nhiêu?
Đồng Đại hạ giọng nhũn nhặn:
- Dạ bẩm phu nhân! Bọn thuộc hạ chẳng dám xin nhiều! Chỉ đủ những khoản đã trình bày với công tử thôi ạ!
Mã Lan ngơ ngác hỏi Nhương Thư, Thúy Sơn đã mau miệng đáp thay. Nghe kể xong cử tọa ôm bụng cười sặc sụa. Tào Ưng nói đùa:
- Thế năm lượng có đủ không?
Đồng nhị nhăn nhó:
- Bẩm Tào công tử, năm lượng chỉ đủ cho khoảng vào thanh lâu rẻ tiền thôi ạ!
Nhương Thư vẫn xem Tào Ưng là bằng hữu nên bắt Ngũ Tặc xưng hô là công tử, cũng như đối với Thúy Sơn, Nghi Tuyệt vậy!
Uyển nhi cười nắc nẻ:
- Các ngươi đã có vợ con mà mở miệng ra là nhắc đến kỹ viện, thật đáng xấu hổ!
Đồng Tứ phổi bò nhất bọn gân cổ cãi:
- Tứ phu nhân không biết đấy thôi! Tài nghệ của các kỹ nữ hơn hẳn các mụ vợ ở nhà, khiến người đàn ông khoan khoái như lạc vào cõi tiên. Nếu không tin, phu nhân cứ hỏi ba vị công tử đây sẽ rõ!
Bạch Cúc rất nhạy cảm, máu ghen bốc lên ngùn ngụt, cắm móng tay vào hông Nhương Thư và đay nghiến:
- Có đúng như vậy không tướng công?
Nhương Thư không hề đau đớn, cười đáp:
- Ta có đến chốn ấy bao giờ đâu mà biết?
Song Thúy Sơn lại gật gù:
- Đồng Tứ nói đúng đấy! Bản lãnh bọn kỹ nữ cao cường đến nỗi hầu bao của khách phong lưu đều lép kẹp, mỗi khi rời kỹ viện! Lợi hại nhất là các tiểu cô nương ở Bắc Kinh, mỗi đêm kiếm được cả ngàn lượng bạc.
Bạch Cúc trợn mắt trách móc:
- Ngươi hư hỏng đã đành, còn định lôi kéo cả tướng công của bọn ta xuống bùn nữa sao?
Thúy Sơn cười khanh khách:
- Tiểu đệ chưa nói hêt! Thực ra họ chỉ là hạng liễu rủ hoa tàn, thua xa ba nàng tiên họ điền!
Bạch Cúc chưa nguôi nhưng cố nhịn vì sau lần Thúy Sơn tự sát chết theo Nhương Thư, các nàng vô cùng khâm phục và yêu mến gã!
Nàng lạnh lùng bảo Ngũ Tặc:
- Tần gia sẽ trả cho các ngươi mỗi người trăm lượng, song từ nay cấm tuyệt không được nhắc đến thanh lâu!
Năm gã họ đồng mừng rỡ vái dài, lui ra. Chúng nói nhỏ với nhau:
- Tần công tử thật là xui xẻo, lấy được ba ả la sát, chẳng được tự do như anh em mình!
Tối hôm ấy, Nhương Thư sang phòng Thúy Sơn, thấy gã đang đọc sách, liền ngồi vào bàn, bộc bạch tâm sự:
- Sơn đệ! Ta rất xấu hổ mà thú nhận rằng dục tính trong người rất vượng, không thể cầm lòng trước ba chị em họ điền! Nhưng ta lại ngại ngùng, không dám đến gần gũi họ vì chưa có lễ nghi hôn phối!
Thúy Sơn mỉm cười nhưng ánh mắt thoáng buồn:
- Có lẽ là do tác dụng của loài Hắc Ngư dưới đáy vực! Nếu đại ca cố kiềm chế e sẽ có hại, chi bằng cứ thuận theo duyên mà hành động. Chúng ta là khách giang hồ, sống chết mong manh hơi đâu mà giữ lễ nghĩa của đám hủ nho!
Nhương Thư thấy lòng nhẹ nhõm, vui vẻ bảo:
- Ta quả là có diễm phúc khi có được đứa em chí tình như hiền đệ!
Chàng đi rồi Thúy Sơn khoá chặt cửa thở than:
- Tần đại ca quá trung hậu nên hơi ngốc! Chẳng lẽ ta phải chịu mãi cảnh oái ăm này!
Gã thẫn thờ bước đến giường, thay áo để đi ngủ. Bất giác Thúy Sơn lõa thể hoàn toàn, để lộ thân hình thon dài, sãn chắc. Trên giường ngủ mọi bộ phận đều đẹp, chỉ trừ đôi vú! Thúy Sơn vuốt ve bộ ngực lép, nước mắt chảy dài trên gò má trắng mịn. Chính vì khuyết điểm này mà Thúy Sơn chôn chặt mối tương tư, dù đã trao thân cho Nhương Thư.
Gã nhớ đến ba bộ ngực đầy đặn, kiêu hãnh của mấy ả họ điền mà lòng tủi thân, vai gầy run bần bật. Và cảm giác mãnh liệt của những trận ân ái mê muội dưới đáy vực hiện về làm da thịt Thúy Sơn xao xuyến. Gã khát khao được kề cận Nhương Thư ngay lúc này, dâng hiến cho chàng và nhận lấy khoái cảm ngút ngàn. Có tiếng chân người nện trên hành lang phía trước. Thúy Sơn sợ hãi, mặc nhanh áo ngủ rồi lên giường.
Phần Nhương Thư, được sự khuyến khích của nghĩa đệ, mạnh dạn đến gõ cửa phòng Mã Lan. điền nhị tiểu thư mở cửa, e lệ mời chàng vào. Tất nhiên chẳng thể lôi nhau lên giường ngay, nàng ngượng ngùng rót trà, cùng chàng nhấp nháp.
Mã Lan hiền lành, nhu mì nhất nhà và mang nét đẹp não nùng, quyến rũ. Ngọc Trâm rực rỡ nhưng nhiều nam tính nên kém phần yểu điệu.
đêm nay, Mã Lan xõa tóc, mặc áo ngủ bằng the mỏng màu hồng, yếm đào bó sát đôi gò bồng đảo nở nang. Nàng thẹn thùng cúi mặt vì biết tình lang đang nhìn mình đắm đuối .Nhương Thư vốn vụng về trong ngôn ngữ, chẳng biết mở lời thế nào, ngồi im một lúc rồi nói:
- Thôi ta về phòng đây!
Mã Lan mỉm cười, rủa thầm đức ông chồng khờ khạo, chủ động rời ghế, ngồi lên lòng chàng mà thủ thỉ:
- Ai cho phép tướng công về?
Mùi hương da thịt cộng với chút tinh dầu hoa lan khiến Nhương Thư ngây ngất, cúi xuống hôn lên má nàng, rồi bồng lên, đặt xuống giường. Xiêm áo rơi xuống sàn, và thân hình tuyệt đẹp của Mã Lan làm bỏng mắt Nhương Thư. Chàng đã có kinh nghiệm với Bạch Ngọc Tiên Tử, nên thủ pháp thuần thục, điêu luyện, khiến da thịt ngọc ngà kia run rẩy, gọi mời.
Nhương Thư nhẹ nhàng đưa ái thê lên đỉnh vu sơn, bồng bềnh mãi trên sóng tình dạt dào, nhấp nhô. Mã Lan rên xiết đến hiệp thứ ba thì đình chiến, dù Nhương Thư vẫn còn háo hức. Chàng ngượng ngùng biện bạch:
- Ta vốn chẳng phải kẻ háo sắc, nhưng từ ngày ăn mấy chục con Hắc Ngư dưới đáy vực, không còn dữ được cái tâm thanh tịnh nữa! Mong Lan muội lượng thứ!
Mã Lan đưa bàn tay búp mãng bịt miệng chàng, tình tứ nói:
- Tướng công nồng nhiệt, dũng mãnh là đại phúc cho bọn thê thiếp, nào có gì đáng trách. Chàng có đến ba vợ chứ nào phải một! Sao chàng không sang an ủi Tam muội và Tứ muội?
Nhương Thư hổ thẹn:
- Ta ngượng lắm!
Mã Lan hăng hái khoác áo ngủ, mặc y phục cho Nhương Thư, dẫn chàng sang gõ cửa phòng Bạch Cúc. Cửa vừa mở, nàng đã xô Nhương Thư vào rồi bỏ đi!
Hành động tốt hơn lời nói, Nhương Thư bồng ngay nữ nhân lên giường. Té ra Bạch Cúc nồng nàn hơn hẳn Mã Lan, lúc đầu còn ngượng ngùng nhưng sau đó chủ động vuốt ve Nhương Thư, đem lại nhiều lạc thú. Tính nàng thẳng thắn, cương trực nên không rụt rè như chị gái.
Nhương Thư cười hỏi:
- Nàng học ở đâu ra những trò tuyệt diệu này?
Bạch Cúc đỏ mặt, hờn dỗi đáp:
- Thiếp chỉ muốn chứng minh cho tướng công biết vợ nhà cũng biết chiều chuộng chồng chẳng kém đám kỹ nữ lầu xanh. Tình thư bán khắp nơi, ai mà chẳng học được!
Nhương Thư hài lòng, vuốt ve bờ mông tròn trịa, sãn chắc của nàng nữ hiệp và nói:
- Có được những người vợ như các nàng, ta thề suốt đời không bước chân vào chốn ây!
Bạch Cúc hân hoan trườn lên hôn chàng rồi hỏi:
- Tướng công còn đủ sức sang phòng tứ muội không?
Nhương Thư nheo mắt gật đầu! Gần sáng chàng mới rời Uyển Xuân, sảng khoái trở về phòng, ngủ vùi đến giờ Thân thì bị đánh thức để ãn sáng rồi lên đường.
Sáng ngày sau, có hai cỗ xe song mã mui kín, được hộ tống bởi chín kỵ sĩ đội nón rộng vành, vào thành Lạc Dương. đoàn nhân mã đi thẳng vào phòng sau cùng của Hà Nam Đệ Nhất Lữ Điếm, nơi dành cho những quý khách ưa thích yên tĩnh và bí mật. Khu vực này được ngãn cách với phần còn lại bằng một hàng rào Đông Thanh rậm rạp, luôn xanh tốt.
Chủ nhân lữ điếm đã được báo trước nên chờ sẵn ở đây để đón chào khách. Hai cỗ xe mở cửa, mỗi cỗ ba người trước nam sau nữ gồm ba ả họ điền và Vô Ưu Cái, Bất Trí Thư Sinh, Dạ Quân Tử!
Điếm chủ kính cẩn vòng tay thi lễ:
- Tiểu đệ mừng Hầu lão ca giá lâm!
Lão điếm chủ thấp bé ấy có tên là Phàm Nghĩa Thống, bái đệ của bang chủ Cái Bang. Một nửa vốn liếng của cơ sở kinh doanh này cũng là của Cái Bang, tất nhiên, người ngoài chẳng phép biết! Hầu Mộ Thiên giới thiệu bọn Nhương Thư với họ Phàm. Chào hỏi xong, Phàm lão đưa mọi người đến phòng.
Tô Châu Ngũ Tặc tròn mắt xuýt xoa trước những cãn phòng trang trí hoa lệ, sạch sẽ đến mức không còn một hạt bụi. Khu phòng trọ thượng hạng này có cả sảnh ãn và tiếp khách riêng, hoàn toàn biệt lập. Cơm nước sẽ được bưng từ nhà bếp của lữ điếm xuống! Còn khung cảnh thì tuyệt đẹp vì chung quanh vườn hoa nhỏ ngạt ngào hương sắc của những loài hoa nở theo mùa!
Tường sau có cánh cửa, thông với một cãn nhà bên ngoài. Do vậy, việc xuất nhập hoàn toàn được giữ kín! Bọn Khất Cái đã đi bằng lối ấy vào liên lạc, báo cáo với Bang Chủ những tin tức về Phân đàn bí mật của Tứ Phạn Thiên Cung ở Lạc Dương. Chiều xuống mọi người quây quần bên bàn tiệc thảo luận việc tấn công sào huyệt đối phương, tiêu diệt Trác Thiên Lộc!
Họ đã biết ổ cướp kia được ngụy trang thành một xưởng làm nhang trên phố Bạch Mã. Con đường này có chùa Bạch Mã Tự, ngôi chùa cổ kính nhất Trung Hoa, nên mang tên ấy!
Vô Ưu Cái trải sơ đồ vị trí nhà cửa của xưởng nhang lên bàn, để Bất Trí Thư Sinh hoạch định chiến thuật tấn công!
Vô Hình Chi độc của Thiên Cung cực kỳ lợi hại nên trừ Nhương Thư ra, những người còn lại sẽ phải bịt mặt bằng ba lớp, gồm hai lớp vải và một lớp bông tẩm thuốc ở giữa. Không phải là thuốc giải độc mà là một loại bột than có tác dụng hấp thụ, ngãn cản phấn độc đi vào phổi. Tuy hơi khó chịu nhưng đây là biện pháp hữu hiệu nhất!
Thủ hạ Trác Thiên Lộc đông đến bốn mươi tên nên phe Nhương Thư phải tận dụng hết quân số. Nghĩa là cả ba nữ nhân họ điền cũng được tham gia. Họ vô cùng hân hoan vì đây là lần đầu tiên được thi thố sở học sau bao năm rèn luyện Tích Linh Kiếm Pháp!
Tổng đàn Cái Bang cũng nằm ở Lạc Dương nên các cao thủ hạng nhất của bang hội này sẽ khép kín vòng ngoài, tuyệt đối không để Trác Thiên Lộc đào thoát!
Đầu canh ba thì xưởng nhang Hương Ký đã bị vây chặt. Nhương Thư, Nghi Tuyệt, Thúy Sơn, Tào Ưng nhẩy qua tường rào tiến vào tòa nhà hai tầng ở giữa vườn hoa.
Thanh kiếm trong tay Nhương Thư không có sọc đỏ nhưng lại chính là thanh Huyết Kiếm. Nó đã rơi theo chàng xuống đáy vực, bị tuyết lở chôn vùi, đến khi tuyết tan mới lộ ra!
Thiết Kình Ngư Tào Ưng đã mài sạch hai đường chỉ máu trên bản kiếm để Nhượng Thư sử dụng. Tuy không sắc bén như thần binh thời Xuân Thu, song Huyết Kiếm nước thép rất tốt. Hồ Linh Cấu là chuyên gia giết người nên vũ khí chẳng thể nào dở được!
Bọn Nhương Thư đều mặc Hắc Y, mặt bịt kín, kể cả đầu tóc. đêm nay sẽ không một tên đệ tử Thiên Cung nào được quyền sống sót để tiết lộ việc Nhương Thư và Thúy Sơn hồi sinh! Phần phía trước cơ ngơi này là ba dãy nhà dài vây lấy sân gạch, xây theo lối Tam Hợp Thiện, chính là nơi sản xuất nhang, và cũng là chỗ ngủ của bọn đệ tử Thiên Cung. Còn tòa lâu các hai tầng ở phía sau là nơi cư trú của Phân đàn Chủ Trác Thiên Lộc và mấy ả tỳ thiếp.
Họ Trác phá giới chẳng phải để tiếp tục ãn chay mà là để tận hưởng lạc thú trần gian.
Sự có mặt của lão trong hàng ngũ Tứ Phạn Thiên Cung đã chứng tỏ Độc Biển Thước cũng thu phục xong Báo Ứng Hội đất Thiểm Tây. Sự bành trướng thần tốc của Tả Nho Quan đã khiến Vô Ưu Cái vô cùng lo ngại!
Tuy Hầu Mộ Thiên mang danh Vô Ưu mà thực ra lại là người lao tâm khổ trí gánh vác chuyện võ lâm. Mặt lão luôn tươi cười nhưng trong lòng nặng trĩu ưu phiền. Khi có người thắc mắc về hai chữ Vô Ưu thì lão giải thích:
- Lão phu suốt đời hành sự thận trọng, đúng như câu " Cẩn tắc vô ưu" nên mới có danh hiệu ấy!
Trở lại với cuộc xâm nhập, ta sẽ thấy bọn Nhương Thư không đi chung mà cách nhau vài trượng, dàn hàng ngang tiến lên. Lý do là vì mé tường sau có bốn tên kiếm thủ canh giữ. Xuân về cây cối đâm chồi nảy lộc, cành lá xum xue, nên bọn Nhương Thư có thể nhờ những bụi cây, chậu hoa che chở mà áp sát mục tiêu.
Bởi không biết sào huyệt bị lộ nên việc canh phòng chẳng nghiêm mật, tinh thần cảnh giác cũng lõi lỏng. đêm mùa xuân ở vùng Hoa Bắc rất lạnh, bốn gã kiếm thủ kia co ro trong áo choàng lông, đi qua đi lại những quãng ngắn cho ấm người.
Bọn Nhương Thư nhất tề xuất thủ, từ sau chỗ ẩn nấp nhẩy xổ đến, đao kiếm tìm cần cổ nạn nhân mà chặt. Kẻ mất đầu thường chết lặng lẽ, thanh thản, khồng hề lên tiếng oán trách bao giờ! Bốn người lập tức áp sát đại Lâu, tung mình lên lan can lầu, chia nhau trấn giữ bốn mặt.
Tầng trên của tòa lâu các trổ cửa chính tứ phương, và khá nhiều cửa sổ. Dĩ nhiên, giờ đây tất cả đều khép kín, cài then cẩn thận. Phần trước là thư phòng, phần sau bố trí vài phòng ngủ và nhà vệ sinh. Trong lúc ấy, lực lượng do Vô Ưu Cái thống lĩnh đã tràn ngập vườn hoa, phía sau đại Lâu, chỉ chờ động tĩnh của bọn Nhương Thư là khởi sự. Nhưng Nhương Thư vẫn chưa ra tay, chàng nhìn qua khe cửa nhận ra kẻ thù đang ngồi ãn cháo đêm, bên cạnh có hai nữ nhân tuổi đôi mươi nhan sắc mặn mà, phong vận lẳng lơ, chỉ khoát hờ một mảnh áo ngủ bằng the mỏng. Cạnh đấy có chậu than hồng đỏ rực nên họ không sợ thịt da lạnh lẽo. Một ả tình tứ nói:
- Trác lão gia ãn nhanh lên đừng bỏ phí đêm xuân đáng giá ngàn vàng! Thủy Lão rất sủng ái lão gia nên mới ban chị em thiếp cho người đấy!
Trác Thiên Lộc húp nốt muỗng cháo cuối cùng, cười nhạt:
- Âu Dương Lãng đã chán chê hai nàng nên mới nhường cho ta, nào có tốt lành gì! Chẳng qua y muốn học Phật đãng Kiếm Pháp nên mới trọng dụng ta đấy thôi. Thần Quang Chưởng Pháp tuy lợi hại nhưng chắc gì hơn được kiếm pháp thượng thừa của Phật Môn? Nếu công lực lão phu được tròn hoa giáp thì ngay cả lão Tả Nho Quan kia cũng chẳng đáng sợ.
Hai nữ nhân không hề giận, tò mò hỏi:
- Thực thế ý? Sao giang hồ vẫn truyền tụng Thần Quang Chân Nhân lợi hại hơn Phật đãng Thượng Nhân!
Trác Thiên Lộc lộ vẻ đắc ý:
- Chẳng qua tiên sư là người khiêm tốn, chưa bao giờ để lộ bản lãnh chân chính của mình. Thực ra, với công lực tròn hoa giáp thì luyện Nhiên Đăng Thần Công có thể tạo ra luồng kiếm khí nơi mũi kiếm, thừa sức xé tan chưởng kình của Thần Quang. Nay Tần Nhương Thư đã chết, lão phu là người duy nhất sở đắc Phật học của Phật đãng Thượng Nhân, nên Thanh Linh Thủy Lão Âu Dương Lãng mới hết lòng o bế! Gã là người có dã tâm lớn, chẳng chịu làm nô lệ cho độc Biển Thước, trước sau gì cũng phản lại. Do vậy, gã rất cần lão phu!
Ả thứ hai lên tiếng:
- Thế Trác lão gia đã truyền tuyệt học cho cung chủ chưa?
Thiên Lộc cười dâm đãng:
- Chưa! Lão phu ra điều kiện rằng Tứ Phạn Thiên Cung phải bắt được ba ả họ điền, giao cho lão phu mà đổi lấy võ công! Năm xưa lão phu dâm sát vợ của Tần Tử Chính, giờ đến lượt con dâu của lão ta, thế mới thỏa lòng thù hận!
Nhương Thư chưa nổi giận mà bên kia Hoàng Nghi Tuyệt và Tào Ưng đã đạp bung cửa xông vào.
Dĩ nhiên hai gã Hoàng, Tào tấn công liền, một đao một kiếm chụp lấy mục tiêu, Trác Thiên Lộc phản ứng cực kỳ thần tốc, vung chân hất chiếc bàn cản đường Tào Ưng, tay thì xô một ả tỳ thiếp vào lưới đao của Nghi Tuyệt, sau đó lão lướt nhanh về hậu sảnh. Nhưng Thúy Sơn đã phá cửa sau vào đến nơi múa kiếm uy hiếp. Trác Thiên Lộc nghe kiếm kình vo vo không dám dùng nhục chưởng tiếp chiêu, đề khí bốc lên cao, định phá ngói đào tẩu. Song Nhương Thư đã có mặt, bay vút theo, xuất chiêu Diệm Sơn Phún Hỏa, trường kiếm hóa thành chiếc tán lung linh ngàn đốm lửa, chụp lấy thân dưới họ Trác. Lão ác tặc chưa kịp chạm nóc thì nghe hai chân đau đớn khủng khiếp. Lão rú lên thảm khốc, rơi xuống sàn lầu, ngơ ngác nhìn đôi chân cụt đến đầu gối. Nhươn Thư lột nhanh mặt nạ, lạnh lùng nói:
- Trác Thiên Lộc! Lão nhận ra ta chứ?
Họ Trác kinh hoàng như gặp quỷ, lắp bắp nói:
- Ngươi... chết rồi cơ mà?
Nhương Thư gật đầu và bất ngờ vung kiếm đâm thủng tim kẻ thù. Nghĩ tình đồng môn, Nhương Thư đã giúp lão chết êm thắm, không kéo dài cảnh đau đớn.
Lúc này, bọn Vô Ưu Cái ở dưới đang ra sức tàn sát bọn đệ tử Thiên Cung, tiếng rên la,quát tháo vang trời. Nhương Thư vội đốc thúc ba người kia xuống đất trợ chiến. Phần chàng lục soát thi thể và phòng ngủ Trác Thiên Lộc. Chàng sợ lão viết lại khẩu quyết Nhiên đãng Tâm Pháp và Phật đãng Kiếm Pháp.
Quả nhiên, khi phá tủ gỗ trong ngọa phòng, chàng tìm thấy một quyển sách chép tay, tựa là Phật Đăng bí kíp. Sau khi xem sơ qua, chàng bỏ vào ngực áo, tiện tay sách luôn tay nải nhỏ cùng chỗ vì chẳng có thời gian mở xem.
Hai ả tỳ thiếp đã bị Nghi Tuyệt và Tào Ưng giết chết, chẳng còn ai làm nhân chứng nữa. Nhương Thư yên tâm buộc lại khãn che mặt, tung mình xuống tham gia cuộc chiến! Chàng vừa ra đòn vừa quan sát trận địa, lo ngại cho ba ái thê. Ba con cọp cái này chẳng hề có chút đỉnh kinh nghiệm giao đấu, e rằng sẽ sơ xuất. Song chỉ lát sau chàng nhận ra kiếm pháp của họ rất lợi hại, chẳng thua kém chị cả là Hổ Hồng Nhan.
Thì ra, dẫu là tỷ muội, các nàng cũng có dạ ganh đua, âm thầm khổ luyện. Ngọc Trâm thường xuất trang đến các cơ sở kinh doanh của nhà họ điền ở Sơn đông và các phủ lân cận, va chạm nhiều nên nổi danh. Còn ba cô em lo việc trong nhà, lại có dư thời gian để luyện tập. Nghĩ là nếu có dịp chị em đấu đá thì chưa chắc mèo nào ãn mỉu nào!
Nhương Thư an tâm hơn khi thấy Tào Ưng, Nghi Tuyệt và Thúy Sơn luôn theo sát ba nàng để đề phòng bất trắc.
Chàng mỉm cười hài lòng vì bản lãnh Tô Châu Ngũ Tặc cũng khá cao cường. Năm gã họ đồng thi triển một kiếm pháp là lạ, có những đòn đánh bằng cả hai tay tương tự đao pháp. Lợi hại nhất chính là đồng lão đại, rồi nhị vì họ thấp lùn, thi thố được những chiêu độc đáo ôm kiếm lãn vào hạ bàn đối phương!
Có thể pho kiếm của nhà họ đồng liên quan đến địa đương đao Pháp đã thất truyền. Nhờ lực lượng hùng mạnh và yêu tố bất ngờ nên phe Nhương Thư đã kết liễu trận chiến rất nhanh chóng, giết sạch bốn chục gã môn đồ Tứ Phạn Thiên Cung. Họ rút đi trước khi quan quân trong thành kéo đến. Do không có khói lửa nên dân chung quanh chẳng tội gì báo cho mệt xác, bởi thế nha môn cũng châm chạp làm theo!
Về đến lữ điếm, toàn khách dạ hành lãn ra ngủ vùi, cuối giờ Thìn mói mò dậy. Sau bữa điểm tâm, Nhương Thư trở lại phòng, mở tay nải ra xem. Chàng hổ thẹn khi thấy xấp ngân phiếu trị giá đến bốn ngàn lượng vàng, và một số châu báu khá lớn.
Nhương Thư quen giữ giới nên không thể chiếm đoạt tài sản của người khác, dẫu đó là kẻ thù. Chàng đang phân vân thì Thúy Sơn bước vào. Nghe chàng kể lể nỗi lòng, gã cười bảo:
- Đại ca đã không giới sát thì còn lưu ý gì đến bốn giới kia nữa?
Nhương Thư cười buồn:
- Giết người là vì bất khả kháng, còn trộm cắp thì không thể biện minh được!
Thúy Sơn nghiêm giọng:
- Trác Thiên Lộc rời Ngũ đài Sơn với vài bộ tãng phục mà bây giờ sở hữu hàng vạn lượng vàng, vậy thì đây chính là của phi nghĩa do lão cướp đoạt của ai đó! đại ca vô tình lấy được, cứ đem bố thí cho kẻ bần cùng là xong!
Và gã tủm tỉm cười nói tiếp:
- Kẻ nghèo nhất chính là đại ca đấy! Nhà cửa không có, vợ lại đông, sau này lấy gì mà nuôi con?
Nhương Thư phì cười:
- Ngươi đúng là kẻ xảo quyệt, mồm mép trơn như bôi mỡ. Thực ra Sơn đệ còn nghèo hơn ta vì đến vợ cũng chẳng có! Bởi vậy, ta tặng hết cho ngươi là phải đạo.
Nói xong, chàng nhét tay nải vào tay gã! Thúy Sơn cười bảo:
- Đại ca định trút hết tội lỗi lên đầu tiểu đệ đấy sao? Thôi được, xem như tiểu đệ giữ giùm!
Gã thản nhiên mang số của cải ấy về phòng!
Cuối tháng hai, bọn Nhương Thư đã có mặt ở huyện thành Lâm đồng, dưới chân núi Ly Sơn!
Ngọn núi xinh đẹp này cách thành Trường An hai chục dặm về hướng đông Nam. Ly Sơn và Phong Hỏa đài là hai thắng cảnh nổi tiếng của đất Lâm đồng. Nhưng do cội rễ trong lịch sử nên được xem là thuộc về đất Trường An.
Phong Hỏa đài được nhà Chu xây dựng để đốt lửa triệu tập chư hầu đến cứu khi có giặc đến đánh. Tại nơi đây, U Vương đã vì Bao Tự mà phóng hỏa gọi tiếp viện, để mỹ nhân cười vào những gương mặt ngơ ngác vì bị lừa! Dĩ nhiên sau này U Vương đã mất nước!
Còn Ly Sơn nổi tiếng nhờ người đẹp thứ hai Dương Quý Phi! Năm bẩy trăm bốn mươi bẩy, đường Huyền Tông Lý Long Cơ đã cho xây Hoa Thanh Cung ở Ly Sơn để cùng Dương Quý Phi đùa giỡn trong làn nước ấm áp của Hoa Thanh Trì. Ao nước này thông với dòng suối nước nóng lừng danh của Ly Sơn.
Bọn Nhương Thư đên đây chẳng phải để du ngoạn. Trước tiên, họ tìm đến huyện đường Lâm đồng, xỉa ra mười lượng vàng để bọn thư lại cung cấp tin tức về nhà họ Tần. Quả đúng là trong sổ có ghi nhận việc Tần gia sinh đôi, người anh là Tần Tử Trung, em là Tần Tử Chính. Vị trí của Tần gia trang nằm trong khu rừng mai, trên sườn đông Bắc núi Ly Sơn.
đoàn người mừng rỡ đi đến đấy, mủi lòng khi thấy nhà cửa điêu tàn, cỏ cây mọc đầy. Họ dùng đao kiếm chặt phá các bụi rậm, cuối cùng tìm thấy ngôi mộ đã sụp lở, bia chỉ là mảnh gỗ đã mục nát gần hết, may mà còn sót lại một chữ Trung.
Sau khi thắp nhang, Bất Trí Thư Sinh ra lệnh quật mộ. Do quan tài đóng vội bằng những mảnh ván tạp, không khít với nhau và chẳng được sơn phết, hoặc trét nhựa cây, nên xương cốt tan gần hết, chỉ tóc và rãng còn nguyên vẹn. Ngoài ra, trong mộ còn một hũ sành nhỏ, miệng nắp được khằn cẩn thận.
Cao lão dùng đũa gắp hai hàm rãng bỏ vào túi lụa, bảo Nhương Thư mở hũ sành. Quả nhiên, trong hũ có một tấm bản đồ thuộc da dê thuộc. Bọn Nhương Thư xúm lại xem xét, ngạc nhiên khi thấy những nét vẽ trong biểu thị một dãy núi có bốn đỉnh, chắc chắn chẳng phải Ngũ Hành Sơn.
điều lạ thứ hai là dãy núi ấy nằm theo hương đông Tây, trong khi Thái Hằng Sơn tức núi Ngũ Hành chạy từ Bắc xuống Nam. Có một chấm nhỏ trên lưng chừng ngọn núi thứ hai, tính từ Đông sang. Phần dưới họa đồ ghi bốn con số: Tam, Thất,Tứ, Cửu và dọc mé hữu là hai câu thơ:
Thần Quang phong cốt lăng tăng thậm
Thử địa trùy tri hữu địa thiên
Dịch thơ:
Thần Quang cốt cách ngang tàng quá
Đất ấy ai bay có địa tiên!
Bất Trí thư Sinh nhăn vầng trán rộng, suy nghĩ rất lâu mới phân tích:
- Hai câu thơ có thể hiểu rằng Thần Quang Chân Nhân đã thành tiên, tức tọa hóa ở dãy núi vẽ trong bản đồ. Tuy nhiên, chúng ta lại biết rõ Chân Nhân chết và để lại tuyêt học trong Sơn Cốc dưới chân núi Mộc Sơn! Vậy thì, ý nghĩa câu thơ đã đổi, tức ám chỉ một nhân vật khác, cùng thời với Thần Quân Chân Nhân. Người này có võ học cao hơn Chân Nhân nhưng không hề xuất thế dương danh, khi sắp chết, ông ta mới vẽ lại họa đồ, trao tặng tuyệt học cho kẻ hậu sinh hữu duyên!
Mọi người đều khâm phục kiến giải cao minh, chí lư của Cao Trường Toản, song Vô Ưu Cái lại cau mày:
- Lão phu thuộc làu sử sách võ lâm mà không nhớ ai là người có thể giỏi hơn Thần Quang Chân Nhân! Quách lão đệ có biết không?
Dạ Quân tử cười ruồi:
- Bang Chủ và Cao lão không biết thì làm sao lão phu biết được?
Bỗng Đồng Tam nói với Đồng Nhị:
- Nhị ca có nhớ câu chuyện mà nội tổ thường kể cho chúng ta nghe hay không?
Đồng Nhị thấy em nháy mắt, ra hiệu, liền hớn hở đáp:
- Nhớ chứ! Ông nội kể rằng họ đồng nhà ta đã từng đánh bại Thần Quang Chân Nhân Công Tôn Khuê, nhưng vì khiêm tốn nên chẳng nói ra!
Đồng Tứ phụ hoạ:
- Phải đây! Cụ cố nhà ta văn võ toàn tài, làm đến chức ngự sử.
Bọn Nhương Thư biết chúng khoác lác vì cho rằng chẳng ai kiểm chứng được, liền tủm tỉm cười. Điền Uyển Xuân tinh quái hỏi:
- Thế lệnh Tổ làm quan vào thời nào, đường hay Hán?
Đồng Nhị đắc ý đáp:
- Tất nhiên là đời đường rồi! Nghe nói gia Tổ cũng chính là người dẹp phản loạn An Lộc Sơn đấy!
đến nước này thì chẳng còn ai chịu được nữa, ôm bụng cười sặc sụa, Quách Tàn Bôi mắng ngay:
- Nói khoác cũng phải có cãn, ngu ngốc như anh em ngươi mà cũng học đòi nói láo hay sao? Từ thời Đường Huyền Tông đến nay đã bảy trăm năm, còn Thần Quang Chân Nhân mới chết độ sáu chục năm thôi!
đồng Tứ cười hì hì:
- Bọn tiểu đệ nhớ lộn vị cao tăng tổ khảo mấy chục đời! Còn ông cố thì quả đúng là người cùng thời với Công Tôn Khuê!
Uyển Xuân tức ói máu, hỏi với giọng mỉa mai:
- Thế lệnh Tổ tướng mạo giống ai trong năm người các ngươi?
Đỗng Ngũ vỗ ngực:
- Tất nhiên gia Tổ phụ cao lớn, oai phong như thuộc hạ chứ đâu thể nào lùn xủn được!
đồng đại bị chạm tự ái, nhẩy đổng lên chửi:
- Mả cha ngươi! Lùn thì có gì xấu! Ngươi cao mà ốm như cây tre miễu, oai phong với ai?
Nhương Thư bỗng vỗ đùi nói lớn:
- Tại hạ nhớ ra rồi!
Thấy người chung quanh giật mình, chàng mỉm cười hạ giọng:
- Năm mười hai tuổi, tại hạ từng nghe tiên sư kể về Thần Quang Chân Nhân, và người nhận xét rằng Công Tôn tiền bối còn kém một vị phong trần dị nhân là Sấu Tiên Vương Hàn Lân! Họ Vương là một đạo sĩ, người gầy như que củi, từng dùng một thanh kiếm tre đả bại Thần Quang! Chính vì thế mà Công Tôn Khuê qui ẩn, lo việc tu tiên, không màng đến danh lợi nữa!
Bất Trí Thư Sinh gật gù:
- Sấu Tiên thì lão phu cũng nghe danh, nhưng không ngờ ông ta lại giỏi hơn Thần Quang Chân Nhân!
Năm gã họ đồng bị lật tẩy, hổ thẹn đứng lên, giả đò siêng năng lấp lại lỗ huyệt!
Tào Ưng mừng rỡ nói:
- Hay lắm! Nhương Thư mà học được vài chiêu của Sấu Tiên thì đâu còn phải sợ độc Biển Thước nữa?
Vô Ưu Cái thở dài:
- Trung Hoa có đến hơn trăm dãy núi bốn đỉnh, biết dãy nào mà tìm?
Nhương Thư vốn tôn sùng sư phụ cho rằng Phật đãng Kiếm Pháp là đệ nhất, không ai hơn được, cho nên chẳng tha thiết với tuyệt học của Sấu Tiên. Chàng nói qua chuyện khác:
- Hàm rãng trên của người chết có hai chiếc rãng khểnh, khác với Tiên Phụ. Nay chỉ cần xác nhận Tần Tử Chính hay Tần Tử Trung có rãng khểnh là sự việc sẽ sáng tỏ!
Mọi người tán thành, xuống núi bủa đi hỏi thăm, đến chiều thì đã xác định được lai lịch của người chết. Tất cả những người cư trú lâu năm ở Ly Sơn, và quen biết Tần Tử Trung đều khẳng định ông có hàm rãng rất đều và đẹp, trong khi Tử Chính đúng là có hai chiếc rãng khểnh hàm trên!
Hôm sau, bọn Nhương Thư tiến hành việc xây mộ cho Tử Chính và nhờ nha môn lập vãn án về việc này! Nhương Thư được cấp thẻ đinh mới, tên cha là Tần Tử Trung! Họ lưu lại Lâm đồng ba ngày, thường xuyên có mặt ở Ly Sơn để ngoạn cảnh và trông coi việc xây mộ!
Trong thời gian này, Nhương Thư đã gặp một bằng hữu của cha mình. Hà lão gia cười bảo rằng:
- Tử Trung văn võ toàn tài, từ thuở thanh thiếu đã ngưỡng mộ vị danh tướng điền Nhương Thư của nước Tề thời Chiến Quốc, nên đã đặt tên cho ngươi cai tên ấy!
Uyển Xuân ranh mãnh:
- Thật là may mắn! Nêu Tần lão gia ngưỡng mộ Tây Thi hoặc Bao Tự thì nguy to!
Tài sản của than_long_vn

  #5  
Old 06-05-2008, 02:40 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 3 tuần 2 ngày 13 giờ
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 10

Huyết Lưu Tây Nhạc Ma Vương Tẩu
Hả Dạ Thần Long Đáo Cửu Tuyền

Sau khi xây xong mộ cho Tử Chính, bọn Nhương Thư rời Lâm Đồng, đến thành Đồng Quan. Ngay trưa hôm sau, tức ngày mồng bốn tháng ba, bọn tiểu cái đến báo tin rằng đã phát hiện nhiều toán kỵ mã đi qua Đồng Quan, tiến về hướng huyện Hoa Lâm.
Biết tà ma đang trên đường chinh phạt phái Hoa Sơn, Vô Ưu cái lập tức ra lệnh khởi hành.
Cả đoàn cải trang cẩn thận, bám theo đối phương nhưng cách xa đến vài dặm. Dường như Tứ Phạn Thiên Cung đã ấn định ngày giờ tấn công thích hợp nên cước trình chẳng hề vội vã. Họ giả làm lái buôn, từng tốp nhỏ xâm nhập huyện thành Hoa Âm, phân tán ra mà tìm chỗ trọ.
Phe Nhương Thư thì đi thẳng lên núi Hoa Sơn để báo hung tin và bàn cách cự địch.
Hoa Sơn được nhắc đến rất nhiều trong truyện võ hiệp, phái Hoa Sơn đã nổi tiếng với những nhân vật như Lệnh Hồ Xung, Nhạc Linh San, Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần... nay tác giả xin mạn phép miêu tả sơ địa thế Hoa Sơn để chư vị độc giả thưởng lãm.
Hoa Sơn được phong làm Tây Nhạc trong Ngũ Nhạc của Trung Hoa, nằm ở huyện Hoa Âm tỉnh Thiểm Tây, bắc giáp Sông Vị, phía Nam là rặng Tần Lĩnh.
Hoa Sơn có đến năm đỉnh, một ở giữa và bốn đỉnh còn lại vây quanh tựa một đoá hoa. Đỉnh trung tâm có tên Ngọc Nữ, do truyền thuyết kể rằng con gái Tần Mục Công là Ngọc Nữ đã rời bỏ Hoàng Cung, đến nơi này ẩn tu. Chính vì vậy mà ở đây có nhiều danh thắng mang tên Ngọc Nữ như: Đền Ngọc Nữ, bồn gội đầu của Ngọc Nữ, Ngọc Truyền Viện.... v.v...
Đỉnh phía Bắc tên gọi Vân Đài, chắc là do luôn bị mây bao phủ. Đỉnh phía Tây có cung Thúy Vân, trước cửa cung có tảng đá lớn hình dạng giống đoá sen, nên đỉnh Tây còn có tên là đỉnh Liên Hoa.
Trên đỉnh Đông có đài Triều Âm,nơi du khách có thể quan sát bốn phía Hoa Sơn, vì thế Triều Âm trở thành tên của đỉnh núi này.
Ngọn cao nhất của rặng Hoa Sơn chính là đỉnh nam, độ khoảng sáu trăm năm mươi ba trượng, bốn phía có rừng tùng bao phủ.
Hoa Sơn đẹp nhờ thế núi kỳ tú, và cũng nhờ hàng trăm công trình kiến trúc phong phú, gồm đình, chùa, lâu các, miếu mạo. Nổi tiếng nhất là những thắng cảnh đã kể trên, cùng vài nơi khác nhưu Miếu Tây Nhạc, trấn Nhạc Quan, Thiếu Hoa Sơn, và đoạn trường thành đời nhà Ngụy.
Thế thì căn cứ của Hoa Sơn Kiếm phái nằm ở ngọn nào? Xin thưa rằng do đường đi đến Hoa Sơn cực kỳ hiểm trở, chỉ có một lối đi duy nhất ở hướng Nam, nên Đạo Cung của phái Hoa Sơn bắt buộc phải nằm ở sườn Nam của đỉnh Nam. Hoa Sơn phái trước hết là một cơ sở đạo giáo, phát nguyên từ Toàn Chân Giáo ở Hoa Bắc. Tổ sư phái Hoa Sơn là một nhân vật có thực, tên gọi Hách Đại Thông.
Họ Hách lại là đệ tử của tổ sư phái Toàn Chân Vương Trùng Dương, nhân vật chính trong tác phẩm Võ Lâm Ngũ Bá.
Sau khi sư phụ thăng thiên, Hách Đại Thông về núi Hoa Sơn lập Đạo Cung, quáng bá giáo nghĩa Toàn Chân. Truyền đạo thì cần đông tín đồ, nên Thuần Dương Đạo Cung phải tọa lạc ở nơi bách tính dễ lui tới. Nếu nằm quá cao, quá xa thì các đạo sĩ Hoa Sơn chỉ có nước chết đói vì chẳng được lê thứ cúng dường.
Khác với Nhạc Bất Quần, chưởng môn phái Hoa Sơn, Ngọc Tâm Tử là một đạo sĩ thứ thiệt, suốt đời chay tịnh và không có vợ con.
Ông mừng rỡ đón chào bọn Vô Ưu Cái, mời vào khánh xá ở mé tả Thuần Dương Đạo Cung. Cái tên này xuất phát từ việc Vương Trùng Dương nhận mình là đệ tử của Lã Thuần Dương đời nhà Đường. Thực ra Toàn Chân và Hoa Sơn đều thờ Chân Võ Đế Quân. Nghe Vô Ưu cái báo tin dữ, Ngọc Tâm Tử buồn rầu nói:
- Bần đạo vốn dốt đặc về binh pháp, phiền Cao thí chủ chủ trì dùm cục diện.
Bất Trí Thư Sinh nói vài câu khiêm tốn rồi đưa ra ngay một kế hoạch ứng phó vô cùng tuyệt diệu.
Ngọc Tâm Tử triệu tập môn đồ để Cao Thư Sinh phân phó nhiệm vụ. Tuy phái Hoa Sơn đông đến ba trăm, trong khi đối phương chỉ độ hai trăm, song các đạo sĩ đều không có kinh nghiệm giao đấu, thua xa bọn sát thủ Thiên Cung, đấy là chưa kể đến chất độc Vô Hình.
May thay bọn Vô Ưu Cái đã xuất hiện, mang theo cả phương pháp đối phó với kỳ độc. Đến xẩm tối thì ai cũng được trang bị khăn phòng độc khí, sẵn sàng diệt địch. Nhưng không phải là chờ kẻ thù đến tận nhà mà là mai phục ngay đoạn đường hiểm yếu dưới chân núi.
Như đã nói ở trên, chỉ có một con đường duy nhất dẫn vào các ngọn núi của Hoa Sơn. Đường độc đạo này trước tiên đi ngang qua đỉnh Nam, trổ nhánh rẽ phải, con đường nhánh này dành cho những khách thập phương đến cúng bái ở Thuần Dương Đạo Cung của phái Hoa Sơn.
Đoạn đường dài năm dặm ấy xuyên qua rừng tùng rậm rạp, rộng mười hai bước chân, xe ngựa có thể đi được nhưng hơi chậm vì lên dốc.
Mấy đời đệ tử Hoa Sơn đã phải đổ biết bao mồ hôi để khai phá con đường này. Do địa hình sơn cước, cao dần về hướng núi nên họ đã phải đào đắp, san lấp những đoạn gồ ghề, những dốc đá dựng đứng, để có được một con đường bằng phẳng, thoai thoải hiện nay.
Đất đá dư ra trong quá trình làm đường, được đổ đầy hai bên lộ, tựa như đê vậy. Trên hai dãy đê lổn nhổn này, cỏ dại, bụi rậm mọc đầy, trở thành chỗ bố trí phục binh rất lý tưởng, trong con mắt tinh tường của một kẻ đầy bụng lục thao, tam lược như Bất Trí Thư Sinh.
Đầu canh một, trinh sát Cái Bang ở huyện thành Hoa Âm đến cấp báo rằng phe đối phương đã rời chỗ trọ. Lực lượng Hoa Sơn lập tức chiếm lĩnh vị trí đã định, lặng lẽ đợi chờ.
Giữa canh hai, một đoàn quân Hắc y đông đảo tiến về đường mòn, lướt đi rất nhanh với bước chân êm ái của những kẻ có thân pháp cao cường.
Tưởng mình ở thế bất ngờ nên Tứ Phạn Thiên Cung rất an tâm, nhất là hai gã tiền trạm dọ đường không hề có tín hiệu báo nguy.
Rừng tùng hai bên đường đều có tuổi hơn trăm, lại gặp lúc xuân về nên xanh tốt, cành lá vươn ra gần giữa lộ, che kín cả ánh sao khuya. Và trong khung cảnh tối tăm ấy, phe Hoa Sơn hoàn toàn chiếm lợi thế khi từ đích đê trút xuống trận mưa đá. Các đạo sĩ không biết thủ pháp phóng ám khí nhưng ném đá thì chẳng khó. Họ đứng trên cao, cật lực phang những hòn đá núi to hơn nắm tay vào hàng ngũ kẻ thù.
Đòn ám tập này thu được kết quả mỹ mãn, đả thương mấy chục gã Hắc Y, tiếng rên la, kêu cha gọi mẹ vang dậy đêm xuân.
Hai đầu đường đã bị chặn kín, bọn Thiên Cung chỉ còn cách nhẩy lên luỹ đất hai bên lộ, đào tẩu bằng lối rừng tùng. Đương nhiên chúng bị các đạo sĩ chặn lại bằng đá và bằng trường kiếm.
Giờ đây, quân số Tứ Phạn Thiên Cung chỉ còn lành lặn hơn trăm, bằng nửa phái Hoa Sơn, đúng như dự kiến của Bất Trí Thư Sinh. Bước kế tiếp là dùng số đông mà áp đảo kẻ thù, cứ hai đạo sĩ đánh với một gã Hắc Y.
Đuốc nhựa thông được thắp sang rực, soi rõ đấu trường, cả trên lũy lẫn dưới lòng đường.
Bọn đầu não Thiên Cung đã đánh thốc ngựa ra ngoài, mở đường máu cho thuộc hạ. Họ cũng bịt kín đầu nên chẳng thể nhận diện được. Tuy nhiên, dựa vào võ công có thể đoán ra sự có mặt của Độc Biển Thước. Tả Nho Quan phối hợp kiếm chưởng, tiến ra như vũ bão, theo sau là bốn đại cao thủ võ nghệ cao cường.
Thống lĩnh rút chặn hướng Nam chính là Ngọc Tâm Tử và hai sư đệ, cùng hai chục đạo sĩ Hoa Sơn. Độc Biển Thước bản lãnh vô song, chỉ một chưởng cách không đã đẩy lùi Ngọc Tâm Tử, còn kiếm thì quét văng hai cao thủ hàng chữ Ngọc của Hoa Sơn.
Họ Tả nhờ máu Huyết Hoa Lộc mà sở hữu đến trăm năm công lực, chưởng kình nặng như núi, có thể đả thương người từ khoảng cách trượng rưỡi, lợi hại gấp bội Lã Tập Hiền. Đấy là chưa nói đến việc lão tinh thông đủ bảy mươi hai chiêu Thần Quang Chưởng Pháp, đòn ra thần tốc và cực kỳ ảo diệu. Với tu vi ấy, Thần Quang Kiếm Pháp cũng không có đối thủ, dù còn kém Phật Đăng Kiếm Pháp một bậc. Nay Thượng Nhân đã nhập niết bàn, Tả Nho Quan cho rằng mình là kẻ vô địch.
Sau khi đánh bại Chưởng môn phái Hoa Sơn và hai sư đệ. Độc Biển Thước hung hãn xông vào đám đạo sĩ, tưởng chỉ một,hai chiêu là quét sạch. Tiếc thay, bọn cừu non kia chẳng hề sợ hãi, ngang ngạnh xông lên tấn công.
Độc Biển Thước ngạo nghễ vỗ liền bốn chưởng theo hình nan quạt để đả thương những kẻ đi đầu. Không ngờ có ba đạo sĩ trung niên bốc lên không trung như chiếc pháp thăng thiên, rồi bủa lưới thép xuống đầu họ Tả, và người thứ tư thì xông thẳng đến.
Kiếm phong, đao kình rít lên veo véo. Chứng tỏ công lực của bốn tay đạo sĩ kia chẳng hề non kém.
Độc Biển Thước không chút bối rối, tả thủ đẩy liền chín chưởng như vũ bão, đánh bật ba gã trên cao, rồi lướt đến cử kiếm tiếp gã trước mặt. tên đạo sĩ này có vẻ chẳng đáng sợ, bước chân nặng nề dậm thình thịch trên mặt đường. Song khi còn cách nhau hơn trượng, gã ta đột ngột lao vút đến như tên bắn, trừơng kiếm xé không gian, kiếm kình cuồn cuộn như thác lũ, kiếm ảnh lấp loáng phản chiếu ánh đuốc, hiện rõ mười tám ngọn lửa chập chờn.
Đã từng thảm bại dưới Phật Đăng Kiếm Pháp nên Tả Nho Quan nhận ra ngay chiêu Nghiệp Chướng Nam Đào, vội nghiến răng đánh chiêu Tà Huy Tây Chiếu, còn tả thủ vỗ một chưởng ngàn cân vào thượng bàn đối phương.
Độc Biển Thước rèn luyện hơn hai chục năm, đạt đến mức tinh tuý của tuyệt học Thần Quang, thủ pháp Kiếm Chưởng Hợp Bích rất cao siêu.
Gã đạo sĩ kia liều lĩnh nghiêng người, để đạo chưởng kình đánh phớt vào vai trái và vẫn tiếp tục ập vào. Khả năng chịu đòn của gã thật đáng khâm phục, nếu là người khác thì đã gẫy xương, dập phổi.
Hai luồng kiếm quang chạm nhau chỉ trong khoảnh khắc đã tắt lịm, và Tả Nho Quan rú lên kinh hoàng vì ngực, bụng thủng đến ba lỗ. Chưởng là sở trường của Thần Quang nhưng kiếm thuật lại là nghề của vị hòa thượng Ngũ Đài Sơn nên họ Tả phải chịu thiệt thòi.
Độc Biển Thước công lực thông thần, chẳng vì ba vết thương ấy mà nhục chí, bốc lên cao giáng chưởng xuống đầu gã láo xược kia. Nhưng ba tên lúc nãy đã đề khí bay lên, liên thủ đánh lão ngay trên không trung. Lợi hại nhất là thanh bảo đao trắng tỏa khí lạnh căm căm.
Nhận ra Tuyết Hoa Đao Pháp của Đao Đế, Độc Biển Thước chột dạ, khi truyền nhân của hai người đứng đầu Vũ Nội Tứ Thần liên thủ thì rất đáng ngại. Nhất là lão đã thọ thương, đánh lâu sẽ kiệt lực vì mất máu.
Tả Nho Quan vung chưởng giáng vào lưới đao, mượn lực phản chiếu với vị trí cũ, hạ thân xuống đất, lập tức bị bốn cao thủ kia vây chặt.
Lúc này mới thấy hết được bản lãnh kinh thiên động địa của họ Tả. Lão thi triển một bộ pháp thần kỳ, lượn lờ giữa vòng vây, kiếm phong rít gió rợn người và chưởng kình liên tiếp đẩy ra như bão tố. Chưa đầy nửa khắc lão đã lần lượt đánh cho bốn đạo nhân kia rỉ máu miệng, và Độc Biển Thước đã nhận ra thêm hai pho kiếm của Vương Ốc lão nhân và Hồng Diện Tôn Giả.
Lão rất kinh ngạc vì Tần Nhương Thư và Bạch Thúy Sơn đã bỏ mạng dưới vực thẵm Sáp Vân Phong. Nhớ đến cái chết của phân đàn chủ Lạc Dương là Trác Thiên Lộc, lão thức ngộ ngay rằng Nhương Thư còn sống. Phật Đăng Thượng Nhân chỉ có hai đồ đệ mà thôi.
Tả Nho Quan gậin dữ gầm lên:
- Tần Nhương Thư! Ngươi phải thay lão trọc Phật Đăng trả nợ cho lão phu.
Chẳng có ai thèm đáp vì họ đang cố lợi dụng cơ hội tốt này để ập vào tấn công Độc Biển Thước.
Tả Nho Quan liền bốc cao hai trượng, nhanh tay tra kiếm vào vỏ bên hông, múa song chưởng giáng xuống. lão hiểu rằng kiếm thuật là sở trường của Nhương Thư nên chẳng dại gì tiếp tục dùng kiếm nữa.
Chiêu Thái Dương Tán Sắc gồm đến ba mươi sáu đạo chưởng phong, kình lực mãnh liệt phi thường, đánh bạt đao kiếm, đẩy văng cả bốn đối thủ ra xa.
Gã đạo sĩ nhỏ người chính là Thúy Sơn, còn gã to ngang là Thiết Kình Ngư Tào ưng. Hai người này trúng đòn khá nặng nên phải rút ra ngoài điều tức để Nhương Thư và Nghi Tuyệt chống cự.
Có tiếng ai vọng đến:
- Tả Nho Quan! Lính của lão chết gần rồi đấy. Hãy bó tay qui hàng đi thôi.
Đúng là hai đánh một chẳng chột cũng què, phe Tứ Phạn Thiên Cung thương vong rất nhiều, tình thế mỗi lú thêm nguy ngập.
Họ Tả cười nhạt:
- Để lão phu giết hai gã này mà gỡ vốn vậy.
Thế là lão múa tít song thủ, xuất những chiêu độc ác và mãnh liệt khiến hai gã Tần, Hoàng phải tối tăm mặt mũi. Song Nhương Thư đã khiến họ Tả phải ngán ngẩm trước khả năng chịu đòn phi thường. Chàng liên tiếp hộc máu nhưng vẫn ôm kiếm lăn xả vào. Độc Biển Thước không dám để đối phương áp sát, đành dùng bộ pháp Thần Quang Hoán Vị mà né tránh.
Người vừa nói chính là Bất Trí Thư Sinh Cao Trường Toản. Lão đang đứng trên ngọn cây tùng gần đấy để bao quát trận địa. Họ Cao bỗng bảo:
- Hoàng lão đệ hãy lùi xa, để mình Nhương Thư đối phó.
Quyết định kỳ lạ này của lão đã khiến Nghi Tuyệt sửng sốt nhưng phải tuân theo.
Họ Hoàng bỏ trận địa nhảy lên lũy đất, đau lòng nhìn Nhương Thư cứ phải lùi mãi về hướng Nam, cách khá xa đấu trường chung.
Bất ngờ, trên ngọn tùng thứ hai, gần vị trí mới của Nhương Thư và Độc Biển Thước, phát ra tiếng ho khan. Họ Tần lập tức bay lên như pháo thăng thiên, rơi chếch phía sau con đê đất ở ven đường. Cùng lúc ấy, hai vật lạ từ ngọn Tùng chạm mảnh đất dưới chân Tả Nho Quan.
Hai tiếng nổ long trời phát ra gần như đồng thời, tưởng rằng đã phân thây họ Tả. Nhưng Độc Biển Thứơc xảo quyệt có thừa đã kịp rời chỗ. Tuy nhiên, sức ép của hỏa khí đã khiến lão phải hộc máu, và thân sau đau nhức vì hang trăm mảnh đá vụn bắn vào. Lão kinh hoàng chạy thẳng, chẳng dám quay đầu lại.
Đám cao thủ chủ chốt của Thiên Cung đang giao đấu với các đạo sĩ già của phái Hoa Sơn, cũng vội nối gót Tả Nho Quan.
Bọn đệ tử Thiên Cung không đủ bản lãnh thoát đi, đành ở lại hịu chết. Ba ả họ Điền được sự bảo vệ của Lô Châu Ngũ Tặc nên yên tâm tả xung hữu đột, lập được nhiều chiến tích.
Ngọc Tâm Tử bất nhẫn lên tiếng kêu gọi bọn sát thủ Thiên Cung qui hàng, song chẳng tên nào đáp ứng, chiến đấu mãi đến giọt máu cuối cùng.
Chiều mười ba, bọn Nhương Thư có mặt ở Đồng Quan. Tối hôm ấy, Nhương Thư sang phòng Vô Ưu Cái, gặp cả Bất Trí Thư Sinh và Dạ Quân Tử ở đấy. Ba lão nhân này đang bàn bạc kế hoạch đối phó với Độc Biển Thước.
Vô Ưu Cái nghiêm giọng bảo chàng:
- Tần hiền đệ! Lão phu biết mấy hôm nay ngươi rất ưu phiền vì bản lãnh kém xa Tả Nho Quan, nhưng đấy là lẽ thường tình vì chu vi quá chênh lệch.
- Thực ra, ngươi chính là kình địch số một của họ Tả, bởi lão không thể nào giết được ngươi. Trận vừa rồi đã chứng minh việc ấy. Bọn lão phu sẽ tạo cơ hội để hiền đệ ra tay bất ngờ, tất sẽ tiêu diệt được Độc Biển Thứơc.
Nhương Thư lắc đầu gượng cười:
- Tiểu đệ không trẻ con đến mức tự ái về điều đó, chẳng qua trong lòng lo lắng cho Bạch Ngọc Tiên Tử đấy thôi.
Ba người kia nhìn nhau với ánh mắt kỳ lạ, khiến Nhương Thư chột dạ, Vô Ưu Cái thở dài:
- Hiền đệ hãy cố trấn tĩnh nghe lão phu nói đây. Thực ra, Lâm Đại Ngọc đã rơi vào tay Âm Sơn Lão Tổ Lương Dã Toàn, sư phụ của Thiểm Bắc Thần Long Lạc Nhất Lôi. Gã khốn kiếp họ Lạc đã đem người yêu cũ dâng cho sư phụ. Hai thầy trò gã đã đến Lã Lương Sơn giết sạch Lâm Gia Trang, bắt sống Đại Ngọc. May thay, có một ả nữ tỳ chưa chết nên đã kể lại khi đệ tử bổn bang đến hỏi thăm.
Hung tin này như sét đánh ngang tai, khiến Nhương Thư chết điếng. Một hồi lâu mới mở miệng được:
- Nhưng người của Cái Bang ở Âm Sơn có biết Bạch Ngọc Tiên Tử sống chết thế nào không?
Hầu bang chủ ứa nước mắt đáp:
- Đại Ngọc bị bắt ngày mùng bốn tết, và đến gần cuối tháng giêng thì thi thể được phát hiện trong cánh rừng vắng ở ngoại thành Du Lâm. Đệ tử bổn bang đã chôn cất nàng tử tế.
Nhương Thư bình thản đến mức chẳng ai ngờ được, chỉ ánh mắt là rực rỡ nỗi đau đớn và thù hận. Chàng từ tốn hỏi:
- Phải chăng Âm Sơn Lão Tổ đang ở Du Sơn với Thiểm Bắc Thần Long?
Vô Ưu Cái gật đầu:
- Đúng vậy! Nghe nói lão quỉ già họ Lương ấy tình cờ tìm được một bụi thiên niên Tuyết Sâm trên đỉnh núi Âm Sơn băng giá, nên tóc đen trở lại, dục tính rất mạnh, phải về ở chốn phồn hoa mới có đủ nữ nhân để đáp ứng.
Bất Trí Thư Sinh tư lự:
- Âm Sơn Lão Tổ tuổi đã tám ba, nay ăn được kỳ trân công lực không dưới trăm năm. Lão ta mà có dã tâm bá chủ như Độc Biển Thước thì võ lâm cũng khốn đốn.
Và lão quay sang bảo Nhương Thư:
- Ta biết hiền đệ đã quyết đi Du Lâm để báo thù cho Bạch Ngọc Tiên Tử. Có đúng thế chăng?
Nhương Thư gật đầu, mắt sáng rực:
- Tiểu đệ dù không địch lại cũng có thể thừa cơ tập kích Lương Lão Quỷ. Khi tiểu đệ đã liều mạng thì trong võ lâm khó ai lành lặn.
Vô Ưu Cái quắc mắt mắng:
- Hồ đồ! Ngươi kế thừa sự nghiệp giáng ma của Phật Đăng Thượng Nhân, tính mạng thuộc về võ lâm, sao lại dám mở miệng nói đến việc liều chết? Đấy là chưa kể hạnh phúc của ba cô gái họ Điền, ngươi làm thế liệu có hợp đạo lý hay không?
Nhương Thư toát mồ hôi vái dài:
- Tiểu đệ đã hiểu đại nghĩa, cảm tạ Hầu lão ca đã dạy bảo.
Bất Trí Thư Sinh mỉm cười:
- Thực ra việc giết Âm Sơn Lão Tổ cũng không khó, chỉ cần hai trái Bạt Sơn Thần Lựu là đủ. Tuy nhiên, qua trường hợp thoát chết của Độc Biển Thước, chúng ta phải nghĩ đến việc Lương Dã Toàn cũng có thể sống sót. Một kẻ sở hữu trăm năm công lực thì mỗi cú nhảy xa đến hơn ba trượng, trong khi thần lực không nổ ngay khi chạm đất, mà lại phải sau khoảng thời gian vài cái chớp mắt. Âm Sơn lão tổ không chết tất sẽ vào Trung Nguyên, tìm Nhương Thư báo thù, không chừng sẽ liên thủ với Độc Biển Thước. Hậu quả thế nào thì ai cũng hiểu.
Nhương Thư nghe lão phân tích mà choáng váng, buồn rầu nói:
- Thế thì tiểu đệ phải làm sao?
Bất Trí Thư Sinh lắc đầu:
- Không phải thế! Ngươi và Bạch Thúy Sơn vẫn cứ đem Bạt Sơn Thần Lựu đi Du Lâm, tuỳ cơ ứng biến. Hai ngươi sẽ đóng vai vợ chồng mang lễ vật hậu hĩnh, xưng là người của Tứ Phạn Thiên Cung đến cầu kiến lão Tổ. Nếu thấy không có thời cơ để xử dụng hoả khí thì đánh lén một đòn rồi đào tẩu.
Họ Lương chết thì tốt, bằng không, lão ta sẽ tìm Độc Biển Thước hỏi tội.
- Chúng ta sẽ cung cấp tiền bạc và nhân lực để Âm Sơn Lão Tổ vững lòng tương sát với Tứ Phạn Thiên Cung. Khi lão giết xong Tả Nho Quan, lão phu hứa sẽ có cách giao Lương Dã Toàn cho hiền đệ kết liễu.
Vô Ưu Cái và Dạ Quân Tử Quách Tàn Bôi hồ hởi dơ ngón cái khen ngợi diệu kế của họ Cao.
Nhương Thư biết mình và các bằng hữu không đủ sức tiêu diệt Độc Biển Thước, đành vì đại cục mà chấp nhận kế hoạch này của Bất Trí Thư Sinh.
Chàng khẳng khái đáp:
- Tiểu đệ xin tuân mệnh. Song vì sao lại phải bắt Thúy Sơn giả gái, đóng vai vợ chồng với Thư này?
Cao Trường Toản khề khà giải thích, ánh mắt đầy vẻ diễu cợt:
- Nếu ngươi và Nghi Tuyệt đi thì Lão Tổ sẽ cảnh giác vì sát khí quá mạnh. Còn với một đôi nam thanh nữ tú thì sát khí của ngươi bị vẻ ôn nhu của Thúy Sơn che lấp, và chỉ mình y mới đủ bản lãnh khinh công để cùng ngươi đào tẩu.
- Biết y có làm nổi không đấy! Với cái dáng đi khệnh khạng, tay khuỳnh khuỳnh kia, làm sao giả gái được?
Ba lão nhân không còn kìm nổi, ôm bụng cười sặc sụa nhưng chẳng dám lớn tiếng. Thấy Nhương Thư ngơ ngáo, Vô Ưu Cái hổn hển nói:
- Ngươi đúng là một gã đại ngốc. Thúy Sơn vốn là gái giả trai đấy.
Nhương Thư giật bắn mình, thảng thốt biện bác:
- Thật thế sao! Nhưng tiểu đệ đã kiểm tra, thấy ngực y bằng phẳng, lại có cả dương vật cồm cộm trong quần nữa.
Bất Trí Thư Sing nghiêm giọng:
- Trước đây lão phu cũng bị lừa, chỉ sau khi hai người từ đáy vực hồi sinh thì lão phu mới rõ trắng đen. Những con cá màu đen dưới vực thẳm Sáp Vân Phong là Hắc Dâm Ngư, có tác dụng bồi bổ chân nguyên rất kỳ diệu, nhưng đồng thời lại làm cho người hưởng thụ rơi vào trạng thái mê man, đòi hỏi nữ nhân để quân bình Âm Dương. Nếu đúng Thúy Sơn là trai thì ngươi đã chết hoặc trở thành điên loạn suốt đời rồi. Nàng ta yêu ngươi tha thiết nên mới nhảy xuống vực chết theo, nào ngờ lại cứu được ngươi bằng cách hy sinh thân xác.
Nhương Thư xấu hổ đến mức chỉ muốn chui xuống gầm bàn, và rất cảm kích trước mối chân tình của Thúy Sơn.
Cao lão hắng giọng nói tiếp:
- Lão phu đã xem lại y kinh hiểu rằng Thúy Sơn mang chứng Tiên Thiên Bất Túc ở Kinh Túc Thái Âm Tỳ, cơ thể thiếu những chất nội tiết dành cho nữ giới. Do vậy, ngực của nàng ta chẳng phát triển và kinh nguyệt cũng không. May thay trong quyển cổ thư này có một toa thuốc để điều trị, hãy cho nàng uống thuốc và giao hợp hằng ngày, sẽ thấy kết quả tốt.
Nhương Thư đỏ mặt tía tai, chỉ gật đầu chứ không dám mở miệng. Dạ Quân Tử bỗng lên tiếng:
- Tần hiền đệ mấy lần ăn được kỳ vật mà công lực chẳng tăng tiến bao nhiêu, kể cũng lạ thực.
Bất Trí Thư Sinh gật gù:
- Lão phu cũng thắc mắc mãi về điều ấy. Có lẽ do ba loại Quỷ Nấm, Thuỷ Xà Giác Huyết, và Hắc Dâm Ngư có dược tính đối kháng nên hiệu quả kém đi. Tuy nhiên, việc y thoát khỏi tử hạn ba năm, có được thân thể sắt thép và một công lực hơn bốn mươi năm cũng là quá diễm phúc rồi. Vô Ưu Cái thở dài:
Tiếc rằng bao nhiêu ấy cũng chưa đủ để đối phó với Độc Biển Thứơc hoặc Âm Sơn Lão Tổ.
Sáng hôm sau, đoàn người lên đường đi Lạc Dương. Khi đến tổng đàn Cái Bang được ba ngày thì Dạ Quân Tử mới làm xong chiếc mặt nạ mang dung mạo Cung chủ Tứ Phạn Thiên Cung Âu Dương Lăng. Nhương Thư sẽ dùng thân phận của gã để bái kiến Âm Sơn Lão Tổ, thực hiện kế Di Hoạ Giang Đông.
Ba ả họ Điền không hề biết ẩn tình về Bạch Ngọc Tiên Tử, cứ ngỡ Nhương Thư ra đi vì việc công của võ lâm. Họ cũng không được tiết lộ thân phận nữ nhi của Bạch Thúy Sơn, chỉ trầm trồ khen lấy khen để rằng gã giả gái rất hợp, nhan sắc chẳng thua gì họ. Bộ ngực lép kẹp phải độn bông của Thúy Sơn đã làm cho ba nữ nhân chẳng chút nghi ngờ.
Mờ sáng ngày hai mươi hai tháng ba, Nhương Thư và Thúy Sơn rời Lạc Dương đi lên hướng Bắc, vượt sông Lạc Hà, đến chiều thì đã ở bờ Bắc Hoàng Hà.
Hai người vào trọ trong lữ điếm, chờ sáng hôm sau mới khởi hành. Đã đóng vai vợ chồng thì phải ở chung phòng, ngủ chung giường, Nhương Thư đã có cơ hội để thực hiện lời khuyên của Bất Trí Thư Sinh. Tuy đang đau khổ vì cái chết của Bạch Ngọc Tiên Tử, song chàng vẫn có nhiệm vụ với Thúy Sơn. Thế gian vốn vô thường, chúng sinh chìm đắm trong luân hồi, tử sinh chẳng thể tránh, nên kẻ thức giả an nhiên thụ mệnh, xem sống chết là một.
Đêm đến, Nhương Thư trao cho Thúy Sơn một viên dược hoàn màu xanh, nhỏ như hạt đậu:
- Hiền đệ uống đi!
Thúy Sơn mỉm cười hỏi:
- Thuốc bổ chăng?
Nhương Thư gật đầu, hài lòng khi thấy Thúy Sơn mau mắn nuốt ngay. Hai người lên giường vì đêm đã khuya. Nhương Thư ngượng ngùng ôm lấy nàng, chẳng còn thanh thản như lúc trước nữa. lát sau, Thúy Sơn thở hổn hển, run rẩy hỏi:
- Đại ca cho tiểu đệ uống xuân dược ư?
Nhương Thư dịu giọng bảo:
- Sơn muội! ta đã biết nàng là gái giả trai.
Thúy Sơn hổ thẹn bật khóc:
- Tiểu muội chẳng đủ tư cách nữ nhân, đâu xứng với đại ca?
Nhương Thư biết nàng ám chỉ bộ ngực, liền an ủi:
- Hiền muội sai rồi. Chẳng lẽ một nam nhân không râu thì không phải đàn ông? Hơn nữa những viên linh đan kia sẽ giúp hiền muội khắc phục khiếm khuyết ấy.
Chàng liền kể lại lời nói của Bất Trí Thư Sinh. Thúy Sơn vừa mừng vừa thẹn,giấu mặt vào vai tình quân.
Nhương Thư cũng đã động tình, cởi áo nữ nhân, lần đầu được nhìn rõ bộ ngực lép kẹp của Thúy Sơn. Chàng say đắm hôn hít, vuốt ve thân hình thon dài, ngà ngọc rồi gầy cuộc truy hoan. Đêm nay, chàng hoàn toàn tỉnh táo nên động tác nhẹ nhàng, điêu luyện khiến Thúy Sơn tận hưởng những cảm giác ngút ngàn hơn hẳn những lần bị dày vò dưới đáy vực.
Cuộc hành trình ngàn dặm, xuyên cao nguyên Sơn Tây đã trở thành tuần trăng mật ngọt ngào của hai kẻ yêu nhau. Sau gần tháng mặn nồng ân ái và uống thuốc, kỳ diệu thay, ngực của Thúy Sơn đã có dấu hiệu nảy nở hơn trước, và khi họ đến thành Du Lâm thì kinh nguyệt xuất hiện.
Đôi uyên ương sẽ phải nghỉ ngơi ở khách điếm vài ngày, chờ niềm vui kia qua đi thì mới tính đến chuyện bái kiến Âm Sơn Lão Tổ. Ngay ngày đầu tiên, họ có bí mật đến tế mộ Bạch Ngọc Tiên Tử. Nhương Thư chỉ sa lệ, còn Bạch Thúy Sơn khóc như mưa, đúng với bản chất nữ nhi của nàng.
Hai hôm sau là hai mươi lăm tháng tư, hai người tìm gặp phân đà của Cái Bang ở Du Lâm. Kim Tiềnn Cái Lộ Đăng Tâm đã báo cho họ một tin không vui, là việc Âm Sơn Lão Tổ sắp khai trương Âm Sơn Thần Giáo vào ngày đầu tháng năm tới. Xem ra lão già hồi xuân ấy quyết làm bá chủ vùng Tây Bắc và sau đó có thể là cả Trung Nguyên.
Kim Tiền Cái có người bà con làm gia nhân trong nhà Thiểm Bắc Thần Long Lạc Nhất Lôi nên biết rất rõ nội tình. Lão khề khà kể:
- Bẩm công tử! Dã tâm của Âm Sơn Lão Tổ rất lớn. Lão ta chiêu mộ bọn dũng sĩ của bộ tộc Đảng Hạ ở đất Tây Hạ, lực lượng rất đông đảo hùng mạnh. Một đạo quán đồ sộ được xây trên núi Âm Sơn trở thành thánh địa, còn Tổng Đàn của Âm Sơn giáo thì lại ở Diên An. Việc này chứng tỏ Lão Tổ sẽ bành trướng vào Trung Nguyên. Hiện nay lão ta đang ở Âm Sơn để chuẩn bị lễ khai giáo, còn Lạc Nhất Lôi thì lo việc xây dựng Tổng Đàn ở Diên An.
Mục tiêu biến mất, kế Di Hoạ Giang Đông bị phá sản, Nhương Thư chán nản hỏi Thúy Sơn:
- Thế thì chúng ta sẽ phải làm gì?
Thúy Sơn cau đôi mày liễu suy nghĩ, lát sau bàn rằng:
- Xét ra thì tội của Thiểm Bắc Thần Long còn nặng hơn Âm Sơn Lão Tổ. Nay chúng ta cứ đi ngay Diên Ân giết gã Lạc Nhất Lôi để báo thù cho Bạch Ngọc Tiên Tử.
Sáng hôm hai mươi sáu, Nhương Thư và Thúy Sơn lập tức xuôi Nam để đi Diên An. Lần này lộ trình thuộc bờ Tây nhánh phải Hoàng Hà, hoàn toàn nằm trên cao nguyên Hoàng thổ của đất Thiểm Tây, nên phong cảnh hoang vu, địa thế gập ghềnh hiểm trở, bụi vàng bay mù mịt, phủ kín cả người lẫn ngựa.
Hơn mười ngày sau đôi uyên ương mới có mặt ở Diên An, tìm khách điếm để nghỉ ngơi và trút bỏ bụi đường.
Chiều hôm ấy họ đã được Phân Đà Cái bang ở Diên An báo cáo:
- Bẩm công tử! Sào huyệt của Âm Sơn Giáo còn đang xây dựng dở dang, chỉ mới xong được phần kết cấu, chưa tô trát, sơn phết. nằm trên lưng chừng núi Kiếm Sơn, cách cửa Đông Thành hơn chục dặm.
Thúy Sơn ngắt lời gã:
- Việc phòng vệ ở nơi ấy thế nào?
Phân Đà Chủ Cái Bang ở Diên An là một hán tử sáu túi, tuổi bốn mươi tám, tên gọi Đại Chủng Cái Địch Cùng Nam, vì có cáimiệng rộng gấp đôi người thường. Họ Địch cười đáp:
- Bẩm phu nhân! Tổng số nhân thủ ấy đông độ ba trăm, toàn là người của bộ tộc Đảng Hạ. Ho vừa là thợ xây cất, vừa là võ sĩ canh phòng. Có lẽ để che giấu tung tích nên bọn Đảng Hạ ấy đã cạo trọc những mái tóc kỳ dị, chít khăn. Tuy nhiên, có nhiều tên không biết tiếng Hán, hoặc chỉ trọ trẹ vài câu. Thiểm Bắc Thần Long Lạc Nhất Lôi luôn túc trực ở công trường, song thỉnh thoảng cũng vào thành Diên An nghỉ đêm và hưởng lạc.
Nhương Thư mừng rỡ:
- Hay lắm! Phiền Địch túc hạ cố điều tra xem lúc nào y có mặt trong thành thì báo ngay cho ta biết.
Đại Chủng Cái cung kính nhận lệnh đi ngay, ba ngày sau quay lại với thư của Vô Ưu Cái. Trong thơ, Hầu Mộ Thiên đốc thúc bọn Nhương Thư mau chóng kết liễu việc ở Diên An để đi ngay Ngũ Hành Sơn, tham gia chiến dịch tiêu diệt Thần Quang Giáo.
Độc Biển Thước đã chính thức dương cờ Thần Quang, đúng lúc chất độc Tiêu Trường Vụ phát tác, lão cho người âm thầm loan báo đến những nạn nhân rằng phải có mặt ở chân núi Mộc Sơn trước ngày mùng tám tháng sáu để nhận giải dược. Đấy cũng là ngày lễ khai đàn của Thần Quang Giáo.
Bất Trí Thư Sinh đã tương kế tựu kế, mang giải dược của mình đến đấy cho quần hùng, rồi cùng họ đánh một đòn bất ngờ. Tuy nhiên, cần phải có người không sợ độc, cầm chân Tả Nho Quan, và người ấy chỉ có thể là Nhương Thư.
Đọc thư xong, chàng cau mày hỏi Đại Chủng Cái.
- Địch túc hạ! Mấy ngày qua Thiểm Bắc Thần Long không vào thành sao?
Họ Địch áy náy đáp:
- Bẩm công tử quả đúng thế! Dường như Lạc Nhất Lôi bị vợ quản thúc chặt chẽ nên không dám vào thành thăm bọn kỹ nữ nữa. Hôm kia có một nữ nhân tìm đến Kiếm Sơn, được bọn võ sĩ Đảng Hạ xưng hô là công chúa. Đệ tử đoán nàng ta là Ba Lặc Kỳ Dung, ái nữ của Đại Tù Trưởng Đảng Hạ, cũng là ái thê của Thiểm Bắc Thần Long.
Nhương Thư đanh mặt:
- Nếu thế thì đêm nay ta sẽ đến tìm gã họ Lạc vậy.
Thúy Sơn tán thành:
- Âm Sơn Lão Tổ đã khai giáo, lộ rõ dã tâm, chúng ta chẳng cần gieo vạ thì lão cũng sẽ đụng độ với Độc Biển Thước. Đại ca cứ sử dụng Bạt Sơn Thần Lựu mà phá nát cơ đồ của Âm Sơn Lão Tổ cho bõ ghét.
Đại Chủng Cái bỗng dặng hắng xen vào:
- Bẩm công tử! Theo thiển ý của đệ tử thì sức mạnh của Âm Sơn Giáo nằm ở lực lượng võ sĩ Đảng Hạ. nếu công tử nhân dịp này bắt sống được công chúa Ba Lặc Kỳ Dung làm con tin thì bá chủ Tây Hạ là Đại Tù trưởng Ba Lặc Sinh Hòa sẽ phải rút quân, và Âm Sơn Giáo sẽ tan rã.
Nhương Thư là người toàn tâm vì võ lâm nên rất hoan nghênh kế hoạch này. Chàng hớn hở đáp:
- Địch túc hạ quả là cao kiến. Thủ đoạn này tuy hơi bá đạo nhưng sẽ khiến võ lâm bớt một mối lo.
Thúy Sơn cười mát:
- Đại ca quả là háo sắc, nghe nói Ba Lặc Kỳ Dung đẹp như tiên nên vội vã tán thành mà không nghĩ đến hậu quả.
Nhương Thư hổ thẹn, lúng túng biện bạch.
- Sơn muội chớ hiểu lầm. Ta nào biết Ba Lặc Kỳ Dung xấu đẹp thế nào?
Đại Chủng Cái ranh mãnh đổ dầu vào lửa:
- Quả thực là công chúa Ba Lặc Kỳ Dung xinh đẹp phi thường, được đời tôn là Tây Bắc Đệ Nhất mỹ nhân. Hôm kia, đệ tử đã đựơc tận mắt chiêm ngưỡng dung nhan thiên kiều bá mị của nàng ta.
Nhương Thư liếc thấy mặt Thúy Sơn tái đi, biết nàng nổi ghen, liền nói liều:
- Địch túc hạ quá lời, người Đảng Hạ thô lậu, man rợ, đầu cạo trọc chỉ chừa vài món tóc lòng thong, làm sao đẹp được.
Đại Chủng Cái cười hì hì:
- Công tử lầm rồi. Nữ nhân Đảng Hạ cũng búi tóc như người Hán chúng ta. Nhất là sau khi đất Tây Hạ thuộc về Đại Minh thì nền văn hóa Đảng Hạ cũng khác xưa, y phục, trang sức của đàn bà gần giống Trung Nguyên.
Nhương Thư ngượng ngùng:
- Thế thì thôi vậy. Ta chẳng bắt cóc Ba Lặc Kỳ Dung nữa.
Đại Chủng Cái sợ ý kiến của mình bị phế bỏ nên tìm cách chữa cháy:
- Tuy Kỳ Dung có chút nhan sắc nhưng không thể nào sánh với phu nhân đây. Vả lại khi công tử giết chồng nàng ta là Lạc Nhất Lôi thì hai bên thành thù nhân, làm sao có chuyện yêu đương, luyến ái đựơc. Mong phu nhân vì đại cục giang hồ mà rộng lượng cho.
Đàn bà vốn hay ghen nhưng không bao giờ chịu nhận,Thúy Sơn gượng cười:
- Tiểu muội nói cho vui chứ nào có ghen tuông gì. Chúng ta cứ theo cao kiến của Địch túc hạ mà hành động.
Đại Chủng Cái mừng rỡ cáo lui. Canh hai đêm ấy, gã hướng dẫn bọn Nhương Thư đi Kiếm Sơn. Đúng như lời họ Địch đã nói, Tồng đàn Âm Sơn Giáo gạch đá ngổn ngang vì chưa hoàn tất. Tòa nhà chính leo lét ánh đèn, biểu thị rằng Thiểm Bắc Thần Long và phu nhân đang cư trú nơi ấy.
Việc canh phòng cũng lơi lỏng vì chẳng ai biết rằng có kẻ lại mạo hiểm đến đây làm gì. Mối quan hệ giữa Nhương Thư và Bạch Ngọc Tiên Tử hoàn toàn thầm kính.
Công việc xây dựng ban ngày đã khiến bọn người Đảng Hạ mệt nhoài, sớm ngủ vùi, chỉ để lại vài tên canh gác lấy lệ. Nhương Thư và Thúy Sơn mau chóng đột nhập, tìm đến phòng ngủ của vợ chồng Lạc Nhất Lôi.
Trong kiến trúc mang dáng điện thờ này, có một nơi đã xây dựng gần hoàn chỉnh, dùng làm nơi nghỉ ngơi của vợ chồng họ Lạc. Đó là một phòng lớn ở cuối, sau này có lẽ dành cho Giáo chủ.
Khí hậu vùng cao nguyên Hoàng Thổ cực kỳ khắc nghiệt, chỉ mới đầu hạ mà tiết trời đã nóng như đổ lửa, vô củng oi bức. Do vậy, tất cả những cánh cửa đều được mở toang, để khách dạ hành tha hồ chiêm ngưỡng cảnh tượng bên trong.
Một nam nhân anh tuấn,tuổi gần bốn mươi, đang hì hục hành lạc, nhấp nhô trên thân hình trắng muốt, khêu gợi của một nữ lang. Chẳng khó gì để đoán ra lai lịch của đôi uyên ương kia.
Thúy Sơn đỏ mặt thì thầm:
- Đại ca! Chúng ra rút thôi.
Nhương Thư gằn giọng:
- Nàng mắc cỡ thì cứ tránh mặt, phần ta quyết không tha cho Lạc Nhất Lôi.
Thúy Sơn thở dài:
- Tiểu muội sẽ nhắm mắt lại, đứng ngoài này chờ đợi.
Nhương Thư gật đầu, quắc mắt nhìn cảnh giao hoan mà lòng không gợn chút tà tâm. Chàng chợt nhận ra nữ lang kia không hề hứng khởi, đôi mắt huyền dán vào ngọn đèn tọa đăng trên bàn, dường như đang cố chịu đựng cho qua. Phải chăng Ba Lặc Kỳ Dung chẳng thích thú gì trong cuộc ái ân này?
Chàng thầm khen dung mạo của nữ nhân người Đảng Hạ, không ngờ đất Hoàng Thổ lại sản sinh được một giai nhân như thế.
Chẳng lẽ cứ rình rập mãi cảnh truy hoan, Nhương Thư nghiến răng lao mình qua cửa chính, xông về phía chiếc giường hoan lạc, vung kiếm tấn công Lạc Nhất Lôi.
Thiểm Bắc Thần Long phản ứng thần tốc và bất ngờ, ngã mình xuống giường, đưa thân hình nõn nà của Ba Lặc Kỳ Dung lên che chắn và quăng nàng ta vào lưới kiếm của Nhương Thư. Chỉ một hành động này cũng đủ chứng tỏ gã xảo quyệt và tàn nhẫn phi thường, dám hi sinh cả người đầu ấp tay gối.
Nhương Thư vội thu kiếm, đưa tả thủ đỡ Kỳ Dung. Trước tiên ngón trỏ của chàng điểm vào huyệt Kiên Tĩnh của nàng, sau mới dám ôm lấy. Chàng đảo bộ, đặt con tin xuống cạnh tường phòng rồi quay lại với Lạc Nhất Lôi.
Lúc này, họ Lạc đã chụp được thanh côn trên giường thủ thế và gầm lên:
- Bắt gian tế!
Bọn dũng sĩ người Đảng Hạ đang ngủ trong những lán trại chung quanh bật dậy, xách vũ khí hớt hải chạy đến.
Thấy nguy, Bạch Thúy Sơn cắn răng bước vào phòng chụp lấy Ba Lặc Kỳ Dung, giật rèm cửa sổ quấn tạm, đưa ra trước cửa phòng rồi nói với công chúa:
- Kỳ Dung! Nếu nàng không bảo bọn thủ hạ đứng yên thì ta sẽ cắt mũi nàng trước đấy.
Kỳ Dung biến sắc vội quát lên thánh thót bằng tiếng Đảng Hạ:
- Tất cả ở ngoài chờ lệnh, không được xông vào.
Người Đảng Hạ thuộc giống dân Hồi ở đất Tây Hạ, văn minh kém cỏi nhưng rất kiêu dũng, quen nghề trận mạc. Vào thời nhà Tống, các bộ tộc Đảng Hạ đã liên kết lại, thành lập một vương triều hung mạnh, uy hiếp cả Trung Nguyên. Họ có tham vọng độc lập, từng dựa vào chữ Hán để làm ra văn tự của dân tộc mình.
Do man rợ nên họ rất trung thành với thủ lĩnh, răm rắp tuân theo lệnh công chúa Kỳ Dung. Vương triều Tây Hạ đã bị quân Mông Cổ tiêu diệt, và sau này đất đai sát nhập vào lãnh thổ nhà Minh, song các bộ tộc Đảng Hạ vẫn giữ được nền tự trị. Dù Tây Hạ cũng đầy đủ quan lại từ phủ đến huyện, nhưng thực quyền của các tộc trưởng rất mạnh. Ba Lặc Sinh Hoà, cha của Kỳ Dung là vị tù trưởng cao cả nhất.
Bên ngoài đã yên nhưng cuộc chiến trong phòng thì chưa ngã ngũ, vì Thiểm Bắc Thần Long lạc Nhất Lôi là một võ sĩ có thực tài. Gã được chân truyền pho Âm Sơn Côn Pháp, chống cự rất quyết liệt, chẳng chịu chết ngay.
Con rồng đất Thiểm Bắc đang hoàn toàn lõa thể, để lộ thân hình lực lưỡng, cuồn cuộn những bắp thịt rắn chắc. Cánh tay gã to lớn, cơ bắp nổi vòng, biểu hiện một sức mạnh phi thường, liên tiếp giáng những đòn sấm sét nát đá tan vàng.
Cây côn thép của Lạc Nhất Lôi là đoản côn, chỉ dài hơn trường kiếm vào lóng tay, song phải nặng đến hai mươi cân, được mạ bạc bóng loáng. Họ Lạc lên núi Âm Sơn luyện võ từ ngày sáu tuổi, hơn hai mươi năm sau mới hạ sơn, và lập tức nổi danh khắp miền Tây bắc vì chưa hề gặp đối thủ.
Âm Sơn là rặng núi hiểm tuấn, hung vĩ và cực kỳ lạnh giá, quanh năm tuyết phủ, nằm cạnh nhánh trái của vòng cung lớn Hoàng Hà trên ranh giới giữa Tây Hạ và Nội Mông.
Chính nơi đây, Âm Sơn Lão Tổ đã luyện thành pho Hàn Tuyết Chân Khí, tương tự với Huyền Băng Chân Khí của Đao Đế Liêu Vân Nhạc. Lạc Nhất Lôi căn cơ thượng phẩm đã đạt được tám thành hỏa hầu, côn kình tỏa hơi lạnh thấu xương, gã tưởng rằng có thể sớm nghiền nát tên hắc y bịt mặt, không ngờ càng đánh càng bị hạ phong.
Cây Ngân Tuyết Côn của gã có sức đập nghìn cân mà không sao đánh bại nổi thanh trường kiếm mỏng manh kia, chứng tỏ đối phương có công lực vô cùng thâm hậu.
Song điều đáng sợ nhất chính là trình độ kiếm thuật của Hắc Y nhân, chiêu nào cũng gồm hàng trăm thức, kiếm ảnh mờ mịt, hư thực khó phân. Chỉ sau vài chục chiêu, Thiểm Bắc Thần Long đã bị rạch hai đường trên vai và ngực, kinh hoàng múa tít thanh Bạch Ngân Côn, phòng thủ kín đáo hơn.
Tiếng thép chạm nhau không ngớt, xé nát đêm trường tĩnh mịch, và khiến bọn võ sĩ Đảng Hạ ở bên ngoài thêm lo lắng. Họ vô cùng khâm phục Lạc Nhất Lôi vì gã bao giờ cũng đắc thắng trong vòng một trăm chiêu. Người Đảng Hạ rất hiếu võ, đã bất giác kéo đến các khung cửa sổ để quan chiến và kinh hãi nhận ra thủ lĩnh thọ thương.
Tốc độ chiết chiêu cực kỳ nhanh, thấm thoát đã quá số ba trăm và trên người Thiểm Bắc Thần Long chi chít những vết thương đẫm máu. Tuy chỉ là thương tích nhẹ nhưng cũng đủ làm cho Lạc Nhất Lôi đau đớn, cử động khó khăn. Gã nhận ra Hắc Y nhân đã bỏ qua hàng chục cơ hội kết liễu, cứ như muốn hành hạ mình cho thỏa thích vậy. Gã nghĩ mãi không ra mình đã gây thù kết oán với tay Đại kiếm thủ này trong trường hợp nào? Lạc Nhất Lôi nhiều lần định đào tẩu nhưng không thành công vì đối phương đứng chặn đúng hướng cửa chính và đã dồn gã vào sát vách tường hướng Đông.
Bức vách được xây bằng đá núi rất kiên cố nên Lạc Nhất Lôi chẳng thể phá mà chui ra được. Trong nỗi tuyệt vọng,gã giận dữ lộng Ngân Côn, cố đẩy lùi đối thủ rồi quát nhanh:
- Ngươi là ai? Vì sao lại muốn giết ta?
Gã bịt mặt hờ hững điểm nhanh hàng chục nhát, đẩy gã thoái hậu rồi đáp:
- Ta đến để báo thù cho ái thê là Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Đại Ngọc.
Nói đến đây, mắt gã loé lên những tia oán hận và mũi kiếm rít lên vo vo, công phá lưới côn, cuối cùng rạch một đường trên gương mặt trắng trẻo, đồng thời tiện đứt dương vật của Thiểm Bắc Thần Long.
Lạc Nhất Lôi đau đớn rú lên như heo bị chọc tiết, điên cuồng múa côn đổi mạng.
Nhương Thư nãy giờ kéo dài trận đấu chẳng phải vì chơi trò mèo vờn chuột, giết kẻ thù một cách tàn ác mà chính vì muốn tìm hiểu côn pháp của Âm Dương Lão Tổ, để sau này đối phó. Giờ đã tạm đủ, chàng thầm khấn với hương hồn Lâm Đại Ngọc rồi xuất chiêu Tâm Băng Bất Tức, kiếm ảnh chập chờn hàng trăm ngọn lửa trùm lấy đối phương. Và những đốm lửa nhỏ bé ấy chợt bung lên, như lớn hơn, rực rỡ hơn, thi nhau bắn vào người họ Lạc.
Thiểm Bắc Thần Long kinh hoàng trước chiêu kiếm thần kỳ, vung nhanh côn bạc cố chặn đứng những kiếm ảnh ma quái kia. Song đốm lửa này bị dập tắt thì đốm lửa khác hiện ra, liên miên bất tuyệt. Chỉ sau vài chục tiếng tinh tang, Lạc Nhất Lôi nghe lồng ngực vạm vỡ của mình đau đớn khủng khiếp và gã rú lên ai oán, gục xuống trong lúc mắt vẫn mở trừng trừng.
Nhương Thư cẩn thận lia ngang cắt rời thủ cấp của kẻ thù. Sau lần suýt chết dưới tay chính khí trang chủ Lã Tập Hiền, chàng cho rằng chặt đầu là chắc ăn nhất. Chính Bất Trí Thư Sinh đã xác nhận rằng việc tim người nằm bên ngực hữu không phải là quá hiếm.
Tiếng la hét giận dữ của bọn Đảng Hạ vang lên ngoài cửa khiến Thúy Sơn lo ngại, vội hăm dọa Kỳ Dung:
- Chúng mà vọng động thì nàng mất mạng đấy.
Kỳ Dung cười nhạt:
- Ngươi đừng sợ! Chưa có lệnh của ta thì chẳng ai dám hành động cả.
Nhương Thư đã giật khăn trải giường phủ lên cái xác lõa lồ, đẫm máu của Lạc Nhất Lôi. Chàng lên tiếng:
- Sơn muội hãy đưa công chúa vào đây thu xếp hành lý.
Thúy Sơn liền nhấc bổng Kỳ Dung đi vàp phía giường Bát Bửu.
Nhương Thư ôn tồn nói với tù nhân:
- Do Âm Sơn Lão Tổ lợi dụng lực lượng các bộ tộc Đảng Hạ để mưu đồ bá chủ nên tại hạ mạo muội mời công chúa vào Trung Nguyên chơi một chuyến. Bọn tại hạ hứa sẽ chiêu đãi như thượng khách, chờ sau khi diệt xong Lão Tổ sẽ cung kính tiễn công chúa hồi hương.
Chồng bị giết mà Ba Lặc Kỳ Dung không hề nổi giận, không mắng chửi hung thủ một câu, lại nhìn Nhương Thư bằng ánh mắt hiếu kỳ, chậm rãi đáp:
- Các hạ muốn ta đi theo thì phải để lộ chân diện mục, khai rõ lai lịch, xem có đáng tin cậy hay không?
- Bổn công chúa là nữ nhân Đảng Hạ, mười bốn tuổi đã xông pha chiến trận, xem cái chết rất nhẹ, và lúc ấy thì hai người cũng khó mà thoát được. Chưa kể đến việc cái chết của ta sẽ khiến các bộ tộc Đảng Hạ nổi dậy, bắt triều đình nhà Minh phải tìm cho ra thủ phạm. Lúc ấy, tội tru di tam tộc sẽ đổ lên đầu hai ngươi.
Nhương Thư và Thúy Sơn rùng mình nhìn nhau. Chàng họ Tần thở dài:
- Thế thì tại hạ đành phải bỏ ý định mời công chúa về làm khách vậy. Mong nàng cho phép bọn tại hạ rút lui.
Ba Lặc Kỳ Dung biết ngay chàng trai võ nghệ cao cường này hiền lành, dễ nắm gáy, liền tủm tỉm cười:
- Muộn rồi! Các hạ đã giết trượng phu của ta, đâu dễ bỏ đi như thế. Hay các hạ lại hèn nhát đến mức không cho ta cơ hội báo thù chồng? Hãy cởi khăn và khai danh tính ra ngay.
Thúy Sơn vội ngăn cản Nhương Thư:
- Đừng đại ca! Tội giết phò mã Đảng Hạ cũng có thể bị truy nã, lộ mặt chỉ có hại. Chúng ta dùng Kỳ Dung làm mộc thoát thân thôi.
Ba Lặc Kỳ Dung ngắt lời:
- Ta thề sẽ tự lực báo thù, không nhờ đến quan quân. Người Đảng Hạ đã nói là không nuốt lời.
Nhương Thư thở dài:
- Thôi được. Tại hạ xin tuân mệnh. Song phiền công chúa cho bọn thủ hạ lui ra xa.
Kỳ Dung gật đầu. Quay ra đuổi bọn dũng sĩ. Chúng ngoan ngoãn rút đi, lập vòng vây phía ngoài.
Nhương Thư cởi khăn che mặt, trầm giọng bảo:
- Tại hạ Tần Nhương Thư. Công chúa muốn báo thù xin cứ đến Tổng đàn Cái Bang gởi thư phó ước, tại hạ sẽ lập tức ứng hầu.
Đôi mắt hơi sâu và đen láy của Kỳ Dung dán vào gương mặt hiền hòa, đôn hậu của chàng, môi anh đào nở hoa:
- Té ra chàng là Đệ nhất kiếm thủ của Trung Nguyên đấy ư? Từ lâu bổn công chúa vẫn được nghe danh, không ngờ lại được diện kiến chốn này.
Bạch Thúy Sơn cảm thấy rõ sự ngưỡng mộ, say đắm của Kỳ Dung, liền nổi cơn ghen, cằn nhằn:
- Hay thực! Ai mà lại tán dương kẻ giết chồng mình cơ chứ?
Ba Lặc Kỳ Dung phì cười:
- Ngươi ghen sao? Gái Đảng Hạ ân oán phân minh, tính tình thẳng thắn, dẫu là kẻ thù mà đáng trọng thì cứ trọng. Vả lại, Lạc Nhất Lôi đã nhẫn tâm xô ta vào lưỡi kiếm của Tần công tử, đâu đáng để ta tiếc thương.
Thúy Sơn cứng họng, không biết nói ra sao. Ngay lúc ấy, nàng vô tình lỏng tay kiếm góc tấm rèm cửa lật xuống để lộ ngực trái căng tròn, mơn mởn của tù nhân. Thúy Sơn đứng kềm sau lưng Kỳ Dung nên không phát hiện ra, song Nhương Thư thì thấy hết, lúng túng cúi đầu.
Ba Lặc Kỳ Dung cười mát:
- Lúc nãy công tử ôm ta, tay đã đặt vào ngực, mắt ngắm trọn thân thể ngàn vàng, sao giờ này lại xấu hổ?
Thúy Sơn giật bắn mình, vội nhìn lại, kéo rèm lên che ngực Kỳ Dung rồi nạt Nhương Thư:
- Đi thôi! Đại ca thích ở lại đây lắm sao?
Nhương Thư luống cuống cột lại khăn che mặt, vái chào Kỳ Dung:
- Bọn tại hạ xin cáo từ, mong công chúa mở cho sinh lộ.
Tài sản của than_long_vn

Ðề tài đã khoá

Từ khóa được google tìm thấy
doc tan nhuong thu, tan nhuong thu, tan nhuong thu prc, tân nhương thư prc, tần nhượng thư, truyen tan nhuong thu, tu ma nhuong thu, xem phim tan nhuong thu
Ðiều Chỉnh


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™