Truyền Thuyết Giếng Thanh Ti - TG: Tiểu Đoạn (trọn bộ)
Đây là tác phẩm đầu tay của nhóm dịch Tiểu Đoạn - Huế hành động. Mọi người có lòng giúp đỡ và tham gia xin mời đăng ký, hehe. Hoan nghênh và cảm ơn mọi góp ý!
Truyền thuyết giếng Thanh Ti
Tác giả: Tiểu Đoạn
Dẫn truyện:
Đấy là một tiểu trấn dơ dáy. Nếu không dùng dao nhỏ cạo đi vết muội dầu bám trên những thanh xà gỗ cổ xưa, sẽ chẳng ai để ý đến dấu tích rực rỡ ẩn dưới lớp cặn bẩn.
Ban ngày, khói dầu ngập tràn tỏa ra từ những hàng bánh rán, tiếng Trương đại thẩm đánh mắng tám đứa nhỏ ồn ào, mấy gánh cải xanh tươi đặt cạnh cống nước bẩn đầy ứ. Nếu không nhờ những đêm bóng trăng bồng bềnh trỗi dậy rửa sạch con đường lát đá xanh bằng ánh sáng dịu mát của nó, chẳng ai có thể tin rằng tại tiểu trấn này từng xảy ra một câu chuyện đã trở thành truyền kỳ trong võ lâm…
Chương 1 – Hỉ yến (Tiệc mừng) - Thượng
Người dịch: hieusol
Biên dịch: duahau
Nguồn: Tàng thư viện
Từ trên xà nhà lộ ra một đôi hài hoa cong cong nhọn nhọn, ôm lấy hai bàn chân dù để tự nhiên* nhưng vẫn nhỏ xinh. Mặt hài màu xanh lá liễu được gia công rất tinh xảo, dùng vải dệt tơ vàng lông ngỗng lót trong trải ra đến giữa, ở trên thêu trăm loài hoa cỏ. Hai màu sắc thanh nhã ấy kết hợp lại êm ả tựa vầng trăng vàng tháng ba xuân tiết tỏa rạng. Những người đang tất bật dưới sảnh không hề hay biết có đôi chân chẳng theo khuôn phép, không ngừng thay đổi tư thế đung đưa qua lại trên đỉnh đầu họ.
Hơn ba mươi năm rồi không ai sống ở trang viện lớn nhất Ô trấn này. Kỳ thực tòa nhà trước sau chỉ có hai gian, nhưng đại sảnh rất rộng có thể chứa được một hai trăm người. Cột nhà bằng gỗ tử đàn qua nhiều năm tháng đã âm trầm chuyển thành một màu đen mờ mịt. Khoảng mười mấy hai mươi người đang bận rộn xách nước cầm chổi lông gà ra ra vào vào dọn dẹp chùi rửa phòng ốc, đều là nhân công của Bách Duyệt lâu.
Khách hàng ngại Bách Duyệt lâu không được rộng rãi nên mới thuê trang viện lớn nhất trấn của nhà họ Tưởng, nhờ người dọn sạch sẽ đại sảnh và sân trước để tổ chức yến tiệc, yêu cầu đúng ngày giờ phải bố trí mười hai bàn thượng đẳng ở đại sảnh, ngoài sân bày thêm ba mươi bàn, chưa kể còn bao trọn Bách Duyệt lâu trong ba ngày. Suốt thời gian đó, bất luận già trẻ trong trấn, khách vãng lai giang hồ các loại, chỉ cần đến chúc một lời tốt lành đều được chiêu đãi rượu thịt.
Chẳng riêng gì kẻ giúp việc, ngay cả chưởng quỹ Bách Duyệt lâu vốn lăn lộn nhiều năm cũng chưa từng thấy qua tiệc cưới lớn đến nhường này. Ô trấn chẳng phải nhỏ, các vị bếp trưởng cũng rất khá, dù vậy họ vẫn đặc biệt mời đại sư phụ từ Tầm Dương thành về. Ai cũng bận rộn mà vui vẻ, tiệc cưới lớn này đáp ứng trúng ý thích của đại đa số: hào phóng, phô trương, ngoài ra còn có cảm giác thần bí về tân lang tân nương.
Đối với bách tính mà nói, dù bản thân họ chẳng có khả năng phóng tay như thế, nhưng được tham dự vào cuộc vui là đã thấy sung sung sướng sướng rồi.
“Kẹt” một tiếng, cổng lớn rin rít mở ra, nghe tiếng đẩy cửa đã biết là người lạ, hơn nữa còn lần đầu đến đây, vì thanh âm ấy đầy vẻ ngập ngừng do dự. Kẻ ngồi trên xà nhà đã quan sát mọi thứ từ sáng, ngoại trừ vụ một tên giúp việc làm rơi chiếc bình sứ men xanh bị chưởng quỹ bạt tai in năm ngón tay vào má, còn lại chẳng có gì vui thú, đang lúc buồn chán bất giác quay đầu lại nhìn.
Chỉ thấy nơi lối vào đã được quét rửa sạch sẽ, trên bậc thềm lát đá xanh một thiếu niên đang đứng, mày rậm mắt hổ, vai ngang lưng thẳng, mặt mày đầy đặn, nước da hơi vàng, dù khí chất mười phần cứng cỏi nhưng ngũ quan tịnh không thô tháp mà toát lên vẻ anh tuấn dễ nhìn. Chỉ thấy hắn tự nhiên đặt tay lên nắm cửa sư tử bằng đồng sáng bóng, thật là một bàn tay sạch sẽ, mạnh mẽ đầy nam tính. Kẻ trên xà nhà chợt thoáng ngẩn ngơ, nắm vỏ hạt dưa trong tay bất cẩn rớt xuống, nhẹ nhàng rơi trúng mặt một tên quét dọn lúc này cũng đang ngẩng đầu nhìn về hướng cửa lớn.
Người quét dọn ấy cả kinh, vừa ngước đầu đã thấy đôi chân đong đưa sắc vàng, lại tưởng là hai con ngỗng nhỏ lông mượt nào bay lạc vào đại sảnh râm mát. Gã đang há miệng muốn kêu lên, kẻ trên xà nhà vội đưa ngón tay lên miệng “suỵt” nhẹ một tiếng, tiếp đó quăng đống hạt dưa thẳng vào họng gã như là phần thưởng. Gã vốn đang lấy hơi, bất ngờ bị sặc ho lên khù khụ.
Chỉ nghe thiếu niên nọ từ tốn hỏi: “Đây có phải là trang viện nhà họ Tưởng?”
Viên chưởng quỹ đang đứng xem một tên giúp việc treo đèn lồng lớn màu đỏ có dán chữ Hỉ lên mái hiên có thẳng hay không, nghe hỏi liền cười đáp: “Quý khách đến dự lễ phải không ạ? Tiệc cưới định vào sáng mai, sớm hôm sau quý khách trở lại nhé!”
Thiếu niên nhíu nhíu đôi mày, không tưởng nơi này lại có nhiều người như thế. Hắn trầm ngâm nghĩ: “Lẽ nào ta tìm nhầm, rõ ràng Bán Nhi nói là ở đây. Kỳ lạ, hóa ra sáng mai trấn này cũng có người tổ chức hỉ sự, lại còn làm lớn nữa.”
Nhớ tới hai chữ “hỉ sự”, lòng hắn khẽ dấy động: “Ta đến tiểu trấn hẻo lánh này chẳng phải vì muốn tổ chức đám cưới của mình sao? Sáng mai, chỉ sáng mai thôi, mình sẽ cầm tay Bán Nhi, tại tòa nhà hoang phế không người của gia đình nàng cùng thề hẹn sống bên nhau trọn đời.” Chỉ là hôn lễ của hắn không có hội trường như thế này, không nhiệt náo như ở đây, cũng chẳng cần quan khách, chỉ hai người bọn hắn thôi là đủ tốt rồi. Nghĩ đến đấy, thiếu niên thầm than thở: “Ài, hôn lễ này nếu được sư phụ và đồng môn chúc phúc thì hay quá, nhưng chắc chắn là không thể rồi!”
Hắn lắc lắc đầu, ném bỏ ý nghĩ không vui ấy, chuyển thân rời khỏi, không hay biết một đôi mắt trên xà nhà vẫn luôn dõi theo mình. Hắn vừa đi, từ trên xà nhà một bóng người trượt xuống, là một tiểu cô nương độ mười bốn, mười lăm tuổi. Chỉ thấy nàng ta tuy chưa lớn nhưng đã đầy vẻ kiều mị, đầu bối tóc kiểu quả đào, hai lọn tóc rũ xuống vén bên tai, miệng lẩm bẩm: “Lại một người đến xem náo nhiệt? Tiểu ca ca này… thật là đẹp trai!”
Nàng ta vừa thuận theo cột nhà trượt xuống, ngoại trừ người quét dọn bị nàng dọa cho phát khiếp vừa nãy, không ai trong sảnh ngoái đầu nhìn. Gã quét dọn kia vẫn sửng sốt ngó nàng, chợt nghe xa xa ngoài cửa lớn truyền lại một giọng nói già nua: “Song Hoàn, Song Hoàn, tiểu nha đầu quỷ quái, mau ra đây cho ta…”
Tiểu cô nương kia miệng nở nụ cười, líu lo tự nhủ: “Lại đến tìm rồi đấy, chẳng ra đâu!”
Từ trên tường viện bỗng bay tới một con quạ đen nhìn tiểu cô nương kêu “quạ quạ”. Nàng ta tức khí dậm chân, miệng mắng: “Quạ đen chết dẫm, lại mách lẻo”, thân hình khẽ động tính cách chuồn đi. Nàng vốn đang xông nhanh ra cửa trước bỗng chuyển thân xoay về hướng cửa sau, một thế thức ấy cho thấy khinh công căn bản không tệ. Tên quét dọn vừa bị sặc kia nhìn nàng ta bay lượn như chim, thân ảnh tựa du long, không khỏi ngây người. Tiểu cô nương bất chợt thấy thế mặt hiện hàm tiếu, nhẹ chỉ tay vào trán gã, cười hỏi: “Hạt dưa vừa nãy có ngon không?”
Giọng nói nàng ta vẫn mang vẻ non nớt, lời chưa dứt thân người đã biến mất tại cửa sau. Chỉ còn lại gã quét dọn kia nhìn theo bóng ảnh tiểu cô nương, bất giác hàm răng nghiến mạnh, cắn nát mớ hạt dưa tỏa ra hương thơm ngập miệng.
Thiếu niên nọ thấy địa chỉ mình tìm đến dường như không đúng, người người đều bận rộn liền lặng lẽ rời khỏi. Hắn lần đầu đến tiểu trấn này, vì thế dạo bước khắp nơi - có lẽ ý Bán Nhi chính là muốn hắn sau này hòa hợp với cuộc sống ở đây?
Trấn không lớn, lại có một con sông nhỏ hẹp chảy qua, trong suốt uốn lượn, cư dân trong trấn có giọng nói là lạ khá cuốn hút, hết thảy đều làm hắn thích thú. Hắn ghé vào một quán nhỏ tên “Lỗ Tam Kiện” mua một chiếc móng lợn ăn cơm, nói chuyện phiếm với lão chủ quán, quay đi quay lại trời đã hoàng hôn. Lúc này hắn mới nghĩ đến một vấn đề, đêm nay ngủ ở đâu?
Với tâm trạng hắn tối nay, dù ở đâu e cũng không ngủ được, hắn đi về phía tây trấn - nơi có con đường mà ngày mai Bán Nhi sẽ tới. Thiếu niên chậm rãi bước, ra khỏi trấn được hai dặm, cạnh mé đường có một cây lớn, hắn nở nụ cười: Đây hẳn là đêm dài cuối cùng hắn lẻ loi chờ đợi, một mình tưởng nhớ Bán Nhi a? Sau này đã hai thân như một rồi. Nên vợ nên chồng tốt thì tốt thật, nhưng sẽ chẳng gặp lại loại cảm xúc tưởng nhớ xấu hổ thế này, đêm nay hẳn rất có ý nghĩa đây, chi bằng ngồi dưới đại thụ này luôn tới sáng.
Nghĩ miên man, thiếu niên nhớ lại lần đầu gặp gỡ Bán Nhi. Ấy là vào một mùa đông, chẳng hiểu sao trong ký ức của hắn lại luôn hiện một vầng mặt trời đỏ ấm áp treo giữa khoảng không mù sương. Họ quen nhau suốt hai năm, ban đầu trong lòng hắn chỉ le lói thứ tình cảm mơ hồ, đơn giản là thấy thích thú vui vẻ thế thôi, nhưng vì sao, vì sao ngọn lửa càng cháy càng mạnh, chỉ cần vắng bóng nàng, lửa nóng ấy dường như ngùn ngụt thiêu đốt thân hắn?
Phải nói là Bán Nhi không hẳn thật sự xinh đẹp, hắn đã từng thấy qua những nữ nhân quyến rũ hơn nàng nhiều, nhưng chỉ có nàng mới khiến hắn hoan hỉ hạnh phúc. Hắn nghĩ nàng không quá mỹ miều cũng giống như hắn chẳng phải là kẻ thật giỏi giang, khớp lại với nhau thật là toàn vẹn.
Thiếu niên từng cười vui kể cho nàng nghe giấc mộng thuở bé của mình: hắn là đệ tử phái Chung Nam, từ nhỏ đã siêng năng luyện công, mơ tưởng trở thành kiếm thủ đệ nhất với kiếm pháp tuyệt thế, luyện thành võ công siêu phàm. Nàng thì cười nhắc lại ước nguyện thời thơ ấu: có được một tình yêu tuyệt mỹ, khiến cho tất cả nữ nhân trên đời đều phải ghen ghét, tham muốn và ngưỡng mộ. Hai người vô tình gặp gỡ, khởi điểm chỉ là vui vẻ, rồi theo thời gian mới phát hiện võ công tuyệt thế hay ái tình tuyệt mỹ chẳng qua chỉ là giấc mơ con trẻ đùa chơi, quá xa vời viển vông, được chung sống cùng nhau mới chính là thực tại kiếp này cần nắm giữ.
Chỉ cần hai người tay nắm tay, mắt nhìn nhau, cuộc đời thế là êm ấm, không thể tìm đâu ra cảm giác yên ổn hơn.
Nghĩ đến đây, thiếu niên nở nụ cười, nhìn mặt trời đang dần lặn xuống phía tây. Từ lần chia tay trước cách đây hai tháng, họ đã hẹn nhau mỗi người về nhà mình thu xếp mọi sự, xin được cho phép. Mặc kệ người nhà thuận ý hay không, vào ngày mười ba tháng sáu sẽ gặp nhau ở giếng Thanh Ti (tơ xanh).
Thiếu niên mỉm cười nghĩ đến việc hôm nay mới mười hai tháng sáu hắn đã tới rồi.
Là nàng?
-----------
Chú giải:
* “Để tự nhiên” ở đây có nghĩa là không bó chân. Tục bó chân là một tập tục áp dụng cho phụ nữ các gia đình quyền quý Trung Quốc, tồn tại trong khoảng thời gian dài hàng nghìn năm, trải qua nhiều triều đại phong kiến, kéo dài đến tận thế kỷ 20.
Ngoài lý do thẩm mỹ - bó chân từ khi còn nhỏ sẽ làm bàn chân không phát triển, mang hài vào nhìn rất nhỏ bé xinh xắn, việc bó chân còn được xem là một giải pháp để kiểm soát và củng cố đức hạnh của nữ giới. Người ta tin rằng những người đàn bà với đôi bàn chân bé tí xíu sẽ không thể rời khỏi nhà dễ dàng, từ đó không thể có cơ hội quan hệ luyến ái với người nào khác.
Người dịch: hieusol
Biên dịch: duahau
Nguồn: Tàng thư viện
Thiếu niên vừa nghe thấy một tiếng thở dài nhè nhẹ. Có phải là nàng? Bán Nhi rất thích than thở đùa vui. Trong khoảnh khắc ấy tim hắn như vọt khỏi lồng ngực. Bán Nhi, Bán Nhi cũng đến trước một ngày ư? Hắn nhảy dựng lên, vẻ mặt tươi cười ngẩng đầu nhìn theo hướng tiếng thở truyền tới.
Hắn trông thấy một đôi hài thêu hoa đong đưa giữa chạc cây, một tiểu cô nương độ mười bốn, mười lăm tuổi dáng vẻ tinh nhanh cổ quái ngồi trên thân cây không ngừng thở dài khiến người khác chẳng thể không buồn cười. Thiếu niên cảm giác mình bất lịch sự, liền hỏi: “Ngươi ngồi trên đấy làm gì thế?”
Tiểu cô nương chẳng nói năng gì. Thiếu niên thấy nàng ta dài mặt âu sầu, không khỏi đồng cảm, cũng cố ý thở dài nặng nề.
Quả nhiên tiểu cô nương ấy bị hắn dẫn động, liền hỏi: “Vì sao ngươi lại than thở?”
Thiếu niên cười đáp: “Ta than vì chẳng biết từ khi nào Khổng Tử lại dạy con gái cũng có thể leo cây.”
Tiểu cô nương không khỏi bật cười, vỗ vỗ vào bên cạnh: “Ngươi có thể lên đây.”
Thiếu niên cười cười, nhẹ nhàng tung mình lên ngồi cạnh nàng ta. Thân pháp hắn không tệ, vốn cố ý thi triển trêu cho tiểu cô nương cởi mở tâm tình, không tưởng rằng nàng ta chỉ thờ ơ liếc mắt, thoảng chút kinh ngạc rồi lại chống cằm nhìn hoàng hôn thở dài.
Thiếu niên liền hỏi: “Than gì thế?”
Tiểu cô nương trả lời: “Trong lòng ta đang có tâm sự.”
Nàng ta dáng vẻ như châu như ngọc, tuổi lại còn nhỏ, nhìn thế nào cũng không thấy đâu ra tâm sự. Thiếu niên không khỏi hiếu kỳ thắc mắc: “Là tâm sự gì?”
Tiểu cô nương cau mày, cất giọng lão luyện: “Chuyện hôn nhân đại sự của ta.”
Thiếu niên không nhịn được “ha ha ha” cười to mấy tiếng, thiếu chút nữa từ trên cây rơi xuống đất, một lúc sau mới nín cười hỏi lại: “Hôn nhân đại sự của ngươi?”
Tiểu cô nương than thở: “Thì đó, ngày mai ta phải kết hôn. Ta không muốn, nhưng ông nội ta ép gả ta đi. Ta tính chạy trốn mà con Thiết Chủy Nhi (con chim mỏ sắt) của ông cứ bám theo. Ta muốn làm nũng với ông, nào ngờ ông mặt không đổi sắc, còn nói rằng vì đạo nghĩa giang hồ, ngay cả núi đao biển lửa, dù ta là cháu ruột, ông vẫn bắt ta nhảy vào.”
Vẻ mặt thiếu niên vốn đang buồn cười, nghe tiểu cô nương càng nói càng có vẻ thật, tiếng cười trong cổ họng sắp bật ra lại nuốt vào. Hắn nhìn đôi mày đượm buồn của nàng ta, dần dần ý thức được đấy là một tấn bi kịch có thực – nàng ta không giống như đang đùa vui – nàng chỉ là một đứa trẻ. Lại nghe tiểu cô nương nhẹ giọng nói: “Ngươi có biết mộng tưởng lớn nhất từ nhỏ của ta là gì không? Mặc dù ta chỉ là một bé gái rất rất nhỏ, nhưng vì ba mẹ ta sớm đã mất, cho nên có một số việc ta hiểu biết sớm hơn những đứa trẻ khác. Điều mà ta mong muốn nhất chính là: ái tình.”
Trên gương mặt tiểu cô nương lộ ra vẻ mong mỏi tột cùng chỉ có ở lứa tuổi dậy thì: "… như một nữ nhân đã có được tình yêu đẹp nhất. Người phụ nữ ta yêu kính nhất đời là mẹ ta, nhưng người mà ta ngưỡng mộ nhất lại là Lô Bán Nhi. Chị ấy rất tốt, gia thế cũng ổn, dù xuất thân có chút tà ma ngoại đạo nhưng bù lại được tự do hơn. Ta nghe kể rằng khi chị ấy vừa được mười sáu tuổi, trưởng bối đã xây cho chị một tòa Tước Bình sơn trang (sơn trang kén rể). Nghe nói sơn trang có một bức tước bình** trắng trong như ngọc, thiếu niên anh tuấn trong thiên hạ chỉ cần vượt qua Ma giáo tam quan đều có thể dùng ngón tay trích huyết đề danh lên tấm bình phong. Sáu bảy năm ròng, “Tam quan kén chồng” của Ma giáo không dễ vượt qua, vậy mà cũng có hơn hai mươi cái tên trên bình phong để chị ấy tuyển chọn. Đấy chính là ái tình rạng rỡ. Vì sao, vì sao chị ấy được thế, mà ta chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi đã bị ép thành thân với một người chưa từng thấy mặt, đến cả tên người đó ta cũng mới biết chưa đến một ngày?"
Đang nói, tiểu cô nương bỗng khóc nức nở, nhãn lệ từng giọt tuôn rơi, chẳng chút ngại ngùng gục vào bờ vai thiếu niên, nước mắt nước mũi sụt sùi làm ướt cả một mảng lớn y phục hắn. Thiếu niên vốn vụng miệng, chẳng biết an ủi thế nào. Tiểu cô nương kia mắt thật lắm nước, đủ để khóc cả nửa canh giờ, sợ là người bình thường cả đời nước mắt cũng không nhiều như vậy, lát sau mới dần dà yên tĩnh trở lại.
Cả người thiếu niên vốn xoay lại cho tiểu cô nương thoải mái dựa vào khóc lóc, mặc dù từ nhỏ đã luyện đứng tấn, lúc này vẫn có chút cứng đờ ê ẩm. Nghĩ rằng tiểu cô nương kia khóc mệt quá đã ngủ quên, tay hắn đang nhẹ nhàng vỗ về bờ vai nàng ta liền ngừng lại, muốn giúp nàng kiếm một chạc cây to mà ngủ. Trong khi hắn đang tìm chỗ tốt, chợt ngoảnh đầu lại, chỉ thấy tiểu cô nương giương đôi mắt trong sáng nhìn mình chẳng hề tỏ ra mệt mỏi chút nào. Có lẽ nỗi buồn tủi đã theo nước mắt trôi đi, nàng ta ngược lại còn lộ nét vui vẻ, cất tiếng hỏi: “Ngươi tìm gì thế?”
Thiếu niên cười khổ: “Ta đang kiếm chỗ nghỉ cho ngươi.”
Tiểu cô nương cười hi hi như đang nghĩ đến điều gì đấy, nói: “Không cần tìm, ta không ngủ đâu. Nếu ngươi thật sự hảo tâm, có thể giúp ta một việc được không?”
Vừa nói, nàng ta vừa đưa đôi mắt to đăm đắm nhìn thiếu niên, sự ngây thơ ấy, nét mỹ lệ ấy, vẻ vô tội ấy khiến chẳng ai nỡ nhẫn tâm chối từ.
Thiếu niên đoán chắc là tiểu cô nương định nhờ mình khuyên can ông nội của nàng, liền gật đầu đáp: “Được rồi, là việc gì?”
Tiểu cô nương kiên trì: “Ngươi nói trước đi, giúp hay không?”
Thiếu niên gật gật đầu, tiểu cô nương đưa một ngón tay ra, thiếu niên biết nàng ta muốn mình hứa chắc, đành phải cùng nàng ngoéo tay. Tiểu cô nương quá đỗi cao hứng, hai chân vòng qua cành cây ngả thân xuống dưới ngửa mặt lên, cả người đung đưa lui tới, đoạn ngồi trở lại hi hi cười nói: “Tốt lắm, không thể nuốt lời rồi – chúng ta trốn đi thôi!”
Thanh âm nàng ta rất lớn làm một con chim bị kinh động kêu “quác quác” bay lên, còn thiếu niên thì giật mình suýt từ trên cây rơi xuống. Chỉ nghe tiểu cô nương hào khí ngất trời bàn tiếp: “Ta nghĩ đây là cách duy nhất để ngăn cản kế hoạch của ông nội ta. Ông luôn lấy chữ nghĩa làm đầu, xem trọng nhất quy củ giang hồ, nên chỉ vin vào đạo lý “Gái ngoan không gả hai chồng” mới khiến ông nội thôi ép buộc ta kết hôn. Dù sao nhìn ngươi không tệ, tính tình lại tốt, khinh công xem ra cũng được, hay là…” Chẳng ngờ cô bé mặt ửng hồng, “Cho nên nếu ngươi đem ta chạy trốn, ông nội ta dù có bắt được cũng không thể không nhận ngươi làm cháu rể.”
Lần này thiếu niên đích thực đã rơi từ trên cây xuống đất.
***
Buổi sớm ngày mười ba tháng sáu, từ lúc sương mù còn bảng lảng cả Ô trấn đã thức giấc, sinh khí rộn ràng. Khởi đầu có đứa trẻ ham chơi nào đấy nổi hứng đốt lên một tràng pháo, tiếp đến mọi người phát hiện nhà bếp Bách Duyệt lâu bắt đầu bận rộn hoạt động. Trung tâm náo nhiệt tuy là ở trang viện nhà họ Tưởng, nhưng nơi này lại yên ắng chẳng giống những chỗ kia, dù không ít người đã tụ tập nhìn ngó từ sớm, phân vân bàn tán râm ran sao ở đây chẳng có vẻ gì hoan hỉ cả. Có thể vì mấy tên gia nhân ăn mặc gọn gàng đứng trước lối vào cửa lớn – khuôn mặt những người này mặc dù cũng đeo một nụ cười, nhưng nét cười ấy nhìn vào tựa do luyện tập mà thành, chẳng thể so với niềm vui sướng và sự hiếu kỳ từ trong lòng thường dân Ô trấn biểu lộ ra.
Như đã tò mò nghe ngóng từ trước, hôm nay hỉ sự rốt cuộc đã tới, lại còn phô trương hoành tráng đến vậy, ngay cả năm ngoái con gái tri phủ thành Tầm Dương gả chồng cũng không náo nhiệt được thế. Người hỏi han thì nhiều, người biết chuyện thì ít, một lúc lâu, từ trong đám đông mới có một lão già mặc áo xanh đội nón tre dáng vẻ khô héo còm cõi lên tiếng: “Tri phủ sao có thể so cùng, nhà trai là Toàn đại gia mà!”
Mọi người dò hỏi mãi vẫn khó biết sự tình, gặp cơ hội dại gì không tận dụng điều tra cho rõ ngọn nguồn chứ. Lão già nọ dù cứ nhất quyết chẳng nói thêm, cuối cùng cũng không chịu nổi sự níu kéo, liền mở miệng hỏi: “Các ngươi có biết Lạc Dương thành không?”
Kẻ được hỏi cười đáp: “Ai chả biết, là cố đô Trung Châu chứ gì!”
Lão già không giấu nổi vẻ khinh bỉ nói: “Thế có biết ‘Thiên hạ đệ nhất bang’ ở Lạc Dương không?”
Người kia không khỏi sửng sốt lắc đầu: “Thiên hạ đệ nhất bang không phải là Cái bang sao?”
Lão già nhìn mọi người đang ngờ vực, cười lạnh nói: “Chữ ‘bang’ này không phải là trong ‘bang phái’, mà là trong ‘bang mang’ – giúp đỡ. Theo vị ấy nói thì đấy là hội trợ giúp đầu tiên trong thiên hạ.” Thanh âm lão trở nên ấm ớ: “Chỉ là người được vị ấy giúp đỡ dù ngoài mặt gượng cười, nhưng trong lòng muốn khóc chẳng xong. Các ngươi có biết Kim Lăng vương trước kia không? Vốn có thế lực cực lớn cả trong quan trường lẫn thương trường, chẳng biết thế nào đi đắc tội với ‘Thiên hạ đệ nhất trợ giúp’, quả thực đã nhận được sự giúp đỡ. Năm đó Kim Lăng vương tuổi đã năm mươi tư, chỉ có một mụn con gái vừa được mười chín, quan hệ với biểu huynh (anh con cô cậu) mà có thai. Kim Lăng vương vì giữ thể diện liền giấu mọi người, lại thương xót con gái, chỉ còn cách nhượng bộ lo liệu hôn lễ cho con, chờ đứa bé sinh ra. Quả nhiên thành hôn được ba tháng thì đứa nhỏ chào đời, ba ngày sau ‘Thiên hạ đệ nhất trợ giúp’ liền ra tay tận tình giúp đỡ ông ta, phát ra trên trăm Anh Hùng thiếp khắp nơi mời đầy đủ từ giới quan trường, thương trường đến cao thủ võ lâm hắc bạch, nói rằng tổ chức tiệc rượu mừng Kim Lăng vương có cháu ngoại. Người ngoài không hiểu sự tình bí ẩn bên trong nên đều kéo đến. ‘Thiên hạ đệ nhất trợ giúp’ làm việc rất chu đáo cẩn mật, nên vào sáng hôm ấy, trước Kim Lăng vương phủ khách mang lễ vật chật cửa, thảy đều chúc mừng Kim Lăng vương có cháu ngoại. Kim Lăng vương quá sức xấu hổ, con gái ông ta ở phòng trong treo cổ tự vẫn, dù lúc bấy giờ Kim Lăng vương ứng phó ổn thỏa, nhưng sau đó quá uất ức và nhục nhã đến trúng phong đột quỵ.”
Người bên cạnh nghe xong há mồm rụt lưỡi: “Có kiểu giúp đỡ như vậy ư?”
Lão già nói: “Sao lại không, ai mà chẳng gọi vị ấy là Đại Mã Kim Đao Toàn Bảng Đức? Hắc hắc, vẹn toàn bàng đắc - giúp đỡ tận tình! (Chơi chữ đồng âm Toàn Bảng Đức - toàn bàng đắc). Lại nói đến một sự kiện giang hồ, năm ấy vợ chồng Bạch Mã đại hiệp người gốc Giang Tây thanh danh toàn thịnh, các ngươi dù không ở trong giang hồ nhưng hẳn cũng có nghe đến?”
Vài người xung quanh gật đầu. Lão già kia tiếp tục: “Bọn họ phu phụ tương đắc, chỉ là lấy nhau mấy năm vẫn chưa được mụn con. Đại Mã Kim Đao Toàn lão gia có lòng giúp đỡ họ, truyền đi Võ Lâm thiếp nói rằng Bạch Mã đại hiệp vì luyện Bạch Mã thần công ngộ thương chính mình nên không thể sinh con, nhờ anh hùng tuấn kiệt trong thiên hạ giúp đỡ. Bạch Mã đại hiệp đó sao có thể chịu được nhục, liền tìm tới Lạc Dương nói lý lẽ. Vị Toàn lão gia kia cãi lại rằng Bạch Mã đại hiệp lấy oán báo đức. Trận chiến chưa xong, Bạch Mã đại hiệp đã căm phẫn bỏ đi, phu nhân ông ta đến trước cửa nhà Đại Mã Kim Đao hủy dung nhan lập thệ. Sau đó hai vợ chồng ấy ẩn cư nơi nào chẳng biết, việc này một thời từng gây chấn động võ lâm.”
Mọi người xung quanh nghe vậy đều tắc lưỡi không thôi, nhìn lại lối vào treo đèn lồng đỏ tưng bừng, tâm lý bất chợt dấy lên một cảm giác khủng bố: Toàn lão gia là ai, hôn lễ hôm nay dành cho người nào đây?
Hết chương 1.
Chú giải:
** Tước bình: bình phong xạ tước – bình phong bắn sẻ, chỉ việc kén vợ, kén chồng.
Gần trưa, khách đến mừng dần đông lên, từng đợt từng đợt bắt đầu ngồi kín các bàn trong sảnh. Toàn lão gia kia là một vị tuổi ngoài bốn mươi, tư thế khoan thai, khuôn mặt mập mạp có phúc tướng, lúc đôi mắt ti hí ấy không lóe lên thì người bình thường chẳng nhìn ra chút hung ý nào cả. Phải nói khách mời của lão đều là anh tài hai mặt nam bắc Đại Giang. Đầu tiên phải kể đến người trên giang hồ, có Khoát Lạc đại sư trụ trì Đạt Ma đường Thiếu Lâm tự, Khâu chân nhân phái Nga Mi, Cảnh Ngọc Quang đệ tử phái Hoa Sơn, cùng với Chu lão ngũ bá chủ một cõi Tầm Dương, không phải đều là các nhân vật có máu mặt a? Một lúc sau, Hồng, Bạch hai vị trưởng lão Cái bang và Ngô Hạ tuần sát sứ của Thần Long môn cũng tới. Vị Toàn lão gia này quả thật thủ đoạn không vừa, lão ngồi ghế thủ tọa lập tức danh nhân tề tựu, ngay cả Bố chánh ti, Án tra ti của Giang Tây cũng cử người tham dự, ấy là chưa kể về phía thương nhân nữa. Mỗi khi có khách đến, một lão già đứng ở cổng sẽ hô to tên họ và danh hiệu của vị đó, do móm mém rụng răng nên mỗi lần hô lão đều phát ra tiếng “xì”, nãy giờ không biết lão đã “xì” mấy chục lần rồi.
Bên trong đại sảnh đều là những người quyền quý cao sang. Không chỉ có họ, ở sân trước, những hán tử bình thường trên giang hồ dùng đao kiếm ăn, bán nghệ bảo tiêu cũng đến chẳng ít. Việc tiếp đón nhóm khách này có phần kém hơn, cũng may bọn họ không đến để ăn tiệc mà chủ yếu để xem nhiệt náo - hiếm khi được uống rượu cùng những đại nhân vật trên giang hồ vốn lúc bình thường chỉ nghe tên khó gặp, đúng là cơ hội hiếm hoi để mở rộng tầm mắt, cho nên những ai có thể tham dự được đều đến. Người ở đại sảnh thì thong dong vái chào nhau, kẻ ngoài sân lại ồn ào, đem chuyện của mỗi nhân vật trong kia ra xôn xao bàn tán.
Trong đám khách mừng có một thiếu niên và một tiểu cô nương đã ghé nhà họ Tưởng từ hôm qua. Thiến niên đó chính là Trương Hiểu Kí, hắn đến là do đã ước hẹn gặp Bán Nhi hôm nay tại trang viện nhà họ Tưởng. Tuy chẳng biết thế nào mà nơi đây đã bị người ta thuê tổ chức lễ cưới, nhưng hắn không thể bội ước, trong lòng lo lắng nhiều người thế này làm sao Bán Nhi tìm được mình.
Tiểu cô nương kia vốn không muốn đi, nhưng biết Trương Hiểu Kí chắc chắn sẽ đến nên nàng đành phải theo. Trương Hiểu Kí cũng không rõ câu chuyện hôm qua của tiểu nha đầu tinh linh cổ quái này là thật hay giả, nhưng thấy nàng khả ái như vậy, trong lòng hắn đã có chủ ý sẽ đến gặp ông nội nàng, nếu nàng nói dối thì đành cười trừ bỏ qua, còn nếu lời nàng là thật, hắn sẽ giúp nàng thuyết phục ông. Trương Hiểu Kí thầm nghĩ: xem tuổi của tiểu cô nương không lớn mà khinh công thân pháp đã có thành tựu, chắc là xuất thân từ võ lâm thế gia, mấy lời phải nói giúp nàng chỉ e cũng không phải dễ dàng gì.
Dạng tạp khách như hắn và nàng vốn không gây sự chú ý cho người khác, hắn cũng mua qua loa một món quà mừng rồi bước vào cổng, được xếp vào một chiếc bàn ít gây chú ý nhất trong sân. Ở đây có hơn trăm khách đang ngồi, không ít người thầm thì bàn tán rằng vị Đại Mã Kim Đao Toàn lão gia này ra tay quả nhiên rộng rãi, hơn nữa mỗi lần vung tay đều là chuyện động trời khiến người ta tò mò. Hán tử giang hồ tuy thô lỗ, nhưng tâm tình khi nghe tin cũng không khác người bình thường, luôn cả những nhân vật danh môn chính phái, cao nhân đắc đạo, miệng dù chê bai mà trong lòng mỗi khi nghe chuyện do Đại Mã Kim Đao làm, không khỏi đều ngấm ngầm tán thưởng "ta cũng nghĩ thế"*, cho nên nếu Toàn lão gia đãi khách thì mọi người đều thích đến. Trương Hiểu Kí vốn chẳng rõ đầu đuôi gì, cười nói với tiểu cô nương kia: “Ở đây rốt cuộc là người nào mở tiệc? Thật quá phô trương! Đúng rồi, tiểu muội muội tên gì nhỉ? Đến giờ ta còn quên chưa hỏi.”
Tiểu cô nương đó nghe thấy câu đầu tiên thì cong cong môi chế giễu, nhưng khi nghe hắn hỏi tên mình lại vui vẻ trả lời: “Ta là Cổ Song Hoàn, nhớ kĩ đấy nhé! Thêm tám tháng một ngày nữa là tròn mười sáu tuổi.” Rồi nàng cười hi hi hỏi lại hắn: “Thì ra ngươi không biết ai đang đãi khách. Vậy ngươi tới đây làm gì? Ngươi có biết trên giang hồ lưu truyền một câu chuyện cười: Nếu Chưởng môn phái Võ Đang Ứ Mộc chân nhân công khai truyền dạy Võ Đang tuyệt học Chân Vũ kiếm, ngươi đoán xem sẽ có bao nhiêu người học?”
Trương Hiểu Kí sững sờ, đó có thể xem là tuyệt học nức tiếng đã lâu; lại nghe tiểu cô nương cười nói: “Tối đa không quá mười bảy người, trong đó một nửa là những tên ngốc, những kẻ chịu phí cả nửa kiếp sống để luyện thứ kiếm pháp ngớ ngẩn đó trên đời khẳng định không nhiều đâu. Câu hỏi thứ hai: Nếu Thiếu Lâm trưởng lão Dịch Thanh truyền thụ Dịch Cân kinh thì mấy người sẽ đến?”
Nàng tự hỏi tự đáp luôn: “Tám người, một nửa là những tên thái giám, chỉ có bọn chúng mới rảnh rỗi đi luyện thôi. Nghe nói sau khi luyện qua Dịch Cân kinh của Thiếu Lâm thì trăm thứ ham muốn đều không còn, vậy thì ai mà muốn luyện chứ? Câu hỏi thứ ba như sau: Nếu Toàn Bang Đức phát Anh Hùng thiếp thì sẽ lôi kéo được bao nhiêu người đến xem lão diễn trò?”
“Đáp án là… một nửa võ lâm. Chỉ cần người có chân thì khi nghe được tin sẽ đến, người không có chân cũng sẽ dỏng tai lên mà nghe, đó chính là giang hồ hiện nay.”
Nàng nói xong không nhịn được bật cười. Quả thật, giang hồ hiện tại từ khi Ngũ phái Tam minh chia quyền mà trị cũng trở nên thái bình hơn, tuy vẫn còn cảnh máu chảy đầu rơi nhưng chẳng qua chỉ trong qui mô nhỏ, không làm lung lay nổi gốc rễ chế độ của Ngũ phái Tam minh. Cõi giang hồ thật sự chưa có thời nào thái bình như thế. Dân gian có câu “Ninh vì thái bình khuyển, vật tố loạn li nhân” (Thà làm chó thời bình còn hơn làm người thời loạn), có thể thấy thời thái bình đa phần người ta sống như con vật, chỉ lúc loạn li mới thấy nhiều người**. Trong chốn giang hồ trăm loài cẩu tạp tung hoành này, nhờ vào tài quấy rối của Toàn Bang Đức mới có thể khôi phục chút sinh khí, lão sủa trước, rồi bọn người kia mù quáng sủa theo.
Thiếu niên Trương Hiểu Kí chỉ lơ đãng cười cười, lòng thầm nghĩ: thời thế này không có cái gọi là sự say mê võ thuật thật sự, ngay cả tại sư môn hắn cũng vậy thôi, võ nghiệp bất quá chỉ là viên gạch lót đường cho danh lợi. Trong số các sư huynh sư đệ của hắn, chân chính dốc hết lòng cho võ thuật có mấy người? Một số ít người dụng tâm bất quá cũng chỉ là tính dựa vào đó để xuất thế. Như ở Ngũ phái - gồm Chung Nam, Hoa Sơn, Nga Mi, Thiếu Lâm, Võ Đang, cùng Cái bang và những nhân sĩ tự do trên giang hồ hợp thành tam minh là Đồng Tâm minh, Nghĩa Lợi minh và Thái Bình minh, thảy đều tranh giành chức này tước nọ mà thôi, một khi đã chính thức ngồi được vào vị trí đó rồi, còn có mấy người tiếp tục theo đuổi luyện tập công phu?
Vừa lúc ấy, Trương Hiểu Kí nghe thấy một người ăn mặc theo lối lục lâm ngồi ở bàn bên cạnh hỏi: “Toàn lão gia lần này không biết định bày trò phá ai đây?"
Kẻ ngồi bên cạnh y trả lời: “Lão lần này hình như không phải kiếm chuyện phá thiên hạ đâu, nghe nói là đang lo đám cưới cho sư điệt.”
Tên vừa hỏi cười: “Biết thế nào được, vị Toàn lão gia tử này cũng có thể chẳng quản gì đến thân sơ. Những năm gần đây, bọn ngụy quân tử không phải là hiếm, trong khi ấy hầu hết những người có chức vị đều thuộc dạng tuổi cao đức lớn không muốn đa sự, may còn có Toàn lão gia tử vạch mặt bọn đó cũng sướng.” Trong lời nói ẩn chứa vẻ vui thích trước tai họa của người khác.
Tên còn lại hờ hững đáp: “Lão ta bất quá cũng vì ngày trước tranh giành hơn thua ở Chung Nam phái không được, cuối cùng mới phải bỏ ra ngoài to mồm thôi. Coi lại xem lão có dám vạch mặt những đại nhân vật chân chính không?”
Nghe thấy hai chữ “Chung Nam”, vẻ mặt Trương Hiểu Kí có chút biến đổi. Chỉ nghe Cổ Song Hoàn hỏi bên tai hắn: “Nói cả nửa ngày rồi mà ta vẫn chưa biết tên ngươi. Đại ca ca, huynh tên là gì?”
Trương Hiểu Kí cười nhẹ, thầm nghĩ: tên họ ta cũng không biết mà ngày hôm qua còn đòi trốn đi với ta! Nhưng hắn không phải là người vô ý vô tứ, chỉ mỉm cười đáp: “Đến giờ mới nghĩ đến chuyện hỏi sao? Ta tên là Trương Hiểu Kí, Hiểu Kí là con ngựa buổi sớm (Hiểu là buổi sáng sớm, Kí là con ngựa)”.
Tiểu cô nương cười hi hi: “Được rồi”, đang định nói tiếp hai từ “tên họ…”, nàng bỗng như phát hiện ra có cái gì đó không đúng, lầm bầm đọc đi đọc lại ba chữ “Trương Hiểu Kí”, liền đó lắp bắp như nhìn thấy ma: “Ngươi… thật… sự… tên… là… Trương… Hiểu… Kí… sao?”
Thiếu niên cười xác nhận: “Đúng vậy.”
Tiểu cô nương đưa tay vỗ đầu một cái kêu: “Trời!”
Chú giải:
* "Vu ngã tâm hữu thích thích yên" - đây là một câu nói của Phu Tử trích trong cuốn Mạnh Tử - Lương Huệ Vương thượng.
** Cả đoạn này đại ý là vào lúc thái bình con người chỉ như loài động vật, ăn rồi ngủ, ngủ rồi ăn, nhưng vào lúc chiến tranh con người có muốn thế cũng không được, phải gồng mình mà sống, mới ra dáng con người hơn.
Trương Hiểu Kí còn đang muốn hỏi, đã thấy tiểu cô nương lầm bầm trong miệng: “Nguyên lai ngươi không già, thì ra là như thế...” Thanh âm nàng rất nhỏ, Trương Hiểu Kí không nghe được gì, chỉ thấy nàng ta hai má ửng hồng, dùng ánh mắt chẳng biết phải tả thế nào liếc hắn một cái, má càng hồng hơn. Tiểu cô nương mạnh dạn tinh nghịch như nàng chẳng hiểu sao lại có dáng vẻ xấu hổ quá đỗi như thế, rồi bỗng nhiên nhảy đựng lên trách cứ: “Sao ngươi không nói sớm? Ngươi thật là đồ... bại hoại.”
Trương Hiểu Kí còn đang líu lưỡi há mồm thì tiểu cô nương đã lộn một vòng trên không. Bọn hắn đang ngồi gần sát bờ tường, chiêu lộn nhào này của nàng gọi là Diêu Nhi dược (kiểu nhảy diều hâu), một vòng đã vượt tường ra ngoài viện. Trương Hiểu Kí đành phải đứng dậy, miệng kêu nho nhỏ: “Song Hoàn, Song Hoàn...”, chẳng hiểu tiểu nha đầu nghịch ngợm này biến đi đằng nào rồi. Không thấy nàng đáp lời, hắn không yên tâm, còn đang muốn đuổi theo thì ngoài cổng bỗng có người hô to: “Trần Du Tử, chưởng môn phái Chung Nam!”
Trương Hiểu Kí sững sờ, lầm bầm trong miệng: “Sư phụ!”
Trong võ lâm hiện nay, Chung Nam phái có thể xem là một phái lớn tề danh cùng Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi và Hoa Sơn. Năm phái này được xưng tụng là thiên hạ ngũ phái, liên kết lại thành Đại Đồng minh, nền tảng của Tam minh đang cai quản võ lâm. Việc chưởng môn một phái đến dự thế này đương nhiên không phải là chuyện tầm thường. Chỉ nghe trên đại sảnh có tiếng niệm Phật hiệu “A di đà phật”, rồi một giọng nói hùng hậu vang lên: “Toàn thí chủ, thì ra quý sư huynh cũng đến rồi.”
Người vừa cất tiếng chính là Khoát Lạc đại sư của Thiếu Lâm tự. Chỉ nghe Toàn Bang Đức cười đáp: “Huynh ấy là người chủ trì buổi lễ mà, không đến sao được?! Hôm nay tại hạ chỉ phụ giúp huynh ấy thôi.”
Đang nói, lão cười to ha hả, đon đả đi ra cửa chào đón: “Sư huynh, ta phải mười lăm năm rồi chưa gặp lại lão ca!” Vị chưởng môn phái Chung Nam ở ngoài cửa cũng bước vào, mọi người đều muốn xem chưởng môn một phái xưng hùng một phương trong võ lâm hiện nay rốt cuộc là như thế nào nên bất giác đều đứng cả dậy... Chỉ thấy vị Trần Du Tử, chưởng môn phái Chung Nam đó trông không cao lớn như sư đệ của mình, ông ta rất nhỏ người, mang một chiếc đạo bào màu xám sạch sẽ gọn gàng, toát ra khí khái xuất trần. Vị Toàn lão gia chạy ra nghênh đón, hai sư huynh đệ nắm chặt tay nhau, Toàn Bang Đức cười nói: “Sư huynh, huynh càng ngày càng gầy đi, có chút khí chất của tiên nhân rồi.”
Trần Du Tử cười cười không nói gì. Hai người trong mắt đều ánh lên nét cười, nhưng Trương Hiểu Kí từ đằng xa nhìn lại không hiểu sao lại có cảm giác lạnh sống lưng. Có người ngồi cạnh lấy làm lạ hỏi: “Kì quái! Sư huynh đệ bọn họ không phải là bất hòa sao? Xem ra tin đồn có điểm sai biệt.”
Một kẻ gần bên có dáng vẻ ta đây hiểu sự đời cười lạnh tiếp lời: “Sai ư? Tôn giá cứ từ từ chờ xem.”
Trần Du Tử dù sao cũng là chưởng môn một phái, ngoài bốn đệ tử đi theo bên mình còn có năm sáu người tùy tùng. Trương Hiểu Kí nhìn thấy thầm nhủ: “Nhị sư huynh, lục sư huynh, Ngô sư huynh và Thanh Đạm tử sư điệt đều đến. Lạ thật, có bao giờ nghe sư phụ nhắc đến chuyện có một vị sư thúc đâu.”
Trần Du Tử lúc này đã được Toàn Bang Đức mời vào đại sảnh, sau khi chào hỏi xã giao mọi người xong liền nói với Toàn lão gia: “Toàn sư đệ, có việc gì cần mà phải lấy tín vật Âm Lĩnh thiếp của sư phụ truyền lại để mời huynh đến vậy? Chẳng lẽ sư đệ gặp chuyện khó khăn sao?”
Toàn Bang Đức cười tươi như hoa: “Tiểu đệ thì có thể có chuyện gì phiền phức đây, ăn rồi ngủ, ngủ dậy lại ăn, tâm tình thoải mái, người mập mạp, không giống sư huynh ngày ngày phải lao lực vì Chung Nam phái, sự vụ chẳng dứt. Tiểu đệ làm như vậy bất quá là tận tâm lo việc thay cho sư huynh mà thôi.”
Trần Du Tử dường như có ý đề phòng với vị sư đệ này, cười khan: “Hử, tận tâm cái gì? Toàn sư đệ lại làm tiểu huynh hồ đồ rồi.”
Toàn Bang Đức khuôn mặt giãn ra, mắt miệng đều cười ha hả: “Sư huynh, tiểu đệ bất đắc dĩ phải nói là huynh không đúng rồi. Huynh thật sự hồ đồ hay giả bộ hồ đồ đây? Chuyện lớn như vậy huynh còn muốn giấu diếm mọi người đến bao giờ nữa. Huynh nói đi… Chung Nam phái chúng ta, trong lớp anh tài sau này, ai là người có công phu cao cường nhất?”
Trần Du Tử ngạc nhiên, lòng thầm đề phòng, hờ hững đáp: “Bên mình sư huynh không có ai xuất sắc cả, ngược lại Toàn sư đệ có phương pháp dạy dỗ thích hợp, muốn là có thể đào tạo nên một thiếu niên cao thủ. Ở đây treo đèn kết hoa thế này, có phải là muốn tổ chức hôn lễ cho vị cao đồ đó chăng? Nếu đúng như vậy, ta phận làm sư bá, ra mặt là phải rồi. Toàn sư đệ cũng không báo trước một tiếng, tiểu huynh lần này không đem theo cái gì có thể làm lễ vật được cả.”
Chỉ nghe Toàn Bang Đức cười đáp lời: “Sư huynh thật khéo đùa. Đệ tử nhà ta còn chưa đạt đến mức của Chung Nam lục thúy đang ngồi cạnh sư huynh, đó là chưa kể đến Trương hiền điệt công phu kinh nhân một kiếm hạ đệ tử hai đời của hai, ba phái trong ngũ phái ở Long Hoa hội ba năm về trước, nhân tài như thế Toàn Bang Đức ta có thể đào tạo được sao. Huống chi vị sư điệt ấy còn được công chúa Ma giáo đem lòng yêu thương, tự nguyện phó thác tấm thân. Dạy được một đệ tử như vậy, làm thân sư đệ như ta cũng phải cúi đầu bái phục, bái phục!”
Trần Du Tử lặng người. Ở ngoài sân phản ứng của mọi người còn chậm chạp chưa hiểu rõ, nhưng trong sảnh đa phần đều là cao thủ nhân tài các phái nên lúc này đã nghe ra thâm ý. Toàn Bang Đức cười nói tiếp: “Sư huynh, huynh cũng quá hẹp hòi rồi, đệ tử số một của mình thành thân mà chẳng tổ chức gì cả, huynh còn kêu hắn trốn đến tiểu trấn Thanh Ti này giấu giấu diếm diếm cưới vợ. Tính toán vậy là sao? Chỉ e người xung quanh không nói huynh tằn tiện, mà ngược lại hiểu lầm cả phái Chung Nam chẳng lo được hôn lễ cho đệ tử thì thật là nhục nhã chẳng dám nhìn ai, huống chi đây là chuyện lớn - lấy giang hồ đệ nhất danh nữ Lô Bán Nhi làm vợ. Thân sư đệ như ta nhìn không thuận mắt, nên cực chẳng đã đành phải thay sư huynh lo lắng chuyện này một phen.”
Nói đoạn, lão quay xuống quát lớn: “Còn đợi gì nữa? Không mau thay y phục chú rể cho Trương hiền điệt đi! Hôn lễ này sư huynh ta và Trương sư điệt hai thầy trò muốn làm đơn giản, nhưng ta thân sư thúc không thể để người khác nói ra nói vào được.”
Chỉ nghe dưới sảnh “Dạ” một tiếng đáp lại. Mười một mười hai người, một nửa bưng khay, trên đó có mũ và áo, không nói năng gì, vội vàng chạy đến trước mặt Trương Hiểu Kí. Một tên thân thể cường tráng trong bọn hô to: “Mời Trương thiếu gia thay áo.”
Mấy tên kia đáp lại một tiếng, bước lên phía trước. Người ngoài nhìn vào thấy những kẻ này bộ pháp tinh thuần, mỗi tên đều là hảo thủ, mà bọn chúng mỗi bước đều dụng lực, ở sát tường phía sau Trương Hiểu Kí cũng có người chặn, rõ ràng là muốn cắt đường lui của hắn. Trương Hiểu Kí chầm chậm ngồi dậy, hắn vừa đứng thẳng lên, tuy thân nhẹ mình gầy, không thể so với bọn phục vụ mặc lễ phục vốn người đông thế mạnh, vai u thịt bắp, nhưng chỉ với thế đứng đó, ngạo nghễ lẫm liệt vững chãi, đường đường chính chính nổi bật, những người hiểu chuyện đều giật mình thầm nhủ: Thiếu niên này là ai? Rõ ràng đã luyện Chung Nam tâm pháp Âm Lĩnh Tú đến mức tột cùng!
Trần Du Tử trong sảnh thấy Trương Hiểu Kí đứng đó, vẻ mặt không khỏi sửng sốt, hỏi: “Hiểu Kí, là ngươi à?”
Trương Hiểu Kí thi lễ từ xa: “Sư phụ!”
Toàn Bang Đức nhận thấy thiếu niên này chỉ e không thuận theo ý tốt của lão, dù sao lão cũng không thật sự muốn thay áo cho hắn, liền xua tay ra lệnh: “Phi hồng!” (Đeo dải lụa hồng!)
Một đệ tử dưới trướng đem một dải lụa hồng đã kết thành đóa đại hoa khoác lên người Trương Hiểu Kí, mọi người nín thở đổ dồn mắt về phía hắn. Trương Hiểu Kí hít vào một hơi, đã vô số lần hắn tưởng tượng đến hôn lễ của mình và Bán Nhi, nhưng chưa từng nghĩ sẽ bị đeo dải lụa hồng một cách ác ý như thế. Không hề che giấu, mắt hắn ánh lên tia nhìn lạnh lẽo, cho dù cả thiên hạ coi việc hắn lấy Bán Nhi là chuyện hoang đường hay trò diễn hài kịch, lòng hắn vẫn giữ nguyên cảm giác ngọt ngào như kẹo mạch.
Lễ cưới này hắn vốn muốn lánh xa người đời, nhưng không tưởng là trốn đến tiểu trấn này rồi mà vẫn chẳng thể tránh được. Bọn họ đã muốn xem đến thế thì hắn cho họ xem cũng được, nhưng đừng nghĩ sẽ xem được cái chúng muốn. Dải lụa hồng vẫn nặng trĩu trên người, Trương Hiểu Kí đi vào sảnh, hành đại lễ với sư phụ, lại thi lễ với Toàn Bang Đức, nói: “Cám ơn sư thúc đã quan tâm.”
Trong sảnh ngoài sân nhất thời không ai lên tiếng, nhưng một tin ấy khiến lòng mọi người đều chấn động. Anh tài Chung Nam phái muốn đón yêu nữ Ma giáo về làm vợ ư? Sao lại như thế được? Quá hoang đường, quá cổ quái, quá không hợp với quy củ lễ giáo, thậm chí có người còn phẫn nộ cho rằng: Thật quá vô sỉ!
Toàn Bảng Đức tổ chức hôn lễ này vốn là có tính toán. Năm xưa lão tranh đoạt ngôi vị chưởng môn phái Chung Nam với Trần Du Tử không thành, hôm nay liền lấy chuyện đệ tử Chung Nam kết hôn với yêu nữ Ma giáo để gây tiếng xấu cho sư huynh nhằm phát tiết nỗi uất giận, nhân thể vùi dập thanh danh Chung Nam phái xuống đất bùn, không thể ngẩng đầu lên nổi.
Trăm năm trước, giữa Ma giáo và thiên hạ ngũ phái ân oán dây dưa triền miên, cừu hận chém giết mãi không thôi. Những năm gần đây giang hồ có vẻ yên bình, kỳ thực do Ma giáo cùng Ngũ phái Tam minh đã âm thầm lập ra một khế ước, tóm gọn trong mấy chữ sau: “Nước sông không phạm nước giếng”. Bọn họ trải qua nhiều năm tranh đấu, mỗi bên thiết lập phạm vi thế lực riêng của mình, hai phe đều nhận ra sự thực không cần phải chém chém giết giết mãi làm gì. Tuy nhiên đối với cả hai bên, lén lút thông đồng với đối phương là hành động phản bội tối nghiêm trọng. Nhiều năm nay, đệ tử các phái đều nghiêm cẩn tuân theo quy định này, chẳng ai dám bước qua giới hạn. Nào ngờ hôm nay Chung Nam - môn phái có thực lực yếu nhất trong ngũ phái lại có đệ tử dám vượt rào, hơn nữa lại kết hôn cùng Lô Bán Nhi - trưởng công chúa Ma giáo đương thời, việc này đúng là chuyện động trời!
Có kẻ nghe xong chợt la lên: “Không thể nào! Bốn năm trước, bảy vị trưởng lão của Ma giáo dựng nên tòa Tước Bình sơn trang cho Lô Bán Nhi, có hơn hai mươi thiếu hiệp giang hồ đã vượt qua ba cửa ải “Tam quan kén chồng” để được lưu danh trên phiến tước bình. Chiếu theo quy củ, nếu nàng ta thực sự tuyển chồng thì phải chọn một trong số những người có tên trên tấm bình phong ấy chứ?!
Nghe vậy, Toàn Bảng Đức liền cười đáp: “Nói thì như thế, nhưng Lô Bán Nhi là kẻ si tình, không kể gì quy củ Ma giáo, âm thầm rời khỏi sơn trang lén gặp tình lang, ý muốn se tơ kết tóc cùng người yêu dấu của nàng tại cổ trấn Thanh Ti này. Sư huynh, người dạy được một tên đa tình như thế, xem ra là chuyện kỳ lạ chưa từng có trong võ lâm.”
Đang nói, lão bỗng nghe thấy tiếng kèn tiếng trống từ xa văng vẳng truyền tới càng lúc càng gần, liền vỗ tay ha hả cười lên: “Đến rồi, ha ha đã tới lúc rồi. Chư vị nhường đường cho, tân nương Ma giáo đến rồi! Cả trăm năm nay Ma giáo và ngũ phái mới có đám cưới lần đầu tiên, thật là đáng vui đáng mừng, đáng vui đáng mừng thay!”
Lão đắc ý vô cùng, khách khứa trong viện tự nhiên đều đứng lên, chỉ nghe tiếng nhạc cưới dần dần đến gần, hai cánh cửa đồng thời mở ra, một vị hỉ nương* phe phẩy khăn tay dẫn theo đoàn rước dâu hai mươi người tiến vào cửa lớn. Bốn tên kiệu phu đều mặc áo lụa đỏ rực rỡ, ắt hẳn Toàn Bảng Đức đã hao phí tâm tư không ít cho cuộc nghênh đón này. Trương Hiểu Kí than thầm: “Bán Nhi, Bán Nhi giữa đường đã bị bọn họ đón về rồi”.
Toàn Bảng Đức ề à cười nói: “Sư điệt, ngươi vui mừng lắm a.”
Ngồi sát ghế thủ tọa, Cảnh Ngọc Quang đệ tử phái Hoa Sơn bỗng vỗ bàn đánh rầm, đứng dậy giận dữ quát: “Vui mừng cái gì, Ngũ phái Tam minh tuyệt không cho phép hôn lễ dơ bẩn này hoàn thành.”
Phía đối diện, Ngô Hạ tuần sát sứ của Thần Long giáo cũng cười lạnh lên tiếng: “Đúng lắm, Ngũ phái Tam minh sinh ra một tên đệ tử loạn luân đồi bại như thế, nếu không xử lý thì sau này làm sao còn cai quản nổi giang hồ!” Tay gã đang cầm chén rượu bằng bạc, lòng đầy phẫn nộ, có người tinh mắt để ý thấy rượu trong chén lúc này đã sôi lên sùng sục, hơi nước bốc nghi ngút. Ngô Hạ này vốn là kẻ tàn nhẫn bậc nhất Thần Long giáo, hiện giữ chức đường chủ Hình đường, đối với việc vi phạm cấm luật tuyệt chẳng chút nương tình. Mọi người biết Ngô Hạ đã dấy lên sát niệm, chỉ cần Trương Hiểu Kí thực sự dám thành hôn với Lô Bán Nhi, gã sẽ nhanh chóng trừ diệt.
Toàn Bảng Đức cười lên ha hả: “Sư huynh, người hiện giữ chức vị trưởng lão Đức Lễ đường của Tam minh, hắc hắc, thật quá thích hợp để chủ trì lễ hợp cẩn này, phiền huynh vậy.”
Lão chính là muốn nhóm lên ngọn lửa, lửa cháy rồi, lão đương nhiên sẽ tránh ra một bên. Trần Du Tử sắc mặt ngưng trọng, than thở: “Hiểu Kí, vi sư nhớ rằng đã nói với con rồi, con không thể giao du với người trong Ma giáo mà! Điều thứ ba trong môn quy Chung Nam là gì?”
Truơng Hiểu Kí nhìn sư phụ, ánh mắt toát ra vẻ xấu hổ tột cùng, cung kính cất lời đáp: “Sư phụ dạy, điều thứ ba trong môn quy là: nếu có quan hệ với người của Ma giáo thì sẽ bị phế trừ võ công, trục xuất khỏi sư môn.”
Trần Du Tử điềm tĩnh nhìn ái đồ chẳng nói lời nào. Người ngoài không rõ, nhưng ông ta thì rất hiểu tính tình của đồ đệ mình, thấy vẻ mặt xấu hổ của Trương Hiểu Kí, ông đã biết việc này hầu như khó có thể vãn hồi. Chỉ nghe Trương Hiểu Kí nói tiếp: “Thưa sư phụ, dù vậy đệ tử chẳng thể làm người vô tình vô nghĩa. Xin sư phụ hãy phế võ công Chung Nam của con, từ nay đệ tử vĩnh viễn rời khỏi phái Chung Nam, không để ý tới chuyện giang hồ nữa.”
Cả trang viện thảy đều xôn xao kinh ngạc. Tuy mọi người chẳng biết Trương Hiểu Kí là ai, nhưng nghe Toàn Bảng Đức chỉ đích danh hắn chính là thiếu niên cao thủ đã chiến thắng đệ tử đời thứ hai và thứ ba của Ngũ phái Tam minh ở Long Hoa hội ba năm trước, họ liền nhớ tới nhân vật này. Long Hoa hội là đại hội để Ngũ phái Tam minh khảo xét bản lĩnh các đệ tử, cứ ba năm tổ chức một lần. Trong ngũ phái, Chung Nam vốn thực lực yếu nhất, vậy mà sau trận chiến của Trương Hiểu Kí, cả bốn phái kia khi đề cập đến kiếm thuật của phái Chung Nam, không ai dám có ý khi thường như trước. Hơn nữa vị trí thủ tịch trưởng lão Đức Lễ đường của chưởng môn Chung Nam Trần Du Tử trước đây vốn đã lung lay, nhưng sau khi đệ tử toàn thắng, chiếc ghế của ông liền được bảo đảm chắc chắn. Ngoài ra sư đệ ông ta là Thanh Du Tử còn được đảm nhiệm chức vị trưởng lão Đại Thành đường.
Đáng lý Trương Hiểu Kí sau chiến thắng này sẽ nổi danh, phải được phong chức thủ tịch Kiếm đường của Đại Đồng minh, nhưng vì hắn không ngỏ ý nên Ngũ phái Tam minh cũng không đề bạt. Trương Hiểu Kí vốn chẳng phải là người muốn nổi danh, sau đấy liền không hề thấy tăm hơi. Chỉ đến năm ngoái, tin tức lan truyền rằng tên ác bá Đỗng Chúc Thiên từ lâu lập cứ ở Động Đình thủy trại đã bị người diệt trừ, mọi người mới một lần nữa mơ hồ nghe lại danh tự của vị thiếu niên này.
Đỗng Chúc Thiên là một tên giặc cướp hùng mạnh, lập căn cứ tại kẽ hở trong khu vực phân chia quyền lợi của Ngũ phái Tam minh, lại thêm thủ hạ là Thất Ác công phu rất cao, không ai dám động vào. Ngũ phái Tam minh đối với hành vi của tên ác khấu thủy tặc này đều giả điếc giả mù làm lơ chẳng ai muốn xử lý, mặc hắn tung hoành, mấy năm gần đây không biết đã gây ra bao nhiêu tội ác rồi. Có thể vì làm ác quá nhiều nên bị trời phạt, một năm trước, có vị đệ tử Trường Sa thấy Động Đình hồ đã lâu không gây họa, trong lòng hiếu kì liền bí mật dò thám thủy trại, phát hiện cả Đỗng Chúc Thiên lẫn Thất Ác mỗi người đều bị một kiếm đâm chết ở trong trại. Cả hang ổ Quân Sơn chén đĩa tan tành, ghế bàn ngổn ngang, không gì không nát vụn, có thể thấy đã diễn ra một trận ác chiến. Ngay cả cột xà mái hiên đều hằn vết kiếm. Mà các vết thương trên thân thể Đỗng Chúc Thiên và Thất Ác, theo kết quả khám nghiệm tử thi của danh y Chu Hoa thuộc “Chiến Bãi đường”, đều phát xuất từ một thanh kiếm. Tin này ngay lập tức làm xôn xao khắp cõi, mọi người mò mẫm phỏng đoán ai đã ra tay, liệu có phải là minh chủ Thần Kiếm Hướng Qua tự thân xuất thủ? Người từng trải lão luyện thì âm thầm suy luận đấy không thể là kiệt tác của Hướng Qua. Lại có kẻ bàn luận trong chỗ riêng tư rằng, quan sát kiếm ý kiếm thế có vẻ rất giống với Mộ Hàn kiếm pháp mà Trương Hiểu Kí đã thi triển ở Long Hoa hội.
Ngoài mặt, trong võ lâm ở bất kỳ chốn miếu đường tụ tập nào cơ hồ không ai đề cập đến tên Trương Hiểu Kí, tuy nhiên mọi người đều ngầm hiểu, che đậy như thế chính vì muốn áp chế ý định xuất đầu lộ diện của hắn. Nhưng thực tế tên tuổi hắn đã âm thầm nổi như cồn, chẳng biết đã truyền qua miệng bao nhiêu khách giang hồ rồi, còn làm chạm đến ngạo khí của nhiều vị thiếu hiệp, làm xúc động con tim các thiếu nữ.
Vậy nên khi Trương Hiểu Kí tuyên bố cam tâm tình nguyện phế đi võ công, hết thảy đều kinh hô. Toàn Bảng Đức mỉm miệng cười ruồi, Cảnh Ngọc Quang thì không ngớt cười lạnh. Chén rượu trong tay Ngô Hạ tuần sát sứ Thần Long giáo dần lắng xuống. Hồng, Bạch hai vị trưởng lão Cái Bang lại nhìn nhau thở dài, khung cảnh nhất thời thật yên lặng.
Bên trong kiệu cũng mơ hồ truyền ra một tiếng kêu, nhưng đã bị thanh âm của mọi người át đi. Trương Hiểu Kí chẳng hề quay đầu, trong lòng thầm nghĩ: “Bán Nhi, vì nàng, một thân võ công này mất đi nào đáng kể gì? Báu vật còn dễ thấy, người thương mới khó tìm. Chỉ cần hai ta sống bên nhau thì mọi sự đều ổn thỏa.”
Trần Du Tử ngửa mặt nhìn trời, một lúc sau mới ngó lại Trương Hiểu Kí, nói: “Ngươi quỳ xuống.” Trương Hiểu Kí liền quỳ gối xuống ngay trước chân ông, Trần Du Tử đưa một cánh tay lên, giữ trên không trung, hồi lâu vẫn chẳng nói gì. Mọi người đều biết, chỉ cần một ngón tay ông hạ xuống, một thân công phu của bậc võ lâm anh tài mới nổi này sẽ hoàn toàn bị hủy đi. Có mấy kẻ ánh mắt chớp động, lòng mừng thầm, gồm cả Ngô Hạ, Cảnh Ngọc Quang đang im lặng quan sát. Mười năm trước bọn họ đều là thiếu niên cao thủ, đối với Trương Hiểu Kí quật khởi trong ba năm vừa qua khó tránh khỏi đố kị, lúc này thấy hắn lâm vào khốn cảnh, dĩ nhiên trong lòng rất vừa ý.
-----------------------------
Chú giải:
* Hỉ nương: người đi theo cô dâu về nhà trai để ca hát và nói những lời chúc tụng.