Điệp Viên 007 - Rực Lửa Miền Băng Tuyết - John Gardner
Tên truyện : Điệp Viên 007 - Rực Lửa Miền Băng Tuyết
Tác giả : John Gardner
Nguồn : TaiXiu
Chương 1
THẢM SÁT Ở TRIPOLI
Nép mình giữa rừng tùng, bách vươn cao, nằm sát bờ biển là khu phức hợp chuyển giao khí tài, chiến lược của nước Cộng hòa nhân dân Libya cách thành phố Tripoli mười lăm cây số về phía Đông Nam.
Vòng lấy ba mặt là hàng rào thép chống lốc xoáy cao gần sáu thước. Ấy, lại thêm một thước kẽm gai mắc điện bao lấy trên cùng. Khi màn đêm buông xuống, đội tuần tra lái mấy chiếc xe bọc thép Cascavel rảo liên tục vòng ngoài. Còn bên trong, lũ chó nghiệp vụ hếch mũi lên, lùng sục khắp nơi. Thấp thoáng gần đấy là doanh trại làm bằng gỗ dành cho lực lượng cảnh vệ.
Xuôi về một phía là hai khu nhà nghỉ: một dành cho lực lượng quân sự Libya, khu còn lại dùng để tiếp các đoàn đại biểu quân sự nước ngoài.
Ngay khoảng giữa là căn nhà gạch, mặt tiền hình vòm, tường dày non thước, quét lớp vôi hồng. Bước qua bậc thềm vào cửa chính, xuôi theo hành lang, về hai phía trái phải, người ta gặp chuỗi văn phòng của các sĩ quan, phòng liên lạc vô tuyến. Đoạn cuối hành lang là một phòng họp kín như bưng, không một cánh cửa sổ với những chiếc bàn to, hàng ghế lưng cao. Bên dưới hệ thống máy điều hòa nhiệt độ hiện đại là các thiết bị xem phim, đèn chiếu. Xa vào phía trong là cửa sắt nhỏ dành cho đám an ninh và đội quét dọn.
Thường một năm người ta chỉ mở cửa chính của căn phòng này năm, sáu lần gì đó. Với số nhân viên trên dưới trăm bốn mươi người vào ban ngày, khu phức hợp quân sự trở thành điểm nóng theo dõi của cả thế giới phương Tây, nhất là khi tình hình Trung Đông đang hồi quyết liệt.
Dù chính quyền chưa công bố điều gì nhưng báo chí cứ một mực đưa tin Libya vừa tiếp nhận một số lượng lớn tên lửa, máy bay, khí tài hạng nặng.
Vâng, đúng 9 giờ 15 sáng hôm ấy, hai đoàn đại biểu quân sự cao cấp của Libya và Nga tiến hành buổi họp cuối cùng của quá trình chuyển giao vũ khí tại ngôi nhà quét lớp vôi hồng ngay trong khu phức hợp.
Tay bắt mặt mừng theo đúng nghi thức ngoại giao, mỗi bên gồm hai mươi viên sĩ quan bước lên thềm, qua hành lang dài tới trước cửa phòng họp có hai người lính gác sẵn bên ngoài. Khi cánh cửa mở ra, từng người một tiến vào, đầu ngẩng cao, nét mặt trang nghiêm, dáng đi bệ vệ.
Ồ, không thể tin được! Hơn hai mươi sĩ quan bước hẳn vào trong cứ trố mắt ra nhìn, mồm há hốc …
Phía cuối phòng, mười tên đeo mặt nạ kín mít, trong bộ đồ rằn ri, quần jean xám, chân mang ủng da, tay thủ súng máy, đứng thành hình vòng cung. Lủng lẳng trước ngực bọn chúng là những tấm thẻ bạc với mấy chữ NSAA rồi bật trên chiếc sọ người với vạch sấm sét viền lấy vòng ngoài.
Hệt như đám thuộc hạ của gã Tử thần đến từ địa ngục, dáng vẻ đầy sát khí, người bọn chúng căng ra theo tư thế chuẩn bị tấn công. Chân phải bước tới, đầu gối khuỵu xuống, báng súng kẹp chặt vào hông, mười họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào đám sĩ quan cao cấp.
Quái, cách đây chưa đầy mười phút, khi các đại biểu còn giơ tay chào nhau ngoài sân, đội quét dọn vừa rời khỏi cánh cửa sắt nhỏ, cả căn phòng vẫn còn trống trơn kia mà?
Vâng, không tới năm giây, sau tiếng lên cò rôm rốp, mười họng súng bắt đầu khạc lửa.
Đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng ...
Quá bất ngờ, bốn mươi viên sĩ quan không kịp phản ứng. Đạn bắn tới đâu, thây người gục ngã tới đó. Máu văng vào tường loang lổ, đọng thành vũng trên nhà. Tiếng nổ xé tan khoảng không tĩnh mịch, vang vọng khắp nơi.
Một phút sau đó, sáu viên sĩ quan của Nga và Libya phơi thây tại chỗ.
Rồi tiếng còi báo động cho toàn khu vực hụ lên inh ỏi. Từ phía ngoài, nhóm cảnh vệ chạy xộc vào, nổ súng chống trả. Hai bên quần nhau chí tử đúng mười lăm phút.
Đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng ...
Đạn bay vèo vèo như mưa rào xoáy thành những vết to tướng trên bức tường vôi. Chà, bọn sát thủ không hề nao núng, tay kéo cò phản công quyết liệt. Sau khi ba tên gục xuống bên cạnh vũng máu càng lúc càng nhiều, bảy tên mở đường máu tháo lui.
Rồi trận chiến lan nhanh ra toàn khu phức hợp.
Đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng ...
Nấp vào dãy nhà kế bên, bảy tên còn lại chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Và thêm mười tay súng của Libya tiếp tục ngã xuống cùng đám đồng đội xấu số trước đó.
Sáng hôm sau, đúng 9 giờ, giờ quốc tế, toà soạn của tờ báo Reuter nhận được bức thông điệp qua diện thoại. Chưa đầy mười phút sau, toàn bộ giới truyền thông đại chúng đồng loạt đưa tin THẢM HOẠ Ở TRIPOLI.
Bức thông điệp nêu rõ:
Rạng sáng ngày hôm qua, ba chiếc phản lực cơ hạng nhẹ bay dưới tầm kiểm soát của ra đa, lượn đảo quanh khu phức hợp chuyển giao khí tài và chiến lược quân sự gần thủ đô Tripoli của nước Cộng hoà nhân dân Libya, thả xuống một biệt đội đặc nhiệm. Ấy thế mà chẳng ai phát hiện dù khu vực này được canh phòng nghiêm ngặt.
Chẳng bao lâu sau, nhân danh chủ nghĩa PHÁT XÍT QUỐC TẾ, đơn vị này đã giáng một đòn chí tử vào đám sĩ quan cao cấp xô Viết. Bọn chúng phơi thây như rạ, cuống cuồng tháo chạy.
Trong niềm thương tiếc vô hạn và đầy lòng tự hào, chúng ta tổ chức tang lễ của toàn đội đặc nhiệm thuộc PHẢN ĐOÀN TUYỂN CHỌN số I hy sinh vì chính nghĩa, vì hòa bình của nhân loại.
Hơn bao giờ hết, trước nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa bá truyền hoang tưởng, chúng tôi, những người theo chủ nghĩa phát xít, phải gấp rút hành động để tránh lây lan đến phần thế giới tự do còn lại.
Một lần nữa, chúng tôi xin cảnh báo với toàn thế giới: bất kỳ hành động nào có liên hệ với Nga dù với lý do gì đều sẽ gánh lấy những hậu quả thảm khốc.
THÔNG CÁO CHUNG SỐ I CỦA BỘ TƯ LỆNH TỐI CAO NSAA.
Tờ báo còn cho biết thêm toàn bộ vũ khí của đám sát thủ đều có xuất xứ từ Nga: sáu khẩu Kaladhnikov RPK và bốn khẩu AKM cải tiến.
Ậy, trong thời đại khủng bố cứ diễn ra ngày một như cơm bữa, thiên hạ chỉ bàn tán xôn xao có vài hôm rồi quên lãng. Theo nhiều người, bất quá bọn NSAA là một nhóm phiến quân ly khai của chủ nghĩa phát xít cuồng tín nào đó.
•
• •
Một tháng sau sự kiện Tripoli, tại một ngôi nhà gần Quảng trường Trafalgar diễn ra bữa tiệc chiêu đãi của năm thành viên Đảng Cộng sản Anh. Họ đang tiếp ba uỷ viên Trung Ương Đảng của chính quyền Xô Viết vừa đặt chân tới Luân Đôn trong chuyến viếng thăm thân hữu.
Chà, cái đám người Nga thật khách sáo, ì à, ì ạch mang theo mấy thùng vốtka thượng hạng. Cà phê mới vừa dọn lên, người ta lại bắt đầu khui rượu lốp bốp. Chén tạc chén thù, tám người nâng ly chúc tụng nhau. bữa tiệc đang râm vang rôm rả bỗng tiếng chuông cửa vang lên inh ỏi.
Hình như ai đó muốn gặp riêng vị chủ nhà. mặt mày đỏ kè như mấy con gà chọi, khó chịu, tay đảng viên sừng sỏ, to họng nhất của Đảng Cộng sản Anh bước tới mở cửa.
Thật không ngờ, ngay trước bậc thềm, bốn tên trong bộ quần áo rằn ri hệt như đám sát thủ ở Tripoli, nổ súng ngay lập tức.
Đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng ...
Tay chủ nhà gục ngay tại chỗ.
Đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng ...
Chưa đầy một phút, mưa đạn khạc ra giết sạch bảy người còn lại. Rồi như đám ma trơi, bọn chúng biến mất trong đêm, không để lại dấu vết. Chỉ còn mớ vỏ đạn có lẽ từ những khẩu súng tự động Makarov, Stechkin của Nga, vương vãi trên sàn.
Vâng, sang hôm sau, đúng 9 giờ, giờ quốc tế, đội đặc nhiệm mang tên Adolf Hitler của NSAA thừa nhận trách nhiệm với BẢN THÔNG CÁO CHUNG THỨ II.
Rồi trong vòng mười hai tháng sau đó, có hơn ba mươi vụ khủng bố liên tiếp xảy ra trên toàn thế giới. Từ Tây Berlin, Bonn, Paris, Washington, Rome, New York, Luân Đôn, Madrid, Milan tới các thành phố lớn ở Trung Đông, nhiều đảng viên Đảng Cộng sản bị giết chết cùng với những người có liên quan.
Trong số này, phải kể đến ba phát ngôn viên của các tổ chức Công đoàn Anh và Hoa Kỳ bị thủ tiêu rất thảm khốc. Thế mà người ta chẳng tóm được một tên sát thủ nào thuộc nhóm NSAA. Trong bốn vụ khủng bố, khi cùng đường bọn chúng tự sát để khỏi bị bắt.
Dĩ nhiên sau từng vụ, các bản Thông cáo chung của Bộ Tư Lệnh Tối Cao lần lượt phát ra với lời lẽ thật khoa trương, rỗng tuếch. Những cái tên từng một thời khét tiếng trong lịch sử nhân loại nay được nhắc tới: sư đoàn SS của Heinrich Himmler, tiểu đoàn Heydrich, sư đoàn kỵ binh Hermann Goering, biệt đội đặc nhiệm số I của Eichmann.
Còn đám cớm và phản gián quốc tế, cứ ngẩn tò te, vò đầu bứt tóc mãi nhưng chẳng tìm ra manh mối. Lần theo mấy xác chết của bọn NSAA bỏ lại ở hiện trường, họ gặp phải con số không to tướng. Chẳng lẽ bọn chúng đến từ địa ngục.
Trong cơn sốc khủng bố cứ rung lên từng hồi như luồng địa chấn, chẳng biết tay nha báo nào hăng máu viết một bài “lá cải” hệt như đánh trống, thổi kèn cho mấy bộ phim vào thập kỷ 40.
Như đám ma trơi, từ hư không, bọn chúng xuất hiện, giết người như ngoé, rồi tan biến trong hư không. Có phải là hồn ma của Chủ nghĩa phát xít đang đội mồ sống dậy đưa nhân loại vào thảm hoạ diệt chủng? Bọn PHÁT XÍT MỚI muốn tắm máu loài người một lần nữa? Cả hành tinh không một đêm yên giấc, ngày cứ nơm nớp lo sợ.
Bọn NSAA giết người hiệu quả quá, khủng khiếp quá! Các giáo đường cứ vang lên tiếng cầu kinh. Chẳng lẽ ngày tận thế đang đến gần như lời sấm truyền cách đây mấy ngàn năm?
•
• •
Mặc cho thiên hạ bàn tán xôn xao, vẽ rồng, vẽ rắn, các cơ quan tình báo quốc tế đang vào cuộc. Từng chút rối từng chút một họ xích lại gần nhau, chia sẻ quan điểm, thông tin, báo cáo. Và việc gì đến, ắt phải đến, hợp thành khối liên minh, họ cố truy tìm bóng ma trơi NSAA lơ lửng trên đầu của cả nhân loại.
Nói chẳng phải khoe mẽ, chứ riêng khoản trí nhớ, khó ai bì kịp với James Bond nhà ta. Anh chàng có một phương pháp hữu hiệu ghi lại hàng ngàn số phôn trong đầu, ngay từ thời còn chưa gia nhập vào lực lượng Phản gián Hoàng Gia.
Rồi bao năm trôi qua, chúng càng lúc càng nhiều, cứ hằn sâu trong vỏ não. Mỗi số phôn gắn liền một loại công việc nào đó. Nhắc tới việc gì, anh chàng nhớ ngay con số ấy.
Giờ anh chàng đang lục tung tiềm thức tim kiếm số máy của Paula Vacker. Còn cô ta ấy à, chỉ là một cô nàng xinh đẹp, tính tình phóng khoáng, chẳng thèm biết tình báo, phản gián là cái quái quỷ gì.
Đứng nghiêng người trong căn phòng của khách sạn Inter-Continental, nằm về phía Bắc cuối đường Helsinki của hệ thống xa lộ cao tốc Mannerheimintie, anh chàng nhấc phôn lên, bấm số liên lạc.
Sau hai hồi chuông reo, giọng một cô gái vang lên ở đầu dây bên kia.
- Xin cho gặp Paula Vacker.
- Xin lỗi, ai gọi đấy?
- Tôi là James Bond.
- Xin chờ cho một chút.
Sau tiếng chuyển máy, chất giọng dưới dương của cô gái Bắc Âu văng vẳng, vẻ hớn hở:
- Ồ, anh James đấy à? Anh đang ở đâu vậy?
- Khách sạn Inter-Continental.
Không giấu nổi vui mừng, cô ta hỏi nhanh:
- Ngay ở đây sao? Ở Helsinki à?
- Ờ, anh thường nói xạo lắm à?
- Thật bất ngờ đấy, anh James. Anh tới đây làm gì?
Làm gì dám tiết lộ công vụ, anh chàng đành úp úp, mở mở:
- Chính anh cũng không ngờ. Lộ trình có thay đổi. Sẵn dịp tạt ngang Helsinki. Chỉ là chút đột xuất.
- Thật ư?
- Chớ còn gì nữa. Lẽ nào đến Helsinki, lại không nhớ tới cô em xinh đẹp Paula?
Bỗng cô nàng cười thích thú.
Trước mắt anh chàng hiện ra hình ảnh của Paula, đầu hơi ngửa ra, đôi môi đỏ mọng hé mở để lộ hàm răng trắng tinh, đều đặn như hạt bắp. Cái tên Thuỵ Điển Paula Vacker nếu hiểu theo tiếng Anh chẳng phải là Paula xinh đẹp chứ là gì?
- Tối nay, em có rảnh không?
Đột nhiên cô nàng phá lên cười, vẻ hớn hở thoáng qua giọng nói:
- Với anh, lúc nào em chẳng rảnh. Nhưng có chút khó khăn đấy nhé.
•
• •
Chợt nghe cô nàng nhắc lại chuyện cũ, James nhớ lại buổi đầu gặp mặt ở Luân Đôn, cách đây năm năm. Dạo ấy nàng xuân đang mỉm cười với thành Luân Đôn. Sắc vàng tươi của thảm hoa thuỷ tiên cứ phủ lấy công viên. Còn các cô em xinh đẹp, tung tăng trong bộ váy mới, khắp cả phố phường, công sở. Ngày trở nên dài bất tận khi Bộ Ngoại Giao mở tiệc chiêu đãi bọn tài phiệt quốc tế.
Ấy, thời buổi kinh tế thị trường là thế đó! Người ta tận dụng mọi cách để lên dây cót mấy tay đầu tư. Hôm ấy, anh chàng cũng có mặt.
Thật tình mà nói, đám MI 5 đã phái người tới đấy làm nhiệm vụ an ninh. Cục Phản gián cần gì phải nhúng tay vào. Nhưng mấy chiến hữu bên Bộ Ngoại Giao cứ nằng nặc gọi anh chàng đến cho xôm tụ. Có 007 vẫn chắc ăn hơn chứ sao! Đám quan khách toàn mấy tay tai to, mặt bự, lỡ có chuyện gì sơ suất e mất cả chì, lẫn chài.
Miễn cưỡng, anh chàng hứa:
- Ừ, thì đúng 5 giờ được chưa?
Kể ra, nhìn mãi các tay tài phiệt bụng bia, anh chàng đâm ra chán nản. Cũng còn may! Chúa đã nhỏ chút thương xót cho gã gián điệp ngoại hạng có máu đa tình.
Bóng hồng của Paula Vacker như nàng mẫu đơn kiêu sa hiện giữa đồi trọc, khô cằn sỏi đá. Trong bộ váy trắng muốt, làn da sạm nắng, sáng bóng của cô nàng thừa sức làm mấy công ty mỹ phẩm dẹp tiệm. Mái tóc vàng óng ả, mượt mà phủ dài ngang lưng, eo co thon thả, đôi mắt xám to tròn, đôi môi gợi dục, trông Paula thật sexy.
Đột nhiên, anh chàng đâm ra thắc mắc. Cô nàng tính chài mồi lão làm sao? Mấy em xinh đẹp ở Phần Lan vốn nổi tiếng hớp hồn mấy lão già hám gái. Mà hình như cô nàng tới bữa tiệc có một mình.
Nhẹ nhàng bước tới, mỉm cười thật duyên dáng, anh chàng tự giới thiệu. James còn bịa ra lý do Ngài Bộ trưởng nhờ anh ta trông chừng cô nàng.
Ôi, đôi môi đỏ mọng sao mà quyến rũ nở nụ cười thật tươi.
Vâng, hai năm sau, tai Rome, Paula kể cho anh chàng nghe Ngài Bộ trưởng trong bữa tiệc hôm ấy cố tình đến sớm hơn một tí, tò vè cô ta khi quý phu nhân còn õng a, õng ẹo chưa kịp đến dự.
Dạo ấy cô ta lưu lại Luân Đôn non một tuần. Sau dăm ba lời đưa đẩy, anh chàng mời Paula dùng bữa khuya ở Ritz. Thấy cái gì cô ta cũng luôn miệng thốt lên “ trông là lạ”.
Khi trở về khách sạn, Paula dẫn anh chàng vào phòng ngủ bài trí diêm dúa, xa hoa. Ngả lưng xuống giường, James có cảm tưởng mình hệt như là tay lãnh chúa ở thế kỷ 15.
Vâng, một tuần thật lãng mạng, nhiều kỷ niệm trong đời chàng gián điệp đa tình 007. Chẳng bao lâu sau đó, họ như hình với bóng, chìm đắm trong men say ái tình. Cùng thích nhạc jazz, bơi thuyền, họ cùng nhau tới bờ hồ tìm chiếc thuyền độc mộc trong buổi tối thứ tư. Kỹ thuật chèo thuyền của anh chàng quả là tuyệt vời nhưng Paula đâu có kém gì. Như lạc vào mộng ảo, họ cùng nhau mơ màng trong giây phút thần tiên.
Rồi mối tình lãng mạn kéo dài mãi tới những năm sau đó. Tình cờ gặp nhau ở New York, cảng Dieppe tại Pháp mới mùa thu trước, họ cùng nhau ngắm cảnh hoàng hôn. Còn giờ đây là Helsinki, quê hương của cô ta, lần đầu tiên anh chàng đặt chân đến. Chẳng biết có êm đềm, mộng ảo như những ngày tháng trước kia?
Chút ký ức xa xưa thoáng hiện về làm tâm trạng cứ bồi hồi, xao xuyến. Cất lẫn cái giọng mượt mà như hơi thở, anh chàng hỏi tiếp:
- Anh mời em ăn tối, được không?
- Để em chọn nhà hàng nhé?
- Nếu em thích.
- Anh tới đón em chứ?
- Ừ.
- Ở nhà em. Lúc 6 giờ 30. Anh còn nhớ địa chỉ không?
- Dĩ nhiên rồi cô em xinh đẹp, anh chôn sâu tận đáy lòng đấy.
- Anh nói như thế với bao nhiêu cô gái rồi?
- Nhiều lắm, không thể nào nhờ hết. Nhưng thành thật mà nói, anh luôn thích các cô gái tóc vàng.
- Anh là kẻ phản bội. Sao anh không ở khách sạn Hesperia của Phần Lan?
- Sao ở đó được? Mấy cái nút thang máy cứ làm người ta bị điện giật.
- Khách sạn Inter-Continental cũng thế thôi. Hãy cẩn thận đấy, anh James. Phòng tắm và mấy cửa sắt bên trong. Mùa này nơi nào cũng thế.
- Không sao đâu. Anh có mang dép.
- Thôi nhé, hẹn gặp lại anh lúc 6 giờ 30.
Nói xong, cô nàng cúp máy ngay. Chẳng để anh chàng có vài lời tình tứ. Ngay bên ngoài, trời rét buốt da, nhiệt độ dám đến âm 25 độ.
Thả lỏng người, anh chàng với tay lấy chiếc hộp sắt nằm trên bàn đặt cạnh giường, mồi một điếu thuốc. Ấy, thứ thuốc lá hợp gu này, anh chàng thường đặt mua ở công ty H. Simmons tại Burlington Arcadé. Căn phòng thật ấm cúng, dễ chịu. Rít một hơi thật sâu, anh chàng nhả từng ngụm khói về phía trần nhà.
Mới hồi sáng này, từ vùng Bắc Cực với nhiệt độ xuống dưới âm 40 độ C, anh chàng đáp máy bay đến Helsinki. Đây chẳng phải là chuyến đi thú vị, phải không nào? Đành chịu thôi!
Công vụ là thế đấy. Đợt tập huấn những kỹ thuật hiện đại của Cục Phản Gián diễn ra trong điều kiện khắc nghiệt của mùa đông ở vùng cực Bắc ít nhất là một năm. Gia nhập cùng với Trung Đoàn Bay 22 ở gần Hereford, James nhà ta còn phải thỉnh thoảng có mặt trên đội tàu chiến đặc biệt của Hoàng Gia ở Poole, Dorset nữa chứ.
Quái, khi chiến tranh kết thúc, Cục đã giãi thể phân đội mang bí số 00 với quyền được triệt hạ đối phương lúc thi hành công vụ. Thế nhưng ba con số 007 vẫn đeo bám anh chàng suốt đời.
Cứ mỗi lần hỏi tới chuyện này, ông Mười làm bộ tỉnh bơ. Giọng từ tốn, ông ta giải thích dông dài:
- Này 007, bác giữ cháu lại là có lý do đấy. Bác hoàn toàn chịu trách nhiệm mọi hành động của cháu. Cháu chẳng thể nào từ chối được. Nhân dân, đất nước vẫn còn cần đến cháu. Cuộc đời cháu đã gắn liền với mệnh lệnh của bác rồi. Nói theo từ ngữ chuyên môn, đấy là loại nhân viên chuyên giải quyết những vấn đề nhạy cảm trong thế giới tình báo quốc tế.
Giống như cuộc xung đột ở đảo Falkland vào năm 1982, với mưu trí và lòng can đảm, 007 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Rồi sau đó, đám báo chí, phóng viên truyền hình cứ đưa tin loạn xạ, bát nháo lên. Nhưng có ma nào tìm ra được người hùng của chiến dịch đâu mà phỏng vấn.
Để giữ 007 luôn trong tình trạng tuyệt hảo về mọi mặt như thuở mới vào nghề, ông Mười cứ buộc anh chàng một năm tập huấn ít nhất một lần.
Quỷ tha ma bắt mấy chuyến tập trận chết tiệt! điều động, anh chàng lại phải lên đường trong khí trời rét tận xương tuỷ. Chẳng có chút thời gian chuẩn bị cho đợt thử thách gian khổ. Trong suốt mùa đông, các thành viên của đội đặc nhiệm SAS phải lao mình giữa mưa tuyết bão bùng ở Na Uy.
Trước khi lên đường, ông Mười đã căn dặn anh chàng thật kỹ: Một năm tập huấn trên vùng cực Bắc, không được héo lánh tới Phần Lan, nơi điệp vụ sắp diễn ra.
Thật tình mà nói, đợt tập huấn này cũng không đến nỗi nào. Chỉ là một tuần lễ gồng mình giữa thiên nhiên khắc nghiệt với hai gã SAS và hai tay nhân viên của SBS. Kể ra đám sĩ quan hải quân còn xui hơn anh chàng rất nhiều. Bí mật vượt qua biên giới của Na Uy và Thuỵ Điển, họ lén tới Phần Lan, họp mặt với anh chàng ở Lapland.
Trong suốt bảy ngày ấy, họ phải thắt lưng, buộc bụng, theo đúng nghĩa đen của cụm từ đó. Chỉ dùng những gì chứa sẵn trong loại thắt lưng đặc biệt họ đeo trên người. Bằng mọi giá, phải sinh tồn trong điều kiện băng giá khắc nghiệt với bao nguy hiểm không thể nào lường trước được. Rồi bốn ngày sau, dưới sự dẫn dắt của James, vừa chạy họ vừa thu thập hình ảnh, âm thanh suốt dọc biên giới Phần Lan cùng với một nhóm sĩ quan Nga. Chia làm hai nhóm, họ đi theo hai hướng khác nhau. Trực thăng sẽ đón mấy tay SAS và SBS tới một vùng xa hơn.
Còn anh chàng ấy à, nhận nhiệm vụ mới. Kể ra, công việc tại Phần Lan cũng chẳng có gì nhiều. Lái “Con Thú Bạc”, anh chàng thường gọi chiếc Saab Turbo, vòng vòng mỗi năm quanh vùng cực Bắc, gần khu trượt tuyết Rovaniemi ở Phần Lan.
Trước giờ, anh chàng vẫn chưa tập chạy nó lần nào. Muốn đặt xe, cũng chẳng có gì khó. Sau vài cú phôn đăng ký, trong vòng hai mươi bốn giờ anh chàng có được chiếc xe với đầy đủ các thiết bị. Rồi bay từ Helsinki tới Rovaniemi, anh chàng sẽ gặp mấy chuyên gia lái xe, chẳng hạn như gã bạn cũ Eril Carlsson và cái tay luôn chưng diện bảnh bao Simo Lampinen. Chà, muốn lái hết đường chạy theo quy định, ít nhất cũng mất vài ngày.
Sau khi có vài lời trao đổi với anh chàng to lớn, dềnh dàng Eril Carlsson, giám sát viên suốt chuyến hành trình với "Con Thú Bạc", ngay từ sáng tinh mơ James phải rời khách sạn gần Rovaniemi.
Trong bộ đổ mùa dông ba bốn lớp với mấy thứ đồ lót Damart cách nhiệt xem chừng khó vận động. Mặc tiếp bộ đồ thể thao, áo lạnh cổ tròn dày, đồ vét động bông trượt tuyết, chân mang đôi ủng cao Mukluk, tay xỏ cặp găng Damart, lưng đeo chiếc nịt da được thiết kế đặc biệt dành cho nhóm SAS và SBS, anh chàng quẩy túi xách nhỏ chứa mấy đồ dùng cần thiết. Bước lệch bệch trong đám tuyết cao quá gối, anh chàng cố giữ đúng hướng đi trên lối mòn nhỏ hẹp đã từng làm dấu sẵn vào ban ngày.
Ậy, chỉ sai một bước chân về bên trái, phải, kể như đời của 007 đành chịu ướp xác trong đống tuyết cao quá đầu. Xa xa ở đằng kia là chiếc xe trượt tuyết kềnh càng. Ôi lạy Chúa, một khi nó đã tắt máy, thật khó xoay qua, trở lại.
Mất đúng mười phút, James mới kéo nó ra khỏi chỗ cất giấu giữa mấy cành cây cứng còn hơn thép nguội. Lôi nó ra đoạn dốc dài khoảng chừng cả cây số, vừa đẩy vừa nhảy ào lên chỗ ngồi, anh chàng gấp rút bỏ hai chân vào cái gạt bảo vệ.
Thật bình thản, chiếc xe trượt lăn dài với tốc độ kinh hoàng rồi dừng lại khi đã hết đà. Tới chỗ này đã khá xa với khách sạn, anh chàng bèn cho nổ máy, sau khi dùng chiếc đèn pin nhỏ và Compa định vị trí trên bản đồ.
Tăng ga, gạt cần số, James bắt đầu chuyến hành trình suốt hai mươi bốn tiếng để gặp đám đồng nghiệp đang chờ.
Rovaniemi quả là một địa điểm lý tưởng cho đợt tập lái. Từ thị trấn, ngược theo phía Bắc, bạn có thể đến những vùng đất hoang dã. Hoặc chỉ cần vài giờ trên chiếc xe trượt tuyết, bạn dư sức tới được vùng biên giới Nga-Phần Lan như Salla, điểm nóng của cuộc giao tranh khốc liệt vào những năm 39-40 giữa đám người Nga và Phần Lan.
Xa nữa về hướng Bắc, vùng biên giới không dễ gì vượt qua. Cả một địa ngục trắng đang chờ đón những người gan dạ nhất. Vào mùa hè, vùng Bắc Cực chẳng có gì thú vị. Còn vào mùa đông, khi bão tuyết nổi lên, thiên nhiên dường như muốn thử thách con người, đâu đâu cũng là cạm bẫy. Hai đợt tập huấn hắc ám với mấy gã SAS và SBS cuối cùng đã kết thúc.
Gân cốt như rã rời, James nhà ta chừng thấm mệt. Trong đầu anh chàng chỉ vang lên mấy chữ: NGỦ, NGHỈ, THƯ GIÃN.
Ước gì mình trở về được Luân Đôn, lăn mình trên chiếc giường ấm áp của căn hộ ở Chelsea. Nói là nói vậy, chứ hai tuần sau đó, trên đường tới Rovaniemi, anh chàng đột nhiên cảm thấy sung mãn. 007 muốn làm một việc gì đó cho vơi đi dòng nhiệt huyết đang cuồn cuộn chảy trong người. Mới vài giờ trước đây, James chân thấp, chân cao bước vào khách sạn Ounasvaara, văn phòng chính của ban chủ nhiệm mấy chiếc Saab, để lại lời nhắn cho Eril Carlsson, quá giang một chuyến xe đến phi trường, mua ngay một vé tới Helsinki. Rồi từ đó, anh chàng có thể liên lạc trực tiếp với Luân Đôn.
Khi chiếc ĐC-50 đáp xuống sân bay Vantaa ở Helsinki, đâu đó khoảng 12 giờ 30 khuya, chợt anh chàng lại nhớ tới Paula Vacker.
Bước chân xuống cầu thang, anh chàng đã thay đổi hoàn toàn kế hoạch. Đâu thiết cần phải quay trở về Luân Đôn vào lúc này. Mình vẫn còn đang nghỉ phép kia mà! Ông M chỉ bảo trở về càng sớm càng tốt, chứ đâu có hạn định thời gian. Ừ, trong vài ngày nữa, chắc chẳng ma nào thèm nhắc tới tên mình đâu.
Ra khỏi sân bay, đón chiếc tắc xi, anh chàng tới thẳng khách sạn Inter- Continental đặt phòng. Ngay khi gã phục vụ mang hành lý vào phòng, ễnh người ra trên chiếc giường ấm cúng, James phôn liền cho cô nàng xinh đẹp Paula Vacker. Mỉm cười, anh chàng lẩm bẩm:
- Ừ, 6 giờ 30 tại nhà của cô ta.
Ậy, James có ngờ đâu. Một cú phôn tới người tình cũ mời đi ăn tối đã làm cuộc đời của gã điệp viên siêu hạng bước sang ngã rẽ gay go, khốc liệt nhất trong vài tuần sau đó.
Sau màn tắm rửa, cạo râu, tỉa tóc cẩn thận, anh chàng lên đồ thật kẻng. Khoác bên ngoài chiếc áo sơ mi màu xanh hiệu Coles bộ vest ga-bar-din xám may rất khéo, anh chàng thắt cái cà vạt len của nhà tạo mẫu Jacques Fath. Còn khẩu Heckler & Koch P7 đang lủng lẳng thoải mái trong cái bao da bên nách trái.
Bước ra tiền sảnh của khách sạn, anh chàng đội lên cái mũ lưỡi trai dày bằng lông thú Crombie British Warm. Trông anh chàng lúc này có khác nào chuẩn bị xung trận. Đành chịu thôi, khí hậu ở bán đảo Scăngđinavi quá ư khắc nghiệt. Dân Luân Đôn chính hiệu còn chịu không thấu nữa là.
Rồi chiếc tắc xi lao về phía Nam, xuôi theo con đường Mannerheimintie. Tuyết chất thành đống dọc theo vỉa hè, phủ đầy lên ngọn cây, hệt như đêm Giáng Sinh.
Từng bông tuyết trắng xóa vương vãi trên cành khô, lấp lánh trong ánh đèn. Gần Viện Bảo Tàng Quốc Gia với ngọn tháp cao sừng sững, có một cây oằn xuống chẳng khác nào một gã tu sĩ đội mũ trắng bám chặt vào lưỡi dao sáng chói.
Thấp thoáng trong sương mù, anh chàng thấy mái vòm rực rỡ sắc màu của nhà thờ Uspensky. Nhìn Helsinki, anh chàng mới hiểu tại sao mấy bộ phim thường mượn nơi này khi muốn quay cảnh Moscow.
Paula sống trong toà nhà nhìn ra công viên Esplanade, về phía Nam cuối con đường Mannerheimintie. Trước tới giờ anh chàng chưa từng đặt chân tới vùng đất này. Mở to mắt, James nhìn quang cảnh bên đường trong vẻ ngạc nhiên pha lẫn niềm thích thú.
Công viên là một dãy đất dài nằm giữa các khu nhà. Kìa, thấp thoáng trong hoàng hôn, các nghệ nhân từ khắp nơi lũ lượt kéo về đây, ngồi la liệt, miệt mài nắn tượng tuyết. Lẫn trong thảm tuyết còn mỏng manh, với đôi tay khéo léo, họ đang cắt lá, tỉa cành cho cả vườn hoa trắng xóa.
Rồi chiếc tắc xi tấp vào cạnh bức tượng bằng cỡ người thật của đôi trai gái cứ quấn quýt nhau, một bước không chịu rời xa. Còn những dinh thự chung quanh công viên dường như quá cổ kính. Chỉ rải rác đây đó vài toà nhà hiện đại nép mình xen lẫn vào. Có lẽ Paula chẳng mấy thích ngôi nhà cao tầng, đèn đuốc sáng trưng. Chừng tìm đến địa chỉ, anh chàng mới té ngửa ra.
Ấy là ngôi nhà bốn tầng, màu sơn xanh còn mới nguyên, từng mảng tuyết đọng quanh bồn hoa ngoài bao lơn. Hai thanh chống bằng gỗ, uốn cong tạo thành một lối ra vào hai bên cánh cửa kiếng mở toang. Vào bên trong một chút là một hòm thư khá to, có từng ngăn riêng biệt.
Còn sàn nhà và cầu thang gỗ được đánh vẹc-ni bóng ngời, không trải thảm.
Gỡ mũ ra, bấm vào cái chuông ở số 3A, anh chàng bước lên cầu thang. Vừa bước lên tầng ba, anh chàng thấy ngay căn hộ của Paula. Tò mò một chút, James nhìn qua căn 3B với tấm bảng đồng mang tên đại tá A Nyblin. Anh chàng mường tượng ra một viên sĩ quan về hưu đang treo mấy bức tranh về đề tài chiến tranh. Bên cạnh ông ta là một kệ sách cao chất đầy mấy quyển nghiên cứu về chiến thuật, chiến lược, chồng tiểu thuyết kể lại ba cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của người Phần Lan.
Nhấn mạnh vào cái chuông, anh chàng đứng ngang với lỗ nhỏ trên cánh cửa, chờ đợi. Sau tiếng xích khoá kêu lẻng kẻng, cánh cửa mở ra.
Ô kìa, vẫn là Paula xinh đẹp quyến rũ như thuở nào! Trong chiếc đầm lụa dài quá gối, càng nhìn càng hấp dẫn. Quái, đôi môi mấp máy nhưng cô ta không thốt nên lời nào? Chẳng lẽ cô nàng gặp chuyện gì chăng?
Gò má trắng bệch, bàn tay đặt trên cửa cứ run rẩy. Sâu thẳm trong cặp mắt xám, sáng lóng lánh hiện rõ nét sợ hãi. Hay đó chỉ là chút bệnh nghề nghiệp vốn có của những người thường vào sinh, ra tử? “Cẩn tắc vô ưu”, người ta vẫn thường nói thế!
Giả vờ bình thản, anh chàng to tiếng chào:
- Anh mới ở vùng biển về đấy.
Vừa nói, James vừa đặt chân vào ngạch cửa.
- Anh vào được chứ?
Miệng thốt ra, tay trái của anh chàng chộp nhanh vào vai Paula, quay cô nàng một vòng rồi kéo ra phía cầu thang. Tay phải móc lẹ khẩu súng tự động.
Vâng, chưa đầy ba giây, lưng của Paula tựa ngay vào bức tường gần cửa ngôi nhà 3B. Còn anh chàng bước hẳn vào trong.
Họng súng đen ngòm của khẩu Heckler & Koch chĩa thẳng về phía trước.
Hoàn toàn chính xác, có hai tên lạ mặt núp sẵn trong đó.
Một tên còi cọc, gương mặt rỗ hoa mè nấp sát vào mé tường bên trái của James. Trên tay nó hình như là khẩu Charter Arms Undercover 38 ly.
Xa hơn về phía chiếc ghế bành da là một tên to lớn với đôi tay quá khổ, vẻ mặt y như mấy võ sĩ quyền Anh bị đánh nốc ao. Cái mũi của thằng này trông rất quái dị: to phù, đỏ bầm lên chẳng khác nào cái mụn nhọt sắp bể miệng. Nhìn sơ chẳng thấy nó mang thứ vũ khí nào.
Ngay lập tức, tên ròm bước về phía trái của anh chàng. Còn thằng to béo cũng bắt đầu chuyển động.
BÙNG BÙNG BUNG …
Một loạt đạn từ khẩu Heckler & Koch lao thẳng tới cổ tay tên còi cọc.
AAAAAH …
Nó la hét inh ỏi khi phần xương cổ tay gãy lìa. Khẩu 38 ly rớt ngay xuống sàn.
Không chần chừ một giây, hướng họng súng thẳng vào tên to con, anh chàng chộp nhanh thằng còi cọc, quay một vòng, dùng nó làm lá chắn. Hai chân của James bắt đầu xuống tấn, thủ thế.
Còn tên còi cọc bẹp dí, hai tay thòng xuống che lấy hạ bộ. Người nó cứ run rẩy như con heo bị chọc tiết.
Quái, dường như tên to béo không nao núng, Chẳng lẽ nó bị điên? Trước họng súng đen ngòm, nó cứ tỉnh bơ.
Dùng gót chân phải đá vào xác tên còi cọc đang nằm bệch dưới đất, anh chàng bước tới trước, giơ cao khẩu H & Không, tay duỗi thẳng, anh chàng hét lên:
- Đứng lại ngay. Nếu không mày chết không kịp ngáp đấy.
Mấy ngón tay của anh chàng đang xiết chặt cò súng. Bỗng miệng của tên to béo lẩm bẩm chửi tục bằng tiếng Nga.
Thật không ngờ, hệt như một tia chớp, thằng to béo quay người đi rất nhanh. Lạng người né, chợt James cảm thấy buốt ngay bờ vai phải.
Vâng, chưa đầy một giây, anh chàng dường như mất thăng bằng. Cánh tay của James hơi xụi xuống khi chân tên to béo vung cao.
Dày dạn kinh nghiệm cỡ 007 thế mà coi thường địch thủ quá. Nhìn sơ bộ dãng của tên to béo, anh chàng cứ tưởng ngon ăn. Ai dè, tên này quả là một sát thủ chuyên nghiệp. Trúng cú đá, khẩu H & Không trong tay anh chàng rơi trúng vào bức tường phía sau. Còn vết đau ngay vai phải của anh chàng bắt đầu hoành hành, nhức buốt khủng khiếp.
Lúc này, tên còi cọc đang tháo chạy xuống cầu thang, miệng cứ rên la như bị thiến. Không bỏ lỡ cơ hội, thằng to béo tiến đến gần hơn. Lùi nhanh về phía tường, anh chàng liếc ngang chỗ đau ở vai. Thật không ngờ, gắn chặt vào thanh ngang của cánh cửa là một con dao móng như lá lúa, cán bằng sừng, dài cỡ hai tấc. Ấy, bọn người ở Lapps vẫn thường dùng nó để xẻ thịt mấy con tuần lộc.
Chẳng thèm suy nghĩ nhiều, anh chàng chộp ngay cán dao, lăm lăm về phía trước. Gối hơi khuỵu xuống, lưng khòm đôi chút, James đang thủ thế với con dao trên tay.
Đáp lại bằng tiếng Nga, anh chàng thách thức tên to béo.
- Nào, có ngon cứ nhào vô.
Toét miệng cười lộ hàm răng vàng khè, thằng kia trả đũa:
- Nghe đồn đã lâu, ai dè Jame Bond dở tệ.
Rồi hai gã đàn ông cứ quần nhau vòng vòng. Người này bước qua một bên, kẻ kia bước tới một bước. James dùng chân đá chiếc ghế ra tạo khoảng cách với đối thủ được thông thoáng hơn.
Rút nhanh con dao khác từ gót chân, thằng to béo chuyển nó sang tay kia, chân xiết nhỏ vòng tròn. Tới lúc này, chỉ còn cách tiến sát lại, thừa thế ra đòn, không thể nào né tránh.
Thằng to béo vừa bước tới, vừa chuyển con lao liên tục. Đôi mắt anh chàng cứ căng ra theo dõi. Vâng, từng tấc, từng tấc một, tên to béo nhích lại gần hơn.
Đột nhiên, anh chàng dạng chân phải ra, làm một động tác giả. Con dao từ tay trái của James dường như chuyển sang tay phải. Kìa, ánh mắt của thằng to béo đang dõi theo bàn tay phải của anh chàng. Ồ, không, James rút con dao ngược lại, chĩa thẳng về phía nó.
XẸT … XẸT …
Hai con dao chạm nhau toé lửa. Quá bất ngờ thằng to béo lùi bước. Khi con dao trong tay nó chưa kịp giơ lên, James tiếp tục thọc sâu thêm một đường.
Như tia chớp, con dao lướt ngang qua mặt nó để lại một rãnh khá sâu khoảng giữa cằm và lỗ tai. Máu tươm ra thành dòng ướt đẫm chiếc áo khoác của nó.
Gầm lên trong đau đớn, giận dữ, nó lùi dần. Thật tình mà nói, anh chàng chẳng muốn giết người trên mãnh đất này. Đôi co với bọn cớm sẽ gay nhiều phiền nhiễu. Nhưng giờ còn có cách nào chứ? mặc kệ, phóng lao đành phải theo lao.
Bước tới trước rất nhanh, anh chàng vung tiếp mũi dao. Hai lằn sáng cứ quyện lấy nhau tạo ra ảo ảnh, tiếng xoèn xoẹt vang lên liên hồi.
Lại trúng nữa! má còn lại của thằng to béo bị hằn một rãnh sâu chạy từ trái tai xuống cằm. Hoảng sợ, đôi mắt nó mở to, trắng dã. Thở hổn hển, chân nó lùi dần ra cửa.
Đột nhiên vết đau trên vai của anh chàng bột phát. Hai mắt cứ hoa lên, chân hơi khuỵu xuống. Thừa cơ hội, lao nhanh ra khỏi nhà, thằng to béo “cong đuôi” chạy một mạch xuống cầu thang. Máu từ mấy vết thương tuôn xối xả ra chiếc áo khoác của nó.
Rồi sau đó, Paula bước nhanh vào phòng, vẻ mặt hốt hoảng:
- Em làm gì bây giờ? Hay để em gọi cảnh sát … ?
- Ồ không, Paula. Đừng dính líu tới bọn cớm. Chúng chẳng giúp được gì đâu.
Ngồi phệch xuống chiếc ghế bành, anh chàng nói tiếp:
- Đóng cửa lại. Nhớ khoá cẩn thận. Thử nhìn ra cửa sổ xem có gì lạ không?
Anh chàng cứ suy nghĩ mông lung, chẳng đoán được chuyện gì. Còn Paula riu ríu, làm theo những lời anh chàng dặn.
Rồi giọng của James vang lên, vẻ xa xăm kỳ lạ:
- Có thấy gì không?
- Một chiếc xe vừa lăn bánh. Em trông không rõ lắm.
Quay sang anh chàng, Paula hỏi nhanh:
- Này James, còn vết thương trên vai …
- Kể cho anh nghe đã xảy ra chuyện gì. Việc hệ trọng đấy. Làm sao bọn chúng vào trong nhà được? Bọn chúng muốn gì?
- Lo vết thương trước đã, anh James.
Cũng may, nhờ chiếc áo khoác lông thú dày, nếu không vai anh chàng hẳn lủng một lỗ to. Vết dao rạch một đường khá sâu trên cầu vai. Máu cứ rỉ ra, thấy ướt cả áo.
- Nào, kể cho anh nghe xe chuyện gì.
- Không, băng vết thương trước đã.
Khi anh chàng cởi áo ra, ồ, vết thương xén vào da thịt cũng khoảng một phân. Vừa sát trùng, băng bó, Paula từ từ kể lại câu chuyện.
Dù nét mặt làm ra vẻ bình thản nhưng mấy ngón tay của cô ta cứ run run. Vâng, hai tên sát thủ xuất hiện trước khi anh chàng bấm chuông có vài phút.
- Lúc đó, em đang bận thay đồ. Đảng trí quá, em lại không móc sợi dây xích. Thậm chí, không nhìn qua lỗ nhỏ trên cánh cửa. Em cứ tưởng là anh. Cửa vừa mở ra, hai tên lạ mặt bước xộc vào, ép em vào phòng, rồi cất tiếng hăm doạ. Nếu em không làm theo lệnh, chúng bắn em tức thì.
Anh chàng cứ suy nghĩ miên man. Thay vì trở về Luân Đôn, James đổi hướng đi, quyết định lưu lại Phần Lan vài ngày. Làm sao bọn này biết được? Dứt khoát chúng là nhân viên của một tổ chức tình báo nào đó. Lạ thật, chỉ vào phòng của Paula trước khi anh chàng đến đó có mấy phút? Thế ra chúng chờ sẵn dưới nhà ngay lúc chiếc tắc xi chở anh chàng tấp vào công viên Esplanade.
Vừa mặc áo vào, anh chàng nói tiếp:
- Cũng may em ra hiệu cho anh.
Cong cớn làn môi đỏ mọng, Paula đáp lại:
- Không hẳn thế. Chỉ là em quá sợ hãi.
Mỉm cười, anh chàng trêu chọc:
- Thế ư?
Cúi người xuống, Paula hôn anh chàng rồi cau mày:
- Thật đấy. Tim em còn đập thình thịch đây này. Mà anh James, tại sao anh có súng? Nhiệm vụ của anh là gì? Em cứ tưởng anh là một công chức cao cấp…
- Ờ, anh là một công chức cao cấp.
Khi anh chàng định hỏi một câu khá quan trọng, Paula bước tới chỗ khẩu súng, nhặt nó lên. Trao khẩu H & K cho James, tay cô ta vẫn còn run rẩy.
- Không biết bọn chúng có trở lại nữa hay không? Em chẳng biết phải đối phó như thế nào.
- Này Paula, có một số thằng bất lương đang theo dõi anh. Chính anh cũng chẳng hiểu tai sao. Công việc của anh đôi khi có chút nguy hiểm. Nhưng chuyện lại xảy ra ở Helsinki quả là không ngờ đấy.
Nhẩm tính trong lòng, anh chàng quyết định trở về Luân Đôn. Khi mình rời khỏi đây, Paula sẽ an toàn hơn. Nhưng giờ này đã quá trễ. Chuyến bay của Hãng Hàng Không Hoàng gia Anh cất cánh từ lâu. Thôi đành chờ tới sáng mai, mua đại vé của hàng không Phần Lan.
Mỉm cười, anh chàng cố tạo bầu không khí thư giãn:
- Chúng ta kiếm thứ gì dằn bụng cái đã. Anh đói lắm rồi.
Giọng cô nàng vẫn chưa hết run:
- Nhà em có sẵn thức ăn. Hay chúng mình đừng có ra đường vào lúc này.
Mấy câu hỏi chưa giải đáp được cứ luẩn quẩn trong tâm trí của anh chàng. Tại sao chúng biết mình có mặt ở Helsinki? Thật lạ, kể cả chuyến viếng thăm Paula, chúng cũng đoán được?
- Em đậu chiếc xe gần đây chứ?
- Vâng.
- Anh có thể mượn xe của em đi chút xíu được không?
Mỉm cười, cô nàng đáp ngay:
- Làm gì khách sáo quá vậy?
- Trước khi xuống dưới nhà, anh muốn hỏi em vài điều.
Rồi James hỏi thật nhanh. Không kịp để cô nàng tìm cách tránh né.
- Em có từng kể cho bạn bè, đồng nghiệp ở Phần Lan về mối quan hệ của chúng ta?
- Có.
- Còn ở mấy nước khác?
- Cũng thế.
- Em có nhớ là bao nhiêu người không?
Paula kể ra một số tên tuổi gì đó.
- Thái độ của họ lúc ấy ra sao?
- Em cũng không để ý.
- Khi anh phôn từ khách sạn Inter-Continental, có ai ở bên cạnh em không?
- Không có một ai, anh James à.
- Đường dây này có thường bị nghe trộm hay không?
- Hình như là có đấy. Đường dây phải bắt qua tổng đài.
- Mà này Paula, em có kể cho ai nghe cuộc hẹn của chúng ta vào lúc 6 giờ 30?
- Chỉ có một người. Em đã hẹn trước với một cô bạn cùng cơ quan. Chúng em định vừa ăn tối, vừa bàn công việc. Cô ta tên Anni Tudeer. Thế là anh chàng hỏi từng chi tiết về cô ả Anni.
Nghe xong, không nói tiếng nào, nhổm người dậy, James bước tới cửa sổ, vén màn, nhìn ra ngoài. Con đường dưới phố vẫn im lìm. Một vài chiếc xe đang đậu sát lề.
Thế là rõ rồi. Bọn chúng đang cho người bám sát cả anh chàng và Paula. Vâng, xoay xở chút xíu, anh chàng có thể lần ra tung tích của bọn sát thủ. Nhưng vào lúc này, chưa cần thiết làm căng lên.
Khi anh chàng quay trở lại chiếc ghế, Paula ngước đôi mắt lên nhìn:
- Anh hỏi cung xong chưa?
Với tay lấy hộp thuốc, anh chàng rút cho Paula một điếu.
- Không phải là hỏi cung. Anh chỉ muốn tìm hiểu chút thôi. Mà này, anh ở lại đây cho tới 4 giờ sáng, mượn xe của em đến khách sạn, thanh toán tiền phòng, lấy hành lý rồi ra phi trường. Em có thể tới đó lấy xe về được không?
Đột nhiên giọng của cô nàng trở nên nghiêm trọng.
- Anh không nên lái xe nhong nhong ngoài đường . Vết thương ở vai còn sưng vù đấy. Anh cần có thời gian nghỉ dưỡng. Thôi thế này, anh cứ ở lại đây cho tới 4 giờ sáng mai rồi em sẽ chở anh tới khách sạn và phi trường. Ủa, sao anh đi sớm vậy? 9 giờ mới có chuyến bay kia mà. Anh dùng phôn đặt vá trước cũng được.
- Anh đi càng sớm bao nhiêu, em càng an toàn bấy nhiêu. Bọn chúng chỉ nhắm vào anh. Ngay phòng chờ ở sân bay, chúng nó có thể ra tay uy hiếp em. Anh không muốn dùng điện thoại ở đây là vậy.
Dù nghe có lý nhưng cô nàng vẫn nằng nặc đòi chở James đi. Paula bao giờ cũng thế, thật là ngang ngạnh. Đến 007 cũng đành chào thua. Hôn vội lên má anh chàng một cái, Paula đứng lên.
- Anh có muốn dùng chút rượu không?
- Em quả là hiểu ý, Paula.
Bước nhanh xuống nhà bếp, cô nàng pha vội một bình rượu Martini.
Cách đây ba năm, khi còn ở Luân Đôn, anh chàng từng dạy cho cô ta cách pha chế món ruột của mình. Sau hớp đầu tiên, chà thật đã. James cảm thấy vết thương trên vai dường như chịu nằm yên, bớt hẳn đau nhức. Làm thêm ngụm nữa, tâm hồn trở nên sảng khoái.
Mỉm cười duyên dáng, anh chàng buột miệng khen:
- Cái đầm của em trông thật đẹp.
- Thật tình mà nói, em đã chuẩn bị xong bữa tối tai nhà. Ra ngoài đường trong thời tiết như thế này thật chẳng nên, phải không? Đột nhiên hai tên sát thủ xuất hiện. Vai anh thế nào rồi?
Choàng qua người James, Paula đưa bàn tay vuốt ve gương mặt bảnh trai còn hơn các siêu sao màn bạc. Bốn mắt cứ nhìn nhau không thốt nên lời. Thời gian như thoáng ngừng trôi trong thế giới chỉ có hai người …
Khi họ ngồi vào bàn lúc đó cũng quá nữa đêm. Vâng, một bữa ăn lãng mạn theo kiểu Pháp: ánh sáng từ ngọn nến cứ mờ mờ, tỏ tỏ …
Đến 4 giờ sáng, trùm kín người trong hàng đống quần áo, Paula cùng anh chàng bước xuống cầu thang. Thủ sẵn khẩu sung trong tay, anh chàng nương theo bóng tối trên đường phủ đầy băng giá.
Rồi họ vượt qua một chiếc Volvo bên trong có gã ngửa đầu ra, mồm há to, ngủ say như chết. Còn chiếc Audi cạnh đó lại trống trơn. Bước nhanh tới chiếc xe đang đậu, Paula mở cửa, rồ máy. Từng bụm khói to nhả vào màn đêm lạnh buốt.
Sau khi chở anh chàng tới khách sạn làm xong thủ tục trả phòng, Paula lái theo hướng Bắc, về phía Vantaa. Tới 7 giờ sáng cổng phi trường Vantaa mới mở nhưng người ta tụ tập ở đó sáng đêm. Chưa đầy 5 giờ, khắp nơi đầy mùi thuốc lá, cà phê của đám khách nửa đứng, nửa ngồi, mệt mỏi chờ chuyến tàu đêm.
Sợ cô nàng rề rà sẽ gặp chuyện chẳng lành, James hôn vội tạm biệt.
- Về tới Luân Đôn, anh sẽ gọi cho em.
Rồi lẫn vào dòng người từ từ bước qua cổng ra vào, anh chàng cảm thấy vết thương trên vai hơi nhức nhối. Dọc theo hành lang, từng đám đông, kẻ đứng, người ngồi la liệt. Vài tên cớm đi thành cặp, rảo vòng vòng dòm ngó.
Đúng 7 giờ sáng, cả phi trường nhốn nháo hẳn lên. Ngay bàn vé của hãng Hàng không Phần Lan, anh chàng mua ngay một vé trên chuyến 831, cất cánh vào lúc 9 giờ 10. Tuyết rơi ào ạt, càng lúc càng nhiều vào khoảng 8 giờ.
Khi chiếc máy bay DC9-50 từ từ lăn bánh trên đường băng, cả thành phố Helsinki dường như biến mất dưới trận bão tuyết. Xa xa, ở đường chân trời, vài tia nắng bắt đầu xuất hiện.
Lúc 10 giờ sáng tại đường băng 28 bên trái của phi trường Heathrow, Luân Đôn, chiếc DC9-50 giảm dần tốc độ rồi ngừng hẳn.
Một giờ sau đó, James bước vào toà nhà cao nhìn ra công viên Regent. Bất chợt cơn đau ngay bả vai lại hoành hành. mồ hôi cứ tươm ra đầy trán, mắt hoa lên, đôi chân của anh chàng như muốn khuỵu xuống.
Ông M cứ hỏi đi hỏi lại nhiều lần:
- Bọn chúng là sát thủ chuyên nghiệp à?
Hệt như mấy lần trước, anh chàng đáp không cần suy nghĩ:
- Vâng, thưa bác. Bọn chúng nhắm vào cháu.
Lầm bầm trong miệng điều gì chẳng rõ, gương mặt ông ta cứ quạu đeo.
•
• •
Khi bước vào toà nhà, dùng thang máy, anh chàng lên vội lầu 9. Vừa tới nơi, đầu óc như quay cuồng, người nặng chịch, đôi chân của anh chàng bắt đầu lảo đảo.
Ngồi tại bàn làm việc, cô nàng Moneypenny, thư ký riêng của ông M, ngẩng đầu lên, mỉm cười.
- Chào anh James …
Chưa dứt lời, bỗng thấy James khuỵu hẳn xuống, nhổm người lên, cô ta bước tới đỡ.
Thoáng trong cơn chóng mặt, mệt mỏi, anh chàng vẫn còn đùa:
- Ồ Penny, em thật tuyệt. Mùi hương gì mà quyến rũ thế?
- Thì vẫn là Chanel. Trông người anh kìa, đầy mồ hôi, thuốc sát trùng. Hình như có cả mùi thuốc Patou …
Ông M đã đi ra ngoài. Hình như tới họp ở Uỷ Ban Tình Báo Phối Hợp. Mười phút sau đó, Moneypenny dìu anh chàng xuống phòng y tế cho tay bác sĩ cùng hai điều dưỡng chăm sóc.
Paula nói vậy mà đúng. Vết thương đang làm độc. Cần phải chích vài liều kháng sinh và khâu lại mấy mũi.
•
• •
Đến 3 giờ chiều, anh chàng cảm thấy khoẻ hẳn. Ngồi trước mặt ông M và Bill Tanner, James kể lại từng chi tiết một. Ông M lúc nào cũng tỏ ra trầm tĩnh nhưng hôm nay khác lạ, mặt nhăn nhăn, nhó nhó.
- Kể cho bác nghe về cô ấy đi. Paula Vacker , phải không nào?
Nghiêng người về phía trước, ông ta nhồi thuốc vào tẩu. Vẻ nghi ngờ hiện rõ trên ánh mắt. Chẳng lẽ ông ta nghĩ mình nói xạo?
Hệt như đứa học trò lười thức sáng đêm học bài, anh chàng đọc ê a mối quan hệ của mình với Paula.
- Còn bạn của cô ấy? Người cô ta từng nhắc đến?
- Đó là Anni Tudeer. Làm chung công ty nhưng khác phòng ban. Lúc này họ đan tham gia vào một dự án nghiên cứu hoá học tại phòng thí nghiệm ở Kemi, nằm ở phía Bắc.
Đột nhiên giọng của ông ta quạu quọ.
- Bác đâu có lạ gì Kemi. Trên đường tới Rovanniemi và các vùng ở Bắc Cực, người ta đều phải ghé ngang đó.
Quay sang Bill Tanner, ông ta ra lệnh.
- Cậu kiểm tra trên máy vi tính giùm tôi mấy cái tên xem. Liệu chúng ta có chút thông tin gì không? Báo cho tôi vào lúc 5 giờ!
Cúi đầu chào, Bill bước nhanh ra ngoài. Khi cánh cửa khép lại, tựa lưng vào ghế, ông ta hỏi tiếp:
- Còn chuyện tập huấn của cháu như thế nào rồi?
Ấy, trong đôi mắt xám sắc sảo đó, James thấy cả một thế giới bí ẩn với hàng ngàn điều không thể thốt cùng ai. Dè dặt, anh chàng đáp lại:
- Thưa bác, mọi việc cũng ổn thôi. Thấy còn dư thời gian, cháu định lưu lại Helsinki vài hôm trước khi về Luân Đôn. Cũng chỉ là chút ngẫu hứng thôi. Có thể bọn chúng câu trộm đường dây ở khách sạn. Mà không chừng ở chỗ Paula. Rồi thừa dịp cháu không phòng bị, chúng ra tay đánh lén.
Lấy cái tẩu ra khỏi miệng, ông ra dứ dứ nó trước mặt anh chàng:
- Bọn chúng là ai?
Nhún vai, anh chàng khẽ lắc đầu. Ôi, vết thương bị động làm anh chàng nhăn nhó.
- Bọn chúng nói với Paula bằng tiếng Phần Lan sành sỏi lắm. Nhưng với cháu, chúng dùng tiếng Nga ba rọi. Theo lời cô nàng, có lẽ bọn chúng là dân Bắc Âu nhưng không phải Phần Lan.
- Bác không hỏi chuyện này. Bọn trùm đứng sau lưng kìa. Chúng muốn gì?
- Có lẽ đó là tàn dư của SPECTRE. Không chừng chỉ là một nhóm găng xtơ gà mờ, khoái chơi nổi.
- Theo cháu, BINH ĐOÀN HÀNH ĐỘNG QUỐC XÃ là bọn gà mờ à?
- Thưa bác, không giống hành vi của bọn này. Theo mấy bản tuyên bố, chúng không nhắm vào chúng ta.
Khẽ nhếch mép, ông M mỉa mai:
- Này 007, bọn chúng có thể nhắm vào một cơ quan, chẳng hạn như chỗ Paula đang làm việc.
Anh chàng cố cãi lại:
- Thưa bác …
Quái, đột nhiên ông ta như bị kích động.
- Vâng, có thể không phải là hành vi của bọn này. Nhưng biết đâu chúng không muốn có bất kỳ ai chõ mũi vào chuyện riêng tư.
- Nhưng …
- Đúng lý ra, sau khi kết thúc đợt tập huấn, cháu phải trở về Luân Đôn. Đằng này lại thơ thẩn ở Helsinki, lo tán gái.
- Cháu định …
- Này 007, cháu còn nhớ điều lệ của Cục Phản gián?
- Cháu …
Rồi giọng của ông ta dịu lại:
- Bác những mong sau đợt tập huấn, cháu làm quen với điều kiện khí hậu ở đấy. Trước khi đi, bác đã chẳng giải thích cụ thể hay sao?
- Cụ thể?
Im lặng một lúc rồi ông ta nói tiếp:
- Chúng ta sắp bước vào một chiến dịch khá gian khổ ở vùng Bắc Cực. Đợt tập huấn chỉ là phương pháp làm nóng sơ bộ cho riêng cháu. Nói ngắn gọn, cháu phải tham gia vào chiến dịch này.
Lời lẽ ông ta quá mơ hồ, anh chàng đành hỏi tiếp:
- Chống lại ai?
- Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã.
- Ở Phần Lan à?
- Khu vực gần biên giới Nga.
Chồm hẳn người về phía trước, giọng ông ta căng thẳng. Hệt như sắp tiết lộ điều gì đó cơ mật.
- Chúng ta có một đối tượng ở đấy. Nhưng thời điểm này chưa thích hợp đi sâu vào chi tiết. Giữa các nước đồng minh có sự bất đồng. Sắp tới đây sẽ có một đội đặc nhiệm tới cùng làm việc với cháu. Dĩ nhiên, chúng ta phải họp trước để đề ra phương án tác chiến.
- Cả một đội?
- Đúng thế, các chiến hữu trong Liên Minh. Nhưng bác lại sợ là vụ mèo mả gà đồng của cháu ở Helsinki có ảnh hưởng đến yếu tố bất ngờ của chiến thuật. Tham gia vào một đội nhưng không để bọn Phát Xít Mới nắm được.
Anh chàng cứ thắc mắc:
- Một đội ư?
Khẽ tằng hắng, ông M thủng thẳng đáp lại:
- Phải, một chiến dịch liên quân rất kỳ lạ theo đề nghị của phía Xô Viết.
Cau mày, anh chàng hỏi tiếp:
- Chúng ta sẽ làm việc với đám tình báo ở Moscow?
Gật đầu, giọng ông ta dứt khoát:
- Không chỉ với đám người ở Moscow, liên minh còn có Langley và Tel Aviv.
Ngạc nhiên, anh chàng thốt lên:
- Ồ …
Vẫn cau mày, môi ông ta mím chặt:
- Như bác đã nói, một liên minh rất kỳ lạ.
Hoàn toàn bất ngờ, anh chàng cứ lẩm bẩm:
- Chúng ta, KGB, CIA và cả Mossad của Israel.
Chẳng cần phải giấu giếm, ông M nói thẳng thừng:
- Chính xác là như thế. Người Mỹ đặt tên cho chiến dịch này là Icebreaker. Người Nga cũng đồng ý. Họ sẽ tài trợ …
Có vẻ hoài nghi, anh chàng hỏi thêm:
- Đám KGB yêu cầu hợp tác?
- Đúng, liên minh tình báo. Khi được thong báo, một số người cũng đâm ra hồ nghi. Rồi người ta mời bác đến dự một cuộc họp ở toà đại sứ Mỹ tãi Quảng trường Grosvenor.
- Thưa bác, họ yêu cẩu chúng ta à?
- Đúng, đám Mossad cũng có mặt. Trong vòng một ngày, chúng ta tiến hành đàm phán ba bên.
Quá bất ngờ, anh chàng không thốt nên lời. Còn ông M vẫn tiếp tục kể, thỉnh thoảng ngừng lại mồi lửa vào tẩu.
- Trong cuộc họp, người ta phân tích, đánh giá tình hình, đề ra phương án tác chiến, chọn người vào các vị trí. Đội hình cần ít nhất ba người. Riêng đám người Nga đã có ba người. Nhiều người quá rất khó hành động. Cuối cùng, chúng ta đã gặp người đại diện của KGB, Anatoli Pavlovich Grinev …
Đột nhiên anh chàng xen vào:
- Ồ, đại tá khu vực I của phân cục III với chức danh là tuỳ viên thương mại thứ I ở KPG.
Khẽ gật đầu, ông M đáp lại:
- Chính ông ta.
Ấy, KPG có nghĩa là toà đại sứ Nga nằm ở số 13 công viên Kensington Palace. Còn phân cục thứ III của KGB là cơ quan có liên quan đến tất cả các hoạt động tình báo với Anh, Úc, New Zealand và các nước Bắc Âu.
Rồi ông M nhắc lại.
- Chính hắn.
Cái gã thấp người, lỗ tai ba góc. Tay đại tá Grinev lắm mưu, nhiều kế này, anh chàng đâu có lạ gì. Trước đây họ từng biết nhau qua vài lần.
- Hắn ta giải thích như thế nào? Tại sao hắn cần chúng ta, CIA và cả Mossad tham gia vào chiến dịch hoạt động trên đất Phần Lan? Thật tình mà nói, KGB có mối quan hệ khá tốt với cục tình báo SUPO của Phần Lan.
- Không hẳn thế. Cháu đã đọc hết tư liệu về bọn NSAA chưa?
Khẽ gật đầu, anh chàng đáp lại:
- Ba mươi vụ ám sát thật hoàn hảo. Nhưng bọn chúng không dừng lại ở đấy …
- Liên Minh Các Cơ Quan Tình Báo cũng đánh giá như thế. Cháu đã đọc hết năm mươi trang?
- Họ có vẻ lăng xê Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã quá. Theo cháu, bọn chúng chỉ là một tổ chức khủng bố cuồng tín cỏn con. Cháu không chắc về phần kết luận của bản báo cáo.
Khịt khịt mũi, ông M đáp lại:
- Bác lại nghĩ khác đấy, 007. Bọn NSAA cuồng tín, điều này rõ rồi. Không cần bàn cãi. Chúng được nuôi dưỡng bằng giáo điều hoang tưởng của Phát xít Đức trước đây. Mỗi ngày, chúng đang lôi thêm nhiều nạn nhân vào cái bẫy. Bọn cầm đầu NSAA tự cho mình là các nhà hoạch định cho chế độ Quốc Xã Đệ Tứ. Mục tiêu chính của bọn chúng trong thời điểm hiện nay là Xô Viết. nhưng càng lúc, chúng càng bộc lộ rõ dã tâm.
- Chẳng hạn như cái gì, thưa bác?
- Những cơn bạo động chống lại tư tưởng Xê-mít ở châu Âu và Hoa Kỳ trong khoảng thời gian gần đây.
- Theo cháu, điều này không có bằng chứng …
Giơ một tay lên như bảo anh chàng cứ bình tĩnh, ông M nói tiếp:
- Còn một việc nữa, chúng ta nắm chắc được một tên.
- Một thành viên của bọn NSAA? Không ai …
- Dĩ nhiên, điều này vẫn còn là bí mật. Chưa thể nào tiết lộ ra ngoài. Tên ấy trong tay chúng ta hệt như con kiến bò quanh miệng chén.
- Thưa bác, “chúng ta” có phải là Cục Phản gián Hoàng Gia?
- Đúng thế. Hắn có mặt ở đây. Ngay trong toà nhà này. Ở khu vực tiếp khách.
Chỉ tay xuống đất, ý ông M muốn nói đến phòng thẩm vấn ở dưới tầng hầm. Rồi ông ta lại tiếp tục:
- Đúng, sau cái vụ thảm sát ba viên chức giữa ban ngày, ban mặt tai Luân Đôn. Cách đây sáu tháng, lúc bàn xong vài hợp đồng thương mại, vừa rời khỏi đại sứ quán Nga, họ bị một nhóm khủng bố tấn công. Khi nhóm đặc nhiệm SPG xiết chặt vòng vây, tên sát thủ còn lại định tự tử nhưng không thành công. Từ tay thần chết, chúng ta kéo hắn trở về. Hắn tiết lộ cho chúng ta biết vài điều về NSAA.
- Hắn khai ra à?
Nhún vai, ông M lộ vẻ thất vọng:
- Rất ít. Nhưng từ những điều hắn nói, chúng ta lần ra sự thật. Vâng, rất ít người biết về chuyện này. Chúng ta có bằng chứng cụ thể. Bác dám cá đến 80%, hoạt động của bọn NSAA mang tính toán và không ngừng lớn mạnh. Dứt khoát bọn chúng chẳng chịu dừng tay. Rồi đây chúng sẽ hoạt động công khai, khuynh đảo chính trị tại các quốc gia dân chủ. Dĩ nhiên, nước Nga sẽ là nạn nhân đầu tiên.
- Tại sao chúng ta phải hợp tác với họ?
- Không có cơ quan tình báo nào nắm được chút manh mối ngoài đám KGB.
Im lặng, anh chàng đang suy nghĩ miên man.
- Tất nhiên, họ chẳng thể nào biết được bí mật của chúng ta. Nhưng họ có vài tư liệu khá quan trọng về bọn cung cấp vũ khí cho NSAA.
Nghiêng đầu một chút, anh chàng xen vào:
- Vũ khí bọn chúng dùng toàn bộ của người Nga. Cháu đoán rằng …
- Không đoán già, đoán non gì cả, 007. Đám KGB có bằng chứng thuyết phục. Toàn bộ vũ khí của bọn NSAA là hàng ăn cắp từ Nga, vận chuyển qua biên giới Phần Lan, tập kết tại nhiều điểm. Đó là lý do tại sao họ muốn giữ kín bí mật với chính quyền Phần Lan.
- Nhưng còn chúng ta?
- Họ cần có nhiều quốc gia hỗ trợ. Israel dứt khoát là mục tiêu tiếp theo của bọn chúng. Chúng ta và Hoa Kỳ không thể nào đứng ngoài cuộc.
- Bác tin tưởng bọn họ à?
Giọng từ tốn, ông M đáp lại:
- Dĩ nhiên là không. Nhưng trước tình thế này, chúng ta phải hợp sức lại trước kẻ thù chung.
- Chiến dịch Icebreaker dự kiến sẽ diễn ra trong bao lâu?
- Khoảng sáu tuần. Họ muốn cháu tham gia ngay vào giai đoạn đầu của chiến dịch. Nhưng bác còn đang đắn đo.
- Liệu chiến dịch còn chắc chắn không, thưa bác?
- Còn tuỳ thuộc vào năng lực của cháu. Nhưng sau chuyện xảy ra ở Helsinki, xem chừng có điều bất tiện.
Chợt bầu không khí im lặng bao trùm lấy căn phòng. Ngột ngạt, khó thở. Xa xa đằng kia, sau cánh cửa văng vẳng tiếng điện thoại.
Rồi anh chàng mở lời trước.
- Gã điệp viên chúng ta đang cài vào …
- Clifford Arthur Dudley đang làm nhiệm vụ ở đấy. Hắn ta từng sống ở Stockholm một thời gian.
Anh chàng châm thêm một điếu thuốc rồi đáp lại:
- Một tay khá bản lãnh. Cháu từng cộng tác với hắn ta. Cách đây vài năm, Clifford đã theo dõi và tóm được tên ám sát nhà ngoại giao Rumani ở Pháp. Sao bác nói giữa Liên minh có sự bất đổng …
Bỗng ông ta đứng dậy bước tới cửa sổ, hai tay chống ngang hông, nhìn xuống công viên Regent.
- Vâng, đến cả đám người Mỹ còn không biết hành tung của hắn ta.
- Cliff Dudley ấy à?
Quay đầu lại, ánh mắt của ông ta có vẻ kín đáo.
- Hắn làm theo lệnh của bác. Đại loại như một cách thăm dò đợi cho đến khi cháu thích hợp với điều kiện khí hậu ở đó.
Sau một lúc im lặng, anh chàng bèn thốt ra:
- Thế là cháu phải tham gia vào biệt đội đặc nhiệm?
- Ừ, cháu nên gặp họ càng sớm càng tốt. Bác đã chọn sẵn một điểm hẹn. Khách sạn Reid ở Funchal, Madeira, cháu thấy thế nào?
- Chính thế, tốt hơn nhiều cái nhà trọ của Lapp ở cùng Bắc Cực, thưa bác.
- Ồ. Chúng ta sẽ bàn bạc phương án tại đây trước. Tối mai, cháu phải lên đường. Bắc Cực sẽ là điểm dừng kế tiếp sau Madeira đấy. Nào, còn khá nhiều
việc đang chờ chúng ta. Cháu nên nhớ cho một điều: Chẳng phải là một miếng bánh dễ nuốt như người ta từng nói trong thế chiến thứ II đâu.
Mỉm cười. anh chàng tán thêm:
- Vâng, thậm chí Madeira cũng không phải là một mẩu bánh.
Nhìn James, ông ta cười xòa.
Tính thì tính vậy,chứ làm sao mà anh chàng có thể rời khỏi Luân Đôn sớm như thế? Còn biết bao nhiêu việc ngổn ngang chưa giải quyết xong.
Mấy tay bác sĩ cứ bảo vết thương chưa lành, cần phải có thời gian nghỉ dưỡng. Bill Tanner đang truy tìm mớ hồ sơ về Paula Vacker và Anni Tudeer. Chà, xem chừng nhân thân, lý lịch của hai cô ả có chút vấn đề đây.
Hoá ra Paula tuy quốc tịch Phần Lan nhưng là người Thụy Điển. Còn bố cô ấy từng làm việc cho ngoại giao đoàn Thụy Điển. Theo hồ sơ, ông ta thuộc nhóm quân sự hữu khuynh.
Ông M cứ luôn miệng lầm bầm:
- Có thể hắn là một thành viên phát xít.
Anh chàng hơi chột dạ. Lẽ nào mình lại giao trứng cho ác? Chưa hết, Bill Tanner còn thêm dầu vào lửa.
- Có thể lắm. Nhưng bố của cô ả Anni Tudeer đúng là một tên phát xít.
Ruột gan của anh chàng đang sôi sục. Ước gì có thể bay tới đó hỏi Paula cho ra lẽ. Còn cô ả Anni Tudeer nữa. Chẳng lẽ mình bị xỏ mũi mà không hay?
Tư liệu về Anni chẳng có bao nhiêu nhưng bố của ả, ôi thôi, đủ thứ. Bố ả từng là sĩ quan cao cấp trong quân đội Phần Lan. Đại tá Aarne Tudeer là một thành viên trong Bộ tham mưu của tướng Mannerheim vào năm 1943. Vào năm ấy, Phần Lan kề vai sát cánh vơi Đức Quốc xã chống lại Liên Xô. Hắn từng là một sĩ quan quân đội SS. Dù là người Phần Lan, nhưng Tudeer lại rất khoái Đức Quốc xã, đặc biệt là Adolf Hitler.
Cuối năm 1943, hắn còn ngoi lên được tới chức sĩ quan tình báo cao cấp của SS rồi đến làm việc tại Đức. khi chiến tranh kết thúc, đột nhiên hắn biến mất. Theo một nguồn tin chính xác, hắn vẫn còn sống. Danh sách truy nã của đồng minh có tên Aarne Tudeer với tội danh diệt chủng.
Vào tháng Ba năm 1944, hắn đích thân hành hình năm mươi tù nhân chiến tranh đào thoát thất bại ở nhà tù Stalag Luft II ở Sagan. Sự kiện đẫm máu này trở thành vết son ô nhục trong lịch sử tội ác của Đức Quốc Xã.
Sau đó, hắn chiến đấu trong phân đoàn số II Pandex của SS từ Montauban cho tới Normandy. Càng lúc hắn càng bộc lộ thú tính, gặp ai cũng giết. Chỉ riêng ngôi làng Oradout-sur-Glaane với sáu trăm bốn mươi hai người toàn đàn bà và trẻ con, hắn ra lệnh đốt sạch trong hơn mười ngày vào tháng Sáu năm 1944.
Rồi giọng của Bill Taner tiếp tục vang lên:
- Một tên tội phạm chiến tranh điển hình. Dù tuổi hắn dã xế chiều nhưng Đồng Minh vẫn không buông tha cho hắn. Vào những năm 50, người ta thấy
hắn xuất hiện ở Nam Phi rồi mất dạng. Có thể sau khi giải phẫu nhân dạng, hắn quay trở lại chau Âu vào thập kỷ 60.
Chà, liệu chừng không ổn. Hoàn toàn không ổn rồi. Cái tật lăng nhăng làm anh chàng không còn tỉnh táo. James yêu cầu cho xem qua chút tư liệu và hình ảnh của tên Tudeer. Nhìn ông M, anh chàng bẽn lẽn:
- Thế là cháu chẳng có cơ hội trở lại Helsinki tìm Paula và cô ả Anni Tudeer rồi.
Khẽ lắc đầu, ông ta đáp lại:
- Này 007, không còn nhiều thời gian nữa đâu. Đội đặc nhiệm đang rời khỏi khu vực tác chiến với hai lý do. Tới gặp cháu, hai bên cùng phân tích, đánh giá tình hình. Rồi lên kế hoạch cho bước cuối cùng của chiến dịch. Địa điểm, cách thức vận chuyển số vũ khí đến cho bọn NSAA, kẻ nào lãnh đạo các cuộc khủng bố và sào huyệt của bọn chúng đang ở đâu, họ đã nắm rất rõ. Giờ chỉ còn việc phá án.
Xoay xoay người trên chiếc ghế, nhồi cái tẩu rồi ông M nói tiếp. Lắng nghe, chàng điệp viên ngoại hạng càng lúc càng nổi da gà. Ậy cuộc họp kéo dài cho tới khuya.
Trở lại căn hộ Chelsea, James như vừa rời khỏi trại tập trung. Gân cốt rã rời, mặt mày bí xị. Nhìn anh chàng bà quản gia May phát rầu.
Vẫn với giọng ôn tồn, dịu dàng, bà ta bảo:
- Sao ông phờ phạc quá? Vào giường nằm nghỉ rồi tôi sẽ làm bữa tối mang lên. Đừng phí sức như thế. Có hại cho sức khoẻ đấy, ông James ạ.
Vài phút sau, bà May mang lên một mâm cá hồi nướng và món trứng chiên nghi ngút khói. Vừa ngồi ăn, anh chàng vừa tranh thủ đọc chồng thư để bên cạnh.
Ái chà, chẳng biết từ đâu, cơn buồn ngủ kéo tới, hai mắt muốn sụp mí. Ráng nuốt mấy miếng cho hết bữa, anh chàng ngả lăn ra, đánh một giấc cho tới sáng.
Chừng khi tỉnh dậy, anh chàng thấy trưa trờ, trưa trật. Kim đồng hồ đã chỉ 10 giờ. Ngồi dậy ngay, James gọi bà May đem bữa điểm tâm. Chưa đầy vài phút, chuông điện thoại cứ reo inh ỏi. Bên kia đầu dây, ông M cứ la toáng lên.
Chút thời gian còn lại ở Luân Đôn phải cắt xẻ manh mún cho nhiều việc. Cùng đám cộng sự mổ xẻ, phân tích, đánh giá tình hình xong, James lại phải gặp riêng Cliff Dudley nhận chuyển giao công việc.
Chà nhắc tới Cliff mới nói, một tay thấp người, cơ bắp săn chắc, tính tình nóng nảy của người Scốtlen. Vừa tôn trọng năng lực của hắn, anh chàng vừa khoái cái khoản bộc trực, dám nói dám làm.
- Nói thật nghe James, nếu mình có thời gian, mình sẽ theo đuổi chiến dịch tới cùng. Nhưng lãnh đạo cứ bảo cậu thích hợp hơn. Ngay từ khi giao nhiệm vụ cho mình, ông M đã nói rõ chuyện này. Ráng tự chăm sóc đấy. không ai có thể giúp được cậu đâu. Cái đám Moscow, cậu thừa biết rồi đó. Hẳn không cần mình nhắc nhở, đúng không? Có thể mình quá đa nghi nhưng cái gã ấy bụng dạ khó lường.
Chà, ý Cliff muốn nói tới Nicolai Mosolov nổi tiếng trong thế giới tình báo. Mấy tay ở KGB thường gọi hắn là Kolya, Mosolov thành thạo tiếng Anh, tiếng Mỹ, Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Ý, Tây Ban Nha, Phần Lan. Gần bốn mươi tuổi, hắn là ngôi sao sáng trong trường đào tạo tình báo ở gần Movosibirsk, từng làm việc cho nhóm Hỗ Trợ Kỹ Thuật cho các chuyên gia, thuộc phân cục thứ II của KGB.
Còn mấy tay Cục Phản Gián Hoàng Gia ấy à, họ biết Mosolov dưới hàng chục tên giả. Ở Hoa Kỳ, hắn mang tên là Nicholas S. Mosterlane, ở Thụy Điển và các nước Bắc Âu là Sven Flanders, ở Luân Đôn với cái tên Nicholas Mortin- Smith. Ấy, biết là biết vậy, nhưng chưa bao giờ tóm được hắn.
Bỗng ông M xen vào:
- Hệt như con tắc kè bông biết thay hình, đổi dạng. Chưa ai có thể lần ra tung tích của hắn. Ậy, bị sập bẫy rồi hắn còn cao bay xa chay.
Còn cái tay cộng sự người Mỹ nữa, anh chàng cũng chẳng khoái gì cho lắm. Hắn tên là Brad Tirpitz nhưng trong làng tình báo người ta cứ gọi đùa là Bad. Từng là cựu sinh viên của trường đào tạo CIA, hắn thoát được bao cuộc tình giản biên chế ngay tai tổng hành dinh Langley, bang Virginie. Thuộc típ người hùng theo quan niệm “sống hay là chết”, tính tình khá ngổ ngáo. Một sồ người cứ coi hắn như một huyền thoại sống. Số còn lại lại coi thường ra mặt.
Tạm gọi Brad có một phương pháp thẩm tra rất độc đáo. Hắn thường to nhỏ với bạn bè: “Kết Quả Mới Đánh Giá Được Năng Lực”. Năng lực hắn muốn nói ở đây là tính bạo tàn của lũ sói và trái tim sắc đá của đám bò cạp.
Chà, lần này 007 gặp toàn đồng sự trời ơi, đất hỡi rồi: một gã người Moscow bụng dạ dẹp hòi, một tay CIA có máu lạnh, giết trước, hỏi sau.
Ngồi nghe ông M cùng với Bill Tanner triển khai nhiệm vụ cho tới khuya, rồi sáng hôm sau, anh chàng phải gặp mấy tay bác sĩ kiểm tra vết thương lại lần cuối.
Mãi cho tới 2 giờ trưa, anh chàng mới lên được chuyến bay TAP đi Lisbon, đón tiếp chiếc Boeing 727 tới Funchal.
Mặt trời đang xuống thật thấp. Dường như muốn chạm phải mặt nước. Những vừng sáng đỏ rực hắt vào bờ đá khi chiếc 727 chỉ còn cách mặt đất ở độ cao gần hai trăm thước. Vượt qua mũi đất Ponta de Sao Lourenco, đảo một vòng nhẹ, con chim sắt khổng lồ đáp tà tà lên đường băng đang nâng cấp.
Một giờ sau, chiếc tắc xi đưa anh chàng tới khách sạn Reid. Nghỉ qua đêm, sáng hôm sau anh chàng phải tìm gặp Mosolov, Brad và thành viên cuối cùng trong chiến dịch Icebreaker, một nhân viên tình báo của Mossad.
•
• •
Nghe lời mô tả của Clifford về cô nàng, James cứ mở to mắt, miệng cứ xuýt xoa, lộ vẻ kinh ngạc. Một cô gái tóc vàng có thân hình tuyệt mỹ, cao non thước bảy, gương mặt xinh đẹp như thần Vệ Nữ, nói năng sắc sảo, đầu óc …
Sốt ruột, anh chàng hỏi ngay:
- Đầu óc thì sao nào?
- Hết xẩy. Cô nàng tuổi gần ba mươi. Nói thật nghe, mình ghét làm việc chung với cô ta …
Khẽ mỉm cười, anh chàng thốt lời mỉa mai:
- Ganh tị chứ gì?
- Theo ông M, ngoài cái tên Rivke Ingber, hồ sơ không ghi nhận lại chút xíu nào hành tung của cô ta. Lại gặp một nhân vật thần bí nữa. Giờ đây, anh chàng đang dõi mắt về phía hồ bơi nằm bên hông khách sạn. Xuyên qua cặp kính mát, James tìm kiếm từng gương mặt, hình dáng.
Một lúc sau, từ mặt nước nhấp nhô, thần Vệ Nữ với mái tóc vàng óng ả, trau chuốt, xuôi người ngụp lặn. Ồ, không bút mực nào có thể mô tả từng chi tiết một dáng vẻ tuyệt mỹ trong bộ Bikini Cardin.
Khẽ xoay người trên chiếc ghế, dù vết thương ở vai đang lành chợt đau nhói, anh chàng vẫn dán mắt vào cặp đùi dài thon thả, cách đưa tay chậm chạp nhưng đầy vẻ gợi tình.
Quả là ông M có con mắt tinh đời, khéo chọn điểm hẹn ở chỗ này. Dọc theo hàng trăm khách sạn chứa khách du lịch chật như nêm từ Gran Canaria đến Corfu, Reid là một trong số ít còn mang hơi hướng của những năm 30: khung cảnh thơ mộng, trữ tình, đám nhân viên phục vụ đúng khuôn phép, nhà hàng hợp khẩu vị.
Đưa tay dụi dụi mắt, anh chàng cố tìm kiếm Mosolov và Tripitz. Quái, trong đám đông bát nháo, chẳng thấy bóng dáng của hai gã này. Chỉ có Rivke Ingber là không có tấm hình nào trong hồ sơ.
Nhớ lại buổi bàn giao công việc, nheo nheo mắt Clifford nói úp úp, mở mở:
- Ậy, cô ấy rất dễ tìm. Trước sau gì, cậu cũng nhận ra thôi.
Giờ mọi người đang từ từ bước về phía nhà hàng lộ thiên nằm dọc hai bên hồ bơi. Trên những chiếc bàn dài, bữa tiệc bup-phê bày la liệt. nào là các món rau trộn, thịt nguội, súp, xốt cà phô-mát, bánh nhân thịt … Hàng trăm thứ, chẳng thể nào nhớ nổi.
Nhổm người dậy, trong chiếc áo choàng bằng vải bông xù, James bước thong thả về phía dãy bàn. Vừa gắp mấy lát thịt nguội, mớ xà lách, bông anh chàng nghe một chất giọng thánh thót vang lên:
Có muốn dùng chút rượu không, anh James? Cho lòng bớt giá băng?
Không quay mặt lại, anh chàng lên tiếng:
- Có phải là cô Ingber không nào?
- Vâng, thoáng qua chút xíu tôi biết ngay là anh. Chúng ta dùng bữa chung với nhau nhé. Mấy người nữa cũng sắp tói rồi đấy.
Khẽ nhìn sang, anh chàng thấy đúng là cô gái tóc vàng xinh đẹp, làn da ngả sang màu đồng trông rất ấn tượng. Dáng vẻ trẻ trung, căng đấy nhựa sống của Ingber làm người ta chợt nhớ đến các vận động viên ở các kỳ Thế Vận. Gương mặt mang dáng dấp của những người Bắc Âu, cặp mắt đen sậm, đôi môi gợi tình trên chiếc cằm cương nghị, trong cô nàng thật hấp dẫn.
- Xin chào cô Ingber. Chưa gì cô tấn công từ mạn sườn của tôi rồi.
Mỉm cười, chiếc miệng xinh xắn đáp lại:
- Xin chào, anh James.
Trên tay cô nàng là một cái dĩa với mấy miệng ức gà, cà chua xếp lát, vài thứ rau trộn. Vẫy ta về chiếc bàn gần đấy, anh chàng nhường cho Ingber đi trước. Chà, trông cái dáng nhún nhảy của cô nàng mới gợi tình làm sao!
Mải nhìn ngắm Ingber, James chẳng còn biết trời đất chung quanh. Giờ ngồi đối diện với anh chàng bảnh trai hơn cả mấy siêu sao màn bạc, Ingber cứ dùng lưỡi miết miết làn môi phía trên.
- Anh có biết không …
Ngừng một chút, cô nàng thì thầm:
- … Tôi từng nói với các đồng nghiệp: tôi rất mong được cùng làm việc chung với anh.
Cố gắng dò xét ánh mắt nâu đậm của cô gái, tay James cầm cái nĩa quơ quơ trước mặt:
- Thế ư?
Tiếng cười của Ingber vang lên giòn giã.
- Clifford chưa kể cho anh nghe à?
Tròn xoe đôi mắt, anh chàng tỏ vẻ chưng hửng:
- Không hề. Thời gian quá ngắn ngủi, tôi chỉ nghe báo cáo tình hình rồi thu xếp công việc tới đây. Chỉ biết một điều đội hành động gồm các thành viên rất kỳ lạ. Trước giờ, tôi chưa từng làm việc theo kiểu này.
Lẫn trong tiếng cười, Ingber đáp lại:
- Tạm gọi là tình cách có phần trái ngược nhau. Brad Tirpitz có vẻ hơi thô lỗ. Còn Clifford cứ xung khắc với hắn ta. Tôi cảm thấy hơi phiền nhiễu. Giữa tôi và Brad lại không có chuyện gì.
Vừa ăn, anh chàng vừa hỏi về chiến dịch. Rồi làn môi dưới của Ingber trề ra, thoáng vẻ khêu gợi.
- Chúng tôi sẽ báo cáo cụ thể với anh trong cuộc họp. Nói thật nghe, dường như họ có vẻ coi thường tôi.
- Thế là mấy tay đồng nghiệp hẳn quá ngu xuẩn rồi.
Khẽ than thở, cô nàng đáp lại:
- Không hề. Chỉ phải cái tội “trọng nam, khinh nữ”. Họ không nghĩ sẽ làm việc chung với phụ nữ.
Gương mặt của anh chàng vẫn bình thản:
- Với tôi, đồng nghiệp nam hay nữ không thành vấn đề. Miễn sao làm tốt nhiệm vụ. Sao cô không nói gì đến chiến dịch?
Khẽ lắc đầu, cô nàng đáp lại:
- Đừng có vội, anh James. Cứ gặp họ rồi bàn cũng được mà.
Nhìn ánh mắt của Ingber, anh chàng thấy có vẻ kỳ lạ. Khi thì dường như mơ màng, thân thiện, lúc lại lạnh lung băng giá. Chẳng biết trong đầu cô ta nghĩ gì.
Suốt bữa ăn nhẹ, anh chàng không hỏi tới công vụ. Thậm chí chẳng có nửa lời thắc mắc về cuộc sống riêng tư của cô ta.
James xoay quanh mấy câu chuyện về đất nước Israel với bao khó khăn còn tồn đọng.
Lấy khăn chậm chậm vào môi, ánh mắt cô nàng hướng về phía khách sạn.
- Này anh James, đã tới lúc chúng ta gặp mấy chiến hữu rồi đó.
Theo lời của Ingber, có lẽ Mosolov và Brad nãy giờ đứng ở ban công nhìn xuống. Cả ba đều ở các phòng liền nhau trên lầu bốn, mặt hướng ra khu vườn và toàn cảnh hồ bơi.
Bước vào dãy phòng thay đồ một lúc rồi hai người bước ra. Rivke trong chiếc váy xếp li sẫm màu, áo sơ mi trắng. Còn anh chàng thay chiếc sơ mi mùa hè, quần chùng màu xanh nước biển.
Sánh bước vào khách sạn, họ theo thang máy lên tới lầu bốn.
- Ồ, xin chào ông James.
Đúng như lời của các chuyên gia, tay Mosolov thuộc típ người khó tả. Thoáng nhìn dáng vẻ của hắn, người ta không thể đoán là bao nhiêu tuổi. Chỉ phỏng chừng từ hai mươi mấy cho tới bốn mươi. Gương mặt hắn luôn thay đổi cảm xúc, hệt như đám kịch sĩ chuyên nghiệp. Còn tiếng Anh của Mosolov khá
thành thạo, mang chút hơi hướng của đám người ở vùng ngoại ô Luân Đôn, tuy thỉnh thoảng chêm vào mấy từ thông tục.
Bắt tay anh chàng, hắn tự giới thiệu:
- Cứ gọi tôi là Kolya Mosolov.
Ánh mắt xám sậm màu tẻ nhạt, cái bắt tay hời hợt, Mosolov nhìn anh chàng hờ hững.
- Rất vui được biết ông bạn.
Cố tạo vẻ thân thiện, anh chàng mỉm cười với gã đàn ông có mái tóc vàng hớt cao. Từ tướng mạo cho tới dáng dấp của hắn chẳng có gì nổi bật. Áo sơ mi ngắn tay sọc carô nâu cùng chiếc quần chùng may quá tệ. Hệt như tiếc tiền, hắn giao đồ cho mấy tên thợ may mới học việc.
Chỉ một chiếc ghế ý mời anh chàng ngồi, cử động của Mosolov khá nhanh nhẹn.
- Ông bạn có biết qua Brad Tirpitz chưa?
Ễnh người trên ghế là một gã bự con, tóc húi cua, bàn tay to bè. Còn gương mặt góc cạnh hệt như đá tảng. Chợt anh chàng thấy mép trái miệng của gã có vài vết bầm mờ mờ.
Uể oải đưa bàn tay lên chào, Brad cất cái giọng khàn khàn, hệt như mấy tay anh chị trong phim hành động.
- Chúc mừng anh bạn tham gia vào đội.
Chẳng thấy chút hoan hỉ trong giọng nói của gã.
Nhấn mạnh vào từ ÔNG, anh chàng đáp lại:
- Thật là hân hạnh, thưa ÔNG …
- Brad.
Giọng khá cộc cằn nhưng hình như thoáng có nụ cười trên gương mặt quạu đeo.
Rồi Mosolov xen vào:
- Ông bạn có nắm được tình hình?
- Chỉ chút tí …
Bước vào trong, mỉm cười Rivke lên tiếng:
- Anh James bảo với tôi thời gian gấp rút quá. Anh ta chưa nắm được vấn đề.
Nhún vai, Mosolov ngồi xuống, đưa tay chỉ một chiếc ghế. Còn Rivke sà vào chiếc giường, rút hai chân qua một bên.
Kéo chiếc ghế vào sát tường, anh chàng chọn vị trí có thể quan sát cả ba người, hướng tầm mắt qua cửa sổ và ban công.
Hít một hơi thật sâu, Mosolov lên tiếng trước:
- Chúng ta không có nhiều thời gian. Trong vòng bốn mươi tám tiếng, chúng ta phải rời khỏi đây đến khu vực hành động.
Vẫy tay ra hiệu, anh chàng xen vào:
- Ở đây nói chuyện liệu có an toàn không?
Cười khục khặc, Brad đáp ngay:
- Đừng có lo, ông bạn à! Phòng của tôi ở sát vách. Hơn nữa, chỗ này ngay góc của toà nhà, tôi rà đi, soát lại khá nhiều lần rồi.
Trong lúc ấy, Mosolov cứ kiên nhẫn chờ. Vài giây sau đó, hắn mới tiếp tục.
- Anh bạn nghĩ sao về biệt đội hành động kỳ quái này? CIA, Mossad, KGB và Cục Phản gián Hoàng Gia Anh Quốc?
Ông M từng cảnh báo với anh chàng điều này. Cái tay Mosolov có thể muốn giữ riêng bí mật cho KGB. Phải giữ kẽ từng ly, từng tí mới được. Bụng dạ hắn thật khó lường.
- Vâng, tôi có nghĩ đến chuyện này. Tạm gọi chúng ta cùng ngồi chung một chiếc thuyền. Dù có khác quan điểm, ý thức hệ nhưng chúng ta hoàn toàn có thể chia sẻ mối quan tâm với nhau. Vì hoà bình thế giới, an ninh khu vực. Đại loại là như thế.
Mosolov đáp lại ngắn gọn:
- Chính xác. Thôi nào, tôi sẽ kể lại vài nét chính của chiến dịch.
Ngừng lại, hắn đảo mắt quanh căn phòng.
- Nào Rivke, Brad, nếu có điểm nào thiếu sót, xin hai người bổ xung vào nhé.
Rivke khẽ gật đầu, còn Brad cười to.
- Vâng, thế chúng ta đi váo vấn đề.
Tay Mosolov hệt như một kịch sĩ tài năng. Từ ánh mắt của ông giáo già nghiêm khắc, hắn chuyển sang vẻ sắc sảo của mấy tay quản lý cứng rắn, quả quyết.
Nhìn hắn, anh chàng cảm thấy hứng thú. Chẳng biết hắn học diễn xuất ở đâu?
- Chắc ông bạn thừa biết cái gọi là Binh Đoàn hành Động Quốc Xã? Một tổ chức khủng bố chuyên nghiệp đang nhắm vào đất nước của tôi và đe doạ đến an ninh của khu vực. Dĩ nhiên, không loại trừ đất nước của quý vị. Chủ nghĩa Phát xít theo kiểu cũ, tạm gọi là như thế.
Phá lên cười, Brad chêm vào:
- Chủ nghĩa Phát xít cũ được cãi tiến.
Phớt lờ, Mosolov nói tiếp. Hình như đấy là cách duy nhất đáp lại thái độ châm chọc, lém kỉnh của Brad.
- Chính quyền của các nước có nơi bị bọn NSAA tấn công đều thừa nhận không tìm thấy chút manh mối.
Ngừng lại một chút, hắn đảo mắt quanh các “khán giả”, ánh mắt lộ vẻ nghiêm trọng.
- Nhưng thật ra có nhiều đầu mối đấy. Chúng tôi có những bằng chứng cụ thể về cái bọn dựng nên NSAA. Chính quyền của chúng ta cùng chia sẻ nguồn thông tin này. Tại Anh, Thụy Điển, Đức, Nam Phi, chúng đều có nguồn hỗ trợ, căn cứ địa cho thứ cặn bã của cái gọi là Đệ Tam Quốc xã sau khi cuộc Chiến Tranh Vệ Quốc Vĩ Đại …
Ủa, mà quên. Phải nói là sau chiến tranh thế giới thứ II mới đúng.
Mỉm cười trong bụng, anh chàng thừa biết hắn cố tình dùng mấy chữ đặc Nga để nói về thế chiến thứ II. Chẳng phải là lỡ lời như hắn đính chính đâu.
Ra vẻ bẽn lẽn, Mosolov nói chữa:
- Ậy, tôi không theo chủ nghĩa cuồng tín. Tôi cũng không bị bọn NSAA ám ảnh. Mà này, giống như nhận định từ phía chính quyền của quý vị, tổ chức này ngày càng lớn mạnh. Đó là một mối hiểm hoạ …
- Không hẳn là như vậy.
Lấy một điếu thuốc từ gói thuốc Camel, dọng dọng cái đầu lọc lên ngón tay cái, châm lửa hút, Brad xen vào.
- Thông qua chuyện đó đi Mosolov. Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã làm cho đất nước của ông bạn nổi da gà, dựng tóc gáy cả lên.
Cố tình phớt lờ lần nữa, Mosolov nhắc lại:
- Vâng, đó là mối hiểm họa cho toàn thế giới. Chẳng riêng gì Xô Viết và khối Động Âu.
Ấy, Brad đâu phải tay vừa. Hắn càu nhàu:
- Nhưng Xô Viết là mục tiêu chính của bọn chúng.
- Này Brad, anh bạn thừa biết mà, hiểm hoạ không chỉ dành cho riêng ai. Vì thế, chúng ta phai đoàn kết lại. Hoa Kỳ, Israel và cả nước Anh nữa.
Quay về phía anh chàng, hắn nói tiếp:
- Chắc ông bạn cũng rõ, toàn bộ số vũ khí của bọn NSAA đều do Nga sản xuất. Sau hơn năm mươi vụ thảm sát, Uỷ Ban Trung Ương đã chính thức công bố. Một số chính quyền và các cơ quan tình báo lại cáo buộc chúng tôi cung cấp vũ khí cho bọn này thông qua các nước Trung Đông. Nhưng tất cả đã lầm. Ai lại đi nối giáo cho giặc chứ? Chúng tôi có bằng chứng về chuyện này.
Brad lại xen vào:
- Thế là có kẻ chôm chỉa số vũ khí ấy à?
Mosolov đáp lại ngay:
- Hoàn toàn chính xác. Mùa xuân năm ngoái, trong cuộc kiểm tra đột xuất các kho vũ khí, một sĩ quan cao cấp của Hồng Quân đã phát hiện giữa con số thống kê về quân trang quân dụng thực tế chênh lệch rất lớn. Không ai có thể giải thích được số mất mát.
Nhổm người dậy, hắn đi tới một cái cặp táp, lấy ra tấm bản đồ to rồi trải trên tấm thảm ngay trước mặt của anh chàng. Đưa tay chỉ vào một điểm, giọng hắn có vẻ căng thẳng:
- Chính chỗ này. Gần Alakurtti, chúng tôi có một kho quân nhu rất lớn …
Alakutti là vùng đất nằm cách biên giới Phần Lan khoảng sáu mươi cây số về hướng Đông, sát với Bắc Cực. nếu tính từ chỗ anh chàng tập huấn, nó cách Đông Bắc của Rovaniemie độ hai trăm cây số. Vâng, một vùng đất khô cằn sỏi đá, loe hoe vài cây thông. Vào mùa này trong năm, băng giá bao phủ từng mảng dày.
Rồi Mosolov tiếp tục:
- Mùa đông năm ngoái, nơi này lại bị tấn công. Dò theo mã số trên vũ khí của bọn NSAA, chúng tôi biết chúng đều có nguồn gốc từ Alakutti.
Thế là anh chàng thắc mắc ngay:
- Thực tế mất những gì?
Thộn cái mặt ra, Mosolov đọc vanh vách:
- Kalashnikuv, RPK, AK, AKM, súng lục Makarov và Stechkin, lựu đạn RDG-5 và RG-42 … cùng một số lượng lớn đạn dược.
- Có thứ nào hoả lực mạnh hơn không?
Lắc đầu, Mosolov đáp lại:
- Không. Nhưng đã mất rất nhiều.
Hỏi là hỏi cho vui thế thôi, chớ ông M đã báo cho anh chàng biết rõ về vụ này. Tay Mosolov cố tình bỏ sót một số vũ khí quan trọng: loại RPG-7V chống tăng cùng với rất nhiều đầu đạn hạt nhân chiến lược, vũ khí hoá học, tên lửa quy ước. Những thứ này thừa sức huỷ diệt cả một thị trấn với bán kính hơn năm mươi dặm.
- Toàn bộ số vũ khí này mất vào khoảng mùa đông năm ngoái. Tại căn cứ Blue Hare, chúng tôi chỉ có một trạm canh nhỏ. Viên đại tá được phái đi điều tra ngay lập tức mật báo về cho GRU.
Khẽ gật đầu ra vẻ hiểu biết, James mỉm cười. GRU có nghĩa là Cục Quân báo Xô Viết, một cơ quan có mối quan hệ dây mơ rễ má với KGB. Dĩ nhiên, GRU phải đứng mũi chịu sào ba cái vụ này chứ sao.
- Thế là GRU phái hai điều tra viên đi dò la tin tức.
- Họ hoàn thành nhiệm vụ?
- Vâng, họ tìm ra được bọn chủ chốt đường dây trộm cắp vũ khí đem ra chợ trời bán.
- Ông bạn biết chúng vận chuyển như thế nào?
Mỉm cười ra vẻ đắc chí, Mosolov đáp lại ngay:
- Không những thế, chúng tôi còn nắm được số hàng ấy được chuyển tới đâu. Vùng biên giới giữa Phần Lan và Nga. Vâng, một nơi thật khó kiểm soát. Thiên hạ cứ qua lại nườm nượp mỗi ngày. Để thông thoáng, chúng tôi phải chặt bỏ cánh rừng dài mấy dặm.
Anh chàng bèn ướm lời, hỏi tiếp:
- Ông bạn không biết chính xác địa điểm tập kết?
Giọng của Mosolov có vẻ ngần ngại:
- Vâng, chỉ là chút phỏng đoán. Không chính xác lắm. Nhưng không sao, mấy cái vệ tinh của chúng tôi cứ quay vòng vòng ngoài kia cố dò theo dấu vết. Còn nhân viên của KGB và GRU đang mở to mắt lần theo mấy điểm khả nghi. Thật ra, chúng tôi cũng chẳng rõ chúng cất giấu ở đâu.
Quay sang hai người kia, anh chàng lặp lại câu hỏi:
- Chắc hai vị cũng không rõ?
Trầm tĩnh, Rivke đáp lại:
- Ông Mosolov nói thế nào, chúng tôi tôi biết thế đó. Đây là một chiến dịch dựa trên niềm tin, đúng không nào?
Còn Brad lững lờ nước đôi:
- Langley có báo cho tôi một cái tên nhưng không thấy ai nhắc tới.
Anh chàng bèn hỏi Mosolov cái tên gì. Quái, hắn đột nhiên làm thinh. Hình như hắn muốn giấu nhẹm chuyện gì.
- Cũng không chắc chắn …
Cảm thấy bực, anh chàng định nói, Mosolov lập tức xía vô:
- Tuần rồi … vâng, trong tuần qua, chúng tôi đã moi ra được chút manh mối. Hai điều tra viên của GRU báo cáo thêm một chuyến hàng nữa bị đánh cắp và chuyển đi. Vì thế, chúng tôi không đủ thời gian để kiểm tra lại nguồn tin. Chúng ta phải cùng nhau tìm vật chứng, đường dây vận chuyển, theo dõi đến tận nơi cất giấu. Hẳn là mớ hàng này đã tới một khu vực mới của bọn NSAA.
Cười thật tươi, anh chàng nói huỵch toẹt:
- Tên ăn hàng có phải là bá tước Konrad Von Gloda?
Rivke làm thinh, không chút cảm xúc. Còn Brad cứ cười khúc khích:
- Chà, Luân Đôn cũng khá quá chứ. Nắm tin chẳng khác gì Langley.
Khẽ giựt mình, Rivke lên tiếng:
- Bá tước Von Gloda là ai? Kỳ vậy, sao chưa ai nói cho tôi nghe chuyện này?
Lấy hộp thuốc từ trong túi quần ra, rút một điếu, châm lửa rồi anh chàng rít một hơi.
- Cả Luân Đôn và CIA đều biết rõ tên chủ chốt của NSAA ở Phần Lan chính là bá tước Konrad von Gloda. Đúng không nào, ông bạn người nga?
Ánh mắt của Mosolov cứ mờ nhạt.
- Đó là một mật mã. Một biệt danh, đại loại là như thế. Cho tới bây giờ, thông tin ấy không có căn cứ.
- Tại sao không? Ông bạn còn điều gì chưa tiện nói ra?
- Phải chi tôi có thể dẫn ông bạn tới sào huyệt của Konrad von Gloda ở Phần Lan. Cả nơi chúng tôi tiến hành kiểm tra tuần rồi ở căn cứ Blue Hare. Có tới Nga, ông bạn mới hiểu tại sao.
Thật tức cười! Một gã KGB muốn mới anh chàng bước vào mạng lưới chằng chịt với lý do mục kích hiện trường của vụ chôm chỉa. Phải thông qua chuyện này mới hoàn thành được chiến dịch Icebreaker? Hay Icebreaker chỉ là cái cớ dụ anh chàng ngay trên đất Nga?
Trước khi anh chàng rời khỏi Luân Đôn tới Madeira, chẳng phải ông M đã từng nhắc nhở điều này?