Một kỵ sĩ độc hành dọc theo bờ Hoàng Hà tiến tới.
Kỵ sĩ, chính là Quan Sơn Nguyệt, sau biến cố tại khách sạn cấu kết thâm thù với bọn Vô Cực Kiếm Môn, rời chỗ cũ, cùng Lưu Tam Thái đến nơi này.
Còn không xa lắm là đến bến Phong Lăng, một bến sông hữu danh mà phàm ai có đặt chân lên địa phương này, cũng phải viếng qua cho biết.
Không đến Phong Lăng Độ, là cầm như bình sanh chưa biết Hoàng Hà như thế nào.
Hiện tại, Lưu Tam Thái đã tách rời chàng, đi tìm thuyền sang sông, còn lại một mình chàng, dừng ngựa tại đó, nhìn trăng, nhìn nước.
Phải, lúc đó, trăng sáng chiếu diệu mặt sông, bởi thời gian về đêm, một đêm thanh tịnh phi trường, dù đứng cạnh bờ sông, gió vẫn rì rào nhẹ thổi ...
Gió không lớn, sông nước vẫn trập trùng, sóng như ngàn đời nhấp nhô, mặt sông chẳng bao giờ bình lặng.
Sóng vỗ bờ, bọt sóng bắn lên, trăng rọi sáng như ngàn hoa bạc, biến rồi hiện, hiện rồi biến, qua những lượt sóng vỗ, sóng lùi lùi rồi tràn tới để cuộn trở lại ra khơi.
Nhìn sông dài, mênh mông sóng nước, trong khung trời rộng, có trăng sáng, có gió rì rào, bất giác Quan Sơn Nguyệt sanh niềm cảm khái, cất tiếng ngâm nga bài Phú Xích Bích của Tô Đông Pha.
Càng ngâm nga, chàng càng cao hứng, cuối cùng thì cái hứng dâng tràn, ngập cả tâm tư, chàng hú vọng một tiếng dài, tỏ rõ cao trào khoan khoái.
Con ngựa giật mình, chồm hai vó trước, suýt hất chàng xuống đường. Cũng may, chàng tinh thông kỵ thuật, nên kịp thời kềm vững thân mình.
Nhưng, vừa trấn định con ngựa, bỗng tai chàng nghe Lưu Tam Thái rú lên một tràng tiếng thảm phía trước. Tiếng rú đó báo hiệu rõ ràng Lưu Tam Thái đang gặp tai nạn bất ngờ.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, vội thúc chân vào hông ngựa.
Con ngựa cất vó, phi nước đại tiến tới liền.
Thực ra, trong chuyến hành trình gần như vô mục đích này, chàng chỉ muốn độc hành, chàng đi, chẳng biết đi đâu, đi cho hết thời gian thừa thãi trước khi đến nơi ước hội với Phi Lạc Đà.
Nhưng, Lưu Tam Thái hết lời cầu khẩn xin được theo chàng. Y viện dẫn lý do, từ sau khi biến cố xảy ra, chắc chắn là bọn Âm Tố Quân oán hận vô cùng và sẽ tìm mọi cách sát hại y. Mà y thì tự biết mình chẳng phải là đối thủ của bọn Âm Tố Quân, nên không thể lư lại địa phương tiếp tục khai thác ngôi khách sạn như ngày nào. Y cần nhờ sự che chở của chàng, dù chàng đi khắp phương trời góc biển, y cũng chẳng màng gian lao cực khổ, quyết đi theo chàng.
Trong cuộc hành trình Lưu Tam Thái hết lòng săn sóc chàng như thuộc hạ thân tín săn sóc chủ nhân. Mọi nhu cầu, mọi sự việc đều do Lưu Tam Thái chu biện, chàng không phải bận tâm lo liệu. Do đó, chàng cảm thấy nhẹ nhàng phần nào.
Dần dần, chàng nhận ra, Lưu Tam Thái rất cần thiết cho chàng, không có chiếu liệu trước sau, thì hẳn chàng cũng phải vất vả không ít.
Từ cái chỗ cần thiết, chàng đi dần đến chỗ mến thích Lưu Tam Thái.
Giờ đây Lưu Tam Thái rời chàng, đến bến Phong Lăng tìm thuyền, lại gặp tai họa bất ngờ, tự nhiên chàng nôn nóng, muốn biết y đã gặp điều gì bất trắc, đến đổi phải rú thảm lên như vậy.
Ngựa chàng sải nhanh, không lâu lắm, chàng nghe vó ngựa từ phía trước vọng lại. Dưới ánh trăng, chàng nhận ngay chính là con ngựa của Lưu Tam Thái, nhưng ngựa không người! Thế thì Lưu Tam Thái ở đâu?
Chàng vươn tay chụp lấy dây cương, con ngựa kia, kéo nó quay đầu lại cùng chạy theo chàng.
Thoáng mắt sau đó, chàng đã thấy Lưu Tam Thái đang giao thủ với một nữ nhân vận áo đỏ. Lưu Tam Thái ở dưới đất, nữ nhân ngồi trên mình ngựa. Lưu Tam Thái tay không, còn nữ nhân cầm ngọn roi, quất xuống mình y liên hồi.
Nói là giao thủ không đúng lắm, sự thật thì nữ nhân cứ bổ roi xuống mình Lưu Tam Thái, y vừa né tránh, vừa đưa tay chụp roi, y không tránh khỏi những ngọn roi ác liệt, lại không tài nào chụp trúng ngọn roi. Nhưng, y cố liều chịu đòn, xông vào mãi, vừa xông vào, y lại bị ngọn roi đánh hất ra, ra ngoài xa rồi, y lại xông vào. Y phục của y rách nát, da thịt hầu như cũng rách nát, máu me rơi đổ, nhuộm đỏ y phục, nhuộm đỏ mặt đường.
Quan Sơn Nguyệt chưa đến nơi, đã hét to:
– Dừng roi ngay!
Nữ nhân dừng tay liền.
Nhưng Lưu Tam Thái kêu to:
– Lệnh chủ đừng can thiệp! Cứ để cho tại hạ liều với con người đáng bỉ này ...
Một ngọn roi vút xuống, trúng mặt y, làm ngưng ngang câu nói.
Nữ nhân quát lớn:
– Ngươi còn nói một tiếng vô lễ nữa, ta đánh vỡ miệng ngươi ngay!
Ngọn roi lướt qua, lưu lại một vệt máu nơi má Lưu Tam Thái.
Đau quá, Lưu Tam Thái càng sôi giận gầm lên:
– Ta mắng! Ta mắng ngươi với tất cả những lời nặng nhất trong ngôn ngữ nhân loại, xem ngươi làm gì ta! Ngươi đánh ta chết, ta cũng mắng, ta mắng đến hơi thở cuối cùng ...
Nữ nhân thoáng biến sắc, không tưởng là gặp phải một kẻ gan lỳ chẳng sợ chết là gì. Nàng rít lên:
– Được! Ngươi muốn chết, ta cho chết!
Nàng vung tay, ngọn roi trở lên sắp sửa giáng xuống.
Nhưng, Quan Sơn Nguyệt đã lướt đến, đứng tại trung gian.
Nữ nhân nhích động cánh tay, ngọn roi rung chuyển, vừa giáng xuống, chợt nhận thấy cái đích là một người khác, nàng dừng tay liền. Thu roi về, nàng hét:
– Tránh ra, để ta đánh hắn, chừng nào hắn chịu câm mồm ta mới buông tha!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Đành rằng y không nên mắng như vậy, song cô nương dùng hình phạt đó, trừng trị y, thiết tưởng cũng tàn nhẫn lắm!
Nữ nhân không đáp, lại vung tay.
Ngọn roi rít gió, sắp sửa bổ xuống đầu Lưu Tam Thái. Song nghĩ sao chẳng rõ, nàng lại buông tay xuống, rồi trừng mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt, gằn từng tiếng:
– Ngươi định chịu tội thay cho hắn à? Đừng liều lĩnh vô lý như vậy, ta không đánh kẻ vô cớ. Hãy bước qua một bên, chọc ta thì khổ đấy!
Lưu Tam Thái nhảy choi choi, hét:
– Hèn hạ! Ti tiện! Ta thách ngươi đó, ngươi dám đánh Lệnh Chủ, ta phục ngươi suốt đời!
Nữ nhân «hừ» một tiếng, quét ngọn roi ngang qua cổ Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt điểm nhẹ một nụ cười, vẫn đứng nguyên tại chỗ, hoành tay chụp đầu roi.
Đầu roi bị Quan Sơn Nguyệt chụp trúng, thế đánh bị ngăn trở rồi, chàng dùng lực quá mạnh, cái chụp đó là dội đầu roi, chấn động bàn tay của nữ nhân.
Song, nàng cũng giật được ngọn roi vuột khỏi tay Quan Sơn Nguyệt.
Nữ nhân không tưởng là đối phương có công lực thâm hậu như vậy, trố mắt nhìn một lúc, đoạn «hừ» một tiếng, hỏi:
– Ngươi tên họ gì? Nói nhanh cho ta biết!
Quan Sơn Nguyệt chưa kịp đáp, Lưu Tam Thái mỉa mai:
– Xú nữ ti tiện kia, đến Lệnh Chủ Minh Đà mà cũng chẳng biết, thì còn chen đứng trên giang hồ lam gì nữa?
Nữ nhân «xì» nhẹ:
– Ta có giành giựt giang hồ với ngươi đâu? Ta có bao giờ xưng mình là khách giang hồ đâu? Tại sao ta lại phải biết đến những kẻ vô danh chứ?
Đáp lại cái giọng mỉa của Lưu Tam Thái, nàng có xúc phạm phần nào đến cá nhân của Quan Sơn Nguyệt, song điều đó có cần gì, bởi trên giang hồ, người ta quen với giọng trịch thượng đó lắm rồi, trước khi so tài, họ so cái lý, họ tranh nhau thốt những lời cao hảnh, cốt dằn mặt đối phương. Cho nên, có người dùng lời thẳng mà đấu lý với nhau, cũng có kẻ dùng cái sáo để phớt ngọt song bên trong lại xỏ đậm.
Lưu Tam Thái sôi giận, càng hét lớn:
– Ngươi là cái quái gì, dám xúc phạm đến Lệnh Chủ? Ngươi bất quá chỉ là một tiện tỳ trong một gia đình nào đó, nhiễm thói cao hãnh của chủ nhân, buông tính ngông cuồng! Giở mồm giở miệng, kẻo mất mạng oan uổng đấy!
Y chưa cho là đủ, lại tiếp luôn:
– Làm gì ngươi dám xưng là khách giang hồ? Bất quá quen tay vút roi đuổi gà dọa chó, chứ tài ba chi mà ngươi dám lạm dụng mấy tiếng giang hồ?
Y quên đi, quen tay đuổi gà dọa chó mà nàng đánh y tơi bời, thế là y còn kém gà, kém chó!
Người phương Bắc có lối sống nghề biểu diễn vũ nghệ, cỡi ngựa, bắn tên, động tác của họ tuyệt đẹp, song chẳng có phần thực dụng, khách giang hồ chân chính, nhìn qua biết ngay họ thuộc thành phần bán nghệ nuôi thân. Song, những người không biết vũ công lại rất khoái xem họ biểu diễn, và thời thượng thì họ rất được hoan nghinh trong giới bình dân.
Lưu Tam Thái ghép nữ nhân vào thành phần đó, cốt để chọc tức nàng cho bõ ghét, chứ thực ra, y cũng thừa nhận nàng có tài nghệ rất khá, ít nhất cũng trên y mấy bậc. Tuy nhiên, y cho rằng nàng không thể thủ thắng trước Quan Sơn Nguyệt, do đó y dám nặng lời khinh miệt nàng.
Nữ nhân không giận, trái lại còn điểm nụ cười mỉa, hỏi:
– Thế ngươi cho rằng, hễ là người trên giang hồ, thì ai ai cũng phải trọng vọng à? Người giang hồ quý lắm sao?
Nàng không đợi Lưu Tam Thái nói gì, lại tiếp luôn:
– Mẹ ta từng nói với ta, người trên giang hồ chẳng ai tốt cả, cho nên ngăn cấm ta giao du với họ. Các ngươi có phải là người giang hồ không? Nếu phải, ta không nói chuyện với các ngươi nữa đâu!
Lưu Tam Thái nổi giận:
– Mẫu thân ngươi là cái quái gì? Bằng vào đâu lại dám cho rằng tất cả người trên giang hồ đều xấu?
Nữ nhân trầm gương mặt, nhìn Lưu Tam Thái như nhìn quái vật, một lúc lâu, nàng quắc mắt gằn từng tiếng:
– Ngươi dám mắng mẹ ta? Mắng ta, còn được chứ mắng mẹ ta thì quá lắm rồi đấy! Nếu ta không cho ngươi một bài học, ngươi sẽ chẳng bao giờ chừa bỏ cái tánh lỗ mãng đó, động mở miệng là mắng người!
Tiếp liền theo câu nói, nàng vung tay. Ngọn roi rít gió kêu một tiếng vù, đầu roi quét đến Lưu Tam Thái.
Quan Sơn Nguyệt nạt khẽ, hoành tay thuận theo thế, chặt mạnh xống tay xuống đường roi.
Chàng muốn nhân cứu Lưu Tam Thái, chụp luôn đường roi, đoạt lấy, cho nàng hết hung hăng nữa.
Nhưng, nữ nhân có thủ pháp vô cùng linh hoạt, nàng trầm bàn tay xuống một chút, đầu roi chếch lên, hơi xéo ra ngoài tránh cái chặt của Quan Sơn Nguyệt, đoạn giữ nguyên tư thế đó quét luôn qua cho trọn đà.
«Trót!» Đầu roi lướt qua mặt Lưu Tam Thái, lưu lại một vệt máu dài. Lần này, nàng đánh trúng vào yếu huyệt, đường roi tuy mạnh, làm Lưu Tam Thái đau, song không đến đổi lảo đảo người. Vậy mà y ngã xuống, vì đầu roi đã chạm vào huyệt đạo. Y ngã xuống, nằm bất động luôn.
Quan Sơn Nguyệt cực lỳ sôi giận, thấy không còn nương tay được nữa, vội nhảy xuống ngựa đồng thời thét lớn:
– Cô nương xuống ngựa đi! Tại hạ phải giáo huấn cô nương một phen mới xong!
Nữ nhân «xì» một tiếng:
– Ta xuống ngựa để làm gì? Ta không sợ ngươi đâu, có điều mẹ ta dặn ta, đừng bao giờ vô duyên vô cớ mà gây sự với ngoại nhân. Ngươi chưa mắng ta, thì ta chẳng cần sửa trị ngươi. Nếu ngươi muốn ta xuống ngựa, đánh với ngươi, thì cứ mắng ta một tiếng đi! Mắng một tiếng thôi, cũng đủ cho ta viện lý do đó mà đánh ngươi!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Bỗng dưng mà chàng phải mắng nàng, thì mắng thế nào được? Mà không mắng thì nàng không xuống ngựa, như vậy làm sao chàng giáo huấn nàng, để báo hận cho Lưu Tam Thái?
Nàng chỉ muốn cá nhân đối với cá nhân, chứ không chấp nhận một sự can thiệp do liên quan mà có!
Chàng nhận thấy nàng này kỳ quái thật! Song nàng đã nói như vậy, chàng làm sao hùng hổ với nàng được nữa chứ? Nếu thách thức nàng mãi, chẳng hóa ra chàng lỗ mãng, thích gây sự sao?
Chàng phì cười, hỏi:
– Thế ra, cô nương đánh vị bằng hữu của tại hạ, là do y mắng cô nương chứ chẳng phải cô nương cao hứng mà đánh?
Nữ nhân «hừ» một tiếng:
– Đương nhiên rồi! Ta đã nói, mẹ ta không cho ta vô duyên vô cớ gây sự với ai cả mà! Cho ngươi biết, ta chẳng bao giờ xuất thủ đánh ai trước cả!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ, không nói gì thêm, quay mình bước đến cạnh Lưu Tam Thái vừa nâng y lên vừa dùng năm sáu phương pháp giải huyệt cho y.
Nhưng, lạ làm sao, chàng giải khai được tất cả các huyệt đạo chỉ trừ một huyệt nơi hông y. Huyệt đó vẫn bế tắc như thường, dù chàng vận dụng tận sở năng, cũng chẳng làm sao cho có kết quả. Một điều lạ lùng nữa, là rõ ràng nàng đánh vào mặt Lưu Tam Thái, thế mà một huyệt đạo nơi hông y lại bị điểm! Nhãn quang của Quan Sơn Nguyệt cũng linh hoạt lắm chứ, tại sao chàng không nhận ra kịp?
Thấy chàng loay hoay mãi, nữ nhân mỉm cười, thốt:
– Thủ pháp đó, do mẹ ta sáng chế đấy! Ngươi không làm sao giải khai được đâu, đừng cố gắng vô ích! Nếu bây giờ, ngươi bảo đảm là hắn sẽ không mắng ta nữa, ta sẽ giải cho hắn liền. Nếu không, hắn sẽ chịu cái cảnh toàn thân bất toại suốt đời!
Quan Sơn Nguyệt bất bình trầm giọng:
– Y mắng cô nương mấy tiếng, thiết tưởng cũng chẳng có gì quá đáng, cô nương lại nở hạ thủ đoạn độc ác đối với y à?
Nữ nhân cười hì hì:
– Ta đã nói rồi mà, hắn mắng ta, ta còn chịu được, bằng cớ là trước khi đến đây, ta cũng đánh hắn vậy, song ta có điểm huyệt hắn đâu? Tại hắn mắng đến mẹ ta đấy, tự nhiên ta phải trừng trị hắn nặng hơn chứ? Ngươi không hiểu cái đạo lý ấy à?
Nàng dừng lại một chút, rồi tiếp luôn:
– May mà hắn vô lễ trước mặt ta, chứ nếu mẹ ta nghe lọt câu mắng, thì mười mạng hắn cũng phải ra ma, đừng nói là một hắn!
Quan Sơn Nguyệt nổi giận thực sự:
– Mắng một câu, mà phải mất mạng? Thế ra lệnh đường quả là một nữ ma vương, hiếu sát hung ác phi thường!
Chàng tin chắc là nghe chàng phê phán mẹ như vậy, nữ nhân sẽ xuất thủ, cho nên vừa thốt xong, chàng ngưng thần, giới bị sẵn sàng đối phó. Ngờ đâu nữ nhân chỉ cười, hì hì, thốt:
– Ngươi đừng nói thế chứ! Sự thực thì, mẹ ta có làm gì đâu mà ngươi mắng?
Câu nói của ngươi bất kính lắm đấy, song ta bỏ qua cho ngươi! Có điều, ta khuyên ngươi, từ nay nên ăn nói thận trọng một chút, đừng bao giờ phê phán ngoại nhân một cách hồ đồ như vậy mà thành nông nổi!
Quan Sơn Nguyệt «hừ» lạnh:
– Lịnh đường không hiếu sát, sao lại chực giết những ai mắng bà?
Nữ nhân lắc đầu:
– Mẹ ta chẳng bao giờ giết người. Ta chưa chừng thấy mẹ ta giết ai. Chỉ vì, trong gia đình ta, ai ai cũng tôn kính bà, chẳng ai dám nói nặng bà, chứ làm gì có việc dám mắng bà?
Nàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Tuy nhiên gọi bà là Nữ Ma Vương, như ngươi vừa thốt đó, kể ra cũng đúng phần nào. Đúng danh hiệu, chứ sai rất xa về hành động bởi bà không khi nào giết người ít nhất cũng từ lúc bà còn nhỏ đến bây giờ. Còn từ đây về sau, thì ta chưa dám chắc.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Danh hiệu lịnh đường là chi?
Nữ nhân đáp:
– Huyết La Sát! Cái danh hiệu nghe thì ghê gớm thật, song bà chưa từng nhúng tay vào máu!
Huyết La Sát?
Quan Sơn Nguyệt cố moi ký ức, cũng chẳng hình dung con người mang danh hiệu đó. Bởi, chàng chẳng hề nghe ai nói đến bà ta!
Trong khi chàng suy nghĩ, nữ nhân giục:
– Ngươi quyết định đi chứ? Nếu ngươi chần chừ một lúc nữa, thì huyệt đạo đó sẽ bế tắt vĩnh viễn, chính ta cũng vô phương cứu hắn.
Quan Sơn Nguyệt chẳng biết làm sao hơn, đành gật đầu:
– Được rồi! Tại hạ xin bảo đảm, y sẽ không mắng lịnh đường nữa.
Nữ nhân tiếp gấp:
– Luôn cả ta, hắn cũng không được vô lễ!
Quan Sơn Nguyệt bực tức, song chẳng dám chậm trễ:
– Luôn cả cô nương! Cô nương yên trí!
Nữ nhân cười nhẹ, vung roi, quất khẽ xuống mình Lưu Tam Thái.
Hứng ngọn roi đó, Lưu Tam Thái cử động được liền. Vừa rồi bị điểm huyệt, toàn thân bất động, song y vẫn nghe rõ câu chuyện giữa nữ nhân và Quan Sơn Nguyệt. Y đã thấy Quan Sơn Nguyệt không giải huyệt cho y được, sự kiện đó chứng tỏ thủ pháp của nữ nhân cũng độc đáo lắm cho nên bây giờ, được trả về tình trạng bình thường, y không dám mắng nàng nữa.
Quan Sơn Nguyệt thở phào, đoạn hỏi:
– Lưu huynh! Sự tình làm sao đến nỗi Lưu huynh và vị cô nương kia xô xát với nhau thế?
Nữ nhân lộ vẻ không vui, trầm giọng chặn lại:
– Ta đã giải huyệt cho hắn rồi, vậy là huề người còn truy cứu nguyên nhân làm chi chứ!
Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Không, cô nương ạ! Tại hạ không thể bỏ qua, tại hạ nhất định phải truy nguyên, để biết sự tình như thế nào. Nếu vị bằng hữu của tại hạ sái quấy, cô nương trừng trị như vậy là đáng lắm. Còn như lỗi về phần cô nương, thì tại hạ phải giải quyết trường hợp một cách công bằng mới được. Chẳng lẽ để cho cô nương tự ý hoành hành, gặp lại ai cũng hống hách?
Nữ nhân cười lạnh:
– Ngươi muốn giao thủ với ta?
Quan Sơn Nguyệt cương quyết:
– Nếu lỗi về phần cô nương, tại hạ phải cảnh cáo cô nương một lần, để từ nay về sau, cô nương nên hòa dịu với người trong thiên hạ.
Nữ nhân «hừ» một tiếng:
– Ta quấy ngươi cảnh cáo ta, còn như hắn quấy? Ngươi để yên cho hắn?
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Cô nương ... đã đánh y rồi ...
Nghĩa là chàng không cần quở trách gì Lưu Tam Thái nữa, bởi nữ nhân đã hạ thủ rồi.
Nữ nhân nhướng cao đôi mày, chừng như sắp sửa phát tác suy nghĩ một chút bỏ qua ý định đó, chỉ thốt:
– Ta không sợ ngươi đâu, bất quá ta không muốn mang tiếng là uy hiếp kẻ vô cô, bởi dù sao ngươi cũng chẳng liên quan gì đến vụ này.
Dừng lại một chút, nàng gật đầu, tiếp:
– Được rồi! Ngươi muốn truy cứu, cứ hỏi hắn! Ta không ngăn trở.
Lưu Tam Thái do dự một chút, rồi thốt:
– Đến bến Phong Lăng, tại hạ không mất công nhiều, tìm được một chiếc thuyền bằng lòng đưa chúng ta sang sông, dù đang đêm. Tại hạ lập tức trở lại chỗ cũ, báo tin cho Lệnh Chủ hay. Ngờ đâu, đi đến đây, tại hạ bỗng nghe tiếng hú. Tiếng hú nghe hãi hùng quá, con ngựa giật mình, nó chạy loạn lên, đâm sầm vào ngựa của vị cô nương đó ...
Nữ nhân «hừ» lạnh:
– Chỉ có vậy thôi à? Thế thì giản đơn quá!
Lưu Tam Thái phẫn nộ:
– Chứ còn sao nữa? Trước khi hai ngựa chạm nhau, tại hạ đã thấy rõ, và có gọi gấp cô nương hãy lách ngựa tránh qua một bên. Cô nương chẳng chịu nghe, lại còn vung roi quất vào mình tại hạ rơi xuống đường liền. Còn con ngựa thì hoảng sợ, chạy luôn.
Nữ nhân lại «hừ» một tiếng nữa:
– Khá đấy, thì ra ngươi cũng còn nhớ phần nào sự việc. Song ta hỏi ngươi lúc đó, ngươi gọi ta như thế nào?
Lưu Tam Thái sững sờ không nói được những tiếng gì kế tiếp.
Nữ nhân sôi giận:
– Sao ngươi nín lặng? Ngươi không dám nói ra, phải không? Ngươi không dám ta nói hộ ngươi! Ngươi gọi to:
«Cái mụ thối có tránh đường cho ta không?» Ngươi gọi thế nghĩa là gì? Ta bao nhiêu tuổi, mà ngươi gọi là mụ này mụ kia?
Hay ngươi muốn mắng luôn mẹ ta, sanh con không giáo huấn, để con cỡi ngựa cản đường ngươi? Cho ngươi biết, đánh ngươi một roi, kể ra ta cũng nhân đạo lắm đấy! Không oan uổng gì cho ngươi đâu!
Lưu Tam Thái giám giận nhưng không dám làm gì? Y nuốt giận mà chịu cái khổ ấm ức trong tâm.
Quan Sơn Nguyệt đã hiểu sự tình như thế nào rồi.
Thì ra, chỉ vì Lưu Tam Thái ăn nói bất nhã, nàng hận, đánh một roi, Lưu Tam Thái vừa đau vừa chạm tự ái, phản công. Thế là cuộc xô xát phát sanh ra ngay!
Chàng mỉm cười thốt:
– Câu nói đó, nghe ra thì cũng có phần nào bất kính thật, song trên giang hồ, người ta thường dùng lắm cô nương ơi! Khách giang hồ vô tâm mà thốt lên, chứ chẳng có ác ý chi cả. Tại hạ bảo đảm là lúc gọi như vậy, Lưu huynh không có ý mắng cô nương đâu.
Nữ nhân trừng mắt:
– Giang hồ là cái quái gì đối với ta chứ? Thói quen gì kỳ quái thế, mở miệng là xúc phạm đến người? Thảo nào mà mẹ ta chẳng bao là trên giang hồ, chẳng có một kẻ nào tốt cả!
Bây giờ Quan Sơn Nguyệt mới quả quyết là nàng mới đặt chân lên kiếp giang hồ. Nàng có vẻ ngây ngô quá, Quan Sơn Nguyệt chẳng những không bực lại còn cao hứng đối thoại với nàng.
Cái hứng đó phát sanh, do chàng gặp một con người có tư tưởng đặc dị, chứ chẳng phải do sự gặp gỡ của một nữ nhân xinh đẹp.
Ngoài ra vũ công của nàng cũng đáng được chàng chú ý đến, nhất là nàng có thủ pháp linh diệu, cách điểm huyệt của nàng độc đáo vô cùng.
Chàng không giải huyệt được cho Lưu Tam Thái, hơn thế chàng đã dùng tuyệt kỹ «Phân Quang Bố Ảnh», mà vẫn không chụp trúng ngọn roi của nàng ...
Còn một nguyên nhân khác, không kém quan trọng, là lai lịch của Huyết La Sát, mẹ nàng. Đương nhiên, con như vậy, thì mẹ hẳn phải là một cao thủ vũ lâm.
Nhưng, bà là ai? Vì lý do gì, bà lại oán hận khách giang hồ, đến độ cho rằng tất cả đều là những con người xấu?
Trong phút giây, chàng nảy sinh cái ý muốn gặp Huyết La Sát. Gặp bà ta, cũng chẳng khó khăn gì, chàng chỉ cần đánh nàng hạ được nàng, là mẹ nàng ra mặt báo thù cho con. Chàng tự lượng sức mình, có thể hạ nàng dễ dàng.
Giá như bà ấy xuất hiện, trách cứ chàng, tại sao sanh sự với con gái bà, thì chàng viện dẫn lý do trừng trị nàng để báo hận cho Lưu Tam Thái.
Nghĩ đi, nghĩ lại, chàng cảm thấy bất tiện quá!
Nữ nhân kia xa lạ đối với chàng lại không thù không oán, đã mấy lần nàng từ chối giao đấu với chàng, bây giờ tìm cách nào sanh sự với nàng được? Chẳng lẽ cứ xuất thủ, đánh dồn nàng mặc dù nàng không muốn có cuộc đánh nhau?
Làm như vậy thì còn gì sanh dự của một nam nhân, chứ đừng nói là kém tư cách anh hùng hảo hán!
Nhất định là Quan Sơn Nguyệt không thể áp dụng phương pháp đó rồi.
Bây giờ chỉ còn có cách là gợi chuyện với nàng, rồi tùy cơ hỏi han về mẫu thân nàng.
Xem ra, nàng còn ngây ngô quá, chắc chắn là nàng không thấy được cơ mưu của chàng.
Quan Sơn Nguyệt nghĩ như vậy rồi, điểm nhẹ một nụ cười hỏi:
– Tuy là người trên giang hồ, tại hạ không hề mở miệng là mắng người, dù việc mắng người như thế không có ác ý và cũng rất thông thường, huống chi, mới đây cô nương vung roi đánh tại hạ, mà tại hạ chẳng giận chẳng hoàn thủ, cô nương có nhìn nhận tại hạ là người tốt chăng?
Nữ nhân «hừ» một tiếng:
– Ta có đánh ngươi đâu? Bất quá, ta giá roi, để bảo ngươi tránh ra xa xa thôi, ta bảo ngươi tránh, mà ngươi không chịu tránh, bắt buộc ta phải giá roi đó, đừng vu cho ta cố ý đánh ngươi!
Quan Sơn Nguyệt lại cười:
– Cô nương đánh bằng hữu của tại hạ, tại hạ cũng bỏ qua luôn, không hề trách cứ cô nương, cũng như không hề đánh lại để trả thù ...
Nữ nhân lại «hừ» một tiếng:
– Ai cấm người trách cứ? Ai cấm ngươi trả thù? Ngươi hỏi ta như thế, có phải là người hối hận chăng? Nếu hối hận, ngươi cứ đánh ta đi, đánh mà trả thù cho bằng hữu!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Cần gì phải đánh nhau, cô nương? Nào phải có đánh nhau mới giải quyết được trường hợp? Cho cô nương biết, có lúc người ta vì bằng hữu mà dám gây nên những cuộc đổ máu đó! Song, riêng tại hạ thì, tại hạ không thích đánh nhau, bởi tại hạ không phải là một khách giang hồ xấu xa, tại hạ không hành động xấu xa được!
Nữ nhân «xì» một tiếng:
– Ngươi cứ khoe khoang ngươi mãi! Ta đã nói người trên giang hồ không tốt, ta tin như vậy, dù bây giờ ngươi nói là ngươi tốt, ta vẫn cho ngươi xấu như thường, bởi ta nghĩ mẹ ta chẳng bao giờ nói sai.
Nàng dừng lại một chút, rồi tiếp:
– Ngươi cho rằng, vì bằng hữu, thiên hạ dám gây nên cuộc đổ máu, ta khó hiểu quá. Tại sao thế chứ?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên đáp:
– Vì trên giang hồ, đạo nghĩa là điều tối trọng, ai ai cũng gìn giữ đạo nghĩa, người tốt có đạo nghĩa của người tốt, hạng xấu có đạo nghĩa của hạng xấu, không gìn giữ đạo nghĩa, thì chẳng phải là khách giang hồ đó cô nương. Bất quá, đạo nghĩa của hạng này, khác với đạo nghĩa của hạng kia, đạo nghĩa của hạng tốt là chánh khí, đạo nghĩa của hạng xấu là tà tâm. Hai kẻ có tà tâm, hợp nhau, bênh vực nhau, tức là họ có đạo nghĩa với nhau. Cũng như hai kẻ gìn giữ chánh khí, hợp nhau, bênh vực nhau, tức là họ có đạo nghĩa với nhau. Cho nên, người ta vì bằng hữu mà trả thù, báo hận, gây nên cuộc đổ máu, là vì đạo nghĩa đối với nhau.
Nữ nhân mỉm cười:
– Thế ra cuộc sinh hoạt trên giang hồ cũng có ý tứ khá đấy chứ!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Đương nhiên! Trên giang hồ, tình bằng hữu rất quý, mà cũng rất cần, chính cái sự tương thân, tương trợ lẫn nhau, giúp nhiều người tạo dựng cơ nghiệp lớn lao. Không có bằng hữu, đừng mong xuôi ngược khắp đó đây, hành hiệp ...
Nữ nhân chận lại:
– Thôi được! Thôi, được rồi, ngươi khỏi phải nói nhiều. Ngươi nói vậy, nhưng mẹ ta lại chẳng cho là vậy, mà ta thì tin mẹ ta hơn tin ngươi! Dù sao, ta cũng tin người trên giang hồ không tốt.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Lệnh đường phê phán người trên giang hồ như thế nào?
Nữ nhân bĩu môi:
– Không tốt chứ còn như thế nào nữa? Gian manh này, xảo trá này, quỷ quyệt này, nham hiểm này, suốt ngày, suốt tháng, quanh năm, chuyên lừa gạt lẫn nhau, rồi cừu thù, rồi oán hận, rồi chém giết nhau, truyền đời, truyền kiếp, tạo cái cảnh oan gia tương báo, vĩnh viễn trầm mình trong nghiệp chướng! Bởi thế, người trên giang hồ đều yểu thọ, chưa chết sớm mai, không chắc gì còn sống đến chiều ...
Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:
– Lịnh đường nói cũng hợp đạo lý lắm đó. Nhưng, bà chỉ nhắm vào một khía cạnh mà luận về toàn thể, do đó, lời phê phán của bà không được xác thực. Cô nương phải biết, trên giang hồ, cũng như trong bất cứ giới nào, cũng có vui, cũng có buồn, cũng có thanh cao, cũng có hèn hạ, có tốt, có xấu, có chánh, có tà, chứ nào phải chỉ có một hạng duy nhất đâu? Lịnh đường chỉ nhắm vào hạng xấu, nên thấy toàn những điều xấu, tự nhiên không nhận được cái tốt của khách giang hồ.
Còn như có sự tranh chấp đến thành cừu hận, cừu oán, là vì một số người hèn hạ ganh tỵ, đố kỵ, tham danh thích lợi, không dung dưỡng được nhau, cứ tìm nhau mà loại trừ, mà thanh toán, giành để đứng giữa dòng đời, tự nhiên họ phải dùng mọi thủ đoạn để thỏa mãn tham và dục. Cho nên người học võ, trước khi xuất đạo trên giang hồ, phải chọn con đường tiến. Chọn đúng con đường chánh, là được đòi truyền tụng đáng mặt hiệp sĩ, chọn nhầm con đường tà, là bị đời liệt vào hạng gian hùng.
Nữ nhân cười mỉa:
– Ngươi đã chọn con đường nào đó?
Quan Sơn Nguyệt giật mình, không tưởng là nàng hỏi một câu hiểm hóc như vậy. Trước câu hỏi đó, bất cứ ai cũng khó đáp, chẳng riêng gì một mình chàng.
Nói rằng mình theo con đường chánh, thì lấy gì chứng minh? Mình đã làn nên những thành tích gì? Nói suông thì ai tin? Còn như nói rằng mình theo con đường tà, thì ai có can đảm dám nói như vậy?
Vả lại, trên giang hồ, đâu dễ dàng phân tách một hành động của ai đó, để phê phán chính xác người chủ động theo chánh, hay theo tà? Bất cứ sự tình nào cũng có uẩn khúc bên trong, khi nào chưa thấu đáo những uẩn khúc đó, thì đừng ai tự hào là mình phê phán đúng!
Lâu lắm, chàng mới đáp:
– Bất cứ ai trên giang hồ cũng không thể chứng minh chính xác con đường mình chọn, bởi chẳng có tiêu chuẩn nào rõ rệt, cho nên đời có việc lấy bạo trừ bạo, lấy hung diệt hung, nếu bằng vào khởi sơ mà luận người, thì con người lấy hung bạo diệt trừ hung bạo, là hung bạo rồi, là tà rồi. Còn như chờ đợi lâu hơn, chờ cái kết quả của việc làm, thì cái hung bạo của một người, có thể ngăn chận sự hung bạo của số đông, cái hung bạo của một người đó mang lại thanh bình cho xã hội, thì con người đó không hẳn là hung bạo, như vậy là không tà, mà không tà là chánh rồi còn gì? Tóm lược lại, tại hạ khó đáp câu hỏi của cô nương lắm!
Nữ nhân lại hỏi:
– Ngươi nói, trên giang hồ, có vui, có buồn, có sướng, có khổ vậy ngươi thuộc thành phần vui sướng, hay thành phần buồn khổ?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Thực tình mà nói, một du hiệp chân chánh trên giang hồ, chẳng bao giờ vui sướng được. Bởi, con người trải thân san lấp mọi bất công trên đời, lấy sự việc xóa tan mọi bất bình cho đồng loại, làm bổn phận, thì khi nào vui sướng được nếu đời còn đầy dãy những bất công? Cô nương phải biết, những sự bất công vẫn có từ muôn thuở, có từ trước, có hiện nay, và sẽ xảy ra trong nghìn sau. Một du hiệp chân chánh luôn luôn quên mình để cứu trợ thế nhân, thì khi nào có những vui sướng riêng tư được? Họ vui khi nhân loại an bình, họ buồn khi người đời khổ lụy ...
Chàng kết luận:
– Tại hạ chỉ là một phần tử trong nhân loại đại đồng, mà nhân loại đó không có thành phần riêng biệt, nhân loại có còn điêu linh, thống khổ, nếu có vui, chỉ một số ít vui, số ít đó vị kỷ, chú trọng đến cá nhân, số ít đó không có nghĩa gì bên cạnh đa chúng khổ đau, và đời còn quá nhiều người đau khổ, thì đừng hỏi tại hạ thuộc hạng người vui sướng hay buồn khổ.
Nữ nhân trầm mơ, tựa hồ hiểu lầm, mà mường tượng hoang mang, như triết lý của Quan Sơn Nguyệt quá xa vời, còn lâu lắm mới len lỏi nổi vào tâm trí nàng.
Nàng không hỏi dồn chàng nữa, ít nhất cũng về việc đó, rồi nàng chuyển sang đề khác, hỏi:
– Vừa rồi, gã kia gọi ngươi là Minh Đà Lệnh Chủ, ta chẳng hiểu Minh Đà Lệnh Chủ là cái quái gì? Tên họ của ngươi chăng?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, lắc đầu:
– Không! Minh Đà là một cái hiệu, một biểu ký, mà Lệnh Chủ là người nắm giữ cái biểu ký đó. Dùng biểu ký để giao tiếp với giang hồ, là một sự thông thường, giang hồ gọi nhau bằng biểu ký, chứ ít ai xưng hô ngay tên họ với nhau.
Chứ tên họ của tại hạ là Quan Sơn Nguyệt. Một vầng trăng sáng, soi ngàn dặm quan sơn!
Ngàn dặm quan sơn! Một vừng trăng sáng! Chừng như nữ nhân thích những danh từ đó quá, mắt nàng bừng sáng, miệng nàng cười nụ, giọng nàng ấm hơn, nàng gật gù hỏi:
– Chắc ngươi có danh lớn trên giang hồ? Ta nghe ngươi giải thích cái tên của ngươi, nghe hay vô cùng!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Danh mà chi, cô nương! Cái danh nào, dù to, dù nhỏ, cũng chỉ là hư hư ảo ảo, chuốc lấy hư danh vào thân, chỉ khổ vì hư danh đó, chứ nào có lợi ích gì?
Thân không danh là thân nhàn, thân có danh là thân khổ. Bởi danh liệt thì thân bại, giữ cho danh đừng liệt, có khác nào đầu độc khoảng thời gian sống trên cõi tạm này?
Nữ nhân tặc lưỡi:
– Chắc ngươi có nhiều bằng hữu!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Cái đó là hẳn không rồi! Có thể nói tại hạ là người cô độc nhất đời, tại hạ luôn luôn tịch mịch, giữa thị thành đông đúc cũng như tại rừng núi âm u! Tại hạ đi đơn, về chiếc, bạn đường là một con vật bốn chân, tại hạ lấy vũ trụ làm nhà lấy cỏ cây làm bạn, sớm chợ chiều thôn, ngày rừng, đêm núi, bềnh bồng, phiêu dạt một tấm thân côi.
Nữ nhân buông nhẹ một tiếng thở dài:
– Rồi ngươi có buồn chăng?
Nàng tiếp:
– Theo ta, ta rất thích cái sống của ngươi! Giả như ngày sau, ta trở thành một khách giang hồ, ta sẽ chọn cái sống của ngươi, cái sống vô câu vô thúc, không cảm tình ràng buộc, không danh lợi triền miên, tự tại, thung dung giữa trời mây trăng nước, thích đâu là dừng lại, chán đâu là rời đi.
Nàng mơ màng, nhìn ra xa xa, ngoài trời mờ mờ sáng, lại thở dài, tiếp luôn:
– Nhưng, còn mẹ ta! Khi nào bà lại chấp thuận cho ta hưởng cái thú sông hồ?
Quan Sơn Nguyệt khuyến khích một câu:
– Cô nương sai rồi, lịnh đường nói phải đó, tuyệt đối cô nương nên nghe lời giáo huấn của lịnh đường, và hãy bỏ cái mộng trở thành khách giang hồ ... Giang hồ rộng bao la, song chẳng phải là nơi một nữ nhân chen mình, đặt chân. Phạm vi của nữ nhân là khung cảnh gia đình, thế giới của nữ nhân, là môn hộ, đừng bao giờ nghĩ đến việc hòa mình vào cuộc sống náo nhiệt, của hạng người chuyên lừa trước, dối sau!
Nữ nhân trừng mắt, sôi tánh quật cường:
– Không, mẹ ta cấm, mặc mẹ ta, ta nhất định phải trở thành một khách giang hồ! Trước kia, ta cũng có gặp một số người trên giang hồ, họ là những kẻ vô dụng, chuyên hiếp yếu, bức kém hoặc giả ăn nói hoang đường, khoác lác.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Cô nương ghét, cô nương hạ sát họ?
Nữ nhân mỉm cười:
– Ai giết họ làm gì! Mẹ không cho ta tùy tiện giết người, ta làm sao cải lịnh mẹ! Ta chỉ đánh mỗi người mấy roi, cảnh cáo thôi.
Quan Sơn Nguyệt gật gù:
– Vậy là phải đó, cô nương! Mạng con người, nào phải là con kiến, con trùn, con dế đâu mà động một tý là giết?
Rồi chàng tiếp:
– Cô nương rút roi xem vừa đẹp, vừa nhanh, vừa lợi hại, tại hạ hết sức khâm phục! Dám hỏi cô nương, đang đêm, một mình ở tại khoảng đường thanh vắng như thế này, hẳn cũng có mục đích gì chứ?
Nữ nhân cười nhẹ:
– Mục đích gì? Bất quá, hôm qua, ta đi thăm dì ta, bởi gấp trở về nhà, nên đi luôn trong đêm, chẳng cần chờ sáng ngày đấy thôi.
Nàng tiếp luôn, tự giới thiệu:
– Ta họ Lạc, tên Tiểu Hồng, nhà ta ở bên kia bờ Hoàng Hà ...
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp thốt:
– Thế là cô nương đang tìm thuyền sang sông, do đó mới gặp vị bằng hữu của tại hạ! Đang đêm, muốn tìm một con thuyền, chẳng phải là việc dễ đâu, cô nương. Hiện tại, bọn tại hạ đã thuê được một con thuyền, và sắp sửa sang sông đây, nếu cô nương không thấy có gì trở ngại thì chúng ta nên cùng sang chung thuyền! Tại hạ thành thật mời cô nương đó.
Lạc Tiểu Hồng chớp mắt, cười tươi:
– Được vậy là hay lắm! Nhà ta cũng khá rộng, có nhiều phòng trống. Nếu qua bờ đối diện, các ngươi không tìm được nơi tạm trú qua đêm, thì cứ ở lại nhà ta, rồi chừng nào muốn đi thì đi!
Quan Sơn Nguyệt tỏ vẻ cảm kích:
– Cô nương có hảo ý, bọn tại hạ xin đa tạ, song tại hạ nghĩ, lịnh đường không thích những người trên giang hồ, chỉ sợ bọn tại hạ đến đó, sẽ gặp nhiều bất tiện.
Lạc Tiểu Hồng khoát tay:
– Đừng sợ! Chẳng có gì ngươi phải lo ngại. Nếu ta biết được ngươi ứng phó dễ dàng «Tiên Pháp Linh Xà» của ta, chắc chắn là bà sẽ hoan nghinh tiếp ngươi đó. Bà thường nói, trong thiên hạ, rất ít người tránh được đường roi Linh Xà của ta, ngươi tránh được là ngươi có hạng lắm đấy.
Nàng tỏ vẻ cương quyết hơn, gằn từng tiếng:
– Đi! Phải đi với ta, về nhà ta! Ta nhất định phải đưa ngươi đến gặp mẹ ta, cho người biết được cái kẻ tránh dễ dàng tiên pháp của ta.
Bây giờ thì nàng đối thoại với vẻ thân mật rồi, Lưu Tam Thái ôm mặt đau bước tới, ngăn chặn Quan Sơn Nguyệt:
– Lệnh Chủ! Thêm việc không bằng bớt việc. Lệnh Chủ nên nhớ là còn cái ước hẹn tại Đại Tán Quan, không thể chậm trễ được đấy!
Y tỏ rõ chẳng có mảy mai tình cảm đối với Lạc Tiểu Hồng. Không có tình cảm cũng chẳng sao, bởi song phương hoàn toàn xa lạ không tình cảm với nhau là lẽ tự nhiên. Chẳng những y không có tình cảm đối với nàng mà y lại biểu lộ ác cảm rõ rệt. Y mượn cái cớ đến gặp Đại Tán Quan để ngăn chặn Quan Sơn Nguyệt theo Lạc Tiểu Hồng về nhà nàng. Y không muốn Quan Sơn Nguyệt giẫm chân lên cái bẫy thân tình mà nàng vừa đưa ra, bởi y cho lời mời mọc đó của nàng là một cạm bẫy, không hơn không kém.
Nhưng, chừng như Quan Sơn Nguyệt đã hiểu cái ý của y, và không đồng tình lắm, chàng vừa khoát tay vừa mỉm cười, đáp:
– Tại hạ biết rồi, Lưu huynh! Thời gian còn dài, vả lại tại hạ không lưu lại nhà nàng lâu, chắc không đến đổi dang dở hạn kỳ.
Lưu Tam Thái chẳng biết làm sao hơn, đành dắt ngựa đến trước mắt nàng đoạn thốt:
– Đã vậy, tại hạ xin đi trước.
Y nhảy lên lưng ngựa, ra roi, con ngựa vọt liền. Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng theo sau.
Không lâu lắm, họ đến bến đò, nơi đó có một con thuyền chực sẵn. Chủ thuyền là một chủ nhân, chuẩn bị xong xuôi mà đợi mãi không thấy Lưu Tam Thái trở lại, nên nằm trước quang mũi ngủ vùi.
Lưu Tam Thái phải đánh thức lão dậy đoạn cả ba cùng dắt ngựa xuống thuyền.
Thuyền tách bến tung ra giữa dòng sông.
Cả ba không ai nói với ai một tiếng nào.
Lưu Tam Thái ngồi thu mình một góc, niềm oán hận tràn lòng. Y đã bị Lạc Tiểu Hồng đánh suýt vỡ mặt mày, vậy mà Quan Sơn Nguyệt không hề trừng trị nàng, cho y được hả dạ.
Lạc Tiểu Hồng ngồi yên một chỗ, tịch mịch đến khó chịu, muốn gợi chuyện cho vui, nhưng thấy chẳng ai muốn nói gì, nàng đành im lặng, mà im lặng lại bực bội quá, nàng bèn cất tiếng ca. Giọng nàng trong trẻo, hồn nhiên vang lên ấm dịu vô cùng.
Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ nàng còn ngây thơ quá.
Một lúc sau thuyền ra đến giữa dòng sông, từ nơi đó nhìn vào hai bờ, dưới ánh đem mờ, hàng cây giăng mắc u buồn.
Bỗng Lạc Tiểu Hồng ngừng ca rồi kêu lên:
– Lão nhân ơi! Chèo thuyền như thế này, biết đến thời gian nào mới vào bờ?
Nghe nàng kêu lên, Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái giật mình quay nhìn ra sau lại, thấy lão nhân cầm chèo, nhưng mái chèo không nhích động, con thuyền trôi theo dòng nước. Quan Sơn Nguyệt linh cảm có sự bất thường, bởi qua sông thì thuyền phải chỉ mũi vào bờ, cứ để cho thuyền trôi đi như thế?
Lão nhân nghe Lạc Tiểu Hồng kêu lên như thế, điềm nhiên đáp:
– Thuyền đi như vậy là vì các vị chưa trao số tiền sang sông!
Quan Sơn Nguyệt có phần nào phẫn nộ đáp:
– Nhưng thuyền nào đã đến bến đâu, mà lão trượng đòi tiền sang sông?
Có cái đạo lý nào cho phép lão trượng đòi tiền công trước khi hoàn thành sự việc?
Lão nhân bình tĩnh thốt:
– Các vị nói cũng phải, song các vị thử nghĩ lại xem, ai ai cũng cỡi ngựa, một khi đến bờ các vị lên ngựa, ra roi, thì lão phu còn làm sao chạy theo kịp mà đòi tiền? Chẳng hóa ra lão phu bỏ giấc ngủ để làm cái việc vô công à?
Quan Sơn Nguyệt sừng sộ:
– Thế lão trượng cho rằng bọn này là phường vô lại à? Chuyên lừa gạt thiên hạ hay sao chứ?
Lão nhân cười nhẹ:
– Các vị hiểu cho các vị, lão phu cứ biết cho lão phu, làm cái nghề này, chỉ mong được dịp rước khách sang sông, kiếm tiền nuôi sống, được dịp mà làm, làm lại không công, thì lấy gì mà sống chứ? Việc gì cũng thế nắm chắc trong tay là hơn.
Rồi lão trầm giọng, kết thúc:
– Nói gì thì nói, các vị nên trao tiền ra là hơn.
Quan Sơn Nguyệt toan phát tác, nhưng chàng nghĩ lại, dù sao thì lão nhân cũng cao tuổi quá rồi, đáng bậc cha chú, nếu chàng hành hung thì còn chi là lễ độ? Vả lại, biết đâu từ trước đến giờ, lão có cái lệ đòi tiền công như thế? Hoặc giả cũng có một vài người nào đó, đã quỵt tiền của lão, nên bây giờ lão thận trọng, tính việc chắc cho lão trước như vậy? Chàng dằn lòng, hỏi:
– Được rồi! Vậy lão trượng định lấy bao nhiêu tiền?
Lão nhân thản nhiên đáp:
– Mỗi người, hai ngàn lượng, ba người là sáu ngàn lượng. Lượng bạc đấy chứ chẳng phải lượng vàng đâu, các vị đừng ngán.
Quan Sơn Nguyệt, Lưu Tam Thái và Lạc Tiểu Hồng suýt ngảy dựng lên.
Qua sông một chuyến, mỗi người phải trả hai ngàn lượng bạc. Còn gì phi lý hơn chứ? Nếu không phải là kẻ cướp mượn cớ rước đưa hành khách để dễ bề bóc lột?
Lưu Tam Thái nóng tính hơn hết, kêu lên:
– Một chuyến sang sông, tiền công hai ngàn lượng? Lão trượng nói đùa đấy chứ? Có nhiều lắm cũng không thể hơn mười lượng được! Chừng như lão trượng mất lý trí rồi vậy?
Lão nhân buông mái chèo, «hừ» một tiếng:
– Lúc gọi đò, khách nhân không mặc cả giá sang sông, điều đó chứng tỏ là khách nhân mặc nhiên ưng thuận cho lão phu tùy định giá. Làm cái nghề này, lâu lâu mới gặp một vài người hào phóng, kiếm được mối lời, khi nào lão phu lại bỏ qua cho được? Bởi, để cho lão phu tùy định giá, là hào phóng rồi chứ gì?
Lưu Tam Thái nổi giận:
– Im lão đi! Không ai nghe được những lời phi ký của lão đâu!
Lão nhân bật cười ha hả:
– Sáu ngàn lượng bạc. Ha ha! Số tiền cũng khá đấy! Được số tiền này, lão phu bỏ nghề cũng vừa. Lão phu sẽ cưới một người vợ trẻ, rồi chờ nó mang thai, sanh con, lão phu sẽ cho con học hành, lớn lên nói thi đỗ, làm quan, vinh hiển tổ tông, nói nuôi lão phu đầy đủ, lúc lão phu chết, nó tống táng trọng hậu. Khách nhân thấy đó, sáu ngàn lượng bạc cũng chẳng nhiều chi đâu!
Lưu Tam Thái sững sờ, tự hỏi lão chèo đò này có điên hay không, và y thầm nghĩ không thể giản lý với lão được rồi.
Quan Sơn Nguyệt bình tịnh thốt:
– Lão trượng nói có lý đấy. Bởi không hỏi giá trước thì bọn tại hạ phải bằng lòng với bất cứ giá nào do lão trọng định. Tuy nhiên đã là khách lữ hành bọn tại hạ không tiện mang nhiều tiền theo mình, cho nên không thể ứng phó số bạc sáu ngàn lượng.
Lão nhân khoát tay:
– Tiền không sẵn, cũng chẳng sao. Nếu các vị có châu ngọc nơi mình, cứ giao cho lão phu một hạt, tương đương với cái giá sang sông chung cho ba vị.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Lão trượng tinh mắt lắm đấy! Tại hạ cũng định trao cho lão trượng một hạt châu để bù vào số bạc.
Chàng lấy trong mình ra một chiếc bao, từ từ mở.
Trong bao có rất nhiều hạt châu, chàng lấy một hạt trao cho lão nhân.
Lão nhân đưa tay tiếp lấy liền.
Thừa dịp đó, nhanh như chớp chàng chụp vào mạch môn của lão.
Nhưng lão nhân thản nhiên, đưa tay kia giật hạt châu.
Nắm trúng mạch môn của lão nhân chèo đò, Quan Sơn Nguyệt vận dụng công lực truyền sang, cốt gây chấn động, áp lảo đảo, song chừng như lão không hề có cảm giác chi cả, lão cười hì hì, đưa hạt minh châu ra dưới ánh trăng, nhích động cho nó chớp chớp, rồi lão gật gù lẩm nhẩm:
– Khá lắm! Vật này xem ra cũng có giá trị đấy! Đôi tay cầm mái chèo suốt đời, chưa hề sờ mó đến một vật có giá trị như thế này! Cầm nó trong tay, lão phu có chết cũng hả dạ! Công tử ơi! Công tử rộng rãi quá chừng! Một chuyến sang sông mà công tử trả cho lão phu bằng một vật trị giá vạn lượng như thế này, đáng phục lắm đó! Dưới phàm trần, dễ có mấy kẻ sánh được công tử! Vạn lượng!
Vạn lượng! Thế là còn thừa bốn ngàn lượng cho công tử, lão phu làm sao có số bạc to lớn để trao lại cho công tử?
Quan Sơn Nguyệt đã vận dụng đủ mười thành lực, nhưng vẫn không làm sao chuyển công lực qua mạch môn, vào người lão chèo đò, như vậy lão có hề hấn gì? Bao nhiêu công lực của chàng, vừa đến mạch môn của lão nhân, là bị hóa giải, tiêu tan ngay, chẳng khác nào một ngọn gió nhẹ vờn qua, rồi đi luôn, không lưu lại một ảnh hưởng nhỏ.
Chàng vô cùng kinh hãi, buông tay ngay. Nhân dịp, chàng vờ phụ họa theo cái ý của lão nhân, cốt che lấp cái thẹn của chàng, thốt nhanh:
– Được rồi, lão trượng khỏi phải lo nghĩ. Giả như hạt minh châu có được giá trị trên số tiền đó, thì lão trượng cứ giữ luôn chỗ thừa lại đó, tại hạ xin tặng luôn cho lão trượng.
Lưu Tam Thái theo dõi tình hình, biết là sự việc rắc rối đến nơi, y nín thinh, chẳng dám thốt một tiếng nào.
Trong thời gian ở tại khách sạn, kinh doanh nghề nghiệp, y cũng tự hào dù sao mình cũng là một tay khá. Nhưng, theo Quan Sơn Nguyệt trong cuộc hành trình vòng quanh như thế này trước khi đến Đại Tán Quan gặp Phi Lạc Đà, y đã gặp nhiều tay quá lợi hại. Trước những tay lợi hại đó, y có nghĩa gì? Nghĩ ra y còn kém một bóng mờ, trước những tay đó, y chỉ là một kẻ vô dụng không xứng đáng cho bất cứ ai nhìn thoáng qua y.
Còn chi thinh danh một bậc anh tài, tại đất Lương Châu?
Thế ra từ bao lâu, y chỉ chuốc lấy hư danh, bây giờ đương đầu với những bậc chân tài, y mới nhận thức mình vô dụng!
Mới xuất hành mấy hôm, mà y thừa sống thiếu chết như thế này đi theo Quan Sơn Nguyệt nhiều ngày, thì có khác nào đi qua từ cửa ải dần vào tử địa?
Thoạt tiên, gặp bọn họ Âm, họ khai thì phái kiếm Vô Cực, rồi bây giờ, gặp Lạc Tiểu Hồng.
Bại trước Âm Tố Quân, cũng còn đi được, bởi dù sao thì bà ta là một Chưởng môn nhân, bà ta cao tuổi. Bại trước Lạc Tiểu Hồng, một cô gái chưa đến tuổi trưởng thành, thì thực là một nhục nhã lớn.
Hiện tại, lại gặp chèo đò! Chính Quan Sơn Nguyệt còn không áp đảo nổi lão, liệu y có ra cái quái gì trước mặt lão?
Rồi, chốc lát nữa đây, lại gặp Huyết La Sát! Y đã bại trước Lạc Tiểu Hồng, thì tài gì y đắc ý trước mẹ nàng? Sau bà ấy, còn những ai dọc theo con đường Quan Sơn Nguyệt sắp đi qua?
Và cuối cùng, là Phi Lạc Đà!
Trời! Sao mà lắm người tài thế? Trời! Y kém quá, từ bao lâu nay cứ tưởng mình là tay hữu hạng! Từ bao lâu nay, y nuôi mộng! Bây giờ vỡ mộng, y còn dám chen mình trên giang hồ nữa chăng?
Chẳng rõ y hận cho mình kém võ công, y hối tiếc đã đi theo Quan Sơn Nguyệt để phải trải qua hai lần suýt chết, nhìn lão già, rồi nhìn qua Lạc Tiểu Hồng, bất giác y thở dài.
Trong khi đó, lão nhân lắc đầu, chỉnh sắc thốt:
– Không được! Phàm tiền tài, trên đời này, ai ai chẳng ham? Song người quân tử chỉ ham tài sao cho phải đạo. Người quân tử chỉ nên hưởng thụ cái gì hợp lý, hợp đạo mà thôi. Lão phu đòi tiền công đưa các vị sang sông, là sáu ngàn lượng, thiếu một lượng, nhất định không được, hơn một lượng, nhất định không nhận. Huống chi còn thừa ra cho công tử đến bốn ngàn lượng? Lão phu sẽ tìm biện pháp bồi hoàn chỗ thiệt hại bốn ngàn lượng cho công tử nếu lão phu nhận lãnh hạt minh châu này.
Từ lúc nghe lão chèo đò đòi giá sang sông quá cao. Quan Sơn Nguyệt đã hiểu lão là con người phi thường rồi. Tuy nhiên, chàng không tưởng là lão có thể xem thường một cái nắm tay vào mạch môn của chàng như vậy.
Đúng là vũ công của lão quá cao minh, trên hẳn chàng mấy bậc.
Chàng lại biết, lão đòi giá cao, chẳng qua chỉ để đùa thôi, chứ khi nào một chuyến sang sông của mỗi người lại có cái giá hai ngàn lượng bạc?
Nhưng, lão có dụng ý gì?
Lão chèo đò suy nghĩ một lúc lâu, bỗng nhướng mày, reo lên:
– Có rồi! Lão phu có phương pháp rồi, công tử ơi! Vừa rồi, công tử chụp vào cổ tay lão phu, cái chụp đó sẽ được đền bù bằng bốn ngàn lượng bạc thừa lại.
Quan Sơn Nguyệt nghe mặt nóng bừng. Chàng nghĩ, lão già này đã gạt người lấy của, thì thôi cũng được đi, cớ sao còn nhắc đến việc đó? Thế lão định mỉa mai chăng? Chàng cười lạnh một tiếng:
– Tùy lão trượng định cách nào cũng được.
Niềm cao hứng hiện lên ánh mắt, lão chèo đò thản nhiên cất hạt minh châu vào mình, rồi mỉm cười thốt:
– Phàm muốn hưởng một số tiền nào tất phải có công khổ, có lý do, như vậy lão phu mới khỏi thẹn. Từ nghìn xưa, giai nhân cười một nụ, đáng giá ngàn vàng, thì lão phu bị chụp vào cổ tay, cái chụp đó chỉ đáng giá bốn ngàn lượng bạc, nghĩ ra lão phu không gặt hái nhiều tiền bằng một nữ nhân, tuy cũng chẳng sao, bởi mỹ nhân cần tiền hơn lão phu. Mỹ nhân bắt buộc phải có nhiều tiền để bảo vệ sắc đẹp, để vung phí cho xứng đáng với tư cách của một thần tượng, do đó cái nhu cầu phải vô cùng. Còn lão phu bất quá chỉ cần một số tiền nhỏ để nuôi sống, cưới vợ, sanh con đổi nghề. Một vạn lượng bạc cũng đủ lắm rồi!
Lão nhìn Quan Sơn Nguyệt, mỉm cười, tiếp:
– Công tử muốn chụp thêm vài lượt nữa chăng? Nếu muốn xin công tử cứ tự tiện, bởi công tử sẽ giúp lão phu phát tài luôn.
Quan Sơn Nguyệt sôi giận, cho rằng lão phu chèo đò khinh chàng thái quá.
Chàng toan phát tác, quyết trừng trị sự ngạo mạn của lão.
Nhưng Lạc Tiểu Hồng bật cười hì hì, hỏi:
– Như tôi đây, tôi muốn chụp cổ tay lão trượng, lão trượng có cho không?
Và nếu lão trượng bằng lòng, thì tôi phải trả bao nhiêu bạc cho mỗi cái chụp.
Quan Sơn Nguyệt biết nàng đã nhận ra lão chèo đò là một người có bản lãnh phi phàm, nên muốn thử tài. Chàng định ngăn trở, sợ nàng thất bại, song một ý miện phát sanh, chàng bất động, chờ xem sự việc như thế nào.
Lão chèo đò nhìn thoáng qua nàng, cười nhẹ, gật gù:
– Đúng là hôm nay lão phu đại phát tài! Không ngờ làm ăn quần quật luôn ngày lẫn đêm, vẫn không nuôi sống nổi một thân cũng tưởng phải chết già với túng thiếu nghèo khổ, bỗng nhiên thần tài chiếu cố, dung ruổi các vị mang tiền đến cho! Quý hóa quá!
Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng:
– Đừng nói dông dài. Lão trượng muốn đòi bao nhiêu tiền mỗi cái chụp, cứ nói.
Lão chèo đò cười hắc hắc:
– Được bàn tay ngọc của cô nương mó vào cổ tay lão phu, là một điều đại hạnh, khi nào lão phu lại dám đòi tiền? Trên thế gian này, có ai nỡ làm hao tốn cho người đẹp chứ?
Lạc Tiểu Hồng cười nhạt:
– Vậy thì tôi xin đa tạ lão trượng.
Câu nói vừa buông dứt cánh tay liền vung lên, bàn tay phất nhanh, nàng quất ngọn roi vào cổ tay của lão chèo đò.
Lão chèo đò biến sắc, toan rút tay về, nhưng không còn kịp nữa, đầu roi quấn vào cổ tay đến mấy vòng. Lập tức lão vươn cánh tay xa rồi vận công lực gặt mạnh xuống. Gặt như vậy, nếu đường roi còn thẳng, thì phải sút mấy vòng quấn.
Nói là đường roi, chứ thật ra chính là đường dây lưng đỏ của Lạc Tiểu Hồng, khi nàng vung lên, đường dây thẳng ra, nàng sử dụng nó như một ngọn roi.
Biết trước thế nào lão chèo đò cũng làm như vậy để cho đầu dây vuột khỏi tay. Lạc Tiểu Hồng chùng sợi dây, thành ra cái gặt của lão chèo đò chẳng kéo thẳng đường dây, và các vòng quấn không hề sút.
Nhận định cái gặc tay của lão chèo đò đi trọn đà rồi, lập tức Lạc Tiểu Hồng kéo đường dây cho thẳng lại như cũ. Nàng vẫn giữ cho đầu dây quấn vào cổ tay đối phương như thường.
Lão chèo đò hét lên một tiếng, vung tay kia đánh ra một chưởng bất chấp tánh cách hèn hạ của hành động.
Quan Sơn Nguyệt bất bình, lập tức vung chưởng nghinh đón chưởng kình của lão chèo đò. Đánh ra chưởng đó, Quan Sơn Nguyệt vận dụng toàn công phu nội lực bởi chàng thừa hiểu đối phương là một tay không vừa, tuy dùng toàn lực mà chàng cũng chưa chắc gì chống đỡ nổi một chưởng của lão. Do đó, chưởng phát ra rồi, chàng không dám đứng nguyên tại chỗ, cấp tốc đảo bộ nhảy sang một bên.
Nhưng, chẳng rõ tại sao, chưởng lực của lão chèo đò hết sức tầm thường, chẳng những Quan Sơn Nguyệt không nghe một phản lực nào khi song chưởng chạm vào nhau, trái lại kình đạo của chàng còn đánh bật lão về phía hậu của lão vừa ngả xuống lái thuyền, hai tay chỏi nhanh xuống sàn, tung bỗng người lên không, lộn đi một vòng, vọt luôn ra dòng sông rơi xuống kêu «ùm» một tiếng.
Cổ tay của lão còn vướng đường dây lưng của Lạc Tiểu Hồng. Nàng cũng còn nắm vững một đầu, đường nhiên nàng bị giật theo lão, ngã chúi tới, nếu Quan Sơn Nguyệt không nhanh tay đón ngang hông nàng ôm chặt giữ lại, nàng đã phải bay theo xuống dòng sông với lão rồi.
Lão chèo đò rơi xuống nước, bọt trắng ngời ánh trăng bắn lên tứ tung, khi bọt tan sóng lặng rồi, lão cũng mất dạng luôn.
Cũng may, đầu dây kia lúc đó, chẳng rõ tự nhiên sút ra, hay do lão chèo đò mở, thành lỏng lẻo, Lạc Tiểu Hồng bị Quan Sơn Nguyệt ôm chặt, chàng siết vòng tay hơi mạnh, giật cánh tay của Lạc Tiểu Hồng về, đường dây theo tay nàng được rút trở lại.
Với diễn tiến vừa qua con thuyền chao động mạnh, suýt đắm, ba con ngựa trên thuyền hoảng sợ, hí vang rền, vó chồm chồm, chực phóng xuống dòng sông.
Lưu Tam Thái và Quan Sơn Nguyệt vội đưa tay giữa ngựa của họ song chậm một giây, cả hai con đã vọt mình đi rồi.
Chỉ còn lại một con ngựa có sắc lông đỏ của Lạc Tiểu Hồng đứng nguyên tại chỗ.
Hai con ngựa xuống nước, bọt trắng bắn lên, bọt tan, ngựa cũng chìm luôn, chẳng thấy tăm dạng.
Con thuyền lắc lư một lúc, rồi bình ổn lại như cũ.
Lúc đó, Quan Sơn Nguyệt vẫn còn giữ Lạc Tiểu Hồng trong một tay, chàng lỏng cánh tay, đẩy nhẹ nàng ra xa xa.
Chàng hứng nàng, ôm nàng giữ lại cho nàng khỏi nhào luôn, chàng buông nàng ra, sự va chạm xác thịt đó không gây một cảm giác nào nơi chàng, thần sắc chàng thản nhiên như thường. Nhưng Lạc Tiểu Hồng thì khác, mặt nàng bừng đỏ, ánh mắt chớp nhanh mấy lượt. Hơi cúi đầu một chút, nàng ấp úng:
– Đa ... đa tạ ngươi ... Quan ...
Nàng muốn thay đổi cái tiếng ngươi chăng? Nàng sẽ gọi Quan Sơn Nguyệt bằng danh từ nào? Quan huynh đài? Quan đại ca? Quan thiếu hiệp? Quan Lệnh chủ? Nhưng, nàng buông lỏng, chẳng ai biết nàng định chọn danh từ nào.
Dù sao cái chuyển hướng đó cũng có lợi cho Quan Sơn Nguyệt, bởi cả hai đi dần đến chỗ thân mật hơn. Và, khi nào có sự thân mật giữa họ, Quan Sơn Nguyệt mới mong tìm hiểu được những gì muốn hiểu, về lai lịch nàng về Huyết La Sát, mẫu thân nàng.
Quan Sơn Nguyệt bạo dạn hơn, quăng cho nàng một cái phao cứu nguy:
– Tại hạ lớn tuổi hơn cô nương, cô nương cứ gọi là Quan đại ca đi, như vậy là hợp lý lắm!
Lạc Tiểu Hồng lại đỏ mặt một lần nữa, gầm đầu thấp hơn một chút nữa, rồi cũng ấp úng như:
– Quan ... đại ca ... tiểu muội đa tạ ... đại ca!
Quan Sơn Nguyệt hân hoan vô cùng. Chàng toan thốt một câu, bỗng mặt nước sôi động, bọt trắng bắn cao, nước xịt lên thành vòi. Theo vòi nước xịt, lão chèo đò hiện ra, lão đang ngồi trên lưng một con ngựa. Lão cao giọng hỏi:
– Cái vị tiểu cô nương dùng roi kia, chứ Lạc Hành Quân là chi của cô nương?
Lạc Tiểu Hồng không do dự:
– Mẫu thân của tôi đó. Lão trượng hỏi để làm gì?
Lão chèo đò cao giọng:
– Hay quá! Chung quy rồi lão phu cũng tìm được bà! Ngờ đâu bà ấy lại ở vùng này với con gái!
Lạc Tiểu Hồng còn ngây thơ quá chưa rõ lão chèo đò cao giọng thốt như vậy là có ý tứ gì, lão là thân hay thù, đáng lẽ nàng phải dè dặt, trái lại nàng còn chỉ luôn chỗ cư trú:
– Nhà tôi ở cách bến đò bên bờ đối diện độ năm dặm, lão trượng có thể hỏi bất kỳ ai trong vùng người ta sẽ chỉ Tịch Dương Biệt Trang cho mà tìm đến.
Lão chèo đò vẫn cao giọng:
– Cô nương về Biệt Trang, cho bà ấy hay, là ngày mai, đúng giờ ngọ, lão phu sẽ đến tận nơi, bái phỏng.
Nghe câu đó, Lạc Tiểu Hồng biết ngay đối tượng thuộc thành phần nào trong giang hồ rồi, và lão ấy sẽ đến gia trang của nàng với thái độ nào.
Không chịu kém, nàng cũng cao giọng đáp lại:
– Là người có liên quan với nhau, lại có công tìm kiếm nhau qua bao nhiêu tháng rộng năm dài, biết được tin tức rồi, là cứ đến, đến hôm nay được tiếp đón hôm nay, đến ngày mai, ngày kia, vẫn có người sẵn sàng tiếp đón. Chẳng những mẫu thân tôi sẵn sàng mà dì tôi cũng sẵn sàng, nếu cần, tôi cũng sẵn sàng luôn.
Nếu tôi không lầm, thì lão trượng chính là Hồ Hải Dị Tẩu có đúng vậy chăng?
Lão chèo đò sửng sốt. Một lúc lâu lão gật gù, thét:
– Được rồi! Lão phu sẽ đến! Lão phu nhất định phải đến. Cô nương cứ bảo mọi người chuẩn bị sẵn sàng đi nhé!
Lão thúc gối vào hông ngựa, ngựa quay mình, thuận theo dòng nước trôi đi.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Lạc cô nương nhận ra lão ta?
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu:
– Làm gì tiểu muội nhận ra lão? Đại ca không thấy sao, thoạt đầu tôi cứ tưởng lão là một bằng hữu của mẹ tôi, do đó tôi chỉ chỗ ở liền. Về sau, khi lão ước hẹn gặp mẹ tôi, tôi mới nhận thức ra lão ta tìm mẹ tôi vì ác ý chứ không vì thiện cảm. Mẹ tôi từng đề cập đến danh hiệu của một lão nhân, cũng như hình dáng của lão ấy, có chỗ giống với lão chèo đò này, do đó tôi độ chừng, bất ngờ mà trúng. Lão ta là con người bại hoại nhất trần đời, hơn nữa, lại là một đại cừu nhân của gia đình tôi đấy. Từ bao lâu nay, ngày ngày, mẹ và dì tôi hằng mong đợi lão đến, đến để một lần giải quyết những gì còn đọng lại, dứt khoát vĩnh viễn.
Quan Sơn Nguyệt động tính hiếu kỳ, hỏi:
– Lão ấy có mối thù gì với gia đình lịnh đường?
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu:
– Tại sao có mối thù, tôi cũng không hiểu được. Chỉ biết là từ ngày tôi lớn khôn, mẫu thân tôi luôn luôn dặn dò tôi phải lưu ý đến một người có hình dáng như lão. Đồng thời, mẫu thân tôi cũng truyền dạy một đường roi, khắc chế lão ta nếu bất ngờ tôi gặp lão. Tôi cố công luyện tập đường roi đó, hiện nay, cũng được thuần thục lắm rồi.
Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:
– Có phải là đường roi hiền muội vừa thi triển?
Lạc Tiểu Hồng lộ vẻ đắc ý, gật đầu.
Quan Sơn Nguyệt tiếp luôn:
– Vũ công của lão ta kỳ bí quá chừng, như có vẻ tà quái, ngu ca chụp tay lão, dùng toàn lực bóp mạnh, thế mà lão chẳng việc gì, chẳng những thế, lão còn có cách làm cho chưởng lực của ngu ca tan biến mất ...
Lạc Tiểu Hồng cười nhẹ:
– Cũng may, lão ta bị đầu roi của tôi quấn trúng vào cổ tay chứ nếu không thì lão đã có làm gì ca ca rồi, và ca ca không còn bình an mà cười nói nữa!
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, hỏi:
– Tại sao?
Lạc Tiểu Hồng thu đường dây lại, đưa đầu dây cho Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái xem, rồi nàng bấm nhẹ nơi chỗ cầm.
Liền theo đó, có hai mũi nhọn, như châm, song lớn hơn châm ló ra, nếu không lưu ý tất không thấy được.
Nàng ngưng bấm, hai mũi châm thụt vào đường dây, rồi nàng bấm đi bấm lại mấy lượt, cho cả hai xem kỹ.
– Đó là một tuyệt kỹ của mẹ tôi, chế biến ra, trị lão ta. Năm xưa lão thất bại nơi tay mẹ tôi, cũng vì tuyệt kỹ đó. Bây giờ, lão bị tôi đánh một lần nữa, hẳn lão không biết tại sao mình bị đánh trúng dễ dàng, và vật gì đã gây thương thế nơi lão.
Hai mũi châm đó, trúng vào cổ tay lão, làm công lực của lão giảm sút đi một phần, do đó lão không dám hùng hổ đối phó với tôi, lão gờm tôi, hẳn cũng phải buông tha luôn ca ca.
Rồi nàng tiếp:
– Mẹ tôi có nói lão ấy luyện một bí công có cái tên là «Tiên Thiên Hổn Văn Vân Nhứ Khí Công», biến thân thể lão như một vật bằng những đường dây đánh lại, rắn chắc, không một loại vũ khí nào, không một công lực nào làm gì lão nổi, trừ ra phải dùng những mũi châm nhỏ, đâm qua kẽ hở của những đường dây mới làm tổn thương đến lão được. Quan đại ca phải biết, kẽ hở của một vật thể bằng những đường dây kết lại, nhỏ như thế nào!
Quan Sơn Nguyệt lo lắng:
– Hai mũi châm đó, có tẩm độc chăng?
Câu hỏi đó làm Lạc Tiểu Hồng không vui. Nàng trầm giọng đáp:
– Đã có cái tên Linh Xà Tiên Pháp, thì làm gì châm có tẩm độc? Nếu châm tẩm độc, tất phải gọi tiên pháp là Độc Xà chứ?
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Nếu châm không tẩm độc, thế tại sao chạm vào cổ tay địch, mũi châm có thể làm suy giảm công lực của địch?
Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng:
– Quan đại ca học võ, mà lại có thể hỏi một câu như vậy à? Mũi châm chạm trúng mạch môn, ảnh hưởng đến khí huyết, bao nhiêu chân khí địch dồn tụ, bị cái chạm đó, phát tiết ra hết, địch đang mạnh, mất cả chân khí dĩ nhiên phải trở thành yếu như thường.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Khí huyết ở tại cổ tay sao?
Lạc Tiểu Hồng gật đầu:
– Riêng lão ta thì vậy. Lão ta khác hẳn với tất cả mọi người cho nên tiên pháp đó ...
Quan Sơn Nguyệt chận lời:
– Thì sao?
Lạc Tiểu Hồng «xì» một tiếng:
– Thì tiên pháp đó hiệu nghiệm với hai mũi châm, chứ sao? Nếu gặp một đối thủ khác, tôi phải dùng đấu pháp khác, riêng về lão ta, tôi phải áp dụng cách đó. Cho nên, mẫu thân tôi đặc chế ra đường roi này, là cốt để đối phó với một lão ấy thôi.
Chẳng rõ để đe dọa Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái hay nàng nói thật, nàng tiếp:
– Tôi nói hiệu nghiệm, là với cái chủ ý chế ngự hoàn toàn địch thủ, chứ chẳng phải cố tâm sát hại. Đường roi đó, chạm vào cổ tay lão, lão chỉ bị suy giảm công lực thôi, chứ nếu chạm vào cổ tay của bất cứ người nào khác, thì hiệu nghiệm mất công lực không thành vấn đề nữa, hơn thế, người đó phải mất mạng luôn. Cho nên, đường roi, mẫu thân tôi có dặn, chỉ nên sử dụng đối với mỗi một lão ta, ngoài ra đừng khinh thường sử dụng với những người khác, sợ làm chết mạng người.
Sợ Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái không hiểu rành, nàng tiếp luôn:
– Lão ấy có môn công đặc biệt, nên dù bị châm đâm trúng mạch môn, chỉ kém giảm công lực chứ không chết. Những người khác, không có môn công đặc biệt đó, tất phải chết. Tuy nhiên cũng còn do nơi tôi có cho hai mũi châm ló ra hay không. Quan đại ca và Lưu huynh hẳn đã thấy, chính Lưu huynh cũng bị đầu dây quấn cổ tay như lão, mà có sao đâu? Đó là do tiểu muội không xuất phát hai mũi châm. Chứ ngược lại thì hiện giờ Lưu huynh đã ra ma rồi!
Lưu Tam Thái giật mình, thầm nghĩ rất may, nếu nàng có ý sát hại y thì y mất mạng rồi!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Tuy chọn ngoại hiệu Huyết La Sát, nghe ra ghê gớm quá, lịnh đường thực ra là một người giàu từ tâm, đánh kính lắm. Có từ tâm mới biết trọng sanh mạng con người, có lương thiện mới luôn khuyến cáo hiền muội dè dặt gây nguy hại cho người khác!
Lạc Tiểu Hồng cũng cười:
– Tôi nghĩ mãi, chẳng hiểu tại sao mẫu thân tôi lại ưng một danh hiệu nặng mùi tử vong như thế, mẫu thân thì đã vậy, dì tôi cũng chẳng khác chút nào, dì tôi cũng có một ngoại hiệu ghê gớm không kém!
Nàng nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái đoạn tiếp:
– Quan đại ca và Lưu huynh có biết không, dì tôi xưng là Cốt Ma Thần đó!
Nghe một ngoại hiệu như thế, chắc ai ai cũng phải mất ngủ mấy đêm liền!
Quan Sơn Nguyệt giật mình.
Dù chưa thấy mặt, thấy tài, chàng cũng ước đoán được Huyết La Sát và Cốt Ma Thần là những nhân vật thượng đỉnh trong vũ lâm. Những nhân vật như vậy, rất hiếm có trên giang hồ, thế tại sao chàng chẳng hề nghe ai nói đến?
Còn Hồ Hải Dị Tẩu nữa! Lão ấy cũng chẳng phải tay vừa, hẳn xưa kia lão phải có một thời oanh liệt, gây mưa tạo gió khắp nơi.
Bỗng nhiên, đêm nay, chàng lại được biết thêm ba người ngoài cái số mà chàng hoặc có tiếp xúc, hoặc nghe sư phụ đề cập đến.
Họ là những ai? Họ cam sống âm thầm tại một nơi, hẳn phải có một lý do gì, và cái lý do đó phải quan trọng lắm, nên họ cố tránh mọi tiếp xúc với thế nhân.
Chứ chẳng phải như những kỳ nhân, sau những ngày dài đầy sóng gió trên giang hồ, chán nản mọi cuộc đấu tranh, tìm nơi quy ẩn, mong tìm an nhàn để hưởng chuỗi ngày thừa. Không, họ không quy ẩn để tìm thong dong, tự tại, họ tránh đời vì một lý do nào đó!
Và, cứ theo khẩu khí của Lạc Tiểu Hồng, thì những đoạn tình cừu ân oán của họ chưa dứt khoát. Bao lâu nay, họ chờ nhau, họ tìm nhau, mãi đến ngày giờ này, họ mới biết tung tích của nhau.
Sự im lặng của họ trong nhiều năm tháng trôi qua, chỉ là lượn sóng ngầm, cục than hồng vùi dưới lớp tro dày. Bây giờ sóng ngầm đã trôi lên mặt nước, cục than hồng kia cũng nhờ gió quét bay tro mà chưởng ra. Rồi sóng đùa, rồi than cháy, cuộc đụng chạm giữa họ trong nay mai sẽ hãi hùng vô tưởng!
Chàng thầm nghĩ:
“Ta phải làm sao tìm hiểu sự tình giữa họ mới được! Biết đâu sự tình của họ chẳng liên quan trọng đại với toàn cuộc vũ lâm?”.
Chàng nhìn Lạc Tiểu Hồng, hỏi:
– Lịnh đường không thích bôn tẩu trên giang hồ nữa, tại sao người lại ưng ý một danh hiệu rùng rợn như thế?
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu:
– Làm sao tôi hiểu được ý tứ của mẹ? Cho đại ca biết luôn, trong gia đình tôi, chẳng ai gọi ai bằng tên thật, mà chỉ xưng hô với nhau bằng ngoại hiệu thôi.
Còn người dượng của tôi nữa, cũng có cái ngoại hiệu ghê gớm không kém!
Dượng tôi là Xú Sơn Thần tuy lấy chữ Xú đặt cho ngoại hiệu, song con người thì chẳng xấu chút nào. Cho rằng dượng tôi là một mỹ nam tử, cũng không quá đáng, bất quá tuổi tác đã cao vậy thôi.
Lại thêm một nhân vật kỳ lạ nữa!
Huyết La Sát! Cốt Ma Thần! Xú Sơn Thần! Cả ba đứng về một phía đối lập với Hồ Hải Dị Tẩu!
Quan Sơn Nguyệt càng suy nghĩ, càng tin chắc là những người này có những ẩn tình hệ trọng, hoặc giả Lạc Tiểu Hồng không hiểu, hoặc nàng có hiểu nhưng không thể tiết lộ với ngoại nhân.
Chàng điểm một nụ cười, cố lấy giọng thản nhiên, hỏi:
– Ngu ca lỗi quá, nói chuyện với hiền muội quá lâu rồi vẫn không hỏi qua một tiếng về lịnh tôn! Nhất định lịnh tôn phải là một bậc kỳ nhân!
Nghe chàng đề cập đến phụ thân, đột nhiên Lạc Tiểu Hồng biến sắc. Lấy lại bình tĩnh, nàng lắc đầu, đáp:
– Tôi không có cha!
Không cha? Trên đời này, có người nào lại không cha?
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Hiền muội nói sao thế? Con người, ai lại chẳng có cha?
Lạc Tiểu Hồng thốt nhanh:
– Ai thì có, song tôi thì không! Mẹ đã bảo là tôi không có cha, tôi phải tin như vậy. Tôi cũng lấy làm lạ như đại ca đó, nên thỉnh thoảng hỏi mẹ, mỗi lần hỏi mẹ, là mỗi lần bị mắng nặng nề.
Nàng dặn luôn:
– Cho nên, khi gặp mẫu thân tôi, đại ca đừng bao giờ hỏi đến phụ thân tôi, để tránh cho mẹ khỏi bất mãn Lại một nghi vấn hiện lên trong tâm tư Quan Sơn Nguyệt.
Trong khi Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng nói chuyện với nhau thì Lưu Tam Thái cố chèo thuyền cặp bờ, y phải vất vả khó khăn lắm mới đưa thuyền từ ngoài khơi vào bến.
Khi thuyền cặp bến, thì trời đã sáng rõ. Cả ba người bỏ thuyền, lên bờ.
Lưu Tam Thái hỏi:
– Gia trang của cô nương ở về hướng nào?
Bây giờ, y không còn oán hận Lạc Tiểu Hồng vì những ngọn roi của nàng nữa, và chừng như y có phần nào lo lắng về sự ước hẹn của lão chèo đò.
Đương nhiên, phải có trường nhiệt náo tại nhà Lạc Tiểu Hồng rồi và dù sao thì y cũng thiện cảm với nàng hơn là với lão chèo đò.
Nghĩ đến cuộc chiến sắp xảy ra, chắc chắn là phải hãi hùng, y chưa biết rõ tài nghệ của Huyết La Sát và dì dượng của nàng như thế nào, trước một đối phương lợi hại như lão chèo đò, liệu họ có thủ thắng nổi chăng? Cho nên, y nóng nảy muốn đến nơi tức khắc để xem người và chờ việc.
Lạc Tiểu Hồng nhìn quanh, đoạn đáp:
– Nếu thuyền sang ngang, cặp bến, thì từ bến đến nhà tôi, đường không xa lắm. Song, thuyền đã bị nước cuốn trôi đi bây giờ mới cặp bờ được, thành ra xa hơn nhiều. Mà ngựa của hai vị thì đã nhảy xuống sông hết rồi, làm sao về nhà cho chóng?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Chẳng sao đâu, hiền muội! Hiền muội cứ lên ngựa, chạy trước, bọn ngu ca chạy bộ theo sau.
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu:
– Con ngựa của tôi cất vó, là gió cũng chẳng theo kịp, đại ca và Lưu huynh có giỏi thuật khinh công đến đâu, chắc chắn là không tránh khỏi bị nó bỏ rơi sau xa!
Nàng tiếp:
– Mẫu thân tôi từng nói, nó là một con danh mã, trên thế gian ít có ngựa nào sánh bằng!
Điều đó, Quan Sơn Nguyệt cũng đã hiểu rồi, bởi chàng sanh trưởng tại sa mạc, tự nhiên chàng sành xem ngựa hơn người Trung Nguyên, huống chi, trong đêm rồi, khi thuyền tròng trành chực đắm, hai con ngựa thường của chàng và Lưu Tam Thái, nhảy xuống sông, chứ con ngựa này vẫn đứng vững như thường.
Chàng cũng biết là không thể chạy theo ngựa kịp được, song nếu không vậy thì còn làm sao hơn?
Lưu Tam Thái cau mày:
– Không lẽ cả ba lại cùng cởi một con ngựa?
Lạc Tiểu Hồng mỉm cười:
– Tại sao lại không lẻ? Đừng nói là ba người, dù có cả mươi người ngồi trên lưng nó, nó vẫn chạy nhanh như thường!
Quan Sơn Nguyệt nghĩ không còn cách nào hơn, đành chấp nhận giải pháp đó, chàng ngồi phía trước, cầm cương, Lưu Tam Thái ngồi sau, Lạc Tiểu Hồng thay vì ngồi giữa, trái lại ngồi nơi cổ ngựa.
Nghĩ sao không biết, nàng lại không ngồi, vụt đứng lên. Cỡi ngựa đứng, đã hay lắm rồi, lại đứng nơi cổ ngựa, còn tài hơn nữa!
Dọc theo đường, khách bộ hành trố mắt nhìn họ.
Một lúc lâu, ngựa rẽ vào một con đường đất nhỏ, hai bên đường, cây mọc rậm tàng, mát mẻ vô cùng.
Xa xa, có một vùng riêng biệt, nơi đó, cổ thụ vươn mình sừng sững giữa trời, tàng nào cũng tròn xoe như tán, trông như âm u, như thanh tịnh.
Khung cảnh toàn diện nhã lịch vô cùng, đúng là một nơi quy ẩn lý tưởng.
Từ xa xa, người ta thấy nhiều mái nhà trong khu cổ thu đó.
Lạc Tiểu Hồng đưa tay chỉ, miệng điểm một nụ cười, thốt:
– Sắp đến nơi rồi đó, Quan đại ca và Lưu huynh! Khu cổ thụ kia, là Tịch Dương Sơn Trang!
Đã gọi là sơn trang, hẳn trang viện được kiến tạo trong vùng phụ cận núi non, Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái nhìn qua cảnh trí, gật đầu, cho rằng khung cảnh rất đẹp.
Ngựa đến cổng trang dừng vó.
Tại cổng trang, một thiếu phụ trung niên có gương mặt lạnh lùng đứng lặng, nhìn họ lúc còn ở xa. Họ đến gần, thiếu phụ vẫn bất động, không hỏi một tiếng nào.
Lạc Tiểu Hồng từ trên cổ ngựa, nhảy xuống đất, chạy đến trước mặt thiếu phụ, kêu lên:
– Mẹ! Con về đây! Con đưa mấy người khách đến đây!
Nàng đưa tay chỉ, như giới thiệu:
– Vị này là Quan Sơn Nguyệt ...
Quan Sơn Nguyệt cũng xuống ngựa rồi, nghe Lạc Tiểu Hồng giới thiệu mình, vội bước tới, vòng tay chào:
– Quan Sơn Nguyệt này hân hạnh được bái kiến Huyết La Sát Lạc Hành Quân tiền bối!
Thiếu phụ lạnh lùng đưa tay đẩy Lạc Tiểu Hồng vào cổng trang đồng thời quở trách:
– Tiểu Hồng! Ngươi cãi lời ta, tự tiện đưa khách đến đây, khách lại là người trong giới giang hồ! Có vào trang ngay đi không?
Chừng như chưa bao giờ thấy mẹ có thái độ đó đối với nàng, Lạc Tiểu Hồng trố mắt, thốt:
– Mẹ nói sao thế? Quan đại ca tuy thuộc giới giang hồ song chẳng giống bất cứ một người nào trong giang hồ, huống chi, bản lãnh lại cao, hóa giải Linh Xà Tiên Pháp của con rất dễ dàng!
Thiếu phụ chớp nhanh đôi mắt, «ạ» khẽ một tiếng, đoạn bà nhìn Quan Sơn Nguyệt kỹ hơn, một lúc lâu, hỏi:
– Được lắm! Ngươi đã tiếp được ngọn roi của Tiểu Hồng lại tìm đến đây, hẳn có ý muốn cùng ta so tài?
Quan Sơn Nguyệt vội đáp:
– Tại hạ nào dám có ý đó, tiền bối! Chỉ vì ... qua cuộc đàm thoại với lịnh ái, tại hạ được biết tiền bối là một nhân vật thượng đỉnh trong vũ lâm, bản tính của tại hạ là rất ái mộ bậc hiền tài, nghe nơi nào có cao nhân là tìm đến bái phỏng để tỏ lòng tôn kính, có thế thôi. Mong tiền bối hiểu cho.
Thiếu phụ vẫn lạnh lùng:
– Ta không xứng đáng cho người đời tôn kính, lời khen tặng của ngươi, ngươi hãy lấy lại, cất đâu đó, dành khi nào có gặp người có chân tài, hãy tặng họ, ta không dám nhận đâu.
Bà trầm giọng tiếp nối:
– Từ nhiều năm qua, ta chọn nơi vắng vẻ thanh tịnh này dựng lên ngôi nhà cỏ, cam sống âm thầm, không muốn tiếp xúc với người đời, nhất là hạng người thuộc giới giang hồ. Giả như người không có điều chi chỉ giáo ta, thì xin vô phép vậy, ta mời ngươi đi nơi khác. Bình sanh, ta không thích bị ai phiền nhiễu!
Bà cự tuyệt khách từ phương xa đến, cự tuyệt thẳng thắn, lạnh lùng, bất chấp cái lễ độ khuôn sáo giang hồ.
Bình sanh Quan Sơn Nguyệt chưa hề gặp một nhân vật nào nói năng cộc lốc như thế.
Bà xử sự minh bạch như vậy, Quan Sơn Nguyệt phải đối đáp làm sao?
Thốt xong, bà quay mình, chuẩn bị trở vào trang.
Bà trở vào trang, là đóng cổng trang, bỏ mặc Quan Sơn Nguyệt bên ngoài, cổng trang ngăn đôi người đời và người quy ẩn, bên trong cổng, là vùng cấm địa, chàng vĩnh viễn không được vào, bất cứ ai cũng không được vào, dù chàng được Lạc Tiểu Hồng mời đến, dù chàng đến với hảo ý rõ rệt.
Chàng sửng sốt, đã đành. Lạc Tiểu Hồng cũng sửng sốt không kém chàng.
Sự việc diễn tiến đúng là ngoài ý muốn của nàng. Nàng kêu lên:
– Mẹ! Tại sao mẹ có thái độ đó đối với họ? Chính con mời họ đến đây mà!
Thiếu phụ nạt khẽ:
– Ai bảo ngươi mời? Sao ngươi hồ đồ thế? Đã bao nhiêu lần, ta từng khuyến cáo ngươi, là tuyệt đối không nên tiếp cận người trong giới giang hồ, ngươi tự tiện cãi lời ta, chẳng những thế, ngươi còn toan cưỡng bức ta phải chiều theo ý ngươi nữa rồi! Có lẽ ngươi định vượt ra ngoài sự quản thúc của ta rồi!
Lạc Tiểu Hồng xanh mặt hấp tấp giải thích:
– Trời! Sao mẹ nói thế? Con nào dám trái ý mẹ? Chẳng qua, Quan đại ca không phải tầm thường như bất cứ ai trong giới giang hồ, huống chi tuy còn nhỏ tuổi, Quan đại ca đã có cái danh rất trọng!
Nàng nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt đoạn tiếp:
– Mẹ biết không, Quan đại ca là Minh Đà Lệnh Chủ đời thứ hai đó!
Thiếu phụ chừng như có giật mình. Bà quay người lại, đối diện với Quan Sơn Nguyệt như trước, nhìn chàng một lúc hỏi:
– Minh Đà Lệnh Chủ đời thứ hai? Lệnh chủ đời thứ nhất có phải là Độc Cô Minh chăng? Ta chưa hề nghe nói có một Lệnh chủ đời thứ hai mà? Tại sao Độc Cô Minh lại để cho ngươi mang cái danh hiệu đó?
Đến lượt Quan Sơn Nguyệt giật mình. Thế ra bà này biết rõ sự phụ chàng?
Bà là ai, tại sao ngày trước sư phụ chàng không hề đề cập đến bà?
Chàng đáp:
– Lệnh chủ đời thứ nhất, chính là ân sư của tại hạ. Người đã du tiên rồi, vâng theo di ngôn của người, tại hạ thừa kế cái danh hiệu Minh Đà Lệnh Chủ.
Thiếu phụ cười lạnh:
– Độc Cô Minh chết rồi à? Độc Cô Minh chết làm sao được chứ? Tiểu tử, giả như ngươi định lừa ta, thì ngươi lầm! Lầm to đó, tiểu tử!
Quan Sơn Nguyệt lại giật mình lượt nữa. Cái việc ân sư của chàng chết, sao lại có nhiều người không tin như thế? Người thứ nhất, là Bành Cúc Nhân. Bà ấy tuy không nói rõ, song chừng như đinh ninh là ân sư chàng vẫn còn sống trên đời này. Chàng hết sức hoang mang. Bây giờ lại có thêm một người thứ hai, không tin là ân sư chàng đã chết. Thế là nghĩa gì? Hay là thực sự, ân sư chàng chư chết?
Bành Cúc Nhân và Huyết La Sát, ngày trước, có quen biết với ân sư chàng chăng?
Nếu cả hai đều cho rằng ân sư chàng chưa chết, hẳn họ biết hiện tại ân sư chàng đang ở tại địa phương nào. Có biết như vậy, họ mói dám đến quả quyết là ân sư chàng chưa biết. Bành Cúc Nhân úp mở về việc đó, và thoái thác mãi, không chịu chỉ chỗ ở hiện tại của ân sư chàng. Huyết La Sát có chịu chỉ cho chàng biết chăng, nếu chàng hỏi bà ta?
Trầm ngâm một lúc, chàng hỏi:
– Làm sao tiền bối biết là ân sư của tại hạ chưa chết?
Thiếu phụ cười lạnh:
– Biết hay không biết, biết bằng cách nào, tại sao biết, đó là việc của ta, đâu phải bổn phận phải giải thích cho ngươi rõ? Ta không có lý do gì bắt buộc phải thỏa mãn hiếu kỳ của ngươi hay bất cứ ai khác. Cho ngươi biết, nếu lão ấy chết đi, thì cái tin lão ta chết, sẽ đến tai ta trước nhất, trước cả ngươi. Lão giao phó Minh Đà Lệnh cho ngươi, là để được rảnh trí, đến một địa phương nào, đó thôi!
Chàng ướm một câu:
– Tiền bối biết ân sư của tại hạ hiện ở đâu chăng?
Thiếu phụ cười lạnh:
– Lão ta không có nói cho ngươi biết sao?
Quan Sơn Nguyệt tỏ thật:
– Tại hạ đinh ninh là ân sư đã chết, cái ngày mà người lên đường, bỏ tại hạ lại một mình, tại hạ cho rằng người đi tìm một nơi yên tịnh, để rũ sạch nợ trần, do đó, tại hạ không hỏi gì mà người cũng chẳng nói gì. Như vậy, làm sao tại hạ biết ...
Thiếu phụ suy nghĩ một chút, đoạn gật đầu:
– Hỏi ngươi như vậy, chứ ta cũng thừa hiểu ngươi chẳng biết chi đâu. Bởi, làm gì Độc Cô Minh có can đảm nói sự thật cho ngươi nghe?
Nhưng, bà chưa đáp đúng câu hỏi của Quan Sơn Nguyệt. Bà chỉ thốt tiếp:
– Thôi, được rồi, vì ngươi là truyền nhân của Độc Cô Minh, ta phá cách tiếp đón ngươi. Vậy hãy theo ta, vào trang.
Lạc Tiểu Hồng không cần hiểu mẫu thân và Quan Sơn Nguyệt nói gì với nhau, nàng chỉ sợ mẫu thân không chấp nhận cho Quan Sơn Nguyệt lưu lại trang thôi. Bây giờ, thấy mẹ chấp thuận rồi, nàng cao hứng vô cùng, vừa cười vừa sà vào lòng Huyết La Sát, kêu rối rít:
– Mẹ tốt quá! Mẹ tốt vô cùng!
Nàng tiếp luôn:
– Mẹ ơi! Ngoài Quan đại ca ra, đêm rồi con còn gặp một người nữa, chính là cái người mẹ thường đề cập đến, và dặn dò con phải đề phòng đó! Con gặp lão ta trên dòng Huỳnh Hà, con tặng luôn lão một ngọn roi, Quan đại ca lại bồi tiếp một chưởng lão phải nhảy xuống sông!
Huyết La Sát biến sắc, hấp tấp hỏi:
– Con đã gặp Hồ Hải Dị Tẩu? Lão ta ...
Lạc Tiểu Hồng cười hì hì:
– Đúng là lão, chứ còn ai khác nữa! Hình dáng lão cũng đúng như mẹ và dì mô tả với con đó.
Rồi nàng bĩu môi, tiếp luôn:
– Mẹ và dì cứ cho lão là một tay lợi hại! Hừ! Con xem lão bất quá chỉ là một kẻ giá áo, một túi cơm chẳng có giá trị quái gì!
Huyết La Sát chận lời gấp:
– Đừng nói nhảm, con! Lão ấy có tài hay không rồi con sẽ biết. Bây giờ, con hãy thuật cho mẹ biết, sự tình như thế nào?
Lạc Tiểu Hồng đáp:
– Lão nhảy xuống sông, một lúc sau lại nhô mình lên, nêu danh tánh của mẹ, lại ước hẹn trưa nay, đến đây tìm mẹ. Nhờ vậy con mới chắc chắn là không nhận lầm.
Huyết La Sát biến sắc mặt:
– Thế thì làm sao? Bạch Cốt Ma Thần và Xú Sơn Thần vắng mặt, một mình mẹ đối phó thế nào nổi với lão?
Lạc Tiểu Hồng cười lớn:
– Con biết như vậy lắm, cho nên, lão ta đòi đến đây hôm nay, con lại bảo lão để đến ngày mai hãy đến, cho mình có thời gian thông báo dì và dượng ...
Nàng vẫn cười, nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, đoạn tiếp luôn:
– Thực ra, điều đó không cần thiết lắm, bởi có Quan đại ca và con đây chi?
Chúng ta thừa sức đối phó với lão!
Huyết La Sát trừng mắt, gắt:
– Con biết gì mà nói?
Bà khoát tay, giục:
– Sẵn ngựa đó, con đi gấp đi, gọi ngay Bạch Cốt Ma Thần và Xú Sơn Thần đến đây cho mẹ!
Lạc Tiểu Hồng xịu mặt:
– Người ta mới về, còn mệt mẹ lại sai đi nữa! Trong trang chẳng thiếu chi người, sao mẹ không sai khiến?
Huyết La Sát chưa kịp nói gì, bỗng có tiếng cánh chim vỗ trên không, hòa lẫn với tiếng lục lạc vang rền.
Hơn mười con chim câu từ xa bay đến, vầng vầng trên đầu họ.
Lạc Tiểu Hồng vỗ tay reo lên:
– Khỏi cần đi đâu! Dì và dượng đã đến rồi!
Đàn chim câu bay lượn trên không một lúc, một con có sắc lông trắng rời đàn, lao vút xuống.
Lạc Tiểu Hồng vung đường nhuyễn tiên, thân roi thẳng ra, đoạn nàng gọi:
– Bạch vũ! Đáp trên đầu roi của ta đây này!
Chim câu trắng chừng như nghe tiếng người, thay vì đáp nơi đầu ngoài đường roi, xa hơn, nó lại đáp xuống chỗ tay cầm, gần Lạc Tiểu Hồng.
Nàng đưa tay kia, tháo mối dây nơi chân chim, lấy ra một mảnh giấy. Không kịp trao cho mẹ, nàng xem ngay:
«Cừu nhân đã xuất hiện, bọn tiểu muội sẽ đến trong phút giây!» Mắt sáng lên, Lạc Tiểu Hồng vừa trao mảnh giấy sang Huyết La Sát, vừa thốt:
– Dì và dượng đã hay tin rồi, mẹ ơi!
Huyết La Sát tiếp mảnh giấy, hấp tấp xem qua. Bà trầm ngâm một chút, đoạn nhìn Quan Sơn Nguyệt, cất tiếng:
– Già vốn có quen thân với Độc Cô Minh, đáng lẽ các hạ tới đây, già phải tiếp đãi tận tình, song rất tiếc việc trọng đại xảy ra bất ngờ, già không biết làm sao hơn ...
Bây giờ, bà thay đổi thái độ hoàn toàn, xưng là già, gọi Quan Sơn Nguyệt là các hạ. Như vậy, là bà không còn bất mãn về cái việc Quan Sơn Nguyệt đến đây.
Nhưng, không bất mãn, là điều may mắn cho Quan Sơn Nguyệt, bà lại tỏ cái ý khó khăn, thì có khác nào bà bất mãn?
Qua khẩu khí của bà, Quan Sơn Nguyệt hay bất cứ ai khác cũng hiểu là bà không thể lưu Quan Sơn Nguyệt tại trang, ít nhất cũng trong thời gian này. Và, rõ ràng là bà đuổi khéo chàng.
Chàng đang nặng thắc mắc về trường hợp của ân sư, trước kia, chàng không tiện hỏi chi nhiều nơi Bành Cúc Nhân, một dịp may đã bỏ lỡ.
Bây giờ, chàng gặp Huyết La Sát một người ngoài Bành Cúc Nhân, biết hành tung của ân sư. Khi nào chàng lại bỏ qua dịp may một lần nữa?
Chàng khẳng khái thốt:
– Tiền bối đã là chỗ thâm giao của gia sư, thì việc của tiền bối, cũng như việc của gia sư, tại hạ là truyền nhân của cố hữu, đương nhiên phải thay thế cố hữu, làm một cái gì, hữu ích cho tiền bối. Lẽ đâu thấy tiền bối có việc rồi đành đoạn bỏ đi?
Huyết La Sát Lạc Hành Quân cười nhẹ:
– Khen các hạ đó, các hạ có khác gì lịnh sư ngày trước, thích gánh vác việc người. Song, già xin nói rõ, việc gì khác thì các hạ có thể giúp già, chứ việc này, chắc chắn là không được rồi. Thôi đi, các hạ không nên đâu!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại hạ nghĩ, cái việc mà tiền bối đề cập đó chính là công cuộc đối phó với Hồ Hải Dị Tẩu chứ gì?
Lạc Hành Quân gật đầu:
– Đúng vậy, cho nên, già mới bảo là các hạ không nên can thiệp. Bởi lão ấy có tài nghệ vừa cao, vừa ngụy dị, võ công của lão ta kể như độc đáo trên giang hồ ...
Bà cho rằng Quan Sơn Nguyệt chưa đủ sức đương đầu với lão già chèo đò, và sợ liên lụy đến chàng, nên bảo chàng rời khỏi Tà Dương Sơn Trang.
Lạc Tiểu Hồng không muốn cho Quan Sơn Nguyệt đi đâu cả, vội lên tiếng:
– Đành là lão ấy có tài cao, nhưng Quan đại ca cũng chẳng phải là kẻ vô dụng? Mẹ biết không, Quan đại ca đã đánh lão ta một chưởng làm lão văng xuống sông trong đêm rồi!
Lạc Hành Quân cười nhẹ:
– Mẹ chỉ sợ việc đó xảy ra sau khi con vung roi quất trúng lão, hai mũi châm đâm vào mạch môn của lão! Có như vậy, lão mới văng xuống sông con ạ!
Quan Sơn Nguyệt thẹn đỏ mặt. Chàng cũng phải nhìn nhận lão nhân tài giỏi hơn chàng mấy phần, chính chàng chụp đúng cổ tay lão, vận chân khí bức lão, song lão chẳng việc gì. Chàng không giấu sự thất bại đó, thẳng thắn thốt:
– Tại hạ cũng biết mình kém lão ấy rất xa, dù có ở lại, chẳng phải để đương cự với lão, tiếp trợ tiền bối. Chẳng qua, tại hạ học thiếu, biết ít, muốn nhân dịp các vị cao minh trong vũ lâm so tài với nhau, tại hạ mục kích những đấu pháp tân kỳ để mở rộng kiến thức vậy thôi!
Lạc Hành Quân suy nghĩ một lúc đoạn cười nhẹ:
– Cũng được. Nể tình lịnh sư, già ưng thuận cho các hạ ở lại xem cuộc chiến, có điều các hạ đừng can thiệp mà thôi!
Lạc Hành Quân chấp thuận, Quan Sơn Nguyệt cao hứng vô cùng. Chàng cam kết:
– Nhất định tại hạ sẽ làm kẻ bàng quan, chẳng hề dám động!
Lạc Hành Quân nghiêm giọng:
– Làm một kẻ bàng quan, trước hạng người như lão ấy, chẳng phải dễ dàng đâu, đừng tưởng! Phải có tánh nhẫn nại cực độ mới được, lão ta như con chó điên, cắn càn, gặp người là cắn, đã chắc gì các hạ chịu đựng nổi sự khiêu khích của lão mà thản nhiên khoanh tay nhìn diễn tiến? Các hạ nên nhớ, cây có muốn lặng, ít nhất cũng phải tùy gió, gió không ngừng thì cây đừng hòng đứng im.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Thế là lão có ý sanh sự với bất kỳ ai lão gặp.
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Thói quen của lão là thế đó. Nếu lão biết được các hạ là truyền nhân của Độc Cô Minh, nhất định lão ta bám sát luôn, cho đến khi nào các hạ chịu đựng không nổi, phải động thủ với lão thì thôi. Lão ta có mối thù với Độc Cô Minh, kể ra còn nặng hơn đối với già nhiều!
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Vậy mà ân sư không hề đề cập đến việc đó ...
Lạc Hành Quân chận lời:
– Làm sao Độc Cô Minh nói cho các hạ biết? Giả như Độc Cô Minh tiết lộ với các hạ thì rất có thể ...
Bỗng, bà ngưng câu nói, chừng như bà nhận thấy là mình hớ hênh rồi bà chuyển hướng câu chuyện sang đề tài khác:
– Dù thế nào đi nữa, các hạ không nên lưu ý đến lão là hơn mặc cho lão làm mọi trò khiêu khích, các hạ cứ lờ đi, như không nghe, không thấy gì cả. Nếu các hạ giữ được thản nhiên, lão ấy chẳng làm sao xuất thủ.
Quan Sơn Nguyệt không phục.
Bởi, mình không chạm đến ai, đó là cả một sự nhẫn nhịn rồi, vì biết rõ ai đó không có thiện cảm với mình, mà mình cũng phải lờ đi. Con nhà võ, nhịn như vậy là quá đáng. Huống hồ, khi lão khiêu khích, mình cũng nhịn luôn sao? Nhịn như vậy, được sao?
Tự nhiên, Quan Sơn Nguyệt bất bình, chàng cao giọng thốt với vẻ ngạo nghễ:
– Chắc là tại hạ khó nhịn được, nếu lão ta cứ bám theo tại hạ mà khích nộ!
Lạc Hành Quân lắc đầu, khoát tay, nghiêm sắc mặt:
– Tuyệt đối không nên lưu ý đến lão. Cho cạc hạ biết, lão có cái thói, để ý đến ai, thì bám sát mãi người đó, như bóng theo hình, lão gây phiền não luôn luôn, cho đến một lúc nào đó, phải động thủ với lão!
Lạc Tiểu Hồng bất phục:
– Động thủ thì cứ động thủ, sợ gì lão?
Lạc Hành Quân lại lắc đầu:
– Vô ích! Không làm sao thắng nổi lão ta được.
Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng:
– Thế lão là một kẻ bất khả xâm phạm?
Lạc Hành Quân gật đầu:
– Bất tử, đúng hơn. Không ai giết lão chết cả. Công phu của lão so với vũ học của chúng ta hoàn toàn bất đồng. Vũ công của chúng ta, không làm gì hạ lão được!
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:
– Thật vậy?
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Già bịa chuyện mà làm gì.
Quan Sơn Nguyệt mơ màng.
– Thảo nào! Trong đêm vừa rồi, tại hạ chụp vào mạch môn của lão, cố vận chân khí truyền sang gây chấn động nơi lão, song lão chẳng việc gì! Hơn thế, lão làm cách nào chẳng rõ, hóa giải tiêu tan đạo chân khí của tại hạ ...
Lạc Tiểu Hồng tỏ vẻ sợ hãi:
– Thế thì làm sao? Giao đấu với lão, không giết lão chết được, hóa ra giao đấu để chờ chết với lão sao?
Lạc Hành Quân trấn an nàng:
– Tuy vậy, chẳng sao đâu, bởi lão cũng chẳng giết được chúng ta. Bởi môn học của lão chuyên gây phiền nhiễu cho đối phương, chứ không có cái công dụng giết người. Cho nên, năm xưa, khi lập bảng Phong Thần, bọn của già đồng ý tặng lão cái danh hiệu Đầu Thống Quái Vật. Bởi lão chỉ là một quái vật, chuyên làm kẻ khác nhức đầu vì lão.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Phong Thần Bảng? Tại sao lại có Phong Thần Bảng, bảng đó lập như thế nào?
Lạc Hành Quân lỡ lời, nghe chàng hỏi, thoáng biến sắc mặt, khỏa lấp ngay:
– Đừng hỏi chi hết. Già không thể nói gì hơn. Già cảm thấy đã nói quá nhiều rồi, mà nói nhiều thì bất tiện. Già xin các hạ, từ nay, có gặp ai, đừng bao giờ đề cập đến cái bảng Phong Thần đó!
Quan Sơn Nguyệt có thêm một nghi vấn.
Nhất định là cái bảng Phong Thần đó có liên quan trọng đại với vũ lâm, nói chung. Còn riêng sư phụ chàng, Bành Cúc Nhân, Huyết La Sát, Bạch Cốt Ma Thần, Xú Sơn Thần, kể cả Hồ Hải Dị Tẩu, sự liên quan phải trọng đại hơn gấp mấy lần.
Đột nhiên, chàng nhớ đến một việc, vụt đọc lên một câu đối mà chàng thuộc nằm lòng:
– Hoàng Hạc bay trên sông, Tán Tiên ở bờ hồ!
Lạc Hành Quân biến sắc một lần nữa. Bà hỏi gấp:
– Các hạ nói sao? Độc Cô Minh có tiết lộ với các hạ, lão ta là Hoàng Hạc Tán Tiên à?
Quan Sơn Nguyệt không đáp, ánh mắt chàng sáng lên, miệng điểm một nụ cười đắc ý, chàng cao giọng tự thốt:
– Thì ra, ân sư là Hoàng Hạc Tán Tiên!
Chàng nghi ngờ, ân sư hẳn phải có một ngoại hiệu nào đó, rồi nhớ đến câu đối trong gian phòng của Độc Cô Minh ngày trước chàng thử đọc lên. Nào hay, Lạc Hành Quân kinh ngạc, bật hỏi.
Câu hỏi của bà vô hình trung đã xác nhận điều chàng nghi ngờ!
Chàng không đáp, chỉ tự thốt như vậy, điều đó chứng tỏ là Quan Sơn Nguyệt chưa biết được Độc Cô Minh có cái ngoại hiệu đó, và Độc Cô Minh cũng chẳng hề tiết lộ với chàng ...
Thế là Lạc Hành Quân hớ hênh rồi. Bà Hối hận, sững sờ một lúc. Nhưng, đã lỡ, bà còn biết làm sao, thôi thì đành vậy, bà hỏi tiếp:
– Các hạ nghe ai nói đến câu đối đó?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Chính mắt tại hạ trông thấy, tại thơ phòng của gia sư. Lúc đó, tại hạ chẳng hiểu gì cả, bây giờ nghe tiền bối đề cập đến bảng Phong Thần nào đó, tại hạ mới nghĩ ra.
Lạc Hành Quân cau mày:
– Già đã căn dặn các hạ, đừng nhắc đến cái bảng đó nữa, các hạ quên nhanh thế à?
Quan Sơn Nguyệt tắt nụ cười, chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Tại hạ xin hứa, từ nay không đề cập đến bảng đó.
Lạc Hành Quân gật đầu, trầm lặng một chút, đoạn thở dài thốt:
– Ba tiếng đó, có cái tầm quan hệ rất trọng đại, già trong phút giây sơ suất, buột miệng nói ra, nếu có kẻ nào nghe lọt, thì tai họa sẽ xảy đến, to lớn vô lường.
Cho nên, già van cầu các hạ ...
Quan Sơn Nguyệt hết sức lấy làm lạ, chẳng rõ Phong Thần Bảng có bao hàm bí mật gì, quan hệ như thế nào, mà chỉ cần nhắc đến là tai họa lâm thân.
Chàng muốn hỏi cho rõ ràng, hỏi một lần để vĩnh viễn không còn thắc mắc nữa, song thấy thần sắc của Lạc Hành Quân ngưng trọng phi thường, chàng bỏ luôn ý nguyện, đồng thời cam kết:
– Tiền bối yên trí, tại hạ kể như chẳng bao giờ có nghe ai nói đến bảng đó, không nghe tức nhiên chẳng biết gì, và không tiết lộ với ai. Bởi có ai tiết lộ một việc mà mình chả nghe, chưa biết?
Lạc Hành Quân gật đầu:
– Tại sao, nhớ đến câu nói đó, các hạ lại nghĩ ra được ngoại hiệu của lịnh sư?
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Tại hạ suy diễn từ những ngoại hiệu của các vị, tự nhiên hiểu liền. Một phần, đôi liễn đó, chẳng liên quan gì với hoạt động thường ngày của gia sư, thế mà người vẫn giữ mãi và chừng như trân quý nó lắm. Phần khác, các vị là những bằng hữu của gia sư, đáng lý ra, không nhiều lần thì ít, gia sư cũng có đề cập đến các vị, trong những lúc bình luận về nhân vật giang hồ chứ. Nhưng gia sư giữ bí mật hoàn toàn. Tại sao gia sư giữ bí mật về các vị? Tại sao gia sư trân quý câu đối đó? Hẳn phải có một nguyên nhân!
Lạc Hành Quân cau mày:
– Nhưng, câu đối đó có liên quan gì đêm già đâu?
Quan Sơn Nguyệt tiếp:
– Mới xem qua, thì không thấy mối liên quan, suy nghĩ kỹ tất thấy rõ. Ngoại hiệu của các vị, có cái vẻ kỳ quái phi thường, ai ai cũng xưng hoặc thánh, hoặc thần, hoặc quỷ, hoặc ma. Thì tại sao lại chẳng có người xưng là tiên? Gia dĩ, gia sư cùng các vị quen biết nhau từ lâu ...
Trực nhớ đến một việc, chàng bổ túc:
– Ngoài các vị Huyết La Sát, Bạch Cốt Ma Thần, Xú Sơn Thần, còn có một người nữa, cũng biết gia sư như các vị. Người đó, là Bành Cúc Nhân ...
Lạc Hành Quân chớp mắt:
– Bành Cúc Nhân còn sống?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Bành tiền bối cùng đi với tại hạ, song vì một việc riêng phải tạm phân cách nhau.
Lạc Hành Quân giục:
– Khoan nói đến bà ấy, cứ tiếp việc hiện tại đi.
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Tại hạ thấy các vị có ngoại hiệu kỳ quái, lại nghe tiền bối đề cập đến cái bảng đó, mà gia sư là chỗ đồng đạo của các vị, hẳn cũng có tên, tại hạ trực nhớ đôi câu đối của gia sư, ngắt hai chữ cuối của mỗi câu, ghép lại, thành Hoàng Hạc Tán Tiên! Như vậy, có Tiên, có Thánh, có Thần, có Quỷ có Ma, rất đủ để hình thành một cái bảng, như tiền bối đã cho biết.
Lạc Hành Quân lại hỏi:
– Tại sao các hạ quyết đoán lịnh sư có tên trong bảng?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Đã là người quen thân của các vị thì gia sư hẳn có một ngoại hiệu khác, tương xứng với ngoại hiệu của các vị, chứ cái danh Minh Đà Lệnh Chủ, bất quá chỉ để xưng hô với toàn thể giang hồ thôi! Có ngoại hiệu khác, lại không xưng ra, hẳn phải do một nguyên nhân. Và chính vì người được liệt trong bảng đó, nên người không xưng ra ...
– Thánh, Thần, Quỷ, Ma, đều có tên trong bảng, thì Tiên cũng phải có tên trong bảng, điều đó rất dễ hiểu!
Lạc Hành Quân khẽ thở dài:
– Các hạ vừa kín đáo, vừa tế nhị, thảo nào mà chẳng suy diễn ra lắm điều hay, điều lạ! Tuy nhiên, già tưởng cần khuyến cáo các hạ, là sự việc này, các hạ không nên tìm hiểu xa hơn, và cũng chẳng tùy hứng mà đề cập đến.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:
– Vì lý do gì tại hạ không nên truy cứu? Chẳng lẽ sự việc đó ...
Lạc Hành Quân cao giọng chận lời:
– Nếu các hạ còn nhắc mãi đến việc đó, nhất định già sẽ không để cho các hạ rời khỏi nơi này!
Quan Sơn Nguyệt nín lặng.
Bỗng từ xa có tiếng bánh xe lăn và tiếng ngựa hí vang lên vọng đến trang viện.
Lạc Hành Quân dịu ngay nét mặt thốt:
– Muội nương và muội phu của già đã đến!
Bà nhìn sang Quan Sơn Nguyệt dặn một lần nữa:
– Các hạ phải nhớ là đừng nhắc nhở đến việc đó trước mặt họ.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu.
Cả bọn đồng nhìn ra đường.
Không lâu lắm, từ xa, một vầng bụi bốc lên cuốn tới như bay rồi một cỗ xe xuất hiện trong tầm mắt của họ.
Xe do ngựa kéo, ngựa thuộc loại tuấn mã, người đánh xe tác trung niên, có vóc dáng khôi vĩ, tướng mạo oai nghiêm, y phục rất sang trọng.
Cỗ xe dừng lại trước cổng trang, rèm xe được vén qua một bên, từ trong xe một thiếu phụ trung niên thò đầu ra ngoài. Tuy tuổi đã cao, sắp đẹp của bà vẫn còn rạng rỡ. Bà hỏi gấp:
– Thơ Thơ có tiếp được tin của bọn tiểu muội không?
Lạc Hành Quân gật đầu:
– Có. Ngu thơ cũng đã biết rồi. Con Tiểu Hồng có gặp lão quái vật đó trên sông Hoàng.
Thiếu phụ giật mình, đảo mắt sang Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái, chừng như để dò xét.
Lạc Hành Quân giới thiệu liền:
– Vị công tử này là truyền nhân của Độc Cô Minh đấy, còn người kia là bằng hữu của công tử.
Thiếu phụ lại giật mình lượt nữa, kêu lên:
– Hoàng Hạc ...
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Hoàng Hạc đã đi dự hội Long Hoa, chỉ còn người của Minh Đà ở lại.
Thiếu phụ trầm ngâm một lúc lâu.
Quan Sơn Nguyệt hết sức bối rối, không biết phải xưng hô thiếu phụ như thế nào cho hợp lý.
Lạc Tiểu Hồng hiểu ra sự khó khăn của chàng, vội giới thiệu:
– Dì và Dượng tôi đó. Dượng tôi tên là Liễu Sơ Dương, còn dì tôi là Lạc Tương Quân.
Quan Sơn Nguyệt vòng tay chào:
– Tại hạ là Quan Sơn Nguyệt, kính bái nhị vị tiền bối.
Lưu Tam Thái cũng nghiêng mình chào hai người mới đến, nhưng không nói tiếng nào.
Lạc Tiên Quân gật đầu.
Liễu Sơ Dương khách sáo hơn, thốt một câu:
– Trông thế huynh có khí thái anh hùng, lão phu hết sức mừng cho bạn cũ chọn người nối nghiệp xứng đáng.
Quan Sơn Nguyệt toan đáp lại, song Lạc Hành Quân cất tiếng.
– Đứng mãi tại đây nói chuyện sao? Mình vào nhà chứ.
Liễu Sơ Dương gật đầu, đoạn đến bên cạnh xe, thốt:
– Tương Quân, ngu huynh bế hiền muội nhé!
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ thầm nghĩ, dù cho họ có âu yếm với nhau đến mức độ nào, họ đã quá cao tuổi rồi, lý đâu lại ôm ẳm nhau trước mắt nhiều người như vậy?
Lạc Tương Quân «hừ» một tiếng:
– Trước mắt bọn trẻ, mình làm vậy xem kỳ quá.
Liễu Sơ Dương cười hì hì:
– Chẳng quan hệ gì. Đệ tử của Độc Cô Minh cũng như con cháu chúng ta, có chi đâu mà phải quá giữ gìn?
Lạc Tương Quân mắng yêu:
– Liễu huynh mặt dày, chứ tôi thì tôi thẹn lắm.
Bà vẹt bức rèm xe, bay vút ra ngoài như cánh bướm, đôi ống tay áo dài phất phơ giữa khoảng không, cứ như thế bà lướt đi vừa nhanh vừa ổn.
Nếu một người bình thường di động như vậy, thì chẳng có chi là đáng nói, nhưng Quan Sơn Nguyệt nhận ra đôi chân bà cụt đến gối. Bây giờ, chàng mới hiểu tại sao Liễu Sơ Dương đòi ẵm bà.
Chàng hết sức khâm phục, thuật khinh công của Lạc Tương Quân đã đạt đến mức hỏa hầu, bà không còn có đôi chân mà vẫn đi được như thường, lại đi nhanh hơn một danh thủ đệ nhất đẳng trong võ lâm.
Liễu Sơ Dương nhìn theo bóng vợ, điểm một nụ cười, gọi Lạc Hành Quân, thốt:
– Thơ thơ xem kìa, lịnh muội vẫn giữ cái tính khí như ngày nào. Trong năm vừa qua có một lần bà ta muốn lên đỉnh Thái Sơn xem Thái Dương xuất hiện nơi phương trời Đông, bà ta nhất định không chịu ngồi kiệu, cứ như thế ấy mà vượt núi, làm cho bao nhiêu du khách dâng hương tưởng là thần tiên giáng hạ, cùng rập quỳ nhau lậy, rồi cố lên núi để kịp thời van cầu ban phước lành. Bị nhiều người vây quanh, gây phiền nhiễu, nên bà ấy chẳng xem được cái cảnh Thái Dương lên!
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, kêu lên:
– Trên Thái Sơn, có một đỉnh cao, khách giang hồ thường đến đó, xem mặt nhật mọc nơi phương Đông, chừng như đỉnh đó có cái tên là Quan Nhật Phong, cao ngàn trượng. Vậy mà Lạc tiền bối dùng thuật khinh công lên tận đỉnh, thật là một sự kiện trên chỗ tưởng của tại hạ!
Liễu Sơ Dương cười nhẹ:
– Về những việc gì khác, lão phu không dám nói, chứ về thuật khinh công thì lão phu có thể cho rằng bà ấy là một tay vô song trên giang hồ. Hơn thế, bà ấy lại mất hai chân! Luyện khinh công đã là một việc khó, bởi khinh công là một môn học đòi hỏi lắm đặc điểm mà chẳng phải bất cứ người nào cũng có thể học được. Huống chi, luyện thuật khinh công khi mình mất cả đôi chân, nghĩ ra còn khó khăn gấp trăm gấp ngàn lần một người thường!
Lạc Hành Quân mỉm cười, mắng:
– Xú Quỷ! Ngươi lại nói xấu vợ đó à? Nếu nó nghe được, ngươi chẳng dễ chịu với nó đâu nhé! Sao ngươi dám nói nó tàn phế?
Liễu Sơ Dương dáp:
– Chẳng dễ chịu với bà ấy? Mặc dù bà mất đôi chân nhưng bà không lấy đó làm buồn phiền, trái lại bà còn lấy đó làm hãnh diện là khác bởi Thơ thơ cho rằng bà ta tàn phế chứ bà ta nghĩ là mình có tàn chứ chưa đến nổi bị phế ...
Lão vừa gật gù, vừa tiếp:
– Kể ra, bà ấy cũng có lý, và bà hãnh diện cũng phải. Có cụt đôi chân, bà mới tỏ lộ được cái thuật khinh công siêu việt, vì người còn đủ đôi chân, có giỏi khinh công, cũng là sự thường, chứ bà thì bà cụt chân mà thuật khinh công của bà cao hơn bất cứ người nào còn đủ đôi chân, điều đó mới đáng khâm phục!
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Kể ra, vợ chồng ngươi giàu nghị lực vô tưởng! Như ngươi chẳng hạn, nhìn ngươi hiện tại, có ai ngờ ngày trước ngươi thọ bịnh như thế nào? Ta tưởng, cái hiệu Xú Sơn Thần của ngươi, phải thay đổi mới hợp lý. Bởi ngươi có còn xấu xí nữa đâu?
Liễu Sơ Dương khoát tay gấp:
– Không! Không thay đổi! Bằng mọi giá, tiểu đệ phải giữ cái hiệu đó, thơ thơ ạ, bởi con người có căn có bổn, đừng bao giờ quên căn quên bổn. Cha mẹ sanh ra tiểu đệ với dung mạo xấu xí, tiểu đệ cải sửa rồi, đó là một cái tội bất hiếu, bây giờ lại bỏ luôn cái hiệu nữa, thì còn làm người làm sao được? Cái hiệu nhắc nhở hình hài cha mẹ sanh ra kia mà! Bỏ hiệu, là bỏ nguồn gốc luôn, không được đâu, thơ thơ ơi!
Quan Sơn Nguyệt không thể hiểu nổi họ nói với nhau những gì, nhìn theo bóng Liễu Sơ Dương thoát đi trước theo cho kịp vợ, suy nghĩ mông lung.
Lạc Hành Quân chậm lại, chờ chàng, dù bà là một vị tiền bối cũng phải giữ lễ đối với khách.
Khi Quan Sơn Nguyệt tiến lên, bà cùng chàng thong thả bước đi. Bà vừa đi, vừa đưa tay chỉ Liễu Sơ Dương, thốt:
– Ngày trước, lão ấy có gương mặt đầy nốt rỗ, trông xấu xí vô cùng.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu.
– Thú thật với tiền bối, tại hạ không tưởng là một con người khôi vĩ lẫm liệt như vậy, trước kia lại là một kẻ xấu xí nhất đời! Chắc Liễu tiền bối học được thuật cải sửa dung mạo tân kỳ tinh diệu lắm nên mới tự biến đổi mình như ngày nay!
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Dùng thuật cải sửa dung mạo, biến đổi mặt mày của mình, đó là việc rất thông thường, có gì đáng nói đâu? Cái điều đáng cho chúng mình ca ngợi, là sự kiên tâm của họ Liễu, lão ấy chuyên chú tập luyện một huyền công, chính môn công đó bức những chỗ thịt lõm, lồi ra bằng mặt, xóa mất nốt rỗ, rồi dần dần làm tiêu tan những lằn, những vết còn lại, biến gương mặt lão lành lặn như mặt người thường. Chỗ ảo diệu của môn công đó, là đồng với việc sửa chữa gương mặt bằng phẳng, tạo luôn cho lão một sắc da đẹp đẽ như các hạ đã thấy.
Bà dừng lại một chút, rồi tiếp:
– Năm xưa, khi họ lấy nhau thì vợ là một tàn phế nhân, còn chồng là một gã có gương mặt rỗ chằng rỗ chịt, giả dĩ chỗ lồi, chỗ lõm, hai vợ chồng hầu như mất cả nhân dạng, họ bị bằng hữu đàm tiếu không ít. Họ không buồn, không giận ai, trái lại họ xem những lời chê bai đó, như một khích lệ, họ cố công luyện tập. Nhờ họ có nhiều nghị lực, nên sau một thời gian họ thành công, vợ nổi tiếng là tay phi hàng đệ nhất trong vũ lâm, chồng thì trở thành một hán tử oai hùng.
Quan Sơn Nguyệt hết sức thán phục:
– Thì ra bằng hữu cười chê họ, chẳng khác nào gián tiếp khuyến khích họ tự tân, tự cường!
Lạc Hành Quân gật đầu:
– Trong số bằng hữu có hảo ý khích lệ họ, đáng lưu ý nhất là Hoàng Hạc Tán Tiên.
Quan Sơn Nguyệt lo ngại:
– Họ thực sự có oán hận những người bên ngoài thì cười chê nhưng bên trong lại khích lệ chăng? Nếu có, thì gia sư không khỏi mất cảm tình của họ!
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Các hạ yên trí. Vợ chồng họ đã hiểu, già dám bảo đảm là tình bằng hữu giữa họ và lịnh sư, có tăng chứ không giảm.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Chắc là sự việc đó cách nay phải lâu lắm ...
Lạc Hành Quân mơ màng, hồi ức lại những gì đã diễn ra trong thời xa xưa, tình hoài man mác. Một lúc lâu, bà thốt:
– Phải! Cách nay độ ba mươi năm rồi! Ba mươi năm! Một khoảng thời gian dài với một người, nhưng rất ngắn đối với sự việc giang hồ! Mới ngày nào đó, ai ai cũng còn là những trang thiếu niên, huyết khí phong cương, thích hoạt động, rồi chớp mắt đã thấy tất cả đều pha sương lên mái tóc, chẳng những thế, mỗi người phiêu bạt một phương trời, không thường gặp mặt nhau như ngày trước cùng hiệp đoàn, hiệp lũ, bôn tẩu khắp non sông! Cái nhiệt náo ngày xưa đã biến thành cái u buồn hôm nay! Nghĩ cho cùng, bao nhiêu năm xuôi ngược đó đây, cầm như vùng dậy trong giấc mộng dài, tỉnh mộng rồi, kiểm điểm lại, trong tay nắm được những gì của nhau, ngoài một mối tình hoài man mác? Cố nhân! Cố sự! Niềm lưu luyến sau phút giây về lòng đất lạnh, mãi mãi nặng đọng trong u hồn!
Quan Sơn Nguyệt xót xa vô cùng. Dù chàng chưa đến cái tuổi hoài cổ, nhưng con người rồi ai chẳng có lúc hồi đầu nhìn lại quãng đường qua. Lời nói của Lạc Hành Quân hôm nay, sẽ là những lời chàng sẽ nói sau này, sau ba mươi năm, bốn mươi năm ...
Chàng lặng lẽ bước đi, bên cạnh Lạc Hành Quân, nghĩ xa, nghĩ gần, chàng lẩm nhẩm:
– Long Hoa Hội! Phong Thần Bảng!
Lạc Hành Quân nhìn sang chàng, trầm giọng bảo:
– Các hạ quên lời già ân cần dặn dò rồi sao? Đừng bao giờ đề cập cái đó trước mặt già, già sợ lắm!
Lạc tiểu Hồng đi bên cạnh mẹ và Quan Sơn Nguyệt, lúc đó mới cất tiếng:
– Có những sự việc quan trọng như vậy, sao từ lâu rồi mẹ vẫn dấu con?
Dượng rỗ chằng, rỗ chịt, mẹ cũng không tiết lộ cho con biết! Thì ra, cái danh hiệu Xú Sơn Thần quả có nguyên nhân!
Lạc Hành Quân gắt:
– Tiểu liễu đầu oán trách ta phải không? Ta làm sao đem những việc như vậy, thuật lại cho ngươi biết chứ?
Từ giây phút đó, cả ba im lặng đi bên nhau, không lâu lắm, họ đến đại sảnh.
Vào đại sảnh, họ thấy Liễu Sơ Dương và Lạc Tương Quân ngồi trên ghế, thần sắc an tường.
Lạc Tiểu Hồng nhanh chân, vào trước, còn Lạc Hành Quân và Quan Sơn Nguyệt dừng chân bên ngoài cửa sảnh đường, cả hai cũng nhìn quanh.
Là chủ nhân, Lạc Hành Quân cũng như hầu hết những chủ nhân trên đời, có thói quen khi xuất ngoại, dù chỉ trong chốc lát, trở về rồi là đảo mắt quan sát một vòng, xem có gì biến đổi chăng. Huống chi, Lạc Hành Quân đã là người trong giới giang hồ, và Hồ Hải Dị Tẩu có hứa hẹn sẽ đến đây, biết lão ấy đến lúc nào, ai dám bảo đảm là trước khi đến, lão không quẳng một vài viên sỏi dò đường?
Cho nên, cẩn thận, dè dặt, bao giờ cũng có lợi.
Phần Quan Sơn Nguyệt, chàng muốn nhìn qua cho biết cái phong quang của khu trang viện Tà Dương này như thế nào, nên không khỏi lộ phần nào tính kiếu kỳ.
Do đó hai người chậm lại một chút. Khi họ vào trong đại sảnh, thì đúng lúc Lạc Tiểu Hồng đang tường thuật cuộc gặp gỡ giữa nàng và Quan Sơn Nguyệt cùng Lưu Tam Thái cho vợ chồng Lạc Tương Quân nghe.
Thấy Quan Sơn Nguyệt bước vào, nàng bối rối thấy rõ.
Quan Sơn Nguyệt nghe lọt mấy tiếng cuối cùng, biết là nàng đang nói gì, điểm một nụ cười bảo:
– Lạc cô nương, cứ tự nhiên, thuật tiếp sự việc cho nhị vị tiền bối nghe.
Nhưng, nói gì thì nói đừng vu oan cho gã nam nhân uy hiếp một nữ nhân đấy nhé!
Chàng bước đến chiếc ghế cuối, ngồi xuống. Chàng biết rõ, các vị tiền bối này đều là những bậc dị nhân, họ có lối sống thoát tục, không câu, không thúc, thì đối với họ, chàng phải có thái độ tự nhiên, miễn sao đừng vượt khỏi phạm vi lễ giáo là được rồi.
Đem cái sáo thông thường vào cuộc tiếp xúc với họ, chỉ gây thêm sự bực bội cho họ, chứ chẳng ích gì. Cho nên, chàng thản nhiên ngồi xuống, có điều chàng chọn chiếc ghế ở cuối hàng, tỏ sự khiêm nhường một cách kính đáo.
Chàng thản nhiên, song Lưu Tam Thái lại áy náy quá chừng.
Thấy y bối rối Quan Sơn Nguyệt đưa mắt, ngầm ra hiệu, nhưng y vẫn xớ rớ mãi, chưa dám ngồi.
Liễu Sơ Dương mỉm cười thốt:
– Nhân huynh cứ tự nhiên, ngồi xuống đi. Bọn lão phu đã nghe Tiểu Hồng thuật lại sự tình trong đêm vừa qua. Chúng ta cứ xem nhau như đã quen biết từ lâu, chẳng có gì phải dè dặt quá độ.
Bấy giờ Lưu Tam Thái mới dám ngồi xuống bên cạnh Quan Sơn Nguyệt.
Lạc Tiểu Hồng cứ thuật tiếp. Nàng nói đến đoạn bức bách Hồ Hải Dị Tẩu phải nhảy xuống sông tránh đòn. Nói đến đó, nàng thích chí vô cùng, miệng vừa nói, vừa cười cả mắt nàng cũng cười luôn.
Khi nàng dứt lời, Lạc Hành Quân hỏi:
– Làm sao hiền muội và Liễu đệ biết được lão quái vật đang có mặt trong vùng?
Liễu Sơ Dương cười nhẹ:
– Sáng sớm hôm qua, tiểu đệ tiễn đưa một người khách, khi trở vào nhà, bắt gặp một tấm thiếp của lão, kèm theo một bức họa.
Lạc Tiểu Hồng trố mắt:
– Bức họa gì, hở Dượng?
Liễu Sơ Dương tiếp:
– Một bức Hiến Thọ Đồ.
Lạc Tiểu Hồng thốt nhanh:
– Chắc là Ma Cô Hiến Đào!
Liễu Sơ Dương lắc đầu:
– Không phải đâu. Chính Ma Cô Hiến Hoa.
Lạc Hành Quân chớp mắt thích thú:
– Nghĩa là sao?
Liễu Sơ Dương mỉm cười:
– Thời gian qua đã lâu rồi, thế mà lão ta vẫn nhớ mãi những việc từ mấy mươi năm trước! Lão ta vẽ trong bức đồ hình dáng của tiểu đệ năm xưa dĩ nhiên là với gương mặt xấu xí, hai tay tiểu đệ nâng một bãi phân trâu, trên bãi phân, có cắm một đóa hoa. Hoa rất tươi!
Lạc Hành Quân cười vang:
– Lão ta vẫn còn hằn học vì việc ấy à?
Lạc Tiểu Hồng trố mắt hỏi:
– Bức họa như thế, ngụ cái ý tứ gì?
Liễu Sơ Dương toan giải thích, Lạc Tương Quân trừng mắt gắt:
– Ngươi định nói gì chứ?
Liễu Sơ Dương rụt cổ, thè lưỡi dài dài rồi cười hì hì:
– Nhất vợ, nhì trời, bà ấy không cho nói, Dượng nào dám nói, điệt nữ ơi, thôi vậy, cố suy nghĩ, tự tìm hiểu.
Lạc Tương Quân dửng đôi mày liễu, hậm hực:
– Cái lão tặc ấy vẫn không chừa bỏ thói quỷ! Cứ theo bọn chúng ta mà ám mãi! Nếu ngày mai, lão giữ lời hứa, tìm đến đây, nhất định ta xé xác lão thành ngàn vạn mảnh, ta mới hả cho! Lão tưởng đầu, ta sợ lão lắm sao!
Lạc Hành Quân khẽ thở dài:
– Hiền muội hãy bình tĩnh, sự việc quan trọng vô cùng, không giản đơn như hiền muội tưởng! Năm xưa, lão đã tỏ ra là lợi hại lắm rồi, suốt ba mươi năm nay, hẳn lão ta có tiến bộ chứ, chỉ sợ cả ba chúng ta khó lòng thủ thắng trong cuộc chạm trán với lão lần này!
Lạc Tương Quân bất phục, cao giọng:
– Thơ thơ sợ lão tặc à? Sợ gì chứ? Lão tiến bộ, chẳng lẽ chúng ta lại đứng nguyên một chỗ sao? Rồi Thơ thơ sẽ thấy, ngày mai, tiểu muội rút từ đường gân tà quái của lão cho lão biết tay!
Thấy em cương quyết phi thường, Lạc Hành Quân cũng phấn khởi lên.
Thực ra thì chẳng phải bà ta ngán gì Hồ Hải Dị Tẩu, đành là lão có vũ công cao, song nước đến thì đất ngăn, địch tới thì chận đánh, sợ gì? Chẳng qua bà quen tánh cẩn thận, hành động là một việc, dè dặt là một việc, suy người, xét ta, nhân hậu mới xuất thủ. Bà không muốn em gái khinh địch mà thành có hại. Bà thốt:
– Chính lão, lão chẳng có gì đáng cho chúng ta sợ, cái người đáng sợ, là người ở sau lưng lão, hiền muồi và Liễu đệ cũng thừa hiểu là Thất Độc Thủ Pháp vồ cùng lợi hại ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình Lưu Tam Thái biến sắc, kêu lên:
– Thất Độc Thủ Pháp? Có phải thủ pháp của Phi Lạc Đà sử dụng chăng?
Lạc Hành Quân, Lạc Tương Quân và Liễu Sơ Dương cũng kinh hãi, trố mắt nhìn Lưu Tam Thái.
Liễu Sơ Dương hỏi:
– Các hạ cũng biết Thất Độc Thủ Pháp nữa sao? Phi Lạc Đà là ai?
Quan Sơn Nguyệt thay lời Lưu Tam Thái, tường thuật sự tình ngày trước.
Cuối cùng, chàng bổ túc một câu:
– Theo tại hạ nghĩ, thủ pháp đó không đáng sợ lắm, bởi Bành Cúc Nhân tiền bối giải khai được, thì các vị cũng giải khai được!
Lạc Hành Quân ngưng trọng thần sắc:
– Thủ pháp đó biến ảo vô lường, người sử dụng nó có trăm ngàn cách thức phát xuất, ta chỉ sợ Bành Cúc Nhân gặp lúc người đó thi triển cách thức giản đơn nhất, nên giải khai dễ dàng như vậy.
Bà dừng lại một chút rồi tiếp:
– Dù sao đi nữa, chung quy Thất Độc Thủ Pháp cũng đã xuất hiện trở lại trên giang hồ rồi. Chính cái điều đó mới đáng cho chúng ta lưu ý. Gia dĩ, kẻ sử dụng lại lấy Phi Đà làm lệnh, thì sự việc hẳn phải rắc rối lắm ...
Quan Sơn Nguyệt suy tư một chút, đoạn hướng qua Lạc Hành Quân hỏi:
– Nhân nói đến Thất Độc Thủ Pháp, Lạc tiền bối lại đề cập luôn về Phi Đà Lệnh, sau cùng cho biết là Hồ Hải Dị Tẩu có dính dấp trong vụ, chẳng hay mối tương quan giữa những sự việc đó như thế nào?
Lạc Hành Quân lắc đầu:
– Đừng tìm hiểu, những sự việc đó chẳng mảy may liên quan đến các hạ.
Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt:
– Liên quan chứ, tiền bối! Liên quan trọng đại! Chủ nhân Phi Đà Lệnh có chủ trương đối lập với tại hạ kia mà! Đã một lần rồi, người đó có tìm đến tại hạ, và trong tương lai, y và tại hạ sẽ còn gặp nhau nhiều lần nữa. Cứ như sự suy đoán của tại hạ, thì sự tình liên quan đến gia sư không ít vậy! Liên quan đến gia sứ tức nhiên liên quan đến Minh Đà Lệnh, mà tại hạ thì hiện là thừa kế môn nhân của gia sư, chấp chưởng Minh Đà Lệnh!
Lạc Hành Quân giật mình, nhìn sững chàng, hỏi:
– Có sự việc như vậy à?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Chẳng dám giấu tiền bối, Phi Đà Lệnh Chủ có ước hẹn với tại hạ, sẽ gặp nhau tại Đại Tán Quan, trong lần tại hạ chạm mặt với y, có Bành Cúc Nhân tiền bối chứng kiến, cuộc chạm mặt đó cách nay chẳng lâu gì. Bành tiền bối có cho tại hạ biết là, muốn gặp lại gia sư, tuyệt đối tại hạ không nên đánh bại Phi Đà Lệnh chủ!
Lạc Hành Quân trợn mắt:
– Phi Thiên Dạ Xoa tiết lộ với các hạ nhiều điều quá chừng! Mà toàn là những việc khó!
Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:
– Tiền bối có thể chỉ điểm cho tại hạ những điều hữu ích chăng?
Lạc Hành Quân cười khổ, lắc đầu, đáp:
– Không thể rồi! Già cũng như các hạ, mỗi người đều có nỗi khổ tâm riêng biệt! Trong lắm trường hợp, chúng ta phải tự nhận là bất lực, dù chúng ta muốn làm những gì hữu ích cho nhau!
Quan Sơn Nguyệt bực tức vô cùng, Bành Cúc Nhân úp mở với chàng, rồi bây giờ Lạc Hành Quân và vợ chồng Lạc Tương Quân cũng úp mở luôn, thế là nghĩa làm sao? Tại sao tất cả đều dứ bí mật đối với chàng, dù họ là bằng hữu của sư phụ chàng, dù họ biết chắc chàng là đệ tử của sư phụ chàng?
Chàng lẩm nhẩm:
– Tiểu Tây Thiên! Long Hoa Hội! Phong Thần Bảng hừ, phải có một ngày nào đó, mình khám phá tất cả những bí mật quanh những danh từ này mình sẽ công bố trước giang hồ ...
Bọn Lạc Hành Quân biến sắc.
Lạc Hành Quân và Liễu Sơ Dương cùng đứng lên, cùng bước gấp đến, kèm hai bên tả hữu Quan Sơn Nguyệt. Còn Lạc Tương Quân thì chỏi hai tay lên thành ghế, trong thế sắp sửa bay mình đến chàng.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, hấp tấp hỏi:
– Ba vị tiền bối định làm gì thế?
Tất cả đều trầm trong tình trạng đó, một lúc lâu, Lạc Hành Quân thở dài, bà bỏ cái giọng khách sáo, đổi lối xưng hô không gọi chàng bằng hai tiếng các hạ nữa. Bà thốt:
– Quan hiền điệt! Vì thiện cảm đối với hiền điệt, vì giao tình đối với Độc Cô Minh, già có lời này, thẳng thắn nói với hiền điệt, mong hiền điệt tiếp nhận ...
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Có phải tiền bối định bảo tiểu điệt giả vờ bại trước Phi Lạc Đà?
Lạc Hành Quân lắc đầu:
– Không phải vậy, dù rằng hiền điệt có ý bại trước Phi Lạc Đà là có lợi cho Độc Cô Minh, già cũng không khuyên hiền điệt phải làm. Già và các vị biết rõ Độc Cô Minh hơn ai hết, lão ấy đã trao Minh Đà Lệnh cho hiền điệt, là lão hy vọng nơi hiền điệt rất nhiều, khi nào lão tán đồng cho hiền điệt hành động như vậy?
Quan Sơn Nguyệt thốt gấp:
– Nếu tiểu điệt để cho Phi Lạc Đà đánh bại là điều bại cần thiết, có lợi cho gia sư, thì thú thật với các vị tiểu điệt sẵn sàng hy sanh cá nhân mình.
Lạc Hành Quân cao giọng:
– Sở dĩ Bành Cúc Nhân bảo hiền điệt như vậy, là vì bà ấy không hiểu rõ tâm ý của Độc Cô Minh, cho nên cái việc chiến đấu tại Đại Tán Quan sắp tới đây, hiền điệt không cần gì phải cố ý thủ bại, trái lại bọn già con mong mỏi hiền điệt chiến thắng nữa là khác. Già chỉ đề cập đến một việc cấp thiết hơn, mà hiền điệt cần phải làm, nếu thật sự hiền điệt quyết tâm đền đáp ơn sâu của sư phụ.
Quan Sơn Nguyệt ngưng trọng thần sắc, hỏi:
– Tiểu điệt phải làm sao?
Lạc Hành Quân chỉnh nghiêm gương mặt:
– Những gì hiền điệt vừa nói đó, hãy bỏ qua. Vĩnh viễn hiền điệt nên quên đi, là được.
Quan Sơn Nguyệt toan nói gì, song Liễu Sơ Dương nghiêm giọng chặn lại:
– Chỉ vì bọn lão phu có mối giao tình rất thâm hậu với sư phụ hiền điệt, nên mới khuyến cáo hiền điệt như vậy. Chứ nếu không thì, sau khi hiền điệt tuyên bố câu đó, bọn lão phu đã ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Bảo làm sao?
Lạc Tương Quân lạnh lùng đáp:
– Giết ngươi để diệt khẩu chứ còn làm sao nữa?
Hai người kia gọi chàng là hiền điệt riêng bà này chưa chịu dùng danh từ đó, đủ biết bà chưa hài lòng về chàng.
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi.
Liễu Sơ Dương mỉm cười:
– Thôi mà, Tương Quân! Hắn dù sao cũng chỉ là một kẻ hậu sanh, chấp hắn làm gì, cho hắn hoang mang!
Lạc Tương Quân «hừ» một tiếng:
– Tiểu tử cứ buông lung lỗ mãng, sớm muộn gì đại sự của chúng ta cũng phải hỏng ...
Lạc Hành Quân cười nhẹ:
– Hiền muội nói quá lời, sự tình làm gì nghiêm trọng đến như thế chứ? Ngu thơ nhận thấy hắn có phần nào giống Độc Cô Minh, thuở tráng niên Độc Cô Minh cũng có tính khí như hắn. Theo ngu thơ nghĩ thì nếu sau này, sự thể có cải biến khả quan, thì cái công của hắn góp vào không nhỏ đâu!
Bà không nói đại cuộc thành tựu, bà chỉ nói cải biến khả quan, như vậy là bà đánh giá Quan Sơn Nguyệt khá cao đó.
Sở dĩ bà không nói hai tiếng thành tựu, là vì bà không muốn khích nộ Lạc Tương Quân, bà ấy đang hận Quan Sơn Nguyệt không được kín đáo, nếu khen dồi chàng thì có khác nào phản đối Lạc Tương Quân và cho rằng quan niệm của Lạc Tương Quân về Quan Sơn Nguyệt sai lầm?
Lạc Tương Quân thấy chị khuyên giải, và chồng cũng dàn hòa, nên dịu thần sắc lại. Bà thốt:
– Nếu hắn biết là sau này hắn có một phần trách vụ trong đại cuộc, thì ngay từ bây giờ, hắn phải tập luyện thế nào cho tâm tình được bình tĩnh, có như vậy hắn mới tự ái, tự trọng, và giữ gìn kín đáo những bí mật hắn được biết do sự tiết lộ của chúng ta! Tiểu muội không mong gì hơn là hắn tự tân để trở thành con người hữu dụng.
Để khỏa lấp diễn tiến vừa qua, tạo cái không khí ngột ngạt phần nào, Lạc Hành Quân gọi con gái:
– Tiểu Hồng, các ngươi vất vả trọn đêm, hẳn phải nhọc và đói, vậy ngươi vào nhà trù, bảo chúng làm gấp mấy món gì đó, ăn đi cho no, rồi nghỉ ngơi. Ta cần thương lượng một vài việc với dì và dượng ngươi, nên không thể tiếp đãi khách được! Ngươi hãy thay mặt ta.
Đúng là bà mượn cái cớ đãi khách ăn uống để đuổi khéo Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái ra khỏi sảnh đường.
Tự nhiên Quan Sơn Nguyệt thừa thông minh để hiểu cái ý ngầm của bà, không đợi Lạc Tiểu Hồng mời, chàng tự động đứng lên, điểm một nụ cười, thốt:
– Nếu tiền bối không nhắc, chắc tiểu điệt cũng quên đói luôn!
Lạc Hành Quân giục:
– Hồng nhi, ngươi có nghe Quan hiền điệt nói đó không? Khách vừa đến, ngươi chẳng lo tròn phận sự chủ nhân, để khách kêu đói như vậy, thì còn thể thống gì cho Tà Dương Trang của chúng ta nữa chứ? Hãy đưa gấp Quan đại ca ngươi vào phòng ăn đi!
Lạc Tiểu Hồng ngây thơ, nào biết ý tứ thầm kín của mẹ và lời tắc trách của Quan Sơn Nguyệt, vội gọi:
– Thế thì mình đi, Quan đại ca và Lưu huynh! Cũng tại đại ca đấy, nghe đói mà không bảo sớm cho tiểu muội biết!
Nàng đứng lên, bước ra ngoài, đưa Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái đến phòng ăn.
Nhìn theo Quan Sơn Nguyệt đến lúc chàng khuất dạng, Lạc Hành Quân khẽ thở dài, thốt:
– Độc Cô Minh được liệt danh trong Thần Bảng, kể ra cũng phải. Lão ta cao minh hơn chúng ta nhiều, nhìn vào gã đệ tử của lão, nhận xét cách giáo huấn của lão, chúng ta phải phục ngay! Con ruột của ngu thơ, chưa sánh được một phần nào của Quan Sơn Nguyệt vậy! Con ruột của mình, mà mình không giáo huấn được như lão giáo huấn đệ tử, thật là đáng thẹn!
Liễu Sơ Dương thấp giọng:
– Hoàng Hạc là người duy nhất được chuẩn cho lộ diện trên giang hồ, điều đó chứng tỏ Hội chủ khoan dung đặc biệt! Chúng ta mong rằng trong tương lai, tiểu tử đó sẽ thành tựu phi thường, được vậy, chúng ta cũng hả dạ phần nào!
Lạc Hành Quân trầm ngâm một lúc:
– Việc thì lớn, mà chỉ có mỗi một mình Độc Cô Minh đảm trách, ngu thơ chỉ sợ khó thành công! Có lẽ chúng ta phải tiếp trợ lão một tay!
Lạc Tương Quân ngưng trọng thần sắc:
– Tính như thơ thơ cũng được, song tiểu muội lại sợ chúng hay ra chúng sẽ vịn vào cái cớ đó, tắc trách hành động của chúng. Như vậy càng sanh khó khăn thêm cho chúng ta!
Liễu Sơ Dương mỉm cười:
– Chẳng sao đâu, chúng ta cứ ngầm giúp Độc Cô Minh cần gì phải ra mặt công khai mà sợ chúng quy trách nhiệm về chúng ta? Mà dù cho chúng có biết được đi nữa, tiểu đệ nghĩ cũng vô hại, bởi ngày nay Phi Đà Lệnh đã xuất hiện rồi, mà Phi Đà Lệnh xuất hiện là rõ ràng với cái ý khiêu chiến chúng ta. Địch đã ra mặt, chúng ta không nên quá ràng buộc lấy mình trong ước thúc.
Cả ba cùng cười, rồi họ thì thầm bàn luận với nhau, chứ không nói lớn tiếng như trước.
Cả ba có biết đâu, Quan Sơn Nguyệt còn ẩn nấp phía sau bình phong, nghe ngóng. Phần đầu câu chuyện, chàng nghe rất rõ, nhưng đến lúc bọn Lạc Hành Quân thì thầm, thì chàng đành chịu, chẳng làm sao nghe được một tiếng nào.
Không nghe được, thì còn đứng đây làm gì, lỡ ra Lạc Hành Quân phát hiện, thì thêm rắc rối.
Chàng nhón chân, chạy theo Lạc Tiểu Hồng.
Lạc Tiểu Hồng hỏi:
– Đại ca có hiểu được gì về câu chuyện bàn bạc giữa mẹ tôi và dì dượng chăng?
Quan Sơn Nguyệt đang dao động tâm tư vì nhiều nghi vấn hiện lên, cố làm ra vẻ thản nhiên, mỉm cười đáp:
– Không hiểu rõ lắm, thoạt đầu các vị ấy còn nói lớn một chút, sau cùng thì họ thì thầm với nhau, ngu huynh chẳng nghe gì được. Chừng như họ bàn cách đối phó với lão chèo đò ngày mai vậy!
Chàng không muốn nói thật, bởi nghĩ rằng, có nói cho Lạc Tiểu Hồng nghe, nàng cũng chẳng biết gì. Chính chàng còn mù mờ về sự việc đó, thì nàng làm sao hiểu nổi?
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu, hằn học:
– Thật tôi không ngờ mẹ có nhiều bí mật quá chừng!
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Ngu huynh thú thật, không hiểu nổi lịnh đường! Cứ nghe lịnh đường và hai vị tiền bối kia úp mở mãi, ngu huynh hoang mang vô cùng!
Lạc Tiểu Hồng suy nghĩ một lúc, vụt hỏi:
– Đại ca có thể cho tôi cùng đi đến Đại Tán Quan trong kỳ ước hội tới đây với Phi Lạc Đà chăng?
Quan Sơn Nguyệt toan từ khước, nhưng có một ý niệm nơi tâm tư, chàng mỉm cười đáp.
– Được chứ! Có hiền muội đi theo thì càng có lợi cho ngu huynh. Hiền muội có tiên pháp thần kỳ, biết đâu chẳng có dịp giúp ngu huynh chuyển nguy thành an? Tuy nhiên, hiền muội có đi được hay không, cũng còn tùy ở quyết định của lịnh đường. Ngu huynh chắc là lịnh đường cũng không khứng cho hiền muội dấn thân vào kiếp sống giang hồ đâu!
Lạc Tiểu Hồng mỉm cười:
– Mẹ cho phép, thì tôi đi công khai, mẹ cấm đoán, tôi lén mà đi! Bây giờ tôi thấy thích cái lối sống của khách giang hồ quá chừng. Tôi muốn noi gương Quan đại ca, làm sao cho thiên hạ biết đến mình, làm sao cho mình trở thành một nữ hiệp khách!
Quan Sơn Nguyệt còn biết nói sao? Chàng chỉ nhếch một nụ cười khổ!
–––– oo –––– Thời khắc đã chuyển từ tỵ sang ngọ.
Tại sảnh đường, trong Tà Dương Trang, một tiệc rượu tươm tất đã được dọn ra. Quanh bàn tiệc có hai nam, ba nữ.
Ngồi quanh bàn tiệc, không ai khác hơn là bọn Lạc Hành Quân. Họ đang chờ Hồ Hải Dị Tẩu đến.
Để cho bớt nôn nóng trong khi chờ đợi, họ mượn cuộc kéo dài thời gian, có cuộc rượu, họ quên đi phần nào ước hẹn hôm nay, và như vậy họ không khẩn trương lắm. Bởi, dù sao họ cũng khẩn trương, dù sao thì Hồ Hải Dị Tẩu cũng là một đại địch của họ. Trong khi họ chưa nắm vững cái cơ tất thắng, tự nhiên họ phải lo ngại.
Bởi cuộc chiến sắp khai diễn, phải là một trường long tranh hổ đấu, Lưu Tam Thái tự lượng sức mình, chưa xứng đáng làm đệ tử của một ai trong Tà Dương Trang, thì y cần chi phải góp mặt? Đến cả người kém nhất là Lạc Tiểu Hồng, y cũng chẳng thắng nổi, sự có mặt của y chẳng giúp ích gì cho Trang chủ Tà Dương Trang trái lại còn gây vướng bận cho người khác phải lưu tâm bảo vệ y.
Do đó, y phải đứng ngoài vòng, xa xa, nấp một chỗ nào đó, kín đáo để xem mọi người động thủ, học cái hay cái giỏi của người.
Quanh bàn tiệc, có năm người, hai nam, ba nữ.
Ba nữ, dĩ nhiên là Lạc Tiểu Hồng, Lạc Hành Quân và Lạc Tương Quân.
Hai nam chính là Liễu Sơ Dương và Quan Sơn Nguyệt.
Trong năm người, ai ai cũng giữ được thần sắc an tường, chỉ có Lạc Tiểu Hồng thì biểu lộ phần nào vẻ khẩn trương ra mặt. Khẩn trương, là nàng muốn cuộc chiến khai diễn gấp, chứ chẳng phải là nàng khiếp sợ. Cho nên, trong vẻ khẩn trương, có thoáng hiện niềm phấn khởi.
Còn gì thích thú cho nàng bằng có cuộc chiến xảy ra, nàng sẽ thi thố tài ba bằng thích. Từ ngày học vũ công đến nay, có khi nào nàng có dịp đánh sướng tay đâu?
Mẹ nàng cấm đoán nàng sanh sự với người đời, thì chắc chắn là trọn cái kiếp sống của nàng, cầm như không phương dùng sở học. Trong khi nàng tuyệt vọng, thì có cuộc hẹn ước này. Bảo sao nàng không phấn khởi?
Nàng không cần nghĩ đến cái việc ai thắng, ai bại, nàng không cần hiểu là sau cuộc chiến này nếu mẹ nàng và dì dượng nàng bại, thì sự nghiệp của mẹ nàng đi đời, mẹ con nàng sẽ bơ vơ không nơi nương tựa ...
Nàng chỉ biết là chốc nữa đây có cuộc đánh nhau, trong đó có nàng tham gia, mặc sức cho nàng tung hoành ...
Cái nhiệt náo sắp đến làm cho nàng khẩn trương.
Bốn người kia trầm lặng, chỉ có mỗi một mình nàng, day sang người này, hỏi một câu, day sang người nọ hỏi một câu. Rồi nàng bực tức, tại sao cái lão quái vật đó cứ dần đà mãi không chịu đến gấp cho nàng xuất thủ.
Liễu Sơ Dương tỏ ra là con người trầm tĩnh nhất trong bọn.
Chừng như lão ta chẳng hề chú ý là chốc nữa đây, đại địch sẽ đến, đến để xin mỗi người một chút máu. Lão ung dung cầm bình rượu, ung dung rót, từ từ uống cạn rồi lại rót, rót đến cạn luôn, tuy lão không uống gấp, song lão uống mãi.
Uống mãi, dù uống ít, cũng thành nhiều. Cuối cùng, lão cảm thấy ngà ngà say.
Lạc Tiểu Hồng khuyên:
– Uống ít một chút chứ, dượng! Lỡ ra dượng say, thì đại sự hỏng bét đấy!
Liễu Sơ Dương bật cười khanh khách:
– Dượng mà say, thì trên đời này có ai uống rượu mà chẳng say? Say sao được mà say, hở điệt nữ! Dượng đang mượn rượu giải sầu đây, sầu chưa giải thì rượu làm say dượng sao nổi? Một say giải tỏa sầu vạn cổ! Một say thôi! Nếu ngày ngày đều say, thì đời dượng là một vườn hoa, hoa muôn sắc, hoa không tàn, hoa tồn tại đủ bốn mùa!
Lão lại cười vang.
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu:
– Ai khác thì có thể là có sầu, chứ dượng mà cũng có sầu nữa sao?
Liễu Sơ Dương vẫn cười, song nếu ai lưu ý một chút, tất nhận ra giọng cười của lão có chua chát phần nào. Lão thốt:
– Người sanh trên thế, có ai tránh khỏi hận sầu? Bất cứ ai cũng phải có một lần sầu hận! Riêng dượng thì khí uất dồn chứa nơi tâm tư từ lâu, phải có một dịp gì cho dượng phát tiết bớt. Không có dì, thì có rượu.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm kỳ, trố mắt hỏi:
– Tiền bối phiền não như thế nào?
Liễu Sơ Dương ngẩng mặt, há mồm, trút trọn chén rượu vào đó rồi đưa chiếc chén không ra trước mặt, tay kia vồ lấy bình rượu lắc lắc. Bình rượu không còn một giọt nhỏ.
Lạc Tiểu Hồng phải thay bình rượu đầy cho lão.
Lão lại nốc thêm một chén nữa, đoạn thở dài, thốt:
– Mượn rượu giải sầu, sầu chưa giải mà rượu đã biến thành lệ! Lệ tương tư!
Quan Sơn Nguyệt càng lấy làm lạ, chẳng hiểu nổi tại sao lão lại nói đến niềm tương tư. Chàng nhìn sang Lạc Tương Quân, thấy bà ta vẫn vui vẻ như thường. Không dằn được tính hiếu kỳ, chàng hỏi:
– Hai vị tiền bối quý mến nhau như vậy, làm gì có chuyện tương tư?
Liễu Sơ Dương nhếch nụ cười khổ:
– Lão phu nhớ đến gương mặt ngày nào, một gương mặt đầy vết rỗ, u nần ...
Niềm tương tư của lão phu, hướng về một gương mặt xa xưa!
Quan Sơn Nguyệt thức ngộ ra, lão muốn đùa, đùa cho vui nhộn lên, trong hiện tại, chỉ có cái vui mới làm quên được niềm lo lắng, tuy là quên tạm thời, song cái quên đó đủ xóa tan sự nôn nao chờ đợi. Bất giác, chàng bật cười khanh khách.
Lạc Tiểu Hồng cũng cười lớn theo chàng.
Liễu Sơ Dương càng tỏ vẻ trang trọng, trầm trầm giọng tiếp:
– Bởi lão phu có sự ưu phiền trong tâm, nên phải uống uống thật nhiều rượu.
Hiền điệt có nên biết nguyên nhân sự phiền muộn của lão phu chăng?
Đã biết là một trò đùa, cốt gây niềm vui cho mọi người, thì mọi người cùng phụ họa, mỗi người một câu rồi họ cùng cười lớn.
Nếu để ý một chút, tất nhận ra trong tiếng cười của họ, có miễn cưỡng phần nào. Trừ tiếng cười của Lạc Tiểu Hồng, vẫn hồn nhiên như muôn thuở.
Bỗng có tiếng sảnh vang lên bên ngoài. Tiếng sảnh vang rất nhỏ, nhưng nghe rất rõ ràng, người nào đó nhịp sảnh rất đều tiếng, đều khoảng cách mà cũng đều âm thanh không lơi, không nhặt, không tiếng nào lớn hoặc nhỏ hơn tiếng nào.
Ba vị tiền bối ngừng cười lập tức, gương mặt họ biến đổi sắc ngay, họ cùng đứng lên, cùng nhìn nhau.
Liễu Sơ Dương thấp giọng thốt:
– Vân Bảng Lục Đinh! Chừng như Đệ Tam Ma Quân đến. Nơi nào Vân Bảng Lục Đinh vang lên, là Ma Quân hẳn phải có mặt nơi đó!
Lão cau mày, hỏi như tự hỏi:
– Làm sao bây giờ?
Lạc Hành Quân hừ khẽ:
– Thì chính cái lão tặc gian hoạt đó chứ còn ai nữa? Mặc! Chúng ta cần gì phải nghĩ ngợi viễn vông? Ngày xưa khác, ngày nay khác, tình thế đã đổi thay rồi.
Chúng ta cứ lấy lễ, đối xử như ngày nào, rồi sau đó, có ra sao thì ra ...
Câu nói của bà chưa dứt, đúng theo cái ý của bà, từ bên ngoài hai người bước vào đại sảnh, một trước một sau.
Người đi đầu, còn trang lứa thanh niên, có thân vóc cực kỳ khôi vĩ, dung mạo tuấn tú, tuy nhiên trong cái vẻ tuấn tú đó, ẩn ước một điểm âm trầm. Người đó vận chiếc áo dài rộng, màu tím, dáng đi rất ung dung.
Người đi sau, là lão chèo đò, là Hồ Hải Dị Tẩu.
Lạc Hành Quân, Lạc Tương Quân và Liễu Sơ Dương thấy thanh niên xuất hiện, cùng giật mình chừng như cả ba không nhận ra người đó là ai.
Thanh niên có thái độ cực kỳ cao ngạo. Y đảo mắt nhìn quanh bàn tiệc, vòng tay vái tập thể, đoạn kéo ghế ngồi xuống, không đợi ai mời.
Hồ Hải Dị Tẩu cũng tự động kéo ghế ngồi xuống, nhưng ngồi dưới thanh niên.
Liễu Sơ Dương phẫn nộ, trầm giọng nói.
– Bốc Thượng Xuân! Sao ngươi buông lung tánh khí ngông cuồng như thế?
Phải biết, cuộc ước hội hôm nay, là việc riêng tư của chúng ta, sao ngươi lại ngang nhiên mời thỉnh một ngoại nhân chen vào cuộc? Đã thế lại còn dùng vân bảng ...
Câu nói đó, hướng về Hồ Hải Dị Tẩu, lão ấy chưa đáp, thanh niên đã lên tiếng đáp thay:
– Không! Ta không thể là ngoại nhân được! Sở dĩ lão Bốc nhờ ta đến đây là để chứng kiến những sự diễn tiến của sự việc giữa song phương. Các ngươi đánh nhau suốt mấy mươi năm rồi, đánh mãi, đánh một cách hồ đồ, dây dưa ra nhiều năm tháng chung quy không kết thúc ra làm sao cả. Do đó, cần phải có một chứng nhân, để phân định bên nào thắng bên nào bại, có một chứng nhân rồi, các ngươi sẽ không dám tuyên bố khoác lác trên giang hồ nữa, các ngươi không thể phao tin là mình đã thắng, trong khi thực sự thì bại thê thảm!
Y dừng lại một chút, rồi tiếp với giọng cứng rắn hơn:
– Cho nên, lần ước hội này, cầm như là một cuộc giao thủ quan trọng nhất, bởi chỉ một lần này thôi, lần quyết định, kẻ nào thắng, kể như thắng muôn đời, kẻ nào bại, kể như bại vĩnh viễn. Còn như cái tiếng vân bảng kia, chính ta bảo lão Bốc nhịp lên đấy, chứ chẳng phải lão tự động làm!
Lạc Hành Quân giật mình, hỏi:
– Thế các hạ là ...
Thanh niên cười nhẹ:
– Tiếng nhịp của vân bảng không đủ nói lên thân phận của ta sao, mà ngươi cần phải hỏi?
Bọn Lạc Hành Quân cùng giật mình.
Liễu Sơ Dương do dự một chút, lẩm nhẩm:
– Vân Bảng Lục Đinh, là tín vật của Thiên Tề Ma Quân ...
Thanh niên lại cười nhẹ:
– Thần Quân đã ra người thiên cổ, ta là thừa nhân, ta lập nghiệp tiền nhân không được sao?
Liễu Sơ Dương biến sắc:
– Các hạ nói sao? Ma Quân đã vĩnh du về tiên cảnh?
Thiếu niên gật đầu:
– Phải! Và, tính đến nay, đã có sáu năm rồi! Trước khi quy tiên, Thần Quân chỉ định tại hạ thừa tiếp sự nghiệp của người. Vì công việc quá nhiều, tại hạ không thu xếp xong trong thời gian ngắn được, để kịp thời bá cáo giữa quần hùng trong thiên hạ. Giả như ba vị không tin ...
Hắn bỏ cái giọng ngang tàn, tự xưng là tại hạ, để đáp lại lễ độ của bọn Lạc Hành Quân.
Liễu Sơ Dương hấp tấp đáp:
– Không! Làm sao bọn tại hạ không tin? Thế huynh đừng nghĩ lầm, trông vào khí độ của thế huynh, bọn tại hạ cũng biết ngay xuất xứ của thế huynh ngay.
Bất quá ...
Lão do dự một chút đoạn tiếp:
– Bất quá, lão phu chưa biết phải xưng hô thế huynh như thế nào?
Thiếu niên thản nhiên thốt:
– Tại hạ là Kỳ Hạo, lấy cái ý nghĩa hạo nhiên, góp mặt trên giang hồ.
Liễu Sơ Dương đặng hắng một tiếng:
– Thế ra Kỳ huynh! Kỳ huynh bỏ qua đi cho sự sơ suất của bọn tại hạ trong phút giây gặp gỡ đầu tiên vậy.
Kỳ Hạo không quan tâm đến điều đó, day qua Hồ Hải Dị Tẩu, hỏi:
– Lão Bốc, đã đến lúc song phương giải quyết vấn đề, chẳng hay lão có cần giao ước điều chi với họ chăng?
Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân nhìn thoáng qua bọn Lạc Hành Quân, rồi trầm giọng hướng sang bọn Lạc Hành Quân, thốt:
– Các ngươi trách ta bất tuân quy củ, chính các ngươi phạm vào quy củ đó.
Bên cạnh các ngươi có ngoại nhân. Ta muốn nghe các ngươi giải thích sự có mặt của người lạ tại cục trường.
Bọn Lạc Hành Quân chưa kịp nói gì, Kỳ Hạo cười hì hì cất tiếng:
– Lão Bốc lại nhìn sai nữa rồi! Hắn, đâu phải là người ngoại nhân? Hắn là truyền nhân của lão Độc Cô, hắn là Lệnh Chủ Minh Đà đời thứ hai đó!
Quan Sơn Nguyệt giật mình, hỏi gấp:
– Huynh đài nhận ra tại hạ?
Kỳ Hạo lại cười mấy tiếng:
– Đương nhiên tại hạ phải nhận ra, bởi đó là phần việc của tại hạ trên thế gian này!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ, toan nói gì đó, nhưng chàng bắt gặp ánh mắt của Lạc Hành Quân, ánh mắt đó ngầm ngăn chặn chàng đi sâu vào sự việc.
Do đó, chàng im lặng.
Bốc Thượng Xuân nhìn chàng, trong ánh mắt ẩn ước có vẻ căm hờn. Lão «hừ» nhẹ, lẩm nhẩm:
– Nếu ta sớm biết được ngươi là ai, thì trong đêm trước, ta đã cho ngươi nếm mùi tân khổ với ta rồi!
Dù Lạc Hành Quân khuyến cáo chàng không nên nói gì lúc giáp mặt Hồ Hải Dị Tẩu, Quan Sơn Nguyệt cũng không làm sao chịu được trước thái độ kinh ngạo của lão ta. Lão nói như thế, có khác nào lão khi chàng như một món đồ trong tay lão, lão thừa sức thao túng chàng tùy hứng, tùy thích.
Một người, trong lúc tuổi phương cương, tiêu hóa làm sao nổi một sự miệt thị như thế? Chàng «hừ» lạnh, bĩu môi:
– Chỉ sợ không dễ dàng như các hạ tưởng!
Bốc Thượng Xuân biến sắc mặt.
Liễu Sơ Dương vụt chen vào:
– Bốc Thượng Xuân, việc nên làm, việc đáng phải làm hãy làm trước, thân cây chưa đốn ngã, thì đừng nghĩ đến những nhánh nhóc sớm. Vấn đề của chúng ta, hãy liệu giải quyết cho xong, rồi muốn nghĩ gì khác cũng chưa muộn.
Lão dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Vấn đề của chúng ta, thuộc phần tiên quyết, còn như các việc thị phi ngoài lề, ta tưởng ngươi bất tất phải đề cập đến trong lúc này, bởi chưa phải là lúc nghiên cứu!
Kỳ Hạo đáp thay Bốc Thượng Xuân:
– Phải đó! Người trong Ma Bảng của chúng ta từ lâu rồi, không hề nghĩ đến những thị phi ngày trước, chúng ta nên xếp qua một bên đi, giải quyết cái gì cần giải quyết trong hiện tại cho xong, rồi sau đó, việc chi phải đến, tự nó sẽ đến.
Liễu Sơ Dương nhìn thoáng qua Kỳ Hạo, trầm giọng:
– Dù sao thì tại hạ cũng cần phải thanh minh với Kỳ huynh, là kẻ truyền nhân của Minh Đà Lệnh không dính dấp gì đến sự tình!
Kỳ Hạo cười lớn:
– Biết! Tại hạ biết! Các vị cứ yên tâm! Tại hạ còn biết những gì các vị chưa nói đến, cho nên, các vị không cần phải rào trước đón sau.
Liễu Sơ Dương gật đầu, song trong ánh mắt thoáng hiện sự bối rối.
Kỳ Hạo lại cười, rồi tiếp:
– Song phương cứ bắt đầu! Đã đến lúc rồi đó! Nói mãi cũng thế thôi chỉ làm mất thời giờ chứ chẳng ích gì.
Thật là khó hiểu. Những gì đọng lại giữa họ, có lẽ ngược dòng thời gian mấy mươi năm về trước, và trải qua ít nhất cũng hai thế hệ rồi. Họ đối đáp với nhau một cách úp mở.
Nếu không ở trong vòng ân oán của họ, nghe họ đối thoại với nhau, chẳng ai hiểu được gì, và càng tìm hiểu càng thêm đau đầu, chung quy vẫn chẳng hiểu được gì.
Bốc Thượng Xuân đứng lên, tiếp lời:
– Phải đấy! Đã đến lúc khai diễn màn kịch giữa song phương rồi đó! Lão phu mong rằng, lần tái diễn hôm nay sẽ là lần cuối cùng, để kết toán những gì còn đọng lại giữa nhau qua mấy mươi năm dài!
Lão hướng qua bọn Lạc Hành Quân, buông luôn:
– Lão phu nghĩ rằng, quý phu nhân không cần phải dùng đến đường roi quái dị mà ngày nào phu nhân sở cậy để thị oai với lão phu, bởi lão phu đã hiểu cái bí quyết sử dụng đường roi đó, phu nhân còn trông mong nơi sự công hiệu của nó, là lầm to! Đêm vừa qua, lão phu đã lãnh giáo tuyệt kỹ của phu nhân khi gặp lịnh ái giữa dòng Hoàng Hà! Hãy thi thố một cái gì khác lạ đi, phu nhân, nếu không muốn chuốc lấy một thảm bại.
Lạc Hành Quân chưa kịp nói gì. Quan Sơn Nguyệt đua ánh mắt ngầm ra hiệu cho Lạc Tiểu Hồng.
Lạc Tiểu Hồng hội ý ngay, lập tức lên tiếng:
– Lão quái vật đừng khoe khoang, nếu có gan, hãy cùng bản cô nương ấn định hơn kém xem nào!
Lạc Hành Quân biến sắc, hấp tấp quát chận con gái:
– Có câm miệng hay không, tiểu liễu đầu? Sự việc hôm nay đâu đã đến phần ngươi lo liệu mà buông thói ngông cuồng, can thiệp vào chứ?
Nhưng, Bốc Thượng Xuân bật cười âm trầm thốt:
– Có sao đâu, quý phu nhân! Vậy là tốt lắm đấy!
Lão trầm giọng, tiếp:
– Huyết La Sát ơi! Lão phu nghĩ, mình rất có duyên với gia đình họ Lạc!
Món nợ đối với thế hệ mẹ chưa xong, lại cấu kết thêm một món nợ mới với thế hệ con! Đúng là một cái duyên mẹ truyền con nối!
Lạc Hành Quân thốt nhanh:
– Nó là mốt đứa bé con, lão Bốc tranh chấp với nó làm gì?
Bốc Thượng Xuân bật cười ha hả:
– Trẻ con! Một thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi xuân lại là một đứa bé con à? Thực ra, cái tội của nàng, dám xúc phạm đến lão phu trong đêm vừa qua, cũng đáng trừng trị lắm, song nghĩ vì nàng không nhận ra lão phu, nên vô hình trung, đắc tội, điều đó, lão phu có thể châm chế bỏ qua cho. Nhưng, hiện tại, nàng lại thách thức lão phu, lần này thì nhất định là chẳng phải vô tình mà nàng đắc tội. Lão phu dù có rộng lượng đến đâu, cũng không thể lờ đi! Tốt hơn hết, ngươi đừng tìm cách ngăn trở nàng ...
Lạc Hành Quân nói dịu không được, sôi giận, dùng giọng sẵng, hét lên:
– Ngươi không bỏ qua, liệu ngươi dám làm gì nó? Ta thách ngươi chạm đến lông chân nó ...
Bốc Thượng Xuân cười vang:
– Trong đời ta, chẳng có việc gì mà ta không dám làm. Nếu có một cái gì mà ta đành chịu bất lực, là đối với chị em ngươi ... cái duyên phần của ta quá bạc ...
Nghe đề cập đến việc xa xưa, Liễu Sơ Dương phẫn nộ, quát lên:
– Lão quái vật, ta cấm ngươi nói tiếp:
Bốc Thượng Xuân cười lạnh, gật gù:
– Được! Được! Không cho ta nói tiếp, thì thôi vậy! Ta cũng vì các ngươi, giữ bí mật đó luôn.
Lão nhìn qua Lạc Hành Quân tiếp:
– Còn như việc tiểu cô nương thách thức ta, điều đó thì chắc là ta không thể bỏ qua được rồi. Ta đã nói, đúng là cái duyên mẹ truyền con nối mà! Nợ cũ chưa trả, nợ mới lại vay thêm!
Chừng như lão đắc ý vô cùng, bật cười ha hả.
Giọng cười của lão hàm súc cái ý mỉa mai, khinh miệt, khiến bọn Liễn Sơ Dương Lạc Hành Quân căm phẫn phi thường.
Tuy nhiên, cố vớt vát lại phần nào cho phần con gái, Lạc Hành Quân ném niềm uất hận, day qua Kỳ Hạo, như van cầu:
– Công tử đã thừa kế sự nghiệp Ma Quân, giữ ngôi thứ ba chắc cũng đã hiểu ngày xưa, chị em già chưa từng đắc tội với Ma Quân ...
Kỳ Hạo gật đâu:
– Tại hạ hiểu lắm! Các vị ngày xưa giao tình rất thâm hậu đối với Tiên Quân! Tại hạ hết sức cảm kích.
Kỳ Hạo có ý mỉa mai chi chăng, điều đó chỉ có bọn Lạc Hành Quân hiểu rõ, Quan Sơn Nguyệt chỉ thấy bà ta thoáng đỏ mặt vì thẹn.
Bà tiếp:
– Công tử cũng nên nghĩ đến cái khổ chúng ta đồng đứng chung một bảng, giúp già xóa tan sự hiềm khích của lão Bốc và tiểu nữ, bởi dù sao thì nó cũng chỉ là một đứa bé con, còn non dại ...
Phải khó khăn lắm, bà mới nói được câu đó. Xưa nay, bà có van cầu ai đâu, bây giờ, vì lo sợ cho con gái bà phải hạ mình kêu gọi sự can thiệp của người có uy tín đối với kẻ thù.
Thà rằng bà đương đầu với kẻ thù, có ra sao bà cũng vui mà chịu, chứ bà không muốn con gái bị lôi cuốn vào vòng.
Kỳ Hạo lắc đầu:
– Khó lắm, phu nhân! Nếu tại hạ can thiệp, thì chẳng hóa ra vì người cùng một cánh mà xử hiếp ngoại nhân sao? Huống chi, tại hạ có tuyên bố trước khi đến đây, là chỉ làm một người chứng, bổn phận của tại hạ là bình luận, quyết đoán ai hơn ai kém thôi, còn ra thì tùy song phương giải quyết vấn đề phu nhân hãy xét cho vậy!
Lạc Hành Quân thấy Kỳ Hạo có ý thoái thác rõ ràng, căm hận gằn từng tiếng:
– Có một vị đứng đầu bảng như công tử, kể ra cũng vinh hạnh thay! Ai chết, ai sống mặc ai, ai có việc gì, tự lo mà liệu lấy!
Kỳ Hạo trầm gương mặt liền:
– Thế ra phu nhân bất phục? Và bất phục luôn Tiên Quân trong cái việc chọn người thừa kế? Bất phục vì tại hạ từ chối không giúp phu nhân một tay?
Bất phục vì tại hạ giữ vững công tâm không thiên vị?
Lạc Hành Quân giật mình, biết là bà đã nói mấy tiếng hớ hênh xúc nộ Kỳ Hạo. Xúc nộ một người có vũ công cao, lại thiên vị kẻ địch rõ rệt, hẳn là bất lợi cho bà. Giả dĩ, Kỳ Hạo biểu lộ một oai khí đáng khiếp, làm bà phải gờm ngay, bà không dám nói gì nữa, ngồi xuống, im thin thít.
Quan Sơn Nguyệt đã hoang mang từ lúc mới vào Tà Dương Trang, niềm hoang mang càng phút càng lớn mạnh, chàng nhận ra sự tình của các vị tiền bối này hết sức bí mật, lại có cái tầm quan trọng phi thường. Điều làm cho chàng hoang mang hơn hết, là sư phụ chàng có liên quan đến họ.
Dù muốn dù không, là truyền nhân của Độc Cô Minh, chàng cũng có ít nhiều liên quan trong vụ, qua thân phận Lệnh Chủ Minh Đà đời thứ hai. Thế tại sao các vị tiền bối không hề tiết lộ cho chàng hiểu dù chỉ là một phần nhỏ của sự tình?
Bây giờ, nghe họ đối đáp với Kỳ Hạo, với Bốc Thượng Xuân nhận định thái độ song phương, chàng càng hoang mang hơn nữa.
Trong khi chàng suy tư, tìm hiểu, Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân công khai gọi Lạc Tiểu Hồng động thủ.
Lạc Tiểu Hồng còn trẻ tuổi, nặng tánh hiếu thắng, đương nhiên không chịu nổi sự khiêu khích của đối phương. Gia dĩ, nàng cứ tưởng là mình có thể hạ đối phương dễ dàng bằng tiên pháp độc đáo như đã làm trong đêm qua, nên chẳng cân nhắc lợi hại, lập tức chụp lấy ngọn nhuyễn tiên, toan đứng lên rời ghế, bước ra.
Lạc Hành Quân vội nắm tay nàng, giữ lại, thở dài, bảo:
– Cũng tại ngươi đa sự đấy! Ngươi hãy thong thả một chút nữa, chờ cho sự việc cởi mở phần nào ...
Cởi mở? Bà định thương lượng điều chi với đối phương, dàn xếp vụ của Lạc Tiểu Hồng cho êm xuôi chăng?
Cái tâm ý của bà như thế nào, làm sao Lạc Tiểu Hồng biết được? Nàng đang nóng động thủ, bảo nàng thong thả chờ đợi, nàng chờ đợi làm sao được?
Nàng cao giọng đáp:
– Mẹ đừng lo! Con phải cho lão ấy nếm thử mấy roi, cho lão chừa bỏ tánh khinh người ...
Quan Sơn Nguyệt trước đó, đưa ánh mắt ngầm xúi giục Lạc Tiểu Hồng cứ động thủ với Bốc Thượng Xuân, đừng sợ chi lão ta.
Sở dĩ chàng khuyến khích nàng ra mặt thách đố Bốc Thượng Xuân, là vì chàng nghe Lạc Hành Quân cho biết là lão ấy không thể giết chết được ai, động thủ với một người không thể giết chết mình thì có gì đáng sợ đâu? Chàng còn nghĩ đến cái việc bất chợt can thiệp, tiếp trợ nàng và sự can thiệp này sẽ giúp chàng khám phá ra một vài chi tiết quanh bí mật mà mọi người cố gìn giữ.
Nhưng, thấy Lạc Hành Quân quá lo ngại cho nàng, Quan Sơn Nguyệt cũng đâm lo luôn. Chàng day qua Liễu Sơ Dương, hỏi:
– Tại sao Lạc tiền bối không chấp thuận cho Lạc cô nương động thủ với lão quái vật kia? Dù Lạc cô nương có kém tài, chịu bại nơi tay lão ta đi nữa, cũng chẳng nguy hại gì đến tánh mạng bởi lão ấy không thể giết người kia mà?
Liễu Sơ Dương thở dài:
– Giải thích một sự thắc mắc gần như hoang đường cho hiền điệt hiểu ra trong lúc này, lão phu không thể vắn tắt trong mấy tiếng được, khi nào có thì giờ dư dả, chúng ta hãy trở lại việc đó, hiền điệt không nên nóng nảy tìm hiểu, hiện tại hiền điệt chỉ nên biết là dính dấp đến lão quái vật ấy, mình sẽ khổ suốt đời, dù lão không giết ai song lão cứ ám ảnh mãi mãi. Lão phu nghĩ bị ám ảnh suốt đời, sao bằng được chết ngay? Do đó không ai muốn dính dấp đến lão. Tiểu Hồng còn nhỏ tuổi, nó sanh sự với lão chẳng khác nào nó tự đầu độc cuộc sống còn dài của nó, cho nên mẫu thân nó phải ngăn cản tránh cho con gái mang khổ về sau.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ. Nếu đúng như lời Liễu Sơ Dương nói thì sau này, nếu Lạc Tiểu Hồng bị lão ấy quấy nhiễu triền miên, chàng sẽ hối hận biết bao bởi chàng đã xúi giục nàng khiêu khích Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân.
Nhìn ra cục trường, chàng thấy Lạc Tiểu Hồng đã xốc roi, tiến đến Bốc Thượng Xuân rồi. Gương mặt của lão bốc bừng ác ý, phảng phất quanh mình lão, một vầng tà khí bao phủ lờ mờ.
Bất giác, chàng vụt đứng lên, xô ghế, nhảy vọt ra vung chưởng đánh vào mặt Bốc Thượng Xuân.
Chàng giành với Lạc Tiểu Hồng, xuất thủ đầu tiên, như để gánh một phần trong nhiệm vụ.
Vì chàng xuất thủ bất ngờ, Bốc Thượng Xuân không phòng bị, bàn tay của chàng chạm trúng mặt lão, bật kêu một tiếng «bốp».
Tuy bị chàng đánh trúng, Bốc Thượng Xuân chỉ lộ vẻ kinh ngạc thôi, chứ chẳng hề hấn gì.
Tại cục trường, không ai tưởng là Quan Sơn Nguyệt có thể động thủ như vậy được. Bởi, chàng là người ngoại cuốc, không có một lý do gì can thiệp vào một sự việc ngược dòng thời gian về ba mươi năm trước.
Giả như chàng có muốn gây sự với Bốc Thượng Xuân hay ngược lại, lão ấy muốn làm gì chàng, thì ít nhất, song phương cũng phải chờ cho sự việc tại đây giải quyết xong, sau đó song phương hoặc xuất thủ, ngay trong trang viện này, hay ước hẹn nhau vào một thời gian khác, ở một nơi khác.
Nhưng, bây giờ, chàng lại ra tay trước mọi người. Thành ra trong cuộc ước hẹn hôm nay, chàng đã giành phần ưu tiên.
Bốc Thượng Xuân nổi giận quát:
– Tiểu tử có ý tứ gì?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Lão quái vật! Ngươi thích cấu kết những món nợ mới, thì đây, nên cấu kết với ta. Ta muốn giành trận đầu, sau ta rồi, ngươi sẽ đối phó với các vị kia.
Người phẫn nộ hơn hết, chính là Kỳ Hạo, hắn cho rằng sự can thiệp của Quan Sơn Nguyệt là một hành động khinh miệt hắn. Bởi, tại cục trường ai ai cũng ngán hắn, ai ai cũng nhường nhịn hắn mấy phần.
Trừ ra bị bắt buộc lắm, bọn Lạc Hành Quân mới dám ra mặt đối phó với hắn.
Còn không thì, chẳng khi nào họ dám đương đầu với hắn. Vậy mà Quan Sơn Nguyệt không xem hắn ra gì, dám buông lung tính khí ngông cuồng trước mặt hắn!
Lạc Hành Quân và Liễu Sơ Dương nhận ra, tình hình chuyển biến nghiêm trọng rồi cùng đứng lên.
Kỳ Hạo khi nào chấp nhận một thái độ ngông cuồng của Quan Sơn Nguyệt? Hắn day qua Lạc Hành Quân, cười gằn mấy tiếng, đoạn thốt:
– Ba mươi năm qua, phu nhân đã bỏ dở hạn kỳ ước hội với lão Bốc, tại hạ có thể hỏi lý do, bởi tại hạ có bổn phận quan sát hành vi của mỗi người trong bảng. Song, tại hạ lờ đi, đó là một điều phương tiện rồi, tại hạ chỉ muốn thu mình trong phạm vi một công chứng mà không can thiệp vào sự tranh chấp của song phương. Trong khi đó, phu nhân lại nhờ tay một tiểu tử mở màn khai diễn sự tình.
Thật là điều đáng trách lắm đó, giả như tại hạ có nhúng tay vào vụ thì phu nhân cũng chẳng nên lấy làm lạ, bởi chính phu nhân đã phá cái lệ được thỏa thuận giữa nhau từ nhiều năm trước.
Hắn hướng sang Quan Sơn Nguyệt cao giọng hỏi:
– Trước mặt bổn tòa, sao ngươi dám buông lung tính khí, tự tác tự tung?
Ngươi bằng thế lực nào, nhiệm ý thi vỉ
Quan Sơn Nguyệt không đáp ngay câu nói của đối tượng mà chỉ hỏi lại:
– Các hạ cho rằng mình là một nhân vật quan trọng?
Kỳ Hạo phẫn nộ đến không còn dằn được nữa, toan phát tác, nhưng Liễu Sơ Dương đã chen vào:
– Hôm nay thế huynh đến đây là để làm một công chứng nhân, như vậy tốt hơn hết thế huynh không nên can thiệp vào cuộc tranh chấp này, bất cứ bằng cách nào, với một lý do nàọ Giả như có điều chi bất mãn, thế huynh hãy đình lại một ngày khác, bọn lão phu sẵn sàng tuân theo chỉ giáo của thế huynh. Phải thắng thắn mà nhìn nhận là người thừa kế Minh Đà Lệnh dù sao cũng là ngoại nhân của cuộc tranh chấp hôm naỵ
Đã tuyên bố mình là một kẻ giữ vai trò công chứng thì còn vịn vào lý do gì để can thiệp? Kỳ Hạo vẫn chưa chịu bỏ qua, trầm lạnh giọng hỏi:
– Công chứng nhân không can thiệp vào vụ của các vị, cái đó đã đành, song, chẳng lẽ công chứng nhân phải điềm nhiên để cho một ngoại nhân công khai khinh miệt? Cái tội bất kính đó, không thế nào tại hạ dung thứ được.
Liễu Sơ Dương suy nghĩ một chút, rồi nghiêm giọng trình bày:
– Kỳ huynh là người thừa kế của Thần Quân, mà Quan thế huynh cũng là truyền nhân của Minh Đà Lệnh Chủ, cả hai cùng suýt soát nhau trong lứa tuổi phương cương, tự nhiên có phần nào hiếu động, riêng Quan thế huynh thì nóng nảy hơn, không được trầm tịnh như Kỳ huynh, do đó khó kềm hãm được lonhg mình trước mọi bất bình. Dù sao thì cả hai vị nhân huynh cũng là người đồng đẳng, sự hơn kém giữa nhau nếu có, cũng chẳng quan trọng lắm. Giả như Quan thế huynh có buông lung tính khí một chút, sự kiện đó không thể được xem như một cái tội bất kính, bởi thực ra, Quan thế huynh không hẳn tỏ thái độ chống đối với Kỳ huynh kia mà!
Lão dừng lại, suy nghĩ một chút, đoạn tiếp luôn:
– Còn như, Kỳ huynh vì thấy Quan huynh phản đối công khai với Bốc Thượng Xuân mà muốn ra mặt bênh vực, toan phát tác với Quan thế huynh, thiết tưởng Kỳ huynh không nghĩ tình người đồng bảng trước vậy!
Kỳ Hạo sôi giận đến biến sắc mặt trắng nhợt, nhưng hắn chỉ «hừ» lạnh, gằn giọng:
– Các hạ nói nghe thẳng quá!
Liễu Sơ Dương cười nhẹ:
– Kỳ huynh quá khen!
Kỳ Hạo lại «hừ» một tiếng:
– Quy củ ngày xưa, các hạ nhớ rành hơn chính một người có bổn phận chấp pháp!
Liễu Sơ Dương thản nhiên:
– Trong kỳ đại hội lập ước pháp, định quy củ, chính lão phu ghi chép những chi tiết quy điều do toàn thể chấp thuận, và cũng chính lão phu sao ra nhiều bản, phân phối cho mọi người, cho nên lão phu nhớ rành là việc đương nhiên.
Lão mỉm cười nhìn Kỳ Hạo tiếp luôn:
– Dù sao, thế huynh cũng là người thừa kế của một trong ba vị Thần Quân, hẳn thế huynh cũng nhớ rành chứ?
Kỳ Hạo nín lặng một lúc lâụ Đột nhiên, hắn đưa ngón tay áp út của bàn tay tả lên cao, nơi ngón tay có một chiếc nhẫn bằng ngọc màu xanh. Nơi mặt chiếc nhẫn hướng về bọn Liễu Sơ Dương, có nhiều nét chạm trổ rất tinh vị
Quan Sơn Nguyệt chẳng hiểu những nét chạm đó là hình thức gì, tượng trưng một quyền uy như thế nàọ Chàng cố giương tròn mắt, nhìn xem hình chạm trên mặt nhẫn. Bất giác, chàng kinh ngạc, nhận ra, hình chạm đó là một chiếc đầu, đầu của quỷ chứ chẳng phải đầu ngườị
Hắn cao giọng hỏi:
– Các vị có biết vật chi đây chăng?
Liễu Sơ Dương và hai chị em họ lạc trông thấy chiếc nhẫn cùng biến sắc.
Liễu Sơ Dương và Lạc Hành Quân còn đủ đôi chân, đứng thẳng người, tay buông thõng trong cái dáng nghiêm trang. Còn Lạc Tương Quân, mất đôi chân không đứng được, cũng chỏi tay xuống thành ghế, nhóng mình lên, tỏ vẻ muốn đứng như hai người kia, có điều không đứng được, đành phải ngồi như vậỵ Cả ba im thin thít.
Kỳ Hạo ngẩng cao mặt, cười lạnh mấy tiếng:
– Hiện tại, tại hạ chính thức truyền Thần Ma Lệnh cho tất cả phải tuân theọ
Tại hạ hạn định ba tháng sau, tất cả phải hội hiệp tại Thần Đàn, nghe tại hạ phân phó.
Họ Liễu và hai chị em họ Lạc cùng cất tiếng một lượt:
– Xin tuân lệnh.
Kỳ Hạo cười nhẹ, tiếp:
– Đúng kỳ hạn, ai vắng mặt thì người đó đừng trách sao tại hạ nỡ nghiêm khắc, không nương tình!
Lạc Hành Quân rung rung giọng:
– Dù bọn này có bất đắc kỳ tử mà không đến nơi đúng hạn định được, cũng trăn trối người nhà, mang hài cốt đến Thần Đàn trình chiếụ
Kỳ Hạo gật đầu:
– Các vị yên trí. Trong vòng ba tháng đó, tại hạ bảo chứng chẳng một ai dám động đến chân lông các vị, làm gì có cái việc chết bất ngờ mà sợ? Tuy nhiên, tại hạ cần cảnh cáo các vị, đừng tìm cách lẩn trốn như trong những lần trước kiạ Nói thật, các vị có đi đến góc biển, chân trời, rừng sâu, núi thẳm, tại hạ cũng tìm đến các vị như thường và chắc chắn là phải tìm gặp, cho nên đừng ai mong ẩn tránh, vô ích.
Hắn lại dừng, rồi mỉm cười, tiếp:
– Tại hạ thừa kế Tiên Quân, nhưng hành sự có khác hơn Tiên Quân một chút ở cái chỗ Tiên Quân thì rộng rãi, còn tại hạ thì có phần nào nghiêm khắc một chút. Nói trước để cho các vị giữ mình.
Đoạn hắn khoát tay:
– Thôi, các vị ngồi xuống đị
Lạc Tương Quân buông tay chỏi, Liễu Sơ Dương và Lạc Hành Quân ngồi xuống. Trên gương mặt cả ba, vẻ bàng hoàng lo ngại vẫn còn.
Kỳ Hạo day qua Bốc Thượng Xuân gắt:
– Lão còn chờ gì nữa lại chưa chịu khai diễn tấn tuồng xưả
Bốc Thượng Xuân trừng mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt, quát:
– Tiểu tử lướt tới đi, ta không tìm gặp Độc Cô Minh thì miễn cưỡng chuyển hình phạt sang ngươi cũng được ...
Quan Sơn Nguyệt không hề nao núng, bĩu môi «hừ» một tiếng:
– Ân sư của ta có ân oán gì với ngươi mà ngươi lại thù oán luôn đến ta chứ?
Bốc Thượng Xuân căm hờn gằn giọng:
– Giả như ngươi bảo toàn được sanh mạng chờ đến ngày gặp lại Độc Cô Minh, hẳn ngươi sẽ hiểu rõ sự liên quan giữa ta và lão ấỵ Bằng trái lại, nếu cái số của người yểu thọ thì cố mà chờ tại suối vàng, không lâu lắm, Độc Cô Minh sẽ xuống đó hội diện với ngươi, gặp nhau rồi, ngươi hỏi lão ấy cũng chẳng muộn.
Lão không chịu nói thật, thế là nghĩa gì? Đối với một kẻ mà mình xem là thù, trước khi động thủ, ít nhất mình cũng phải nói cái lý do tranh chấp chứ? Tại sao Bốc Thượng Xuân lại giữ bí mật? Thế ra, những gì liên quan đến sư phụ chàng, ai ai cũng giữ bí mật cả saỏ Và tại sao tất cả đều giữ bí mật? Từ Bành Cúc Nhân đến bọn Lạc Hành Quân, rồi bây giờ, cả người đối lập là Bốc Thượng Xuân cũng chẳng chịu tiết lộ mảy may về sự tình.
Tự nhiên, chàng hết sức hoang mang, niềm hoang mang càng lúc càng lớn mạnh, theo cái đà tiếp xúc với những người thuộc về Bảng Phong Thần, Bảng Phong Ma nào đó ...
Tuy nhiên, bởi không phải lúc chàng suy tư về những chuyện xa xôi, chàng vừa bước tới, vừa cao giọng, nạt lên:
– Lão quái vật! Đừng khoác lác sớm, chưa chắc trong hai chúng ta, kẻ nào phải về chầu Diêm Chúa trước!
Bốc Thượng Xuân điểm phớt nụ cười âm thầm, thản nhiên đứng chờ chưởng kình của Quan Sơn Nguyệt bay tớị
Chiêu chưởng đó, Quan Sơn Nguyệt nhắm ngay ngực lão ta mà tung vàọ
Một bên đánh ra, một bên không né tránh, tự nhiên chưởng kình phải chạm đích, nhưng chạm đích cũng chẳng làm gì hề hấn Bốc Thượng Xuân, chưởng kình của Quan Sơn Nguyệt trúng ngực lão như rơi vào khoảng không, thành vô dụng.
Trái lại, lão xoay bàn tay, xòe thẳng ngón, đâm vào xương cánh tay của Quan Sơn Nguyệt.
Thủ pháp đó, Bốc Thượng Xuân đã thi triển một lần trên dòng Hoàng Hà, Quan Sơn Nguyệt đã biết rồi, cho nên chàng hết sức đề phòng.
Bàn tay chàng vừa chạm vào ngực Bốc Thượng Xuân, lập tức chàng thu nhanh về tránh mấy ngón của lão đụng phảị Nhưng vô ích, chàng nhận ra không làm sao thu hồi bàn tay kịp.
Bất giác, chàng đâm liều, định thực nghiệm xem công lực của Bốc Thượng Xuân như thế nàọ Do đó, chàng cứ giữ nguyên tư thế, sẵn sàng hứng lấy ngón tay của Bốc Thượng Xuân.
Liễu Sơ Dương kinh hãi, kêu lên thất thanh:
– Quan hiền điệt! Cẩn thận đấy! Tuyệt đối không nên tiếp xúc ...
Chậm một chút. Sự va chạm đã đến cùng một lúc với tiếng kêu của Liễu Sơ Dương phát rạ
Quan Sơn Nguyệt cảm thấy chẳng có gì quan trọng lắm, chỉ phong của Bốc Thượng Xuân mãnh liệt thật, song bất quá chỉ làm cơ thể chàng chấn động nhẹ và qua cơn chấn động đó, chàng nghe ngứa ngáy khắp người một chút vậy thôị
Dĩ nhiên, chàng không quan tâm, trái lại còn khinh thường là khác.
Trao đổi nhau một chiêu đầu, Quan Sơn Nguyệt lùi lại mấy bước, suy nghĩ tìm cách khắc chế đối tượng.
Trong khi chàng tìm phương pháp, Liễu Sơ Dương lộ vẻ lo sợ ra mặt. Lão định mở miệng nói gì đó, nhưng Kỳ Hạo trầm lạnh gương mặt, gằn từng tiếng:
– Là chứng nhân, bổn tòa chấp hành công pháp, cấm chỉ mọi người bên ngoài nói năng chen vào! Để mặc song phương so tài, hơn thì thắng, kém thì bạị
Liễu Sơ Dương nín lặng. Nín lặng là về phần lão, song lão lại hy vọng người khác bất thần can thiệp, may ra mới tiếp trợ Quan Sơn Nguyệt kịp thờị Lão đưa mắt nhìn sang Lạc Tương Quân.
Chẳng rõ Lạc Tương Quân có thấy ánh mắt của lão chăng, bà ta điềm nhiên như thường, đôi mắt cứ đăm đăm nhìn vào cuộc chiến, theo dõi mọi động tác của song phương. Bà nhìn vào cuộc chiến, thần sắc của bà vẫn an tường, không hề biểu lộ một vẻ lo nghĩ nàọ
Quan Sơn Nguyệt bất động một lúc, rồi thình lình xuất chưởng đánh tiếp một chiêu thứ haị
Bốc Thượng Xuân là tay lão luyện chiến trường, trước khi vào cuộc lão đã có chủ trương rồi, bây giờ thì lão ung dung hành động đúng theo chủ trương đó.
Như lần trước, lão thản nhiên chờ, vẻ khinh khỉnh hơi lộ ra nơi gương mặt.
Nhưng khi chưởng kình của Quan Sơn Nguyệt đến gần, bỗng lão có cái cảm giác là tình hình không giống như lần trước, toan vận công ứng phó, rất tiếc đã chậm trễ rồi, không tài nào vận công kịp nữạ
Quan Sơn Nguyệt thu tay về. Chừng như bàn tay của chàng có một sức hút, tay thu về, sức hút lôi kéo Bốc Thượng Xuân theo, cho nên lão chúi mình tới trước.
Giả như Quan Sơn Nguyệt lùi lại một bước, hẳn lão cũng phải bước theo một bước. Nhưng, Quan Sơn Nguyệt không lùi, chàng điểm nhẹ một nụ cười hoành tay qua một bên, dịch luôn thân hình Bốc Thượng Xuân theo, khi lão chúi tới, ngang hàng với chàng rồi, chàng đánh mạnh vào lưng lão một quyền như búa bổ.
Bốc Thượng Xuân mất cả kháng lực, ngã cấp xuống, tuy nhiên, lão kịp chỏi tay, giữ cho thân mình không chạm đất, nhân tư thế đó, lão lạng người lăn đi mấy vòng, đứng lên liền.
Lạc Hành Quân buột miệng tán:
– Tiểu tử quả thật thông minh, chỉ qua một chiêu đầu, đã ức độ được hư thực của đối phương, tránh cái hư, công vào cái thực, áp dụng đúng phương pháp chế địch. Song rất tiếc ... chỉ sợ lần ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình. Chàng khâm phục sự nhận xét của Lạc Hành Quân, rồi chàng cũng lo ngại về câu nói của bà.
Tại sao bà tiếc rẻ? Lần sau thì saỏ Gì thì chẳng rõ, chứ chàng cũng phát hiện ra một điều mà Lạc Hành Quân không nói trước cho chàng hiểụ Điều đó là Bốc Thượng Xuân có một kháng lực gần như ma quáị Kháng lực, bình thời thì chẳng hề có, khi nào địch chạm vào người, kháng lực mới phát huy, địch càng chạm mạnh, kháng lực càng phát huy mạnh. Kháng lực đó, làm tiêu tan áp lực của địch, áp lực địch tan biến rồi, kháng lực cũng tiêu tan luôn. Kháng lực tự nhiên mà có, chẳng cần gì Bốc Thượng Xuân phải chú tâm, vận dụng.
Sở dĩ chàng tạo được cái hấp lực, lôi cuốn Bốc Thượng Xuân nhào tới, là vì chàng áp dụng đúng phương pháp, lợi dụng cái trở lực làm trợ lực cho chàng. Cho nên, khi kháng lực nơi Bốc Thượng Xuân vừa đấy lên, nghinh đón chưởng kình của chàng, chàng lại thu tay về, tiếp thu luôn cái kháng lực đó, khiến Bốc Thượng Xuân phải chới với nhào theọ Do đó, chàng tạo được một dẫn lực, đúng theo phương pháp. Chứ thật ra chàng cũng chẳng có môn công đặc biệt nàọ
Cũng may cho Bốc Thượng Xuân, lão ta kịp thời cải biến lực đạo, nếu cứ để cho kháng lực phát huy mạnh hơn, lão sẽ không thể chịu đựng nổi một chưởng của Quan Sơn Nguyệt và chắc chắn là không đứng lên nổị Phàm kháng lực của lão chấm dứt là Quan Sơn Nguyệt không còn chỗ nương tựa để tạo dẫn lực.
Kháng lực dứt, dẫn lực phải dứt theo, lão an nhiên đứng lên như thường.
Biết rõ đấu pháp cũng như vũ học của Bốc Thượng Xuân, Lạc Hành Quân thốt lên câu đó để ngầm cảnh cáo chàng phải dè dặt ở những chiêu sau, đừng tưởng đấm được lão như vậy mà rồi cho là đắc thủ, thắng cuộc mà khinh thường.
Bốc Thượng Xuân bị Lạc Hành Quân tiết lộ chỗ yếu nhược của lão cho Quan Sơn Nguyệt biết, lão căm hận quát to:
– Lạc Hành Quân! Ta đâu có mượn ngươi ở bên ngoài chỉ khôn chỉ khéo cho tiểu tử đâủ Ngươi có tài, cứ chờ một chút nữa, thi thố tài năng với ta, bây giờ thì hãy để yên cho tiểu tử so hơn kém với tạ Tiểu tử có giỏi, cứ xông vào, cho ta nếm một quả đấm nữa, xem nào!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Cho ngươi nhào lăn một lần nữa, nghĩ cũng chẳng khó khăn gì. Bất quá ta thấy ngươi già đến từng tuổi đó mà lại bại, bại đến độ phải bò lăn bò lóc trên mặt đất, tránh né vất vả, ta không nỡ tái diễn cái trò vui đó nữa thôị Ta nghĩ, ngươi nên xét người xét mình, nếu nhận ra mình còn kém thì cứ lui đi, chứ càng liều mạng lại càng chuốc nhục, chẳng ích lợi gì cả!
Liễu Sơ Dương chen vào:
– Phải đó, Bốc Thượng Xuân. Dù sao thì ngươi cùng Độc Cô Minh đồng là một lớp người, đã bại rồi thì nên nhận bại đi, ngoan cố cho lắm cũng không chối được cái tiếng bại!
Lão cười nhẹ một tiếng, tiếp luôn:
– Bị người ta đấm cho một đấm, nhào xuống đất, lăn lộn mấy vòng, thế chẳng là bại thì là gì chứ?
Bốc Thượng Xuân giận đến độ suýt sôi bọt mồm bọt mép, day qua Kỳ Hạo, trầm giọng hỏi:
– Công tử là chứng nhân, công tử phán định lão phu bại hay không bạỉ
Kỳ Hạo lắc đầu:
– Không bại!
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Làm công chứng nhân như ngươi, sao gọi là công bình được? Rõ ràng là ngươi thiên vị lão quái vật! Ta không phục lời phán định của ngươi!
Kỳ Hạo trầm lạnh gương mặt:
– Bổn tòa bất công ở điểm nàỏ
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Lão ấy đã ngã nhào, lăn lộn như vậy, không là bại thì là gì? Lão ấy không bại, dễ thường ta bại à?
Kỳ Hạo điềm nhiên:
– Ta có chối là lão không ngã, không lăn lộn đâủ Song, vì cái việc đó mà cho rằng lão bại thì bất công, bởi trước đó, ngươi cũng có bị lão đánh trúng một chiêu mà! Thế là huề! Mỗi bên bị trúng một chiêu của nhau, có bên nào hơn bên nào mà phán định một bên bại một bên thắng?
Quan Sơn Nguyệt sửng sốt:
– Ta trúng chiêu của lão ấy từ lúc nàỏ Chiêu gì chứ?
Kỳ Hạo bỉu môi:
– Ngươi không hay biết? Ngươi nghi ngờ thì cứ hỏi chị em bà ấy!
Lạc Hành Quân và Lạc Tương Quân cũng phẩn hận về sự phán đoán của Kỳ Hạo, hai bà biết rõ hắn dùng cường để đoạt cái lý, song họ chẳng còn nói gì được.
Thực ra, Quan Sơn Nguyệt làm gì chẳng biết mình bị Bốc Thượng Xuân quét trúng một ngọn chỉ phong? Có điều, chàng chẳng nghe một cảm giác gì cả, cho nên cứ tưởng là vô sự. Đã vô sự thì chàng bại làm sao được?
Bây giờ, Kỳ Hạo nhắc lại và chàng nhìn thần sắc của chị em họ Lạc, đoán biết là sự tình có quan trọng phần nàọ Chẳng lẽ ngọn chỉ phong Bốc Thượng Xuân trúng phớt qua mình chàng lại gây nên một hậu quả tai hạỉ
Chàng tự tin mình không thể bị nguy vì một đạo chỉ phong tầm thường của Bốc Thượng Xuân, cười nhạt thốt:
– Ngươi định nói đến đạo chỉ lực của lão quái vật ấy quét sang ta vừa rồỉ
Ta muốn biết chừng nào nó phát tác đâỷ
Chàng tỏ thái độ khinh thường. Điều đó khiến chị em họ Lạc hết sức lấy làm lạ, họ cùng một lượt lẩm bẩm:
– Sao lâu thế? Kỳ quái thật! Chẳng lẽ công lực của Bốc Thượng Xuân giờ đây đã kém giảm, không còn lợi hại như ngày trước?
Bốc Thượng Xuân nghe lọt câu đó, nổi giận quát:
– Nói nhảm! Các ngươi cho rằng ta không còn lợi hại như ngày nào à?
Nếu thế ta chấp cả hai ngươi, cứ vào cuộc, ta bảo chứng là các ngươi sẽ nếm lại sự thất bại như ngày trước!
Lạc Tương Quân phẫn uất, thét:
– Ngươi vẫn còn khoác lác được à? Ta sẽ lột da ngươi, rút gân ngươi cho mà xem!
Chỏi tay xuống thành ghế, bà tung mình lên bay vọt tới, đồng thời phất ống tay áo, quét chênh chếch xuống mặt Bốc Thượng Xuân.
Bốc Thượng Xuân rùn cổ, hạ thấp mình một chút, tránh cái quét của ống tay sáo địch.
Hụt ống tay áo này, Lạc Tương Quân phất luôn ống tay áo kia, rồi hai ống tay áo giao chuyền quét tới, vừa để công Bốc Thượng Xuân vừa lầy đà giữ mình trên không.
Dù sao thì mất đôi chân, lạc Tương Quân cũng phải thất thế hơn Bốc Thượng Xuân bởi bà phải vận dụng chân khí quá nhiều, phần nào giữ mình đừng rơi xuống, phần nào công địch, mà địch chẳng phải tay vừạ
Đừng nói chi địch có vũ công cao hơn bà, nếu song phương đồng tài đồng sức thì đương nhiên người có đủ đôi chân nắm nhiều phương tiện chiến thắng hơn.
Hai tay áo vung tới tấp làm Bốc Thượng Xuân có phần nào lúng núng.
Nhưng, cuộc chiến chưa ngã ngủ như thế nào, bỗng một bóng người từ phía dưới bay vọt lên, dùng chưởng chặt xuống ống tay áo của Lạc Tương Quân.
«Phặc!» Ống tay áo đứt liền. Mất thăng bằng, Lạc Tương Quân đáp xuống ngaỵ Và bà đáp xuống trong tư thế ngồị
Liễu Sơ Dương và Lạc Hành Quân biến sắc, đồng một lượt nhào tớị
Người chặt đứt ống tay áo của Lạc Tương Quân chẳng ai khác hơn là Kỳ Hạọ Thấy bọn Liễu Sơ Dương và Lạc Hành Quân xông vào tiếp trợ Lạc Tương Quân, hắn thét to:
– Bọn các ngươi chán sống rồi phải không? Trước mặt bổn tòa mà các ngươi dám buông lung ngông cuồng như vậy, liệu bổn tòa còn châm chước được cho các ngươi không chứ?
Giọng nói của hắn vang lên như sấm, làm chấn động Liễu Sơ Dương và Lạc Hành Quân, dù biết đối phương không hề có hảo ý với họ, đối phương đã chấp nhận thái độ đối với họ rồi là họ chẳng cần phải kính nể nữa, vậy mà cả hai khiếp hãi như thường, đủ biết oai khí của Kỳ Hạo chẳng phải nhỏ. Cả hai lập tức dừng chân lạị
Liễu Sơ Dương trầm giọng hỏi:
– Thế huynh đã là một công chứng nhân, tại sao bỗng nhiên xuất thủ can thiệp vào việc của bọn tại hạ?
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Câu đó, sao các ngươi không hỏi cái mụ tàn phế kia mà lại hỏi nơi bổn tòả
Hắn trầm nghiêm, lạnh lùng tiếp:
– Mụ ta có muốn động thủ, ít nhất cũng hỏi qua bổn tòa xem bổn tòa có đồng ý hay không mới được chứ? Ai cho phép mụ ngang nhiên xuất thủ? Thế bổn tòa có mặt nơi đây để làm gì?
Liễu Sơ Dương đuối lý. Lão phải công nhận là phần quấy về phần vợ lãọ
Lão thở dài, không thể xuất thủ tấn công Bốc Thượng Xuân, đành cúi mình xuống, bế bà vợ lên mang về chiếc ghế, đặt bà ngồi yên như cũ.
Thần sắc của Kỳ Hạo hết sức nghiêm lạnh. Hắn quắc đôi mắt sáng như sao nhìn Lạc Hành Quân, như trút trọn niềm căm hận lên đầu bà, bởi dù sao thì bà cũng là chủ nhân của địa điểm, bà lại còn là vị niên trưởng trong bọn, bà phải lãnh trách nhiệm về hành động của bất cứ ai trong trang viện nàỵ
Một Quan Sơn Nguyệt vô lễ, hắn chưa trị tộị Một Lạc Tương Quân vô lễ, hắn vừa cảnh cáo, kế tiếp bà ta và Liễu Sơ Dương lại khinh thường sự có mặt của hắn, phóng túng hung hãn. Dĩ nhiên, hắn phải hận. Hắn nhìn bà đăm đăm làm bà lạnh người, không dám chịu đựng ánh mắt đó, phải cúi đầu né tránh.
Kỳ Hạo lại chuyển ánh mắt sang Quan Sơn Nguyệt, nhìn chàng một lúc lâu, đoạn gọi Bốc Thượng Xuân, thốt:
– Lão Bốc ơi! Bổn tòa sợ ngươi bại đấy!
Bốc Thượng Xuân khi nào lại tin như vậy được, vội lắc đầu đáp:
– Chưa hẳn là lão phu bại đâu, công tử! Công tử có thể chờ một lúc nữa chứ? Chờ xem cái hậu quả của đạo chỉ phong như thế nào!
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Cần gì phải chờ? Chỉ lực của ngươi, trước kia thì còn có hiệu dụng thật đấy, nhưng hiện tại thì, bổn tòa chẳng thấy lưu lại một dấu vết nào nơi cơ thể của hắn.
Bốc Thượng Xuân nhìn Quan Sơn Nguyệt kỹ hơn một chút. Lão nhận ra chàng ung dung như thường, khí định thần nhàn, chẳng tỏ vẻ gì là khó chịụ Bất giác lão sững sờ, rồi lão thất vọng.
Kỳ hạo bắt đầu lưu ý đến Quan Sơn Nguyệt, cho rằng chàng có thực tài, chứ trước đó thì hắn khinh thường chàng và hắn đinh ninh là Bốc Thượng Xuân hạ chàng rất dễ dàng. Do đó, hắn đổi thái độ đố với chàng ngaỵ Hắn hướng sang chàng, gật gật đầu như tán thưởng khả năng của chàng, rồi hỏi:
– Các hạ khá lắm, bổn tòa thành thật khen ngợi đó. Bổn tòa có điều này khó hiểu, muốn nhờ các hạ giải thích, chẳng hay các hạ có sẵn lòng hay chăng?
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên đáp:
– Là công chứng nhân, các hạ có quyền hỏi!
Kỳ Hạo lắc đầu:
– Không, không phải vậy đâu! Công chứng nhân chỉ có quyền phán định thắng bại giữa song phương hoặc ngăn chận ngoại nhân vô cớ chen vào vụ thôi, còn ngoài ra thì tại hạ không có quyền đến bất cứ sự việc nào không liên quan đến cuộc tranh chấp. Cho nên, câu hỏi của tại hạ, tùy các hạ ứng đáp thì đáp, không ứng thì thôi, tại hạ không cưỡng bức được.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Thực sự thì, tại hạ đối với các hạ, chẳng có một thiện cảm nàọ Tuy nhiên, nghĩ vì các hạ chấp pháp có phần nào công bình, do đó tại hạ không đành cự tuyệt, có thể đáp câu hỏi cũa các hạ nếu chẳng có gì khó khăn trở ngại do câu hỏi đặt nên vấn đề. Vậy các hạ cứ hỏị
Kỳ Hạo thoáng biến sắc. Lời nói của Quan Sơn Nguyệt làm cho hắn bất mãn phần nàọ Lời nói đó, chứng tỏ Quan Sơn Nguyệt khinh thường hắn, bất chấp oai khí của hắn, cao hứng thì đáp câu hỏi, không thích thì thôị Đến bọn Lạc Hành Quân còn phải nể trọng hắn, huống hồ Quan Sơn Nguyệt?
Tuy nhiên, hắn cố dằn lòng, trầm giọng hỏi:
– «Xuân Dương Chỉ Pháp» của lão Bốc, từ xưa đến nay, mỗi lần phát xuất là mỗi lần đắc thủ, chẳng khi nào vô hiệu như hiện tạị Chẳng hay các hạ dùng phương pháp gì hóa giải chỉ pháp đó trở thành vô hiệủ
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Trước khi giải thích sự thắc mắc của các hạ, tại hạ xin được biết, cái tánh chất thực sự của «Xuân Dương Chỉ Pháp» như thế nàỏ Các hạ giải bày cho tại hạ hiểu rõ, sau đó, tại hạ sẽ nói đến phương pháp hóa giảị
Hỏi như thế, tức nhiên hỏi Bốc Thượng Xuân, dù Quan Sơn Nguyệt đang đối diện với Kỳ Hạọ
Nhưng Kỳ hạo làm gì phân tách một môn học của kẻ khác? Cho nên, Bốc Thượng Xuân phải đáp thay Kỳ Hạọ
Lão «hừ» một tiếng, hỏi lại:
– Chẳng lẽ ngươi không nghe một cảm giác nào, khi chỉ lực của ta chạm vào mình ngươỉ
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Cảm giác, dĩ nhiên là phải có, nhưng nó ngắn quá, nó vừa thoáng hiện là tan biến ngay, cái cảm giác đó mường tượng sức nóng của ánh Xuân Dương chiếu nơi lưng, nghe nhột nhột như có một con sâu bò ngo ngoẹ
Bốc Thượng Xuân hỏi gấp:
– Rồi sau đó?
Quan Sơn Nguyệt tiếp:
– Sau đó, ta chẳng còn nghe gì nữạ Ta cứ cho là vừa mơ mộng một chút vậy thôị
Chàng lại cười, tiếp luôn:
– Theo ý ta thì ngươi nên đổi cái tên của chỉ pháp đó, cho nó hợp lý hơn.
Ngươi nên gọi là Xuân Dương Mộng Chỉ Pháp mới phải, bởi ai trúng chỉ pháp đó, đều cảm thấy như mình mơ mộng một tý ...
Bốc Thượng Xuân vừa thẹn vừa tức, không dằn tính khí được, buột miệng mắng oang oang.
Nhưng, lão chỉ mắng được mấy tiếng, Kỳ Hạo ngăn chặn liền, lão phải nín bặt, đôi mắt đăm đăm nhìn Quan Sơn Nguyệt cực kỳ phẫn nộ.
Liễu Sơ Dương thừa dịp, trút cả niềm căm phẫn chứa đựng từ lâu:
– Đó là công phu vừa dâm, vừa độc, vừa tà quái, trên đời này chẳng có công phu nào đáng khinh bỉ bằng.
Kỳ Hạo trừng mắt:
– Xú Sơn Thần! Ngươi đã có tên trong Ma Bảng, thiết tưởng không nên có cái luận điệu đó!
Liễu Sơ Dương lại nín lặng.
Quan Sơn Nguyệt thấy lão quá nể sợ Kỳ Hạo, luôn luôn bị hắn quát nạt, vội tiếp lời lão, thay lão nói lên những lời lão muốn nói nhưng không thể nói:
– Theo tại hạ nhận xét thì «Xuân Dương Chỉ Pháp» là một công phu chuyên làm mê hoặc đối phương, ai bị chỉ lực Xuân Dương trúng phải, lập tức mất hết bổn tánh ...
Kỳ Hạo cười hì hì:
– Các hạ nói đúng đó, chỗ độc đáo của lão Bốc là thế, và chỉ có thế thôi!
Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:
– Thảo nào mà tại hạ chẳng có cảm giác nào! Ngày trước, tại hạ từng bị người hạ độc dược suýt chết, may nhờ một vị tiền bối cho uống thứ thuốc «Băng Xạ Toàn Mạng Tán», thuốc ấy chẳng những giải trừ chất độc mà còn làm cho cái tâm được thanh sáng diệt luôn tánh dục ...
Kỳ Hạo gật đầu:
– Thì ra là vậy! Bây giờ tại hạ minh bạch rồi!
Hắn day qua Bốc Thượng Xuân, cao giọng thốt:
– Lão Bốc! Ngươi nên nhận bại cho rồi!
Bốc Thượng Xuân cúi đầu không nói chi cả.
Kỳ Hạo tiếp:
– Y theo thông lệ của các ngươi, kẻ nào bại phải lủi đi như chuột. Lão Bốc, ngươi đã bại rồi, còn ở đó làm chi nữả
Chị em họ Lạc toan nói gì đó, Kỳ Hạo khoát tay ngăn chận:
– Khỏi cần phải nói, bổn tòa đã biết ý tứ các ngươị Điều oan nghiệt giữa các ngươi và lão Bốc, chẳng ai cởi mở được, do đó ta thay mặt các ngươi, an bày sự việc, trong ba tháng nữa, các ngươi hãy đến Thần Đàn, ta sẽ có cách liễu kết sự việc của các ngươi, sau đó mình sẽ luận bàn về những vấn đề khác.
Lạc Hành Quân thấp giọng:
– Đa tạ Ma Quân!
Lạc Tương Quân và Liễu Sơ Dương không nói gì.
Kỳ Hạo lại cười hì hì:
– Có chi đâủ Chúng ta là người đồng bảng, cái lẽ chiếu cố nhau là tất nhiên rồi, khó khăn hơn nữa cũng phải làm, huống hồ một việc rất nhỏ mọn?
Hắn vẫy taỵ
Bốc Thượng Xuân rời khách sảnh trước.
Kỳ Hạo day qua Quan Sơn Nguyệt, chào biệt:
– Tại hạ phải cáo từ, mong rằng chúng ta sẽ trở thành một đôi nằng hữu thân thiết! Cái việc hôm nay, đúng là một hạnh ngộ vậy đó!
Quan Sơn Nguyệt đáp lễ, thốt:
– Các hạ chỉ xuất thủ một lần, tuy chỉ ngăn chận một cuộc ác chiến xảy ra, song cũng đủ chứng tỏ vũ công cao tuyệt, tại hạ hết sức khâm phục và hy vọng có một ngày nào đó, được lãnh giáo cái bản lãnh quán thế của các hạ.
Song phương đối đáp nhau, nghe ra rất nhã nhặn, song bên trong có hàm cái ý hứa hẹn một cuộc gặp gỡ vào một ngày nào đó, và khi gặp gỡ nhau, họ sẽ có một trận thư hùng.
Hiểu cái ngụ ý của song phương trong mấy lời vắn tắt, Liễu Sơ Dương và chị em họ Lạc hết sức khẩn cấp.
Nhưng, tiếng nói đã buông ra rồi làm sao lấy lại kịp, cả ba chỉ đưa mắt ngầm ra hiệu cho Quan Sơn Nguyệt nên dịu phần nào thái độ, ít nhất cũng tạm vào lúc này, họ mong chàng sửa chữa lại cái gì đã căng thẳng, dấu diếm bớt đi sự khiêu khích đối phương.
Quan Sơn Nguyệt lờ đi như chẳng trông thấy chi cả.
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Giả như các hạ muốn chỉ điểm tại hạ hôm nay, cũng thuận tiện lắm. Song, trong tương lai, có thiếu chi cơ hội thì vội gì chúng ta phải làm cái việc chưa đáng làm? Các hạ yên trí chờ, chắc chắn là phải có lúc hy vọng của các hạ được thực hiện!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại hạ có nhiều sự việc phải lo, chưa biết lúc nào rỗi rảnh, giả như các hạ có nhã ý giúp tại hạ học hỏi thêm một vài điều hay thì các hạ hãy cho một hạn kỳ, tại hạ sẽ cố thu xếp công việc để có thời gian, tìm đến các hạ, bái kiến lãnh giáọ
Kỳ Hạo cười nhẹ:
– Hạn kỳ? Thế các hạ chóng quên quá! Ngày ước hội không xa, nơi ước hẹn là Đại Tán Quan, các hạ đã quên, tại hạ xin nhắc lại một lần, mong các hạ đừng vì lý do gì mà thất hẹn!
Quan Sơn Nguyệt giật mình kêu lên:
– Các hạ là Phi Lạc Đà?
Kỳ Hạo đã tung mình theo Bốc Thượng Xuân rồi, tràng cười sang sảng tiếp theo là một câu xác nhận:
– Không phải Phi Lạc Đà! Tại hạ là Phi Đà Lệnh Chủ, các hạ gọi sái một tiếng thôi!
Câu nói dứt, bóng người cũng đã khuất.
Khách sảnh trở về im lặng nặng nề.
Quan Sơn Nguyệt thở dài thốt:
– Không ngờ hắn lại là Phi Lạc Đà! Hắn tự xưng là Phi Đà Lệnh Chủ!
Lạc Hành Quân biến sắc mặt, nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, cất tiếng:
– Già có việc này, nhờ Quan thiếu hiệp ...
Cái lối xưng hô của bà thay đổi dần dần, từ hai tiếng các hạ đến hai tiếng hiền điệt, rồi bây giờ bà lại gọi chàng là thiếu hiệp ...
Sự thay đổi đó, do thói quen của khách giang hồ, sáo ngữ nằm sẵn nơi đầu môi hay vì sự nhận thức giá trị của con người Quan Sơn Nguyệt mà có?
Thoạt đầu, bà khinh thường Quan Sơn Nguyệt, sau đó bà bắt đầu chú ý đến chàng, khi chàng đánh ngã Bốc Thượng Xuân, cuối cùng Kỳ Hạo có ý gờm chàng, mà bà thì nể oai Kỳ Hạọ Do đó bà gọi chàng là thiếu hiệp chăng?
Còn sắc mặt của bà biến đổi chẳng phải bà lo ngại vì việc sắp nói ra với Quan Sơn Nguyệt, thần sắc của bà biến đổi vì các diễn tiến vừa qua, Kỳ Hạo đã đi rồi mà bà chưa lấy lại bình thường.
Quan Sơn Nguyệt vội đáp:
– Tiền bối có điều chi phân phó xin cứ nóị
Lạc Hành Quân chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Già này hiếm hoi, chỉ sanh được một gái là Tiểu Hồng, vì gia vụ đa đoan, già không chu toàn được việc giáo huấn thành ra nó hư hỏng, lắm lúc ương ngạnh, cãi lời người trưởng thượng, có những hành động ngông cuồng. May thay, thiếu hiệp từ đâu đến, lại có cảm tình với gia đình già, già nghĩ ra, nếu như thiếu hiệp chiếu cố đến nó, dùng lời hay lẽ phải cảm hóa nó cho nên ngườị
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi kêu lên:
– Sao tiền bối có ý nghĩ đó ...
Lạc Hành Quân thở dài tiếp:
– Thiếu hiệp đã chẳng chính mắt trông thấy đó saỏ Trong ba tháng nữa đây, khi có lịnh triệu tập, bọn của già phải lên đường, mà đi rồi lại chắc gì có hy vọng trở về? Như vậy, con đường tương lai của Tiểu Hồng cầm như mờ mịt sau thời gian đó, còn ai đâu hướng dẫn nó đi đúng nẻo nghĩa nhân? Cho nên ...
Bà lại dừng, rồi nhìn chàng, ánh mắt có vẻ khẩn thiết, một phút sau, buông tiếp:
– Giả như thiếu hiệp nghĩ đến đoạn giao tình của già đối với lịnh sư ngày trước thì thiếu hiệp nên chiếu cố đến nó ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, tỏ vẻ không hiểu, trầm giọng hỏi:
– Tại sao các vị phải cúi đầu tuân phục theo lịnh của gã thiếu niên đó? Các vị thuộc hàng tiền bối, còn hắn thì bất quá là một kẻ hậu sanh, dù hắn có thừa kế sư nghiệp của ai đi nữa, hắn vẫn là kẻ dưới đối với các vị mà? Hắn đâu có thể hống hách ỷ mình có một thân phận rồi ra lệnh cả đến những bậc trưởng thượng phải thi hành?
Lạc Hành Quân đưa mắt thoáng qua Lạc Tương Quân và Liễu Sơ Dương, lại thở dài, thốt:
– Thiếu hiệp hỏi tại saỏ Không thể nói được đâụ Khó nói lắm thiếu hiệp ơi! Giả như thiếu hiệp muốn hiểu sự tình thì trong kỳ ước hội sắp tới đây với Ma Quân Kỳ Hạo tại Đại Tán Quan, thiếu hiệp cứ hỏi ngay hắn. Già nghĩ rằng, trên thế gian này, nếu có thể giảng giải được sự tình thì người đó chính là hắn, duy nhất chính là hắn mà thôị
Quan Sơn Nguyệt toan hỏi điều gì đó, Lạc Hành Quân đã hướng sang em gái và em rể tiếp:
– Hiền muội và Liễu đệ! Hai người ngay từ bây giờ hãy trở về, chuẩn bị sẵn sàng. Tuy là ba tháng, ngu thơ thấy thời gian chẳng rộng chi lắm đâu, bởi chúng ta có trăm ngàn chuyện phải chu toàn trước ngày ước hẹn, lo cho xong tất cả mọi chuyện trong thời gian ngắn đó, cũng chẳng phải dễ dàng gì!
–––– oo –––– Thời gian vào tiết thu, gió lạnh mang cái vẻ tiêu sơ từ bốn phương về phủ trùm lên vạn vật, vẻ tiêu sơ càng rõ rệt những cảnh trí tiêu điều, hoang vắng ...
Và Đại Tán Quan càng phô vẻ tiêu sơ với hiện thân cổ lỗ qua những công trình kiến trúc từ hàng trăm năm trở lên. Có cái cổ lỗ nào không tiêu điều, dù đang lúc thạnh xuân, thì nói chi vào tiết thu niên, gió đùa lá rụng, cây cỏ xác xơ úa vàng?
Đại Tán Quan, một cổ chiến trường!
Chiến trường là nơi tan nát diễn ra, qua cơn tan nát đến lúc hoang tàn, huống hồ là cổ? Huống hồ là vào tiết thu thiên?
Đại Tán Quan, nơi ước hẹn của hai Lệnh Chủ, mang một dấu hiệu Lạc Đà.
Một là Minh Đà, một kia là Phi Đà!
Phi Đà Lệnh Chủ chưa thấy xuất hiện, Minh Đà Lệnh Chủ đã có mặt rồị
Thái dương đã chếch về Tây, Quan Sơn Nguyệt ngồi trên lưng ngựa nhìn bóng mình ngã dài theo con đường vắng vẻ, cảnh im lìm nhưng lòng chàng thì đang nổi cơn giông.
Chàng khẩn trương ra mặt. Khẩn trương vì cuộc ước hội này sẽ mang điều lợi hay điều hại cho chàng. Khẩn trương vì nhìn quanh quẩn, chàng vẫn chưa thấy Phi Lạc Đà.
Thắng, bại, đành là việc so tài, chàng không hề suy nghĩ đến cho lắm nhưng dù sao thì thắng cũng vẫn hơn bạị
Thắng hay bại là do yếu tố thực tàị
Nhưng, yếu tố đó, chưa hẳn là tuyệt đối, bởi nhân số cũng có thể định đoạt được thắng hay bạị
Nhân số? Chàng nào có mang viện thủ theo mình?
Mà, chắc gì Phi Lạc Đà lại đến đơn thân, độc lực? Hắn, là người ước hẹn, hắn là địa chủ thì biết đâu hắn chẳng an bày những phương tiện ám muội, tranh thủ phần thắng?
Chàng đã đến từ sáng sớm, chàng đã đợi suốt một ngày dàị Bây giờ, tà dương đã chếch khỏi đầu cây, hoàng hôn sẽ xuống gấp, song Phi Lạc Đà vẫn chưa xuất hiện. Chàng lẩm bẩm:
– Hắn thất ước?
Như đã thỏa thuận từ trước, Quan Sơn Nguyệt đến Đại Tán Quan không đi một mình, bên cạnh chàng có Lạc Tiểu Hồng cùng theo, và dĩ nhiên có người bạn đồng hành, tình nguyện ngay từ lúc đầu là Lưu Tam Tháị
Lạc Tiểu Hồng đã bỏ cái tính ba hoa thường ngày, trở nên trầm lặng đáng ngợị
Giả như không có sự thỏa thuận từ trước, hẳn Lạc Tiểu Hồng cũng phải đi theo Quan Sơn Nguyệt. Bởi, ba hôm sau ngày hội diện với Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân, Lạc Hành Quân và vợ chồng Lạc Tương Quân âm thầm rời gia trang đi đâu không rõ. Nàng, tứ cô vô thân, ngoài Quan Sơn Nguyệt ra, nàng chẳng còn quen biết một ai khác trên cõi đời nàỵ
Vì có sự ủy thác của Lạc Hành Quân, Quan Sơn Nguyệt phải mang Lạc Tiểu Hồng theo mình đến Đại Tán Quan, và có lẽ chàng còn mang nàng cùng theo chàng khắp bốn phương trời trong một khoảng thời gian lâu lắm ...
Nàng sầu muộn vì gia đình, chàng lại bận lo nghĩ về việc sắp đến, cả hai không ai đàm đạo với ai, dần dần rồi thành quen, bây giờ thì nàng có lẽ trầm tịnh lắm rồị
Chốc chốc, Quan Sơn Nguyệt lại thốt:
– Hắn đến không? Chẳng lẽ hắn không đến?
Lưu Tam Thái còn biết đối đáp làm saỏ
Bỗng có tiếng vó ngựa vang lên từ xa xa vọng đến.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, kêu khẽ:
– Đến rồi! Tại sao hắn đến trễ thế? Hắn muốn hội diện lúc ban đêm saỏ
Vó ngựa nghe dần dần gần, không lâu lắm, hai con ngựa xuất hiện ở đầu đường, ngồi trên lưng ngựa là hai nam nhân.
Tuy hai kỵ sĩ còn xa, Quan Sơn Nguyệt cũng nhận ra là không có Phi Lạc Đà trong số.
Hai người đó, một vị là tiêu đầu Song Anh Tiêu Cục, tên Tôn Thất, còn người kia là Lữ Vô Uùy, Chưởng môn nhân phái Chung Nam.
Quan Sơn Nguyệt biết ngay Lữ Vô Úy đến đây không ngoài mục đích hội diện với Phi Lạc Đà, báo hận cho các đệ tử phái Chung Nam. Chàng hết sức lấy làm lạ, tại sao Lữ Vô Úy lại đến một mình, bởi có Chưởng môn nhân nào xuất ngoại lại chẳng mang theo một số đệ tử, ít nhiều tùy ý nhưng phải có mới hợp lý.
Chàng lướt tới, nghiêng mình, vòng tay chào:
– Chưởng môn nhân được bình an chứ?
Rồi chàng hỏi tiếp:
– Chắc Chưởng môn nhâ đến đây là để gặp Phi Lạc Đà? Hắn thất ước, tại hạ chờ suốt ngày nay, chẳng thấy hắn xuất hiện.
Lữ Vô Úy lắc đầu:
– Hắn không thất ước đâụ Hắn sẽ đến đây trong phút giây!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Làm sao Chưởng môn nhân biết được?
Lữ Vô Úy trầm buồn gương mặt:
– Trong chuyến đi này, lão phu có mang theo sáu cao thủ trong bổn môn, ngờ đâu vào giờ Ngọ hôm nay, tất cả sáu người đều bị giết một cách thê thảm ở dọc đường. Người giết họ là một nữ nhân, cứ theo lời Tôn Thất thì nữ nhân đó là Phi Lạc Đà ...
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Phi Lạc Đà? Phi Lạc Đà là một nữ nhân?
Lữ Vô Úy thở dài, ánh mắt của lão thoáng mờ vì màn lệ mỏng vừa lên:
– Phải! Một nữ nhân! Vũ công của nàng vừa ngụy dị, vừa cao siêu, bọn cao thủ của lão phu có đến sáu người, nàng chỉ một mình, mà qua bốn năm chiêu thôi, nàng hạ sát tất cả. Còn lão phu ... nếu nàng chẳng nới tay cho, hẳn lão phu đã ra người thiên cổ rồi đó!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ, trầm lặng giây lâụ
Lữ Vô Úy tiếp:
– Giết xong sáu đệ tử của lão phu, Phi Lạc Đà nhờ lão phu đến đây thông tri cho Lệnh chủ rõ, vì Minh Đà Lệnh và kim nhân là tính vật của Lệnh chủ chưa được chuyển đến nàng kịp thời, do đó nàng phải đợi và đến nơi hẹn với Lệnh chủ trễ một chút.
Lão ngừng một chút, lại tiếp:
– Nàng cho biết, có lẽ lúc trăng lên nàng sẽ có mặt tại đâỵ
Quan Sơn Nguyệt vẫn nín lặng.
Lữ Vô Úy cho rằng chàng lạnh nhạt với lão, nên bất bình hằn học:
– Lão phu nghe nói, Lệnh chủ vì cao nghĩa, không sợ oán thù, xuất đầu lộ diện chống đối với Phi Lạc Đà cứu nạn hai môn nhân của lão phu, do đó lão phu chẳng quản đường xa, tìm đến đây mong gặp Lệnh chủ, để yêu cầu Lệnh chủ báo thù cho bổn môn, ngờ đâu Lệnh chủ có thái độ quá hững hờ, chừng như khinh miệt lão phu ...
Quan Sơn Nguyệt thấy Lữ Vô Úy hiểu lầm chàng, vội đáp:
– Chưởng môn nhân nghĩ sai rồi, tại hạ nào dám lạnh nhạt với Chưởng môn nhân? Chẳng qua, tại hạ đang lúc suy tư trầm trọng nên không kịp thời đối đáp với Chưởng môn nhân đó thôị Chưởng môn nhân có biết không, tại hạ hết sức hoang mang khi nghe rằng Phi Lạc Đà là một nữ nhân ...
Lữ Vô Úy giật mình:
– Thế ra, Phi Lạc Đà có chân có giả? Sao lại kỳ thế? Sao lại có nhiều Phi Lạc Đà?
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Sự tình ra sao, thực tại hạ chưa được hiểu rõ, có điều tại hạ đã hội kiến với Phi Lạc Đà một lần rồi và chính là một nam thiếu niên, hắn có cái tên là Kỳ Hạo ...
Lữ Vô Úy cãi:
– Không phải đâu! Chính mắt lão phu trông thấy, Phi Lạc Đà là một nữ nhân mà!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Dù Phi Lạc Đà là nam hay nữ, điều đó chẳng quan hệ, cứ biết hắn là một kẻ hung ác, tàn bạo, chúng ta có bổn phận phải trừ diệt để cứu nguy cho người đời ...
Lữ Vô Úy tỏ vẻ cảm kích:
– Chính bổn môn tước hết tri ân Lệnh chủ vô cùng. Vì chính nghĩa, Lệnh chủ ra tay trừng hung, trị bạo ...
Bỗng có tiếng lục lạc vang lên từ xa xa vọng lạị Tiếng lục lạc của lạc đà, phàm ai có sống trên sa mạc, đều nhận ra nhất định không lầm với tiếng lục lạc ngựạ
Vầng trăng cũng đã lên rồị
Quan Sơn Nguyệt khích động vô cùng.
Đợi tiếng lục lạc của lạc đà đến gần, chàng cao giọng gọi:
– Quan Sơn Nguyệt ở tại đây, bằng hữu! Quan Sơn Nguyệt chờ bằng hữu đã lâu rồi!
Một con lạc đà có thân vóc cao lớn, sắc lông trắng như tuyết xuất hiện trong tầm mắt của Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt vội nhảy xuống đất, đứng bên cạnh con ngựa của mình, cao giọng tiếp:
– Tại hạ cứ nghĩ, bằng hữu bị cản trở làm sao đó, chắc không thể đến nơi ước hẹn ...
Nhưng, người đâu chẳng thấy, chỉ thấy độc có một con lạc đà đó thôị Mà con vật đó, chính là vật của chàng. Chàng liền bước tới cạnh nó, vuốt ve nó. Nó lè lưỡi liếm mặt chàng, nó đưa má chà sát vào mặt chàng, tỏ vẻ an úy vô cùng, sau thời gian chủ và vật xa cách quá lâụ
Chàng lẩm bẩm:
– Cuối cùng rồi ta và ngươi cũng trùng phùng với nhau! Ai đưa ngươi đến đây với tả Người đó ở đâủ
Trong khi chàng và lạc đà mầng nhau, trong bóng tối, có một người nhìn chàng. Người đó sau một lúc, cất tiếng:
– Quan Sơn Nguyệt! Chúng ta bắt đầu so tài là vừa!
Quan Sơn Nguyệt giật mình ngẩng mặt nhìn lên.
Câu nói đó, đúng là âm thinh của một nữ nhân!
Một nữ nhân cất tiếng thách thức chàng, trong khi cái người chàng chờ đợi là một nam nhân! Thế là nghĩa làm saỏ Hai Phi Lạc Đà? Đâu là Phi Lạc Đà thật sự, đâu là Phi Lạc Đà giả mạỏ
Trước mắt chàng, một nữ nhân hiện rõ, nữ nhân lại chính là Khổng Linh Linh!
Chàng kêu lên thất thanh:
– Cô nương? Có thể là cô nương được saỏ
Khổng Linh Linh cười nhạt:
– Tại sao không thể là tả Ngươi là Lệnh Chủ Minh Đà, dễ thường ta không thể làm một Lệnh chủ như ngươi saỏ Ta cũng có thể làm Phi Đà Lệnh Chủ được chứ?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một thoáng:
– Tại hạ từng gặp một người, người đó tên là Kỳ Hạo, người đó cũng xưng là Phi Đà Lệnh Chủ ...
Khổng Linh Linh cười lạnh:
– Phải! Sự thật là vậy! Phi Đà Lệnh Chủ chẳng nhất thiết phải là một người duy nhất. Khi thì ta, khi thì hắn, hắn chính là ...
Quan Sơn Nguyệt hoang mang vô tưởng ...