Ông Lê Út Long - một cựu TBPQ đặc biệt có ấn tượng mạnh mẽ về những tên ác quỷ khoác áo choàng trắng ở TGTBPQ. Ông nói: "Những tên giám thị là một êkíp khủng bố tù ác đã đành. Đằng này, đội quân thầy thuốc của trại giam cũng ác không kém. Chính lính quân y cũng góp phần đưa tù binh ra Đồi 100 và Đồi 37 lên tới con số hàng ngàn tại bãi tha ma hải đảo".
Chính những thầy thuốc, lính quân y - "đội quân áo choàng trắng" đã tiếp tay biến trạm xá, bệnh viện thành nhà xác.
Nhiều cựu TBPQ trực tiếp nếm mùi trạm xá, bệnh viện của trại giam kể: "Tù binh xin thuốc phải chào nghiêm, xưng số tù, là tù binh Cộng sản xưng danh tánh, thầy thuốc dùng cây can (gậy) ruột mít gõ vào chỗ đau, gõ vào ngực và ghi thuốc cho vài viên. Thường khi tù binh được nhận thuốc HR trị bệnh nóng lạnh, tiêu chảy, ghẻ lở, đau xương, đau mắt, đau đầu v.v...
Thuốc Nivaquin trị sốt rét thì không thiếu. Tù nhân uống ngoài sân. Chúng bắt tù binh nhai không có nước trước uy vũ của giám thị. Có tù binh hấp hối, quân y buộc ký tên chiêu hồi thì mới chích thuốc, tù binh lắc đầu nhưng tắt thở chết ngay trong giây lát. Tù binh chưa chết hẳn thì bị bỏ vào nhà xác là thường tình vì tờ trình "hai đồng bạc" đã báo xong lên thượng cấp, được mang tù ra Đồi 100. Tù bị chích thuốc ngủ hoặc bị chích thuốc kích thích nhịp tim dẫn đến cái chết nhanh chóng.
Đối với bệnh trúng gió, khó thở trong trại giam, nhiều tù binh được khiêng đi trạm xá không thấy về. Chúng đặt ra nội quy tù binh khai bệnh phải nhanh, cấm cõng nhau, dìu nhau. Tù binh khai bệnh không đủ sức, nói nhỏ bị chúng đạp vào ngực, vào bụng đau nhói, ngất xỉu là chuyện thường xảy ra. Tên thiếu úy Dội - một sĩ quan mặc áo choàng trắng đã ra một toa thuốc trị bệnh cho tù binh đau thận bằng cách cho uống thuốc an thần. Bệnh nhân ngủ, hắn cho chích thuốc Strichine vào mạch, dẫn đến bệnh nhân chết ngay tại chỗ".
Chỉ có ở TGTBPQ mới nghe được những câu chuyện rất lạ. Anh Bích quê ở Nam Định, trước khi bị địch bắt là lính đặc công hoạt động ở nội thành Sài Gòn. Anh đã hai lần chui ra khỏi hàng rào dày đặc kẽm gai của trại giam. Và cả hai lần anh đều bị địch bắt lại. Biết thế nào anh cũng vẫn sẽ vượt ngục bằng cách này, tên chỉ huy trưởng vào tận trại giam tuyên bố anh là người anh hùng để hắn tôn sùng. Và thực sự chúng tỏ thái độ kính nể, không hề dám đánh đập anh...
Ông Trần Tiến Đan - cựu TBPQ kể: "Tại Phân khu B5, anh em đã tuyệt thực ba ngày, ngồi giữa trời đòi Bộ chỉ huy trại giam xuống giải quyết, nhưng chúng không xuống. Tôi còn nhớ anh Ba Sơn - người Thanh Hóa bước sang ngày thứ 4, tự anh đưa ra một cái bàn, đặt trước mặt hàng ngàn anh em, rồi tự anh mổ bụng moi ruột ra, bắt lũ địch phải xuống giải quyết.
Phong trào đấu tranh tập thể của các trại giai đoạn này rất sục sôi và quyết liệt. Mặc cho chúng cứ đánh xối xả, anh em vẫn cứ ùn ùn xông ra, hô vang khẩu hiệu "Đả đảo đế quốc Mỹ, đả đảo bè lũ Thiệu - Kỳ bán nước". Khắp trại giam âm vang và rung động một trận chiến tay không xông tới trước họng súng của quân thù. Nhờ đấu tranh mạnh, từ cấp sĩ quan các trưởng khu, chỉ huy trưởng và các cố vấn Mỹ lần lượt phải tới từng trại giam giải quyết từng yêu sách của tù nhân".
Chỉ ở TGTBPQ mới có những tù binh bị đưa ra Tòa án Quân sự vì những hành động dũng cảm, táo bạo. Để trừng trị bọn trật tự, mật báo đã góp phần đắc lực với bọn chiến tranh chính trị và quân cảnh trong việc xô đẩy hàng ngàn tù binh vào các khu "Tân sinh hoạt", tức các trại chiêu hồi và việc hàng vạn anh em phải ngã xuống, bị thương tật, tàn phế; một số tù binh đã nhận nhiệm vụ trừng trị bọn phản bội.
Có nơi chỉ chủ trương cảnh cáo, có nơi chủ trương diệt vài ba tên rồi đấu tranh đưa chúng ra khỏi phân khu tù binh, có nơi phải dùng cả lực lượng xung kích diệt chúng rồi cả phân khu kết hợp đấu tranh. Có lúc anh em tù binh diệt chúng nhưng không đứng ra nhận. Về sau, trong trại giam bố trí người nhận trách nhiệm diệt chúng để địch không đánh anh em tràn lan.
Những người nhận trách nhiệm diệt bọn trật tự là những tù binh rất dũng cảm. Địch đánh đập các anh dã man, có người bị chúng đánh chết ngay trên bàn tra khảo. Sau đó, chúng đưa anh em ra Tòa Quân sự Cần Thơ. Chính ở những phiên tòa này, những tù binh Cộng sản kiên cường đã khiến địch vô cùng lúng túng, khiếp sợ.
Ông Trần Ngọc Long trong vụ giết tên trật tự Trần Văn Tây ở B4 đã dõng dạc tuyên bố: "Giết kẻ phản bội Tổ quốc là không có tội". Bị tuyên án 20 năm tù, đồng chí Võ Ngọc Đảnh nói: "Chế độ các ông có tồn tại 20 năm không mà xử tù tôi 20 năm". Đồng chí Nguyễn Chí Công cùng Nguyễn Ngọc Điền và 3 tù binh nữa ra tòa vì cảnh cáo 2 tên trật tự ở Phân khu C8 gần cuối năm 1970.
Trước Tòa án Quân sự, đồng chí Công tuyên bố: "Chúng tôi là chiến sĩ Giải phóng quân, chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược để giải phóng miền Nam Việt Nam, Tòa án Quân sự ở Cần Thơ không có đủ tư cách, thẩm quyền xét xử chúng tôi!". Tên đại tá chánh án vỗ bàn nạt nộ. Đồng chí Nguyễn Ngọc Điền khom xuống lấy chiếc dép cao su đang mang ném thẳng vào mặt tên chánh án.
Có tất cả 56 TBPQ tham gia 21 vụ diệt trật tự, bị kết án 5 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm, cả án tử hình, bị đưa về Trại giam Chí Hòa hoặc đày ra Côn Đảo. Vừa đến cầu tàu Côn Đảo, tên trưởng trật tự dẫn bọn tay chân đến định khám xét, đánh đập phủ đầu anh em.
Đồng chí Phạm Thanh Cường, đại diện cho toàn thể anh em, đứng dậy gằn giọng nói: "Chúng tôi là những tù binh ở Phú Quốc đã từng diệt bọn trật tự ở Phú Quốc nên bị đày ra đây. Chúng tôi không sợ gì cả. Chúng tôi ở tù, bị kiểm soát chặt chẽ, làm gì có vũ khí bén nhọn. Các anh muốn yên thân thì đừng đụng tới chúng tôi!". Trước khí phách của nhóm TBPQ, địch kiêng nể, không dám khám xét. Đi đến đâu, TBPQ cũng ngẩng cao đầu...
Ở TGTBPQ, có những cuộc vượt ngục vô tiền khoáng hậu đã diễn ra. Tháng 10/1968, một chiếc bật lửa Zippo, 19 đôi tù binh khiêng thùng cầu đi đổ. Những tên trung sĩ tham lam nhào vô định lấy chiếc bật lửa, bị anh em tù binh tấn công. Anh em tiếp tục dùng đòn khiêng thùng đánh gục những tên quân cảnh, cướp súng chạy.
Các hướng anh em "đổ thùng" đều có địch canh gác. Anh em chạy về hướng tây bắc - chỉ 400m là đã tới rừng nhum - nơi địch không thể bắn thẳng vào toán tù binh vượt trại, do sợ đạn lạc vào số đang coi đốn cây. Vào được rừng nhum, mối nguy hiểm của toán tù vượt ngục lại là lũ dơi quạ. Các anh đến đâu, bọn dơi quạ tốc ổ bay tứ tung. Pháo biển của địch cứ rà theo dơi quạ mà nã vào rừng.
Suốt mấy ngày bị vây bủa trong rừng, nhóm tù binh phải nhịn đói, nhịn khát. Trên trời, máy bay địch vừa bắn, vừa kêu gọi hàng inh ỏi. Dưới đất, bộ binh địch lùng sục. Ngoài biển, pháo tàu biển nã vào. Hầu hết anh em tù binh bị mệt do uống nước dừa. Riêng anh Lập ở Bến Tre có kinh nghiệm nên không uống, không ăn nước dừa, chỉ ăn cá sống mà anh mò được với ớt sừng sim. Nhờ vậy mà anh khỏe nhất. Ít hôm sau, các anh bắt được liên lạc với cơ sở cách mạng ở địa phương. Sau thời gian công tác, nhóm Năm Hùng, Mười Diệp vượt qua hành trình vô cùng gian nan, lần lượt vượt đảo, đi vòng qua vùng "hòn" tỉnh Kămpốt rồi trở về đất liền...
Đó là cuộc đánh diệt, cướp súng lính hải thuyền để vượt thoát của 40 tù binh Phân khu C8 vào ngày 31/8/1970. Sau thời gian nghiên cứu địa hình, anh em sắp đặt sẵn kế hoạch vượt thoát, đợi dịp địch bắt 40 anh em lên xe GMC làm lao dịch, đến dốc miếu Cô Sáu để hành động. Khi cướp được súng, anh em định rút nhưng đụng phải bọn lính bảo vệ ở trạm xá quá gần. Chúng bắn theo làm 9 anh em hy sinh và bị thương. Địch đổ quân bao vây các ngả đường. Trong đêm tối, những người tù chia thành từng tốp, lách khỏi những nơi địch phục kích.
Cựu TBPQ Nguyễn Văn Minh kể quá trình "trong cái chết đi tìm sự sống" rất đỗi gian nan: "Chúng tôi ăn lá chạy, lá bứa để có sức khỏe hành quân. Đi đến chiều ngày thứ 3 gần tới vùng giải phóng đụng trái gài của du kích nổ hy sinh 1 đồng chí (Nguyễn Văn Năng, quê xã Mỹ Hạnh, Long An). Nghe trái nổ, các đồng chí du kích xã đi tìm gặp anh em chúng tôi, cùng nhau tìm cuốc, xẻng đào hố chôn cất đồng chí Năng. Sau đó, các đồng chí du kích dẫn chúng tôi về căn cứ...".
Đó là cuộc vượt ngục bằng đường hầm của 21 tù binh Phân khu A2 đêm 20/1/1969. Số tù binh bị đem vào phòng "lao cách ly" gần 5 tháng ròng rã, ngày chiến đấu với quân thù, đêm chiến đấu trong lòng đất. Cuối cùng, họ đã đào được con đường hầm dài gần 120m và đã 21 đồng chí vượt ngục bằng con đường này.
Đêm 23/12/1971, sau 6 tháng đào hầm, 42 tù binh Phân khu A4 vượt ngục. Quá trình đào hầm vô cùng gian nan, nhiều lần có nguy cơ bị lộ, phải lấp đi, đào hầm khác. Có lần 5 người đào hầm bị ngạt gần chết, phải làm lỗ thông hơi, mỗi lỗ cách nhau 10m, lỗ thấp nhất ngay đường mương nước của phòng 3. Những người tù tìm cách khắc phục đường hầm khỏi cong vừa bảo vệ lỗ thông hơi ở các rãnh có nước... Đang đào, địch cho máy rà đường hầm chạy xung quanh trại... Khi chúng kéo qua chỗ hầm, anh em hồi hộp nín thở. May sao địch kéo đi. Có lẽ do đường hầm quá sâu, máy rà không phát hiện được.
Gần 5 tháng, anh em Phân khu A4 đào được đường hầm dài 88m, cộng thêm 25m đường hầm cong nữa là 113m, mang lên 25m3 đất, dùng 300m dây bện bằng bao gạo và quần áo rách của lính, 3 cái can, 10 quai cà mèn và cây sắt V của nhà bếp đánh thành xuổng để đào đất. Kế hoạch vượt thoát được vạch ra rất tỉ mỉ.
Ông Nguyễn Đức Hòe - cựu TBPQ, công tác ở Trường đại học Cần Thơ từng tham gia cuộc vượt ngục lịch sử năm ấy kể: "Khi kế hoạch vượt ngục đã được chuẩn bị xong, số người đi là 17 đồng chí trực tiếp đào, 6 đồng chí gián tiếp, và 7 đồng chí do Đảng ủy cho đi, tổng số là 30 người, chia làm 3 tổ - cho một đội cảm tử gồm 6 đồng chí mở đường gỡ mìn, gỡ đến đâu thì căng dây đến đó để các đồng chí đi sau lần theo dây đó mà đi. Nếu trổ cửa hầm bị lộ thì tổ cảm tử này có nhiệm vụ cướp súng của địch đánh địch cho anh em đi...
Sau khi 30 anh em xuống hầm hết rồi, còn anh em nào dám đi cứ tự do đi không hạn chế, nhưng phải giữ bí mật, không được làm lộn xộn trong phòng, địch sẽ phát hiện. Các đồng chí nào còn ở lại sẽ ngụy trang nắp hầm và chuẩn bị đối phó với địch. Giờ xuất phát đã đến, chúng tôi chuẩn bị sẵn sàng. Lúc 9 giờ, quân cảnh vào điểm danh lần đầu trong đêm, khi chúng ra khỏi cổng trại, chúng tôi lần lượt xuống hầm chờ trổ cửa ra rồi lần lượt thoát ra ngoài...".
Ở TGTBPQ, hầu như bất cứ ai cũng mong muốn được "tháo cũi xổ lồng". Khát vọng tự do khiến họ đã nảy sinh nhiều sáng kiến kỳ lạ. Bằng nhiều cách vượt ngục, 261 anh em TBPQ đã về đến căn cứ cách mạng. Cũng không ít cuộc vượt ngục thất bại. Anh em bị bắt lại, bị tra tấn tàn bạo, bị biệt giam. Nhưng trong cái chết, họ đã tìm ra sự sống...
Chiến tranh kết thúc, đã gần 35 năm trôi qua, nhiều TBPQ mong muốn những người đang được sống trong những ngày hòa bình gọi đúng tên di tích. Năm 1995, Khu di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận di tích cấp quốc gia.
Ngày nay, cùng với sự chuyển mình của Phú Quốc, di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc với tượng đài hoành tráng trên đồi sim - biểu tượng của sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù và tinh thần hiên ngang vùng lên phá xiềng của TBPQ, với nghĩa trang liệt sĩ, với Trại giam Tù binh Phú Quốc đang được phục dựng là chứng nhân, là di sản thật đáng tự hào của thế hệ hôm nay và mai sau
Trầm Hương