Hồ sơ các loại vũ khí. Đọc kèm khi đọc thể loại đô thị...
AK-47 - Vũ khí cầm tay cơ bản. Niềm tự hào của Liên Bang Xô Viết
AK-47 là một trong những súng máy thông dụng của thế kỷ 20, được thiết kế bởi Mikhail Timofeevich Kalashnikov. Tên súng là viết tắt của "Avtomat Kalashnikova mẫu năm 1947" (tiếng Nga: Автомат Калашникова образца 1947 года). Theo phân loại của khối Xã hội chủ nghĩa, AK-47 thuộc loại tiểu liên, họ súng máy. Theo phân loại của NATO, AK-47 thuộc loại súng trường tấn công, cũng thuộc họ súng máy (machine gun).
Cho đến thời điểm hiện tại, AK-47 và các phiên bản của nó là thứ vũ khí được ưa chuộng nhất, được lựa chọn bởi trên 50 quân đội, rất nhiều các lực lượng vũ trang, du kích khác từ khắp mọi nơi trên thế giới. Chi phí thấp, độ tin cậy, và hiệu quả rất cao trong điều kiện chiến đấu không tiêu chuẩn của loại súng này làm cho nó trở thành loại vũ khí cá nhân thông dụng nhất thế giới, dù tầm bắn hiệu quả nhất của nó trong khoảng 300 đến 400m, tối đa chỉ đến 600m.
Với những ảnh hưởng của mình, AK-47 đã được gọi là một biểu tượng trong quân sự,[1] một thứ vũ khí làm thay đổi bộ mặt chiến tranh.
Lịch sử
Bối cảnh
Trong Đệ nhị thế chiến, người Đức phát triển mẫu súng trường tấn công, dựa vào nghiên cứu cho thấy đa số cuộc đấu súng xảy ra ở cự ly gần, trong vòng 300 mét. Uy lực của loại súng trường đương đại là quá thừa trong khi mật độ hỏa lực lại quá thưa cho đa số cuộc đấu súng tiểu liên. Kết luận của các nhà quân sự Đức là cần sáng chế một loại súng kết hợp giữa súng trường và súng tiểu liên có các tính năng cơ bản như hộp đạn có sức chứa lớn, hỏa lực dày và chính xác với tầm bắn trung bình có hiệu quả đạt đến 300 mét. Để giảm chi phí chế tạo, loại súng tiểu liên Mauser được cải tiến, không dùng đạn nhẹ 7,92 x 33 mm nữa mà chuyển sang dùng loại đạn đạn 7,92 x 57 mm là loại đạn có liều thuốc phóng hơn.
Như vậy, có thể kết luận rằng súng trường Sturmgewehr 44 (StG44) không phải là là loại súng đầu tiên có những tính năng này; khẩu Cei-Rigotti của Ý cũng như khẩu Hoàng đế Nga và khẩu súng trường tự động Fedorov ra đời trước nó đã có dạng thiết kế của súng trường tấn công. Tuy nhiên, người Đức lần đầu tiên đã chế tạo hoàn chỉnh loại súng trường tấn công này, được đánh giá là khá chính xác và tiện ích trong tác chiến. Vào khoảng cuối chiến tranh, mặc dù đối đầu với Liên Xô nhưng những kinh nghiệm dày dặn của họ cũng ảnh hưởng đến lý thuyết quân sự của Liên Xô trong năm hậu chiến.
Vài nét về tác giả và quá trình sáng chế
Michail Timofeyevish Kalashnikov, tác giả khẩu AK-47
Mikhail Kalashnikov (Михаил Тимофеевич Калашников) bắt đầu sự nghiệp thiết kế súng từ năm 1942, khi ông đang dưỡng thương trong bệnh viện trong chiến dịch Bryansk[4]. Sau khi nhận thấy những bất ổn trong thiết kế súng tiểu liên, ông tham gia vào cuộc thi vũ khí mới sẽ sử dụng đạn 7.62 x41 mm được phát triển bởi Elisarov và Semin vào năm 1943 (đạn 7.62 x41 mm có trước đạn 7.62 x39 mm hiện nay).
Lúc đó, quân đội Xô Viết đang mở một cuộc thi thiết kế một loại súng mới với yêu cầu là đáng tin cậy trong môi trường lầy lội, ẩm ướt và giá lạnh của Liên Xô, Kalashnikov tham gia. Ông thiết kế một mẫu súng carbine dựa trên phần lớn thiết kế khẩu súng M1 Garand của Hoa Kỳ, và mẫu này thua mẫu của Sergei Gavrilovich Simonov (mẫu súng của Simonov sau này trở thành khẩu CKC). Cùng thời gian đó, quân đội Xô Viết cũng bắt đầu quan tâm với việc phát triển một loại súng trường tấn công thực thụ, sử dụng đạn M1943 có kích thước ngắn hơn. Mẫu thiết kế đầu tiên của kiểu súng này được Aleksei Sudaev giới thiệu năm 1944. Tuy nhiên trong các cuộc thử nghiệm nó bị đánh giá là quá nặng nề.[5] Một cuộc thi thiết kế khác được tổ chức vào hai năm sau đó, và lần này đội thiết kế của Kalashinkov lại tiếp tục đăng ký tham gia. Đó là một khẩu súng trường hoạt động dựa trên nguyên tắc trích khí ngang, mở khóa nòng để nạp đạn giống như mẫu carbine năm 1944 của ông, cùng với một hộp đạn cong chứa 30 viên.
Các mẫu súng của ông (ký hiệu AK-1 và AK-2) đã tỏ ra đáng tin cậy và vượt lên mẫu của các đối thủ khác, lọt vào vòng 2 của cuộc thi cùng với các mẫu thiết kế của A.A Demetev và F. Bulkin. Cuối năm 1946, khi các khẩu súng bắt đầu được thử nghiệm, một trong những trợ lý của Kalashnikov là Aleksandr Zaytsev đề xuất một sự cải tổ lớn đối với thiết kế của phiên bản AK-1 với mục đích chính nhằm nâng cao độ tin cậy của súng. Lúc đầu, những người lính nhận khẩu AK một cách miễn cưỡng. Họ đã quen đối phó với đối thủ bằng khẩu súng trường trong tay. Tuy nhiên, cuối cùng thì Aleksandr Zaytsev dã thuyết phục được họ, kết quả là khẩu súng mới đã để lại một chùm lỗ thủng trên bia và vượt qua cuộc bắn kiểm tra tại trường bắn thử nghiệm. Cũng từ đây, súng trường tấn công Kalashinkov mẫu 1947 đã chứng tỏ được sự đáng tin cậy, tính đơn giản của nó và bắt đầu được trang bị cho Quân đội Xô Viết từ năm 1949 với cái tên Súng trường tự động Kalashnikov (Автомат Калашникова), gọi tắt là AK, cỡ nòng 7,62 mm .
Nguyên lý thiết kế
Mặc dù Kalashnikov đã phủ nhận rằng AK-47 dựa trên khẩu STuG-44 của người Đức, nhưng người ta vẫn cho rằng AK-47 đã chịu nhiều ảnh hưởng từ thiết kế của STuG-44.[7][8][9]
AK-47 đúng là đã tích hợp được những đổi mới công nghệ súng trường so với trước đó: quá trình điểm hỏa được thực hiện bằng bệ khóa nòng lùi có lò xo đẩy về, sử dụng cụm khóa nòng kiểu then xoay như khẩu M1 Garand/M1 carbine[10][11], hệ thống trích khí được bố trí như khẩu STG44. Nhóm thiết kế của Kalashnikov có điều kiện tiếp cận tất cả các loại vũ khí này và không việc gì phải "sáng chế lại cái bánh xe",[12][13] mặc dù họ bao giờ không thừa nhận rằng thiết kế của họ áp dụng nguyên nguyên bản khẩu súng trường tiến công Sturmgewehr 44 của Đức.[14]
Một điểm thú vị trong thiết kế của AK-47 là tổ hợp thân súng (bao gồm hộp khóa nòng, nắp hộp khóa nòng, bệ khóa nòng, khóa nòng, bộ phận cò - búa, lò xo và thoi đẩy về) và hộp tiếp đạn rất lỏng lẻo, kêu "lọc xọc" khi rung lắc mạnh.[cần dẫn nguồn] Tuy nhiên khác với những gì mà người ta tưởng tượng, các bộ phận này gắn kết với nhau rất chắc chắn, độ rơ đặc biệt giữa các bộ phận và cấu tạo khối thô, to, nặng của chúng tạo ra khả năng hoạt động hoàn hảo trong mọi môi trường, loại bỏ khả năng bị hóc đạn hay kẹt hệ thống cò - búa, khóa nòng do bụi bẩn hay bùn đất, cặn dầu mỡ.[cần dẫn nguồn] Đây cũng là đặc điểm ưu việt khi chế tạo vì AK-47 có thể được sản xuất tại các xưởng có hệ thống máy móc tồi tàn nhất mà vẫn bảo đảm các thông số kỹ chiến thuật cao nhất.
Thực tế chiến tranh Việt Nam cho thấy AK-47/AKS-47 vẫn bắn được trong tình trạng các bộ phận bên trong dính đầy bùn đất, thậm chí trong khi đang ngâm nước
Kalashnikov kể lại:
“ Nhiều binh sĩ Quân đội Xô Viết hỏi tôi rằng làm thế nào để có thể trở thành một nhà thiết kế, và làm thế nào để thiết kế được Vũ khí mới. Câu hỏi này quả là khó trả lời. Mỗi nhà thiết kế có con đường riêng của mình, những thành công và thất bại của riêng mình. Nhưng có một thứ rõ ràng: trước khi cố gắng tạo ra cái gì đó mới, hãy bằng cảm nhận xem nó quan trọng sống còn đối với mọi thứ đã có trong lĩnh vực này hay không. Chính tôi đã cảm nhận được như vậy qua rất nhiều trải nghiệm của bản thân. ”
—Mikhail Kalashnikov
Phát triển
AKMS Kiểu 4B (trên), với một khẩu Kiểu 2A
Giai đoạn sản xuất ban đầu đã có những khó khăn. Trong mẫu súng đầu tiên, tấm kim loại mỏng của bộ phận đẩy khóa nòng lùi bị bật ra. Khó khăn cũng xuất hiện khi thanh dẫn hướng được hàn thường gây ra nhiều hiện tượng trượt lẫy.[16] Những nhà chế tạo không dừng lại, họ thay tấm kim loại mỏng có tác dụng giảm giật bằng một khối kim loại nặng hơn.[17] Quá trình thay thế này gây nên một số tốn kém nhưng khi sử dụng bộ phận đẩy về bằng tay của khẩu mosin - nagant trước đây, nó vẫn hoạt động nhanh và chắc chắn; bộ phận đẩy về của khẩu súng trường này được gia công lại và thay thế vào đó. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho Liên Xô không thể trang bị nhiều súng mới cho quân đội trước năm 1956. Trong thời gian này, súng trường CKC tiếp tục được sản xuất.[17]
Một khi những khó khăn trong sản xuất đã được khắc phục, phiên bản thiết kế lại có tên AKM (M nghĩa " hiện đại hoá " hoặc " nâng cấp ", tiếng Nga: Автомат Калашникова Модернизированный [ Avtomat Kalashnikova Modernizirovanniy]) được đưa vào sản xuất và trang bị năm 1959.[18] Mô hình mới này sử dụng tấm kim loại che bộ phận đẩy về hình vát nghiêng, khuyết cạnh trên vị trí cuối nòng súng, lắp thêm bộ phận giảm giật ở miệng nòng. Ngoài ra, bộ phận hãm búa đập được chế thêm để ngăn vỏ đạn không bắn vào xạ thủ khi chốt khóa nòng liên tục đóng mở trong chế độ bắn nhanh, tự động điểm hỏa.[19] Đây là cũng là điều đôi khi xem như "giải pháp tình thế", hoặc là một "sự đánh đổi", có ảnh hưởng làm giảm nhịp bắn mỗi phút trong chế độ bắn tự động. Nó cũng làm cho súng nhẹ đi gần một phần ba so với mẫu trước đó.[18]
Việc sản xuất AK ở nước ngoài kể cả có giấy phép và không có giấy phép diễn ra khá phổ biến, trong đó nhiều nhất là mẫu AKM. Một phần do thương hiệu sản phẩm dễ hấp dẫn khách hàng nên mẫu này thường có số lượng chế tạo lớn hơn. Tất cả súng trường dựa trên thiết kế súng AK thường bị quy là AK - 47s ở miền tây, mặc dù đây chỉ là sửa đổi súng trường với 3 sản phẩm ban đầu đã được đưa ra sử dụng. [20] Ở đa số các quốc gia thuộc khối Đông Âu, hiểu biết về vũ khí đơn giản chỉ cần là "súng AK". Tấm hình phía trên bên phải minh họa sự khác biệt giữa kiểu sản phẩm thứ 2 nguyên bản và kiểu sản phẩm thứ 4 có thương hiệu, bao gồm sử dụng đinh tán chứ không phải là mối hàn trên sản phẩm có thương hiệu, cũng như cách tạo những gân sóng nhỏ trên ổ đạn làm cho ổ đạn có độ bền tốt hơn.
Vào năm 1978, Liên bang Xô Viết bắt đầu thay AK-47 và AKM của họ bằng súng trường thiết kế mới hơn: khẩu AK-74. Loại súng trường mới này và đạn chỉ bắt đầu được xuất khẩu tại các quốc gia Đông Âu khi Liên bang Xô Viết sụp đổ. Sự kiện nghiêm trọng này đã làm chậm lại việc sản xuất các vũ khí này của các nước trong khối Liên Xô cũ.
Các phiên bản của chủng loại súng AK
AN-94 có thêm khẩu phóng lựu GP-30 dưới nòng chính
Phiên bản AKS báng gấp kiểu Đông Đức
[sửa]Các biến thể do Liên Xô và Nga sản xuất
Mặc dù thiết kế vào năm 1947 nhưng quân đội Liên Xô chính thức sử dụng AK-47 vào năm 1949, đến năm 1951 thì toàn bộ quân đội Xô viết đã sử dụng AK-47. Sau đó, kiểu cải tiến của AK-47 là AKM ra đời vào năm 1959 và được sử dụng rộng rãi vào năm 1961. Năm 1974, kiểu AK-74 ra đời với nhiều cải tiến, đặc biệt là sử dụng cỡ đạn 5,45 mm nhỏ hơn nhưng có trọng lượng phần sau đầu đạn lớn hơn phần trước để tăng sức sát thương đối mục tiêu mềm, thay cho cỡ đạn cũ là 7,62 mm. Đến năm 1996, khi phát hiện nhược điểm của loại đạn này (sức xuyên phá kém), người Nga quay lại dùng cỡ đạn 7,62 mm với các mẫu AK mới từ phiên bản AK-101 và hiện nay là phiên bản AK-107.
Để phát triển công nghiệp vũ khí, từ năm 2001, Nga tiếp tục sản xuất song song hai phiên bản AK-107 và AK-108. Trong đó, AK-107 sử dụng đạn tiêu chuẩn Warsawa 7,62 x 39 mm và phiên bản AK-108 có cấu tạo, tính năng như phiên bản AK-107 nhưng thay đổi đường kính nòng để sử dụng đạn tiêu chuẩn NATO 5,56 x 45 mm.
Mô tả cấu tạo, tính năng, thông số kỹ thuật
Ưu điểm chính của AK-47 chính là thiết kế đơn giản, kích thước nhỏ gọn và dễ sản xuất đại trà. Khẩu súng có chi phí sản xuất thấp, dễ lau chùi và bảo trì; đồng thời độ bền và độ tin cậy cao của nó đã trở thành huyền thoại.[22][23] Khẩu AK-47 ban đầu được thiết kế sao cho nó dễ dàng được sử dụng và sửa chữa bởi các binh sĩ Liên Xô đóng quân ở vùng Bắc Cực - đôi bàn tay phải mang những chiếc găng tay chống rét. AK có piston trích khí lớn, độ rơ rộng giữa các bộ phận chuyển động, ngay cả trong trường hợp các chuẩn mực chế tạo bị giảm so với thiết kế vẫn cho phép súng có thể chịu đựng được một lượng lớn tạp chất khi không có điều kiện bảo dưỡng định kỳ. Điều này làm cho độ chính xác trở nên kém tin cậy hơn, các dung sai lớn hơn của các phát bắn cũng không cần phải để ý khi người ta cần "khoan nhiều lỗ" trên một mục tiêu. Đây là ảnh hưởng của học thuyết bộ binh Liên Xô trong thời gian đó, khi những súng trường được hiểu là một phần của sự tập trung hỏa lực bộ binh tầm gần chứ không phải độ chính xác đối với tầm xa. Tuổi thọ của khẩu AK-47 dao động từ 20 đến 40 năm tùy theo môi trường sử dụng vào bảo trì.[24]
[sửa]Một số đặc điểm cấu tạo
Cơ chế trích khí và tiếp đạn của AK-47.
Các đặc điểm chính (xem infobox)
Rãnh xoắn: 4 rãnh, bước xoắn: 235 mm
Thước ngắm nằm ở phía đầu hộp khóa nòng (một số biến thể bố trí cuối hộp khóa nòng), có thể điều chỉnh dễ đàng bằng con chạy; được đúc liền với vai ngắm phía sau. Trên vai ngắm xẻ một khe ngắm hình chữ V ở chính giữa.
Đầu ruổi chỉ thị điểm ngắm có hai vách bảo vệ, có thể vặn vít lên cao, xuống thấp để hiệu chỉnh chi tiết về tầm bắn khi bắn chỉnh súng. Đầu ruồi được đặt trên một bệ đầu có chốt ngang dùng để chỉnh hướng. Khi đã chỉnh đúng hướng bắn, chốt này được cố định.
Lỗ trích khí ngang 1/3 nòng súng tính từ ngoài vào
Hệ thống thoi đẩy (piston) liền khối với khóa nòng.
Búa đập quay, có lẫy hãm để bắn từng viên
Thoi móc đạn kiểu rãnh xoay có tác dụng kéo vỏ đạn khỏi buồng đạn. Khi khóa nòng bị lực của khí trích đẩy lùi hoặc người bắn dùng tay kéo khóa nòng lùi, móc đạn vừa xoay vừa kéo vỏ đạn ra, lực kéo phân chia đều và xoay quanh vành vỏ đạn. So với cơ chế kéo thẳng vàou vành vỏ dạn tại một điểm ở một số loại súng, cách xoay kéo vỏ đạn này làm giảm tối đa hiện tượng tắc đạn do không hất được vỏ đạn ra khỏi buồng đạn.
Tính năng
So sánh AK-47 và M-16
Tốc độ bắn lý thuyết: 600 phát/phút
Tốc độ bắn trong chiến đấu: 40 phát/phút khi bắn phát một và 100 phát/phút khi bắn liên thanh.[25]
Chế độ điểm xạ 2 phát liên tiếp:
Do cấu tạo của súng không có chế độ điểm xạ 3 phát liên tiếp như M-16 hoặc AR-15, nhưng do nhịp bắn chậm hơn hai loại súng này nên xạ thủ có thể tập luyện việc bóp cò, nhả cò đúng lúc để hai viên đạn liên tiếp được bắn ra. Phương pháp này được nhiều xạ thủ giỏi của QĐNDVN sử dụng lần đầu trong Chiến tranh Việt Nam hiện nay đang được sử dụng khá phổ biến trên thế giới mà không phụ thuộc vào tính năng của súng. Một xạ thủ cấp I có thể bắn điểm xạ hai viên AK-47 trúng bia số 7 ở khoảng cách 100 m với hai điểm chạm chỉ cách nhau 10 đến 15 cm.
Tầm bắn hiệu quả:
Chế độ bắn từng viên: 800 m [26]
Chế độ bắn liên thanh: 400 m (góc tà bằng 0 hoặc góc tà dương không quá 10 độ); 200 m (góc tà âm không quá 15 độ), có độ chụm cao nhất ở 300 m với góc tà bằng 0.
Trong thực tế thì loại súng này thường được đặt thước ngắm ở cự ly 300m tương ứng với tầm bắn thẳng và xạ thủ tự chỉnh đường ngắm đúng lên trên hoặc xuống dưới so với mục tiêu tùy theo mục tiêu ở trong hay ngoài khoảng cách này. Những xạ thủ giỏi thường cảm nhận được mức độ nảy lên của nòng súng khi điểm hỏa để điều chỉnh lực giữ súng trên ốp che tay cho phù hợp, bảo đảm loạt đạn bắn ra có độ tản mát nhỏ nhất.
Sự phổ biến
Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam với khẩu AK-47
Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, các quốc gia Liên Xô, CHND Trung Hoa, Hoa Kỳ đã cung cấp và viện trợ hàng loạt vũ khí cũng như các công nghệ quân sự cho các tổ chức và quốc gia đồng minh với mình. Lúc đó, các loại súng sử dụng trong quân đội Hoa Kỳ như M14, M16 rất đắt tiền, vì vậy Hoa Kỳ chủ yếu viện trợ các vũ khí dư thừa thuộc thế hệ cũ hơn cho các đồng minh. Trong khi đó, chi phí sản xuất thấp của súng AK khiến cho Liên Xô có thể chế tạo vũ khí này với số lượng rất lớn và cung cấp cho các đồng minh của họ thay cho các vũ khí thừa thế hệ cũ. Kết quả là trong thời kỳ chiến tranh lạnh, khẩu AK được Liên Xô và CHND Trung Hoa xuất khẩu với số lượng lớn (thậm chí là cho không) đến các quốc gia và tổ chức đồng minh của họ, ví dụ như Quân Giải phóng miền Nam ở Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Sandinista ở Nicaragua. Các khẩu súng AK đã có mặt trong quân đội của hơn 55 quốc gia và hàng tá tổ chức bán quân sự khác.
Sau nhiều lần hoàn thiện, AK-47 được sử dụng rộng rãi trong các cuộc chiến tranh. Trong toàn bộ thời kỳ chiến tranh lạnh và trong các cuộc xung đột lớn nhỏ trên toàn cầu hiện nay, AK-47 vẫn là loại súng phổ biến nhất thế giới, được rất nhiều lực lượng quân đội, các lực lượng vũ trang của trên thế giới cho đến các tổ chức tội phạm, tổ chức khủng bố sử dụng vì tính năng độ tin cậy rất cao trong điều kiện chiến đấu không tiêu chuẩn. Thậm chí, khi vớt khỏi bùn (thời gian ngâm bùn không quá lâu), chỉ cần tháo ra, dùng nước rửa sạch các bộ phận, lắp ráp lại là có thể bắn được. Các nguyên vật liệu để chế tạo súng tương đối phổ cập, chủ yếu là thép và gỗ. Trong điều kiện công nghệ phát triển không cao nhưng nhiều nước đang phát triển và cả một số nước kém phát triển cũng đã chế tạo được khẩu súng này với giá thành khá rẻ.[1]
Do cấu tạo không quá phức tạp, dễ tháo lắp, chỉ cần một số dụng cụ cơ khí đơn giản (búa, kìm, đột, tống chốt, giũa, chổi con sâu), xạ thủ có thể bảo dưỡng và sửa chữa nhỏ dễ dàng. Các bộ phận phụ: ốp che tay, báng, tay nắm bóp cò đều làm bằng gỗ nên rất dễ tự chế tạo theo mẫu. Súng có thể chịu được bùn, nước, cát bụi; rất phù hợp với những chiến trường có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Ở Việt Nam, AK-47 được Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam sử dụng liên tục và phổ biến trong Chiến tranh Việt Nam từ giữa thập niên 1960 cho đến khi kết thúc cuộc chiến với số lượng hàng triệu khẩu.
Các quốc gia sản xuất AK ngoài Liên Xô
Danh sách này chỉ tính các quốc gia sản xuất AK-47 chỉ với mục đích cung cấp cho quân đội. Tất nhiên AK-47 còn được sản xuất ở những nơi khác và mục đích khác. Một phiên bản AKM nâng cấp vẫn còn được sản xuất ở Nga.
Bản quyền
Nga lâu nay luôn khẳng định rằng một lượng lớn súng AK-47 được sản xuất mà không được cấp phép từ IZH[31][32] Nhà máy sản xuất máy móc và công cụ Izhevsk được cấp bằng sáng chế trong năm 1999, In what country is the gun patented? It seems questionable to have something patented 50 years after invention. Vì vậy trên lý thuyết, việc những xưởng sản xuất khác ngoài Izhevsk tự tiện sản xuất AK được xem như là bất hợp pháp[20] What is legal or illegal varies from country to country. Tuy nhiên, hiện nay gần một triệu khẩu AK-47 đã được sản xuất trái phép mỗi năm[4].
Việc buôn bán trái phép các khẩu súng AK
Khẩu AKM của Campuchia với phụ tùng màu đen.
Khẩu AK và các biến thể của nó là một trong những cũ khí cầm tay thịnh hành nhất trong thị trường chợ đen trên toàn thế giới, nó đã được bán trái phép cho các chính quyền, các phiến quân, các tổ chức tội phạm và các cá nhân với sự giám sát rất lỏng lẻo[cần dẫn nguồn]. Ở một số quốc gia, giá của khẩu AK rất rẻ; tại Pakistan, Somalia, Rwanda, Mozambique, CHDC Congo và Ethiopia, giá cả dao động từ 30 đến 125 USD mỗi khẩu và càng ngày càng thấp trong những thập niên gần đây do vô số các sản phẩm nhái của khẩu AK gốc đã được sản xuất. Khi Moisés Naím khảo sát một thị trấn nhỏ của Kenya năm 1986, một khẩu AK-47 có giá bằng 15 con bò nhưng vào năm 2005 giá giảm xuống chỉ còn 4 con bò, việc này có nghĩa là nguồn cung cấp súng AK rất phong phú.[33] AK-47 đã xuất hiện trong các cuộc xung đột vũ trang tại bán đảo Balkan, tại Iraq, Afghanistan và Somalia[34].
Sau khi quân đội Liên Xô rút khỏi Afghanistan, họ để lại quốc gia này rất nhiều vũ khí trong đó có những khẩu súng AK[cần dẫn nguồn], thứ vũ khí đã được dùng trong cuộc chiến giữa chính quyền Taliban với Liên minh miền Bắc và được xuất khẩu sang Pakistan. Khẩu súng hiện đang được chế tạo trên các vùng lãnh thổ bán tự trị tại (xem thêm bài Khyber Pass Copy). Nó được sử dụng rộng rãi bởi các bộ lạc châu Phi ví dụ như các bộ tộc Hamer.[cần dẫn nguồn]
Tổ chức Ngân hàng Thế giới đã ước tính: trong số 500 triệu vũ khí cầm tay được lưu hành trên thế giới, có đến 100 triệu là các vũ khí thuộc họ Kalashnikov, và 75 triệu là các khẩu AK-47[35]. Trong một hội nghị của Liên Hiệp Quốc về việc giải quyết những vấn nạn gây ra bởi các vũ khí được buôn bán trái phép vào năm 2006, Mikhail Kalashnikov nói rằng ông đánh giá cao vai trò của súng AK-47 trong lãnh vực quốc phòng, nhưng việc những sản phẩm nhái lại khẩu AK-47, lợi dụng thương hiệu Kalashinkov hiện đang nằm trong tay các thành phần khủng bố và những kẻ tội phạm đã khiến ông hối hận[36].
Ảnh hưởng của AK-47 trong văn hóa
Sự phổ biến của AK-47 không chỉ được thể hiện ở mặt doanh số sản xuất và doanh số bán ra của nó. Danh tiếng của AK-47 trong các cuộc chiến tranh, xung đột quân sự và các hoạt động bạo lực đã làm cho hình ảnh của nó in sâu vào tiềm thức con người và trở thành một biểu tượng cho tinh thần chiến đấu. Trong chiến tranh Việt Nam và cho đến tận cuối những năm 1989, hình bóng khẩu AK-47 có mặt ở hầu hết các tranh cổ động, các bích trương từ thành thị đến nông thôn. Trong số các súng đạo cụ (súng giả và súng thật) sử dụng tại các đoàn nghệ thuật, các xưởng phim, khẩu AK-47 chiếm một số lượng lớn so với các loại khác.
Thậm chí, biểu tượng của một số quốc gia và một số tổ chức cũng sử dụng hình dạng của khẩu AK-47 như một yếu tố hình tượng bên cạnh các yếu tố hình tượng khác. Hình ảnh của khẩu AK đã xuất hiện trong cờ và quốc huy Mozambique, một sự thừa nhận rằng các nhà lãnh đạo của các quốc gia này giành được quyền lực phần nào nhờ vào việc sử dụng hiệu quả các khẩu AK-47[37]. Nó cũng xuất hiện trên quốc huy Zimbabwe và Đông Timor, quốc huy của Burkina Faso những năm 1984-1997, cờ của tổ chức Hezbollah, và biểu trưng của lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran.
Ở các nước phương Tây, nhất là Mỹ, khẩu AK-47 thường được xem là nằm trong tay các quốc gia mà Mỹ liệt vào "trục ác": ban đầu là Liên Xô, sau đó là các đồng minh theo khối Xã hội chủ nghĩa trong cuộc chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam. Trong thập niên 1980, Liên Xô trở thành quốc gia cung cấp vũ khí duy nhất cho các nước chịu lệnh cấm vận của Mỹ - trong đó bao gồm nhiều nước Trung Đông như Syria, Libya và Iran - những nước này sẵn sàng liên minh với Liên Xô để chống lại các nước theo phe Mỹ như Israel. Sau khi Liên Xô sụp đổ, AK-47 được bán công khai lẫn bán lén lút trên chợ đen cho bất cứ tổ chức nào, kể cả cho các băng đảng tội phạm, băng đảng ma túy, các chính quyền độc tài và gần đây nhất AK xuất hiện trong tay các tổ chức có đường lối cực đoan, các tổ chức khủng bố như Taliban, Al-Qaeda ở Afghanistan, Iraq và các du kích FARC ở Colombia. Trong các bộ phim Mỹ, các băng đảng tội phạm và khủng bố thường được trang bị các khẩu AK.
Ở Mexico, khẩu súng này mang tên là Cuerno de Chivo và hình ảnh của nó thường gắn liền với các băng đảng mafia cũng như các hoạt động buôn bán ma túy. Trong một số bài hát dân ca cũng có nhắc đến khẩu súng AK.
Vào năm 2006, nhạc sĩ kiêm nhà hoạt động hòa bình người Colombia César López đã chế tạo một nhạc cụ mang tên escopetarra, thực chất đây là một chiếc đàn ghi-ta được làm từ một khẩu súng AK. Một cây đàn như thế này đã được bán với giá 17000 USD trong một buổi gây quỹ từ thiện nhằm giúp đỡ những nạn nhân của mìn. Một cây đàn khác đã được trưng bày tại Hội nghị giải trừ quân bị của Liên Hiệp Quốc.[38]
Viện bảo tàng Kalashnikov
Viện bảo tàng Kalashnikov (hay còn gọi là Viện bảo tàng AK-47) mở cửa vào ngày 11 tháng 4 năm 2004 tại Izhevsk, một thành phố nằm ở vùng Ural của nước Nga.
Nadezhda Vechtomova, Giám đốc Viện bảo tàng nói:
“ Chúng tôi nhấn mạnh đến khía cạnh hòa bình của câu chuyện. Chúng tôi đang cố tách thứ vũ khí này như là một vũ khí giết người từ những người sản xuất chúng và giới thiệu về lịch sử của nó ở đất nước tôi. ”
—Nadezhda Vechtomova
M16 - Đối trọng của AK47 trong chiến tranh Việt Nam.
Từ trên xuống: M16A1, M16A2, Carbine M4, M16A4
M16 là tên của một loạt súng trường do hãng Colt cải tiến từ súng ArmaLite AR-15. Đây là loại súng tác chiến bắn đạn 5.56x45mm. M16 là súng thông dụng của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1967, và của quân đội các nước thuộc khối NATO, và có số lượng sản xuất cao nhất trong các loại súng cùng cỡ.
M16 nhẹ (3-4kg), các phần làm bằng sắt, nhôm và nhựa cứng, sử dụng kỹ thuật giảm nhiệt bằng hơi, tác động lên cò bằng khí ép [2], đạn nạp từ băng tiếp đạn với cơ cấu khóa nòng xoay [3].
Có ba loạt khác nhau trong qua trình sản xuất súng M16. Loạt đầu tiên: M16 và M16A1, sử dụng trong thập niên 1960, bắn đạn M193/M196, có thể hoàn toàn tự động hay bán tự động. Loạt kế là M16A2, thập niên 1980, bắn đạn M855/M856 (do Bỉ sáng chế sử dụng cho trung liên FN Minimi), có khả năng bắn từng viên hay bắn từng loạt 3 viên. Loạt sau cùng là M16A4, súng tiêu chuẩn của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong chiến tranh Iraq. M16A4 và súng trường M4 Carbine dần dần được dùng thay thế M16A2. M16A4 có quai xách có thể dùng để gắn kính nhắm, dụng cụ chấm mục tiêu bằng tia laser, kính nhìn ban đêm, đèn pha và thậm chí cả súng phóng lựu.
Ak47
ta dung hang ngay, trong tu cua ta dang co khoang gan hai chuc khau, ca bang thuong va bang gap. Haiza, ban suong tay phet. Moi toi tieng no to. Diec tai. Con vu ban diem xa 2 vien thi qua don gian, bia 4A khoang cach 100m, dan h vien ban diem xa ta dc 45 diem. 10 9 9 8 9. Miss 1 vien.
Ak47
ta dung hang ngay, trong tu cua ta dang co khoang gan hai chuc khau, ca bang thuong va bang gap. Haiza, ban suong tay phet. Moi toi tieng no to. Diec tai. Con vu ban diem xa 2 vien thi qua don gian, bia 4A khoang cach 100m, dan h vien ban diem xa ta dc 45 diem. 10 9 9 8 9. Miss 1 vien.