Vị chỉ huy trưởng nói:
Oâng ta là tư lệnh của phi đoàn Nữ hoàng, anh không biết sao?
David lắc đầu. Oâng ta hiểu lờ mờ rằng, vị trí hiện tại và công tác thực hiện các chuyến bay cho Hoàng gia, nhưng về mặt tổ chức thì ông chưa rõ lắm.
Phi đoàn ấy là gì, thưa đại tá? Họ có phi cơ riêng không?
Vị chỉ huy trưởng lắc đầu, ông ấy nói:
Giờ thì chưa có. Ngày trước họ cũng thường đi như thế. Ngày nay họ thuê bao từ các hãng hàng không hay mượn máy bay của không lực Hoàng gia. Trên danh nghĩa, có một tổ chức độc lập trả tiền cho chi phí này ngoài ngân quỹ dành riêng do chính phủ cấp cho nhà vua chi tiêu, nhưng ngày nay tổ chức ấy chẳng còn gì ngoài một cô thư kí đánh máy kết toán chi phí ấy vào ngân sách Hoàng gia. Họ có một nhà chứa máy bay ở phi trường White Waltham và một ít thiết bị mặt đất. Hoàng tử xứ Gales cũng có một máy bay hiệu Auster nhưng nay đã bán rồi.
David không có ở nước Anh lâu, nên không biết hết các phi trường và cũng chưa bao giờ đến White Waltham. Oâng ta hỏi:
Đó là phi trường dân sự phải không?
Vị sĩ quan gật đầu:
Gần Maidenhead. Ơû đấy yên tĩnh và gần kề với Windsor.
Nửa tháng sau David gặp lại đại tá Cox nhiều lần. Ngày tiếp theo, David được phân phối bay thử nghiệm chiếc máy bay đưa thư và đại tá Cox ham thích chiếc máy bay ấy lắm. Khi David bắt đầu bay thử như là phi công phụ, ông ta nhận ra rằng đại tá Cox thường xuyên làm hành khách trong thân máy bay trống sau lưng ông ta với những nhà quan sát thử nghiệm khoa học có các thiết bị đầy đủ. Nhiều lần khi công tác thử nghiệm đã xong và trươcù khi đáp, nhờ sự thúc đẩy của phi công chính, David nhường chỗ cho đại tá Cox vào lái chiếc 316 một lúc. Oâng ta vẫn còn là một phi công vững vàng, dù tóc đã hoa râm và đã ngoại ngũ tuần.
Khi công tác này tiến hành được một tháng, David ngạc nhiên nhận được giấy mời dùng bữa tối tại nhà đại tá không đoàn trưởng. Oâng ta sống trong căn nhà nhỏ xây theo kiểu hậu bán thế kỷ 18 trong vùng Windsor, ở giữa một sào đất tiếp giáp với đại công viên Windsor, cho nên căn nhà nhìn ra một bãi đất trống rộng lớn và bầy nai thường ăn cỏ đến tận bờ rào. Đó là một căn nhà nhỏ nhưng rất bề thế , trang trí mỹ thuật và dễ thu hút, đó là căn nhà sỡ hữu của Hoàng gia. Oâng Frank Cox sống với vợ và ba con nhỏ ở đây, trong cách sống nhân hậu và trang nhã mà trước đây David chưa từng thấy.
Bữa tiệc tối có hơi trịnh trọng nhưng cung cách như thế thì chẳng trịnh trọng chút nào đối với người Uùc. Những thực khách khác là ông bà thiếu tá Macmahon và một người em gái của bà đại tá Cox. Macmahon là một người đàn ông trạc bốn lăm, năm mươi tuổi, cùng khuôn đúc với đại tá không đoàn trưởng, vui tính, dễ dãi, nhưng trong công việc thì rất lão luyện vì đã đi nhiều. Rõ ràng là ông ta cũng đã đến Uùc và trong câu chuyện ông đã có nhưng nhận xét về nội tình nước Uùc. David cũng không biết rõ ông ta là ai và đang làm gì nhưng cũng có phần nào thắc mắc về ông ta.
Cũng giống như các phi công thử nghiệm, David cũng là một người lái thuyền buồm sành sỏi. Hầu như phải ở lại nước Anh trong một năm, nên ông ta dự định mua một chiếc thuyền buồm năm tấn để chạy trên sông Hambble, và ông sắp sửa thoả thuận giá cả. Oâng ta cũng nhận ra cả hai ông Macmahon và đại tá Cox cũng là những tay chơi thuyền buồm, điều này cũng làm cho họ ràng buộc với nhau và cho phép ông ta vẫn tiếp tục câu chuyện về đề tài ấy. Họ cũng thảo luận nhiều về chuyện bay bổng và cuộc chiến mới đây khi ông ta làm quyền tư lệnh không đoàn, trách nhiệm về phi đội oanh tạc đảo Lữ Tống. Đối với David Anderson, buổi tối qua thật nhanh và vui vẻ, điều ngạc nhiên đối với ông ta là hút xong điều xì-gà, thì đã mười một giờ đêm, đã đến lúc ra về và lái chiếc xe thể thao nhỏ bé trở về Boscombe Down.
Một tuần hay mười ngày sau, ông ta nhận được thư từ phủ cao uỷ Uùc khuyên nên đến thăm vị cao uỷ tại toà đại sứ Uùc và hẹn gặp vào buổi sáng. Cũng có chút ít ngạc nhiên và thắc mắc chưa biết việc gì xảy đến, ông ta xin nghỉ một ngày và đi Luân Đôn và đến trình diện vị Cao uỷ, ông Harry Ferguson. Khi ông đến nước Anh, ông cũng đã gặp ông Ferguson trong vài phút, cho mãi đến nay mới gặp lại
Oâng Ferguson đứng dậy khỏi bàn viết để chào David. Vì là người Uùc nên ông ta tin vào việc dùng tên thánh
Vào đi, David. Tôi đang mong gặp anh. Oâng ta mời David ngồi vào một cái ghế thoải mái đặt cạnh bàn và tự mình ngồi xuống một ghế khác, đó là người đàn ông vui tính, có hơi nặng kí trong bộ com-lê làm việc.
Sau khi mời thuốc David, ông ta nói:
À, đối với công việc ở Boscombe Down anh có thích không?
Chàng phi công trả lời:
Tôi chưa thấy công việc nào tốt hơn thế. Hiện tại tôi đang bay thử nghiệm 316 rất nhiều.
David cứ nghĩ là ông Ferguson muốn biết về đơn đặt hàng của hãng Qantas
Tôi biết, loại máy bay này tốt, phải không?
David trả lời:
Cũng được đấy, tuy cũng có nhiều khiếm khuyết cần tìm cho ra, nhưng cũng không quan trọng gì!
Tôi hiểu. Thế anh làm việc ở đấy có thích không?
Thích lắm chứ – David trả lời đầy vẻ tự tin.
Anh có muốn đổi đi nơi khác không?
Tôi không nghĩ là tôi thích thế! – viên phi công trả lời – chưa có công việc nào tốt hơn công việc tôi đang làm hiện tại. Thế công việc mới là công việc gì?
Anh đã chứng kiến vô số công việc của ông Frank Cox mới đây, phải không?
Đại tá không đoàn trưởng Cox? Oâng ấy cũng đã có mặt ở đấy nhiều lần, cùng bay chiếc 316. Tôi cũng đã có đến dùng cơm tối tại nhà ông ấy một lần.
Tôi biết rồi! – ông ta suy nghĩ một chốc rồi nói – Thế anh có muốn gia nhập phi đội Nữ hoàng không?
David nhìn ông ta ngạc nhiên:
Tôi à? Đội bay Nữ hoàng?
Oâng Ferguson chậm rãi trả lời:
Đấy chỉ là lời đề nghị thôi David ạ! Họ muốn nêu lên vấn đề của anh trước khi tham khảo ý kiến của tôi, trong trường hợp chính phủ Liên bang và không lực Hoàng gia Uùc phản đối, tôi sẽ liên lạc với Canberra về chuyện ấy, còn phía chúng tôi chẳng có gì phản đối cả, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc vào anh. Có nghĩa là anh phải bị gián đoạn công vụ, dĩ nhiên, nhưng anh đâu có bị cho thôi việc khỏi không lực. Nói cách khác là anh được thăng cấp ngay chỉ huy trưởng phi đội với lương và trợ cấp ở cấp bậc mới theo tiền tệ của Uùc. Nhưng anh được biệt phái cho công tác đặc biệt của phi đội Nữ hoàng.
David ngồi trầm ngâm một phút, suy nghĩ về điều kiện kì lạ này, không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một vinh dự và một sự khen thưởng về khả năng làm việc của ông ta nhưng ông ta không niềm nở lắm. Cũng giống tất cả công dân Uùc, ông ta tôn kính Hoàng gia, nhưng trải qua sự nghiệp trong giới cung đình là một việc khác.
Oâng ta tò mò hỏi:
Tại sao họ lại chọn tôi? Có bao nhiêu phi công giỏi ở khắp nước Anh cơ mà. Những người này vì không có máy bay mà thôi!
Như thế đủ rồi, ông bạn ạ! – vị cao uỷ nói tiếp – Tôi không biết là anh hiểu đến mức nào những vụ việc đang xảy ra. Anh có biết Hạ viện đã quyết toán ngân sách đệ trình một máy bay De Havilland 316 dành riêng cho phi đội Nữ hoàng?
Một hồi ức không rõ ràng với bức ảnh chụp nhỏ nhắn trong tờ Máy bay đã làm động não chàng phi công
Tôi nhớ là tôi đã đọc bài báo nói về chiếc máy bay ấy.
Oâng Ferguson gật đầu:
Nước Canada cũng đang làm một việc tương tự như thế.
Thật vậy sao? – viên phi công băn khoăn hỏi – Thế thì phi đội Nữ hoàng sẽ có hai chiếc 316?
Cũng có thể… - ông Ferguson ngần ngại trả lời – Nếu anh muốn đảm trách công việc này, David, việc trước tiên anh phải học tập là luôn luôn đứng ngoài chính trị. Dĩ nhiên, cũng có vài việc anh cần phải biết, nhưng công việc của anh là càng suy nghĩ ít những công việc ấy càng tốt và chỉ mãi lo về chuyện bay thôi.
Viên phi công gật đầu:
Tôi chẳng bao giờ để chính trị quấy rầy.
Thế là tốt – vị cao uỷ ngừng một lát, suy nghĩ rồi nói – Lúc mới bắt đầu phi đội của Hoàng đế được thành lập vào những năm ba muơi, máy bay còn nhỏ và không quá đắt tiền. Số tiền trợ cấp cho nhà vua và Hoàng gia được quốc hội biểu quyết theo quy định bằng tiền mặt lớn hơn bây giờ nhiều. Số máy bay ấy là tài sản của Hoàng cung và mặc nhiên Vua có quyền hạn phân phối, đi đâu khi Vua cần, vào bất cứ lúc nào, mà không cần tham khảo một ai – dừng một lát ông ta nói tiếp – Từ đấy máy bay càng phát triển và đắt giá khó mua nổi và bảo trì. Quỹ hỗ trợ Hoàng gia cũng bị giảm xuống đối với quyền mua sắm. Trong bao nhiêu năm, máy bay dùng trong các chuyến đi của Hoàng gia đã được quốc gia đài thọ. Oâng ta liếc nhìn David:
Anh có hiểu đấy là chuyện kín không, phi đội trưởng?
Thưa ngài, tôi biết.