Tình ái lắm khi làm cho người ta có những hành động đến là kỳ quặc, ví dụ như lần tôi tè vào bộ áo choàng của mình. Ðấy là hồi học lớp 6, khi tôi thật sự yêu lần đầu. Kể ra thì trước đó tôi cũng đã từng phải lòng cô bạn Michelle học cùng lớp 2 — Michelle là bạn gái duy nhất ở lớp nhớ được cần phải cất những chiếc bút phớt Crayola vào hộp theo thứ tự nào: đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh nước biển, tím, nâu và đen. Nhưng rồi Michelle cũng không tỏ ra có năng khiếu gì hơn nữa, và hoàn cảnh cũng chia lìa hai đứa chúng tôi.
Một thời gian dài sau đó không có ai làm tôi để ý lắm, mãi cho đến năm lớp 6, khi Susan chuyển đến học cùng trường. Cô bé hội tụ đủ những gì tôi thích ở bọn con gái: thấp. Chỉ có mỗi một khiếm khuyết là cô bé thích ngựa quá. Cô ấy thậm chí còn mơ tưởng đến một chú ngựa nào đó tên là ‘Frosty’. Tôi vẽ chữ ‘Sue’ vào vở của mình, lồng trong hình trái tim. Còn trong vở của Susan tôi thấy hình chữ ‘Frosty’. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy là chúng tôi kết đôi thế nào được kia chứ.
Nhưng biết đâu đấy, tôi vẫn thử. Tôi đã mời Susan tham dự Dạ Hội Hallowen. Ðấy là một việc làm phải nói là ‘phi thường’: một học sinh lớp 6 nói chung sẽ không mời bạn gái đi hội Hallowen. Những gì cu cậu làm vào đêm hội là lấy trộm xà phòng cạo râu của bố, sau đó gia nhập cùng đám con trai khác đi xịt xà phòng vào ô-tô hay hộp thư ngoài đường, rồi chạy nhống lên như vừa cướp nhà băng. Khi ló mặt đến Hội Hallowen năm ấy do mẹ tôi chủ xướng, tôi đã trở thành một điều gì đó thật bất thường vì trong đám bạn cùng lứa tôi là đứa con trai duy nhất xuất hiện cùng con gái, hay nói một cách chính xác hơn là đứng trong vòng 3 mét với một đứa con gái. Thế là chốc chốc lại có mấy cu cậu nào đó chạy ra, xịt xà phòng về phía tôi rồi biến dạng sau quầy. Quãng thời gian giữa những lần bị tấn công ấy, tôi và Susan tâm sự với nhau về chuyện ngựa và nhẩy theo nhạc bài "Mack The Knife".
Rốt cuộc thì tôi cũng có nhu cầu phải vào nhà vệ sinh. Nhưng tôi đâu dám vào đấy vì nhà vệ sinh lúc bấy giờ là "căn cứ trung tâm toàn cầu của đội xà phòng cạo râu". Thế là tôi đành phải ra ngoài chỗ tối. Tôi xin viết rõ một chút rằng lúc ấy tôi bận một chiếc áo choàng nhung đen. Mục đích làm sao cho giống anh chàng Zorro phong tình bảnh bao trên màn bạc, nhưng kỳ tình tôi trông không khác gì một con dơi đeo kính. Tôi đâu có quen xả hơi ngoài chỗ tối mà lại mặc áo choàng như vậy. Kết quả là chiếc áo chùng xuống và ướt hết cả. Tất nhiên đó là thời điểm thảm hại nhất trong đời, mà mãi cho đến hôm nay tôi vẫn không hiểu được là tại sao tôi đã không nhận ra điều ấy và rút súng tự sát quách cho xong. Thay vào đó tôi đã quay lại đám hội, mang theo cả cái mùi không khác gì căn phòng Gentlemen ở nhà ga xe lửa. Chuyện với Susan thế là đi tong.
Gần đây tôi có dịp gặp lại Susan tại cuộc gặp mặt tựu trường sau 15-năm. Cô ấy không đả động gì đến vụ Hallowen năm nọ. Chắc là cô ấy muốn tỏ ra tử tế thế thôi, chứ thực tình cô ấy hẳn vẫn luôn luôn nghĩ về chuyện đó và thỉnh thoảng phá ra cười khi đứng xếp hàng trả tiền ngoài siêu thị.
Bước chuyển biến tiếp theo là vấn đề bộ ngực. Bọn con gái nghỉ hè hết lớp 6 khi chưa có, và bước vào lớp 7 với đầy đủ cả. Cứ như thể là tất cả vừa qua một khoá tập huấn thể hình vậy. Bọn con trai chúng tôi từ trước đến giờ, đành rằng vẫn phải công nhận một điều là chúng tôi luôn để ý đến con gái, nhưng vẫn chưa biết rõ là muốn gì; thì nay đột nhiên lại chợt hiểu ra chính xác là mình muốn gì ở bọn con gái: muốn nhìn thấy con gái ở trần. Bọn con trai chúng tôi dành hầu hết thời gian đi dạo để tưởng tượng và luận đàm xem bộ ngực con gái thật sự trông nó ra sao. Tất nhiên hồi bấy giờ đâu đã có các thông tin đáng tin cậy về đề tài này.
Trong suốt thời gian lớp 7 và 8, tôi theo đuổi Barbara. Nàng đeo đầy cổ vòng kim loại các loại, có lẽ đủ để nạp đạn cho mấy khẩu súng máy. Nhưng bù lại nàng không ưa gì lũ ngựa và có những đồn đại rằng một lúc nào đó sẽ được nàng cho phép hôn. Nhà nàng cách nhà tôi 7 dặm. Có một ngày thứ Bảy nọ, bất chấp trời đông tháng giá tôi vẫn tha thẩn lang thang quanh nhà nàng đến những hai giờ đồng hồ, với một tia hy vọng trong đầu rằng liệu có một lúc nào đó nàng chợt mở cửa, chạy ra khỏi nhà, ôm choàng và hôn tôi. Tất nhiên điều ấy không xảy ra, rất có thể đó chẳng qua là vì đôi môi của tôi lúc bấy giờ đã lạnh cóng và biết đâu sẽ đóng thành băng mất khi chạm đến những chiếc vòng cổ của nàng.
Cuối cùng tôi cũng hẹn gặp nàng. Tôi thu xếp cuộc hẹn qua một tay trung gian — đấy là cách người ta vẫn thường tiến hành hầu hết các hoạt động xã hội thời bấy giờ. Người trung gian là Pat, bạn thân của nàng. Với sự giới thiệu của Jeff, tôi và Jeff đã gặp Pat, đề nghị rằng tôi muốn rủ Barbara đi xem phim. Pat đã chuyển đề nghị này đến Barbara, để rồi sau một vài thảo luận, chúng tôi đi đến quyết định là cả bốn đứa sẽ cùng đi xem phim.
Ðến ngày hẹn, tôi và Jeff dành mấy cả tiếng đồng hồ để chuẩn bị cho thật chu đáo, trong đó phải kể đến khoản súc miệng nhiều lần bằng "hương liệu mạnh" Listerine, rồi sau đó hai đứa kiểm tra hơi thở của nhau. Bộ phim mang tiêu đề "Bắc tiến Alaska" — đấy là tất cả những gì tôi còn nhớ được về bộ phim vì trong suốt hai tiếng đồng hồ tôi phải luôn luôn chăm chút điều chỉnh vị trí cánh tay trái sao cho nó quàng qua chỗ ngồi của nàng, dịch dần đến bờ vai của nàng với một khoảng cách là một phần tỷ mi-li-mét, nhưng không một lần chạm vào thân hình nàng. Thỉnh thoảng tay tôi lại bị nhói lên đau điếng và tôi không khỏi hồi hộp thở mạnh ra toàn mùi Listerine. Nhưng tôi chỉ dừng lại ở đó bởi vì, lạy Chúa, tôi đang thực sự được quàng tay qua vai người tôi hằng yêu dấu, và tất cả những thứ đó có lẽ cũng đã đủ làm tôi phát điên lên mất, nhất là khi mơ tưởng đến lúc chào tạm biệt nàng bằng một nụ hôn.
Vâng, chúng tôi đã chia tay đúng như vậy. Thật là một buổi tối hoàn hảo, chỉ trừ có đoạn cuối là Jeff không biết đã chui từ chỗ nấp ra lúc nào, miệng phát thành tiếng và tay khua lên mấy động tác bắt chiếc làm cho Barbara phải bật cười khúc khích. Nhưng đấy chỉ là chuyện vặt. Quan trọng là nàng đã hôn tôi, và tâm hồn tôi đắm say ngây ngất trong tình yêu mãi cho đến ngày hôm sau, khi Jeff thông báo là nàng đã thực sự quan tâm đến một anh chàng Wayne nào đó. Vậy là hết. Barbara và Wayne trở thành một cặp nghiêm túc, và tôi tin rằng họ đã cưới nhau.
Tất nhiên, bây giờ tôi đã trưởng thành hơn nhiều so với hồi cắp sách đến trường, và tôi cũng đã học được nhiều điều về cuộc sống ái tình. Nhưng đến hôm nay tôi vẫn thường nhớ đến Barbara như một kỷ niệm ngọt ngào, và vẫn thường tự hỏi không biết bây giờ nàng sống ra sao? Nàng còn nhớ đến tôi? Nàng có hạnh phúc không? Nàng đã từ bỏ những chiếc vòng năm xưa chưa? Nàng có nhận ra rằng Wayne chỉ là một gã tẻ nhạt không? Tất nhiên điều đó chẳng liên quan nhiều đến tôi.
Cuối cùng tôi xin trân trọng thông báo rằng chúng tôi đã có được lý giải khoa học cho vấn đề là tại sao trọng lượng của chúng ta lại cứ tăng dần như vậy; ít ra đó cũng là điều đang xảy ra với tôi, mà tôi hoàn toàn không có lỗi. Chẳng dám giấu quý vị, tôi ăn uống cũng không kiêng khem gì đâu. Thỉnh thoảng khi ở nhà hàng tôi vẫn gọi món ăn thuộc loại xào và có hàm lượng mỡ cao ("Hêy, cho mấy món ăn thuộc loại xào và có hàm lượng mỡ cao! Lẹ lên!" tôi vẫn gọi đồ ăn như vậy). Nhưng tôi luôn luôn bù lại với cách tuân thủ một chế độ thể dục nghiêm ngặt bằng cách lắc và đổ thật mạnh chai nước xốt -- "không làm, không ăn" là phương châm của tôi với các lọ nước xốt đông cứng tại nhà hàng.
Nhưng dù thế nào đi nữa, trọng lượng của tôi vẫn tăng đều. Quý vị hẳn cũng thế thôi, và vì vậy quý vị chắc chắn sẽ vui lòng cho phép tôi đưa ra lời giải thích ở đây. Lỗi không phải ở quý vị và tôi. Lỗi ở vũ trụ. Tôi biết được điều này qua bức thư một độc giả 14-tuổi ở Massachusetts tên là Tim Wing. Tim thông báo rằng khi đọc cuốn "Những Hiện Tượng Lạ Trên Thế Giới" đã phát hiện ra là: mỗi ngày, kể cả ngày nghỉ, có 25 tấn hoặc hơn nữa các chất bụi vũ trụ rơi xuống trái đất. Ðiều đó có nghĩa là trái đất ngày càng nặng lên, mỗi ngày thêm 25 tấn, nghĩa là lực hấp dẫn của nó tăng lên -- một loại lực đặc biệt gồn các tia không nhìn thấy do Issacc Newton sáng tạo ra để các vật thể vật lý trong vũ trụ trở nên lôi cuốn nhau hơn.
Kết luận, như Tim Wing đã chỉ ra, "chúng ta chẳng cần phải tăng khối lượng đến một gam, nhưng mọi người trên trái đất ngày càng nặng thêm lên."
Tồi tệ hơn nữa là đồng thời với việc trái đất tăng trọng trường thì toàn vũ trụ lại không ngừng nở ra, trừ những chiếc quần. Những chiếc quần vẫn giữ nguyên kích thước cũ. Ðó chính là kết luận của thí nghiệm do bác phó may thực hiện cùng với tôi: "phải dùng một chiếc quần vòng bụng 33-inch hôm nay để vừa cho cái thân hình vẫn dùng chiếc quần vòng bụng 31-inch trước kia." Thực ra Albert Einstein đã tiên liệu chính xác điều này vào năm 1923 khi ông đưa ra Thuyết Quần Tương Ðối.
Nhưng nguy cơ lớn hơn nữa là cùng với trọng trường trái đất tăng lên thì an toàn xã hội có nguy cơ giảm đi. Tôi muốn nói đến một tai nạn xảy ra gần đây ở Ford Lauderable, Florida đã được đăng trên báo Miami Herald -- tôi không bịa đâu nhé -- "một con rùa từ trên trời rơi xuống đã rớt trúng một người đi đường." Mặc dù không có tổn thương gì nghiêm trọng, nhưng điều tôi muốn nói ở đây là hiển nhiên con rùa kia đã rơi từ một con chim mòng biển nào đó. Tại sao con mòng biển -- một loài chim lớn chuyên săn bắt trên biển -- lại nhỡ miệng làm rơi con rùa kia chứ? Lý do hiển nhiên là: do trọng lượng con rùa đã tăng lên, như mọi thứ khác trên quả đất này.
Vậy nếu như bụi vũ trụ cứ tiếp tục rơi xuống, thì mọi thứ sẽ ngày càng tồi tệ hơn. Theo những tính toán của tôi, thì thật rùng mình khi thấy rằng vào năm 2038 một quả bóng đánh gôn sẽ nặng cỡ chục ký hôm nay. Chính vì vậy chúng ta phải kêu gọi toàn thể các nhà khoa học trên thế giới hãy dừng tất cả các nghiên cứu, hãy thôi không đưa ra những cảnh báo này nọ, mà lập tức tìm cách giải quyết bài toán trọng trường trái đất.
(ba mươi phút im lặng)
Ðấy, quý vị thấy chưa, các nhà khoa học lại một lần nữa làm chúng ta thất vọng, họ để mặc chúng ta, những công dân luôn phải đóng thuế đầy đủ, phải tự giải quyết bài toán cấp bách này. Nhưng không sao, tôi đã nghĩ ra một cách giải quyết rất thực dụng: kế hoạch giảm khối lượng trái đất. Ðây là lý luận của tôi: trục trặc ở chỗ trái đất hàng ngày nhận 25 tấn bụi từ ngoài vũ trụ, đúng chưa? Vậy chỉ cần nạp 25 tấn gì đó vào tên lửa mỗi ngày và phóng ra vũ trụ là xong.
Quý vị tất nhiên sẽ thắc mắc: "Vậy thì kiếm đâu ra cái thứ nặng đến 25 tấn mỗi ngày, cái thứ mà hoàn toàn vô dụng, cái thứ mà nếu quăng ra ngoài vũ trụ sẽ không ai kêu ca và không ảnh hưởng gì đến cuộc sống nhân loại?"
Tôi xin giải đáp mắc mớ trên bằng 3 chữ: "thư hạng tư" (hạng thư chậm, chủ yếu dùng để chuyển các quảng cáo, rao vặt, chào hàng). Hàng ngày có đến hơn 25 tấn thư loại này được vất vả lưu chuyển trên toàn đất Mỹ và được người nhận đưa ngay vào sọt rác mà không cần đọc lướt đến một chữ. Các chuyên gia xử lý chất thải đánh giá rằng hàng ngày có 78% rác là các bức thư không mở do Ed McMahon gửi đi với thông điệp rằng mỗi người quý vị đều có cơ hội chắc chắn trúng giải 14 triệu đô-la. Vậy tại tao bưu điện cứ phải vất vả chuyển thư? Thay vào đó, chúng ta chỉ cần tống loại thư ấy vào hoả tiễn và đưa ra ngoài vũ trụ. Nếu chúng ta có nhỡ cho đi hơi quá 25 tấn mỗi ngày chăng nữa, thì trái đất sẽ giảm trọng trường và như vậy cũng tốt thôi. Tôi tính toán rằng mỗi công dân trên quả đất sẽ giảm trọng tương đương với 6 gam, nếu gửi béng cả Ed McMahon ra vũ trụ.
Kết luận, chúng ta phải bắn mỗi ngày vào vũ trụ một hoả tiễn nặng 25 tấn thư hạng tư, và chúng ta phải bắt đầu ngay, chứ nếu để đến lúc chúng ta nặng quá phải bò trên mặt đất trong khi rùa từ trên trời rớt xuống như mưa thì có lẽ sẽ quá muộn. Nếu quý vị đồng ý với phương pháp này, xin hãy viết ngay một bức thư đệ trình quốc hội, nhớ nhấn mạnh tính khẩn cấp của vấn đề, nhớ nhấn mạnh đến trách nhiệm của quốc hội đối với toàn dân chúng, và xin nhớ yêu cầu dành một chỗ trên hoả tiễn cho Ed McMahon.
Vật kiểng đầu tiên của tôi chính là món quà No-en mẹ tôi cho thằng con mười tuổi: một đàn kiến. Một món quà hết sức không bình thường–tất nhiên, tôi rất thông cảm vì đấy là hậu quả của sức ép ngày lễ No-en đang đến gần trong khi người ta không còn nghĩ nổi là nên tặng cái gì cho thật đặc biệt và bất ngờ. Khi đó nhà tôi vốn đã phát sốt lên vì nhiều kiến quá, và mẹ tôi rất ghét chúng. Bà phải lấy chổi để xua chúng đi.
Nhưng đàn kiến kiểng của tôi hoàn toàn không phải là đám kiến nhà thông thường. Chúng là những con kiến có giáo dục và có chuyên môn. Chúng được mua về với mong muốn là tôi nuôi chúng bằng nước đường và chúng sẽ dạy tôi xem cách thức các con kiến sẽ làm gì trong không gian riêng tư của mình, ví dụ, cách chúng tranh nhau một miếng thịt thối như thế nào. Thế là tôi cho chúng uống nước đường, đặt tên cho từng con trong đàn,... và hai ngày sau chúng lăn ra chết, có lẽ vì bệnh sâu răng. Tôi vẫn nhớ là đã rất buồn và luyến tiếc vì hồi đó tôi chưa biết rằng người ta vẫn thường dùng một quyển sách bìa cứng để đập chết những con kiến trong nhà.
Ðấy là tất cả những gì cần biết khi chơi thú kiểng: Ngay khi quý vị đặt cho con vật nào đó một cái tên, chúng đột nhiên không còn là một con vật thông thường mà quý vị ngẫu nhiên gặp trên đường–chúng đã là một thành viên trong gia đình–và quý vị không thể đem chúng ra để đập chết ăn thịt được nữa. Lấy bò làm ví dụ. Quý vị chắc chẳng áy náy tí nào khi chén một miếng bít-tết. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra khi quý vị đã có mấy phút dạo chơi sánh đôi với một chú bò nào đó: quý vị sẽ yêu mến chính con bò ấy, để rồi biết đâu lại chẳng muốn bắt chuyện thân mật với nó nữa chứ.
Chị tôi, Kate, cũng có cái thứ tình cảm yêu thương sinh vật chóng vánh như vậy. Hồi tôi còn nhỏ, gia đình cùng nhau đi ăn đồ biển; ở đó có một cái bể kính chứa rất nhiều tôm hùm. Chúng luôn ngoe nguẩy đôi càng và hé mắt ngó nhìn thực khách. Chị Kate đã nhanh chóng đặt tên cho từng con tôm hùm, rồi chỉ sau vài phút đã chúi mũi vào bể và bắt đầu tỉ tê đủ chuyện tâm tình trên đời. Kết quả là mọi người không ai còn dám ăn nữa. Họ tần ngần nhìn vào đĩa và băn khoăn tự hỏi không biết con tôm trên đĩa được Kate đặt tên là gì. Bây giờ chị Kate đã hoàn toàn ăn chay.
Nhờ những cố gắng của chị tôi mà hồi nhỏ chúng tôi đã từng có đủ loại thú kiểng khác nhau. Ví dụ những con vật lông mịn ngớ ngẩn như chuột bạch hay là thỏ. Chúng chẳng biết làm gì ngoài việc chạy lóc cóc đó đây rồi đứng lại nhìn quanh, trông rất tội nghiệp. Chị em tôi không bao giờ nuôi chúng được lâu vì chẳng mấy chốc chị cảm thấy thương hại cho cuộc sống trong cũi và thả chúng ra để chạy về rừng. Chị cho rằng đó là một ân huệ to tát, nhưng có lẽ chúng cũng chẳng sống được lâu vì phải yếu đuối lần mò kiếm tìm các viên thức ăn xưa vẫn luôn sẵn có trong nhà.
Hồi bé chị em tôi cũng đã từng nuôi nhiều loài bò sát, như rắn, cóc hay kỳ giông. Nhưng chị Kate có lẽ không thành công lắm khi chuyện trò với những loài bò sát này. Các nhà bác học xếp bò sát vào loại "động vật máu lạnh", nghĩa là chúng chỉ nghĩ đến tàn sát và bạo lực. Không biết quý vị còn nhớ một bộ phim của Nhật Bản sản xuất vào những năm 50 không: sau một thảm hoạ nguyên tử, những phóng xạ thất thoát đã biến những loài bò sát trở thành khổng lồ như những con khủng long thời tiền sử. Chúng liền lan rộng đến những thành phố lân cận, lật đổ những đoàn tầu và ăn thịt người. Ðấy chính là mong ước của những loài bò sát. Nếu quý vị nuôi một con thằn lằn, quý vị sẽ thấy nó thầm lặng suốt ngày trong chuồng, giương cặp mắt tinh ranh nhìn quý vị, trong trái tim băng giá chỉ có một ý nghĩ: "Ta muốn hôm nay chuyện ấy sẽ xảy ra. Sẽ có một tai nạn nguyên tử. Ta sẽ được tắm mình trong những tia phóng xạ. Ta sẽ ăn tươi nuốt sống tất cả bọn ngươi. Ha ha ha ha ha ha ha ha ha!" Nghe đến mà rợn cả người, nhưng hãy tin tôi đi, vì đó là sự thật.
Theo suy nghĩ của một người am tường thú vật kiểng như tôi, thì chỉ có loài chó là loại thú kiểng tuyệt vời nhất. "Chó" ở đây tôi muốn nói đến là một con "chó" thật sự: to lớn, răng nhọn, luôn chảy dãi và có hơi thở hôi thối; chứ không phải cái đồ bé tẹo kêu ót ót, cứ thích ngồi trong lòng mọi người, rồi lại hay nhảy cẫng lên hệt như một kẻ bợ đỡ–những nhà sinh vật học cho rằng đó không phải loài chó, mà nên xếp vào họ gối nệm.
Ðiều tôi khoái nhất là chó thường có khả năng nghe chuyện của con người. Tôi thường bỏ hàng giờ tâm sự về mọi quan điểm nhân sinh với Shawna, con chó Ðức nòi Shephard của tôi. Shawna nuốt từng lời tôi nói; còn tôi chỉ tiếc là không hiểu được những gì Shawna nói mà thôi:
Tôi: Mày biết không, Shawna, tao rất quan tâm đến những sự kiện xảy ra ở Châu Phi thời gian gần đây.
Shawna: Không biết có gì bỏ bụng không nhỉ.
Tôi: Tình hình phát triển và quan hệ song phương với Việt Nam cũng rất quan trọng và đáng lưu ý.
Shawna: Sắp được ăn rồi đây.
Tôi: Tất nhiên, phản ứng vừa rồi của Cuba cũng có ảnh hưởng nhất định.
Shawna: Ông ấy chuẩn bị vào bếp lấy ít xương thì phải.
Theo kinh nghiệm của tôi thì loài mèo không thể có được tình cảm sâu sắc như vậy. Nếu một con mèo thích quý vị, nó sẽ thể hiện tình cảm bằng cách găm những móng nhọn vào da thịt quý vị, sau đó leo tót lên chân và rồi làm một-cái-gì-đó-mà-chỉ-Chúa-mới-biết lên mặt quý vị. Vì vậy tôi không có quan hệ gần gũi lắm với loài mèo.
Cũng có nhiều rắc rối khi nuôi một số thú kiểng khác. Ngựa chẳng hạn. Chúng là loài động vật to lớn và có móng guốc, vì thế chúng có thể dễ dàng giẫm nát người ta thành cám chỉ trong tích tắc. Quý vị không nên đặt lòng tin vào ngựa, bởi vì quý vị không thể nhìn thấu được cặp mắt chúng. Hai con mắt to bằng quả bi-a của một con ngựa được bố trí ở hai bên đối diện của đầu, cách nhau đến mấy chục phân. Vì thế một mắt đang nhìn quý vị một cách hữu hảo, trong khi mắt kia–ở phía quý vị không thấy– đang đảo điên toan tính: "Ta mà giẫm chết thằng này thì đã sao..."
Tôi cũng có một quy tắc là không nên nuôi cá, bởi vì cứ lần nào nuôi cá, điều ấy cũng xảy ra. Sau khi được cho vào bể, lũ cá lần nào cũng làm cái điều mà tất cả những con cá đều làm: Tìm cách trốn khỏi bể. Chúng bơi đến một đầu bể và tự nhủ với nhau, "A! Không phải lối này!"; rồi chúng quay lại và bơi đến đầu bể bên kia và lại nói, "A! Có lẽ ở bên kia!". Cứ như thế chúng quay đi quay lại như thế suốt ngày, cho đến một hôm nào đó chết mục thì thôi.
Cứ khoảng 5 năm một lần, vợ tôi lại cao hứng nuôi cá cảnh nhiệt đới. Chúng tôi chi khoảng 50 đô-la để mua cá, thức ăn và thuốc cho cá, bộ lọc nước, và một loại sỏi đặc biệt cho cá. Chúng tôi đo nhiêt độ và độ pH (một khái niệm khoa học nào đó) và phải thường xuyên điều chỉnh; vì nếu không, theo tay bán hàng hướng dẫn, lũ cá sẽ chết. Tôi lấy làm lạ là không hiểu những con cá thiên nhiên sống ra sao nếu chúng không có máy lọc nước, không có sỏi nhân tạo, lại không được điều chỉnh nhiệt độ và độ pH.
Sau đó vợ chồng tôi đem cá về, đặt tên cho từng con, yêu thương chúng, và chúng đã là những thành viên trong nhà. Rồi một hôm tôi thấy chú Bob-Ðuôi-Lớn đã bắt đầu có mấy chỗ xơ xác và mục nát ở vây. Thế là chúng tôi phải cho thêm thuốc vào; nhưng không ăn thua, vì chẳng bao lâu sau toàn bộ cánh vây đã tróc hết. Rồi một số con cá bắt đầu bơi ngửa. Cuối cùng tất cả đều bị mục hết vây, và chúng tôi không thể cầm lòng khi thấy lũ cá chỉ còn những cái thân bé bé trôi nổi trong bể. Trong một nỗi tiếc thương vô hạn, vợ tôi đành phải cho lũ cá vào sọt rác và cất bể kính xuống hầm nhà. Sau đó tự thề rằng sẽ cạch, rằng sẽ không bao giờ nuôi cá cảnh nữa. Tất nhiên chúng tôi sẽ không nuôi nữa, vâng, chỉ đến một lúc nào đó khi mà vợ tôi lại cao hứng.
Ðấy, đó là tất cả những gì tôi biết về chơi thú kiểng; ý tôi muốn nói là tôi chỉ có một thành công thực sự là Shawna. Có lẽ Shawna chưa hoàn toàn là một người bạn tâm sự thích hợp, nhưng nó rất trung thành. Mỗi khi tôi thấy buồn tẻ, thì chú-bạn-thông-minh-như-người-trong-đời-tôi lại đến an ủi. Mỗi khi tôi thấy cô đơn, thì tôi luôn tin rằng Shawna sẽ là người bạn nhắc nhở rằng vẫn còn có ai đó cần đến tôi. Nó sẽ dùng mũi đẩy cửa, mon men vào phòng, nằm xuống bên tôi và giằng xé tấm đệm.
Ngồi giữa gian bếp nhà mới, quanh tôi là hàng trăm hộp các-tông đủ loại kích cỡ khác nhau, trên từng hộp đều dán nhãn rõ ràng "BETH". Vợ tôi, Beth, đang cẩn thận mở một chiếc hộp. Cô ấy cắt lần lượt nhiều lớp băng keo, mở nắp hộp và lôi ra một vật được gói kín trong 2000 mét vuông giấy báo. Cô ấy mở gói giấy ra, hết lớp này đến lớp khác, và đây là cái thứ đã được gói ghém cẩn thận đến như thế: một tách cà-phê.
Trong ấy vẫn còn một ít cà-phê.
Nếu quý vị thắc mắc là tại sao chúng tôi lại đi gói tách cà-phê cùng với cà-phê trong đó, xin được thưa rằng: chúng tôi không ngớ ngẩn như vậy. Chúng tôi NGỚ NGẨN HƠN THẾ RẤT NHIỀU. Ðiều mà chúng tôi đã làm là TRẢ TIỀN THUÊ NGƯỜI KHÁC để gói tách cà-phê ấy lại.
Tôi muốn nói đến ở đây là những thợ chuyển nhà chuyên nghiệp. Họ học thành nghề tại những trường đào tạo đặc biệt. Ðây là ví dụ trong một bài trong kỳ thi tốt nghiệp:
Khi bạn đang gói ghém đồ đạc cho khách hàng thì đột nhiên bạn phát hiện một thi thể mình đầy thương tích trong nhà. Bạn phải làm gì trong tình huống ấy:
a. Gọi xe cứu thương.
b. Báo cảnh sát.
c. Gói ghém cẩn thận trong giấy báo và xếp vào hộp các-tông.
Tất nhiên câu trả lời đúng là câu (c) -- một thợ chuyển nhà chuyên nghiệp phải có trách nhiệm gói ghém cẩn thận BẤT KỲ THỨ GÌ. Nếu như hồi chiến tranh vùng vịnh năm 1990, tổng thống George Bush cử một đoàn thợ chuyển nhà chuyên nghiệp sang Kuwait thì chắc chắn hôm nay toàn bộ quân lực Iraq đã được gói lại cẩn thận trong hàng triệu chiếc hộp để ngoài sa mạc và được dán một loại nhãn giống nhau: "IRAQ" (hoặc là "BETH" cũng vậy). Và ngài Saddam Hussein phải mất vài thập kỷ mới khôi phục được quân đội: "Thử mở hộp này xem trong đó là gì nhỉ... úi chà! Lại hạ sĩ! Không biết bọn binh nhì của mình được xếp vào hộp nào kia chứ!"
Ðấy chính là tình huống của chúng tôi hôm nay, đầy nhà những hộp là hộp.
Hôm nay vợ chồng tôi phải chuyển nhà vì ngôi nhà cũ đã hư hỏng sau vụ núi lửa Andrew. Mới đầu chúng tôi tưởng rằng có thể sửa lại được, nhưng đến khi xem bản dự toán của tay chủ xây dựng:
Chủ xây dựng:Ðấy, hai ông bà thấy chỗ kia chứ? Chúng tôi:Chỗ nào nhỉ? Chủ xây dựng:Chỗ cái cây đổ trên dầm cái ấy. Chúng tôi:Cái đấy gọi là ''dầm cái'' à? Chủ xây dựng(nói với tay giúp việc):Quay ra xe lấy bản dự toán lại đây. Tớ phải điền thêm mấy con số không vào mới được.
Vậy là cần phải đại tu căn nhà cũ. Mà quý vị biết đấy, để đưa căn nhà trở về nguyên trạng ban đầu, vợ chồng tôi phải qua ba bước như sau:
Bước 1: Chúng tôi chuyển ra khỏi nhà.
Bước 2: Chúng tôi dọn đến tạm ở một nơi trung gian.
Bước 3: Chúng tôi chết già ở đấy.
Lý do của bước số 3 là thời gian để đại tu một căn nhà -- không tin, quý vị thử hỏi ai đó đã từng đại tu nhà mà xem -- là không thể kết thúc trong thời gian sống của quý vị được.
Cuối cùng sau khi bán căn nhà cũ cho một người tên là Frank, chúng tôi cũng đã dọn đến nhà mới. Một căn nhà hoàn toàn mới, ở đó mọi thứ như bồn nước, máy giặt đều hoạt động, tường và sàn đều trát kín và sạch sẽ, hơn nữa đằng sau nhà không bốc ra một cái mùi ẩm thấp và hôi hám. Tóm lại là hoàn toàn khác ngôi nhà cũ (xin lỗi Frank, hy vọng cậu sẽ sớm quen thôi!) Và khi lần đầu tiên trong đời chúng tôi được bước vào nhà mới của chính mình, thì một cảm giác lâng lâng khoan khoái dễ chịu tràn ngập trong khoảnh khắc 10 giây, đó là thời gian đủ để chú chó thứ hai của chúng tôi, Zippy, tìm được một chỗ đệm trắng và làm bậy một bãi (chuyện thật, không bịa tí nào). Nhưng vợ chồng tôi không hề phạt nó, vì biết rằng trong đầu nó đang diễn ra phép tư duy lô-gic tam đoạn luận của loài chó:
Không được đi bậy trong nhà mình.
Ðây không phải là nhà mình.
===> Vậy, có thể đi bậy.
Tất nhiên chúng tôi nhanh chóng quên đi lỗi lầm của Zippy vì còn có nhiều việc khác phải làm cho ngôi nhà mới. Chẳng hạn tạo vài đường rạch trên thảm cũng như hàng đống vết tay trên tường. Và chúng tôi bắt đầu làm ngay, với mong muốn tràn trề sẽ được đón nhận nhiều năm tháng hạnh phúc ở căn nhà mới này. Trong thời gian chờ đợi ấy, chúng tôi hy vọng sẽ may mắn xác định được cái hộp đựng thằng cu Rob con trai tôi.
Tôi viết bài này với mong muốn giúp đỡ các em học sinh phổ thông có được lựa chọn đúng đắn và thích hợp khi thi vào đại học.
Tất cả các em học sinh hiện nay đều cân nhắc rất nghiêm túc khi chọn và thi vào các trường đại học. (Tất nhiên, đó là chuyện bịa. Chỉ có hai việc mà thanh niên thực sự nghĩ đến: karaoke và trai gái. Nhưng xét cho cùng, chúng cũng có liên quan đến trường đại học.)
Trường đại học là một tập hợp các gian phòng mà các em sẽ ngồi ở đó trong khoảng 2000 tiết để ghi nhớ kiến thức. 2000 tiết này được chia trải qua 4 năm; thời gian còn lại dành để ngủ và hò hẹn.
Có hai loại kiến thức cơ bản sau đây:
· Kiến thức cần thiết cho cuộc sống sau này (2 tiết); bao gồm cách gọi điện thoại theo dịch vụ mà người nhận điện trả cước phí, và cách tẩy vết ố cà-phê hay nhựa cây trên quần áo pi-ja-ma.
· Kiến thức không cần thiết cho cuộc sống sau này (1998 tiết); bao gồm các môn học có tên tận cùng bằng ology, osophy, istry, ics , v.v. Phải học như thế này: các em ghi nhớ những gì thầy giảng, chép chúng lại vào bài thi, và sau đó quên chúng đi. Nếu chẳng may không quên được thì các em sẽ trở thành giáo sư và suốt đời không ra trường được.
Quên được mọi việc là điều rất khó. Chẳng hạn hồi tôi học ở đại học, tôi cần phải ghi nhớ (đừng hỏi tại sao) tên của ba nhà thơ theo chủ nghĩa siêu hình kiểu như John Donne. Thực ra tôi đã cố quên được một tên, nhưng hai cái tên còn lại, Vaughan và Crashaw, vẫn chưa quên được. Nhiều lúc tôi cần phải ghi nhớ những điều quan trọng hơn, như vợ tôi dặn là phải mua cá ngừ ngâm dầu chứ không phải ngâm nước, nhưng hai cái tên Vaughan và Crashaw cứ hiện lên trong đầu, chính cái lúc tôi đang trong siêu thị. Thật là vô cùng lãng phí những nơ-ron thần kinh một cách không cần thiết.
Sau một đến hai năm khoa học cơ bản, là lúc các em lựa chọn chuyên ngành, tức là môn học mà các em cần phải nhớ nhiều nhất và quên các môn khác đi. Ðây là một lời khuyên quan trọng: đừng chọn các môn liên quan đến Hiện Tượng Ðã Biết và Câu Trả Lời Ðúng.
Ðiều đó có nghĩa là các em không nên chọn toán học, vật lý học, sinh vật học hay hoá học; bởi vì chúng liên quan đến những Hiện Tượng Ðã Biết hoặc Câu Trả Lời Ðúng. Ví dụ, nếu các em chọn toán học và vào một ngày đẹp trời thầy giáo hỏi, "Lấy cô-sin của góc phần tư, sau đó căn bậc ba và lấy 5 chữ số chính xác sau dấu phẩy". Nếu các em không nói đúng cái số mà ông giáo có trong đầu, các em sẽ trượt. Hoá học cũng thế. Nếu các em viết trong bài thi rằng các-bon và hy-dro kết hợp lại sẽ thành cây sồi, các em trượt ngay. Ông giáo muốn các em phải nói đúng cái điều mà ông ấy biết và các nhà hoá học khác cũng cho là đúng. Các nhà khoa học luôn chặt chẽ và khắt khe như thế.
Tóm lại các em nên chọn các môn như: văn học, triết học, tâm lý học, hay xã hội học. Ðó là các môn mà không ai hiểu được trọn vẹn, người ta cũng không đồng nhất quan điểm, và hầu như không có các sự kiện thực tế rõ ràng. Tôi đã kinh qua bốn môn trên, nay xin tóm lược như sau.
VĂN HỌC:
Các em sẽ phải viết những bài luận về những cuốn sách dày cộp mà các em chỉ kịp đọc lướt tên những đề mục trước khi vào phòng thi. Ðây là cách đạt điểm cao môn văn: các em đừng bao giờ viết điều mà một người bình thường khác cũng viết. Ví dụ, các em được giao nghiên cứu cuốn ‘Moby Dick’. Một người bình thường khác sẽ viết rằng Moby Dick là một chú cá voi trắng vì chữ ‘cá voi trắng’ được đề cập đến 11000 lần ở trong sách. Các em hãy viết Moby Dick là Cộng hoà Ai-Len. Ông giáo vốn đã mệt mỏi vì đọc hàng đống bài giống nhau, hơn nữa ông cũng đâu có ưa gì Moby Dick, và các em sẽ đạt điểm sáng tạo rất cao. Nếu các em có khả năng dựng đứng mọi việc từ một tiểu thuyết đơn giản, các em chắc chắn sẽ thành công trong môn văn.
TRIẾT HỌC:
Ðiều cốt tuỷ triết học là ngồi suy tư một mình nhiều giờ trong một căn phòng, quả quyết rằng trên đời này chẳng điều gì là có thực cả, sau đó đi ăn.
TÂM LÝ HỌC:
Ðối tượng nghiên cứu của các nhà tâm lý học là chuột và giấc mơ. Suốt một học kỳ liền tôi đã dành để huấn luyện một con chuột sao cho nó bấm vào một nút với một tần suất nhất định, sau đó tôi huấn luyện anh bạn cùng phòng làm được như vậy. Con chuột học nhanh hơn nhiều. Còn anh bạn tôi bây giờ là bác sỹ. Nghiên cứu giấc mơ cũng rất thú vị. Tôi có một ông giáo luôn tuyên bố rằng bất kể điều gì ta mơ thấy–máy kéo, Arizona, bóng chày, hay ếch nhái–đều liên quan đến bộ phận sinh dục. Ông luôn luôn quả quyết như vậy. Không một ai muốn ngồi cạnh ông cả. Nếu các em thích chuột hoặc mộng mị, hoặc nếu tốt hơn là thường xuyên mơ thấy chuột, các em chắc chắn sẽ thành công môn tâm lý học.
XÃ HỘI HỌC:
Ðây chính là môn thông tuệ số một. Tôi đã tham dự nhiều giờ về xã hội học và đọc hàng tấn sách liên quan, nhưng chưa lần nào gặp được một câu, một mệnh đề sáng sủa, rõ ràng cả. Những nhà xã hội học luôn tỏ ra mình là một nhà khoa học, vì thế hầu hết thời gian và công sức được dành để chuyển đổi một điều đơn giản, rõ ràng thành những câu văn trịnh trọng khó hiểu và nghe có vẻ khoa học. Nếu các em định theo môn này, các em cũng cần học cách làm như vậy. Chẳng hạn các em muốn nói rằng khi một em bé ngã nó sẽ khóc, các em hãy viết thế này: "Những quan trắc thống kê về hành vi sơ khởi của những người vị thành niên đã cho thấy rằng có một quan hệ hữu cơ giữa hành động rơi xuống nền đất cứng với hoạt động phối hợp giữa tuyến lệ và thanh quản, gọi là ‘hành vi khóc’...." Nếu các em viết liên tục được 50—60 trang như vậy, chắc chắn sẽ được chính phủ đặc cách trao giải thưởng lớn.
Mỗi người chúng ta nên chọn cho mình một nghề nghiệp. Một công việc ổn định sẽ đem đến cho quý vị tiền bạc để tiêu, và một cái gì đó để làm từ Thứ Hai đến Thứ Sáu hàng tuần, khi mà chương trình ti-vi chẳng có gì thú vị.
Có một thực tế: mặc dù nhiều bạn trẻ rất muốn, nhưng tìm cho được một việc làm tốt để mở đầu cho một sự nghiệp tiến thân lâu dài, là một trong những khó khăn bậc nhất hiện nay. Hãy tin tôi, dẫu thế nào đi nữa, hoàn cảnh bây giờ vẫn còn tốt hơn rất nhiều so với những năm trước đây. Thí dụ thời Trung cổ chẳng hạn, chỉ có hai việc làm tốt, đó là làm vua và làm quý tộc. Hơn nữa hầu như không có cơ may cho quý vị thi tuyển vào những chức vụ này. Vì vậy người ta hầu hết đành chọn vào làm nông nô hoặc chiến binh. Mục ‘Tìm Việc’ ở một tạp chí thời Trung cổ thường có nội dung kiểu như sau:
CẦN TUYỂN NÔNG NÔ–Yêu cầu thành thạo chăn dắt và ăn ngủ với cừu; biết làm đất và gieo hạt bằng que. Phải tự trang bị que. Cừu sẽ được giao khi nhận việc.
CẦN TUYỂN CHIẾN BINH–Yêu cầu thành thạo đâm chém và cướp bóc. Có thói quen sống tập thể và ở ngoài trời.
Những việc làm như vậy nói chung không hứa hẹn tiến thân là mấy. Cứ cho là quý vị làm suất sắc công việc một nông nô đi nữa, thì cùng lắm là quý vị dành dụm được ít tiền và trở thành nông dân. Còn nếu quý vị là một chiến binh tận tuỵ? May lắm là sau hai mươi năm chinh chiến, tiểu đội trưởng sẽ tặng quý vị một chiếc đồng hồ vàng, và rồi sẽ giết quý vị để đoạt lại.
Tình hình bây giờ đã khá hơn nhiều. Nhưng quý vị vẫn phải hết sức thận trọng khi lựa chọn công ăn việc làm, bởi vì rất dễ bị thông tin đánh lừa. Chẳng hạn nếu quý vị xem quảng cáo trên ti-vi để tìm việc, quý vị sẽ được thuyết phục rằng nếu gia nhập quân đội, thì khi giải ngũ quý vị đã tiếp thu được rất nhiều kỹ năng nghề nghiệp. Chắc quý vị hiểu tôi muốn nói cái quảng cáo nào rồi chứ: họ chiếu những người lính đang sửa chữa xe tăng hoặc đang nhảy dù trên ti-vi. Tôi không định nói rằng những kỹ năng nghề nghiệp ấy là không hữu ích. Tôi chỉ muốn nói rằng những nhân vật tầm cỡ ngoài xã hội, ví dụ như tổng giám đốc điều hành IBM, hầu như không bao giờ có nhu cầu phải sửa xe tăng hay nhảy dù gì cả. Những doanh nhân thực sự thành đạt bao giờ cũng đợi hạ cánh an toàn rồi mới bước ra khỏi máy bay.
Một nguồn thông tin sai lệch nữa là trường học. Thầy giáo ở trường luôn dạy học sinh rằng nếu muốn thành công trong sự nghiệp, thì học sinh phải học và ghi nhớ rất nhiều kiến thức, ví dụ thủ đô của Bolivia tên là gì. Quý vị có thật sự tin rằng một người thành đạt có thể nói được tên thủ đô của Bolivia không? Tất nhiên là không. Chỉ có mỗi một người có thể nhớ được tên thủ đô của Bolivia: đó chính là thầy giáo. Liệu quý vị có muốn trở thành giáo viên hay không? Liệu quý vị có muốn dành trọn thời gian còn lại của cuộc đời mình để đứng trên bục và giảng dạy cho một lũ trẻ thò lò mũi xanh rằng chúng phải nhớ tên thủ đô của Bolivia là gì hay không? Tất nhiên là không. Ðiều quý vị muốn là làm thế nào kiếm được nhiều tiền, được ngồi trong một văn phòng sang trọng, tiện nghi đầy đủ, có nhiều nút ấn và chỉ cần ấn một nút là có ngay một tách cà-phê. Kết luận: quý vị nên ghi nhớ càng ít càng tốt những kiến thức vô bổ ở học dường và sau khi tốt nghiệp hãy kiếm ngay một công việc trong chính phủ.
Chính phủ là nơi có rất nhiều công việc hấp dẫn. Ví dụ nếu quý vị được làm cựu tổng thống Hoa Kỳ chẳng hạn. Ðây là công việc rất hời, quý vị được trả lương hậu hỹ và hầu như không phải làm gì cả. Việc duy nhất quý vị phải làm là viết hồi ký, và thực ra hồi ký ấy cũng sẽ chẳng có ai đọc. Nếu được làm cựu tổng thống, quý vị chỉ cần dở một trang ở quyển bốn cuốn Bách Khoa Toàn Thư Liên Hiệp Anh và chép ra, rồi tuyên bố đó là hồi ký của quý vị.
Quý vị cũng nên thử vào làm chánh án toà án tối cao quốc gia. Lương cũng cực kỳ hấp dẫn và quý vị hầu như sẽ không bao giờ bị đuổi việc, trừ khi quý vị bị phóng viên đưa lên báo là đang ở trần truồng ngoài đường hoặc một cái gì đó tương tự. Quý vị cũng sẽ không nhất thiết phải hiểu biết gì về Pháp luật. Nếu bị ai hỏi, một chánh án toà án tối cao chỉ cần nói, "Tôi chưa thể kết luận được. Hãy để tôi tham khảo ý kiến hai bên và ý kiến các luật sư khác." Sau đó quý vị chỉ cần bỏ phiếu theo số đông là xong. Công việc thực sự duy nhất mà quý vị phải làm là mặc bộ đồ váy của chánh án.
Nếu không thể kiếm được việc làm trong Chính phủ, quý vị có thể thử sang làm bên các hãng tư nhân và cổ phần. Tất nhiên công việc ở đây không được hời lắm như công việc trong Chính phủ, bởi vì đa số các hãng đều đòi hỏi quý vị phải thực sự làm việc. Hiển nhiên công việc tốt nhất là làm tổng giám đốc điều hành, mặc dù chức vụ này cũng tiềm tàng nhiều cạm bẫy. Chẳng hạn khi Lee Iaccocca được làm tổng giám đốc điều hành hãng Chrysler, ông ấy cứ tưởng rằng sẽ được ngồi yên suốt ngày trong văn phòng, ăn vận và chi tiêu những thứ đắt tiền, và thỉnh thoảng ký vào các giấy tờ do thư ký đưa lên. Nhưng thay vào đó, thỉnh thoảng ông lại phải xuất hiện trước công chúng, trước những phóng viên truyền hình, rồi phải bị bẽ mặt trước hàng loạt câu hỏi, và cuối cùng phải tuyên bố rằng nếu ai mua ô-tô của ông, ÔNG SẼ TRẢ TIỀN cho người ấy.
Có lẽ công việc tốt nhất trong lãnh vực công ty tư nhân và cổ phần, là làm công nhân xây dựng. Thoạt nghe thì đó có vẻ là một công việc nặng nhọc, suốt ngày bưng bê các đồ vật nặng để xây nhà cao ốc. Nhưng quý vị thử quan sát thật kỹ những công nhân xây dựng xem, họ có làm gì đâu. Họ chỉ đi đi lại lại, uống cà-phê và hò hét với nhau. Chứ tôi có thấy họ xây dựng toà cao ốc nào đâu. Tôi cũng thật sự không biết ai xây dựng những toà nhà ấy. Phải chăng chúng được xây vào đêm. Có lẽ do những bàn tay của nông nô.