Cùng với sự thức tỉnh giới tính, việc tránh thụ thai trở thành vấn đề quan trọng ở tuổi vị thành niên. Những nghiên cứu mới đây cho thấy: thiếu niên, mặc dù đôi khi cũng có những hiểu biết về lý thuyết, đã biểu lộ sự thờ ơ hay thậm chí “từ chối” không sử dụng những biện pháp tránh thai.
Quan hệ tình dục đặc biệt là quan hệ lần đầu, 80% đều không được chuẩn bị trước. Sự không chuẩn bị trước này cùng với sự đánh giá sai về nguy cơ mang thai có thể là những lý do chính của việc không sử dụng bất cứ một biện pháp tránh thai nào. Luật về tự do phòng tránh và phá thai của Pháp cho phép cung cấp thuốc tránh thai cho trẻ em không cần đến sự đồng ý của cha mẹ lẫn sự kiểm soát tên tuổi. Việc này đã loại bỏ được những trở ngại bên ngoài lớn nhất, tức là yêu cầu của các cô, cậu thiếu niên đã được chấp nhận bởi các bác sĩ. Hiện nay ở châu Âu cũng như ở Mỹ, các nhà chức trách y tế, mặc cho những thay đổi về pháp chế, họ có xu hướng và thái độ ủng hộ việc bảo vệ thiếu niên có quan hệ tình dục chống lại nguy cơ mang thai. Thiếu niên và cha mẹ chúng phải biết điều này.
- Mọi quan hệ tình dục ngay cả chỉ một lần duy nhất đều có thể dẫn tới việc mang thai ngoài ý muốn.
- 1/3 số những cô gái trẻ có quan hệ tình dục đã mang thai bắt buộc phải tiến hành phá thai lén lút.
- Dưới 1/4 các cô gái ngày nay sử dụng một biện pháp tránh thai hiệu quả ngay lần quan hệ đầu tiên.
Ngày nay, vai trò của bác sĩ và của nhà giáo dục không chỉ sẵn sàng cung cấp những thông tin khách quan về việc tránh thai mà cần phải thông qua những cuộc gặp gỡ, khuyến khích nhu cầu tránh thai và chuẩn bị cho giới trẻ đảm nhận nó ngay cả khi thình lình xảy đến những lần quan hệ tình dục chưa được chuẩn bị trước, cũng như chính cấu trúc vẫn còn chưa định hình nhân cách cá nhân của lứa tuổi thiếu niên.
Tránh thai ở thiếu niên
Trong vài thập kỷ trở lại đây, mức độ thường xuyên của quan hệ tình dục ở thiếu niên ngày một tăng. Có 3 yếu tố tác động vào trạng thái này:
- Tuổi dậy thì sớm hơn 3 năm kể từ đầu thế kỷ.
- Quan hệ tình dục ngày càng diễn ra sớm hơn. Ở một số nơi như Mỹ 30% số các cô gái trẻ có quan hệ tình dục trước 15,5 tuổi.
- Số những thiếu niên có quan hệ tình dục đi theo một đường cong đi lên, trong khi việc sử dụng các biện pháp tránh thai lại không đi theo đường cong song song với đường cong đi lên của việc quan hệ tình dục sớm. Giáo dục giới tính ở nhà trường phải được coi như một mục tiêu. Đặc biệt, chú trọng khuyến khích áp dụng biện pháp tránh thai trong lần quan hệ tình dục. Thiết lập sớm việc tránh thai thực sự hiệu quả khẩn thiết hơn nhiều so với những chỉ dẫn cảnh báo về tăng trưởng thụ thai ở thiếu niên.
Vậy mang thai ở tuổi thiếu niên đã trở thành một vấn đề mang tính xã hội học với những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về mặt y tế sức khỏe (tỷ lệ lớn của thai non, của thai suy dinh dưỡng, của tỉ lệ thai nhi chết khi sinh) và cả về mặt tâm lý - xã hội.
Việc sinh ra một đứa trẻ mà mẹ nó không thể đảm nhận về tài chính cũng như tình cảm sẽ đẩy người mẹ trẻ này ra khỏi lề xã hội đầy rẫy những khinh miệt và thường xuyên gặp khó khăn lớn về kinh tế. Sự non nớt về mặt trí tuệ và tình cảm; xã hội, nghề nghiệp và tương lai gia đình của cô có nguy cơ sụp đổ.
Điều đó muốn nói rằng giải pháp tốt nhất vẫn là sự chủ động. Phá thai có chủ ý đặc biệt có hại vào độ tuổi này. Trong bất cứ trường hợp này, người thiếu niên phải được thuyết phục rằng phá thai có chủ ý chỉ là một biện pháp cứu cánh trong trường hợp sơ xuất hay thất bại vì không làm chủ được trong cuộc tình. Không được coi phá thai như một biện pháp tránh thai. Những tác động cục bộ lên bộ phận sinh dục còn quá non nớt và những ấn tượng thô bạo về tình dục không phải là những điều có thể dễ dàng bỏ qua được, đó là điều chúng ta muốn nói.
Tính 2 mặt đối với việc tránh thai:
Tất cả các cuộc điều tra đều khẳng định: thiếu niên phát triển tính kháng cự đối với việc tránh thai trong ý nghĩa của nó cũng như trong việc sử dụng nó. Có đến 80% trường hợp quan hệ lần đầu không có sự chuẩn bị. Việc thiếu sự tránh thai có thể lý giải bởi những nguyên nhân khác nhau: thiếu thông tin, thiếu giáo dục, nhất là một sự kích thích nào đó của chức năng làm mẹ đã đẩy bé gái lo lắng về khả năng thử sức sinh sản của mình.
Sự từ bỏ không đúng lúc một biện pháp tránh thai có nhiều nguyên nhân: hầu như quan hệ tình dục lần đầu chỉ là thoảng qua và ít khi dẫn tới mối quan hệ tình cảm lâu dài. Vì vậy các cô gái không nên từ bỏ các biện pháp tránh thai. Nếu các biện pháp tránh thai có phản ứng đối với cơ thể, bác sĩ cho ngừng dùng song có thể tìm biện pháp nào khác thay thế, khắc phục.
Rõ ràng nhiều người không biết rằng tránh thai là một phương tiện tốt nhất để bảo vệ bộ máy sinh dục chống lại chứng bệnh truyền nhiễm (MST). Thật vậy, nhờ hoạt động của nó trên dịch nhầy cổ tử cung mà nó ức chế sự tiết dịch, thuốc tránh thai chống lại tác động gây hư hỏng cho cơ quan sinh dục, vậy không thụ thai sẽ tạo thuận lợi an toàn cho nó. Đó là lý do vì sao nên sử dụng các hình thức tránh thai, nhất là ở những thời điểm có nguy cơ thụ thai cao.
Ngày nay, thuốc tránh thai vẫn luôn là một trong những biện pháp tốt nhất mặt dù giờ đây ta đã có loại RU486. Loại này được uống quá ngày thứ 28, dễ dàng dẫn đến sự phá hủy thai sớm, không hề có một ảnh hưởng nào ngoài một vài sự băng huyết. Nhưng người ta phải tin chắc bằng liệu pháp échographie, sự tiết dịch của cổ tử cung là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên rất nhiều nữ thiếu niên do thiếu thông tin cho rằng: thuốc tránh thai là nguyên nhân dẫn đến một số bệnh như vô sinh, ung thư và cả sự tăng cân. Nỗi sợ hãi thiếu căn cứ này có vẻ không làm giảm đi sự lựa chọn việc tránh thai của nữ thiếu niên.
Thực tế chỉ tồn tại duy nhất một nguy cơ sau khi dùng thuốc tránh thai đó là chứng tim mạch. Nguy cơ này tăng lên cùng với việc sử dụng thuốc, nhưng vấn đề này không đặt ra ở độ tuổi thiếu niên.
“Thuốc tránh thai của ngày mai” luôn là sự trợ giúp hoàn toàn phù hợp với thiếu niên trong trường hợp nghi ngờ tác dụng của nó. Thuốc này có tác dụng sau nhiều nhất là 72 giờ.
Uống 2 viên estroprogestatives định lượng 50mg Ethinyl - estradiol, uống thêm lần nữa trong khoảng 12 giờ đủ làm ngừng sự tiến hóa của trứng tình cờ được thụ tinh.
Việc ngừa thai âm đạo ở nữ thiếu niên cũng đặt ra những vấn đề đặc biệt.
Việc ngừa thai âm đạo ban đầu thường ít hấp dẫn (spermicides được kết hợp hoặc không với một rào chắn) có nhiều điểm thuận lợi và không cần phải có chỉ dẫn sử dụng. Nó phù hợp một cách hoàn hảo với việc tránh thai ngoài miệng giống như phương pháp vùng đệm.
Bao cao su hay viên nén âm đạo được phủ clorure de benzalkonium tỏ ra không chỉ là một phương pháp tránh thai tuyệt vời mà còn là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu chống lại phần lớn những chứng bệnh truyền nhiễm (MST) và chống lại virus HIV. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau.
Thuốc phòng ngừa dành cho cậu con trai
Nó đã trở thành sự quan tâm mang tính thời sự từ khi bệnh dịch AIDS hoành hành. Nó tỏ ra là một liệu pháp vaccin tốt nhất chống lại căn bệnh này. Việc phòng ngừa chứng tỏ tính hiệu quả khi dùng nó chống lại bệnh lậu và hàng loạt thứ bệnh tình dục khác như chlamydiaes, trichômnases, mycose và herp erts và hiển nhiên là cả chứng “dịch hạch” toàn cầu HIV/AIDS. Cuộc điều tra của các gia đình nạn nhân AIDS cho thấy người bệnh đa phần không hề sử dụng biện pháp phòng ngừa nào. Trong khi đó ở gia đình có sử dụng biện pháp tránh thai thì không hề có một sự lây lan truyền nhiễm AIDS nào theo đường tình dục.
Tuy nhiên ở Pháp, những biện pháp phòng ngừa vẫn chưa trở thành một phương tiện phòng ngừa và tránh thai chủ yếu. Trong khi ở Nhật Bản có tới 70% số nam giới nhờ cậy đến bao cao su thì ở Pháp chỉ có 6-7% nam giới sử dụng. Và đặc biệt các biện pháp phòng ngừa thai vẫn chưa thuyết phục được các lứa tuổi tận dụng, nhất là giới trẻ.
Vậy đâu là nguyên nhân gây trở ngại trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai?
1. Giới trẻ nhìn nhận nó như một sự cản trở thoải mái, nhanh nhẹn. Thực sự nỗi xúc động mạnh của lần quan hệ đầu gây rất nhiều khó khăn cho việc sử dụng một biện pháp phòng ngừa.
2. Chúng sợ người khác sẽ nghĩ xấu về ý nghĩa và hành động của chúng, rằng chúng sẽ bị nghi ngờ bị nhiễm một căn bệnh nào đó.
3. Sự thiếu kinh nghiệm kiến chúng sợ hãi trong việc sử dụng đúng biện pháp phòng ngừa.
Và cuối cùng ít nhất là 90% các cậu vẫn tiếp tục nghĩ rằng trách nhiệm tránh thai là thuộc về các cô. Cái đó có thể giải thích, nhưng không thể tha thứ cho việc 90% các cậu bỏ rơi bạn gái sau khi mang thai. Tuy nhiên, tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn chắc chắn sẽ giảm đi đáng kể nếu các cậu chấp nhận hợp tác cả đôi bên để dùng các biện pháp tránh thai.
Kết luận:
Việc tham vấn biện pháp tránh thai cho thiếu niên bao hàm cả tính tâm sinh lý đặc biệt. Nó cần phải lưu ý tới một vấn đề cốt yếu. Tỷ lệ thất bại của các biện pháp tránh thai ở thiếu niên cao hơn những tuổi khác.
Việc tham vấn này có thể là cơ hội cho một khởi đầu đối thoại về những vấn đề luôn bận tâm của độ tuổi thiếu niên. Chứng bệnh truyền nhiễm, nỗi sợ hãi về sự dị thường của các cơ quan sinh dục, những vấn đề về quan hệ tình dục. Vì thế mà vai trò của bác sĩ và các nhà giáo dục không phải chỉ cung cấp những thông tin khách quan về các biện pháp tránh thai mà cả những thông tin chuẩn bị cho bọn trẻ sẵn sàng đón nhận sự phát triển giới tính của chúng bằng cách khuyên bọn trẻ luôn để tâm tới sự phát triển đó để phát hiện những bất thường và sự không định trước của quan hệ tình dục.
Một giáo viên luôn phải bận tâm tới giới hạn thời gian và chương trình dạy học, liệu người giáo viên ấy có thời gian để lắng nghe học sinh trình bày quyền được thỏa mãn, nhu cầu của cơ thể, nhu cầu về các mối quan hệ, nhu cầu được nhìn, nghe, được nhận biệt, được đánh giá cao và được âu yếm của các em không? Ngày nay, trường học dạy mọi cái trừ những cái có thể giúp cho mỗi cá nhân làm nảy nở những mối quan hệ của mình với người khác.
Ở nước Pháp, những người sử dụng biện pháp tránh thai không vượt quá tỉ lệ 15%. Dù đã có những chiến dịch khuyến mại và cả những kiểm soát ngặt nghèo về chất lượng sản phẩm tránh thai được bán ra. Giới trẻ vẫn luôn có thái độ dè dặt đối với việc tránh thai bởi họ nghĩ dùng nó có thể làm cùn đi cảm giác, khó đặt, nó có thể can thiệp vào mối quan hệ ái dục như một yếu tố thứ 3 và nhất là nó không phù hợp với tình yêu.
Thực tế ngày nay các biện pháp tránh thai là một loại “vaccin” tốt nhất chống lại AIDS.
Giáo dục giới tính ở nhà trường được áp dụng hơn 15 năm nay, nhưng người ta luôn đặt ra các vấn đề rằng đưa loại thông tin như thế vào lớp đã hay và khoa học chưa? Ví dụ:
1. Đâu sẽ là mục đích của những thông tin giới tính này.
2. Giáo viên liệu đã thực sự là một nhà giáo dục giới tính chưa?
3. Đâu là những trở ngại phải vượt qua?
4. Những thể thức của nó như thế nào?
Đâu sẽ là mục đích của thông tin giới tính?
Mọi thông tin giới tính phải đảm bảo 3 mục tiêu:
a. Trước hết phải là thông tin đầy đủ và khách quan nhất có thể, không giới hạn thông tin chỉ ở sự sinh sản. Rất nhiều thiếu niên nghĩ sai lệch rằng sẽ có những biến đổi khủng khiếp ở tuổi dậy thì, chúng cảm thấy khó chịu và không hòa nhập được cảm giác cũng như hoạt động của chúng. Việc học những bài đầu tiên về quy luật tự nhiên chắc chắn sẽ đem lại một sự chấp nhận tốt nhất về hình ảnh cơ thể của họ và một mối quan hệ tốt nhất với người bạn khác giới.
Chúng tôi không lưỡng lự khi đề cập đến trong cuốn sách này những chủ đề về nghi thức khởi đầu có ưu thế ở lớp công dân tương lai. Chứng tỏ cho thiếu niên thấy có những sự thay thế tình dục thực sự và không một trường hợp nào thông tin giới tính lại chỉ thâu gọn ở vấn đề quan hệ tình dục.
b. Thứ 2, cần phải cho bọn trẻ thiết lập những cuộc đối thoại trong nhóm bạn cùng lứa tuổi và trong gia đình về sự thay đổi phát triển giới tính của mình.
c. Cuối cùng, việc giáo dục giới tính cần phải đề ra 3 mục tiêu nhằm tạo an toàn cho đứa trẻ về mặt tình cảm, cảm xúc. Nó có thể đạt tới điều này bằng việc thâu nạp một khối lượng từ vựng cùng sử dụng cho cuộc nói chuyện. Bằng dụng ý của nhà giáo dục, đưa cái đặc biệt vào trong cái tổng thể. Đó chính là cách tốt nhất làm tan biến nỗi sợ hãi về sự “dị thường” của một vài bộ phận trong cơ thể, giúp chúng vượt qua nỗi sợ hãi về sự kết tội thường xuyên của cha mẹ hay sự ám ảnh gắn với những ham muốn và khoái lạc tình dục.
Tóm lại, chúng tôi cho rằng “vai trò thông tin giới tính phải ít mang tính thông tin hơn là tính giáo dục”.
Đối với đặc điểm đầu tiên, nhiều giáo viên nhạy cảm với vấn đề mà họ đã đối mặt có khả năng truyền đạt thông tin này. Giáo viên môn khoa học tự nhiên chính là những người tiên phong, đối với họ, giảng dạy về sinh học con người cũng không đặt ra nhiều vấn đề hơn là giảng dạy giới tính của con ốc sên hay con bọ ngựa, tuy nhiên những giáo viên bộ môn khác cũng không vì thế mà tránh nó. Giáo viên lịch sử và địa lý đóng vai trò quan trọng chủ yếu trong việc chỉ ra những thay đổi của đời sống tình dục trong không gian và thời gian. Giáo viên văn là người dẫn dắt tới sự hiểu biết thấu đáo những tác phẩm văn học lớn hay một tác phẩm điện ảnh bằng cách lý giải (chẳng hạn) những động cơ tình cảm, tình dục của Adolphe, của bà Bovary, của Phèdre hay của người kể chuyện trong tác phẩm “Đi tìm thời gian đã mất”. Ngay cả giáo viên toán, vật lý tưởng chừng như không có liên quan gì nhưng lại tỏ ra hữu ích trong việc nhấn mạnh vào những bình luận về giới tính như kiểu về những con số hay như kiểu những ion (=), (-). Giáo viên ngữ pháp cũng có thể lý giải tại sao lại có sự thống trị của giống đực so với giống cái trong một xã hội bất bình đẳng (phallocratique - đè đầu cưỡi cổ vợ).
Thực vậy, các giáo viên giảng dạy các bộ môn khác nhau này chỉ có thể tác động lên nhân cách đứa trẻ được tạo thành từ những mảnh ghép bản thể. Nhưng liệu các giáo viên này có thỏa mãn tiêu chuẩn 2 và 3 mà chúng tôi đưa ra trong số những mục tiêu của thông tin giới tính? Rõ ràng là không ai có thể tiến hành làm ngay trong lĩnh vực này mà không hề được đào tạo trước.
Vấn đề về giới tính thực ra hoàn toàn khác xa so với vấn đề vật lý, hóa học hay toán học, nó tác động một cách sâu sắc tới đời sống thầm kín của chúng ta và nó ghi dấu ấn trong nhân cách của chúng ta.
Rõ ràng người giáo viên luôn là nhà giáo dục tốt nhất trong việc làm phù hợp thông tin giới tính và những cấu trúc tâm lý - tình cảm và những yêu cầu đòi hỏi của học sinh. Bằng sự tiếp xúc thường xuyên với học sinh và bằng sự gây mầm trí thức, anh ta có thể tạo ra một không khí thuận lợi cho việc tuyên truyền thông tin này. Gợi ra những câu hỏi và chỉ đề cập tới nó khi nó được đặt ra, ngăn chặn lại sự phát triển đối với vài độ tuổi, điều gì có vẻ như là quá sớm, để rồi đề cập tới nó trong năm học sau khi mà cả nhóm có được sự nhạy cảm hơn bởi một sự kiện thông qua một chủ đề nào đó được chọn bởi chính học sinh, hay một sự tò mò được làm sáng tỏ thông qua một việc rất vặt vãnh dễ thấy chẳng hạn.
Vậy tốt hơn cả là các nhà giáo dục đến từ bên ngoài, anh ta có thể bằng một sự hiểu biết tường tận về nguyên nhân và làm cho phù hợp, có thể tạo ra một cuộc tranh luận, một cuộc đối thoại công khai với những yêu cầu của bọn trẻ.
Đâu là những khó khăn gặp phải?
Giáo viên, các bậc cha mẹ và cả những nhà giáo dục đến từ bên ngoài đều gặp ít nhiều khó khăn. Rõ ràng, giáo viên có ít khó khăn hơn so với các bậc cha mẹ khi kết hợp những ý định, lời nói của họ với những thính giả trẻ tuổi, anh ta quen tiếp xúc với bọn trẻ, anh ta không gây ra những xung đột sinh lý - tình cảm cho bọn trẻ như cha mẹ chúng. Nhưng phải lưu ý một điều là những ngôn từ dùng trong lĩnh vực giới tính có một sự “cộng hưởng” cảm xúc rất lớn. Đối với cái thuộc về ngôn ngữ kèm theo minh họa thì gợi lên cho trẻ một sự nâng đỡ cụ thể về thông tin, vì vậy anh ta phải kết hợp sự chính xác của tính khách quan khoa học và vẻ đẹp tạo hình của hình ảnh để tránh một trong những cái bẫy luôn rình rập trong mọi hình thái thông tin giới tính, cái làm mất đi tính trữ tình, thi ca thiêng liêng của giới tính, tình dục.
Nhưng còn một khó khăn khác của việc thông tin giới tính mà người giáo viên biết rõ. Vấn đề này hướng tới một nhóm gồm cả nam, nữ học sinh cùng lớp và cùng độ tuổi học đường, thật vậy chúng rất khác nhau về hệ thống giá trị của chúng, nó tùy thuộc vào tập tục gia đình, vào những gì đứa trẻ trải qua thời thơ ấu, về mức độ chín chắn của chúng, về cấu trúc tâm thần của chúng, về mức độ tò mò, sự cởi mở của chúng đối với thế giới bên ngoài.
Vì thế mà những thể thức thông tin giới tính ở trường học hay bất cứ đâu đều luôn phải tuân theo những thể thức nghiêm ngặt. Nhà giáo dục không được phép áp đặt dưới bất cứ hình thức nào chương trình quá cứng nhắc và không sắc thái của mình. Hơn tất thảy, anh ta bằng sự có mặt của mình và sự sẵn sàng lắng nghe của mình, cho phép có được một cuộc đối thoại thực sự. Cái cốt lõi là thông qua một bài khóa, một câu chuyện, đứa trẻ có những câu hỏi, những thắc mắc về vấn đề giới tính có thể đặt ra, nói ra và thể hiện ra những ham muốn của mình, những niềm tin của mình và làm tan biến nỗi sợ hãi, nỗi ngờ vực của mình. Mọi khuôn khổ về giờ giấc, về chương trình phải rất linh hoạt, sáng tạo thì thông tin giới tính ở trường học mới thu được kết quả khả quan.
Nó sẽ không còn giống như một thứ môn học bắt buộc bị sấy khô được áp đặt vào trường học, và mỗi đứa trẻ sẽ tìm thấy ở đó sự thật của nó, bởi chính nó là người đưa những câu hỏi và xây dựng lên những câu hỏi.
Việc thông tin giới tính ở nhà trường có phải là sự ngăn cản vô thức của các bậc cha mẹ hay những mong muốn của thiếu niên?
Thông cáo ngày 26/7/1973 ở Pháp đã áp đặt cho tất cả trường học đưa vào trong giờ khoa học tự nhiên giảng dạy về cơ thể, và về sinh lý tình dục của con người (ở mức độ nào đó thì vấn đề giới tính nam nữ đã bị thờ ơ tới tận lúc này mới có điều kiện tìm lại được giới tính của mình), nhưng nội dung dậy còn xa mới tạo thuận lợi cho việc thông tin giới tính và ở mức độ nào đó lại còn bị cản trở bởi sự kết hợp bỏ lửng đến từ những trường lớp khác nhau khi đưa vào áp dụng trên thực tế giảng dạy. Vậy là các bậc phụ huynh tụ họp lại. Hiệu trưởng tỏ ra lưỡng lự bởi họ sợ rằng chắc giáo dục giới tính trong trường sẽ là cái cớ cho một sự lộn xộn. Thông báo ngày 26/7/73 này sẽ tạo nên được một trạng thái rất quan trọng: thông tin về sự tránh thai vẫn luôn là không bắt buộc và để cho các bậc phụ huynh tự do đánh giá. Trong khi đó các bậc phụ huynh cũng có ý kiến rất khác nhau, rất khó có thể đi tới một sự nhất trí chung. Chúng ta biết rằng trong số bọn trẻ 16 tuổi thì có tới 35% sẽ có quan hệ tình dục sau năm đó, 70% trong số này không hề sử dụng bất cứ một biện pháp tránh thai nào trong lần quan hệ đầu. Điều đó chứng tỏ rằng trong những giờ học chính thức về giới tính, những thông tin cung cấp đã bị méo mó và phi lý, thật sai lầm khi nghĩ việc phá thai đã trở thành một biện pháp tránh thai có thể sử dụng tốt được.
May mắn thay, hiện nay những chỉ dẫn này đã được xóa bỏ. Người ta nhận thức rõ giáo dục giới tính được chấp nhận trong chương trình nhà trường, nhưng chính nó lại phản ánh ý muốn áp chế vô thức của người lớn hơn là dấu hiệu mong muốn riêng của bọn trẻ hướng tới. Sự mập mờ này bắt nguồn từ những mục tiêu của việc giáo dục giới tính cũng không hề được chính xác hóa trong tư tưởng người lớn, hơn nữa những tiêu chí của giáo dục giới tính cũng rất dễ gây nhầm lẫn.
Vậy làm thế nào để đánh giá được những tiến bộ thu được nhờ giáo dục giới tính?
Có 4 chỉ tiêu đánh giá chủ yếu:
1. Phát triển những hiểu biết về tình dục.
2. Làm thay đổi thái độ, cách suy nghĩ chưa đúng của trẻ em và thiếu niên đối với sự phát triển tất yếu của giới tính.
3. Sự thay đổi thái độ của những đứa trẻ đối với tình dục.
4. Sự tiến triển của những phán xét đối với những giá trị giới tính gắn liền với bọn trẻ.
Phát triển những hiểu biết về tình dục luôn vẫn là một tiêu chuẩn không rõ ràng. Tồn tại một sự nhầm lẫn giữa giáo dục giới tính và thông tin giới tính. Thông tin giới tính chỉ tóm gọn ở việc thu thập và sự tìm hiểu về vấn đề tình dục, và nó không thể được tuyên truyền một cách “trung tính”. Giáo dục giới tính trái lại là một quá trình có khả năng dẫn chủ thể tới việc tự đặt mình đối diện với vấn đề giới tính, tình dục của mình.
Có một sự khác biệt đáng kể giữa việc biết về một hiện tượng và đặt mình trong mối quan hệ với nó. Đó chính là nút thắt của vấn đề.
Hơn nữa, những nghiên cứu mới đây cho thấy, trong cách thức hiện nay, thông tin giới tính không thành công để tạo ra được một sự thiết lập chắc chắn về những hiểu biết giới tính, tình dục.
Việc làm thay đổi thái độ của mỗi cá nhân đối với giới tính chưa thể tiếp nhận như một tiêu chí của hiệu quả, chẳng hạn, sự hiểu biết về biện pháp tránh thai nhưng không dẫn đến việc cá nhân ấy áp dụng để tránh thai. Thiếu niên có thể chỉ nhờ cậy tới nó vào nhiều năm sau hay có khi là chẳng bao giờ dùng nó.
Tiêu chí thứ 3 về sự thay đổi thái độ, nó gây ra sự nghi ngờ đối với giáo dục giới tính trước nguy cơ về một sự truyền dụ khéo. Việc nói tới thái độ của học sinh làm tăng sức mạnh cho nhà giáo dục giới tính trong những bước đầu của sự thay đổi quan hệ giữa thầy và trò trong giáo dục bộ môn này. Như vậy cần phải xác định các mức thang cho từng thái độ đối với giới tính, cái thì tiêu cực, cái thì tích cực. Và rất nhiều trong số những thái độ tích cực chỉ có thể được chứng thực từ một hình mẫu lý tưởng mà người tìm kiếm mày mò tạo dựng nên.
Một số khác lại có xu hướng đánh giá những thay đổi này, cho rằng mọi sự thay đổi tương đương với một sự tiến bộ, và họ sẽ chống lại một cách có hệ thống những thái độ truyền thống. Thật vậy, rõ ràng tồn tại một phương tiện đánh giá thì sẽ có tiêu chí về sự đánh giá, phán xét những giá trị giới tính. Chủ thể phát triển một sự đánh giá sớm trở nên có khả năng xác định một giá trị cho thử nghiệm giới tính của mình và định vị bản thể tình dục của mình trong tổng thể những vấn đề của nhân loại. Từ phép tính cá nhân của mình, anh ta trở nên có khả năng phán xét và quyết định với một sự hiểu biết tường tận những nguyên nhân của vấn đề giới tính của mình, ngay chính trong gia đình, về khía cạnh tôn giáo và về mặt xã hột. Điều đó không có nghĩa là anh ta phải hệ thống vứt bỏ hết những giá trị tinh thần được bảo vệ bởi những yếu tố truyền thống. Chỉ khi đó anh ta mới đạt được sự độc lập trong những phán xử đạo đức.
Những người lớn, nhất là các nhà giáo dục nếu mong muốn xây dựng và duy trì một cuộc đối thoại thực sự với con trẻ, phải thực sự cẩn thận tránh mắc một số sai lầm như:
- Tránh sự sai lầm mang tính phỉnh lừa dung thứ, không tôn trọng hệ thống giá trị riêng của nó: các bậc cha mẹ phải khuyến khích nhấn mạnh vào những giá trị đạo đức mà con trẻ gắn liền trong khi nhận biết được mọi sự lôi cuốn cũng như sức ép tạo ra bởi xã hội “rộng mở và luôn được phép” khoái lạc chủ nghĩa và đầy sự tự phụ lên thái độ, cách suy nghĩ của thiếu niên. Người lớn và nhà giáo dục không được “để mặc nó đi” cũng không phải thật cứng nhắc ép buộc chúng mà thực chất phải uốn nắn chỉ bảo chúng.
- Tránh cài bẫy nhằm đẩy thiếu niên đến một sự tò mò về giới tính (thường xuyên những thông tin cung cấp bởi người lớn trong lĩnh vực này là có lợi cho người cung cấp thông tin hơn là người thâu nhận thông tin).
- Cẩn thận để không gây ra sự hãi hùng thái quá với chứng bệnh truyền nhiễm hay căn bệnh AIDS.
- Các nhà giáo dục và các bậc cha mẹ phải biết rằng mặc dù rất cần sự giúp đỡ nhưng không phải lúc nào bọn trẻ cũng sẵn sàng thảo luận với người lớn về những vấn đề thầm kín của chúng. Chúng thường giữ im lặng hơn là phải đối mặt với việc phán xử về những giá trị mang tính đạo đức của người lớn áp đặt cho chúng những nguyên tắc xử sự mà không hề quan tâm tới nhu cầu sâu thẳm của chúng.
Vậy trước hết những nhu cầu thực sự của thiếu niên về vấn đề thông tin giới tính là gì?
Tất nhiên là những thông tin đề cập tới nguy cơ mang thai: sự tránh thai và tránh bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là thông tin để thỏa hiệp với những tình cảm hai chiều mà chúng phát triển với bạn khác giới, và để giải quyết những mối quan hệ mà việc giáo dục tình cảm giới tính đặt ra, việc học những vấn đề về giáo dục và sự bước chân vào cuộc sống xã hội của chúng.
Bác sĩ có thể can thiệp ra sao vào việc giáo dục giới tính này?
Chúng tôi, những bác sĩ có trách nhiệm phải quan sát, nghiên cứu, chữa trị những hậu quả xấu để lại do việc quan hệ tình dục sớm của bọn trẻ: đó là sự mang thai ngoài ý muốn, bệnh truyền nhiễm, chứng vô sinh phụ nữ do viêm vòi trứng, những đứa trẻ sơ sinh khuyết tật do tuổi người mẹ quá nhỏ, hay những sự giằng co trong bản thân chúng khi mà con trẻ sử dụng bản năng giới tính cho những mục đích phản giới tính. Chúng tôi thực sự nhấn mạnh vào điểm này. Ngày nay, xã hội chuộng khoái lạc tiếp tục khuyến khích một sự hỗn độn tình dục. Trước mặt thiếu niên là những hình mẫu, những thần tượng hoàn toàn được giải phóng, những thử nghiệm trước hôn nhân này một phát triển. Những phương tiện thông tin, phim ảnh, âm nhạc, khuyến khích nó thử nghiệm hoạt động tình dục chỉ vì tò mò chứ không hề mang sắc màu của tình cảm: chúng nhấn mạnh vào sự sợ hãi, vào sự bùng cháy những ngọn lửa cảm xúc, sự lãng mạn, sự hóa thân. Con trẻ ít khi nhận thấy thực tế là hoàn toàn khác, chúng sẽ vỡ mộng với những tình yêu viển vông kèm theo những nỗi buồn chán, những màn bi kịch.
Cái gì đã thúc đẩy những lần quan hệ đầu tiên?
Phần lớn các cuộc điều tra cho thấy vô tuyến truyền hình gây ra một sức ép rất mạnh mẽ. 90% thiếu niên có quan hệ tình dục lần đầu đều đã xem một phóng sự truyền hình có cảnh quan hệ tình dục tuần trước đó. 81% cho rằng bị ảnh hưởng bởi nhạc “pop” hay một bài hát. 70% thú nhận là bị ảnh hưởng bởi đám bạn, bởi phim ảnh, bởi tạp chí. Việc tiếp xúc của nhà thực nghiệm hay nhà nghiên cứu chỉ có thể được xây dựng từ 2 tiền tố. Anh ta phải hành động vì mức độ hiểu biết và cả sự mơ hồ nghi kị đứa trẻ. Mặt khác, không bao giờ được tỏ ra là một ông ngáo ộp hay một nhà đạo đức khắc nghiệt. Trong những điều kiện này, anh ta có thể làm gì?
1. Anh ta có thể vừa phải phân phát những thông tin mang tính pháp lý và khách quan cho phép đứa trẻ đảm nhận sự lựa chọn của chính nó. Anh ta không được sợ đề cập đến những nỗi sợ hãi về sự dị thường dương vật bé, những rối loạn hình thái, những ảo ảnh mà đối với anh ta có vẻ là bất bình thường và có nguy cơ làm tổn hại tới những mối quan hệ của anh ta và của người khác.
2. Nhà thực nghiệm còn có thể giúp làm tan biến những cảm giác cô đơn, khó hiểu, dễ tổn thương (một cái gì đó có ở phần lớn những đứa trẻ như kiểu thiên mệnh). Những cảm giác này dễ dàng làm chúng đến nguy cơ nghiện ngập. Nguy cơ có thai ngoài ý muốn và cả ý định tự tử.
3. Nhà thực nghiệm giúp con trẻ hiểu rõ hơn về ý nghĩa của những mối quan hệ. Thật vậy, một cách tự nhiên đứa trẻ đang cùng yêu, ham muốn và tình cảm làm một. Anh ta có thể giúp con trẻ nhận biết rõ sự khác nhau giữa tình bạn, ngọn lửa cảm xúc, ham muốn tình dục, mối quan hệ nguyên bản sâu sắc và sự gần gũi thầm kín thực sự. Có thể nhấn mạnh rằng, tình dục không hề là một thành phần bắt buộc trong số chúng.
4. Nhà thực nghiệm cuối cùng có thể giúp làm sáng tỏ tính 2 mặt của lứa tuổi thiếu niên. Chúng thường xuyên ý thức rằng những mối nguy của quan hệ tình dục sớm mà không phải lúc nào chúng cũng đảm trách được, đồng thời có lúc vượt qua những lợi ích mà chúng nhận được. Thanh thiếu niên cảm thấy quá khó khăn trong việc kháng cự lại sức ép của những phương tiện thông tin, xã hội, nhóm bạn và của những xung năng trong chính bản thân chúng. Như ta thấy thường xuyên một bộ phim mới, một đĩa nhạc ăn khách, một chương trình vô tuyến hay đều tạo nên những yếu tố lôi cuốn hay gây sức ép. Chính vì nhiều lý do cho thấy quan hệ tình dục ở lứa tuổi này có thể mang tính đe doạ. Một cảm giác bị buộc tội sinh ra từ sự vi phạm đạo đức của cha mẹ, sự lo lắng về khả năng, nỗi sợ hãi vì không thể đạt tới đỉnh cao khoái cảm, hay vì sự chìm đắm trong những mối xúc động không thể kiểm soát được, điều này có nguy cơ làm mất đi những ham muốn tình dục sau này.
Trong những điều kiện như vậy, nhà thực nghiệm phải có thái độ ra sao? Chắc chắn là không phải hù doạ bọn trẻ bằng một chiến dịch chống bệnh truyền nhiễm hay chống lại sự mang thai ngoài ý muốn, cũng không phải chống kiềm chế. Chỉ đơn giản là giúp chúng ý thức về sức mạnh hiện hữu trong phương trình cá nhân của chúng. Nhà thực nghiệm có thể nói với chúng những điều đại loại như: “Tôi nghĩ rằng quan trọng là các bạn phải tự quyết định thông qua những thông tin khách quan và tất cả những hiểu biết về vấn đề mà bạn cần giải quyết; những hậu quả mà các bạn có thể sẽ phải gánh chịu (những hậu quả mà chúng không biết tới hay cho rằng nó dành cho những đối tượng khác). Tôi rất muốn các bạn nghĩ tới những lý do thúc đẩy bạn tham gia vào những chuyện giới tính hay cả những lý do cản trở bạn làm điều đó”. Việc nhấn mạnh vào hậu quả của quan hệ tình dục không chuẩn bị trước cũng là việc nhấn mạnh vào những bước khởi đầu cho phép những cách xử sự tốt: “Làm tình” bao hàm việc người ta biết đến cái nghĩa nguyên gốc của thuật ngữ này để tạo ra một không khí an toàn, đó cũng là việc đã suy nghĩ tới sử dụng tốt nhất các biện pháp tránh thai và phát triển ý nghĩa của những trách nhiệm đối với cuộc sống tình dục và tình cảm.
Như ta đã thấy, vấn đề không phải là sự áp đặt cũng như là những chiến dịch của sự tiết chế giống như chiến dịch chống thuốc lá hay ma túy vậy, trách nhiệm thực sự xuất phát từ hiểu biết tốt nhất về chính mình và những sức ép của môi trường. Vì thế mà những “thử nghiệm” đầu tiên có thể không bị biến thành thảm kịch.
10 yêu cầu dành cho các bậc cha mẹ có con ở độ tuổi thiếu niên:
Trong giao tiếp với trẻ ở độ tuổi thiếu niên, hình thức đôi khi còn quan trọng hơn cả nội dung. Các chuyên gia phải khuyên các bậc cha mẹ và tất cả những người lớn tuân thủ nguyên tắc sau:
1. Không bao giờ được đưa ra một ý kiến khép mà phải đưa ra những ý kiến gợi mở. Con trẻ cũng như bất cứ ai, sự tự nguyện là cái mà họ không cảm thấy bị bắt buộc làm. Để không là kẻ quấy rầy, cần phải tỏ ra sẵn sàng trả lời tất cả các câu hỏi sẽ có thể được đặt ra trong cuộc thảo luận
2. Hãy để cho đứa trẻ kết thúc ý kiến riêng của nó mà không ngắt lời nó.
3. Hãy lắng nghe đứa trẻ và tạo cho nó hứng thú thực sự.
4. Tránh tất cả những câu trả lời, những phản ứng quá xúc động (sự kinh sợ, sự khó chịu) tránh tỏ ra quá sốc. Tránh để xảy ra việc đi khám phá một kẻ dâm dục.
5. Không bao giờ được giăng bẫy con trẻ trong tất cả sự nghịch lý và mơ hồ của nó.
6. Hãy xử lý những thông tin, những ý kiến mà nó chấp nhận chia sẻ với mọi người bằng sự tôn trọng và nhạy cảm.
7. Hãy để cho nó biết những tình cảm của bạn, hệ thống giá trị của bạn, những lời khuyên và cả sự bất đồng ý kiến của bạn nhưng không bao giờ được tấn công vào nhân cách của chúng.
8. Hãy tôn trọng lòng tin của nó.
9. Không bao giờ được sử dụng những thông tin mà nó sẽ dùng làm phương tiện để chống lại bạn.
10. Hãy lướt xem bạn có thể giúp nó như thế nào.
Và vấn đề là sự giúp đỡ về quan hệ hay vấn đề là những cuộc gặp gỡ trị liệu đi nữa thì người lớn sẽ luôn phải tâm niệm 2 điều:
- Thiếu niên phần lớn khá chủ động về mặt tình dục.
- Nhưng chúng kém hiểu biết về vấn đề giáo dục giới tính.
5 - Việc học về vấn đề giới tính và tình cảm của tuổi trưởng thành
Phần 28
Mở đầu
Sự lựa chọn bạn tình chính thức để làm đám cưới hay để sống chung không có hôn nhân, và việc lựa chọn nghề nghiệp là một quyết định mang nhiều hậu quả có sức nặng nhất đối với tương lai của thanh niên. Trước sự lựa chọn này là cả một thời kỳ đầy biến động, đánh dấu sự chuyển đổi từ thiếu niên sang người lớn. Mỗi cá nhân tham gia vào thời kỳ này sẽ hoàn thiện việc học về giới tính và tình cảm. Việc học mang tính thầm kín, tế nhị này tạo nên những mục tiêu cơ bản của thời kỳ mang dấu ấn mơ hồ, nỗi lo âu, và cả những sự thỏa mãn thường xuyên bi kịch hơn là thời kỳ bước vào tuổi thiếu niên.
Tới thời kỳ này anh (cô) ta vẫn phụ thuộc vào sợi dây liên hệ với cha mẹ, tuy nhiên giờ đây người thanh niên sẽ tự quyết định đầy đủ trách nhiệm với những người mà anh thiết lập những mối quan hệ ưu tiên cũng như là mức độ thân mật, đối lập hay xa lánh mà anh ta duy trì đối với họ.
Sự xâm nhập của thanh niên vào cuộc sống xã hội
Trong thời kỳ rối loạn biến động này, thanh niên có nguy cơ biểu lộ một kiểu “say sóng” chia cắt xã hội với những điều mang tính lý tưởng của anh ta. Một mẫu thuẫn như thế không nhất thiết phải dẫn đến tranh đấu về chính trị, vứt bỏ xã hội hay một sự chấp thuận nền văn hóa cộng đồng giống như một lựa chọn chạy trốn. Nó có thể kích thích người thanh niên có cố gắng trong suy nghĩ, trong công việc và nhìn lại mình để có thể đấu tranh tốt nhất chống lại một thứ tình cảm thất vọng hay bất lực. Ta hiểu rõ làm thế nào mà Kafka đã gắng sức giải quyết tình thế làm mất đi nỗi sợ hãi về người khác và cảm giác lo âu khi mình hoàn toàn xa lạ với họ. Cái tôi của anh ta bị thu lại như trạng thái một con bọ cánh cứng sẽ canh gác phòng ngủ cho anh ta. Để giải quyết cái tình thế anh hay nghĩ tại sao tôi lại không làm cái tôi hay làm khi còn nhỏ trong những công việc, tình huống nguy hiểm.
Rất thường xuyên sau một thời gian vô định hướng và đầy lo âu, ngay cả những người thất vọng nhất cũng bắt đầu đi khám phá một thứ cảm giác không phải là quá xa lạ với quỹ đạo hiện sinh của họ.
Lúc này mỗi người có thể quyết định biến cuộc đời mình thành một trò chơi mà học, một câu chuyện phiêu lưu, một tác phẩm nghệ thuật hay chỉ đơn giản là giúp đỡ người khác sống nhằm cảm thấy bản thân mình ít bất hạnh, đáng thương hơn.
Tình bạn
Từ thời kỳ này trở đi, đối với thanh niên, họ cảm thấy rõ rằng: có thể thỏa mãn những nhu cầu của mình bên ngoài khung cảnh gia đình. Về hình thức, anh ta đã đạt tới sự độc lập về mặt cảm xúc, trí tuệ và đạo đức. Nhưng sự tự do của anh (cô) ta không đồng nghĩa với sự nảy nở và phát triển. Anh (cô) ta vẫn còn đang trong sự tìm kiếm chính mình, thời điểm vừa phấn kích lại vừa dễ dàng cảm thấy đau khổ. Chính trong lúc này, hình thành một cách ngẫu nhiên mối liên hệ của anh (cô) với đám bạn để cùng chia sẻ những mối quan tâm và những khó khăn.
Chính nhờ vào tình bạn của Max và Biod mà Kafka đôi khi đã đạt được việc đưa mình ra khỏi “vòng biên giới giữa sự cô đơn và cuộc sống chung” mà cô nhận ra rằng chỉ có thể vượt qua nó một cách hiếm hoi. Hai người thường xuyên lui tới những quán cà phê và quán rượu ở Prague, tham dự vào nhóm bạn, những nơi tụ họp của các nhà văn, những người yêu thích văn học, học đi thăm Bắc Italie, Paris, Weimar. Những sự thầm kín, những điều cần tâm sự thường được gửi gắm cho một người bạn “Tôi tắm biển rất nhiều, phóng xe máy thường xuyên, và ngủ rất lâu trên cỏ bên bờ ao tới tận trưa. Tôi đang ở trong công viên cùng với một cô gái thật phiền phức nhưng thật đáng yêu”.
Từ nay có biết bao mối quan hệ bên ngoài với bạn bè, đồng nghiệp, giáo viên, ông chủ và chúng mang nhiều dấu ấn và tầm quan trọng hơn là những mối quan hệ trong gia đình. Saint-Exuping nói “Sự lớn lao của một nghề, trước hết có thể là việc học tập mọi người… Người ta khám phá ra rằng con người thuộc về một cộng đồng, người ta mở rộng mình bằng cách khám phá về ý thức của những người khác. Sự nảy nở của anh ta chỉ có được trạng thái tốt khi nó phát triển trong một cộng đồng nơi mà thông qua khuynh hướng chung, mỗi người sẽ có trách nhiệm đối với người khác và những người khác với mỗi người”. Anh ta phát hiện ra ở đó có chất lượng trao đổi tốt hơn cả trong mối quan hệ với phụ nữ và nó sẽ cho phép anh ta vượt qua chính mình.
Việc học về vấn đề giới tính
Tìm hiểu về vấn đề giới tính luôn là một trong những mối bận tâm của thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thiếu niên thành người lớn, ở đó mỗi cá nhân, đàn ông hay phụ nữ hiển nhiên coi nó như một giai đoạn, một quá trình của sự tự do. Sự thử nghiệm hướng tới việc cho phép anh ta sau này đảm nhận những trách nhiệm và nghĩa vụ của cuộc sống gia đình, vợ chồng.
Đối với khá đông thanh niên và nhất là đối với những thanh niên đã rời khỏi mái nhà gia đình vì lý do này hay lý do khác (việc đi học, nghĩa vụ quân sự, công việc v.v…), đó là lúc cho những cuộc phiêu lưu tình ái, một cuộc tìm hiểu khám phá trực tiếp hơn và ít lưỡng lự hơn khi còn là thiếu niên (những cơn say tình hay cuộc chinh phục và sự kích dục cũng đủ nhiều khám phá đối với họ). Đó là thời điểm cho sự lựa chọn một bạn tình ổn định mà anh (chị) ta có thể sống chung hay không. Rất nhiều yếu tố góp phần vào việc tìm hiểu sự phấn khích này: nỗi lo sợ cô đơn, nhu cầu tiếp xúc có thể mà anh ta luôn tin là bản thể sinh lý, nhu cầu biểu hiện của mình mà người khác có thể làm thỏa mãn, nhu cầu đảm bảo cá nhân về khả năng giới tính và về khả năng tình dục của mình. Người đàn ông thường mong muốn làm tan biến đi nỗi sợ hãi thầm kín của mình, nỗi sợ bị lung lạc trong mối quan hệ hỗn tạp, nó tái tạo lại sự phụ thuộc thời thơ ấu. Còn người phụ nữ trẻ thì bằng nhiều sự chia sẻ khác nhau đối với bạn trẻ khác giới để thử nghiệm, tìm kiếm năng lực làm chồng của họ.
Sự trinh tiết
Sự trinh tiết, trong biết bao thế kỷ đối với giới tư sản quý tộc phương Tây có cùng một thủ tục khâu vòng cơ quan sinh dục nữ giống phụ nữ người châu Phi để ngăn ngừa giao hợp. Sự mổ xẻ cơ quan sinh dục nữ chắc chắn không phải là mục đích của chúng tôi định nêu.
Nhưng người phương Tây đã thấy rõ hơn: họ mổ xẻ âm vật trong sự gây tê cho những vùng kích dục nữ. Từ lúc đó như Dominique Grisoni đã viết “sự phá vỡ trinh tiết của một cô gái trẻ (trừ những trường hợp đặc biệt) khẳng định quá trình trong trắng… trong hôn nhân, (Vì trước khi phá trinh cô khâu nối hoàn toàn cơ quan sinh dục lại) nhưng sau hôn nhân, cô lại dễ biến nó thành sự làm điếm. Chính sự mất trinh trắng này làm vỡ tan thành hai yếu tố nữ tính, nhưng sự trong trắng lại chứa đựng, gắn kết chúng với nhau, đó là thiên chức làm mẹ và vai trò của một cô gái điếm”. Tuy nhiên, người chồng hay ghen vợ, vẫn luôn lo lắng sợ vợ mình chung chạ “chuyện ấy” với người khác. Nhà nghiên cứu Freud tin rằng “nếu những ham muốn của cô gái trẻ có từ lâu nhưng do chịu ảnh hưởng sâu sắc môi trường giáo dục mà cô nhận được thì cô chỉ có thể bước vào trạng thái thuần phục, lệ thuộc, nó đảm bảo cho cô khả năng kháng cự lại sự tấn công thô bạo và những ý định kỳ quái đòi hỏi về sinh lý của người khác đối với cô”. Và mặc dù Balzac đã đề cập trong tác phẩm “Sinh lý trong hôn nhân” (Physiologie du mariage). Sự phán xử, quan niệm cổ xưa này, sự trinh tiết, tất cả vẫn luôn là một giá trị chắc chắn và là tài sản vô giá cho tới vài thập kỷ trở lại đây.
Mọi cái đã thay đổi, nhưng sự giải phóng chỉ là bề ngoài và “mọi cái có vẻ cũng chẳng dễ dàng hơn trước trong việc đi từ một tâm hồn sáng trong, thanh bình sang một chiếc hôn đầu tiên như người ta đi tới màn kịch đầu tiên của mình trong phim (D-Grisoni).
Sự vô thức tập thể, cùng với cả một đội quân khủng bố của mình minh chứng sự sợ hãi và sự thần bí về giới tính,tiếp tục canh chừng người thiếu niên và người thanh niên, nó như một chiến trường để tham gia trận đánh. Cần hiểu biết những luật lệ mới của cái được phép rất lớn, đôi khi mang tính cường quyền. Bên cạnh đó, những giá trị truyền thống gia đình mà thanh niên tiếp tục phục tùng và có khi bị phụ thuộc, đó chính là nguồn gốc của những nỗi sợ hãi, lo lắng. Tuy nhiên quan niệm giá trị của thanh thiếu niên ngày nay đã thay đổi, nhiều lần quan hệ tình dục đầu tiên không còn cuốn đi những ảo ảnh của chế ngự và ức chế. Nó ngày càng tương ứng cho cả giới nam lẫn giới nữ, chúng có cùng một luật lệ phải trải qua, một sự hoàn thành chính mình, một sự tái tạo và sự phù hợp cho cơ thể của chúng ta. Chính thời kỳ đầy biến động này mang tính quyết định chuyện thầm kín ở các cô gái trẻ cái mà chúng tôi muốn khám phá ngày nay.
Sự mất trinh tiết
Quan hệ tình dục trước hôn nhân tăng lên đáng kể trong vòng 10 năm nay. Tính hợp pháp của chúng được biện hộ trong mắt những thanh niên chính là cảm giác về sự âu yếm và về tình yêu. Qua phần lớn các cô gái trẻ đến tham vấn, chúng tôi thấy vấn đề không phải là cách xử sự vô đạo đức của sự hỗn tạp, ngay cả khi vào một vài thời kỳ trong cuộc đời, một số người có quan hệ tình dục nhiều về số lượng và chỉ mang tính thoáng qua. Tình yêu và sự quan hệ âu yếm làm mất đi những cảm giác bị buộc tội như thể họ có một đức hạnh trao cho ý nghĩa đạo đức của những lần quan hệ tình dục. Vì thế mà phần lớn phụ nữ dám bước vào cuộc sống quan hệ tình dục chủ động với số lượng giới hạn đàn ông. Nhưng tốc độ của “cuộc viễn chinh” chỉ đạt được sau một thời gian chuyển tiếp của những cuộc thử nghiệm không được kiểm soát. Mọi cái diễn ra cứ như thể một số cô gái, khi đã mất đi trinh tiết thì sẽ biểu lộ những nhu cầu khai thác năng lực mới của họ, và thử nghiệm quyền lực của giới tính nữ đối với đàn ông. Không phải lần quan hệ đầu tiên được xác nhận bằng một sự thỏa mãn cơ thể hay một khoái lạc cực khoái mà đó là cảm giác được giải phóng bất thình lình mạnh mẽ và ngây ngất như một liều chất kích thích. Kích thích này gây cảm giác hỗn độn kéo dài vài ngày, thậm chí hàng năm, hàng tháng. Josiane nói khi khám phá ra quan hệ tình dục “Tôi không còn biết cái gì đã xảy ra đối với tôi nữa, tôi như con chó điên, sẵn sàng cắn vào bất cứ ai. Tôi đã khám phá ra một thứ đồ chơi mới mà tôi cần phải chơi nó đến phát chán thì thôi”. Nếu không được thỏa mãn, người phụ nữ thức dậy trong một buổi sáng đẹp trời với vị đắng trong miệng. Cô kiểm tra lại chính mình, xem xét lại thái độ của mình, những động cơ của mình, những hậu quả và những mối nguy cơ có thể đến với mình, và cuối cùng chỉ chấp nhận một hay hai người đàn ông cho nhu cầu của mình hoặc khép mình vào trong một sự chấn chỉnh cẩn trọng.
Hầu như thường xuyên thái độ hỗn tạp bao phủ vấn đề sâu sắc hơn là sự tìm kiếm khoái lạc đơn thuần. Vậy liệu có phải ham muốn vô thức cạnh tranh đối với người đàn ông, và việc đòi quyền tự do là cái mà xã hội đã ban phát cho phụ nữ từ lâu nay? “Liệu đó có phải là một ý định muốn khẳng định tốt hơn bản thể tình dục của phụ nữ? Hay vì không còn khả năng giao tiếp bằng bất cứ con đường nào khác ngoài con đường tình dục? Hay đó là một nhu cầu chinh phục để tạo dựng giá trị cho mình, để giải phóng mình, để tập trung sự khinh ghét sâu đậm của mình đối với đồng loại nam giới?
Régine, 24 tuổi thú nhận với chúng tôi là đã có quan hệ tình dục với 6 người đàn ông khác nhau trong cùng một buổi tối. Đối với cô, đó là sự bù lấp giải tỏa những cảm giác của sự máy móc và sự khinh ghét chống lại nam giới - những người đã đẩy cô đến một tình huống tuyệt vọng trong một giai đoạn của cuộc đời.
Như vậy thường xuyên sự khinh ghét, ham muốn sức mạnh, nhu cầu tăng giá trị của mình đã trở thành động cơ thúc đẩy những cô nàng “Đông gioăng”. Khoảng 25% các cô gái trẻ sau khi mất trinh đã bước vào một quỹ đạo chia làm hai thời kỳ: thời kỳ của hoạt động tình dục quá độ ít nhiều kéo dài, theo sau là một giai đoạn ức chế, ngừng hoạt động tương đối có thể dẫn tới kiềm chế hoàn toàn. Bởi vì dù cho phụ nữ nói gì đi nữa, cô vẫn tiếp tục bị lay động giữa những luật lệ truyền thống và ham muốn giải phóng. Ở một số tình huống nào đó cô vẫn tiếp tục cái máu của một cô gái dễ dãi, có nguy cơ lan ra như một ngòi thuốc súng từ khi đã có quan hệ gần gũi đầu tiên. Sự kiềm chế tình dục hay sự cứng rắn đối với một số người là một cách an toàn mặc dù không được nhiều người chấp nhận.
Người phụ nữ nhận biết những nhu cầu giới tính của mình
Quan hệ giới tính trước hôn nhân ngày nay đã luôn cho phép người phụ nữ nhận biết được những nhu cầu tình dục của mình, cái mà trong đó cô muốn gắn kết với người khác giới (nam giới). Rất nhiều cô gái trẻ cho rằng: “tôi rất muốn mình không là một cô gái trinh tiết nữa, nhưng tôi không dám, tôi không cảm thấy chắc chắn về mình”. Thật vậy, sau một thời gian ít nhiều cho phép cô “lau chùi” những mối xúc động cố hữu của lần quan hệ tình dục đầu tiên. Người phụ nữ ý thức được rằng sự mất trinh của cô đã đẩy cô vào thế giới của người lớn, của cộng đồng xã hội, của bản thể nữ tính. Trong những phòng ngủ công cộng, khu cắm trại, trong nhà máy cô đã dám đề cập những vấn đề ham muốn, khoái lạc, sức mạnh của sự thu hút, quyến rũ bởi người đàn ông.
Nhận biết được nhu cầu tình dục của mình, cô ngẫu nhiên có trách nhiệm đối với cuộc sống. Quan hệ của cô đối với đàn ông đã thay đổi. Từ bao lâu, đây là lần đầu tiên cô cảm thấy thoải mái trong những lần gặp gỡ giới tính. Bởi cô ngày càng ít phải chịu đựng sức ép, sự hợp lý hóa và những đấu tranh mà trước đây cô phải chấp nhận. Ngay cả khi sự đe doạ của bệnh AIDS đang hoành hành, quan hệ tình dục vẫn hiển nhiên đi vào những khu cảnh xung quanh, ở đó mọi thành tố của nhân cách đều được triệu tập, từ đó cô gái chỉ tỏ ra giống như sự nảy nở lan tỏa được ưu ái của một thứ ngôn ngữ nhiều mặt.
Không có tình huống, không có những yếu tố của sự hiểu biết, liên lạc tình cảm, trí tuệ, chính trị hay thẩm mỹ thì “hộ chiếu” tình dục sẽ không có hiệu lực. Khi những mặt biện hộ này cháy sáng hết cỡ thì sự trượt về phía những cuộc gặp gỡ giới tính sẽ hiển nhiên tiếp nối và cảm giác bị buộc tội có xu hướng được dịu bớt đi ở ngay cả những phụ nữ quyết định giảm đi hoạt động tình dục của mình. Vấn đề thực sự ở đây là gỡ đi cái tấm biển của cô gái dễ dãi và đạt tới một mối quan hệ nguyên bản với đàn ông.
Lên kế hoạch cho lần quan hệ tình dục đầu tiên
Chỉ có khoảng dưới 20% các cô gái lên kế hoạch cho lần quan hệ tình dục đầu tiên. Có thể đơn giản vì nó xuất phát quá nhanh từ gặp gỡ đến giường ngủ, sự việc tiến triển bởi một xung lực và sự kích thích tự nhiên. Xuất phát từ những ham muốn của mình, người phụ nữ luôn canh chừng sự tai tiếng, cô ta lên kế hoạch một cách cởi mở cho sự tránh thai của mình, việc này không chỉ tương ứng với việc nhận ra ham muốn của bản thân mà còn biết biến mình thành một đối tác tình dục mạnh bạo, kiên nhẫn cho việc khởi đầu trước, từ đó cô gái có thể chủ động giữ lại truyền thống của sự trinh tiết, sự phụ thuộc, thậm chí cả việc dửng dưng với vấn đề tình dục, cái đó cho phép cô giữ được sự kiểm soát tình huống và không làm đàn ông sợ. Trong khung cảnh tình huống xuất hiện mới này, người đàn ông nào có ý nghĩ sợ non nớt hơn bạn gái của mình sẽ bị đè bẹp dưới sức nặng của sự thần bí nam tính, anh ta đứng không vững và cảm thấy bạn gái của anh đang kiểm soát việc quan hệ tình dục của họ vậy nên rất thường xuyên, anh ta không còn có thể phát triển một sự nhậy cảm đối với cô như trước, chính cô thì cảm thấy đang ở trong trạng thái cân bằng tột đỉnh và người phụ nữ vấp phải một sự tiến thoái lưỡng nan: quá chủ động, cô có nguy cơ tỏ ra quá thô bạo và làm bạn tình của cô rụt rè thụ động về mặt giới tính, lúc này chính cô lại phải chủ động hòa nhập vào cuộc. Rõ ràng đàn ông sẽ phải chịu cú phản hồi của những thay đổi này. Anh ta nhận thấy trong nhiều trường hợp anh phải nhượng bộ cho bạn tình vai trò của mình, đặc biệt là việc khai mào qua đó việc quan hệ có vẻ dễ dàng và có chất lượng hơn. Số người đàn ông nhượng bộ không thể nói rằng điều đó là sự hiểu biết thực sự người kia mà đơn thuần chỉ là một sự tác động nhằm kích tạo một không khí “quan hệ” hay hơn.
Ngày mai và tình yêu
Cho dù là gì đi nữa, ngày nay người phụ nữ muốn sống một cuộc sống trọn vẹn giống như người đàn ông của cô. Nhưng không hơn gì một thiếu niên, cô không biết nói từ “Ngày mai” hoặc cô nghĩ rằng chẳng có gì to tát làm để thay đổi tương lai, hoặc cô tự an ủi mình không việc gì phải sợ quá sớm những điều có lẽ sẽ chẳng bao giờ xẩy ra và sự thật hiển nhiên sẽ có lúc tới làm cô phải chấp nhận cái gì thuộc về những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, những quan hệ tay 3, tay 4 nhưng cả tình yêu nữa. Tình yêu vẫn luôn là cái gì đó chắc chắn và đáng kể nhưng nó không cần thiết cho việc chiếu sáng một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi. Nó được hy vọng giống như một phần thưởng, một món quà thần kỳ để có thể tiêu xài lâu hoặc nhanh. Những phụ nữ trẻ nhờ nó ổn định lại trong mối quan hệ với một người đàn ông. Họ luôn chung thủy với người tình của mình nhưng tiến hành theo các bước có mối liên quan đến thời gian. Vả lại họ nhận biết ở người khác quyền được xử sự khác đi khi cách sống của họ không còn phù hợp với nhau. Cần cảnh báo sự đe doạ của căn bệnh AIDS cũng không hề làm thay đổi cách xử sự này.
Tình dục giống như một cách giao tiếp
Sự khám phá ra khả năng tiềm tàng của giới tính có thể góp phần vào việc tái nặn lại cách xử sự của người lớn. Thông thường, tình yêu tạo thuận lợi cho những cuộc gặp gỡ giới tính bởi nó biểu hiện tình cảm này. Một thanh niên đang tìm hiểu thế giới xung quanh nhanh chóng khám phá ra rằng: anh ta có thể tùy ý biểu hiện mặt ưu ái của bản thể giới tính nhưng có bao nhiêu mối xúc động mà anh ta cảm thấy mơ hồ như: nhu cầu sở hữu, ngự trị tốt hơn hay để có thể quên đi sự chán ghét của mình mà không cảm thấy quá mức phạm tội. Một bệnh nhân nữ của chúng tôi rất giỏi trong việc giả đò khoái cảm theo như kiểu của các cô gái điếm. Một người khác, sau sự thất vọng của lần quan hệ yêu đương đầu tiên lại tiêu khiển bằng cách giăng bẫy những người đàn ông mà cô căm thù và chơi trò giả “cưỡng dâm”. Cô đưa ra những dấu hiệu kích dục quen thuộc và cảm thấy thú vị khi cự tuyệt ngay lập tức những kẻ đàn ông chạy đuổi theo cô.
Trong giai đoạn này của cuộc đời, thái độ tình dục, xét về độ thường xuyên và chất lượng của nó, có thể nhìn nhận như một địa trấn đồ đo mức độ thầm kín về mặt tình cảm. Người thanh niên ở cả 2 giới thường xuyên chứng tỏ như thể anh (cô) ta bị mê mệt và chưa đủ chắc chắn trong sự lựa chọn bạn tình. Anh (cô) không tin tưởng vào người khác cũng như vào chính mình. Patricia 23 tuổi tự hỏi, sau đêm tân hôn, liệu cô có thực sự yêu Philippe, người vừa mới hoàn thành luận án tiến sĩ luật và với anh cô đã cùng chung sống suốt 3 năm trời. Liệu cô có sẵn sàng chấp nhận bước vào một cuộc sống tư sản và chẳng bao giờ biết đến những điều ngạc nhiên, mà bố mẹ chồng cô, những người sống trong một căn hộ từ thế kỷ XVI, cho cô một ví dụ điển hình gây ngao ngán? Liệu cô có từ chối một chuyến phiêu lưu ở lục địa đen mà cô từng ao ước? Thực tế những nghi ngờ này ít phản ánh cái gây thất vọng hơn là khó khăn thật sự: Trong cuộc sống như vậy, sự mất an toàn, và thiếu tin tưởng ở chính mình, tất cả chúng đã cản trở những con người trẻ tuổi và non ướt này ở buổi bình minh trong quá trình “xã hội hóa” của nó.