2. Về mặt hình ảnh cơ thể
Trong thời kỳ mang thai, phụ nữ luôn luôn bận tâm đến hình hài cơ thể của mình và quyền hấp dẫn của mình. Một vài phụ nữ sau sinh giống như đang bị thương không thể chịu được sự thay đổi của cơ thể. Họ cảm thấy giảm sút và không an toàn nếu như vì sự thay đổi đó mà tình vợ chồng bị coi thường nhanh chóng hoặc làm hỏng đi mối quan hệ vợ chồng một cách kéo dài. Ngược lại, một số phụ nữ khác lại tự hào về đường cong xác định được rõ giới tính của họ sau khi sinh nở, họ cảm thấy mình hấp dẫn hơn đối với cơ thể khỏe khoắn ấy. Họ cố gắng tạo quyền lực mới đối với sự âu yếm và sự chú ý đặc quyền của chồng họ.
3. Về mặt tâm lý
Những đổi khác tác động đến việc mang thai thường xuyên ý thức trước được. Như vậy phụ sản có thể biết được sự đương đầu quyết liệt giữa vai trò người vợ và vai trò làm mẹ. Những ước mơ càng ngày càng được làm tỉnh lại xoay quanh vấn đề tương lai của đứa trẻ. Bà mẹ phải kế hoạch hóa gia đình cho tương lai của mình, quanh gia đình và cuộc sống mới làm bà mẹ thao thức vui mừng trước một tình cảm mạnh mẽ chung của tạo hóa. Trong nhiều năm nữa, đứa con sẽ ở giữa cuộc sống chung. Bà mẹ có khả năng giữ được sự chăm lo với chồng và con. Liệu họ có tách quyền lợi và sự âu yếm mà bà mẹ đem lại cho họ hay không? Sự xung đột này có đỉnh của nó ở thời kỳ hậu sản. Nam giới không nhầm rằng sau khi vợ sinh con, họ luôn là một người không được ai thích, và có ấn tượng mình đóng vai trò ngoài gia đình “lúc nào cũng chỉ có mẹ và con”.
4. Về các nhân tố văn hóa
Cùng với các nhân tố trên, văn hóa ảnh hưởng đáng kể đến giới tính trong thời kỳ mang thai. Đối với phần lớn các động vật có vú, các con cái không tìm lại được quan hệ tình dục trong thời kỳ mang thai. Điều cấm kỵ tôn giáo và đạo đức được ban bố qua hàng thế kỷ chống lại mọi hành động tình dục trong thời kỳ mang thai.
21 trong 60 công ty được nghiên cứu bởi Ford và Bith cấm hoạt động tình dục thường xuyên trong thời kỳ mang thai để tránh cho thai nhi mọi rủi ro, tổn thương. Để thực hiện luật đó những công ty này đã giảng về chế độ đa thê đa thiếp (điều cấm kị của nam giới). Lamech tuân theo cái nguyên tắc có hai vợ, người này để đẻ con, người kia để giải trí, điều này chẳng hay ho chút nào.
Trong xã hội đương thời của chúng ta có nhiều lý do rất hay để tin rằng không nên quá kiêng kỵ, mà chỉ giữ gìn ở mức độ nào thôi bởi nếu quá kiêng kị trong thời kỳ mang thai sẽ có thể dẫn tới nguy cơ cặp vợ chồng xuất hiện sự ngoại tình của chồng hoặc vợ.
5. Cách cư xử của đàn ông và sự tiến triển của nó đối với việc mang thai, đặt ra một vấn đề công bằng
Cách cư xử này có thể đi từ sự thờ ơ có thực hoặc giả tạo của người chồng đối với việc chăm lo thân thể vợ một cách quá chu đáo. Một số anh chấp nhận nghi lễ thai sản, không than vãn kêu ca về thay đổi chức năng của vợ mà đưa ra những lời khen ngợi. Một vài nam giới không biết nhiều về thai sản, gặp ít nhiều những khó khăn và một số mắc chứng khác thường trước sự sinh đẻ của vợ anh đến gần. Họ trở nên rất lo âu: thường buồn nôn, ỉa chảy, nhức đầu và đau răng. Họ không yên tâm đứng nguyên một chỗ mà tìm bất cứ lý do nào để chữa trị được nỗi lo sợ của họ. Masters khẳng định, ở thời kỳ này một vài ông đã thí nghiệm cuộc phiêu lưu mạo hiểm đầu tiên ngoài vợ mình. Ngày nay một vài người đàn ông đã giúp vợ trong lúc sinh đẻ, đồng thời giúp họ lấy hơi và thư giãn. Một số người vợ không thích cuộc thử thách và thử nghiệm mà bạn đời của họ có được trong giai đoạn đặc quyền đó. Nhiều bà không chịu nổi cách nhìn của sự thử nghiệm này, có thể nó kỳ diệu đối với đàn ông nhưng lại gây tổn thương tinh thần cho người vợ.
Tóm lại trong bảng tổng kết này cho thấy việc sinh con dẫn đến sửa đổi cơ cấu gia đình. Sự thay đổi cơ cấu này phụ thuộc vào các trường hợp tăng hoặc giảm những phản ứng mâu thuẫn ý thức và không ý thức, nó đi kèm với quá trình mang thai.
Một trong các vấn đề then chốt này là biết phụ nữ mang thai sống như thế nào, đối với họ có phải đó là tiêu chuẩn độc lập và tự do hay không? Có phải đó là biểu hiện hiển nhiên của việc cần cấm hoạt động tình dục? Hoặc có phải đây là một trạng thái mà thực tế đặt các bà mẹ luôn luôn phải làm chủ nó? Điều đó có thể cũng là một giai đoạn trưởng thành của cuộc sống, một chứng cứ cho một sáng tạo mới. Hoặc đó còn là điều tạo nên dấu hiệu của tình yêu, một quan hệ phụ với ông chồng của mình, một trung tâm mới của niềm hy vọng và lợi ích chung. Hoặc đó chỉ là một cách trốn tránh một cuộc xung đột vợ chồng?
Trong các tình tiết lắt léo của tình cảm khác nhau này, đôi khi đi ngược lại vấn đề, mối quan hệ tình cảm bị thay đổi suốt quá trình mang thai. Vai trò chủ yếu của thầy thuốc trong giai đoạn này phải cho biết sự vắng mặt của ông chồng dẫn đến sự suy yếu của người vợ, thầy thuốc phải đóng vai trò người hướng dẫn về mặt tinh thần để giúp đỡ các cặp vợ chồng giao tiếp và thể hiện tình cảm của mình trong khi vợ mang thai.
Họ có thể phải tranh luận (không ngại ngần) dứt khoát tình cảm của họ đối với nhau, đối với người khác và đối với đứa con tương lai. Những cuộc xung đột trong điều kiện đó để lại việc giao tiếp và hiểu biết nhau sâu sắc hơn.
10 điều cần biết của cặp vợ chồng khi vợ mang thai
1. Hãy duy trì hoạt động tình dục vừa phải trong thời kỳ mang thai, hoạt động đó mang lại một tình cảm an toàn và tăng cường quan hệ âu yếm giữa cặp vợ chồng trong giai đoạn căng thẳng này.
2. Biết rằng những nhu cầu tình dục, (ham muốn thường xuyên được quan hệ tình dục và thỏa mãn cơ thể) làm giảm sút dần hoặc giảm sút một cách manh mẽ trong thời kỳ mang thai và nhất là ở 3 tháng cuối. Sự giảm sút này có thể được thể hiện như thất bại của người này hay người kia (một trong hai người bạn đời của mình) như một dấu hiệu của tình yêu nhạt nhẽo.
3. Sự xen kẽ của các vấn đề tình dục chủ yếu được giải thích bằng sự tràn ngập của não bằng các bức thông điệp hoóc môn trái ngược. Các hoóc môn:
Estrogene, testosterone, prolactine ở mức tỷ lệ tối đa của nó, những hoóc môn này làm tăng lên sự ham muốn, còn các hoóc môn khác làm giảm đi sự ham muốn. Huyết áp khoang chậu vừa tạo ra một huyết áp tình dục và một sự thiếu thuận tiện đáng kể.
4. Hoạt động tình dục vừa độ trong thời kỳ mang thai không tỏ ra độc hại đối với thai nhi (loại trừ một số trường hợp rủi ro).
5. Phụ nữ may rủi là những phụ nữ đã phá thai, đã mổ cổ tử cung hoặc là những bà mẹ đang bị đe dọa bởi sự chấm dứt thời kỳ mang thai.
6. Cơ thể người mẹ có thể phải chịu đựng phản ứng ngược lại ở tử cung.
7. Cũng là những hiện tượng xen kẽ đối với quan hệ tình dục, trong thời kỳ mang thai, đó là sự thủ dâm và sự vuốt ve dịu dàng. Nó thích hợp để làm thoả mãn ham muốn và tránh sự bơm khí vào âm đạo, sự bơm này có thể làm nghẽn mạch khí.
8. Với cương vị của nhà tham vấn, đối với những phụ nữ có thai vượt quá tháng thứ 5 hoặc tháng thứ 6 khi quan hệ tình dục ở tư thế bên cơ thể sẽ được chấp nhận một cách có lợi.
9. Các cặp vợ chồng mong đợi một đứa con phải được khuyến khích giao tiếp rộng rãi với thầy thuốc về mọi vấn đề giới tính hoặc các vấn đề khác làm họ bận tâm. Thông tin và lời khuyên của thầy thuốc sẽ đảm bảo cho họ an tâm và cho phép họ thoải mái hơn nhiều đối với giới tính của họ, đồng thời cũng giảm bớt được mọi rủi ro cùng tới đối với bà mẹ cũng như đối với thai nhi.
10. Điều cơ bản nữa là hoạt động thai nhi làm giảm sút đối với đa số phụ nữ trong thời kỳ mang thai, nhưng thay vào đó là ham muốn rất mãnh liệt của các bà mẹ trẻ lúc đó là sự tiếp xúc thân thể, vuốt ve, âu yếm, mơn trớn.
Thời kỳ sau sinh con
Lúc này, vai trò quan trọng đầu tiên của người tham vấn cho các ông bố phải hiểu: sau khi đẻ là lúc ở cữ, người phụ nữ có cảm giác như cô bị cắt một phần nào của cơ thể. Khi đứa con trong bụng chui ra chào đời như một điều gì đó quan trọng đã tách khỏi người mẹ. Thời kỳ ở cữ kết thúc một quá trình sinh học được thiết lập.
Các cô gái trẻ ở cữ có cảm giác khác nhau, trong chín tháng các bà mẹ đã làm tròn “ một cuộc thám hiểm” lớn lao hết sức đa dạng. Bà mẹ trẻ không hiểu tại sao khoan khoái đẻ được một đứa con, nhưng có một tình trạng xen lẫn xuất hiện như, luyến tiếc buồn khi nhìn thấy sự suy sút hình hài cơ thể mình.
Tình trạng không vui ấy của các cô ngược lại với suy nghĩ của người chồng. Anh ta khẳng định tác dụng cường tráng và tư cách làm cha của mình thông qua đứa trẻ, đó không phải là tình yêu đột nhiên anh dành cho đứa con mới sinh mà tình cảm yêu thương đó đã bắt đầu kết tinh ngay từ khi vợ có thai.
Sự mất cân bằng nội tiết, sự căng cơ đáy chậu, thỉnh thoảng kéo theo đau đớn phụ ở thời kỳ hậu sinh khó khăn này.
Người tham vấn nên luôn theo sát và giúp vợ chồng trẻ giải quyết các vấn đề. Người này phải như một thầy thuốc, như nhà liệu pháp tâm lý và như một nhà giới tính học, anh ta nên quan tâm nói với người phụ nữ rằng: ham muốn tình dục của cô chỉ yếu đi trong một tuần thôi khi chuẩn bị có sữa, hoóc môn tiết sữa là rất nhiều. Người thầy thuốc cũng phải đưa ra những bài tập rèn luyện các cơ đáy chậu để các bà mẹ trẻ chóng hồi phụ sức khỏe và trở lại nhanh các chức năng giới tính của mình.
Tác động của việc sinh đẻ đến quan hệ vợ chồng
Việc sinh một đứa trẻ làm thay đổi cuộc sống lứa đôi nhiều hơn là làm đám cưới. Trở thành bố mẹ, cặp vợ chồng nhìn rõ chính bản thân mình một cách khác nhau vai trò của ông bố, bà mẹ mà họ đảm nhiệm góp phần nhấn mạnh hơn công việc và đặc điểm của nam giới và nữ giới. Nhiều cặp vợ chồng đã nhìn thấy ở đó một phương thức mới của công việc thực hiện, nhưng con đường này đánh dấu sự thỏa mãn ngang bằng với những điều bất hạnh.
Người bố thường có sức quyến rũ đối với đứa con của mình. Cuộc đời này ngày càng biến đổi, nó trở thành trung tâm thế giới của đứa con. Ông bố phải học cách bế con một cách lý thúc, học cách giáo dục, tắm táp, vuốt ve, giao tiếp với con bằng hàng nghìn tiếng líu lo. Và ông ta phải tham gia nuôi nấng, nhận thấy hàng ngày những nét phát triển đặc thù của đứa con mình. Những động tác ân cần, cái nhìn xen lẫn những câu trả lời sinh động và phản xạ bất ngờ của đứa con, giúp con mình làm quen trong tất cả đám đông, dần dà việc chăm sóc con trở thành mối quan tâm với một nhiệm vụ mà ông ta phải làm.
Việc chăm lo cuộc sống vợ chồng và mối quan hệ ba người trong gia đình từ nay càng mạnh mẽ hơn, sự tham gia vào việc nuôi con của các ông bố phải chịu sự ủy quyền hay nói đúng hơn là những thử thách do người vợ giao cho, những quy tắc này thường có nhiều mâu thuẫn giữa cặp vợ chồng.
Khi bắt đầu trở thành những ông bố bà mẹ, việc chăm sóc và quyền lợi của họ đối với đứa con mạnh đến nỗi nhiều khi họ phải rút lui khỏi người bạn đời của mình vì có quá ít thời gian vợ chồng quan tâm đến nhau.
Quan sát - Rodolphe
Rodolphe một nam giới 28 tuổi, là một công chức, anh quá yêu bản thân và ý thức tự mê luôn ám ảnh, anh thiếu sự nhiệt tình của con người bởi anh luôn thỏa mãn về mình. Hai năm đầu sau kết hôn được diễn ra trôi chảy không gặp trắc trở nào, cho đến khi sinh ra một bé gái, nó là nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của cặp vợ chồng.
Rodolphe đột nhiên bắt đầu buộc tội người vợ lơ là đối với con cái: cô ta để mặc cho nó kêu ca lâu đến như vậy? Cô ta để mặc nó ngâm lâu trong cái giường ẩm ướt như thế nào?... Cô ta cũng không hiểu ngôn ngữ mang tính thuyết phục như thế nào? Qua việc xác nhận với đứa trẻ ấy, nó đã không khóc và nói lạ một cách chắc chắn rằng luôn có tình yêu với mẹ của nó. Cuộc sống vợ chồng trở nên một địa ngục đối với cô, cô quyết định cùng đứa con trốn về nhà bố mẹ đẻ. Từ đó Rodolphe kêu lên là cô phản bội.
Người phụ nữ nhận thức được vai trò mới của người làm mẹ cũng như việc giữ gìn lòng ham muốn làm mẹ của mình. Mối quan hệ tình dục và sự âu yếm với người chồng rất mạnh mẽ và cuối cùng cô ta đã có thể mang thai và thực hiện thí nghiệm kỳ diệu của việc sinh con.
Một vài phụ nữ cảm thấy trên cơ thể lúc sinh đẻ một tình cảm thoải mái sảng khoái, nó đặt họ vào trạng thái thứ hai có thể so sánh với cơ thể lúc là con gái. Đó là lý do một vài người sau khi sinh không thừa nhận tình trạng mất cảm giác ở vùng khung chậu mà nó làm mất đi cảm giác ở vùng sinh dục (nghiên cứu của Pierre Velay).
Tình yêu và lòng ham muốn được làm mẹ trẻ, đã thu hút sự chăm lo không ngừng của cô đối với đứa con. Cô ta cố gắng làm mọi việc cho con nhưng con cô không đáp ứng được cố gắng đó. Những ngày con ốm làm cô lo sợ. Sự có mặt và việc giúp đỡ của người chồng là chỗ dựa vững chắc cho các bà mẹ trẻ. Cô biết mình đã mất biết bao ngày nghỉ cuối tuần vì con.
Tất cả những bà mẹ, đặc biệt là những bà mẹ trẻ không có khả năng chịu đựng những thất vọng làm mẹ. Người đàn ông thường không tính hết được sự hy sinh của vợ mà hay nghĩ đó như một điều kiện áp đặt. Ngay từ lúc sinh, đứa trẻ thường độc quyền hóa toàn bộ thời gian và sự chăm lo của mẹ mình, nó cản trở những tham vọng và các quan hệ giữa bố mẹ nó, nhất là làm giảm hoạt động ham muốn tình dục. Khi đó bà mẹ trẻ có thể như người chịu trách nhiệm làm biến dạng cơ thể bà ta. Trong điều kiện như vậy gánh nặng mâu thuẫn có thể ẩn dấu đằng sau sự ân cần của người mẹ.
Sự cần thiết đảm bảo vai trò mới làm cha, làm mẹ bắt nguồn từ tinh thần căng thẳng âm ỉ hoặc vui vẻ của cuộc sống với đứa con. Đứa trẻ cũng có thể tăng thêm sức mạnh của tuổi thơ gắn với cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ, tất cả như đem lại những tiền đề mang tính xung đột ở phía trước hoặc tạo ra nhiều cái mới khác.
Quan sát - Charlotte
Charlotte, ngày xưa hoàn toàn đáp ứng với công việc bề ngoài, và cô đã giúp chồng thành đạt trong con đường nghề nghiệp bằng sự chăm sóc ân cần của mình. Đột nhiên, cô ta muốn lập ra một cuộc tiếp xúc khác lạ với chồng con, chồng cô tán thành ý đồ đó và còn giúp cho cô thực hiện. Cô ta đã sửa đổi lại cách cư xử khéo léo âu yếm của mình trước kia, thành các biểu hiện rất vụng về thiếu trìu mến và ôm ấp âu yếm. Mỗi đổi thay trong cách tiếp xúc này thường thiếu tự nhiên và đứa con đáp lại bằng các cơn đau bụng liên tiếp. Nó hay khua tay múa chân kêu khóc to đến nỗi không có cái gì yên tĩnh được cả. Nếu đặt bé lên xe lăn hay đặt lên bụng mẹ thì không có điều gì xảy ra cả. Charlotte biết rằng các thầy thuốc chuẩn đoán căn bệnh của con mình là nó quá được yêu chuộng, đến mức tôn thờ nó. Những hiểu biết trí thức của nguyên nhân này thường không giải quyết được vấn đề mà phải dựa vào thực tế.
Trong quan hệ mẹ con, cái chủ yếu vẫn là sự quý mến tế nhị và kín đáo, nó đặt mẹ con vào trong sự tiếp xúc không tự giác. Đứa trẻ coi mẹ là sự cần thiết yên ổn chứ không mấy khi là sự tham gia có hiệu lực đối với cuộc sống ảo tưởng của nó. Cha mẹ quá chăm chú đến sự thỏa mãn của con cái, quá lo lắng, giành cho nó nhiều may mắn nhất của sự phát triển, và đứa trẻ được sống trong thế giới của cha mẹ nó. Khi bố mẹ nó đưa ra một tình cảm làm nó không an tâm sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chức năng làm cha mẹ và ảnh hưởng đến hoàn cảnh vợ chồng.
Không có gì quan trọng hơn đối với đứa trẻ là không khí tin tưởng và an tâm. Tin tưởng không có nghĩa là giáo điều và cứng rắn. Cái mà cha mẹ có thể đem lại quyết định đến sự cân bằng của đứa trẻ, đó là hạnh phúc riêng tư của họ và sự thỏa mãn của họ trong cuộc sống vợ chồng, gia đình.
Bố mẹ có quyền và bắt buộc làm thỏa mãn những nhu cầu của họ với cương vị các cá nhân, nhưng với cương vị cặp vợ chồng, họ không cần hy sinh những ham muốn sinh lý vì chức năng làm cha làm mẹ, vì làm như vậy họ sẽ bị mất cân bằng sinh học nghiêm trọng.
Kinh nghiệm cho thấy: việc sinh một đứa con thường xuyên là nhân tố mất cân bằng. Tác động của đứa trẻ đến cuộc sống tình dục và sự âu yếm trìu mến giữa cha mẹ giữ nhiều nhân tố tự nhiên sinh học, cá nhân, và văn hóa xã hội.
Quan sát – Jocelyne
Jocelyne, một người mẹ trẻ 23 tuổi đã bị kiệt sức từ khi sinh. Trách nhiệm làm mẹ thuộc phận sự của cô, và cô không chắc chắn làm tròn trách nhiệm đó. Cho dù cô ta bận tâm cả ngày lẫn đêm. Trọng lượng văn hoá, tư cách làm mẹ được cân trên trái tim và tinh thần cô, hơn nữa bà mẹ chồng luôn đon đả xung quanh cô để chú ý hơn tới những cố gắng của cô. Trong điều kiện đó, ham muốn tình dục của cô đã bị mất bởi nỗi lo sợ quá đáng. Chồng cô phàn nàn: “Cô ấy không giống trước đây. Cô ta đã ngừng cảm giác giới tính, không còn chấp nhận một cái vuốt ve nào của tôi cả”. Jocelyne phản kháng lại “anh ta không hiểu tôi, tôi rất lo sợ và đã kiệt sức”.
Thời kỳ quá độ này được đánh dấu bằng sự sinh một đứa trẻ. Đây là giai đoạn khó khăn của công việc giao tiếp và quá trình này giúp cặp vợ chồng trưởng thành hơn. Mặc dù người ta đưa ra một tỷ lệ li dị đặc biệt cao vào lúc này. 2/3 cặp vợ chồng qua giai đoạn này không gặp trắc trở khó khăn gì. Phần lớn các cặp li dị là các cặp vợ chồng trẻ nhất, bởi họ còn quá non nớt khi làm cha, làm mẹ
Những nhân tố góp phần vào lúc sau sinh - một thời kỳ quyết định
I. Các nguyên nhân trạng thái sinh lý:
Những nguyên nhân trạng thái sinh lý: bắt nguồn từ nhiều khó khăn. Masters đã báo hiệu trong thời kỳ hậu sản này, 47% phụ nữ phàn nàn về chứng suy nhược, về sự mất máu, về việc lấy lại tương đối chậm quan hệ tình dục. Điều này có thể gây trầm trọng bởi một nỗi lo sợ kinh hoàng: nỗi đau đớn khi sinh; sự không dễ dàng thực sự làm bà mẹ trẻ. Nhiều nguyên nhân khác nhau về trạng thái sinh lý như:
1. Tiếp theo vết mổ đẻ
Nó thường xuyên đau đớn, và cũng dễ dàng gây ra chứng giao hợp đau bề ngoài. Điểm đau khi dương vật vượt qua cửa âm đạo. Ngược lại, đôi khi người ta cũng thấy một sự quá nhạy cảm, thậm chí thấy được sự hưng phấn tuyệt diệu ở ngay vùng hàn gắn vết sẹo.
2. Tính trương lực cơ thể của các cơ bắp Perivaginale, trong đó quan trọng nhất là sự đáp lại khoái cảm của phụ nữ quá mạnh mẽ và nó làm thay đổi âm đạo và dương vật vì nhiều khi âm đạo chưa lành hẳn sau sinh. Đôi khi các chỗ bị tổn thương vẫn còn hé mở và có thường xuyên nguy cơ bị nhiễm khuẩn âm đạo.
Chúng ta sẵn sàng quy định cho chủ đề phòng ngừa và chữa trị bệnh sau sinh. Có 3 loại bài tập được khuyên làm bởi ông Kegel, nó giúp thiết lập lại vai trò cơ bắp Perivaginale.
- “Pipistop” là tư thế ngồi và dạng chân ra (phải được thực hiện thường xuyên).
- Động tác mà chúng ta gọi là “cái bóp quả phỉ” (casse-noisette) nó làm cho âm đạo co lại.
- Tập co thắt các phần cơ quanh hậu môn.
Chúng tôi sẽ đề cập lại sâu hơn về cơ hội điều trị bệnh mất khoái cảm ở phần sau.
3. Sự mất cân bằng tuyến nội tiết: giải thích sự ngừng chu kỳ kinh nguyệt trong 6 đến 8 tuần sau việc sinh đẻ. Nó đánh dấu và làm cho sự thụ thai quay trở lại chậm hơn trong trường hợp đang cho con bú (ở thời đại chúng ta số người cho con bú ngày càng thường xuyên hơn). Sự tiết ra chất động dục quyết định sự bôi trơn âm đạo, thiếu nó sẽ gây đặc tính đau đớn khi quan hệ tình dục. Chúng tôi có thể cho thấy một vài sản phụ duy trì được tỷ lệ Prolactin tăng lên cùng với thời gian cho con bú. Thế nhưng hầu hết các sản phụ khác lại tăng hoóc môn (lactin) - chất đối kháng với sự ham muốn.
Cuối cùng sự suy sụp về quan hệ vợ chồng cho thấy: cần phần cải tạo thời kỳ sau sinh. Người mẹ trẻ đầy rẫy những thay đổi rắc rối mà thường xuyên cô không sành sỏi lắm. Trong nhiều trường hợp lúc sau sinh việc ham muốn tình dục bị suy giảm, nhất là đối với bà mẹ cho con bú. Tuy nhiên, khả năng khoái cảm giảm bớt, nhiều lúc tạo nên thất vọng ở cả 2 vợ chồng.
Những người theo thuyết mục đích không quên nhận xét rằng sự thay đổi về trạng thái sinh lý dẫn đến thời kỳ mang thai, từ đó dẫn tới sự chú ý hàng đầu là chăm sóc người mẹ trẻ. Có biết bao không khí vợ chồng có thể bị xáo trộn khi đứa trẻ ra đời.
II. Những nhân tố cá nhân
Những nhân tố cá nhân giữ được nhân cách của bà mẹ và cũng giữ được nhân cách của ông bố, chúng đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn quyết định này.
Sau sinh, các bà mẹ trẻ luôn nhận thấy những thay đổi về cơ thể của mình. Những vết rạn da bụng không phai nhạt được, có đường nét làm cho cơ thể người nặng nề, tạo nên một vết thương khó có thể chịu đựng được.
Nếu phụ nữ sống bằng phôi mầm như một phần bộ phận của chính mình, đến lúc sinh đẻ, có thể họ cảm thấy như bị hoạn một cách tượng trưng, như vậy theo thời gian phân tích tâm lý, đó là nguồn gốc có thể mất sảng khoái trong quan hệ tình dục.
Một nhân tố nhỏ khác có thể gây tổn thương đến quan hệ tình dục của cuộc sống lứa đôi. Chồng hoặc vợ có thể cùng có những tình cảm tuyệt đối dành cho con, một trong hai người ôm chặt đứa trẻ một mình nằm trong chiếc nôi, xa căn phòng vợ chồng. Những ý nghĩ đó được thành lập do sự cảm nhận từ tình yêu riêng của cha mẹ dành cho họ khi còn ấu thơ.
Quan sát Catherine và Jean
Catherine 26 tuổi thấy bản năng tình dục của mình giảm sút từ khi đứa con gái đầu lòng của họ biết trèo lên nôi để nhìn thấy bố mẹ trong phòng ngủ. Họ lo sợ con mình thấy sự âu yếm của họ trong phòng ngủ, tuy vậy họ không muốn đóng cửa vì sợ con gái của họ sẽ cảm thấy như bị bố mẹ lãng quên giống như suy nghĩ của họ trước kia. Cần nhiều thời gian điều trị để đôi vợ chồng tin tưởng rằng con họ không có nỗi sợ riêng bị bỏ rơi được khơi dậy như thời thơ ấu của họ.
Sự cộng sinh giữa trẻ sơ sinh và người mẹ buộc phải đồng nhất hóa trong một tình trạng mà Winnicot gọi là “Đam mê làm mẹ”. Việc thiếu trách nhiệm và sự cấm kỵ ở tuổi thơ ấu đã bị xen vào, chồng chéo với quan hệ vợ chồng.
Người ta thấy phụ nữ vẫn tìm lại được tự do về mặt tình dục và tâm lý ngay sau khi sinh. Đạo đức và cách cư xử theo quy ước của bố mẹ họ trước kia ảnh hưởng lớn đến hành vi làm mẹ của họ.
Sự ghen tuông và sự ganh đua đối với trẻ vừa sinh dễ dàng gây tác hại đến người chồng. Tình cảm này nảy sinh ngay từ khi mang thai, khi người vợ tỏ ra quá cần thiết đối với người chồng. Tất cả cuộc đối thoại và sự xáo trộn trong cuộc, người chồng cũng tỏ ra hiểu biết và cảm thấy như bị gạt ra ngoài. Có những ông bố cảm thấy sự tranh đua rất quyết liệt đối với đứa con trai mà họ sợ trong tương lai nó thay vị trí của anh, và anh ta mong muốn vứt bỏ nó ra khỏi gia đình họ sau này. Các huyền thoại Hy Lạp đưa vào tội cấm giết cha giết mẹ và dựa vào nỗi sợ hãi bằng sự linh cảm của cậu con trai Uranrus cổ đại nhất của các thần tài Hy Lạp sau khi cưới vợ xong mẹ ông là Gâi - đã bỏ đứa con riêng của mình đến vương quốc của những người Titans. Huyền thoại œdipe (ơ-đíp) tạo ra chủ đề của tội giết cha giết mẹ trong sự thiếu ý thức chung. Ngày nay, các nỗi sợ và việc đấu tranh này đã được làm vơi bớt đi, chắc chắn từ khi mà người cha chấp nhận vai trò chăm lo quan tâm chăm sóc và thống trị ít hơn đối với con cái mình.
III. Tính năng động của vợ chồng
Tính năng động của vợ chồng được đặt lên hàng đầu của các chủ đề tranh chấp phát triển trong thời kỳ sau sinh. Hình ảnh người phụ nữ được thay đổi dưới con mắt người chồng. Từ người vợ mình đã trở thành người mẹ, người chồng ngắm nghĩa vợ mình đang cho con bú, và anh ta nhớ lại ảo ảnh của chính mình gắn với tấm lòng mẹ những khi ấu thơ. Quan điểm làm mẹ của người mẹ trẻ này có thể trở nên mạnh mẽ đến nỗi cô ta từ bỏ tất cả vai trò nữ giới khác.
Cũng chính phụ nữ đã thử nghiệm khoái cảm trong lúc cho con bú. Khi cho con bú gợi ra trong cô ta một sự bối rối đáng sợ của vai trò này. Sự cách biệt giữa việc cho con bú và tính tình dục giữa hai vợ chồng tăng lên rõ rệt, khi lòng ham muốn chính đáng của họ được quan hệ trở lại nhưng đành chịu nhịn bởi lời can thiệp của thầy thuốc buộc họ phải kiêng quan hệ tình dục trong 6 tuần sau khi sinh để đảm bảo sức khỏe cho người vợ.
Ngay bây giờ cặp vợ chồng không còn phải đơn độc nữa, mà là ba người trong gia đình nhỏ, người thứ ba này là đứa trẻ, nó luôn giữ vai trò ưu tiên hơn mà hai vợ chồng đã xác định được từ trước khi sinh đẻ. Con họ có thể là đứa trẻ thất thường hoặc cậu con trai, cô con gái kháu khỉnh. Việc nuôi dạy trẻ đối với các ông bố bà mẹ không đơn giản bởi họ phải chấp nhận sẵn sàng dạy chúng theo phong cách người lớn tuổi.
Đành phải đối mặt với những nguyên nhân phức tạp của các cuộc “Giao lưu” giữa các nhân vật trong gia đình, một vài cặp vợ chồng thích trao đổi xung quanh đứa trẻ, chính nó trở thành điểm trao đổi duy nhất giữa đôi vợ chồng, người ta nói về lần bú và lần đẻ, lần đến nhà trẻ… mọi điều chung như thế chắc chắn góp phần tháo bỏ những chủ đề tranh chấp, thắt chặt hơn mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, nhưng chưa giúp tạo ra được cuộc sống chăn gối vợ chồng.
Trong thời kỳ quyết định này, các cặp vợ chồng phải cố dành thời gian rỗi rãi cho chính mình. Chúng tôi khuyên họ lập chương trình buổi tối tự do cho một cuộc dạo chơi, buổi hòa nhạc, bữa ăn tối, họ nên tận dụng thời gian để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng quan tâm đến nhau như sự lãng mạn, chiều chuộng và sự cộng tác của hai vợ chồng.
IV. Nhân tố xã hội văn hóa. Tranh chấp vai trò cá nhân trong gia đình
Một vài nhân tố trong các nhân tố này, nhất là khi người vợ làm việc chẳng hạn, làm tăng thêm mức khó khăn của cặp vợ chồng với con trẻ; ví dụ: “Tối nay đến lượt ai đi đón Jacques ở nhà trẻ, tôi phải đi chợ trước bữa ăn tối. Vâng, nhưng tôi có cuộc họp quan trọng và tôi không…”, vấn đề của cặp vợ chồng là làm việc, nuôi con, sự kiêm nhiệm không phải là 2 nghề mà còn là 3 nghề.
Việc sinh con trong phần lớn các trường hợp đã làm chuyển đổi sự thống nhất trong gia đình. Nhiệm vụ được phân chia một cách cân bằng trong quan hệ truyền thống là hầu như người vợ phải đảm nhận hầu hết các công việc. Vai trò quan trọng của gia đình biểu thị trên sơ đồ này dĩ nhiên là chủ đề mang nhiều sắc thái, nó chủ yếu phụ thuộc vào cách thỏa thuận của vợ chồng phân công nhiệm vụ nội trợ, việc này phụ thuộc vào kịch bản cuộc sống của người vợ trẻ và vai trò làm mẹ mà cô ấy hiểu từ thời thơ ấu (hình ảnh mẹ cô để lại). Ngay cả đến những phụ nữ tự do nhất cũng phải chịu sức ép vô thức ngay từ khi họ có một đứa con để bắt chước mẹ của họ. Biểu tượng truyền thống, tư cách làm mẹ là: “Cho trẻ tất cả cái mà nó cần”. Người mẹ thường nhớ đến thất vọng thời còn trẻ con của mình và tự thề với mình là không để con mình phải chịu những thử thách giống mình. Ngay trong công việc, bà ta cũng nhận thấy gánh nặng của mọi nhiệm vụ thuộc phận sự người mẹ. Ông bố không bao giờ cảm thấy có lỗi nếu bữa ăn không được dọn ra hoặc nếu bữa ăn không được phục vụ, ngược lại, người mẹ luôn bị day dứt, được thể hiện ngay ở giọng nói hay nội tâm, nhiều khi bà ta không có chút nghỉ ngơi.
Nhiều bà mẹ trẻ cảm thấy cô quạnh bó hẹp giữa nghề nghiệp và khuynh hướng làm mẹ. Bà lo lắng nói: “Tôi không có khả năng làm đến kết quả trong việc giáo dục con có một nghề nghiệp ổn định”. Trái tim của họ lung lay làm 2 nửa, họ lưỡng lự, và lần chần né tránh. Đôi khi cảm thấy như kiệt sức, và bị thời gian ràng buộc đồng thời thiếu sự bố trí. Nhiều khi bà mẹ đã quyết định cho số phận của mình: Rằng không có thời gian nào cho các hoạt động nghề nghiệp của họ. Việc từ bỏ những đam mê ấp ủ từ lâu ấy không dẫn đến tình cảm thù địch nào với bạn đời của mình mà thường xuyên có trách nhiệm đối với chồng, con và với chính bản thân mình nữa. Trong cuộc sống ấy sẽ xảy ra quan hệ tình cảm xúc động qua lại nào đó, vợ chồng khó nói ra được.
Được đối chiếu với trách nhiệm làm cha, người đàn ông làm sống lại những kỷ niệm ấu thơ những cũng bằng lòng với vai trò làm bố tốt hơn. Dù bị gây khó chịu, mất thăng bằng do sự bắt buộc của gia đình. Ông chồng cũng luôn là người động viên người vợ nghỉ việc và ở lại nhà. Nhưng dù thế nào thì bà ta vẫn cứ làm, người vợ từ nay đã xác định được vai trò của mình trong sự thiếu thiện chí của người chồng vì ông nhìn về con đường nghề nghiệp của bà như vậy. Có thể bà phẫn nộ và giành nhiều đầu tư vào con đường nghề nghiệp ấy. Cũng có thể bà từ bỏ nghề để dành cho cuộc sống lứa đôi tốt hơn. Nhưng hầu như từ nay, quan hệ này làm hoen ố đi tình cảm đôi chiều sự hy sinh của người vợ và của thói đối nghịch của các ông chồng.
Từ mấy cuộc điều tra mới đây cho thấy: Tất cả các phụ nữ làm việc ở xã hội đồng thời rất chăm lo đến con cái của gia đình. Các bà mẹ này luôn tận tụy với công việc khó khăn và cả những việc bà không hài lòng.
Vai trò của thầy thuốc:
Trong pha quyết định này, vai trò của thầy thuốc được xác định bằng cách giúp cặp vợ chồng trẻ một số nhận thức. Sự lầm lẫn giữa chức năng vợ chồng và chức năng làm cha mẹ thường dẫn đến hậu quả bi thảm. Trong thời kỳ này có một số cặp vợ chồng chối bỏ chức năng làm bố và làm mẹ của mình. Họ thường ngạc nhiên tự hỏi: “Tôi không hiểu trách mắng người chồng hay người vợ ở điểm nào nhưng có lẽ tôi là một ông bố (hay một bà mẹ) rất tốt…”. Làm một người cha tốt hay người mẹ tốt không bao hàm các cuộc giao tiếp ái ân thỏa đáng giữa hai vợ chồng. Mỗi người trong cặp vợ chồng khi bắt đầu có con nhỏ thường gặp trục trặc trong quan hệ sinh lý, vậy nên nói điều đó ra, đừng ngại ngùng; ví dụ các ý nghĩ riêng sau khi sinh con, sự cảm động hoặc mong đợi của mình trong sinh hoạt tình dục sau khi đã có con v.v…
Chắc chắn có nhiều tác động qua lại giữa vai trò làm cha mẹ và vai trò của vợ chồng. Nhiều cặp vợ chồng đã củng cố các mối quan hệ thân mật của họ, đồng thời cũng đảm bảo tốt các chức năng làm cha mẹ của mình. Biết bao các ông bố học làm tăng tính nhạy cảm và khả năng chiều chuộng vợ con của họ. Bên cạnh sự chăm sóc dành cho đứa con, các cặp vợ chồng không quên làm phong phú mạng lưới quan hệ vợ chồng riêng của họ, đây là sự bền vững của các cặp vợ chồng khi con cái đã trưởng thành và rời nhà ra đi xây dựng gia đình mới.
Điều cần thiết nhất đối với các cặp vợ chồng là cần giữ gìn sức khỏe, ngay sau khi sinh con; cần có một thời gian tự do thoải mái để học lại cách tán tỉnh nhau, và để hỏi nhau những dấu hiệu riêng của sự nhận biết trở lại, đồng thời học làm quen nhau trong quá trình mới sau khi sinh nở.
Thầy thuốc phải nhấn mạnh: phụ nữ khi mang thai, sinh nở, rồi thời kỳ sau sinh đã quyết định vòng đời của một con người. Phần lớn những người trưởng thành có được niềm vui lớn và những điều thỏa mãn vốn có ở quy trình này, nhưng chúng ta chưa chuẩn bị để đương đầu với các biến cố xảy ra. Nói chung, trong những thời kỳ này, các cặp vợ chồng trẻ thường gặp khó khăn quan hệ sinh lý, họ khó đạt được đến khoái cảm tột đỉnh, hoặc khi làm tình luôn bị phân tán. Vậy cũng cần phải giảm bớt các mong muốn ấy trong những thời kỳ sau sinh để đảm bảo sức khỏe hoặc xây dựng một sự bền lâu cho cuộc sống sau này.
Sự khủng hoảng ở tuổi 40
Cần phải làm việc gì để nối liền giữa tuổi trẻ và tuổi già. Con người ở tuổi 40 là đang ở ngã ba đường, người ta phản ánh đoạn đường đó qua 3 thời kỳ sau: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Hiện tại phải thật sự yên tâm, ví dụ: nếu anh ta không hề nhã nhặn vừa dùng quyền lực đánh bại những đứa con lớn, vừa xua đuổi con út có mặt trước anh ta. Và đây, thành trì anh ta đón nhận thật đắt: một sự chống đối lại của những đứa con trong tất cả những năm tiếp theo. Rõ ràng, anh ta luôn nghĩ mình muốn có những người bạn, muốn sự vững chắc trong quan hệ với người xung quanh, anh ấy có vẻ ngoài thỏa mãn ý nghĩ trên, nhưng kết quả thật sự mang lại rất ít và bấp bênh.
Philippe Erlanger viết: “Anh ta thỏa mãn về tinh thần đối với kỷ niệm, anh thừa nhận tuổi trẻ táo tợn của mình ở các xí nghiệp, trong các cuộc chiến xâm lược và trong các cuộc tình. Điểm tuyệt đỉnh của anh khi anh khoảng 40 tuổi, nhưng lúc này anh lại đứng trước những thử thách. Anh thừa nhận mình đã già”. Vua mặt trời, Napoléon, Henri IV, Louis XI, Cesar kèm theo các minh họa chân dung. Chỉ có Alexandre vĩ đại đã tránh được sự bất hạnh này bởi ông may mắn chết lúc còn trẻ.
Một đối tác mới: Thời gian
Sự khủng hoảng ở tuổi 40 liên quan quanh một đối tác mới, điều quan trọng là sự khủng hoảng sẽ luôn tiến triển đến tận cuối đời bởi thời gian không ngừng trôi (đàn ông có thể nhạy cảm hơn phụ nữ, tính ngược trở lại lúc ban đầu, những năm còn lại tinh thần ám ảnh cuộc sống chúng ta nhiều hơn). Áp lực thời gian quét lên những minh họa cuối cùng về sự an toàn và bất ổn trong cuộc sống còn lại, nó làm tổn thương cho mỗi chúng ta tồn tại.
Cái chết sớm của cha mẹ, bạn bè, những người nổi tiếng cho chúng ta thấy thời gian thấm thoát trôi. Cái chết không còn là chuyện thần thoại không biết đến hay trong chiêm bao, mà nó có thực trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Trước quy luật của thời gian, người đàn ông 40 tuổi đã bớt lo sợ nhưng không tránh khỏi. Ví dụ như Jung thấy sự khủng hoảng này không có sự chuẩn bị, anh viết: “Điều này hoàn toàn bất ngờ khi nhận ra chúng ta đã đi đến tuổi đứng bóng của cuộc sống”.
Những cơ chế khác giúp dung hòa lại nỗi lo sợ này.
“Phải chăng sự khủng hoảng toàn bộ cơ thể cũng là sự bình thường, chúng ta không phải bận lòng đến điều đó”, chúng ta thấy các vấn đề khác khẩn thiết hơn, hoặc đương đầu với sự khủng hoảng này từ cái nhìn khách quan.
Không có chứng cớ rằng sự khủng hoảng ở tuổi 40 có ý nghĩa như “bước ngoặt của cuộc sống” kéo theo một cách bắt buộc làm mất thăng bằng tâm lý, và đặt ra những mối lo ảnh hưởng xấu đến sự tiếp tục phát triển của từng người ở độ tuổi này. Nhưng cần đề cập tới một bước ngoặt quả quyết.
Tuổi đứng bóng của cuộc đời đòi hỏi trong giai đoạn trước phải hoàn thành một số trong nhiều mục tiêu mà mình đặt ra như: Đã có kết quả củng cố bản sắc riêng của mình, đã sinh con và có nghề nghiệp, có sự quan tâm quấn quýt với gia đình, trong sự phát triển những tình cảm và lòng tự tin, có sáng kiến, quyền tự chủ và sự thầm kín trong những mối quan hệ với người khác và với những đối tác. Thời điểm tiền định của bảng thống kê ở tuổi 40, nỗi sợ thường xuyên được khơi lại trong tất cả các mặt sau: nghề nghiệp, giới tính, các mặt thành đạt của vợ chồng và giáo dục con cái.
Chính Jung nói “Tuổi đứng bóng của cuộc đời là lúc người đàn ông mở rộng toàn bộ sự nghiệp của mình với tất cả quyền lực và mọi sự mong muốn, nhưng cũng là lúc phát sinh sự suy tàn”. Đối với người đàn ông 40 tuổi, mức độ các thành quả ông ta đạt được có thể tự xác định sự thăng tiến và đi đến trách nhiệm nhận định rõ yếu tố chủ chốt nhất, tượng trưng nhất của thành quả anh ta đạt được. Phần lớn nam giới hay nữ giới trong giai đoạn này ý thức được khả năng, uy tín và quyền lực của mình. Sự thành đạt hay thất bại bắt nguồn từ con đường sự nghiệp của từng con người, chính nó quyết định sự tăng giảm thành công và thất bại trong cuộc đời riêng của họ. Mặc dù những câu hỏi được đặt ra của phái nam ở độ tuổi 40 không phải là các dấu hiệu của sự lo ngại thường xuyên “Tôi đã thực hiện được mục đích của mình chưa”, hoặc nếu là người đàn ông đã từng thất bại thì: “mục đích của tôi có trở thành hiện thức không và tôi có khả năng cần thiết để thành đạt chưa? Thay vì “tôi muốn là” mà ông ta đắn đo trong các công việc trước, ông này giày vò bởi sự nghi ngờ: “Tôi đã làm cái cần làm chưa?” “Tôi đã có thời gian để thay đổi chưa?”.
Cuộc khủng hoảng ở tuổi 40 này được đặt ra trong 3 mục đích chủ yếu:
- Xác định lại công việc đã thực hiện;
- Làm lại các việc mà mình không thỏa mãn lắm trong cuộc sống;
- Tự đem đến sự may mắn cuối cùng để giải quyết những mâu thuẫn bên trong của nó.
Xác định lại quá khứ:
Nhu cầu xác định lại quá khứ trong dịp này nhằm ý thức được sự tổn thương về cái chết không thể tránh được, đồng thời mong muốn sống tiếp giai đoạn trọn vẹn và khôn ngoan hơn. Sự tồn tại quá khứ, tương lai và hiện tại, đến lúc này, người 40 tuổi hiểu rằng có thể hòa hợp vận dụng ba quá trình ấy lồng vào nhau để giúp cho cuộc sống tốt hơn.
Sự nghi ngờ nảy sinh những câu hỏi: Tôi đã làm gì cho cuộc sống của họ? Con người so với ảo giác của mình đôi khi khá nguy hiểm vì đôi lúc từ bỏ các ý nghĩ của thời thơ ấu, vì chính các ý nghĩ kỳ diệu ấy có thể đưa đến một khả năng khoa học hơn và hiện thực hơn, thực dụng hơn trong cuộc sống. Tuy nhiên cần phải tránh những ảo tưởng quá đam mê, phi thực tế, bởi hình như các ảo tưởng này có lúc làm mất đi nguồn hứng thú của chính họ?
Thay đổi cơ cấu của cuộc sống
Trong cuộc sống có bao điều xáo trộn: ly dị, kết hôn, sự biến động đổi thay trong từng giai đoạn v.v… Sự gia tăng năng lực sáng tạo để đưa cuộc sống tiến lên theo mức thang xã hội, người ta có thể dễ dàng nhận thấy, thậm chí gắn bó quan trọng với nó. Những đứa trẻ lớn lên, nó sinh ra như các thành quả chứng minh sự thành công hay thất bại của bậc cha mẹ. Chính người cha và người mẹ để lại ấn tượng mạnh để hình thành nhân cách của những đứa con, qua thời gian, sự tiếp xúc với môi trường xã hội xung quanh làm những đứa trẻ phát triển nhanh chóng về nhiều mặt.
Giải quyết mâu thuẫn bên trong
Một người 40 tuổi hay có quá trình điều chỉnh cá nhân, họ rất muốn khuyến khích thay đổi một cách sâu sắc trong quan hệ với chính bản thân mình hay với mọi người bên ngoài.
Thực chất, quá trình điều chỉnh đã có ngay từ khi đứa trẻ rời bụng mẹ, nó phát triển dần tính độc lập cũng như các mối quan hệ âu yếm với bà mẹ, tất cả các quan hệ đó rất hòa hợp, thế giới của đứa con được mở rộng, dần dần đặt nó vào gia đình trong các mối quan hệ cha mẹ, anh em, làng xóm, bạn bè… Mỗi thời kỳ chuyển đổi được đánh dấu bằng cách gợi lại những quá trình tự chủ.
Cuộc khủng hoảng ở tuổi 40 không ngoài các quy tắc. Nhưng nó đưa ra được tất cả những cơ may cuối cùng để giải quyết mâu thuẫn bên trong:
- Vượt qua những mẫu người trẻ và mẫu người già.
- Hài hòa với chính mình cùng những xung năng mạnh mẽ và hợp nhất.
- Thu xếp những thời gian tự do mang lại công việc có ích.
- Vượt qua cuộc đối kháng giữa ham muốn và hãm lại nó.
- Bỏ đi sự áp đặt của mình và sự kiềm chế bên ngoài để ưu tiên cho cuộc sống nội tâm.
- Dung hòa với chính bản thân, với những bản tính của cả nam và nữ.
Xung đột lần đầu không chỉ tồn tại bên trong mỗi cá nhân mà cả ở bên ngoài. Hố chia cắt được khơi dậy giữa người già và trẻ, giữa nam và nữ, người hướng nội, người hướng ngoại, sự phá hủy và sáng tạo… tất cả được nhận thấy trong nền văn hóa, trong thể chế xã hội và trong chính mỗi nhân cách của con người.
Thời kỳ náo động:
Trong số 80% cá nhân khủng hoảng ở tuổi 40 tạo nên một thời kỳ đấu tranh, rối ren có tính rạo rực, đưa tới sự giảm sút nhiều mặt.
Thực tế sự ham muốn tự đặt ra những câu hỏi bắt nguồn từ những phần mạnh mẽ nhất của nhân cách chúng ta. Sự nghi ngờ và tìm kiếm một cuộc sống khác là hoàn toàn chính đáng.
Bệnh lý học không tự đặt ra mức độ ham muốn cải thiện cuộc sống, nhưng những trở ngại trong nội tâm con người đẩy chúng ta theo đuổi mục đích này. Một sự thay đổi rất sâu sắc không hạn chế quá trình học tập, kéo theo ấn tượng lo sợ hoặc mất ổn định. Nhìn lại mình và mọi người xung quanh, xem lại sự vấp ngã và những lý do làm đổi thay chính bản thân họ.
Phụ nữ tuổi 40
Để ngang tầm với thời đại, phụ nữ ở tuổi 40 mong muốn thời gian và mọi thứ đến từ từ, không muốn biết về cái chết sẽ đến ở cuối đời. Bản năng giới tính phụ nữ ở tuổi này bao hàm nhiều ước muốn, kể cả vấn đề sinh lý.
Hình ảnh thay đổi
Có nhiều nhân tố được chia thành các giai đoạn trong cuộc sống để hướng tới bản năng người phụ nữ ở thời đại mới.
1. Bận tâm về nghề nghiệp
Ngày hôm nay hơn ngày hôm qua, nghề nghiệp phát triển, ổn định có thể là một mục tiêu quan trọng của cuộc sống phụ nữ. Vào tuổi 40, phụ nữ thường xuyên tìm lại những đam mê xã hội và tri thức, khi đầu tư vào nghề nghiệp thường mang đến mẫu thuẫn với nam giới hoặc làm giảm khả năng sinh lý sẵn có của họ, nhưng lại làm tăng lên các cuộc gặp gỡ. Bản thống kê này cho rằng: khi người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong gia đình, rất ít chịu ngoại tình (khoảng 27%) còn số phụ nữ thường xuyên làm việc hơn nam giới là 47%.
2. Nhân tố thứ hai ảnh hưởng tới “việc khơi lại bản năng giới tính”, đó là tình trạng quan hệ vợ chồng. Rất thường xuyên trong thời kỳ này nam giới luôn ưu đãi cho cuộc sống nghề nghiệp của mình bởi ở tuổi 40 là đã chín chắn, tham vọng ở giai đoạn này tốt hơn khi vừa trưởng thành. Từ hiện tượng bắt nguồn niềm hy vọng cho cuộc sống, kết quả đem đến các khả năng quyền lực khác nhau bởi các lứa tuổi trong xã hội, đây cũng thường xuyên là giai đoạn giảm sút quan hệ giới tính. Khả năng cưới xin… quan hệ “chăn gối” thưa dần, việc kiêng kị trong một số trường hợp không thể coi thường đành phải chấp nhận. Ít có cặp vợ chồng chú ý đến sự sắp xếp lại các mối quan hệ bởi nhiều thứ phức tạp sẽ nảy sinh. Ngày càng nhiều cặp thử tạo ra một tình trạng mở cho gia đình.
3. Nhân tố thứ 3 được thành lập bằng cái mà các nhà phân tích có thói quen gọi tên là: nhớ lại các vấn đề tâm lý ơ-đíp (œdipien), qua đó họ hiểu được mức đối kháng của thời thơ ấu bị hạn chế bởi gia đình và văn hóa. Xu hướng sinh con đòi hỏi sự tò mò hiểu biết làm giảm cái khó hiểu về giới tính, thực tế nó kìm nén khả năng tình ái và khả năng hấp dẫn của. Phụ nữ ở thời 40 tuổi khám phá ra khả năng của mình, tuy nó đã trải qua trong cuộc sống thực, song nhiều người không tự nhận thấy điều đó nên vô tình làm mất dần các khả năng đó đi. Các phụ nữ này cần phải tìm phương pháp tự thấy sự trưởng thành của mình. Các ông bố bà mẹ của họ đừng nghĩ rằng con mình không đạt được như mình khi trẻ, bởi nghĩ vậy sẽ làm tăng ức chế với con gái mình và làm tê liệt cô ta. Thời kỳ này hãy để cho các phụ nữ 40 tuổi tự do quyết định.
Căn bệnh của cặp vợ chồng và sự thay đổi ý muốn
Nhận xét lâm sàng thường xuyên nhất đối với các bà vợ ở bước ngoặt quyết định của tuổi 40, đó là sự thay đổi gây mất cân bằng về ham muốn làm tình, hiện tượng đó gây thiệt hại cho người chồng. Hai dạng chuẩn đoán đã minh họa cho hiện tượng này: 1 - Người vợ mất cân bằng ham muốn ở khoảng 22 tuổi gây hại cho chính cô ta bởi ông chồng phàn nàn không đủ xung năng với ham muốn của người vợ trẻ. 2- Khi người vợ ở độ tuổi 40, chính bà ta phàn nàn không đủ chất mềm mại đam mê của người chồng. Vậy ham muốn mạnh mẽ của cả hai vợ chồng chưa được thỏa mãn và ăn khớp cùng nhịp điệu, người chồng trẻ buồn chán, anh ta mất đi sở thích riêng và sự tự do của mình, anh ta cảm thấy gò bó trong cuộc sống chung đụng giữa hai vợ chồng.
Sự ham muốn mạnh mẽ “tràn trề yêu thương” thích hợp với ý kiến của Kinsey, quan niệm này cho thấy sự sung sức tình dục của phái nữ đỉnh cao là ở độ tuổi 40. Vì sao lại mạnh mẽ như vậy: điều đó được giải thích bằng 3 lĩnh vực sau: nhân tố văn hóa, nhân tố sinh lý và cái mà chúng ta hay gọi là “căn bệnh vợ chồng” - kết quả tất nhiên của nó. Vậy cần phải kiểm soát lại thỏa thuận của vợ chồng (nghiên cứu của Kinsey).
Chắc chắn phụ nữ Mỹ được Kinsey nghiên cứu từ năm 1953 hạn chế và kém mạnh mẽ hơn phụ nữ ngày nay.
Một vài huyền thoại văn hóa của chúng ta ít tính đến các bà vợ ở tuổi 40. Cho đến bây giờ, ở độ tuổi này nhiều phụ nữ còn nghi ngờ rằng khoa học giới tính có phải của chung cho cả 2 giới (nam + nữ) không? Các chị sợ nếu nói điều ham muốn của mình với chồng thì anh ấy sẽ nhìn mình bằng con mắt thế nào đây? Chính vì vậy có những lần quan hệ tình dục, có chị không còn kiểm soát được điều kiêng kỵ của huyền thoại văn hóa, người vợ này có thể làm cho chồng mình thẹn thùng. Bên cạnh đó lại có những phụ nữ cố che dấu tính khêu gợi và sự ham muốn của mình.
Như vậy, khi ở độ tuổi 40, người vợ nên có sáng kiến trong cuộc sống tình dục phù hợp với vợ chồng mình, người chồng cần chú ý làm cân bằng sự mong muốn đòi hỏi của vợ.
Thỏa thuận mới giữa vợ chồng
Nhân tố thứ 3 mà chúng ta gọi là “căn bệnh vợ chồng” dẫn đến việc cần xem xét lại bản thỏa thuận trước đó mà họ cho là khá đầy đủ. Thực tế, hai cuộc khủng hoảng sau đây cho họ thấy bản thỏa thuận có nguy cơ xấu đi.
Cuộc khủng hoảng thứ nhất ở vào độ tuổi 30 hoặc 37 nó tồn tại ở cả hai vợ chồng, cần phải đặt câu hỏi cho cả hai. Thủ phạm của sự khó chịu này từ đâu.
Ngược lại, cuộc khủng hoảng thứ 2 biểu hiện vào tuổi 40 hoặc 41 dưới mốc thời gian đã qua, gắn với nguyên nhân của nó, người vợ xác định mình như một thủ phạm làm mất đi sự hài hòa đang tăng lên giữa hai người. Người vợ đã bị cho là không thể hiện tính khêu gợi, đó một trong những triệu chứng diễn ra rõ rệt hơn cả.
Vậy cuộc thương lượng cho thỏa thuận mới là cần thiết. Ở tuổi 36 hoặc 37, người chồng có nhiều ham muốn trong cuộc sống vợ chồng, người vợ thường trách người chồng thiếu năng lực nhạy cảm và thiếu sự âu yếm hoặc thiếu sự tưởng tượng… Đến 40 tuổi, cái cần xét là nguyên nhân của mỗi người trong phép biện chứng: Người trẻ, người già, nam giới và nữ giới. Mọi người đều nhận thức rõ ràng tuổi trẻ qua đi, đến lúc này nam tính hay nữ tính không còn là đòi hỏi quá hoàn hảo đối với các cặp vợ chồng. Chính sự tinh thông hiểu biết hơn về con người hấp thụ được từ mỗi cá nhân ngay trong cuộc sống hoàn toàn hiện thực là quan trọng hơn.
Cuộc khủng hoảng hầu như luôn tồn tại giải pháp mà các người bạn đời mang lại, đó là hai dạng chính: dạng đành chấp nhận nguyên trạng; dạng khác được xác định lại khoảng thời gian tự do.
Dạng đành chấp nhận để nguyên trạng được bày ra ở hai nguy cơ chính, nó đang đe dọa giải pháp mà một vài người gọi là sự đứng đắn và số người khác gọi là tự nhiên: Một sự tích tụ những căng thẳng sẽ nổ ra muộn hơn, ví dụ khủng hoảng ở tuổi 50 với “Tuổi hồi xuân”, hoặc một sự ổn định không cân bằng, làm cằn cỗi sức mạnh của cuộc sống, mất khả năng sinh sản và khả năng giới tính, làm mất hết sự khêu gợi tình ái.
Chúng tôi biết được các cặp vợ chồng mất khả năng gợi tình sẽ chia tay nhau, một trong hai người sẽ sống với anh hoặc chị em mình, trong thời gian đó họ đã chữa và bổ sung cho cơ thể mình những điều cần thiết trong cuộc đấu tranh tình dục.
Những người khác lại tìm bổ sung các thỏa thuận mới, những người trung niên thấy rõ thời gian trôi đi, tuổi trẻ của mình cần phải nuôi dưỡng và sắc đẹp cũng phải giữ gìn. Trong khi đó, những đứa con được lớn lên trong bối cảnh văn hóa mới, được thỏa mãn và kéo dài khả năng tình dục. Nhiều ông bố bà mẹ không nén được sự ghen tuông thường nói ra mồm điều đó.
Tóm lại, tất cả các thành phần hoóc môn, văn hóa bổ sung vào xung đột cuộc sống lứa đôi khi một số cặp vợ chồng mất tự tin vào giáo lý đã được duy trì từ lâu: Sự thủy chung được thỏa thuận lại.
Các thỏa thuận này nhiều khi làm hai vợ chồng không thật nhất trí, song họ đành chấp nhận và từ đó quan hệ vợ chồng bị giảm sút một cách đáng kể (tài liệu dựa theo các thử nghiệm đã nghiên cứu).
Điều trị giới tính học thế nào?
Trong cuộc khủng hoảng ở tuổi 40, khi các cặp vợ chồng khắc phụ bằng sự soạn lại thỏa thuận mới giữa hai vợ chồng, vậy vai trò điều trị của nhà giới tính học thế nào?
Đầu tiên, phần lớn các cặp vợ chồng đều hỏi ý kiến các nhà giới tính học bởi họ đặt ra câu hỏi trong sự thỏa thuận về những ham muốn tồn tại chung, nhưng khó thấy một sự đồng tình mới, cuối cùng lời khuyên của bác sĩ là nên tìm cách tái tạo lại mối liên hệ đang bị tàn lụi.
Thời kỳ đầu tiên bị tàn lụi bởi những dốt nát hoang tưởng vì họ không muốn tự do nói thật những nhu cầu thực của mỗi người về những bí mật trong chờ đợi. Ở bước này, cần phải đưa ra những từ mở giữa mối quan hệ không lời đã bị mất đối với cặp vợ chồng vì từ lâu họ không tự đề cập và nói cho nhau hay. Điều này rất phù hợp nhưng bắt buộc phải cụ thể vì trước đây họ né tránh và làm mất sự thường trực về tính gợi tình (đều mà 2 vợ chồng hay phàn nàn). Người thầy thuốc gợi lên những điểm nhãn, những trò chơi mà họ đã mất, cần phải xây dựng lại, đề cập tới một khung cảnh có những dấu hiệu gợi tình cho mỗi người (vợ và chồng).
Điều khó nhất là những nhu cầu không dám thú nhận phải được bộc lộ ra và phải biết những dấu hiệu sai lầm. Bởi chính chúng đã làm ra lệch pha về ham muốn và rối loạn hoạt động bấy lâu nay trong chuyện thầm kín của mỗi cá nhân. Chúng ta tán thành một sự phát triển lâu dài những bộc lộ ham muốn thực sự giữa các cặp vợ chồng với nhau.
Phụ nữ dễ chịu với vẻ ngoài của họ
Người ta có thể khó quên khi bị đánh, phụ nữ khi tới 40 tuổi, cuộc sống và thân thể có những tình trạng xấu đi, nó được ví như một sự ngược đãi hiện ra. Thực tế, người phụ nữ thấy trước điều xấu đó là tuổi già và sự biến chất; những thiếu hụt; sự thương tổn mất đi khoái cảm tình dục; cái chết rồi sẽ đến với bà ta. Tóm lại, một phần người ta biết trước sự lo âu ấy sẽ đến trong tương lai, phần khác là họ biết lứa tuổi thanh niên sẽ thay thế họ, đó là tất yếu. Ngày nay, phụ nữ ở tuổi 40 dường như sống dễ chịu hơn với sự ngược đãi của thời gian tất yếu này. Những điều kiện văn hóa, kinh tế đã trả lại họ sự nảy nở về giới tính nữ. Các bà có thể tự trau dồi tất cả những gì là cuộc sống phụ nữ dù trước đó họ bị cấm. Các bà đón nhận sự khủng hoảng nhẹ nhàng hơn để đối chọi với quá khứ và cái chết sẽ đến.
Ngày nay trên đường phố, những phụ nữ 40 tuổi có vẻ rất thoải mái, bà ta biết điểm hạn chế của mình và vẫn còn những mơ ước, tuy bà hiểu rằng mình không có tất cả sức mạnh, tất cả sự quyến rũ thắng lợi vĩnh hằng, nhưng còn biết bao thứ làm bà cảm động, bà có thể sống ngoài khuôn khổ vợ chồng nếu điều đó quá chật hẹp đối với bà.
Nhưng tại sao ở mặt sau “của những phụ nữ có bề ngoài cân bằng họ lại đưa ra những ý kiến để hỏi”. Bởi vì tất cả sự vận động này cùng song hành với kinh tế xã hội - văn hóa, tất yếu sẽ phát sinh câu hỏi từ chính các bà các chị, bởi họ muốn những điều rõ ràng, muốn sự giúp đỡ, sự tái bảo hiểm, cũng bởi vì không dễ dàng loại bỏ vai trò truyền thống để bỗng nhiên chiếm lấy thân mình, điều ấy thật ích kỉ và họ cảm thấy như phạm tội. Cũng bởi rằng: Cuộc sống của một số phụ nữ giải phóng, có quyền tự trị lâm vào nguy cơ sống cơ đơn”.
Sự phát triển, sự thích ứng, sự chín chắn
Cái mà người phụ nữ ngày nay đạt tới là vượt qua sự khủng hoảng ở tuổi 40 mang đến sự hòa hợp ở chính họ, quan niệm già trẻ hoặc sự quyến rũ của tuổi trẻ làm rõ đặc thù cho chúng ta, tổng hợp trong cá nhân họ bao hàm cả nam và nữ, và cuối cùng phát triển một khả năng thân mật hợp nhất tăng cường sự trao đổi giúp cho các mối quan hệ đi xa hơn. Không nghi ngờ gì nữa, cái đó lôi cuốn họ. Đó cũng là những mục tiêu chủ yếu giúp thời kỳ khủng hoảng ở tuổi 40 của cả nam và nữ giới.
Có phải rối loạn luôn tồn tại ở thời kỳ mãn kinh?
Thời kỳ mãn kinh, thời kỳ trưởng thành, và thời kỳ thai nghén được nhìn nhận tổng quát như một giai đoạn hết sức quyết định. Nó kéo theo những biến đổi xác định về nội tiết, cơ thể và tâm sinh lý.
Phần lớn phụ nữ ở thời kỳ mãn kinh kéo theo sự ám ảnh của tuổi già. Hiện nay nước Pháp có hàng triệu phụ nữ ở độ tuổi 50 hoặc từ 40 đến 50, họ đang phải chịu đựng hoặc sợ hãi trước những biểu hiện của thời kỳ mãn kinh: thời điểm này báo hiệu kỳ kinh nguyệt cuối cùng đồng thời hội tụ những lo sợ và cả sự tự ti của bản thân.
Quả thực, thời kỳ này không chỉ đánh dấu sự ngưng hoạt động của cơ quan sinh dục mà còn đặt dấu chấm hết của chức năng sinh sản. Cuối cùng người phụ nữ là người phải chịu đựng duy nhất, người ta coi đó như một mối đe doạ tiềm ẩn tới đặc tính sinh dục cũng như tới tình cảm của phái nữ.
Thời điểm kết thúc:
Thực tế cho thấy phải mất 10 năm cho một thời điểm hết sức quyết định này, trong thời gian đó, chúng ta phải khôi phục lại các tổ chức đã rệu rã của cơ thể để thích ứng tốt hơn với thực tế sôi động của môi trường bên trong và ngoài chúng ta. Và hình như đây là thời kỳ biểu hiện những rối loạn của lứa tuổi 50. Nó tất yếu phải đến thông qua các giai đoạn mang tính chu kỳ của cuộc đời.
Thế nhưng những giới hạn của cuộc khủng hoảng lứa tuổi 50 rất khó xác định. Chúng ta tạm gọi là cuộc khủng hoảng tạm thời. Nó tương đương với tầm tuổi trung niên của người Anglo-Saxons. Vấn đề đặt ra không phụ thuộc nhiều vào thời gian mà là trạng thái tâm lý, bởi lứa tuổi của những phụ nữ chịu rối loạn này dao động từ 40 đến 55 tuổi. Trong dòng chuyển động ấy có sự tham gia của các yếu tố: trật tự sinh học, tình cảm, đời sống vợ chồng, gia đình hoặc nghề nghiệp xã hội, còn sự mất cân bằng về hoóc môn chỉ can thiệp vào một phần hạn chế mà thôi.
Trong thời kỳ này cả cánh mày râu và chị em phụ nữ cùng bước những bước thử nghiệm vào thời điểm kết thúc. Họ tự nhìn lại mình và tự đánh giá về bản thân không cần qua một trung gian nào hết mà phản chiếu qua chính cơ thể, nghề nghiệp, và cuộc sống lứa đôi, cũng như gia đình của họ.
Trước thời gian tổng kết lại, người phụ nữ sẽ kiểm nghiệm lại những kinh nghiệm của mình đã trải qua: thành công hay thất bại, những mong đợi và viễn cảnh trước mắt.
Mỗi cá nhân đều thể hiện khả năng thích ứng với sự biến đổi của hoàn cảnh, điều này giải thích tính chất đa chiều của rối loạn này. Đặc biệt, những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của thời đại chúng ta ảnh hưởng một cách nhất định tới chu trình sống của con người. Khái niệm về lứa tuổi thiếu niên chỉ mới xuất hiện ở đầu thế kỷ 19: rối loạn lứa tuổi 50 của thời kỳ mãn kinh là sản phẩm của xã hội công nghiệp hóa. Nó mang lại cho người phụ nữ và cho mọi người nói chung nhiều thời gian hơn để sống và vui chơi. Ở thế kỷ 17 chỉ có 30% phụ nữ đạt đến độ tuổi mãn kinh, và ngày nay tỷ lệ này là 95%. Sự tiến bộ của những phong tục tập quán và cương vị xã hội của phụ nữ dẫn tới sự biến đổi trạng thái tâm lý, hình thành một phương trình: tuổi mãn kinh sẽ bằng tuổi già cộng với sự kiêng kị đời sống tình dục.
Điểm mấu chốt của cuộc khủng hoảng lứa tuổi 50 gắn liền với việc sử dụng thời gian còn lại của chúng ta cho cuộc sống tiếp theo.
Từ cuộc khủng hoảng này đặt người phụ nữ trước hai con đường: khắc phục mọi khó khăn, tranh đấu để sống tốt đẹp hơn hoặc là tự đầu hàng phó mặc cho số phận.