Đám đông ồn ã, khoa chân múa tay bu quanh các du khách. Xen lẫn giữa những tiếng reo hò thích thú, họ cảm nhận trong đó có một niềm tôn kính vô hạn. Những cư dân ở đây chào đón họ theo kiểu rất nhộn: bằng cách thè lưỡi ra. Aurett phá lên cười song Lavarède bảo với nàng rằng đó là kiểu chào của người dân ở đây.
Các thầy tu ở đây được người ta gọi là "sư thầy" giúp họ thoát khỏi căn nhà tù khinh khí cầu với tất cả niềm tôn kính sâu sắc nhất.
Lavarède làm bộ ra vẻ cho họ thấy chàng đang đói. Họ dẫn các du khách tới một cung điện. Một cánh cổng lớn được chạm khắc tinh xảo mở ra phía trước. Chàng nhà báo và những người bạn của chàng. Họ đi vào một đại sảnh rộng thênh thang có ánh sáng rất dịu mát. Có một khối đá cẩm thạch lớn màu xanh lá cây dựng ở cuối sảnh.
Một sư thầy chỉ tay về phía đó. Lavarède đoán sư thầy muốn chàng trèo lên khối đá ấy.
Nghĩ rằng đó là một tập tục của vùng này, chàng lặng lẽ vâng theo.
Từ trong họng sư thầy phát ra một tiếng ngân dài "A....". Các vị sư khác đốt một thứ bột màu trắng tạo nên một làn khói dày đặc có mùi nhựa trám hương.
Lavarède ngạc nhiên:
- Không lẽ mọi người ở đây sùng kính mình như vậy là vì mình đã từng là tổng thống nước cộng hòa Costarica? Tên tuổi của mình lan đến tận đây sao?
Cứ hai người một bước theo nhịp chiêng, các vị sư trịnh trọng bưng vào các món ăn và bình đựng nước bằng bạc rồi lần lượt giới thiệu từng món một cho Lavarède thưởng thức. Chàng nhà báo yêu cầu chuyển một phần mật, hoa quả và thịt cho hai cha con người Anh. Phần còn lại được đưa sang cho Bouvreuil...
Trong khi họ đang ăn, những người sùng đạo đã tràn vào chật ních cả chùa. Tất thảy đều quỳ gập người xuống đất, tay nâng lên quá đầu một chiếc gậy, trên đầu gậy có một khối trụ xoay tròn, miệng lầm rầm cầu nguyện.
Chàng trai Paris rên rỉ:
- Thôi đúng rồi, họ lại tưởng tôi là đức Phật giáng lâm.
Việc hành lễ kéo dài đến chập tối. Cuối cùng khi đêm xuống, Lavarède cũng được nghỉ ngơi yên lành sau buổi "hành xác" mệt lử..Chàng nói với những người bạn đồng hành:
- Thực ra tại sao người ta lại chọn tôi mà không phải ai khác trong số chúng ta?
Song chẳng ai có thể giải đáp được câu hỏi này.
Ngày hôm sau, các nghi lễ đó lại tái diễn và nhiều ngày sau cũng vậy. Đổi lại các buổi ngồi nghe tụng kinh, chàng nhà báo được chăm sóc, chiều chuộng hết sức chu đáo, được ăn ngon, uống các loại rượu vang hảo hạng. Song nếu chàng định tránh không nghe các buổi tụng kinh hay có ý định rời khỏi chùa, chàng sẽ bị các nhà sư tìm đủ mọi cách ngăn lại với thái độ hết sức sùng kính. Có khi để buổi lễ diễn ra suôn sẻ và phòng chàng chống cự, các nhà sư đã trói Lavarède lại.
Chàng trai Paris vô cùng phẫn nộ song chỉ có thể xẻ chia với hai cha con người Anh, bởi bản thân họ cũng phải chịu kiếp tù giam lỏng như chàng. Duy chỉ có Bouvreuil lại vô cùng khoái trá: trước nhất lão ta được tự do, thích làm gì thì làm, chẳng ai động chạm đến, sau nữa với tình hình này thì "con rể" của lão sẽ thua cuộc.
Lavarède tìm cách chuốc rượu hay đánh lừa bọn lính canh, song mọi mưu toan của chàng chỉ càng làm cho việc canh phòng trở nên nghiêm ngặt, khó khăn hơn.
Chàng giận dữ bởi sự bất lực của chính mình:
vậy là chàng cứ chết gí ở đây với vai trò Phật giáng thế sao. Song đến tối của ngày thứ hai, một sự cố đã xảy đến làm chàng khấp khởi hy vọng.
Một người đàn ông lạ mặt tới gặp chàng ở chính điện. ông ta mặc một chiếc áo khoác "katbalpa" màu sẫm, bó ở chỗ thắt lưng và một chiếc quần rộng của những người Xibia.
Lavarède tự nhủ:
- Lạ nhỉ, không biết người đàn ông này từ đâu tới?
Người đàn ông chậm rãi tiến lại gần bệ đá, cúi lạy, xoay chiếc gậy cầu nguyện rồi khẽ thong thả hỏi:
- Ngài đến từ vùng nào của châu Âu?
Lavarède ngỡ ngàng: ông ta nói tiếng Pháp.
Chàng hỏi:
- ông là ai?
- Rachmed, thuộc dòng họ Tekké.
Rachmed, người dẫn đường lừng danh của nhà thám hiểm Bonvalot ư?!
- Vâng. Chỗ tôi ở cách đây năm ngày đường.
Qua các du khách, tôi được biết đức Phật đã giáng thế.
Lavarède và các bạn của chàng cùng buột miệng kêu lên:
- Đức Phật!
Người đàn ông họ Tekké nghiêng đầu kính cẩn:.- Vâng. Lúc nhìn thấy quả khinh khí cầu bay trên trời, tôi biết chắc các du khách châu Âu thể nào cũng bị các nhà sư bắt giữ: Vậy nên tôi đã vội vã lên đường để giúp họ chạy trốn. Bonvalot đã làm cho tôi yêu quý tất thảy những người châu Âu.
Aurett mỉm cười duyên dáng với vị cứu tinh bất ngờ rồi khẽ hỏi:
- Nhưng tại sao ngài lại biết chúng tôi bị giam giữ?
- Đó là cả một truyền thuyết linh thiêng, một lời tiên tri mà tôi được biết. Các bạn nghe nhé:
"Không lâu nữa, đức Phật sẽ giáng thế ở Tây Tạng. Vì đức Phật sẽ lưu lại trên vùng cao nguyên, xứ sở này sẽ trở nên vô cùng thịnh vượng.
Do vậy các nhà sư dùng lễ vật, của cải để giữ chân người với một sự sùng kính tuyệt đối song họ cũng không bao giờ cho phép người bỏ đi!
Tai họa sẽ ập xuống nơi đây nếu một ngày không có sự che chở của người." Tất cả chăm chú lắng nghe và giờ họ mới vỡ lẽ.
Nghe thoáng có tiếng bước chân trên nền đá lát, Rachmed trở lại với tư thế cầu nguyện và khẽ nói:
- Họ đang đến. Ngày mai các vị sẽ gặp lại tôi.
Tối hôm đó, Armand được các nhà sư cho phép gặp hai cha con người Anh. Cả ba ngồi bàn bạc về kế hoạch bí mật của Tekké song họ quyết định không nói cho Bouvreuil biết.
Ngày hôm sau, Rachmed tới gặp Tag-Lama, vị sư thầy trụ trì ở đây, bày tỏ mong muốn được nói chuyện với đức Phật giáng lâm. Vì là phiên dịch trong suốt chuyến đi cùng ngài Bonvalot, Tekké có thể hiểu được những gì Phật dạy. Các nhà sư cho ông ta vào thảo luận với Lavarède và ngay sau đó, một tin tức loan ra: nhờ một tài nhân có khả năng sử dụng ngôn ngữ của thánh thần đức Phật sẽ có thể trò chuyện với các chúng dân Tây Tạng. Tức thì từng đoàn người ùa vào chùa như thác đổ. Họ hỏi đức Phật về mọi thứ trên trời dưới bể. Chàng nhà báo theo như các câu hỏi họ đặt ra bỗng chốc trở thành bác sĩ, bác sĩ thú y hay nhà chiêm tinh học.
Thành ra việc bỏ trốn cũng đành giậm chân tại chỗ cho dù việc giam giữ đã đỡ nhàm chán hơn chút ít. Các nhà sư huy động mọi biện pháp ngăn không cho chàng chạy trốn. Mỗi lần vào gặp chàng, Tekké đều bị lục soát rất kỹ lưỡng.
Vậy là hai tuần nữa lại trôi qua. Aurett, Mur-lyton, Rachmed, tất cả mọi người đều cảm thấy cực kỳ căng thẳng, khó chịu. Mọi phương cách đều bị vô hiệu hóa làm họ càng thêm căng thẳng cộng với việc Bouvreuil cứ điềm nhiên, mặt nghênh nghênh đi lại như chọc tức họ. Duy Lavarède vẫn giữ được đôi chút bình tĩnh. Có thể chàng đã nảy ra một diệu kế gì đó. Thực ra, Lavarède đã yêu cầu Rachmed dịch lời mời Tag-Lama tới dùng bữa tối cùng chàng. Ngày hôm sau, chàng cho đọc một bài diễn văn rất dài được Rachmed dịch trong buổi lễ.
Lavarède kết thúc bài diễn văn hùng hồn của mình với những lời lẽ như sau:
- Các thế lực xấu xa đang nổi dậy chống lại ta, với những hiểm họa khôn lường cho thế giới này như: băng giá, bệnh tật... Đã đến lúc chúng phải bị tiêu diệt. Hỡi tất cả các sư sãi hãy nghe theo lời ta, mang vào trong chùa cỗ xe không khí đã từng đưa ta tới đây. Cùng các bạn đồng hành, ta sẽ tu sửa và dùng nó đưa người hầu của ta trở về thượng giới. - Chàng chỉ tay về phía Bouvreuil, đang đứng ngây ra ngơ ngác. - Khi quay lại, anh ta sẽ mang theo các bùa khí để đề phòng và chấn giữ sự tấn công của lũ yêu ma.
Nghe đức Phật hứa như vậy, tiếng reo hò hoan hỉ vang dậy khắp nơi. Các nhà sư buộc phải nhượng bộ trước áp lực của dân chúng. Ngay tối hôm đó, Lavarède đã có được quả khinh khí cầu.
Trông nó thật thảm hại song có thể sửa chữa được.
Ngày 24 tháng 12, khinh khí cầu đã sẵn sàng khởi hành. Nó được đặt giữa sân, trong giỏ đã được để đầy ắp vũ khí, quần áo ấm, lương thực và những đồ hiến tế của các phật tử Tây Tạng.
Rượu gạo sẽ cung cấp khí nóng cần thiết giúp khinh khí cầu bay lên. Các nhà sư tỏ vẻ lo lắng song Lavarède tuyên bố chỉ có Bouvreuil, người hầu của chàng sẽ bay về thượng giới.
Buổi tối đã tới. Nhờ lời mời Tag-Lama tới dùng bữa tối, Lavarède thấy cửa nhà giam sơn son thiếp vàng của mình được mở toang. Hai cha con người Anh cũng được tự do đi lại như Rach-med.
Còn Bouvreuil thì sao? Đương nhiên chẳng ai mời lão tới.
Khi bước vào trong phòng Lavarède, vị sư trụ trì ngôi chùa chưa kịp ý thức được chuyện gì xảy ra đã bị đập một đòn vào gáy, ngã lăn quay, ngất lịm. Chàng nhà báo lột quần áo của ông ta ra, mặc vào đóng giả làm Tag-Lama và lặng lẽ rời khỏi phòng của mình. Sư sãi ở chùa này đội một chiếc mũ khá lớn, che gần hết gương mặt, khi đi đầu hơi cúi xuống vẻ suy ngẫm và rất ít nói. Tất cả những điều đó hoàn toàn ăn khớp với kế hoạch của Lavarède. Chàng từ tốn đi về phía quả khinh khí cầu với những người bạn đang đợi chàng ở đó. Trong nháy mắt, cả bốn người trèo lên khinh khí cầu và cắt đứt các dây buộc.
ở phía bên dưới, những người Tây Tạng hoảng hốt ngước lên nhìn họ, song đã quá muộn:
quả khinh khí cầu bay mỗi lúc một cao hơn, bỏ mặc đằng sau tiếng la hét, van xin và cả những lời hăm dọa nữa.
Các du khách của chúng ta mất rất nhiều ngày bay trên mảnh đất đang trong mùa băng giá này. la bàn chỉ khinh khí cầu đang di chuyển về phía Nam, về phía ấn Độ, ở đó Lavarède và các bạn chàng có thể dễ dàng tới một bến cảng, lên.tàu quay lại châu Âu và chàng sẽ thắng cuộc. Tuy nhiên, Rachmed lại tỏ vẻ lo lắng. ông ta cho rằng khinh khí cầu đang di chuyển về phía Bắc.
Từ trên cao, ông cảm thấy khung cảnh những vùng bay qua khá quen thuộc như thể ông đã cùng nhà thám hiểm lừng danh Bonvalot đã từng một lần đặt chân tới. ông càng phiền muộn hơn bởi đây là một xứ sở hoang vu, lạnh giá với hoang mạc Gobi, và không có lương thực tiếp tế. Nếu quả thực họ đang đi về phía Bắc, chắc chắn họ sẽ bị thua cuộc.
Lavarède an ủi:
- Thôi đừng lo lắng Rachmed, la bàn đã chỉ hướng như vậy làm sao mà sai được.
Hỡi ôi nhưng lần này chàng đã lầm và khi nhận ra thì đã quá muộn: chiếc la bàn đã bị hỏng trong cơn bão. Khinh khí cầu đang bay về phía Sibéria.
Đột nhiên có một cơn gió dữ dội ào tới, thổi bạt ngọn lửa trong bếp nhỏ và vỏ bọc ngoài bằng vải xoa của khinh khí cầu bắt lửa, bắt đầu bốc cháy. Họ chưa bao giờ gặp phải một hoàn cảnh khủng khiếp tương tự như bây giờ.
Tiểu thư Aurett run rẩy nói:
- Vĩnh biệt cha, vĩnh biệt ngài Lavarède!
Những lời nói đó như xát muối vào lòng ba người đàn ông. Họ kéo dây néo, cố tìm mọi cách xoay xở để khinh khí cầu đáp xuống bên bờ một dòng sông đã bị đóng băng. Vỏ bọc ngoài của khinh khí cầu hầu như đã bị cháy thành than.
Lavarède nói:
- Mọi người đừng rối trí. Lương thực, vũ khí, áo lông, lều bạt, tất cả mọi thứ của chúng ta đều ở trong này.
Phải khó khăn lắm, cuối cùng họ cũng đáp được xuống bờ sông. Giữa những ngọn núi đá lởm chởm, có một con đường mòn dẫn đến một cái hang. Đi được vài bước các du khách châu Âu đứng khựng lại sững sờ. Mái và vách hang, dường như được nạm bằng ngọc, với hàng nghìn mắt nhỏ, phản chiếu ánh sáng xóa tan không khí tối tăm ảm đạm.
Aurett khẽ thốt lên:
- Đẹp tuyệt vời!
Tekké nói ngắn gọn:
- Muối mỏ đấy.
Dù sao cát dưới chân họ rất mịn, mềm mại, khô ráo và mắt họ ánh lên rạng rỡ. Cả bốn nằm cuộn tròn trong các chiếc áo lông và từ từ thiếp đi.
Có vài bóng đen đi vào trong hang và tiến về phía những người đang ngủ. Bọn họ đến sát bên tiểu thư Aurett, hết sức nhẹ nhàng, cẩn thận nâng nàng lên và đưa ra ngoài hang. Toán người đó buộc nàng vào lưng một con ngựa rồi tất cả nhảy lên ngựa phi nước đại..Sáng hôm sau, dù đã gọi khản cả cổ, tìm khắp xung quanh song vẫn chẳng thấy bóng tiểu thư Aurett đâu. Rachmed thông báo có thể nàng đã bị bắt cóc làm ngài Murlyton và Lavarède rụng rời tay chân.
Họ đi bộ cả ngày về phía Tây theo đường chỉ dẫn của Rachmed. Đêm xuống, cả ba ngủ thiếp đi vì kiệt sức, mặc nhiệt độ ngoài trời đã xuống tới âm ba hai độ C. Đột nhiên, họ nghe thấy có tiếng cọt kẹt.
Tekké thì thào:
- Một chiếc xe chở hàng.
Lavarède nói:
- Một chiếc xe chở hàng ư? Như vậy sẽ có người đánh xe. Chúng ta được cứu sống rồi.
Người đánh xe có vẻ không an tâm lắm khi trông thấy ba người đàn ông tiến tới hỏi lão là ai. Đó là một ông già, lưng còng khoác một tấm da bò Tây Tạng. Dưới chiếc mũ có lót da lông thú, gương mặt ông ta hiện ra gầy hóp với bộ râu xám dài. Đột nhiên người ông ta co rúm lại và toàn thân run lẩy bẩy.
Ông ta nói:
- Hãy nghe đây, tử thần...
Lavarède hỏi:
- ông ta đang nói về cái gì đấy?
Rachmed nói:
- Về con gấu xám ở cao nguyên. Một trong những con thú hung ác, man dại nhất ở đây...
Người đánh xe rên rỉ:
- Một đêm đáng nguyền rủa. Nó đã đánh chết các con bò Tây Tạng của tôi. Giờ gia sản của tôi chỉ còn hai con bò này vậy mà chúng cũng sắp bị nó giết và xé xác. ôi! Cả một đời tôi chắt chiu dành dụm một nắng hai sương, giờ lại sắp bị chết đói.
Lavarède giơ khẩu súng trường lên và nói:
- Chúng tôi sẽ bảo vệ lão. Thế nó ở đâu?
- Không xa đây đâu. Nó đã đánh hơi được con mồi.
Mặt trăng từ từ hiện ra sau đám mây mờ, dát ánh bạc lóng lánh lên các mỏm núi đá làm khung cảnh trở nên lung linh huyền ảo. Một khối đen cách chỗ họ đứng chừng năm mười bước, lừng lững tiến lại. Con gấu rống lên một tiếng nghe thật ghê rợn. Nó dừng lại trong tích tắc quan sát kẻ thù rồi rống lên một tiếng nữa và lao về phía họ.
Ba tiếng súng rít lên. Con thú bị trúng đạn song nó không chết. Nó lao vào Rachmed. Người dẫn đường hét lên tuyệt vọng. Thấy vậy, quên cả nguy hiểm, chỉ nghĩ tới việc cứu người bạn đường, Armand phi người về phía con gấu, rút phắt ra con dao dài của người Tây Tạng, đâm một nhát.vào vai nó. Song chàng bị nó hất ngược trở lại cách đó vài mét.
Chàng nhà báo đứng phắt dậy vào thế tự vệ song điều đó chẳng cần thiết. Con thú đã bị thương quá nặng. Nó lảo đảo bước thêm vài bước rồi đổ ập xuống, móng vuốt của nó cào nát một khoảng đất. Con gấu đã chết.
Song Tekké cũng bị thương khá nặng. Máu ở vai ông chảy ra xối xả. Để bày tỏ lòng biết ơn, ông lão đánh xe tình nguyện chở người bị thương về nhà mình. Tất cả đồ đạc được chất lên xe cùng Rachmed. Giữa đêm tối, chiếc xe từ từ lăn bánh, bỏ lại đằng sau xác con gấu đã cứng đơ vì lạnh.
Ngôi nhà của Dagrar, tên ông lão đánh xe bò, nằm ở cuối một thung lũng hẹp. Dagrar mời ba người đàn ông vào trong nhà. Đồ đạc trong nhà khá sơ sài. Cũng may vết thương của Rach-med không nặng. Lavarède chăm sóc vết thương cho ông. Chỉ cần sau một đêm nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, ngày mai ông sẽ mau chóng hồi phục.
Ngày hôm sau Lavarède muốn tới tận Behar-sand, cách nhà ông lão đánh xe ba tiếng đi bộ.
Chàng liền dò hỏi ý kiến mọi người.
Và Dagrar đã nghĩ gì?
Ông lão nói với họ:
- Các vị có thể tới đó. Bình thường người Kirghizis rất kỳ thị đối với người lạ song hôm nay thì không sợ, họ đang tổ chức lễ "Các nữ kỵ binh".
Những người châu Âu tỏ vẻ ngạc nhiên.
Dagrar giải thích cho họ:.- Những phụ nữ này là hậu duệ của các nữ chiến binh. Mỗi năm một ngày, họ trở thành những nữ chủ nhân tuyệt đối ở vùng này. Họ đeo vũ khí của các chiến binh còn đàn ông chăm lo việc nội trợ. Trước khi gặp các vị đêm hôm qua, cả ngày hôm đó, tôi bận túi bụi chuẩn bị cho buổi lễ. Các vị cứ tham dự đi đừng sợ. Chắc chắn các vị sẽ rất vui và không gặp phải bất kỳ một nguy hiểm nào đâu.
- Chúng tôi rất muốn tham gia nhưng để dịp khác vì hôm nay chúng tôi phải đi tìm tiểu thư Aurett, con gái của người bạn tôi đây. Cô ấy đã bị mấy tên kỵ sĩ lạ mặt bắt cóc.
Một giọt nước mắt lăn trên má ngài Murly-ton.
Dagrar khẽ nói; - Con gái của ông ấy ư?
- Lão biết chuyện gì phải không?
- Không, không. Có thể tôi nhầm.
Ông lão kinh hãi trả lời. Song được Lavarède khích lệ, cuối cùng Dagrar nói:
- Có phải cậu đang tìm một cô gái tóc vàng như cỏ cao nguyên cuối hạ? Cô gái ấy không biết ngôn ngữ của chúng tôi đúng không?
- Vâng, vâng. Thế lão đã gặp cô gái ấy ở đâu?
- Khi tôi ra khỏi thành phố. Trong vùng đồng bằng, các chiến binh đã dựng lều xung quanh một đống lửa lớn. Một phụ nữ đã lao ra gặp tôi, cô ấy nói gì đó song tôi không hiểu. Đột nhiên Lamfara xuất hiện, ép cô ấy vào trong một căn lều và ra lệnh cho tôi tránh xa khỏi chỗ đó.
Chắc chắn bọn họ sẽ trở về Beharsand trong ngày hôm nay.
- Thế Lamfara là ai vậy?
- ông ta chỉ huy hàng trăm chiến binh. Đó là một con người rất uyên bác, được nuôi dạy ở một nơi rất xa vùng này, đất nước "Bạch Phụ".
ý ông ta muốn nói là ở "nước Nga, đất nước của Sa Hoàng".
Phải nhanh chóng tới chỗ cắm trại. Họ để lại cho ông lão số tài sản mang từ Tây Tạng tới trong chiếc giỏ khinh khí cầu và cám ơn ông đã giúp đỡ.
Sau lời chào tạm biệt gấp gáp, họ vội vã lên đường hướng về Beharsand, kinh đô của người Kirghizi. Không ai có thể ngăn bước họ. Behar-sand là một thị trấn nhỏ với khoảng ba, bốn nghìn dân sống trong vùng thảo nguyên băng giá Trung á, nó là một trong những trung tâm quan trọng bậc nhất.
Ngài Murlyton nói:
- Hãy cẩn trọng.
Lavarède cười:
- Không cần. Lễ hội "Nữ kỵ sĩ" đã bắt đầu.
Chúng ta hãy tận dụng cơ hội này..Phía trước họ là các công sự với những chòi gác hình vuông. Chàng trai người Pháp tiến thẳng tới một cánh cổng có những người đàn bà đầu đội mũ sắt, đeo khiên tròn ở thắt lưng đang đứng gác. Rachmed hỏi chỗ ở của viên chỉ huy Lam-fara.
Các nữ lính gác dịu dàng mỉm cười và chỉ đường cho họ.
Một người trong số lính gác nói:
- Nhưng các vị phải đợi ở đây vì lúc này hội nghị các nữ kỵ sĩ đang họp.
Lavarède và các bạn đồng hành vội xông vào.
Trước mắt họ là một hội nghị bàn tròn với rất nhiều phụ nữ đang ngồi nghe một người cùng giới thuyết giảng.
Không ngại cắt ngang lời diễn giả, Lavarède bước vào trong vòng hội nghị. Có tiếng la ó hăm dọa cất lên song chàng trai Paris vẫn bình tĩnh, xoay lưng về phía Rachmed và nói:
- Bắt đầu đi!
Rachmed nhanh chóng dịch bài diễn văn Lavarède vừa đọc cho ông sang tiếng bản ngữ.
Ông hắng giọng:
- Thưa các quý bà, chúng tôi xin lỗi đã cắt ngang cuộc hội thảo của các vị, song chúng tôi xin tố cáo một tội ác làm phương hại đến tập tục, đạo lý do một người đàn ông trong thị trấn này gây ra. Ngày nay mọi phụ nữ đều được tự do. Không ai có quyền bắt giữ, hành hạ và chà đạp nhân phẩm họ.
Hầu như các phụ nữ trong hội nghị đồng loạt hô to:
- Đúng vậy! Đúng vậy!
- Vậy mà một cô gái đã bị bắt giam ở Behar-sand.
Đây là cha và chồng chưa cưới của cô gái.
Họ yêu cầu các vị sự công bằng. Trải qua hàng thế kỷ nay, với truyền thống của tổ tiên anh hùng, chính các bạn sẽ dành lại công bằng cho họ.
Không khí hội nghị như muốn nổ tung trong tiếng hoan hô, reo hò cuồng nhiệt. Các nữ kỵ sĩ muốn biết chỗ tiểu thư Aurett đang bị giam giữ.
Rachmed đáp:
- Chính tại nhà của Lamfara!
- Tại nhà của Lamfara!
Ngay sau đó, tất cả các phụ nữ trong hội nghị rời cuộc họp, tập hợp thành một đội quân hùng hậu tiến thẳng tới nơi giam giữ cô gái.
Lúc này, Aurett còn đang mê ngủ. Một nỗi buồn mênh mang đè trĩu tâm hồn nàng. Nàng đã bị tống lên ngựa và nó phi như điên. Mỗi bước ngựa phi là mỗi lúc nàng càng xa cha và Armand. Trong lúc cắm trại, nàng chỉ kịp báo cho một lão nông song việc đó chẳng ích gì, nàng đã bị kẻ bắt cóc tống ngay vào trong lều. Cuối cùng khi đến thị trấn, chúng giam nàng vào một.căn phòng ẩm thấp. Aurett chắc chắn tên cai ngục sẽ sớm mò đến gặp nàng.
Một giọng đàn ông làm nàng giật bắn người.
Tay chỉ huy Lamfara ăn mặc vô cùng chải chuốt đang đứng trước mặt nàng. Hắn đứng đó trong tư thế hết sức nghiêm trang. Cô gái thực sự ngạc nhiên khi thấy Lamfara nói tiếng Anh:
- Tại đất nước của Sa Hoàng, người ta không chỉ dạy tiếng Nga mà nhiều ngôn ngữ châu Âu khác. Đừng vội trả lời khi ta chưa nói xong, thưa tiểu thư. Khi còn là sinh viên ở Matxcơva, tôi đã được học và hiểu biết về nền văn minh của đất nước tiểu thư. Trở về quê, các thiếu nữ ở đây thật quê kệch, vô duyên và hoang dại. Ta khinh thường họ. Tại sao ư? Bởi tâm trí ta luôn nhớ về những thiếu nữ châu Âu duyên dáng, thông minh và xinh đẹp.
Aurett hơi bĩu môi tỏ vẻ khinh bỉ như thái độ Lamfara dành cho các cô gái ở đây. Song điều đó không làm hắn tự ái hay uy hiếp nàng.
Lamfara nói tiếp:
- Cuối cùng ta đã đặt được mục đích của mình. Lúc nhìn thấy quả khinh khí cầu của nàng bốc cháy, ta và mấy tay cận vệ đang đi săn.
Những người đi cùng ta cứ tưởng đó là một vật thể lạ song ta nhận ra ngay đó là một quả khinh khí cầu. Những người đến từ châu Âu, ta đã thầm nghĩ như vậy. Trí tò mò đã thúc đẩy ta tìm đến chỗ quả khinh khí cầu đáp xuống. Lần theo bước chân của nàng và những người đi cùng, ta đã tìm đến cửa hang và ở đó...
Lamfara dừng lại trong giây lát rồi nói tiếp giọng nghẹn lại:
- ở đó ta đã nhìn thấy nàng. Nàng như một hình ảnh sống động gợi nên trong ta biết bao nuối tiếc, nhớ nhung. Ta là người giàu có, ai ai cũng nể sợ. Tiểu thư, xin tiểu thư hãy trở thành vợ ta và tất cả sẽ phải quỳ gối dưới chân nàng.
Bọn họ không được nhìn thẳng vào phu nhân của Lamfara.
Mắt vị vua Mông Cổ sáng rực lên. Aurett thoáng rùng mình. Người đàn ông này thật đáng sợ. Ai sẽ đến giải thoát cho nàng đây? Có ai biết nàng đang ở đâu không? Lamfara lại hiểu lầm sự do dự của nàng.
- Nàng đừng vội quyết định. Ta cũng không muốn ép buộc nàng. Ta sẽ đợi...
Và Lamfara đi ra.
Còn lại một mình, Aurett bật khóc nức nở.
Nàng cảm thấy chẳng có gì có thể thay đổi ý định của vua Mông Cổ. Không lẽ nàng sẽ sống nốt phần đời còn lại ở Beharsand ư?
Đột nhiên có tiếng lộn xộn bên ngoài. Cô gái chạy tới cửa sổ, mở ra và nhìn xuống sân.
Trong sân, Lamfara đang thương lượng với khoảng một trăm phụ nữ, trong số đó có ngài Murlyton, Lavarède và Rachmed..Aurett hét lên:
- Ngài Armand! Hãy cứu em!...
Một lát sau, nàng đã được tự do.
Trong ngày lễ "các nữ kỵ sĩ" Lamfara không dám chống lại bọn họ. Song hắn ta cược rằng ngày mai, hắn sẽ truy đuổi bắt bằng được con mồi của mình.
Trước khi chia tay, các nữ kỵ sĩ cấp cho họ bò Tây Tạng, lương thực và cả một bao tải đựng đầy các mảnh sành, gốm và thủy tinh vỡ theo đúng yêu cầu kỳ quặc của Lavarède.
Lavarède bí hiểm nói:
- Những mảnh vỡ này sẽ rất có ích cho chúng tôi.
Khi trời đã xế chiều, những người chạy trốn đã tới chân các ngọn núi hoa cương đầu tiên.
Lavarède cương quyết ra lệnh cho mọi người cố hết sức đi tiếp. Đó cũng là cách duy nhất giúp họ thoát khỏi sự truy đuổi của Lamfara.
Cuối cùng, Lavarède và những người bạn đồng hành đã leo tới một vùng đất có địa thế khá thuận lợi: lối đi hẹp, xung quanh là những vách đá dựng đứng. Sau một chỗ ngoặt, con đường trở nên rất dốc. Cả bốn người vượt qua một sườn núi đá treo leo chạy dọc theo một vách đá và nhô lên trên vực thẳm.
Lavarède lẩm bẩm:
- Chỗ này được lắm.
Tại đó, chàng bắt đầu rải các mảnh sành và thủy tinh vỡ.
Ngài Murlyton hỏi:
- Hành động kỳ quặc này là như thế nào vậy?
- Rồi ngài sẽ thấy... Mọi người nhìn kìa, bọn chúng đang tới rồi kìa, trong vùng đồng bằng dưới kia ấy. Chưa đến mười lăm phút nữa, quân lính của Lamfara sẽ mò tới đây.
Chẳng mấy chốc toán lính cùng Lamfara dẫn đầu đã tiến vào sườn núi đá treo leo. Aurett tái mặt sợ hãi.
Armand nói:
- Tiểu thư đừng sợ, bọn chúng không sang được tới bên này đâu. Ngựa mà giẫm phải các mảnh vỡ này không bị trượt cũng ngã trợn mắt.
Đột nhiên khi tiến vào hẻm núi, lũ ngựa chùn chân, đứng khựng lại, xô vào nhau. Hai con ngựa đầu sa chân, trượt xuống dốc và cuối cùng lao xuống vực mang theo cả hai tên lính. Các con ngựa khác cũng cùng chung số phận. Toán lính đuổi theo, người, ngựa và cả Lamfara đều rơi xuống vực, chết tan xác.
Toàn bộ thảm kịch chỉ diễn ra trong vài giây.
Sau bài điếu văn, các du khách của chúng ta bùi ngùi tiếp tục lên đường.
Nhiều ngày trôi qua trong xứ sở hẻo lánh, không một bóng cây hay người sinh sống, do.không có gỗ, họ phải dùng phân bò khô vương vãi trong vùng thảo nguyên để nhóm lửa.
Họ hầu như kiệt sức sau những ngày dài leo núi và vì khí hậu giá lạnh khắc nghiệt. Chân chồn, gối mỏi, hơi thở thoi thóp, khi đêm xuống, họ chui vào trong lều và mệt mỏi ngủ thiếp đi.
Không lâu sau đó, Aurett, người yếu nhất trong cả nhóm, đã kiệt sức không thể lê chân đi tiếp được nữa. ánh mắt nàng đờ đẫn, hai má hõm sâu, đôi chân tím bầm sưng tấy làm nàng vô cùng đau đớn.
Armand tìm mọi cách khích lệ mọi người và luôn dành cho nàng những lời an ủi dịu dàng nhất. Aurett mỉm cười cám ơn chàng song sự chán nản đã hiện rõ trên gương mặt nàng. Chàng nhà báo nhìn nàng mà con tim đau nhói.
Không còn lương thực. Aurett nằm hoàn toàn bất động, thoi thóp trong lều. Sau hai ngày nhịn đói, mặt mũi phờ phạc, Lavarède vác súng ra đi mong có thể tìm giết một con bò nào đó.
Sau một hồi lang thang khá lâu, chàng thoáng thấy bóng một con bò song vì không chắc lắm nên chàng không dám bắn bởi súng chỉ còn duy nhất một viên đạn, không thể bắn bừa bãi được.
Thất vọng trở về nơi cắm trại, chàng thấy ngài Murlyton mặt mũi bợt bạt, đau khổ.
Ông nhún vai và đưa tay chỉ về phía cô con gái. Tiểu thư Aurett nằm đó, nước da xanh lợt, mí mắt khép hờ mệt mỏi, hơi thở thoi thóp khó khăn. Họ đứng nhìn nàng xót xa không nói lên lời. Chợt có tiếng động lạ bên ngoài.
- Tiếng bò rống!
Rachmed thở hổn hển chạy vào gặp họ.
- Nó ở gần ngay đây thôi, có thể chúng ta sẽ tóm được một con.
Cả hai lao về phía phát ra tiếng động. Họ trông thấy cách đó không xa năm con bò Tây Tạng đang nhởn nhơ gặm cỏ.
Rachmed nói:
- Ngắm bắn cho thật kỹ. Sự sống của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào phát súng này đây.
Lavarède từ tốn chỉnh đường ngắm bắn. Viên đạn lao đi. Sau khi khói tan, họ thấy bốn con bò bỏ chạy. Một con bị thương cố đuổi theo đàn được một đoạn thì khuỵu ngã. Hai người đàn ông ào tới và kết liễu đời con vật bị thương bằng một nhát dao.
Lavarède lột da nó và quay lại căn lều mang theo tấm da bò còn nóng hổi. Đến bên tiểu thư Aurett, chẳng cần giữ ý, chàng nhanh tay cởi quần áo nàng ra và trùm tấm da bò lên người nàng.
Ngài Murlyton thực sự bị sốc, quát lớn:
- Cậu làm gì vậy?
- Tôi phải cứu sống cô ấy bằng mọi giá. Tôi không thể để cô ấy chết vì lạnh. Trong tấm da.này, Aurett sẽ được sưởi ấm. Chắc chắn nàng sẽ sớm bình phục. Rachmed sẽ đi nấu cho cô ấy một chút thịt. Trước tiên, chúng ta sẽ bón nước thịt ninh cho nàng.
Lavarède nói quả không sai. Ngay tối hôm đó, cô gái tỉnh và mỉm cười với người cứu nàng. Nàng đã hết sốt, gương mặt trở nên hồng hào hơn.
Vài ngày sau Aurett đã hoàn toàn bình phục.
Ba người đàn ông đi khám phá các vùng lân cận.
Cuối cùng, họ cũng tìm thấy vài cây dương. Họ dùng dây da bò buộc chúng lại để tạo thành một chiếc bè, đồng thời cũng là một chiếc xe trượt.
Họ để chiếc xe trượt lên dòng sông băng cùng với các dụng cụ, bạt dựng lều và chút thịt bò Tây Tạng còn thừa. Chiếc xe trượt lao đi như bay trên mặt sông đóng băng. Họ đã dần dần thấy thấp thoáng bóng cây cối, rồi các căn lều lụp xụp trong rừng và cuối cùng là con người.
Nhờ Rachmed biết nhiều thứ tiếng nên họ có thể dò hỏi người dân ở đây đường tới nhà ga của thành phố Tchardjoui, trên tuyến đường vượt biển Caspienne. Đó là tuyến đường sắt nối biển Caspienne với Samarcande. Họ dường như đang tiến gần tới các nước văn minh.
Nhớ lại các cuốn sách du lịch nói về các miền trên thế giới đã đọc, những người bạn đồng hành vô cùng vui sướng vì cuối cùng họ đã sắp được trở về châu Âu.
Lavarède quả không nhầm khi cược rằng viên trưởng ga xe lửa, cũng như tất cả những người Nga có học vấn khác có thể biết tiếng Pháp. Viên trung úy Mikhail Karine cho các du khách biết hành trình của chuyến đi.
Ông nói:
- Ngài đã đem lại cho tôi những giây phút vô cùng thú vị. Giờ đến lượt tôi, liệu tôi có thể có ích hay giúp gì được ngài chăng?
Lavarède nói:
- Vâng, ngài có thể giúp tôi trở về Pháp và không phải mất một xu nào.
Viên trưởng ga xe lửa đáng mến nói:
- Tới Caspienne, chuyện đó quá dễ. Em trai tôi sẽ trở lại trung đoàn của nó ở Caucase, ngài có thể đi cùng với nó. Hơn thế nữa, tôi sẽ chuyển vài lời cho ngài Djevoi, đồng nghiệp của tôi. ông ấy sẽ cấp cho ngài các phương tiện vượt qua vùng biển của chúng tôi để tới Bakou. Còn giờ mời mọi người tới nhà tôi dùng bữa tối. Chúng ta sẽ.nâng cốc chúc mừng cho tình hữu nghị Nga -Pháp mãi mãi bền vững.
Ngài Murlyton khước từ lời mời. Hiện người Anh và người Nga đang có những tranh chấp về chính trị và ông không muốn có người nghĩ ông là kẻ phản quốc.
Trong bữa tối, Lavarède hỏi ông chủ nhà:
- Thế hôm nay là ngày mồng mấy rồi nhỉ?
Tôi hơi mất đi ý niệm về ngày tháng.
- Theo lịch của người Nga, hôm nay là ngày 27 tháng giêng, nghĩa là ngày mồng 8 tháng hai theo lịch của các bạn.
Chúng ta cần biết vào thời điểm đó cách tính thời gian giữa hai đầu châu Âu chênh nhau mười hai ngày.
Lavarède nói lúng búng trong miệng:
- Vậy là tôi chỉ còn chưa đầy hai tháng nữa để trở về Pháp.
- Ngài Lavarède, tôi thấy ngài có vẻ biết rất nhiều thứ. Liệu ngài có thể dịch giúp một bản tài liệu tôi nhận được từ áo không? Tôi không biết tiếng Đức và...
- Rất sẵn lòng thưa quý ngài. Xin ngài đưa nó ra đây.
Thực ra bản tài liệu là một thông báo của cảnh sát, trong đó nêu:
"Lệnh truy nã Fritz Rosenstein, sinh tại Berlin (Prusse), nhân viên quản lý ngân hàng Transalpine ở Trieste, Vienne.
Hắn đã chạy trốn cùng với số tiền 500.000 florin (tiền Hà Lan) ăn trộm của khách hàng.
Nhận dạng: dáng người trung bình. Mắt, tóc và lông mày màu nâu. Trán cao. Mũi thẳng.
Miệng trung bình. Cằm tròn.
Sống nhiều năm ở Paris và Rome. Nói tiếng Pháp và tiếng ý. Chắc chắn hắn sẽ sử dụng lợi thế này để che giấu quốc tịch của mình. Lần cuối cùng người ta nhìn thấy hắn là ở Odessa. Vậy xin hãy báo cho chúng tôi nếu quý vị trông thấy hắn." - Vậy là một ngày nào đó, gã đàn ông này sẽ rơi vào tay ngài. Odessa nằm trên biển Đen, cách đây không xa. Có thể hắn ta đang đi về phía Đông.
Karine quả quyết:
- ôi, chúng tôi sẽ tự khắc biết cách đón lõng thằng này mà.
Lát sau, ông giới thiệu Lavarède với người bạn đồng hành của chàng, đại úy Costantin Karine, em trai của ông. Sau đó, ông mời chàng nhà báo nghỉ lại qua đêm. Đã lâu lắm rồi Lavarède không ngủ trên giường!
Buổi sáng, Murlyton và Aurett tới nhà ông trưởng ga xe lửa, mang theo một vali đầy cứng quần áo mới cho Lavarède. Chàng sẽ thật bảnh bao trong chuyến đi này.
Đã đến lúc phải lên đường. Lavarède nhảy vào trong khoang tàu sau khi bắt tay thân ái lần cuối với người bạn Nga. Những người bạn của Lavarède đã ngồi đợi sẵn chàng nhà báo trong khoang..Chuyến đi dài ngày qua một vùng đất khắc nghiệt nên việc gặp một vài trục trặc nhỏ không thể tránh khỏi: đường ray bị cát lấn nên tàu phải dừng lại để giải tỏa. Song cũng có những lúc thật tuyệt vời: một nhóm lính Cozắc biểu diễn tài cưỡi ngựa cho các du khách trên tàu xem.
Cuối cùng tàu đã tới biển Caspienne. Tại đó, theo lời dặn của Karine, các du khách của chúng ta có thể đi thuyền tới Bakou. Khi tới nơi, họ nhanh chóng tới sân ga, bắt tàu đi về phía Tây.
Trên sân ga, họ trông thấy hai người đàn ông tóc vàng, cao lớn. Nhìn họ không có vẻ là người Nga mà có thể là người Đức. Viên trưởng ga xe lửa giải thích với họ rằng hai người đàn ông đó là cảnh sát áo, đang truy nã một gã nào đó có tên là Rosenstein can tội ăn trộm tiền gửi ngân hàng của khách.
Lavarède run run nói:
- ôi, cám ơn ngài vì lời chỉ dẫn tôi không thể đi tàu được. Chắc có lẽ tôi phải tìm cách khác để rời thành phố...
Chàng nói rất khẽ như sợ ai đó phát hiện.
Ngay sau đó Lavarède trông thấy viên trưởng ga xe lửa lật đật chạy về phía hai tay cảnh sát và nói gì đó với họ.
Lavarède nói:
- Thôi thế là xong. Tôi tin mình sẽ được đi du lịch miễn phí tới Trieste. Không những thế, tôi còn được người ta xích tay giải đi.
Tiểu thư Aurett lấy tay bịt mồm chàng lại khẽ kêu lên:
- ôi không!
- Tiểu thư đừng sợ. Tôi là người vô tội, rồi mọi việc sẽ tốt đẹp, người ta sẽ thả tôi ngay thôi.
Rồi chàng liền lấy giấy bút trong túi ra viết vội vài dòng.
- Giờ tôi sẽ để cho người ta đến bắt tôi.
- Ngài Lavarède kính mến, cuối cùng tôi cũng tìm thấy ngài.
Kẻ vừa xuất hiện không ai khác chính là lão Bouvreuil. Rời Tây Tạng, tới ấn Độ, ở đó gã được coi là một nhà thám hiểm vĩ đại, người đã đi qua biết bao miền đất hoang sơ, hẻo lánh. Lão được chào đón như một vị anh hùng, kiếm được rất nhiều tiền và bây giờ bình yên, ngồi đợi Lavarède ở Bakou, bởi theo lão suy đoán, thể nào chàng cũng sẽ đi qua đây. Và lão tính quả không sai.
Bouvreuil kết luận:
- Giờ ta đã là người được mọi người trọng vọng. Tới đâu, ta cũng được mọi người tin tưởng.
Ta sẽ ngăn không cho cậu bòn mót tiền của các công ty vận tải thêm nữa. Cậu sẽ chỉ được về Paris nếu ta cho phép và nếu Pénélope...
- ôi thưa ngài Bouvreuil quý hóa, tôi sẽ đi Trieste vào tối nay.
Bouvreuil sửng sốt:
- Thật á!
- Ngài có muốn đánh cá không?.Bouvreuil giận dữ, mắt long lên:
- Mày đừng có hòng bỏ chạy.
Lavarède vo tờ giấy vừa viết vứt xuống dưới chân Bouvreuil rồi chậm rãi bước đi. Thấy điệu bộ khả nghi của chàng nhà báo, một viên cảnh sát chạy tới, nhặt tờ giấy đó lên, vuốt thẳng ra và đọc. Nội dung của tờ giấy như sau:
"Rosenstein thân mến, Mọi chuyện sẽ được thu xếp ổn thỏa. Hãy kiên nhẫn đợi. Vài tuần ở Caucase sẽ nhanh chóng trôi qua và chắc cảnh sát sẽ không tới đó để truy tìm cậu đâu. Chúc cậu may mắn.
Florent" Trong nháy mắt, hai tay cảnh sát đã ập tới, chặn chàng trai Paris lại.
Lavarède nói:
- Tôi tin các vị đã nhầm tôi với ai đó.
- Cho chúng tôi xem giấy tờ!
- Tôi không thể. Toàn bộ giấy tờ của tôi đã bị lấy cắp khi ở Trung Quốc.
- Vậy thưa ngài Rosenstein, xin ngài đi theo chúng tôi. Ngài sẽ được dẫn độ về Trieste.
Lavarède quả quyết rằng họ đã lầm song chàng lại cố làm ra vẻ lúng túng sợ hãi. Từ xa hai cha con người Anh chứng kiến toàn bộ sự việc nhưng chàng nhà báo đã ra hiệu cho họ không can thiệp.
Song Bouvreuil lại không hề hay biết ám hiệu đó. Trong đầu lão chỉ nghĩ cách ngăn không cho Lavarède được dẫn độ về Trieste vì rất gần nước Pháp. Lão đề nghị hai tay cảnh sát thả "bạn" của mình ra.
Viên cảnh sát nghi ngờ hỏi:
- Đây là bạn của ngài ư?
- Đúng vậy.
Tay cảnh sát lôi lá thư ra kiểm tra.
- Vậy có thể ngài là Florent, đồng phạm của tên này.
- Đồng phạm của cậu ta? Tôi ư? Nhưng...
Chưa kịp nói hết câu, Bouvreuil đã bị hai tay cảnh sát gô cổ trói lại và lục soát khắp người.
Họ tìm thấy trong người lão một chiếc ví trong có 25000 franc.
Cả hai kêu lên:
- Một phần của khoản tiền bị đánh cắp! Thưa ngài Florent, bức thư này chắc là do ngài viết.
Ngay sau đó, Schultze và Muller, tên hai viên cảnh sát áo tống Lavarède và Bouvreuil lên tàu đi Trieste. Tối hôm đó, cả bốn người đàn ông đã yên vị trên tàu, bắt đầu một chuyến đi dài ngày và cực nhọc qua châu Âu. Ngài Murlyton và Aurett cũng lên tàu đi cùng họ song ngồi trong một toa khác.
Trong khi đó, trong khoang tàu chở các tù nhân, Lavarède và Schultze sôi nổi tranh luận.
Tay cảnh sát tự cho rằng mình sống tốt hơn là nhờ triết học. Chỉ cần nói dăm ba câu, chàng đã chứng tỏ cho tay cảnh sát thấy mình không phải Rosenstein mà chính Bouvreuil mới là kẻ họ đang truy nã! Quả thực, với thái độ kiêu kỳ, vẻ mặt xảo trá, Bouvreuil xử sự chẳng khác gì một tên tội phạm, lúc nào cũng luôn miệng lên mặt dạy đời và dọa sẽ kiện lên lãnh sự quán. Tàu chưa đến Trieste song quan điểm của hai viên cảnh sát người áo thay đổi hẳn đối với Lavarède và lão Bouvreuil quái ác.
Lavarède được trả tự do khi tàu còn chưa qua hết lãnh thổ nước Hungarie. Tay cảnh sát trao cho chàng vé tàu đi Trieste còn lão Bouvreuil vẫn bị xích và nhốt trong khoang tàu. Để cho cảnh sát đi trước một ngày, chàng nhà báo và hai cha con người Anh xuống tàu và dự định tiếp tục chuyến đi vào ngày mai.
Rời ga, trong lúc chờ đợi, Lavarède nhìn thấy một nhóm nhạc sĩ. Chàng đề nghị họ cho mình biểu diễn và chỉ xin đổi lại đồ ăn và chỗ ngủ qua đêm. Cánh nhạc sĩ đồng ý. Ngay tối hôm ấy, Lavarède chơi viôlông trong một nhà hàng.
Điệu Crarda mang đúng phong cách Hungarie réo rắt vang lên làm mê mẩn các thực khách.
Tiểu thư Aurett ngưỡng mộ thầm nói với mình:
- Chàng đúng là người đa tài!
Sau khi Lavarède được tha, Bouvreuil tỏ thái độ khinh khỉnh làm hai viên cảnh sát người áo không khỏi lo lắng. Vừa tới Trieste, lão yêu cầu được gặp ngài lãnh sự ngay lập tức.
- Trước tiên ngài phải đến đồn cảnh sát đã.
- Được thôi. Nhưng tôi muốn đến lãnh sự quán ngay sau khi ra khỏi đó. Đây là quyền của tôi.
Sau khi giải thích rành mạch, Bouvreuil đã chứng minh được mình không phải là Rosenstein.
Bouvreuil yêu cầu được xem tờ giấy của chàng trai Paris.
Bouvreuil hiểu ngay ra mọi chuyện và kêu lên:
- Đây chính là nét chữ của Lavarède đấy!
Tức điên vì đã bị lừa, hai gã cảnh sát tin chắc có chuyện gì đó không minh bạch về gã Lavarède này và quyết định sẽ bắt ngay Lavarède khi chàng vừa tới Trieste. Cùng ngày, cảnh sát Trieste cho giăng bẫy ở khắp các nhà ga và bến.cảng trong thành phố. Bouvreuil xoa xoa hai bàn tay vào nhau, nhếch mép cười đắc chí: lần này Lavarède đừng hòng thoát khỏi tay lão. Song trời không thuận theo kế hoạch của Bouvreuil.
Mười giờ sáng ngày 25 tháng 2, chuyến tàu chở Lavarède và các bạn của chàng bị trật bánh khi chỉ còn cách Trieste vài cây số. Đúng là không ai có thể lường trước được chuyện này.
Những người bạn của chúng ta xuống tàu, bí mật đi bộ vào thành phố qua một con đường không có cảnh sát canh.
Trong khi ngài Murlyton và con gái tới nghỉ tại khách sạn Garciotti, Lavarède tới các bến bãi tìm cách tiếp tục chuyến đi vòng quanh thế giới của mình.
Chàng trông thấy một tay thủy thủ miệng nói tiếng Pháp, tay chỉ chỏ về phía đống hòm ngất ngưởng chất trên bến và một con tàu đậu cách đó không xa.
Tay thủy thủ ngao ngán ngồi than thở:
- Công mới cả việc. Chẳng ai muốn giúp mình cả.
Lavarède nói:
- Tôi, tôi có thể giúp nếu đó là việc khuân những chiếc hòm này lên chiếc tàu kia...
Đó là một chiếc tàu kim loại, hình dẹt nhô lên mặt nước chừng ba mươi đến bốn mươi cen-timét.
ở chính giữa có một vòm tròn bằng thủy tinh, khum lên như một chiếc thấu kính. Xung quanh mạn thuyền cũng có những vòm thủy tinh như vậy.
Chàng nhà báo lẩm bẩm:
- ôi, tôi nhận ra nó rồi. Đây chính là chiếc tàu ngầm Goubet của Emile Gautier. Tôi đã từng làm việc với ông ấy.
Viên thủy thủ nói:
- Không thưa ngài, đây là chiếc tàu ngầm Francois-Joseph chạy bằng điện của ngài José Mi-raflor.
- Này, này! Hình như tôi đã được nghe cái tên này ở đâu đó.
Một ý nghĩ chợt thoáng qua trong đầu chàng trai Paris. Lavarède nói tiếp:
- Vậy ông muốn chuyển các thùng này lên tàu hả?
- Vâng, nhưng phải cẩn thận. Một số thùng trong đó có chứa thuốc nổ đấy.
Tay thủy thủ có nhã ý mời Lavarède lên thăm con tàu kỳ lạ sau khi chàng xong việc. Chiếc hòm cuối cùng đã được chuyển lên tàu, André-Marie Langlois, tên người thủy thủ, mời chàng ăn một khoanh thịt rồi dẫn chàng đi thăm quan toàn bộ con tàu. Trong phòng khách có treo chân dung ngài José, bên dưới có một tấm biển bằng đồng khắc chữ: "Ngài José Miraflor, nhà phát minh ra tàu ngầm.".Lavarède kêu lên:
- Người đàn ông này là một kẻ dối trá, một tên trộm các sáng chế. ông chắc phải cảm thấy hổ thẹn khi làm việc cho lão ta.
Cuối cùng Langlois thú thực:
- Tôi rất xấu hổ song tôi nghèo và phải nuôi năm đứa con. Thằng út nhà tôi đang theo học trường hàng hải, còn thằng lớn Yann cũng làm việc trên tàu, giúp tôi vận hành máy. Tôi thực sự không thể làm khác được. ở Pháp, chúng tôi là những người khốn khổ. Chúng tôi chỉ biết trông vào đồng lương ít ỏi ở đây...
- Thế José kiếm tiền bằng cách nào?
- ông ta đã mua lại phát minh này của Gau-tier và mở dịch vụ thăm quan đại dương bằng tàu ngầm. Bằng cách này, ông ta đã kiếm được ít nhất 50.000 franc. Song mục đích của ông ta là bán lại chiếc tàu này cho người Đức, người áo hay người ý.
Lavarède thốt lên:
- Đó toàn là kẻ thù của nước Pháp! Tôi sẽ đi tìm bạn bè của tôi. Ngay khi xuống tàu ở Marseille, chúng tôi sẽ trao lại chiếc tàu ngầm này cho chính phủ Pháp.
Langlois nói:
- Tôi sẽ đi cùng các bạn.
Lavarède đi đón ngài Murlyton và Aurett.
Khi tàu sắp rời bến thì bỗng Bouvreuil và kẻ đồng lõa José ập lên tàu.
Bouvreuil nhảy vào trong phòng khách sáng choang trên tàu, José bám theo sau.
Bouvreuil cười khẩy:
- A ha! Con rể yêu quý của ta, con giỏi lắm.
Cảnh sát đang ở đây. Họ đợi con ở trên bến đấy.
Con mà lên bờ chắc họ sẽ chào đón con nồng nhiệt lắm.
- Langlois, đừng chần chừ. Hãy đóng tất cả các cửa boong lại, chúng ta khởi hành ngay lập tức!
Con tàu lao đi với tốc độ cực nhanh, chẳng mấy chốc đã ở rất xa bờ, lẩn sâu trong nước của biển Địa Trung Hải huyền bí.
Tàu Goubet tiếp tục tiến về phía trước. Song khi chỉ còn cách Messine, Sicile vài trăm mét, tàu gặp phải một sự cố: tàu hết chất đốt bằng điện, không thể đi tiếp được nữa.
Lavarède đề nghị:
- Chúng ta có thể vứt ba tấn hàng trên tàu xuống biển. Làm như vậy, tàu sẽ nổi lên trên mặt nước. Sau đó chúng ta sẽ bơi vào bờ bằng thuyền cao su.
Lavarède đồng ý:
- Đúng là một sáng kiến tuyệt vời.
Nói là làm. Chẳng mấy chốc, tàu Goubet đã nhô lên mặt nước. Tất cả mọi người ngồi vào xuồng..Lavarède lưu ý những người đi cùng:
- Hiện giờ chúng ta đang trên hải phận của nước ý... Mọi người đợi tôi một chút.
Chàng vào trong tàu ngầm trong chốc lát rồi trở ra.
Chàng hạ lệnh:
- Giờ, hãy cho xuồng chạy hết tốc lực!
Khi xuồng đã đi được khá xa, mọi người nghe thấy một tiếng nổ lớn. Lavarède đã cho nổ tung chiếc tàu Goubet.
Mặc ánh mắt giận dữ của José nhìn chàng, Lavarède thản nhiên nói:
- Không thể để một phát minh tuyệt vời như thế của người Pháp rơi vào tay người ý được.
Tới Messine, mọi người trên xuồng chia thành ba nhóm. André Langlois và cậu con trai tìm cách trở về Pháp bằng cách làm thủy thủ trên một con tàu sắp nhổ neo. Bouvreuil và José kết hợp với nhau thành một liên minh ma quỷ.
bỏ đi đâu không ai biết. Lavarède và hai cha con người Anh tìm đến một khách sạn.
Họ tìm được một "cung điện" tuyệt vời -như người ta vẫn nói về các khách sạn ở đất nước này. Ngài Murlyton thuê một phòng cho mình và một phòng cho con gái.
Cô nhân viên lễ tân hỏi:
- Thế còn ngài đây thì sao ạ?
Lavarède cười nói:
- Ngài đây không có tiền để trả tiền phòng.
Nhưng liệu cô có đồng ý cho tôi nghỉ lại đây để đổi lấy một bài thơ do một chàng trai Paris viết...
Cô gái chấp thuận. Cô ta ăn mặc theo kiểu người Paris và tự cho mình là người rất thanh lịch. Trước lời đề nghị của Lavarède viết một bài thơ dành riêng cho mình, cô nhân viên lễ tân cảm thấy vô cùng kiêu hãnh. Đây là nội dung bài thơ:
"Đôi mắt em đẹp nhất Siciel ẩn sau hàng mi dài cong vút Không giận hờn chỉ chứa chan hạnh phúc Thiêu đốt con tim bao gã si tình, Etna!
Sau đó Lavarède tìm tới các sân ga, bến cảng với hy vọng sẽ có cách trở về Marseille.
Trong khi đó, Bouvreuil và José đi tìm một kẻ mà bọn chúng đã từng được nghe kể: một nhân vật đại diện của Maffia. Tổ chức bí mật này thực chất là một lũ đâm thuê chém mướn chuyên bắt cóc, tống tiền và gây mọi tội ác ghê tởm khác miễn là người ta phải kín đáo và trả tiền cho bọn chúng. Như vậy quả là phù hợp với kế hoạch của Bouvreuil và José.
Ngày hôm sau, tiểu thư Aurett đột nhiên biến mất. Lavarède cũng vừa xin được một chân thủy thủ trên tàu đi Livourne. Chàng không hề hay.biết về chuyện này. Một vài giờ sau, họ nhận được một yêu cầu đòi tiền chuộc.
Ngài Murlyton lật đật, hộc tốc chạy khắp nơi để tìm dấu vết con gái. Thật may, hai cha con nhà Langlois đã trông thấy tiểu thư Aurett bị một gã hình như bị lé tống lên một chiếc xe ngựa mui gập. Cô gái chống cự rất quyết liệt song không địch nổi gã đó. Loáng một cái, chiếc xe ngựa đã biến mất trong một góc phố nhỏ.
Nhờ hai cha con Langlois, Murlyton đã lần theo dấu vết và tìm được Aurett. Nàng lao vào lòng cha khóc nức nở.
Aurett nói José đã ép nàng cưới lão nếu không ngài Murlyton sẽ bị ám sát. Nàng đành phải ưng thuận nhưng trong lòng như đã chết vì sẽ không bao giờ được gặp Armand nữa. Bou-vreuil cũng đã lên kế hoạch phá đám Lavarède để chàng thua cuộc và ép chàng lấy Pénélope, con gái lão. Bởi một khi Aurett đã lấy chồng, chàng thua cuộc thành kẻ vô gia cư, nếu không làm con rể lão thì chàng có thể làm gì hơn?
Ngài Murlyton chửi thề:
- Bọn chó chết! Nếu cha mà gặp lại lão ta, cha sẽ đấm vỡ mặt hắn ra!
Sáng ngày mồng 5 tháng ba, tàu Santa-Lucca tiến vào bến cảng Livourne. Tàu vừa cập bến thì một nhân vật điện tín hỏi với lên:
- Có ai trên tàu tên là Lavarède không?
Ông ta trao cho chàng một bức điện:
"Aurett bị bắt cóc song thật may đã được tìm thấy. Lão Bouvreuil xảo trá sẽ tìm cách chặn đường cậu. Aurett đứng cạnh tôi nói với tôi rằng:
hãy tiếp tục chuyến đi. Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở Paris vào ngày 25 tại nhà công chứng viên. Do tôi không thể tiếp tục theo sát cậu, hãy mang theo các giấy tờ chứng nhận các phương tiện vận tải đã sử dụng".
Lavarède hiểu rất rõ những lời nhắn cuối cùng của Aurett phần cuối bức điện: Chàng hãy vững bước tiếp tục chặng đường cuối cùng này.
Trái tim em luôn ở bên chàng. Em muốn chàng chiến thắng trở về". Lavarède nghe như có tiếng nhạc réo rắt trong tim. Chàng bồi hồi xao xuyến.
Thuyền trưởng tàu Santa-Lucca trao cho chàng một tờ giấy xác nhận chàng nhà báo đã.hoàn thành chức vụ thợ máy trên tàu hết sức hăng hái và xuất sắc, ngoài cơm nước ba bữa không nhận thêm bất kỳ một khoản gì khác.
Sau đó, Lavarède được một ông chủ tàu đánh cá đi Gênes thu nhận. Một con tàu khác đưa chàng tới Nice. Từ Nice chàng tới Toulon. Thật bất ngờ, ở đó chàng gặp lại một người bạn thuở thiếu thời, bố cậu ta kinh doanh sôcôla. Người bạn này tình nguyện dùng chiếc thuyền yat giải trí của mình đưa chàng tới Marseille.
Song từ Marseille tới Paris, chàng còn phải vượt qua một chặng đường dài 865 kilômét.
Đương nhiên chàng không thể đi bộ vì như vậy sẽ mất quá nhiều thời gian. Chỉ còn mỗi cách là đi bằng tàu hỏa. Trước hết, Lavarède sẽ phải tới Tarascon. Chàng bèn tới gặp ông trưởng đoàn tàu xin làm người xúc than vào lò hơi trong suốt chuyến đi. Sau khi cân nhắc đôi chút, ông ta đã chấp thuận.
Lavarède bày tỏ lòng biết ơn và bắt tay vào làm việc ngay.
Ngày hôm sau, chàng đã có mặt ở Tarascon.
Viên trưởng ga xe lửa khuyên chàng tới gặp ngài Berlurée để xin tiếp tục chuyến đi.
Chàng nhà báo hỏi người cho thuê phòng, người này cũng là chủ một nhà hàng nằm ở tầng trệt khu nhà của ngài Berlusée.
- Ai mà biết được? Một ngày... mà cũng có thể là tám ngày. ông ta đi dự đám cưới, mà cậu cũng biết rồi đấy, nào ai biết được các đám cưới ấy kéo dài trong bao lâu. ở đó, họ ăn chơi, nhảy múa chẳng để ý gì tới thời gian đâu. Mà chẳng phải đâu xa, cái thằng thợ sơn tôi thuê, nó cũng quắp đít bỏ đi dự đám cưới không biết hôm nào mới về.
- Thợ sơn của ngài ư?
- ừ. Tôi thuê nó sơn lại mặt tiền của nhà hàng. Nó lau chùi, cọ lớp sơn cũ, bịt các lỗ hở, mua sơn về và đúng lúc chuẩn bị quét sơn thì đùng một cái, nó lặn mất! Làm sao mà thu hút được khách tới ăn với cái mặt tiền nhà hàng xám xịt, dở dở dang dang bẩn thỉu này?
Lavarède đề nghị:
- ôi! Việc đó cứ để tôi. Tôi sẽ giúp ngài quét sơn lại mặt tiền nhà hàng. Tôi sẽ không đòi ngài tiền công, chỉ xin cơm ăn ba bữa và tối có chỗ ngủ.
Thoáng lưỡng lự, song thấy thái độ niềm nở của Lavarède, ông ta đồng ý. Một giờ sau khi tới nhà hàng, chàng trai Paris mặc một chiếc áo khoác cũ được bà Félicité, vợ ông chủ nhà hàng đon đả cho mượn, hăm hở bắt tay quét sơn mặt tiền nhà hàng.
Ngày hôm sau, mọi người nhận được thư của ngài Berlurée. ông ta báo với ông chủ cho thuê nhà rằng ông ta sẽ còn vắng mặt trong năm ngày nữa. Biết tin này, Armand cảm thấy thực sự bối rối. Chàng không thể lưu lại Tarascon tới tận.ngày 22 hay 23 tháng ba được! Đúng ngày hôm đó có hai người đàn ông thuộc dịch vụ bưu điện vào nhà hàng. Họ đang phiền muộn bởi bạn của họ bị ốm, mà với hai người, bọn họ không thể đảm đương nổi công việc tới tận Lyon.
Lavarède reo lên:
- Tôi có thể đi cùng các ông!
Bà Félicité rất quý chàng. Nghe vậy, bà thở dài não nuột, mắt rơm rớm nhìn chàng.
Suốt chặng đường đi liên tục không dừng, từ Tarascon đến Lyon, Lavarède khéo léo vứt các túi thư lên bến các thành phố đoàn tàu đi qua.
Tại Lyon, chàng sẽ phải tự xoay xở để đến Paris.
Chàng thích thú nhớ lại những ngày đã qua:
- Xem nào, trong suốt cuộc hành trình, mình đã từng là một hành khách lậu vé, tổng thống một nước cộng hòa, chiến binh, kẻ bán hàng rong, hồn ma, tử tội, người lái khinh khí cầu, đức Phật, nhà ngoại giao, bác sĩ, lái xe trượt, nghệ sĩ chơi vĩ cầm, thuyền trưởng tàu ngầm, nhà thơ. Từ Livourne đến Marseille thì làm ngư dân, thủy thủ, khách du lịch. Từ Marseille đến Lyon lại trở thành tay xúc than đốt lò hơi trên tàu hỏa, thợ quét sơn, người đưa thư. Không hiểu những ngày tới đây mình còn làm thêm nghề gì nữa?
Chàng lững thững đi bộ. Trời đã tối. Chàng đang định ngủ ngoài trời thì trông thấy một trang trại. Giọng nghi ngờ, người ta hỏi vọng ra: "Ai đang đi đằng kia đấy?" Chàng nói:
- Tôi chính là chàng nhà báo Lavarède nổi tiếng! Người đã đi từ Dunkerque tới Perpignan chỉ trong vòng mười ngày đây! Chắc ai cũng biết vì tất cả các báo đã nói về kẻ lưu lạc này mà!
Một người trong trang trại nói, tỏ vẻ rất hiểu biết:
- ôi vâng, đúng là cậu rồi.
- Tôi đến chỉ xin các vị cho nghỉ qua đêm trong một ổ rơm nào đó. Tôi không có tiền để trả các vị, có kẻ đã ăn trộm ví của tôi. Nếu có thể các vị có thể cho tôi xin một mẩu bánh và một cốc nước...
Song tất nhiên, những người trong trang trại không nỡ để một người nổi tiếng như Lavarède phải chịu cảnh sống bần hàn như vậy. Vậy là tối hôm ấy chàng được ăn một bữa vô cùng thịnh soạn và được ngủ trên một chiếc giường rất êm ái. Sau đó các trại viên ngồi quây lại bàn bạc công việc ngày mai. Họ vấp phải một vấn đề nhỏ. Con trai của ông chủ trại phải đưa một đàn ngựa ra ga để kịp chuyến tàu lúc 3 giờ 42 phút sáng song chẳng có ai giúp anh ta lùa bảy con ngựa đó ra ga.
Lavarède nói xen vào:
- Tôi xin sẵn lòng giúp cậu ấy. Hơn nữa ngày mai tôi cũng muốn đi thật sớm. Tôi rất vui vì đã có dịp báo đáp một phần tất cả những gì mọi người đã dành cho tôi tối nay..Ngày hôm sau, 21 tháng ba, vào lúc ba giờ sáng, Lavarède áp tải đàn ngựa ra ga.
Chàng tự nhủ:
- Và bây giờ mình lại là chàng coi ngựa.
Không ai để mắt tới Lavarède. Chàng chào Jean, con trai ông chủ trại rồi nhân lúc không ai để ý, chàng nấp vào chuồng rơm cùng các chú ngựa. Cửa đóng, tàu bắt đầu chuyển bánh. Con tàu này sẽ đi đâu? Ngày 22 tháng ba, chàng đã tìm ra câu trả lời: con tàu được đặt trên đường tránh trong ga tàu hỏa Tonnerre. Tại đó, có người trông thấy chàng nhảy từ trên tàu xuống, họ vội hô hoán: "†n trộm!" khi thấy thái độ vội và có vẻ rất khả nghi của chàng nhà báo.
Chàng cố hết sức, cắm đầu cắm cổ chạy. Đám đông thù nghịch đuổi theo mỗi lúc một đông.
Chàng chạy qua hết phố này sang phố khác, lại vào trong một ngõ cụt, cuối cùng phải bật tường nhảy vào trong một khu vườn. Chàng không nghe thấy tiếng đám người đuổi theo nữa. Có thể bọn họ đã chạy theo một lối khác. Chàng mừng thầm vì đã thoát chết.
Song một tiếng động làm chàng giật bắn người. Từ trong nhà, một thiếu nữ bước ra...
Tài ứng phó của chàng nhà báo được dịp thể hiện. Lavarède nghiêng người kính cẩn chào cô gái và nói:
- Thưa tiểu thư, khu vườn này của tiểu thư đẹp quá. Các loài hoa trong vườn thật phong phú và đáng yêu.
Cô gái đỏ mặt cười, đưa mắt nhìn xuống:
- Thưa tiểu thư, tiểu thư trông thật duyên dáng. Không biết tấm lòng tiểu thư có đẹp như dáng vẻ yêu kiều của người không? Liệu tiểu thư có thể rủ lòng thương cứu giúp một chàng trai tội nghiệp đang bị lũ phản nghịch truy sát tới tận đây không?
Cô gái kêu lên:
- Lũ phản nghịch ư?
"Thật may cô ta chẳng hay biết tí gì cả".
Lavarède tự nhủ và bạo mồm nói tiếp:
- Tôi đã phát hiện ra một mưu đồ lật đổ chính phủ. Tôi phải trao tận tay bộ trưởng những giấy tờ quan trọng nhưng nhất quyết nàng không được để lộ chuyện này cho ai biết. Liệu tiểu thư có thể giúp tôi tìm nơi trú ngụ qua đêm nay không?
Cô gái hết sức ngây thơ. Cô cho rằng việc ra tay cứu chàng trai này quả là một hành động anh hùng. Cô gái nhanh tay giấu chàng vào một nơi khá kín đáo, ở đó chẳng ai có thể phát hiện ra chàng. Sáng sớm tinh mơ hôm sau, cô gái đưa chàng ra khỏi chỗ nấp và chúc chàng lên đường may mắn..Hôm nay là ngày 23 tháng ba. Lavarède không dám mò ra ga. Chàng đi bộ suốt cả ngày, tối đến ngủ trong một cái kho và may mắn vớ được ở đó một mẩu bánh mì. Cả ngày hôm sau, chàng lại tiếp tục đi bộ. Trước sáu giờ tối ngày mai, chàng sẽ phải có mặt tại văn phòng của ngài Panabert, trên phố Châteaudun. Chàng tự hỏi không hiểu mình có cơ may tới đó kịp hay không.
Lúc này chàng đang ở gần Sens. ở góc một cánh rừng, chàng trông thấy hai nhân viên kiểm lâm đang hâm lại bữa tối trên bếp. Chẳng cần hỏi han, thấy mặt chàng hốc hác phờ phạc, hai người đàn ông mời chàng ngồi xuống cùng ăn bữa tối. Sau đó, họ bắt đầu trò chuyện, bày trò cá cược.
Một người nói:
- Tôi đánh cuộc cho Serront.
Người kia nói:
- Tôi chắc chắn Chapurzat sẽ cán đích đầu tiên.
Lavarède hỏi:
- Các anh đang nói về ai vậy?
- Về người thắng cuộc trong cuộc đua xe đạp từ Lyon tới Paris do báo "Petit Journal" (Tiểu nhật ký) tổ chức. Chiều mai, đoàn đua có thể sẽ tới Paris.
Chẳng mấy quan tâm đến mấy vụ cá độ, sau khi ăn xong, Lavarède đi ngủ để sáng mai còn phải dậy sớm. Hai nhân viên kiểm lâm nhìn nhau ngơ ngác khi Lavarède yêu cầu họ chứng nhận chàng đã được nuôi ăn miễn phí và ngủ qua đêm ngoài trời.
Nhìn chàng rảo bước về phía thành phố Sens rồi khuất hẳn, một người kiểm lâm nói:
- Anh ta thật đáng khâm phục.
Chín giờ sáng ngày 25 tháng ba, chàng có mặt ở thành phố Sens và đi ra ga. Lúc gần tới ga thì chợt chàng nghe có tiếng gọi:
- Ngài Lavarède!
Chàng quay người lại. Chàng đâu có quen ai ở Sens? Lavarède lặng đi sững sờ. Tiểu thư...
Pénélope Bouvreuil, dáng người vẫn xương xương, khô cứng, cười với chàng. Chúng ta chắc còn nhớ lão Bouvreuil đã bảo cô con gái rượu về ngôi nhà ở nông thôn tại Sens đợi chàng.
Pénélope nói:
- ôi! Từ một năm nay, em đợi ngày ngài trở về...
Armand bối rối nói:
- Thật ư?
- Cha em thường xuyên viết thư hay đánh điện báo tin về ngài cho em. Cha em cũng vừa mới về. ông nói chắc chắn em sẽ sớm được gặp lại ngài và ngài đã từ bỏ quyền thừa kế. Em đã nghĩ ngay rằng: mình sẽ cưới anh ấy và làm cho anh ấy hạnh phúc... Và cuối cùng ngài đã đến...
Armand ấp úng nói:.- Tiểu thư thật đáng yêu. Thế ngài Bouvreuil đâu rồi?
- Cha em vừa đi Paris. ông bảo phải đến gặp một tay công chứng viên nào đó. Nhưng không sao cả đâu. Ngài sẽ có thể gặp ông vào tối nay. Cha em bảo sẽ quay lại đây vào tối nay mà. à mà ngài đã làm cha em chạy theo bở cả hơi tai đấy, tội nghiệp ông. Bác sĩ dọa nếu cha em quá nhanh trở lại với thói quen sống ru rú một chỗ thì sẽ bị xung huyết. Vì vậy ông đã mua một chiếc xe đạp để ngày ngày tập thể dục đấy.
Đoán Pénélope định nói lời tạm biệt, Lavarède vội nói:
- Tuyệt vời! Thật không hay khi chúng ta cứ đứng trò chuyện giữa đường giữa chợ như vậy.
Liệu tôi có thể yêu cầu tiểu thư dẫn đến ngôi nhà mà tiểu thư mơ ước đem lại hạnh phúc cho tôi không?
Như một chiếc máy, Lavarède túm lấy tay Pénélope lôi đi. Con gái Bouvreuil sướng rơn dẫn chàng về nhà. Pénélope cảm thấy mình như đang được chắp cánh bay lên! Vừa vào tới nhà, Lavarède đòi xem ngay chiếc xe đạp đó. Tỏ vẻ trầm trồ thích thú, chàng liền đòi được đi thử.
Chàng giả bộ vụng về, lái xe xiêu vẹo. Tiểu thư Pénélope thấy vậy vỗ tay cười khoái trá. Sau đó, chàng trai Paris cẩn trọng đạp xe đi những vòng đường mỗi lúc một dài hơn để chứng tỏ cho Pénélope thấy mình đã dễ dàng điều khiển được chiếc xe này. Rồi đột nhiên tới vòng đường tiếp theo, Lavarède biến mất.
Con gái lão Bouvreuil kêu thất thanh:
- Ngài Lavarède ơi!
Nhưng đã quá muộn. Lavarède chỉ ngoảnh lại nói lớn:
- Tôi đi gặp cha cô đây!
Chàng bắt đầu guồng chân đạp hết tốc lực.
Chiếc xe lao đi vun vút. Người cúi rạp xuống ghi đông, đầu hạ thấp, chàng băng qua biết bao thôn xóm, làng mạc, bỏ lại sau lưng tiếng hò reo cổ vũ của các cổ động viên suốt dọc đường.
Chỉ đến Fontainebleau, chàng mới dừng lại trong chốc lát. Tại đó các quan chức đeo phù hiệu tam tài trao cho chàng một chiếc cúp săm panh. Lavarède sẽ thật không phải nếu từ chối phần thưởng, song tại sao chàng lại có được vinh dự này. Suốt dọc chặng đường, người dân hai bên đường cổ vũ rất nhiệt tình, lại còn cho chàng cả đồ uống nữa. Dường như cả nước Pháp thấu hiểu ước vọng tới Paris của chàng.
Cùng lúc này, ngài Murlyton và tiểu thư Aurett đang men theo phố Lafayette để tới nhà ngài Panabert. Không nhận được tin tức gì của Armand, ngài Murlyton trông khá căng thẳng còn nét mặt cô con gái thoáng buồn, lặng lẽ bước theo cha. Đi ngang qua tòa soạn báo "Petit Jour-nal" (Tiểu nhật ký), hai cha con người Anh phải.dừng bước do tắc đường. Có một đám người đông nghịt quây quanh tòa soạn.
Một người lớn tiếng:
- Không thể tin được. Chưa có một vận động viên nào tới gần Paris đến vậy! Người ta đã trông thấy anh ta ở Charenton.
Tại văn phòng của ngài Panabert, hai cha con tiểu thư Aurett không trông thấy Armand mà chỉ có lão Bouvreuil ló mặt ra vẻ hỉ hả. Đồng hồ điểm chuông năm giờ.
Đột nhiên, có tiếng vỗ tay từ dưới phố vọng lên rồi có tiếng bước chân hối hả trong cầu thang.
Người bám đầy bụi, Lavarède xuất hiện trên bục cửa. Mọi người ngơ ngác nhìn chàng kêu lên:
- ôi Lavarède!... Chính cậu ấy rồi!... Tuyệt quá!...
Đầu tiên, chàng trai đưa mắt dịu dàng nhìn Aurett. Sau đó chàng nói với ngài Panabert:
- Bây giờ là năm giờ ngày 25 tháng ba, nghĩa là trước thời hạn bác Richard ấn định một giờ, tôi đã hoàn thành chuyến đi vòng quanh thế giới mà chỉ tiêu đúng năm xu.
Tất cả mọi cái đều hợp lệ. Ngài Murlyton đi giám sát Lavarède tới tận Messine, sau nữa là các giấy chứng nhận của những người đã cho chàng ăn và ngủ trọ.
Sau đó, vẻ ranh mãnh, chàng quay về phía Bouvreuil và nói:
- Tôi nhờ ông gửi lời cám ơn đến tiểu thư Pénélope, con gái ông. Cô ấy thật tốt bụng vì đã cho tôi mượn chiếc xe đạp tuyệt vời của cha mình. Nhờ nó mà tôi đã đến đây không những kịp thời hạn mà còn sớm hơn một giờ. Còn về phần chiếc xe đạp, tôi dựng nó ở bên dưới, ông có thể lấy lại.
Vô cùng tức tối, Bouvreuil hằm hằm định bỏ đi nhưng ngài Murlyton đã đứng dậy và nói:
- Đợi một chút đã!
Rồi ông ta giáng một cú đấm cực mạnh giữa mặt Bouvreuil.
- Coi như món nợ đã được trả. Tao đã thề đấm vỡ mặt thằng nào bắt cóc con gái tao ở Messine.
Lavarède nói:
- ôi, thôi! Đừng nói đến những chuyện tầm phào ấy nữa, chúng ta hãy đi vào vấn đề chính.
Thưa ngài Murlyton, tôi rất lấy làm vinh hạnh xin được cầu hôn con gái ngài.
Ngài Murlyton ôm chầm lấy chàng và kêu lên:
- Còn tôi, anh bạn quý mến, tôi cũng rất vui khi gửi gắm con gái mình cho cậu.
Aurett đỏ mặt đứng dậy. Vậy là cuối cùng Armand đã có thể trao một nụ hôn cháy bỏng cho người con gái tóc vàng chàng yêu thương....