Sau khi gác máy, tôi đem thư từ, báo buổi sáng và mấy tờ hoá đơn tới một cửa hàng ăn uống ở Tây Los Angeles. Nơi đó gần như đã kín người - những người già thì cắm cúi bên bát súp, các gia đình trẻ bận bịu với đám con cái còn nhỏ, hai cảnh sát mặc thường phục đứng ở cuối phòng tán gẫu với người chủ, máy bộ đàm của họ đặt trên bàn cạnh những cái bánh mỳ kẹp thịt.
Tôi ngồi xuống chiếc bàn ở góc phòng cạnh mé trái của bàn làm thức ăn, gọi món thịt gà tây hun khói ăn với salad bắp cải, và nước sốt CelRay.
Món ăn tuyệt ngon, nhưng những ý nghĩ về bệnh viện cứ chen vào bữa ăn của tôi.
Tới 9 giờ tối, tôi quyết định trở lại bệnh viện thăm con bé một cách bất chợt, để xem Cindy Jones phản ứng thế nào với chuyện này.
Buổi tối không trăng không sao, đèn không sáng; những cái bóng lập loè trên đường Sunset dường như di chuyển chậm chạp, đại lộ gợi nên vẻ đáng sợ, gần hơn với phần tốt đẹp của thành phố. Sau vài dặm hun hút đường, những quán thuốc Thorazine, và những khách sạn đáng sợ dành cho dân lái xe, logo hình trẻ con của Bệnh viện Nhi miền Tây và mũi tên phòng cấp cứu được chiếu sáng trưng...
Bãi đậu xe đã gần như trống không. Những bóng điện vàng nhỏ được để trong những hộp có lưới sắt treo lủng lẳng ở trần bê tông, chiếu sáng xuống tất cả các vùng của bãi đậu xe. Những khoảng trống còn lại gần như tối hoàn toàn, tạo ra một hiệu ứng như con ngựa vằn. Khi bước tới cầu thang, tôi cảm giác ai đó đang theo dõi mình. Tôi quay lại nhìn thì không thấy ai cả.
Hành lang bệnh viện cũng vắng tanh, sàn đá hoa cương không phản chiếu thứ gì cả. Một người phụ nữ ngồi phía sau cánh cửa sổ của phòng thông tin, đang đóng dấu một số giấy tờ. Người vận hành tin tức được trả tiền để làm khó người khác. Một chiếc đồng hồ kêu tích tắc rất to. Mùi băng dính và mùi mồ hôi của động vật vẫn phảng phất những kỷ niệm về sự căng thẳng đã qua.
Có một thứ gì đó tôi đã quên: các bệnh viện vẫn thường khác vào ban đêm. Nơi này cũng đáng sợ như bên ngoài đường phố.
Tôi đi cầu thang máy lên tầng sáu và tới phòng bệnh của con bé, không ai nhìn thấy. Hầu hết các căn phòng đều đóng cửa, những cái biển được viết tay thỉnh thoảng khiến tôi mất tập trung: nào là phòng cách ly, cẩn thận tránh lây nhiễm/không được tới thăm... Một vài cánh cửa vẫn còn mở phát ra tiếng tivi và tiếng lách tách của đồng hồ đo trên ống truyền nước. Tôi đi qua những đứa trẻ đang ngủ và những đứa trẻ khác bị mê hoặc bởi tia ca-tốt. Những ông bố bà mẹ ngồi cứng đơ như bê tông. Chờ đợi.
Cánh cửa gỗ tếch căn phòng của Cassie lôi kéo tôi vào sự im lặng tuyệt đối. Không còn ai ngồi ở bàn làm việc nữa.
Tôi bước tới phòng 505 và gõ cửa rất nhẹ. Không có tiếng trả lời. Tôi mở cửa và bước vào phòng.
Thanh chắn cạnh giường của Cassie đã được dựng lên. Con bé ngủ trong sự bảo vệ của những thanh thép không gỉ. Cindy cũng đang ngủ trên chiếc sô-pha, đầu đặt cạnh chân con bé. Một bàn tay chị còn chìa ra cả bên ngoài thanh chắn, chạm vào nệm của Cassie.
Tôi nhẹ nhàng đóng cửa lại.
Bất chợt một giọng nói vang lên phía sau tôi:
- Họ đang ngủ.
Tôi quay người lại. Vicki Bottomley đang nhìn tôi chằm chằm, hai tay chống lên bộ hông đầy thịt.
- Bà lại trực ca kép à? - Tôi hỏi.
Bà ta trợn mắt và bước đi.
- Bà hãy dừng lại đã! - Tôi quát. Âm sắc của tôi khiến cả tôi và bà ta đều ngạc nhiên.
Bà ta dừng lại, chậm chạp quay người lại.
- Chuyện gì vậy?
- Chuyện gì đang xảy ra ở đây, hả bà Vicki?
- Chẳng có chuyện gì cả.
- Tôi nghĩ là có đấy.
- Anh có quyền nghĩ thế nào cũng được - Bà ta lại bắt đầu bỏ đi.
- Hãy dừng lại - Hành lang trống không làm cho tiếng của tôi vang to hơn. Cũng có thể tôi đã nổi nóng nên nói to như thế.
Bà ta nói:
- Tôi còn đang có việc cần phải làm.
- Tôi cũng vậy, thưa bà Vicki.
Bà ta đưa một tay về phía kệ để bệnh án.
- Anh cứ tự nhiên.
Tôi bước tới chỗ bà ta, thật gần khiến bà khó di chuyển. Bà ta liền lùi lại. Tôi dấn thêm bước nữa.
- Tôi không biết vấn đề của anh với tôi là gì, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên giải quyết với nhau ngay tại đây.
- Tôi không có vấn đề gì với bất cứ ai.
- Vậy sao? Vậy phải chăng tôi rất hấp dẫn đối với anh?
Đôi mắt màu xanh lấp lánh. Mặc dù chúng không ướt, bà ta vẫn lấy tay lau.
- Nghe này - Tôi nói, đồng thời rút lui một bước - Tôi không muốn vướng vào bất cứ chuyện gì riêng tư với bà cả. Nhưng ngay từ lúc tôi tới đây, bà đã tỏ ra thù ghét tôi và tôi muốn biết lý do.
Bà ta nhìn tôi chằm chằm, miệng mở ra rồi lại ngậm lại.
- Chẳng sao cả - Bà ta đáp - Tôi sẽ khác, tôi hứa đấy, được chưa?
Bà chìa một tay ra.
Tôi cũng chìa tay ra bắt.
Những đầu ngón tay bà ta chạm vào tay tôi. Một cái bắt tay nhanh rồi bà quay lưng và bước đi.
Tôi nói:
- Tôi sắp xuống dưới uống cà phê. Tôi mời bà được không?
Bà ta dừng lại nhưng không quay mặt về phía tôi.
- Tôi không thể. Hiện tôi đang phải trực.
- Vậy tôi mang một cốc lên cho bà nhé?
Lúc này bà ta mới quay nhanh lại:
- Anh muốn gì vậy, hả?
- Chẳng gì cả - Tôi đáp - Vì bà phải làm việc liền hai ca nên tôi nghĩ bà cần một chút cà phê, thế thôi.
- Tôi không sao cả.
- Tôi từng nghe mọi người nói bà rất tuyệt.
- Anh ám chỉ điều gì vậy?
- Bác sĩ Eves đánh giá bà rất cao trong vai trò một y tá. Cả Cindy cũng vậy.
Hai cánh tay khoanh trước ngực, như thể bà ta đang ôm lấy chính bản thân mình.
- Tôi chỉ làm đúng trách nhiệm của mình thôi.
- Bà có thấy tôi cản trở công việc của bà không?
Đôi vai bà ta nhô lên một chút dường như bà ta đang tìm cách đưa ra câu trả lời. Nhưng cuối cùng bà ta chỉ nói:
- Không hề. Mọi sự vẫn ổn. Được chứ?
- Bà Vicki...
Tôi hứa rồi mà - Bà ta đáp - Xin anh đấy. Tôi có thể đi được chưa?
Bà ta mím chặt môi, đứng trụ, xoay người đi về trạm của mình.
Tôi đi tới cầu thang máy Five East. Một chiếc đã bị mắc ở tầng sáu. Hai cái khác thì tới cùng một lúc. Chip Jones bước ra khỏi cửa giữa, mỗi tay cầm một cốc cà phê. Ông ta mặc chiếc quần jeans đã bạc màu, chiếc áo sơ mi trắng cổ đứng, áo măng tô vải bò rất hợp với quần.
- Chào bác sĩ Delaware.
- Chào giáo sư.
Ông ta cười và nói:
- Xin mời bác sĩ.
Nói rồi ông bước vào hành lang.
- Các quý bà của tôi thế nào rồi?
- Cả hai đang ngủ.
- Ơn Chúa. Khi tôi nói chuyện với Cindy chiều nay, cô ấy có vẻ rất mệt mỏi. Tôi đem mấy cốc cà phê này từ tầng dưới lên đây - Ông giơ một cốc cà phê lên - để tiếp thêm nhiên liệu cho cô ấy. Nhưng giấc ngủ mới chính là điều mà cô ấy cần thực sự.
Ông ta bắt đầu bước tới cánh cửa gỗ tếch. Tôi đi theo.
- Chúng tôi đã làm ông phải xa tổ ấm gia đình nhiều quá, thưa bác sĩ.
Tôi lắc đầu:
- Tôi chỉ đến đây một lúc rồi quay về thôi.
- Tôi không biết các bác sĩ tâm thần lại làm việc theo một lịch trình như thế đấy.
- Nếu tránh được thì chúng tôi không làm thế đâu.
Ông ta cười.
- Mà nếu Cindy ngủ sớm thế này nghĩa là con Cassie nhà tôi đã đủ khoẻ để cô ấy có thể thoải mái được rồi. Vậy là tốt.
- Cindy bảo với tôi rằng chị ấy không bao giờ rời khỏi Cassie.
- Đúng đấy.
- Chắc chị ấy phải vất vả lắm.
- Cực kỳ vất vả. Lúc đầu, tôi có đỡ đần cô ấy đôi chút, nhưng sau khi ở đây vài tuần và chứng kiến các bà mẹ khác nữa, tôi nhận ra rằng chuyện này là bình thường. Thực sự là bình thường đấy. Đó là một sự tự vệ thôi.
- Tự vệ lại cái gì mới được chứ?
- Những rắc rối.
- Cindy cũng đã nói với tôi về điều đó - Tôi nói - Ông đã thấy xung quanh xảy ra nhiều sai lầm trong điều trị y tế phải không?
- Với tư cách là một người cha, người mẹ hay với tư cách là con trai của ông Chuck Jones đây?
- Có gì khác chăng?
Ông ta khẽ cười, nụ cười khô khan.
- Chắc chắn là có đấy. Với tư cách là con trai của ông Chuck Jones, tôi nghĩ rằng nơi này là một thiên đường bệnh nhi và tôi cũng sẽ nói vậy trong buổi họp báo chiêu đãi sắp tới của bệnh viện nếu người ta hỏi tôi. Còn với tư cách là một bậc cha mẹ, thì tôi đã chứng kiến nhiều thứ - đó là sai lầm không thể tránh khỏi của con người. Tôi sẽ đưa ra ví dụ - một ví dụ thực sự làm cho tôi thấy sợ hãi. Một, hai tháng trước đây, toàn bộ tầng sáu này kêu lên inh ỏi. Hình như có dứa bé nào đó đang được điều trị bệnh ung thư - được tiêm một thứ thuốc thử nghiệm, có thể là vào lúc đó thằng bé không còn hy vọng gì nữa rồi. Nhưng đó không phải là điều đáng nói. Có ai đó đã đọc nhầm một điểm thập phân, và thế là thằng bé đó phải nhận liều thuốc rất cao. Não nó bị phá huỷ, rơi vào tình trạng bất tỉnh nhân sự, toàn thân tê cứng. Toàn bộ các bậc cha mẹ trên tầng này đều nghe thấy tiếng loa kêu cấp cứu và thấy đội cấp cứu lao vào phòng. Họ cũng đã nghe thấy tiếng của bà mẹ thằng bé kêu cứu thất thanh, cả chúng tôi cũng nghe thấy. Lúc đó tôi đang đứng ở hành lang, và đúng là đã nghe thấy tiếng kêu thất thanh của bà mẹ ấy.
Ông ta nháy mắt:
- Thưa bác sĩ, một vài ngày sau, tôi đã gặp lại bà mẹ ấy. Khi đó, thằng bé vẫn còn thở. Nhìn chị ta như một nạn nhân trong trại tập trung. Vẻ mặt của người đã thất vọng hoàn toàn và bị phản bội? Tất cả chỉ vì một dấu chấm thập phân. Ngày nay chuyện đó có thể xảy ra ở bất kỳ đâu. Nếu đó là diện nhỏ thì mọi chuyện có thể được che đậy, hoặc không ai biết cả. Vì vậy, ông không thể kết tội các bậc cha mẹ khi họ tỏ ra cảnh giác, phải vậy không?
- Vâng - Tôi đáp - Có vẻ như ông không tin tưởng nhiều lắm vào nơi này.
- Ngược lại ấy chứ - Chip nói một cách sốt sắng - Trước khi quyết định để Cassie được điều trị tại đây, chúng tôi đã làm một cuộc nghiên cứu - kể cả nơi này là của bố đẻ tôi. Vì vậy, tôi biết đây là nơi tốt nhất trong thành phố này cho những đứa trẻ bị ốm. Nhưng khi có chuyện xảy ra với con cái của ông thì những số liệu thống kê chẳng còn ý nghĩa gì nữa, phải vậy không? Và nên nhớ, sai lầm của con người là không thể tránh khỏi.
Tôi kéo cánh cửa phòng của Cassie cho ông ta vào cùng với hai cốc cà phê.
Hình dáng kềnh càng của Vicki có thể được nhìn thấy qua cánh cửa kính của phòng tiếp tế phía sau trạm y tá trực của bà ta. Bà ta đang đặt thứ gì đó lên trên cái giá cao. Chúng tôi đi qua và tới phòng của Cassie.
Chip thò đầu vào trong, rồi rụt lại và nói:
- Vẫn còn ngủ.
Nhìn xuống hai cốc cà phê, ông ta đưa cho tôi một cốc.
- Không nên bỏ phí cốc cà phê chết tiệt này.
- Không, cảm ơn ông - Tôi đáp.
Ông ta khẽ cười:
- Ông không thích đúng không? Phải chăng cà phê thế này là luôn luôn tồi tệ?
- Luôn luôn đấy.
- Nhìn đây - tôi có loại Exxon Valdez - Một cái váng hình cầu vồng nổi lên trên bề mặt màu đen của cốc cà phê. Liếc nhìn, ông ta đưa một cốc khác lên môi - ừm - tệ quá. Nhưng tôi cần có nó mới có thể tỉnh táo được.
- Một ngày dài hay sao?
- Trái lại - quá ngắn. Dường như chúng ta càng già đi thì ngày càng ngắn lại, phải vậy không? Ngày ngắn đi đầy những công việc bận bịu. Rồi lại còn phải lái xe đi lại giữa nhà và nơi làm việc và tới đây nữa. Đường cao tốc hào nhoáng của chúng ta - tính nhân đạo ở điểm thấp nhất.
- Valley Hills luôn đồng nghĩa với đường cao tốc Ventura - Tôi nói - Thật tệ.
- Kinh khủng. Khi đi tìm mua nhà, chúng tôi đã có kiếm một chỗ gần nơi làm việc để tránh phải đi lại nhiều - Ông ta nhún vai - Những kế hoạch đã được vạch ra một cách tốt nhất. Đôi lúc tôi ngồi trên xe và tưởng tượng cuộc sống đúng như địa ngục trần gian.
Ông ta lại cười rồi uống ngụm cà phê.
Tôi nói:
- Tôi sẽ tự mình trải nghiệm cái địa ngục trần gian này trong vài ngày nữa - sẽ tới nhà ông để thăm bệnh cho con bé.
- Vâng, Cindy đã nói với tôi rồi. A đây rồi, bà y tá chuyên làm ca đêm... Xin chào bà Vicki. Bà lại làm ca đêm nữa à?
Tôi quay lại và nhìn thấy bà y tá đang tiến lại chỗ chúng tôi, miệng tươi cười, cái mũ nhấp nhô.
- Chào giáo sư Jones - Bà hít một hơi dài và sâu, như thể chuẩn bị thi cử tạ, rồi gật đầu chào tôi.
Chip đưa cho bà cốc cà phê còn nguyên.
- Mời bà, nếu bà không thích thì cứ việc quẳng đi hộ.
- Cảm ơn giáo sư.
Ông ta lại ngó đầu vào phòng Cassie.
- Những quý bà của tôi đã ngáy được bao lâu rồi?
- Cassie ngủ lúc 8 giờ. Cô Jones thì khoảng 9 giờ kém 15.
Ông ta nhìn đồng hồ:
- Bà có thể giúp tôi một việc được chăng, bà Vicki? Tôi muốn đi dạo với bác sĩ Delaware một chút, có thể chúng tôi sẽ kiếm thứ gì đó để ăn ở dưới đó. Xin bà hãy nhắn tin cho tôi khi mẹ con họ tỉnh giấc nhé?
- Nếu ông muốn, tôi sẽ xuống dưới lấy giúp ông thứ gì đó để ăn, thưa giáo sư.
- Không, xin cảm ơn. Tôi cần được vận động một chút - để giảm bớt căng thẳng ấy mà.
Vicki cười tỏ vẻ đồng cảm.
- Tất nhiên, vậy thì tôi sẽ cho ông biết ngay khi có ai đó tỉnh dậy.
Khi chúng tôi đi tới phía bên kia của những cánh cửa gỗ tếch, ông ta dừng lại và nói:
- Ông nghĩ gì về cách chúng ta đang bị đối đãi?
- Bị đối đãi theo nghĩa nào?
Ông ta tiếp tục bước đi:
- Theo nghĩa y học ấy, ở cái bệnh viện này. Không hề có sự đánh giá thực sự nào diễn ra cả, theo những gì tôi biết. Không ai thực sự kiểm tra xem tình trạng thể chất của Cassie ra sao. Không hẳn đây là những thứ mà tôi không ưa - nhưng ơn Chúa con bé không phải chịu đựng những cái mũi kim tiêm kinh khủng nữa rồi. Nhưng điều mà tôi đang nhận được chỉ là sự trấn an. Họ tay bắt mặt mừng với chúng tôi rồi cử bác sĩ tâm lý tới - không có gì mang tính chất cá nhân cả - và cứ để mặc cho những gì đang diễn ra với Cassie tự giảm xuống.
- Ông có thấy gì đó xúc phạm không?
- Không phải xúc phạm - mà hơi quá đấy. Như thể đó là tất cả những gì trong đầu của chúng ta. Ông tin tôi rồi phải không? Các bác sĩ ở đây chưa từng nhìn thấy những gì chúng tôi đã chứng kiến - đó là máu và những cơn co giật.
- Chính mắt ông đã nhìn thấy hết rồi phải không?
- Không hẳn là thấy hết. Cindy là người thức khuya. Tôi thường ngủ say lắm. Nhưng tôi cũng đã chứng kiến đủ rồi. Ông không thể tranh cãi gì với máu đâu. Vậy thì tại sao họ không làm gì đó tích cực hơn nữa đi nhỉ?
- Tôi không thể thay mặt bất kỳ ai để trả lời chất vấn này của ông - Tôi đáp - Nhưng tôi suy đoán rằng không ai thực sự biết phải làm cái gì và họ không muốn can thiệp quá mức cần thiết.
- Tôi cũng nghĩ vậy - Ông ta nói - Và theo những gì tôi được biết thì đó chính là cách tiếp cận đúng đắn. Bác sĩ Eves dường như rất thông minh. Có thể các triệu chứng của Cassie là - gọi là gì nhỉ - tự hạn chế bản thân.
- Tự hạn chế à.
- Tự hạn chế - Ông ta cười - Các bác sĩ tuyên truyền nhiều những lời hay ho hơn bất kỳ ai khác... Tôi cầu Chúa đó đúng là sự tự hạn chế. Nếu Cassie vẫn cứ khoẻ mạnh thì có thể đây sẽ là một bí ẩn không lời giải.
- Ông Chip này - Tôi lên tiếng - Tôi được bệnh viện triệu đến đây bởi vì ai cũng cho rằng vấn đề của Cassie thuộc về tâm lý. Công việc của tôi là giúp con bé chống lại sự sợ hãi và đau đớn. Lý do tôi muốn tới nhà thăm bệnh cho cháu là để xây dựng lòng tin giữa tôi và con bé để có thể giúp được nó khi cần thiết.
- Vâng, tôi hiểu - Ông ta đáp.
Ông ta nhìn trần nhà và gõ gõ bàn chân xuống sàn. Hai cô y tá đi qua. Mắt ông ta nhìn theo họ một đoạn xa, một cách bí mật.
- Tôi nghĩ điều khiến tôi khó chịu trong việc này là sự vô lý - Ông ta nói - Như thể chúng tôi đang trôi nổi lang thang trong biển cả mênh mông những sự kiện ngẫu nhiên. Cái gì làm con bé ốm mới được chứ?
Ông đấm tay vào tường.
Tôi cảm thấy bất kỳ điều gì mình nói ra đều làm cho tình hình trở nên tệ hơn, nhưng im lặng cũng không có gì tốt đẹp cả.
Cánh cửa cầu thang mở ra và cả hai chúng tôi cùng bước vào.
- Những bậc cha mẹ khốn nạn - Ông ta nói, tay nhấn mạnh nút "Xuống" - Ông có cách chấm dứt một ngày của mình thật dễ chịu.
- Đó là công việc của tôi mà.
- Thì đâu chỉ của riêng ông.
- Nhưng đó là lao động thực sự đấy.
Ông ta cười.
Tôi chỉ tay vào cốc cà phê trong tay ông ta:
- Chắc cốc đó đã nguội rồi. Chúng ta cùng xuống làm một cốc mới nhé?
Ông ta nghĩ trong giây lát:
- Vâng, tại sao lại không chứ?
Quán ăn tự phục vụ đã đóng cửa, vì vậy chúng tôi phải đi dọc hành lang qua khi Resident''s Lounge, ở đó có một dãy máy bán hàng cạnh phòng thay đồ. Một người phụ nữ trẻ nhỏ nhắn trong bộ quần áo phẫu thuật đang bước đi cùng với hai nắm kẹo cứng. Chip và tôi mỗi người mua một cốc cà phê đen. Ông ta mua thêm một gói bánh sôcôla, bên trong lại có những gói nhỏ chứa hai thanh sôcôla.
Cách đó không xa là khu ngồi nghỉ: có những chiếc ghế nhựa màu cam được xếp đặt theo hình chữ L, cái bàn trắng thấp chất đầy giấy gói thức ăn và mấy tờ tạp chí cũ. Phòng thí nghiệm bệnh học cách đó không xa. Tôi nghĩ tới đứa con trai của ông giáo sư và tự hỏi liệu ông ấy có chạnh lòng khi ngồi ở đây. Nhưng ông ta lững thững đi tới ghế và ngồi xuống, miệng ngáp dài.
Mở cái gói ra, ông ta nhúng một thanh sôcôla vào cốc cà phê và nói:
- Đây là thức ăn bổ dưỡng đấy - Nói rồi ông ta liền ăn phần được nhúng ướt ấy.
Tôi ngồi vuông góc với ông ta và uống cà phê. Cà phê thật kinh khủng nhưng lại tạo được cảm giác dễ chịu một cách kỳ lạ - giống như phép màu.
- Vậy là - Ông ta nói và lại nhúng tiếp thanh nữa vào cà phê - tôi sẽ nói cho ông nghe về con gái tôi. Tâm trạng của nó tốt lắm, ăn khoẻ, ngủ khoẻ - con bé ngủ ngon trong vòng năm tuần. Đối với bất cứ người nào khác thì đây là một tin vui, phải không? Sau chuyện xảy ra với Chad, việc con bé ngủ say như thế luôn làm chúng tôi sợ hãi. Chúng tôi muốn nó thức dậy, thật khổ thân con bé. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là sức bền bỉ của nó. Ông không thể tìm ra được thứ gì bé nhỏ như nó mà lại cứng cỏi đến vậy. Tôi cảm thấy thật vô lý, ngay cả việc bàn với bác sĩ tâm lý chuyện này. Nó là một đứa bé, vì Chúa, con bé có những loại nơ ron thần kinh nào chứ? Mặc dù vậy, tôi nghĩ con bé chắc phải căng thẳng thần kinh lắm sau tất cả những chuyện này. Phải chăng con bé sẽ phải điều trị về tâm lý suốt cả cuộc đời?
- Không đâu!
- Đã có người nào từng nghiên cứu về căn bệnh này chưa?
- Đã có rất nhiều nghiên cứu - Tôi đáp - những trẻ ốm kinh niên thường có xu hướng khoẻ mạnh hơn mong đợi của các nhà trị liệu tâm lý - nói chung là mọi người đều như thế.
- Có xu hướng ư?
- Phần lớn đều như thế.
Ông ta cười:
- Tôi biết. Đây không phải là chuyện thể chất. Thôi được, tôi cũng nên để cho bản thân mình được lạc quan một chút.
Ông ta căng thẳng, rồi lại thoải mái - một cách chủ tâm như thể ông từng theo học trường phái thiền nào đó. Ông ta để cho hai cánh tay buông thõng và duỗi dài hai chân, đầu ngửa ra sau và lấy hai tay xoa thái dương.
- Không biết ông có thấy đau đầu khi cả ngày cứ phải nghe, gật đầu, tỏ vẻ thông cảm và bảo cho người khác biết họ không có vấn đề gì?
- Đôi khi có đấy - Tôi đáp - Nhưng thường thì khi đã hiểu người khác rồi ông lại nhìn ra được cái rất con người trong họ.
- Ôi, đây đúng là nơi làm ông nhớ tới những chuyện đó đấy - "một tinh thần hiếm có không bao giờ định hướng nhân cách con người; nhưng anh, ơn Chúa, đúng là sẽ cho chúng tôi những lỗi lầm để biến chúng tôi thành con người đấy". Tôi biết câu này nghe có vẻ ngông cuồng nhưng thấy thật dễ chịu - một điều gì đó đúng cho mọi tình huống. Shakespeare có bao giờ phải nằm viện không nhỉ?
- Rất có thể. Ông ấy đã sống ở bệnh viện trong thời kỳ cao trào của bệnh dịch hạch, phải vậy không?
- Đúng, đúng - Ông ta đứng dậy và mở gói bánh thứ hai - Ông thật tài tình, tôi không thể nào nhớ nổi. Vậy ông hãy cho tôi thứ gì đó thật trong sạch, gọn ghẽ và thật lý thuyết bất cứ lúc nào nhé.
- Tôi chưa bao giờ nghĩ xã hội học là một ngành khoa học khó.
- Nói chung là không khó đâu. Toàn là những khuôn mẫu chuẩn mực và những giả thiết đo đạc được. Đó là những giấc mơ về sự chính xác,tôi luôn phải tự lừa dối mình đấy.
- Thế ông nghiên cứu về lĩnh vực gì? Quản trị công nghiệp hay phân tích hệ thống?
Ông ta lắc đầu.
- Không, đó là các lĩnh vực ứng dụng rồi. Tôi chỉ nghiên cứu về lý thuyết thôi, đặt ra mô hình hoạt động của các tổ chức và thể chế theo cấp độ tổ chức, những liên kết của các thành tố, các hiện tượng học. Đó là những thứ tách biệt với cuộc sống thực, nhưng tôi lại thấy rất thú vị, vì tôi đã được học ở một ngôi trường tách biệt.
- Đó là đâu vậy?
- Yale, khi còn là sinh viên đại học; đại học Connecticut khi học cao học. Tôi chưa bao giờ hoàn thành được luận án sau khi phát hiện ra việc dạy học thú vị hơn nhiều so với làm nghiên cứu.
Ông ta nhìn chằm chằm dọc theo hành lang tầng hầm vắng lặng, thỉnh thoảng mới có những bóng áo trắng lướt qua như đàn châu chấu ở xa xa.
- Đáng sợ thật - Ông ta nói.
- Sợ gì cơ?
- Nơi này ấy - Ông ta ngáp, mắt liếc đồng hồ - Tôi nghĩ sẽ lên để xem tình hình hai quý bà của tôi thế nào rồi. Cảm ơn ông đã dành thời gian nhé.
Cả hai chúng tôi cùng đứng dậy.
- Nếu ông muốn nói chuyện với tôi, đây là số điện thoại văn phòng tôi làm việc - Ông ta nói.
Chip đặt cốc cà phê xuống, thò tay vào túi quần sau và lôi ra cái ví màu bạc của Ấn Độ có nạm ngọc xanh. Tờ 20 đôla nằm bên ngoài, tiếp đến là thẻ tín dụng và giấy tờ các loại. Bỏ cả nắm thẻ ra, Chip đảo một lượt và tìm thấy tấm danh thiếp màu trắng. Đặt tấm danh thiếp lên bàn, ông lấy chiếc bút Mic màu xanh ra từ túi khác và viết mấy chữ rồi đưa cho tôi. Tấm danh thiếp có biểu tượng con hổ đang nhe nanh, xung quanh là chữ WVCC Tygers. Bên dưới là hàng chữ:
Cao đẳng cộng đồng Tây Valley
Khoa học xã hội
(818) 509 - 3476
Hai dòng kẻ được in ở cuối tấm danh thiếp. Ông ta điền vào đó những chữ đen đậm:
Chip Jones
Số máy lẻ: 2359
- Nếu tôi đang giảng bài, số máy lẻ này sẽ nối tới trung tâm nhắn tin. Nếu ông muốn tôi có mặt ở nhà khi ông tới thăm bệnh cho con bé, hãy thông báo cho tôi trước một ngày nhé - Ông ta dặn.
Tôi chưa kịp đáp thì những bước chân nhanh và nặng nề từ phía cuối hành lang vọng đến làm cả hai chúng tôi cùng quay lại. Một bóng người đang đi tới, dáng thể thao, áo măng tô đen bóng.
Cái bóng đó mặc áo măng tô da màu đen, quần màu xanh và có đội mũ. Phải chăng đó là một trong những tay cớm được thuê đang đi tuần các hành lang của bệnh viện?
Cái bóng tiến lại gần hơn. Một người đàn ông da đen có ria mép, khuôn mặt chữ điền và đôi mắt nhanh nhẹn. Tôi nhận ra phù hiệu của anh ta và biết ngay đó không phải là cớm đánh thuê của bệnh viện. Đó là một trung sỹ của Sở cảnh sát Los Angeles.
- Xin lỗi các quý ông - Anh ta nói rất nhẹ nhàng nhưng đủ để chúng tôi nghe thấy. Tấm phù hiệu anh ta đeo có ghi: Perkins.
Chip đáp:
- Có chuyện gì vậy?
Anh cảnh sát đọc tấm phù hiệu của tôi. Dường như tấm phù hiệu đã làm anh bối rối:
- Ông là bác sĩ sao?
Tôi gật đầu:
- Các quý ông đã ở ngoài hành lang này bao lâu rồi:
Chip đáp:
- Khoảng 5,10 phút. Có chuyện gì bất ổn chăng?
Cái nhìn của Perkins chuyển sang ngực Chip, để ý tới bộ râu quai nón, rồi chiếc hoa tai của ông ta.
- Ông cũng là bác sĩ sao?
- Ông ấy tới thăm con đang nằm ở đây - Tôi đáp.
- Ông có thẻ thăm thân nhân không, thưa ông?
Chip lôi một chiếc thẻ ra và giơ trước mặt Perkins.
Perkins nhai nhai hai bên má và nhìn trở lại tôi. Người anh ta toả ra thứ mùi của tiệm cắt tóc.
- Hai ông có nhìn thấy điều gì bất thường không?
- Là chuyện gì thế? - Chip hỏi.
- Là chuyện gì đó không bình thường ấy, thưa ông, hoặc người nào đó không thuộc bệnh viện này.
- Không thuộc bệnh viện này à - Chip đáp - chẳng hạn như ai đó khoẻ mạnh phải không?
Đôi mắt của Perkins nheo lại.
Tôi nói:
- Chúng tôi không thấy gì cả, thưa trung sỹ. Nơi đây rất yên tĩnh. Mà đã xảy ra chuyện gì vậy?
Perkins đáp:
- Cảm ơn.
Nói xong, anh ta bỏ đi. Tôi thấy anh ta đi chầm chậm lại một lát khi qua phòng thí nghiệm bệnh học.
Tôi và Chip đi cầu thang bộ tới đại sảnh. Một đám đông bác sĩ, y tá làm ca đêm tụ tập kín đầu phía Đông đang chen nhau tới những cánh cửa kính dẫn ra bên ngoài. Bên kia cánh cửa kính, bóng tối được cắt chéo nhau bởi những ánh đèn màu đỏ của cảnh sát. Có cả những ánh đèn trắng, bung ra như những ngôi sao nổ.
Chip nói:
- Có chuyện gì thế nhỉ?
Một y tá đứng cạnh đó không thèm quay đầu lại trả lời:
- Có ai đó đã bị tấn công trong bãi đậu xe.
- Bị tấn công ư? Ai tấn công mới được chứ?
Cô y tá quay đầu lại nhìn Chip. Khi nhận ra ông chỉ là một người dân bình thường, cô ta liền bỏ đi.
Tôi nhìn quanh xem có khuôn mặt nào quen không. Không hề có. Đã bao nhiêu năm tôi không qua lại nơi này rồi.
Một người gầy có mái tóc bạch kim cắt ngắn và bộ ria quăn màu trắng nói:
- Thế này là đủ rồi, tôi muốn về nhà ngay bây giờ.
Giọng ai đó như rên xiết.
Những tiếng thì thầm bay vọt qua đại sảnh. Tôi thấy một người mặc đồng phục ở phía bên kia cửa kính chặn cửa ra vào. Những tiếng nói chuyện bằng radio léo nhéo lọt vào trong. Bên ngoài người ta đi lại tấp nập. Một chiếc ôtô quét ánh đèn về phía cửa kính rồi quét đi chỗ khác và biến mất. Tôi đọc được dòng chữ "cấp cứu" trong ánh sáng lập loè. Nhưng không thấy xe cứu thương có đèn nháy và hú còi.
- Tại sao họ lại không đưa luôn cô ta vào bệnh viện nhỉ? - Người nào đó hỏi.
- Ai dám nói rằng đó là một phụ nữ chứ?
Giọng một phụ nữ lên tiếng:
- Thì vẫn luôn là các cô gái mà.
- Các cô có nghe thấy tiếng còi hú không? - Người khác đáp - Có lẽ đó không phải là một ca cấp cứu.
- Hoặc có thể - Người đàn ông tóc vàng nói thêm - đã quá muộn rồi.
Đám đông nhốn nháo như mặt hồ.
Có người nói:
- Tôi cố ra theo cửa sau nhưng họ đã chặn lại rồi. Thật chẳng khác nào đồ chết tiệt.
- Tôi nghe thấy người ta bảo nạn nhân là một bác sĩ.
- Là ai thế?
- Tôi chỉ nghe được thế thôi.
Tiếng rì rầm bàn tán, tiếng thì thầm nói chuyện lại tiếp tục rộ lên.
Chip nói:
- Hay thật.
Ông ta đột ngột quay lưng và đi về phía sau đám đông, trở lại bệnh viện. Trước khi tôi có thể nói điều gì đó, bóng ông ta đã biến mất.
5 phút sau, cánh cửa kính mở, đám đông nhào lên. Trung sỹ Perkins lách qua dòng người và giơ một bàn tay màu nâu lên. Anh ta trông giống như giáo viên trợ giảng trước một lớp học lộn xộn.
- Đề nghị mọi người trật tự một lát - Anh ta chờ đợi cho mọi người im lặng hết, cuối cùng căn phòng cũng tạm yên - một vụ tấn công đã xảy ra trong bãi đậu xe. Chúng tôi cần quý vị đi ra từng người một và trả lời một số câu hỏi:
- Tấn công như thế nào?
- Liệu anh ta có bị sao không?
- Ai bị tấn công?
- Phải chăng đó đúng là một bác sĩ?
- Sự việc xảy ra ở khu đậu xe nào?
Perkins lại liếc nhìn một lượt.
- Xin hãy tiến hành nhanh chóng, thưa các vị. Ai xong sẽ được về nhà.
Người đàn ông có bộ ria quăn màu trắng nói:
- Xin ngài sĩ quan nói cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra để chúng tôi còn tự bảo vệ mình?
Những tiếng xì xào ủng hộ.
Perkins nói:
- Xin mọi người hãy bình tĩnh.
- Không, anh hãy bình tĩnh mới phải - Người đàn ông tóc vàng nói - Các anh chỉ biết phạt người ta khi người ta đi đứng bất cẩn, còn khi có chuyện xảy ra, các ca chỉ biết hỏi và rồi lặn mất tăm, để mặc chúng tôi phải dọn tất cả những thứ đổ nát.
Perkins không cử động, cũng không nói gì.
- Nào, ngài sỹ quan - Một người đàn ông khác, da đen, lưng hơi gù trong bộ đồng phục y tá nói - Một số người ở đây đang có mạng sống đấy. Hãy nói cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra đi.
- Đúng đấy.
Lỗ mũi của Perkins phập phồng. Anh ta nhìn chằm chằm vào đám đông lúc lâu, rồi mở cửa và ra ngoài.
Đám đông trong đại sảnh gầm lên giận dữ.
- Đồ chết tiệt!
- Tổ cha mấy thằng chuyên phạt bậy!
- Tổ cha chúng nó! Bệnh viện bắt chúng tôi phải vượt đường để đi làm và chúng ta lại bị bọn này phạt chỉ vì muốn đến sở đúng giờ.
Những tiếng reo hò tung hô. Không còn thấy ai nói gì đến chuyện xảy ra trong bãi đậu xe.
Cánh cửa mở ra. Một sỹ quan cảnh sát đi vào, trẻ, da trắng, nghiêm nghị và là phụ nữ:
- Này, tất cả mọi người - Chị ta nói - nếu các vị đi ra từng người, từng người một, viên sỹ quan này sẽ kiểm tra thẻ chứng minh của các vị rồi để các vị đi ngay.
- Ô hô - Người đàn ông da đen hét lên - Chào mừng quý vị đến tới San Quentin. Chuyện tiếp theo sẽ là? Khám xét khắp người đấy.
Có thêm một vài tiếng nói nữa hùa theo anh ta, nhưng đám đông bắt đầu di chuyển rồi im lặng hẳn.
Tôi phải mất 20 phút mới tới được cánh cửa. Một viên sỹ quan cảnh sát với cái bảng có ghim ghi tên tôi từ tấm phù hiệu tôi đeo, hỏi vài câu và ghi số bằng lái xe của tôi. Sáu chiếc xe cảnh sát đậu lộn xộn bên ngoài lối vào, cùng với chiếc Sedan không đánh hiệu. Giữa con đường đi bộ hơi dốc xuống tới nhà đậu xe có một đám đàn ông đang dừng lố nhố.
Tôi hỏi viên cảnh sát:
- Sự việc xảy ra tại đâu thế?
Anh ta ngoắc một ngón tay về phía nhà để xe.
- Tôi đậu xe tại đó.
Anh ta nhướng đôi lông mày lên.
- Ông tới nơi này lúc mấy giờ?
- Khoảng 9 giờ 30.
- Tối hả?
- Vâng.
- Ông đậu ở tầng mấy?
- Tầng hai.
Câu nói cuối cùng làm mắt anh ta sáng lên.
- Ông có nhìn thấy điều gì bất thường vào lúc đó không - có ai đi lang thang hay làm gì đó đáng ngờ không?
Nhớ lại cảm giác bị theo dõi khi rời khỏi xe, tôi nói:
- Không, nhưng tôi thấy ánh đèn không được đều đặn.
- Ông bảo không đều đặn là sao, thưa ông?
- Tức là chỗ tối, chỗ sáng. Một nửa không gian ở đây được chiếu sáng, còn nửa khác thì tối. Vậy thì nếu ai đó muốn trốn trong bóng tối thì đâu phải là chuyện khó.
Anh ta nhìn tôi, răng gõ canh cách. Nhìn lại phù hiệu của tôi lần nữa, anh ta nói:
- Ông có thể đi được rồi, thưa ông.
Tôi đi theo hành lang. Khi đi qua đám người lố nhố, tôi nhận ra một trong số những người đàn ông ở đây. Đó là Presley Huenengarth. Vị trưởng Ban an ninh bệnh viện đang hút thuốc và nhìn lên bầu trời như thể ngắm sao, mặc dù trời không có lấy ngôi sao nào. Một trong những người mặc đồng phục khác có đeo phù hiệu hình cái khiên trên ve áo đang nói chuyện. Huenengarth dường như không để ý tới xung quanh.
Mắt chúng tôi gặp nhau nhưng cái nhìn của anh ta không dừng lại lâu. Anh ta đang nhả khói thuốc lá qua lỗ mũi và nhìn ngó xung quanh. Với người mà hệ thống an ninh do mình phụ trách vừa mới thất bại một cách thảm hại, anh ta có vẻ còn đầy bình tĩnh.
Báo chí ra ngày thứ Tư biến vụ tấn công đó thành một vụ giết người.
Nạn nhân bị cướp và bị đánh tới chết, chắc chắn là một bác sĩ. Một cái tên mà tôi không nhận ra: Laurence Ashmore. Ông ta bốn mươi lăm tuổi, mới làm tại Bệnh viện Nhi đồng miền Tây được một năm. Nạn nhân bị đánh từ phía sau, bị cướp mất ví, chìa khoá xe hơi và chìa khoá thẻ từ cho phép xe của nạn nhân được vào khu để xe của bác sĩ. Một phát ngôn viên của bệnh viện không tiết lộ tên nhấn mạnh rằng tất cả các mã vào cổng bãi đậu xe đều đã được thay đổi nhưng cũng thú nhận việc đi bộ vào bãi dễ như leo một bậc cầu thang.
Kẻ tấn công không rõ danh tính, không để lại manh mối nào.
Tôi đặt tờ báo xuống và nhìn qua những chiếc ngăn kéo bàn làm việc cho tới khi phát hiện ra một bảng phân công trực có kèm ảnh của các khoa trong bệnh viện. Nhưng bảng phân công này được làm từ năm năm trước, trước khi Ashmore tới đây.
Ngay sau 8 giờ, tôi trở lại bệnh viện. Khu đậu xe của bác sĩ đã được đóng kín bởi cánh cổng sắt, những chiếc xe trong đó đậu theo hình tròn trước cửa chính. Một tấm biển có ghi "Hết chỗ" được treo ở lối vào. Một người lính gác đưa cho tôi tờ giấy nhỏ hướng dẫn thủ tục để có được chìa khoá thẻ mới.
- Vậy lúc này tôi đậu xe ở đâu được?
Anh ta chỉ tay qua đường sang những bãi đậu xe ngoài trời han gỉ dành cho y tá và hộ lý. Tôi lùi lại, quay một vòng và phải xếp hàng đúng 15 phút. Mất thêm 10 phút nữa tôi mới tìm được nơi đậu. Ngó trước nhìn sau, tôi bước qua đại lộ, chạy nhanh tới cánh cửa trước. Hai lính gác đứng bên trong đại sảnh, nhưng không hề có dấu hiệu nào cho thấy có người vừa mới bị giết cách đó vài chục mét. Tôi biết, nơi này không còn lạ gì cảnh chết chóc nhưng một vụ mưu sát phải khiến người ta có phản ứng mạnh mới phải. Rồi tôi để ý tới những người tới, lui và chờ đợi. Không hề có sự lo lắng hay buồn phiền nào trên khuôn mặt đầy lạc quan của họ.
Tôi đi về phía cầu thang sau và phát hiện ra một danh sách trực mới ngay phía sau bàn thông tin. Ảnh của Laurence Ashmore nằm ở góc phía trái. Chuyên ngành độc học.
Nếu bức ảnh đó mới chụp thì ông ta trông rất trẻ so với độ tuổi 45. Người mảnh khảnh, mặt nghiêm nghị, tóc đen không thẳng, miệng rộng, đeo kính gọng sừng. Giống như Woody Allen mắc chứng khó tiêu, ông ta không phải là kiểu người dễ gây được khó khăn cho một kẻ tấn công. Tôi tự hỏi tại sao lại phải giết hại ông ta chỉ vì cái ví, rồi nhanh chóng nhận ra câu hỏi đó thật ngớ ngẩn.
Khi chuẩn bị vào thang máy lên tầng sáu, thì những âm thanh ở phía đầu kia của bệnh viện làm tôi chú ý. Rất nhiều áo trắng xuất hiện. Một đám người đang di chuyển nhanh về phía cầu thang chuyển bệnh nhân.
Chiếc xe chở một trẻ nhỏ đang được đẩy đi, một hộ lý đẩy, một người khác giữ ống truyền nước và chạy theo.
Một người phụ nữ mà tôi nhận ra là Stephanie. Rồi hai người mặc thường phục. Chip và Cindy.
Tôi đi theo và đuổi kịp khi họ tiến vào thang máy. Tôi cố gắng chen vào và lại gần chỗ Stephanie.
Cô nhận ra tôi và nhếch mép cười. Cindy đang nắm một tay của Cassie. Chị ta và Chip đều có vẻ mệt mỏi và không ai trong số họ nhìn lên.
Chúng tôi đi trong sự im lặng. Khi chúng tôi rời khỏi thang máy, Chip chìa tay ra. Tôi nắm lấy bàn tay ấy trong một giây.
Các hộ lý đẩy Cassie vào phòng bệnh nhân qua cánh cửa gỗ tếch. Trong vài giây, hình hài bất động của con bé được hạ thấp dần xuống giường, bình truyền nước được mắc vào máy đo giọt chảy và thanh chắn được dựng lên.
Bệnh án của Cassie đang ở chiếc xe đẩy. Stephanie cầm lấy và nói:
- Cảm ơn các anh.
Những hộ lý rời đi
Cindy và Chip lượn lờ bên cạnh chiếc giường. Đèn điện trong phòng đều tắt.
Khuôn mặt Cassie sưng vù, nhưng dường như đã được hút bớt nước - một chiếc vỏ được bơm căng. Cindy nắm tay con gái một lần nữa. Chip lắc đầu và choàng cánh tay quanh eo vợ.
Stephanie nói:
- Bác sĩ Bogner sẽ lại tới đây và cả vị bác sĩ người Thuỵ Điển nữa.
Những cái gật đầu yếu ớt.
Stephanie hất đầu. Hai người chúng tôi bước ra ngoài hành lang.
- Lại một vụ co giật nữa à? - Tôi hỏi.
- Vào lúc 4 giờ sáng. Chúng tôi đã ở phòng cấp cứu kể từ lúc đó, cố làm cho con bé tỉnh lại.
- Thế tình hình con bé ra sao rồi?
- Ổn định rồi. Mệt mỏi. Bác sĩ Bogner đang làm tất cả những gì có thể nhưng không đưa ra được chẩn đoán nào.
- Con bé có gặp nguy hiểm nào không?
- Không có nguy hiểm chết người nào, nhưng anh biết đấy, nếu liên tục bị chứng này sẽ gây hậu quả khôn lường. Và nếu càng ngày càng ác liệt thì chúng ta còn phải sẵn sàng cho những điều tồi tệ hơn - Cô lấy tay dụi mắt.
Tôi nói:
- Ai là vị bác sĩ Thụy Điển thế?
- Bác sĩ điện não đồ tên là Torgeson, đã cho xuất bản một công trình nghiên cứu về bệnh chậm chạp ở trẻ. Ông ta còn đang giảng bài tại một trường y.
Chúng tôi cùng bước tới bàn. Một y tá trẻ tóc đen đang ở đó. Stephanie viết vào bệnh án và nói với cô y tá:
- Hãy gọi ngay cho tôi nếu có thay đổi nào nhé.
- Vâng, thưa bác sĩ.
Tôi và Stephanie đi dọc hành lang một đoạn nữa.
- Vicki ở đâu nhỉ? - Tôi hỏi.
- Hy vọng là bà ấy đang ngủ ở nhà. Bà ấy xong ca vào lúc 7 giờ, nhưng lại xuống phòng cấp cứu để chào Cindy, mãi tận 7 giờ 30 mới về. Bà ấy muốn ở lại và làm thêm ca nữa, nhưng tôi đề nghị bà ấy về - Bà ấy có vẻ mệt mỏi lắm rồi.
- Thế bà ấy có chứng kiến những cơn co giật của con bé không?
Stephanie gật đầu.
- Cả người thư ký của đơn vị trực cũng chứng kiến. Cindy đã nhấn chuông, rồi chạy ra khỏi phòng kêu cứu.
- Thế Chip xuất hiện khi nào?
- Thì ngay sau khi chúng tôi ổn định được tình hình của Cassie. Cindy đã gọi điện về nhà cho anh ta và anh ta đến luôn. Tôi nghĩ lúc đó vào khoảng 4 giờ 30 thì phải.
- Tệ quá - Tôi nói.
- Ôi, chí ít thì chúng ta cũng đã khẳng định được là có những cơn co giật.
- Vậy là bây giờ mọi người đều biết Cindy không phải bị điên.
- Ý anh là sao?
- Hôm qua, Cindy nói với tôi rằng mọi người nghĩ chị ta bị điên.
- Chị ta nói như vậy thật sao?
- Thật chứ. Thì bởi vì chị ta là người duy nhất thấy Cassie bị ốm, rồi khi đến bệnh viện, con bé lại trở nên bình thường. Nên ai chẳng nghi ngờ sự trung thực của chị ta. Có thể là sự bất mãn nhưng cũng có thể chị ta biết rằng mình đang nghi ngờ nên mới nói ra để thử phản ứng của tôi. Biết đâu chị ta muốn chơi trò.
- Thế anh đã phản ứng ra sao?
- Bình tĩnh và khuyên giải chị ta, tôi hy vọng là chị ta cũng cảm thấy thế.
- Hừm - Stephanie nhăn trán - Vừa hôm trước chị ta còn lo lắng về việc bị người ta nghi ngờ thì đến hôm sau chúng ta đã có bằng chứng rất cụ thể để suy nghĩ rồi ư?
- Thời điểm sự việc xảy ra thật sự là oái oăm - Tôi đáp - Tối qua ngoài Cindy ở bên cạnh Cassie thì còn ai nữa không?
- Không có ai cả. Cũng không hẳn là luôn luôn như thế. Anh nghĩ rằng chị ta đã cho thứ gì đó vào thuốc?
- Hoặc là bóp mũi con bé. Hoặc là vặn cổ nó... Cả hai hành động này tôi đều tìm thấy khi tiến hành nghiên cứu các tài liệu ghi chép về bệnh Munchausen và tôi chắc chắn còn nhiều thủ đoạn ghê gớm hơn thế vẫn chưa được ghi chép.
- Đó là những thủ thuật mà một kỹ thuật viên hô hấp có thể biết... Khỉ thật. Vậy làm sao trong thời gian ngắn mà anh lại tìm ra được những thứ đó?
Cô lấy từ cổ mình ra một cái ống nghe. Đứng đối mặt với tường nhà, cô áp trán mình vào đó và nhắm mắt lại.
- Cô định cho con bé uống thứ gì đó phải không? - Tôi hỏi - Thuốc Dilatin hay Phenobarb?
- Tôi không thể. Bởi vì nếu con bé không có một rối loạn thật sự, thuốc chỉ gây hại thôi chứ ích gì.
- Liệu bọn họ có nghi ngờ nếu cô không dùng thuốc với con bé?
- Có thể... Tôi sẽ nói với họ sự thật. Kiểm tra não không đưa ra được kết luận nào cụ thể và tôi muốn tìm ra nguyên nhân chính xác những cơn co giật trước khi cho con bé uống thuốc. Bogner sẽ ủng hộ quan điểm này của tôi - Ông ta đang điên lên vì không tìm ra được nguyên nhân bệnh đấy.
Cánh cửa gỗ tếch mở ra, George Plumb vụt bước qua, cằm đi trước, áo phất theo sau. Ông ta giữ cửa cho một người đàn ông ở độ tuổi gần bảy mươi mặc bộ complê màu xanh dương kẻ sọc. Người đàn ông thấp hơn nhiều so với Plumb - khoảng 1mét 65 - to béo, đầu hói, đi nhanh và vòng kiềng, vẻ mặt ba phải dường như bị nhiều cú va đập: mũi bị gẫy, cằm không ngay ngắn, lông mày bạc trắng, mắt nhỏ ở đuôi đã có vết chân chim. Ông ta đeo cặp kính gọng thép, áo sơ-mi trắng cổ rộng và chiếc caravat lụa màu xanh. Đôi giày ông ta đi bóng loáng.
Hai người bọn họ đi thẳng về phía chúng tôi. Người đàn ông lùn có vẻ bận rộn ngay cả khi đứng yên.
- Chào bác sĩ Eves - Plumb nói - Và... phải chăng đây là bác sĩ Delaware?
Tôi gật đầu.
Người đàn ông lùn dường như không muốn được giới thiệu. Ông ta nhìn xung quanh khu phòng bệnh - giống y như cách Plumb đã làm hai ngày trước.
Plumb nói:
- Con bé ấy bây giờ ra sao rồi, bác sĩ Eves?
- Nó đang ngủ - Stephanie đáp, mắt vẫn tập trung vào người đàn ông lùn - Xin chào ngài Jones.
Cái đầu hói quay lại rất nhanh. Người đàn ông lùn nhìn cô, rồi lại nhìn tôi. Một cái nhìn rất chú tâm, như thể ông ta là người thợ may còn tôi là mảnh vải.
- Chính xác thì có chuyện gì đã xảy ra vậy? - Ông ta nói bằng giọng khá nặng.
Stephanie đáp:
- Cassie đã bị co giật vào buổi sáng nay.
- Trời ơi! - Người đàn ông lùn đấm một bàn tay vào bàn tay kia - Và đến nay vẫn chưa biết nguyên nhân phải không?
- Vẫn chưa, thưa ngài. Lần trước, khi con bé nhập viện, chúng tôi đã làm tất cả các xét nghiệm cần thiết nhưng nay chúng tôi phải làm lại và bác sĩ Bogner đã sắp xong. Ngoài ra còn có một giáo sư từ Thụy Điển tới nữa. Ông ta chuyên về động kinh trẻ em. Tuy nhiên, khi nói chuyện trên điện thoại, ông ta cảm thấy những gì chúng tôi đã làm là đúng đắn.
Chúng tôi bắt tay nhau rất nhanh. Bàn tay ông ta giống như lưỡi cưa gỗ. Tất cả mọi thứ thuộc về ông ta dường như luôn luôn chuyển động.
Plumb nói:
- Bác sĩ Delaware là chuyên gia tâm lý, thưa ngài Chuck.
Jones hấp háy đôi mắt và nhìn tôi chằm chằm.
- Bác sĩ Delaware đã thăm bệnh cho Cassie - Stephanie nói - để giúp con bé đỡ sợ kim tiêm.
Jones ầm ừ không ra tiếng nào cụ thể, rồi cũng nói:
- Thôi, hãy để tôi xem chuyện gì đang xảy ra. Hãy tìm hiểu xem chuyện vớ vẩn này là gì.
Ông ta rảo bước về phía phòng của Cassie. Plumb theo sau ông ta giống như chú cún con. Khi họ đã ở bên trong phòng, tôi nói:
- Chuyện vớ vẩn ư?
- Liệu ai có thể muốn có một người ông như thế chứ?
- Chắc là ông ấy rất yêu chiếc hoa tai của Chip đấy.
- Một thứ mà ông ta không thích là các chuyên gia tâm lý. Sau khi khoa Tâm thần bị giải tán, khá nhiều người đã tìm tới ông ta, cố gắng thuyết phục để khôi phục lại khoa nào đó liên quan tới sức khoẻ tâm thần. Lẽ ra chúng tôi cũng đề nghị ông ấy duyệt một khoản cho vay không lấy lãi nữa. Có lẽ Plumb đã chơi xỏ anh khi nói cho Jones biết anh làm nghề gì rồi đấy.
- Cái trò chơi cũ rích này á? Mà sao phải làm vậy chứ?
- Ai mà biết được. Tôi chỉ nói thế để anh cảnh giác thôi. Đám người này có những trò không bình thường đâu.
- Tôi đã ghi nhớ rồi - Tôi đáp.
Cô nhìn đồng hồ:
- Đến giờ khám bệnh rồi.
Chúng tôi rời phòng của con bé và đi về phía thang máy.
Cô hỏi:
- Vậy anh định sẽ làm gì, anh Alex?
Tôi định nói cho cô biết chuyện đã nhờ Milo nhúng tay vào vụ này. Nhưng rồi tôi lại quyết định không nói nữa.
- Theo tôi, cách duy nhất có vẻ thành công là bắt quả tang kẻ làm chuyện bẩn thỉu này hoặc đối mặt trực tiếp với hắn, buộc hắn phải thừa nhận.
- Đối mặt trực tiếp ư? Giống như là buộc tội chị ta ư?
Tôi gật đầu.
- Tôi không thể làm việc đó vào lúc này, phải vậy không? - Cô nói - bởi vì chị ta đã có nhân chứng chứng kiến cơn co giật của con bé rồi còn tôi thì lại đang mời chuyên gia tới. Có trời mới biết, có thể tôi đã hoàn toàn mất phương hướng. Có lẽ đúng là có một kiểu động kinh nào đó mà tôi không biết... Tôi đã nhận được một lá thư từ Rita sáng nay. Bà ấy gửi thư nhanh từ New York tới. - Bà ấy đang đi thăm các triển lãm nghệ thuật. Bà ấy hỏi xem có tiến triển gì trong đều trị cho con bé chưa. Tôi nghĩ có kẻ nào đó đã vượt mặt tôi và gọi thẳng đến bà ấy.
- Plumb ư?
- Hừm. Chúng tôi đã gặp nhau hôm qua và nói chung không khí không hề căng thẳng tí nào. Ông ta nói rằng ông ta đánh giá cao về sự nhiệt tình của tôi với bệnh viện. Ông ta còn cho tôi biết hiện nay tình hình tài chính rất khó khăn và sẽ còn tiếp tục khó khăn, và ám chỉ rằng nếu tôi không gây ra những rắc rồi thì vẫn có thể có được một công việc tốt hơn.
- Thế vào vị trí của Rita ư?
- Ông ta không nói cụ thể, nhưng ý ông ta là thế. Vậy nên có vẻ như ông ta đã gọi điện cho Rita và để bà ấy chống lại tôi... Dù sao, chuyện đó chẳng có gì quan trọng cả. Còn tôi sẽ làm gì với Cassie đây?
- Tại sao cô không đợi xem ông ta nói gì nhỉ. Nếu ông ta cảm thấy những cơn co giật ấy đã được ngụy tạo thì cô càng có cớ để đối đầu trực tiếp chứ sao.
- Đối đầu ư? Chắc tôi không thể đợi được rồi.
Khi chúng tôi tới gần phòng đợi, tôi đã đưa ra lời nhận xét rằng vụ giết Laurence Ashmore có rất ít tác động đối với vụ này.
- Ý anh là gì?
- Không thấy ai nói về chuyện này.
- Đúng thế. Anh nói đúng - thật kinh khủng phải không?
Một vài bước nữa, cô nói:
- Tôi thực sự không quen biết người này - Ashmore ấy. Ông ta luôn sống thu mình - kiểu tính cách không thích giao du với mọi người. Không bao giờ thấy ông ta đi dự các cuộc họp giao ban, không bao giờ trả lời các thư mời dự tiệc.
- Nếu không chịu giao du thì làm sao ông ta có người giới thiệu khách tới chỗ mình chứ?
- Ashmore không muốn có người giới thiệu khách tới chỗ mình đâu - ông ta không hề khám chữa bệnh, chỉ nghiên cứu thôi.
- Bằng chuột trong phòng thí nghiệm à?
- Chỉ những chú chuột thôi. Nhưng nghe nói ông ta khá thông minh - khá giỏi về ngành độc học đấy. Vì vậy khi Cassie bắt đầu nhập viện với chứng rối loạn hô hấp, tôi đã yêu cầu ông ta kiểm tra các phác đồ điều trị của nó.
- Cô nói cho ông ta biết lý do ư?
- Anh nghĩ rằng tôi đã nghi ngờ ư? Không. Tôi muốn ông ta tham gia một cách bình thường. Tôi chỉ bảo ông ta tìm xem có thứ gì đó bất thường không thôi. Ông ta rất miễn cưỡng, gần như là cáu bẳn không muốn làm, như thể bị ép buộc. Một hai ngày sau, tôi nhận được tin nhắn trên điện thoại nói rằng ông ta không tìm được gì. Và cũng trong lời nhắn, ông ta yêu cầu tôi không làm phiền ông ta nữa.
- Thế thì ông ta lấy gì để sống và làm thí nghiệm? Được trợ cấp à?
- Tôi nghĩ vậy.
- Tôi nghĩ bệnh viện này thậm chí cấm chuyện đó là đã khá rồi ấy chứ. Họ đâu muốn phải tốn thêm tiền đầu tư cho nghiên cứu.
- Tôi không biết nữa - Cô đáp - Có thể Ashmore tự trang trải.
Stephanie nhăn trán:
- Dù quan hệ xã hội của ông ta ra sao thì việc xảy ra với ông ta cũng thật đáng sợ. Đã từng có thời kỳ, dù trên đường phố có như thế nào đi nữa thì một người mặc bộ blu trắng hay đeo ống nghe trên cổ luôn luôn được an toàn. Bây giờ thì quy tắc đó đã bị phá vỡ. Đôi khi tôi có cảm giác mọi thứ trên thế gian này dường như đang sụp đổ.
Chúng tôi đi tới phòng kh ám. Phòng đợi đã chật kín người và ồn ào như chợ vỡ.
Stephanie nói:
- Tôi đã thấy ngán những chuyện xảy ra quanh đây rồi. Tôi chỉ muốn nghỉ ở nhà cho đỡ mệt.
- Tại sao cô không làm thế?
- Thì còn đang phải trả nợ.
Mấy người phụ nữ vẫy tay về phía Stephanie, cô cũng chào đáp lễ. Chúng tôi qua cánh cửa tới khu y tế và đi về phía văn phòng của cô. Một y tá nói:
- Xin chào bác sĩ Eves.
Stephanie cười. Một y tá khác đến và đưa cho cô tập bệnh án.
Cô nói:
- Chúc mừng Giáng sinh, Joyce!
Cô y tá cười và lui ra.
- Thôi, tạm biệt cô nhé - Tôi chào.
- Vâng, cảm ơn anh - À, tôi đã biết một số thông tin khác về Vicki. Theo một y tá mà tôi từng làm việc với tại tầng năm thì bà Vicki có hoàn cảnh gia đình khó khăn lắm. Ông chồng nghiện rượu thường đánh đập bà ấy. Vì vậy, bà ấy có vẻ hơi căng thẳng - chán ghét đàn ông. Bà ấy vẫn còn làm phiền anh phải không?
- Không. Thực ra chúng tôi đã có cuộc gặp riêng với nhau và thống nhất hoà hoãn tạm thời.
- Tốt.
- Bà ấy có thể ghét đàn ông, nhưng không ghét Chip - Tôi nói.
- Chip không phải là người đàn ông bình thường. Anh ta là con trai của ông chủ.
- Đấy nhé - Tôi nói - Thế là đã có lời giải thích về việc bà ta căm thù tôi rồi. Rất có thể bà ấy đã tới bác sĩ để được giúp đỡ nhưng lại bị thất vọng. Tất nhiên, căng thẳng gia đình triền miên có thể dẫn bà ta đi theo những hướng khác - trở thành người hùng trong công việc để củng cố thêm lòng tự trọng của mình. Không biết bà ấy giải quyết vụ co giật ra sao?
- Tốt lắm. Tôi có thể gọi đó là hành động anh hùng. Bà ấy đã làm cho Cindy bình tĩnh trở lại, kiểm tra kỹ Cassie để đảm bảo con bé ổn thì mới gọi điện sang cho tôi. Bà ấy thật sự là người bình tĩnh, mọi thao tác đều rất chính xác.
- Đúng là người luôn làm được theo sách giáo khoa.
- Nhưng giống như anh từng nói, làm sao bà ấy có thể tham gia nhiệt tình được khi mà ở nhà mình đang xảy ra khủng hoảng chứ?
- Nhưng cuộc khủng hoảng riêng của bà ấy thì không. Nói một cách công bằng thì không hề. Tôi không nói rằng tôi thực sự nghi ngờ bà ấy. Tôi chỉ biết gia đình bà ấy có chuyện không vui, bà ấy thường xuyên tới đây và làm rất tốt công việc của mình. Có lẽ vì bà ấy hay làm tôi bực mình nên tôi mới để ý nhiều hơn thôi.
- Anh nói hay nhỉ?
- Thì cô biết rồi đấy.
- Tôi luôn luôn giữ lời hứa của mình - Cô nhìn đồng hồ - Tôi phải khám bệnh vào buổi sáng này, rồi tới Century City để đón Torgeson này, rồi phải đảm bảo rằng không bị mắc kẹt trong bãi đậu xe này. Mà họ cho anh để xe ở chỗ nào thế?
- Bên kia đường, giống như những người khác thôi.
- Ôi, tôi sơ ý quá.
- Thôi - Tôi nói, giả vờ giận dỗi - Một số người trong chúng ta là những vĩ nhân của thế giới còn một số khác phải đậu xe ở bên kia đường đấy thôi.
- Trên điện thoại nghe giọng ông ta rất lạnh lùng - Stephanie nói - nhưng ông ta đúng là tay ác ôn đấy - đang nằm trong Uỷ ban bầu chọn giải Nobel đấy.
- Ôi chao.
- Nào, thử xem liệu chúng ta có thể làm cho gã bị thất vọng không.
Tôi gọi cho Milo từ buồng điện thoại công cộng và để lại lời nhắn cho anh: "Vicki Bottomley có người chồng nghiện rượu và có thể đã đánh đập bà ta khá tàn tệ. Chẳng biết chuyện này có liên quan gì không nhưng xin anh kiểm tra hộ hồ sơ về gia đình họ có xảy ra chuyện gì bạo lực không và nếu có thì hãy cho tôi biết cụ thể về ngày tháng vụ việc xảy ra nhé".
Một y tá mẫu mực như sách giáo khoa.
Căn bệnh Munchausen thế thân y như sách giáo khoa.
Những cái chết trong khi ngủ y như sách giáo khoa.
Cái chết đã được cố bác sĩ Ashmore đánh giá.
Người bác sĩ này đã không được nhìn thấy các bệnh nhân.
Chỉ là sự trùng hợp kinh khủng, không hề có gì để nghi ngờ. Chỉ cần làm việc lâu ở bệnh viện nào đó người tôi cũng sẽ thấy đầy rẫy những thứ thật kinh tởm. Nhưng không còn biết phải bắt đầu từ đâu, tôi liền quyết định tự mình xem xét kỹ hơn bệnh án của Chad Jones.
Phòng hồ sơ bệnh án vẫn được đặt ở tầng hầm. Tôi phải xếp hàng chờ đợi sau hai người thư ký mang phiếu yêu cầu và một bác sĩ nội trú có vác theo máy tính xách tay, cuối cùng người ta thông báo cho tôi biết rằng hồ sơ của bệnh nhân đã chết được đặt ở tầng hầm phía dưới nữa ở nơi gọi là SPI - tình trạng không còn sự sống. Có vẻ như đây là sản phẩm mà quân đội tạo ra.
Trên bức tường ngay bên ngoài cầu thang của tầng hầm này có một tấm bản đồ. Trên tấm bản đồ có những mũi tên chỉ "bạn đang ở đây" ở dưới góc bên tay trái. Phần còn lại là những hành lang. Đường hành lang được lát gạch trắng và trải thảm màu xám có in hình các tam giác màu đen và tím. Những cánh cửa cũng màu xám, tấm ghi tên thì màu đỏ. Hành lang được chiếu sáng bằng đèn huỳnh quang và có mùi chua của phòng thí nghiệm hoá học.
SPI nằm giữa mạng lưới các hành lang, giốn như cái hộp nhỏ, rất khó xác định từ không gian hai chiều trên bản đồ.
Tôi bắt đầu bước đi và đọc biển hiệu trên các cánh cửa. Phòng nồi hơi, khu chứa đồ. Một loạt các cánh cửa có ghi là Hậu cần và nhiều cánh cửa khác không ghi gì cả.
Hành lang ngoặt phải.
Chụp hoá quang phổ. Hồ sơ X-quang. Hồ sơ mẫu vật. Một tấm biển to ghi: Nhà xác: Không được vào nếu không được phép.
Tôi dừng lại. Không ngửi thấy mùi formalin, không có dấu hiệu nào về sự chết chóc, chỉ có sự im lìm và mùi acetic cùng với không khí lành lạnh có lẽ là do nhiệt độ thấp gây ra.
Tôi hình dung tấm bản đồ trong đầu. Nếu tôi nhớ chính xác thì rẽ phải một lần nữa, rồi rẽ trái và đi một đoạn ngắn mới tới được SPI. Tôi lại bước đi và nhận ra rằng từ khi xuống tới đây tôi chưa hề gặp người nào khác. Không khí trở nên lạnh lẽo hơn.
Tôi rảo bước, chút nữa thành chạy thì một cánh cửa bên tường phải đột nhiên bật mở, nếu không tránh nhanh thì nó đã đập vào tôi.
Tường bên phải hoàn toàn không có biểu hiện gì hết. Mấy người đàn ông mặc bộ đồ bảo hộ lao động xám xuất hiện, tay ôm máy tính, nhưng là những chiếc máy tính rất lớn. Họ hằm hằm bỏ đi. Rồi hai người công nhân nữa xuất hiện. Cuối cùng là một người đàn ông, tay áo xắn lên cao, cơ bắp cuồn cuộn đang ôm chiếc máy in laze. Một tấm thẻ tra cứu bằng bàn tay dán vào chiếc máy in. Tấm thẻ ghi: L.Ashmore, M.D.
Tôi bước qua cánh cửa ấy và phát hiện ra Presley Huenengarth đang đứng ở bậu cửa, tay cầm nắm giấy in. Phía sau anh ta là những bức tường màu be không trang trí, đồ đạc bằng kim loại màu đen, vài cái máy tính trong tình trạng không được nối mạng.
Một chiếc áo choàng trắng treo trên giá là dấu hiệu duy nhất chứng tỏ có cái gì đó là sự sống chứ không phải những con toán bất động đã được trông thấy ở đây.
Huenengarth nhìn tôi chằm chằm.
Tôi nói:
- Tôi là bác sĩ Delaware. Chúng ta đã gặp nhau hai ngày trước. Tại Bệnh viện Nhi đồng miền Tây ấy.
Anh ta gật đầu rất nhẹ.
- Chuyện về bác sĩ Ashmore thật tồi tệ - Tôi nói.
Anh ta lại gật đầu rồi lùi vào trong phòng một bước và đóng cửa.
Tôi nhìn dọc theo hành lang, nhìn những người đàn ông làm công tác bảo dưỡng mang đồ đạc của Ashmore và nghĩ tới những kẻ đào trộm mồ. Bỗng nhiên, một căn phòng đầy ắp những hồ sơ khám bệnh tử thi lại có vẻ thật ấm áp và mời gọi.
SPI là một phòng hẹp và dài đầy những giá kim loại xếp thành hàng dài từ sàn tới trần cùng những lối đi vừa cho một người. Những cái giá xếp đầy hồ sơ bệnh án. Mỗi hồ sơ bệnh án đều mang một dải đen. Hàng trăm dải đen liên tiếp nhau tạo thành những dòng màu đen dày khoảng 3cm lượn sóng khiến người ta có cảm giác những hồ sơ bị cắt ở giữa. Đường vào căn phòng bị chắn bởi cái bàn cao ngang eo. Phía sau cái bàn là một phụ nữ châu Á khoảng bốn mươi tuổi, mắt đang chăm chú đọc tờ báo lá cải tiếng châu Á. Những con chữ tròn - có lẽ là tiếng Thái hay tiếng Lào gì đó. Khi thấy tôi, chị ta liền đặt tờ báo xuống và nở nụ cười như thể tôi đang đem tới tin tốt lành.
Tôi xin phép được xem hồ sơ bệnh án của Charles Lyman Jones Đệ tứ. Cái tên đó dường như chẳng có gì nghĩa gì với chị ta. Chị ta với tay xuống dưới ngăn bàn và chìa ra một tấm thẻ 3x4cm có ghi: Thẻ yêu cầu SPI. Tôi liền điền đầy đủ những thông tin cần thiết và đưa cho chị ta. Chị ta nhận lấy và cười:
- Jones à.
Nói rồi chị đi vào trong các hàng hồ sơ.
Chị ta tìm kiếm một lát, đi đi lại lại rồi lôi ra mấy tập hồ sơ, nhấc các dải vải và xem phiếu đi xem. Khi trở lại, chị ta không mang theo thứ gì trên tay.
- Không có ở đây, thưa bác sĩ.
- Chị có biết nó nằm ở đâu không?
Chị ta lắc đầu.
- Có lẽ ai đó đã lấy đi rồi.
- Chắc chắn là vậy, thưa bác sĩ.
- Hừm - Tôi thốt lên và tự nhủ không biết ai lại quan tâm tới hồ sơ bệnh án của một đứa bé hai tháng tuổi đã chết.
- Hồ sơ bệnh án này rất quan trọng - để nghiên cứu. Không biết có cách nào để tôi liên lạc được với người đã lấy nó đi không nhỉ?
Chị ta nghĩ ngợi một lúc rồi mỉm cười và lôi thứ gì đó ra từ ngăn kéo tủ. Đó là bao thuốc xì gà của EI Producto. Bên trong là mấy chồng mẫu kê khai yêu cầu SPI được gắn bằng kẹp. Có năm chồng. Chị ta bày tất cả lên mặt bàn. Những tấm thẻ trên cùng đều mang chữ ký của các nhà bệnh học. Tôi đọc tên các bệnh nhân, không thấy có sự sắp xếp theo vần chữ cái hay theo hệ thống phân loại nào cả.
Chị ta lại cười và nói:
- Xin ông cứ thử tìm xem.
Nói rồi chị ta lại dán mắt vào tờ báo.
Tôi tháo bỏ cái kẹp khỏi chồng thẻ và lục qua tất cả các mẫu yêu cầu. Chẳng bao lâu tôi phát hiện ra rằng nơi đây không hề tồn tại một hệ thống nào cả. Các tập phiếu được xếp theo ngày yêu cầu, mỗi chồng là một tháng, mỗi phiếu xếp theo thứ tự ngày. Có tất cả năm chồng phiếu bởi vì lúc này là tháng Năm.
Vậy là không thể làm tắt được, phải kiểm tra từng phiếu một. Và nếu hồ sơ bệnh án của Chad được lấy ra từ trước tháng Một thì phiếu yêu cầu đã bị bỏ đi khỏi đây rồi cũng nên.
Tôi bắt đầu đọc tên của những đứa trẻ xấu số, thấy rằng chúng chỉ là sự sắp xếp các chữ cái một cách bừa bãi.
Một phút sau, tôi đã có được thứ mình muốn tại chồng của tháng Hai. Một tấm thẻ có ghi ngày 14 tháng Hai đã được ai đó chữ rất xấu ký. Tôi xem xét kỹ từng nét chữ và cuối cùng đã luận ra tên của người đó là Herbert D.Kent Herbert, hay là Dr.Kent Herbert.
Ngoài chữ ký, ngày tháng, và số điện thoại nhánh của bệnh viện ra, dải giấy đó không còn là chữ gì khác; các thông tin như vị trí công tác, chức danh, khoa, lý do yêu cầu đều không được điền vào đầy đủ. Tôi sao lại phần điện thoại nhánh và cảm ơn người phụ nữ ngồi phía sau chiếc bàn.
- Thế là được rồi sao? - Chị ta hỏi.
- Chị có biết người này là ai không?
Chị ta nhìn vào tờ khai.
- Hebert à... Không. Tôi chỉ mới làm việc ở đây được một tháng - Nói rồi chị ta lại cười - Bệnh viện này tốt lắm - Chị ta vui vẻ nói.
Tôi bắt đầu tự hỏi không hiểu chị ta có biết mình đang làm gì ở đây không.
- Chị có danh bạ điện thoại của bệnh viện không?
Vẻ mặt chị ta đầy bối rối.
- Cuốn sách ghi các số điện thoại ấy... Cuốn có màu vàng ấy?
- À - Chị ta cúi xuống và lôi ra một cuốn từ phía dưới chiếc bàn.
Trong danh bạ điện thoại của bệnh viện không có ai tên là Herbert ạ. Phần sau là danh sách những người không phải nhân viên bệnh viện, tôi tìm thấy một cái tên Ronald Herbert với chức danh trợ lý giám đốc dịch vụ lương thực. Tuy nhiên, phần điện thoại nhánh lại không giống như ghi ở dải giấy, mà chẳng lẽ một người làm công tác phục vụ ăn uống lại quan tâm tới trường hợp đột tử của trẻ sơ sinh?
Tôi cảm ơn chị ta rồi ra về. Vừa kịp lúc cánh cửa đóng, chị ta nói với theo:
- Bác sĩ, ông lại nhà.
Tôi lại men theo hành lang đường hầm, qua văn phòng của Laurence Ashmore. Cánh cửa vẫn đóng. Khi tôi dừng lại nghe ngóng thì chợt như nghe thấy tiếng chuyển động ở phía bên kia.
Tôi tiếp tục đi, mắt nhìn quanh để tìm buồng điện thoại. Cuối cùng, trời cũng không phụ công, tôi đã tìm được một buồng điện thoại ngay cạnh cầu thang máy. Tôi chưa kịp tới thì cánh cửa thang máy bật mở. Presley Huenengarth hiện ra, đứng đó và nhìn tôi chằm chằm. Lưỡng lự một lát rồi anh ta cũng bước ra. Quay lưng lại phía tôi, Huenengarth rút từ trong túi ra một bao Winstons và loay hoay bóc.
Cánh cửa cầu thang máy bắt đầu đóng lại. Tôi dùng tay chặn lại và bước vào. Điều cuối cùng tôi nhìn thấy trước khi cánh cửa đóng là cái nhìn chằm chằm lạnh lùng của nhân viên an ninh Huenengarth bị che phủ bởi đám khói thuốc.
Sau khi lên tới tầng hai, tôi sử dụng máy điện thoại cạnh phòng xạ trị để quay số nhánh tới D. Kent Herbert. Nhân viên tổng đài của bệnh viện trả lời máy.
- Bệnh viện Nhi đồng miền Tây đây.
- Tôi đang muốn gọi tới số nhánh 2506.
- Xin ông chờ một lát để tôi nối máy- Một loạt tiếng nhấn phím vang lên và rồi có tiếng đáp - Xin lỗi ông, số nhánh đó đã bị ngắt rồi ạ.
- Bị ngắt từ khi nào vậy?
- Tôi không rõ thưa ông.
- Anh có biết số nhánh đó là của ai không?
- Không thưa ông. Thế ông đang muốn kiếm ai vậy?
- D. Kent Herbert.
- Phải chăng đó là một bác sĩ?
- Tôi cũng không rõ.
Không có tiếng đáp lại trong giây lát, rồi:
- Vậy ông chờ một chút... Người có tên là Herbert duy nhất mà tôi có trong danh sách ở đây là ông Ronald Herbert, làm tại ban dịch vụ ăn uống. Ông có muốn tôi nối máy tới chỗ ông ấy không?
- Có chứ.
Năm tiếng chuông vang lên.
- Ron Herbert đây - Giọng nói khô khan.
- Chào ông Herbert, đây là phòng Hồ sơ bệnh án, muốn gọi ông để hỏi về bệnh án mà ông đã mượn.
- Ông nói sao?
- Hồ sơ bệnh án mà ông đã mượn vào tháng Hai ấy? Từ phòng hồ sơ ở SPI?
- Chắc là ông bạn nhầm với ai đó rồi. Đây là quán ăn tự phục vụ.
- Vậy là ông không mượn cuốn bệnh án SPI nào vào ngày 14 tháng Hai năm nay hay sao?
Trong máy có tiếng cười rất to.
- Buồn cười thật, tại sao tôi lại làm cái chuyện ngớ ngẩn ấy chứ?
- Vậy xin cảm ơn ông.
- Không sao. Mong ông tìm được điều ông muốn.
Tôi gác máy, đi cầu thang bộ xuống tầng trệt và hoà vào dòng người đang đứng lố nhố ở hành lang. Lách qua đám người đang chen chúc, tôi đi tới bàn thông tin và sau khi phát hiện ra một cuốn danh bạ điện thoại cạnh bàn tay của người thư ký tôi liền cầm lấy.
Người thư ký, một người phụ nữ da đen có mái tóc nhuộm vàng, đang trả lời các câu hỏi của người đàn ông nói tiếng Tây Ban Nha bằng tiếng Anh. Cả hai người bọn họ đều mệt mỏi và không khí đầy vẻ căng thẳng. Người thư ký thấy cuốn danh bạ trong tay tôi thì liền liếc mắt nhìn. Người đàn ông cũng nhìn theo. Hàng người phía sau anh ta nhốn nháo và rung lên như một con rắn khổng lồ.
- Ông không được lấy cái đó - Người thư ký nói.
Tôi cười, chỉ vào tấm phù hiệu và nói:
- Tôi chỉ muốn mượn một phút thôi.
Người thư ký trừng mắt nói:
- Chỉ đúng một phút thôi đấy nhé.
Tôi di chuyển về phía đầu kia của chiếc bàn và lật cuốn sách, mở ra trang đầu tiên, mắt đảo nhanh cùng với ngón tay trỏ xuống hàng những con số ở bên phải của mỗi trang, sẵn sàng tra tới hàng trăm con số nhánh cho tới khi tìm thấy số 2506. Nhưng chỉ vài trang tôi đã gặp được số cần tìm:
ASHMORE, L.W (TOX.) 2506.
Tôi trả lại cuốn danh bạ và cảm ơn người thư ký.
Chị ta lại liếc nhìn tôi, đưa tay giật lấy cuốn danh bạ và đặt ra xa.
- Mới được có nửa phút - Tôi đùa - Vậy tôi có được nhận lại phần thừa không đấy?
Khi nhìn thấy khuôn mặt méo xệch của những người đứng phía sau, tôi mới thấy ân hận vì câu bông đùa của mình.
Tôi đi cầu thang lên tới chỗ của Cassie, nhưng trên cửa phòng con bé có một tấm biển ghi "Xin đừng làm phiền"; người y tá trực nói với tôi rằng cả con bé và Cindy đang ngủ.
Trên đường ra khỏi bệnh viện, đột nhiên có tiếng người gọi tên tôi. Nhìn lên, tôi thấy một người đàn ông to cao, mép có ria đang tiến lại từ cửa chính. Người này xấp xỉ bốn mươi, mặc áo choàng trắng, kính không khung, quần áo bên trong kiểu đồng phục trường đại học. Ria mép là dấu huyền đen to như con sâu róm đậu dưới mũi. Có lẽ toàn bộ con người này nổi nhất ở điểm đó.
Anh ta đang vẫy tay gọi tôi.
Tôi lục lọi trong trí nhớ và rồi cũng nhớ ra tên anh ta.
Đó là Dan Kornblatt. Chuyên gia tim. Cựu bác sĩ nội trú trưởng của trường Đại học California San Francisco. Năm đầu tiên tại bệnh viện của anh ta cũng là năm cuối cùng của tôi. Mối quan hệ của chúng tôi hồi đó chỉ giới hạn ở những cuộc hội chẩn và những câu chuyện phiếm về Bay Area - Tôi đã từng theo một chương trình học bổng tại Langley Porter trong khi Kornblatt rất tâm đắc với lý luận của mình rằng tại phía nam Carmel không hề có văn minh. Tôi nhớ tới anh ta như một người hay lý luận dài dòng, kém khéo léo với các bậc cha mẹ, nhưng lại nhẹ nhàng với những bệnh nhân trẻ. Đi cùng anh ta lúc này còn có thêm bốn bác sĩ nữa, hai nam, hai nữ, tất cả đều còn rất trẻ. Cả năm người bọn họ đi rất nhanh, tay vung vảy - thật khoẻ mạnh và tỏ ra có mục đích. Khi họ tới gần, tôi nhận thấy mái tóc Kornblatt đã điểm bạc ở hai bên thái dương còn khuôn mặt dường như có thêm vài nếp nhăn.
- Alex Delaware, trời ơi, bạn của tôi.
- Chào anh Dan.
- Cơn gió nào đưa anh tới nơi này thế?
- Tôi tới đây để khám bệnh thôi.
- Thật thế ư? Anh đã làm tư rồi phải không?
- Từ vài năm trước cơ.
- Mở ở đâu thế?
- Ở bờ Tây.
- Thế gần đây anh có tới thành phố "khoái" ấy không?
- Gần đây thì không.
- Tôi cũng thế. Phải hai Giáng sinh nay rồi. Anh còn nhớ món Tadich Grill ấy không, là văn hoá của thành phố "khoái" đấy.
Anh ta liền giới thiệu những người đi cùng. Hai trong số bốn người ấy là bác sĩ nội trú, một người là đồng nghiệp khoa tim, còn người phụ nữ có nước da đen và lùn, có lẽ là người Trung Đông, là bác sĩ chuyên khoa trực. Tôi buộc phải tay bắt miệng cười với tất cả bọn họ một lượt. Bốn cái tên ấy nhanh chóng biến mất khỏi bộ nhớ của tôi.
Kornblatt nói:
- Anh Alex đây là một trong những chuyên gia hạng sao của chúng tôi hồi trước đấy, hồi mà bệnh viện vẫn còn sử dụng họ - Quay sang tôi, anh nói - À mà hình như tôi nghĩ các anh đã bị "loại khỏi vòng chiến đấu" ở nơi này rồi chứ. Hay là đã có gì đó thay đổi?
Tôi lắc đầu:
- Chỉ là một buổi thăm bệnh cho trường hợp đặc biệt thôi.
- A, vậy thì anh đang đi đâu đấy, định ra khỏi bệnh viện à?
Tôi gật đầu.
- Nếu anh không bận thì mời anh cùng đi với chúng tôi. Sắp có một cuộc họp nhân viên khẩn cấp. Anh còn là nhân viên ở đây không nhỉ? Chắc là có nếu anh còn đi khám bệnh thế này - Đôi lông mày anh ta nhíu lại - Làm thế nào mà anh tránh được cuộc tắm máu khoa Tâm lý nhỉ?
- Thì bằng kỹ thuật nho nhỏ thôi. Khoa tôi là khoa Nhi chứ không phải khoa Tâm thần.
- Nhi khoa à - thật hay. Đúng là một tuyệt chiêu - Quay sang những người khác - Các bạn thấy đấy, ở đâu cũng có những lỗ hổng để ta ra chiêu.
Tám con mắt tỏ ra hiểu biết. Tất cả bọn họ đều còn rất trẻ, chưa quá ba mươi.
Kornblatt nói:
- Vậy anh đi cùng chúng tôi chứ? Cuộc họp này quan trọng lắm đấy - tất nhiên nếu anh còn quan tâm tới những gì đang xảy ra ở nơi này.
- Tất nhiên - Tôi đáp, và nghé miệng vào tai anh ta - Có chuyện gì thế?
- Đó là chuyện về sự suy thoái và cái chết của đế chế Bệnh viện Nhi đồng miền Tây. Bằng chứng cụ thể là cái chết của Larry Ashmore. Thực ra, đây là cuộc họp để tưởng nhớ tới anh ta - Kornblatt chau mày - Anh nghe người thư ký nói tới chuyện đã xảy ra với anh ta rồi chứ?
Tôi gật đầu:
- Thật khủng khiếp quá.
- Đó chỉ là biểu hiện của vấn đề thôi, anh Alex ạ.
- Biểu hiện của vấn đề gì?
- Của những gì đã xảy ra ở nơi này. Hãy để ý những gì mà ban lãnh đạo ở đây đã làm mà xem. Một bác sĩ bị giết mà chẳng ai buồn gửi thông báo tới mọi người. Còn những sắc lệnh, chỉ thị của họ thì có bao giờ họ chịu tiết kiệm giấy tờ đâu.
- Tôi biết - Tôi đáp - Tôi đã bất ngờ đọc được một bản thông báo, trên cửa thư viện.
Anh ta nhăn trán:
- Thư viện nào cơ?
- Đúng là thư viện thật đấy.
- Chết tiệt - Anh ta chửi thề - Thế mà cứ mỗi lần phải nghiên cứu, tôi đều phải lái xe tới tận trường y đấy.
Chúng tôi cùng bước qua hành lang và đến trước những hàng người. Một trong số các bác sĩ trông thấy bệnh nhân của mình đang đợi trong hàng, liền nói:
- Tôi sẽ gặp các ông sau.
Nói rồi cô ta rời khỏi nhóm và tới chỗ đứa bé.
- Đừng có quên cuộc họp đấy nhé - Kornblatt nói với theo cô ta, chân vẫn không hề dừng bước. Khi chúng tôi đã thoát khỏi đám đông, anh ta nói:
- Không có thư viện, không có khoa Tâm thần, không có ngân sách dành cho tiền thưởng, toàn bộ là tiền vay. Nay còn có thêm những lời xì xào về chuyện giảm biên chế ở tất cả các khoa - ngay cả ban lãnh đạo cũng sẽ bị giảm biên chế. Thật là loạn quá. Có lẽ mấy thằng con hoang định xé nát nơi này ra để bán bất động sản cũng nên.
- Không phải là ở thị trường này chứ?
- Tất nhiên là không rồi. Tôi đang nói nghiêm túc đấy, anh Alex ạ. Chúng tôi đã không còn có lờ lãi gì nữa và họ lại chính là những người nắm quyền ở đây. Giấu nhẹm đi và cho thêm nhiều chỗ đậu xe nữa.
- Ôi dào - Tôi nói - Họ có thể sẽ che đậy những cái bên kia đường cũng nên.
- Anh chớ có dại mồm. Chúng ta chỉ là cu li cho những gã này thôi, hay đúng ra chỉ là những công nhân làm công tác lao dịch thôi.
- Làm thế nào mà họ lại có được quyền lực thế?
- Thì ông Jones - Chủ tịch Hội đồng quản trị mới - là người kiểm soát tất cả các khoản đầu tư của bệnh viện. Nghe nói ông ta có những việc làm khá tốt, vì thế khi tình hình trở nên khó khăn, ban quản trị đã họp và đề nghị phải có một người mạnh về tài chính lên nắm quyền để vực bệnh viện dậy. Sau khi được bầu, ông ta liền cho những người trong bộ máy cũ về vườn cả và đưa đội quân lâu la của ông ta tới.
Một đám đông khác đang lố nhố cạnh các cánh cửa. Có rất nhiều tiếng chân bước rộn rã, những cái đầu mệt mỏi thò ra, những cú bấm vào nút thang máy bừa bãi. Hai trong số các thang máy đang bị mắc ở đâu đó trên tầng trên. Trên cánh cửa thang máy thứ ba có tấm biển ghi chữ "Thang hỏng".
- Nào tiến lên - Kornblatt hô, tay chỉ ra cầu thang bộ và rảo bước như chạy tới đó. Tất cả bọn họ đều phi nhanh qua cầu thang thứ nhất như những con tuấn mã. Khi họ tới đỉnh cầu thang, Kornblatt nhảy nhảy như vận động viên boxing.
- Nào, ta đi - Nói xong, anh ta đẩy cánh cửa mở tung.
Đi thêm một đoạn nữa đã tới sảnh đường. Cạnh cửa sảnh có hai bác sĩ đang vươn vai, ngáp ngủ, trên đầu họ đều có đeo dải băng chữ viết tay: Tưởng nhớ Ashmore.
Tôi hỏi:
- Chuyện gì đã xảy ra với Kent Herbert ấy nhỉ?
- Ai cơ? - Kornbatt hỏi lại.
- Herbert ấy. Một chuyên gia độc học. Có phải ông ta làm việc cùng với Ashmore không?
- Tôi không biết còn có ai đó làm việc với Ashmore... - Anh ta ngập ngừng - Herbert à. Tôi không thể nhớ nổi ông ta là ai.
Chúng tôi cùng tiến vào sảnh đường hình cái quạt lớn; những hàng ghế lót vải màu xám được sắp xếp theo một mặt sàn nghiêng tới bục thuyết giảng bằng gỗ. Chiếc bảng màu xanh lá cây được đặt trên mấy cái bánh xe đứng sau bục. Nơi tựa lưng của những cái ghế là cao su và chỗ ngồi có đệm. Tiếng nói chuyện rầm rì tràn ngập căn phòng.
Sảnh đường phải chứa tới 500 ghế ngồi nhưng không đầy mấy chục ghế có người. Mọi người ngồi không tập trung khiến nơi đây giống như một lớp thi lại. Kornblatt và đoàn người của anh ta tiến xuống phía trước của căn phòng, bắt tay và chào hỏi với mọi người trên đường đi. Tôi dừng lại và ngồi một mình ở hàng ghế sau cùng.
Rất nhiều những cái áo choàng trắng, họ là những người đã được biên chế chính thức của bệnh nhân. Nhưng còn những bác sĩ tư nhân đâu? Họ không thể tới dự do được thông báo quá muộn hay họ quyết định không tới? Bệnh viện Nhi đồng miền Tây luôn tồn tại sự căng thẳng giữa những người trong biên chế và những người còn làm hợp đồng, nhưng ngoài đời thì các bác sĩ này vẫn cứ tạo được mối quan hệ cộng sinh không đến nỗi nào.
Khi nhìn xung quanh, tôi lại phát hiện ra một điều thú vị: Có rất ít những cái đầu điểm bạc trong phòng. Vậy những người cao tuổi mà tôi từng biết đi đâu hết?
Trước khi tôi kịp trả lời câu hỏi đó thì một người đàn ông tay cầm chiếc micro không dây bước lên trên bục giảng và yêu cầu mọi người trật tự. Vậy là khoảng ba mươi lăm con người, mặt còn non trẻ dưới quyền chỉ huy của một người châu Phi to lớn có mái tóc màu vàng. Chiếc áo choàng trắng của người này dường như đã hơi ngả màu vàng còn khuôn mặt thì quá to. Bên trong chiếc áo choàng là áo sơ mi đen và caravat dệt kim màu nâu.
Anh ta nói:
- Xin mọi người trật tự.
Tiếng ồn ào nhỏ dần. Một vài tiếng kêu phát ra từ micro rồi cả căn phòng trở nên yên tĩnh.
- Cảm ơn tất cả các bạn đã có mặt tại đây hôm nay. Xin ai đó ra đóng cửa hộ tôi đã.
Những khuôn mặt ngoảnh lại phía sau. Tôi nhận thấy mình là người gần cửa nhất nên đứng dậy ra đóng cửa lại.
- Được rồi - Người đàn ông châu Phi nói tiếp - Theo trình tự, trước hết chúng ta hãy dành một phút im lặng để tưởng nhớ tới đồng nghiệp của chúng ta, bác sĩ Laurence Ashmore, xin mời mọi người đứng dậy.
Mọi người cùng đứng dậy, cúi đầu. Một phút mặc niệm trôi qua.
Người đàn ông châu Phi lên tiếng:
- Được rồi, xin mời mọi người ngồi xuống.
Nói xong, ông ta bước tới chiếc bảng, cầm mẩu phấn và viết:
Chương trình làm việc:
1. Tưởng niệm Ashmore.
2. ................................
3. ................................
4. ................................?
Bước ra khỏi chiếc bảng, ông ta nói:
- Có ai muốn nói vài lời về bác sĩ Ashmore không?
Không có ai lên tiếng.
- Vậy thì tôi xin nói. Tôi xin thay mặt toàn thể chúng ta lên án hành động tàn bạo của kẻ đã gây ra cái chết của Ashmore. Chúng ta xin bày tỏ sự cảm thông với gia đình vị bác sĩ quá cố. Ngoài vòng hoa ra, tôi đề nghị chúng ta cùng góp tiền lập một quỹ nhỏ để quyên cho một tổ chức mà gia đình lựa chọn. Hay cho tổ chức mà chúng ta lựa chọn nếu như bây giờ không tiện hỏi ý kiến gia đình. Chúng ta có thể quyết định ngay bây giờ, hay vào thời điểm muộn hơn cũng được. Có ai muốn nói gì thêm không?
Một người phụ nữ tóc ngắn ở hàng ghế thứ ba lên tiếng:
- Thế Trung tâm kiểm soát độc thì sao? Ông ấy là chuyên gia độc học mà.
- Trung tâm kiểm soát độc là ý kiến hay đấy - Người đàn ông châu Phi nói - Có ai còn có ý kiến khác nữa không?
Giữa căn phòng có một bàn tay giơ lên.
- Cảm ơn, Barb. Xin hãy xuống đây. Tất cả mọi người đều biết về gia đình của vị bác sĩ quá cố chứ? Chúng ta cần thông báo cho họ về kế hoạch của chúng ta.
Không có tiếng đáp lời.
Anh ta nhìn người phụ nữ đã đưa ra ý kiến.
- Barb này, chị có thể đảm nhận giúp việc thu tiền quỹ không?
Người phụ nữ gật đầu.
- Được rồi, thưa tất cả mọi người, xin hãy mang tiền quyên góp của mình tới văn phòng của bác sĩ Barb Loman tại khoa Khớp học và chúng ta sẽ làm sao cho Trung tâm kiểm soát độc có được tiền sớm. Có ý kiến gì khác nữa không?
- Dữ liệu - Có ai đó nghiên cứu - Chúng ta không hề có chút nào cả.
- Ông có thể đứng lên và nói rõ được không, thưa ông Greg? - Người châu Phi nói.
Một người đàn ông to béo, râu quai nón mặc sơmi kẻ sọc và đeo caravat hoa khổ rộng đứng lên. Tôi biết người này, khi còn là bác sĩ nội trú ở đây. Hồi đó ông ta không có râu quai nón, và cái tên nghe như kiểu Italia...
- ... Thưa các quý vị, và anh John, điều tôi muốn nói là tình hình an ninh ở đây đã trở nên tồi tệ. Tai họa đã xảy ra với Ashmore đều có thể sẽ xảy ra với cả chúng ta, và vì cuộc sống của chúng ta đang ngàn cân treo sợi tóc nên chúng ta cần phải có được đầy đủ các thông tin. Tức là chúng ta phải biết chính xác điều gì đã xảy ra, tiến triển điều tra của cảnh sát ra sao cũng như những biện pháp có thể được tiến hành để đảm bảo an toàn của chính chúng ta.
- Không có tí an toàn nào cả - Một người đàn ông da đen đeo kính ở đầu phòng bên kia lên tiếng - Chỉ chừng nào chính quyền chịu cam kết thực sự bảo đảm an ninh cho chúng ta thì nơi này mới có. Cần phải có nhân viên bảo vệ 24/24 giờ tại tất cả các cửa ra vào khu đậu xe và mỗi cầu thang.
- Điều đó có nghĩa là phải chi thêm tiền đấy, Hank ạ - Người đàn ông râu xồm lên tiếng - Chúc anh may mắn nhé.
Người phụ nữ tóc đuôi sam màu nâu đứng dậy.
- Tiền sẽ có thôi, anh Greg ạ - Chị ta nói - nếu như họ chịu ưu tiên cho vấn đề này. Điều chúng ta không cần chính là kiểu bán quân sự chuyên chặn lối những bệnh nhân của chúng ta ở các hành lang. Điều chúng ta thực sự cần là cái mà anh và Hank đã nói: an ninh đích thực ấy, gồm các lớp tự vệ, karate, huấn luyện thể lực cá nhân, vân vân. Đặc biệt là đối với các nhân viên nữ. Hàng ngày các nữ y tá phải đối mặt với sự đe doạ từ ngoài đường phố, nhất là khi họ phải làm ca đêm - các anh đã biết về vụ hai nữ y tá bị tấn công rồi đấy, và...
- Tôi biết.
- ... các khu đậu xe bên ngoài khuôn viên bệnh viện không hề có tí an ninh nào cả. Điều này thì tất thảy chúng ta đều đã biết, từng nếm mùi rồi. Sáng nay tôi phải vào bệnh viện lúc 5 giờ sáng vì một ca cấp cứu và xin nói rằng tôi cảm thấy rất đáng sợ. Tôi cũng phải nói thêm rằng thật là một sai lầm to lớn khi chỉ giới hạn cuộc họp hôm nay trong số các bác sĩ. Bây giờ không còn là thời đại phân biệt tầng lớp nữa. Chúng ta còn có các y tá và đội ngũ nhân viên phục vụ cũng đang phải đối mặt hàng này với những đe doạ như chúng ta; họ cũng phục vụ chung một mục tiêu như chúng ta. Tất cả chúng ta cần phải ngồi lại với nhau, động viên khích lệ nhau, đoàn kết với nhau chứ không phải kiểu chia bè chia phái như thế này.
Không có ai lên tiếng.
Người phụ nữ tóc đuôi sam nhìn quanh phòng rồi ngồi xuống.
Người đàn ông châu Phi nói:
- Cảm ơn, chị Elaine, ý kiến của chị sẽ được chúng ta nghiêm túc xem xét. Dù sao, tôi cũng cần khẳng định rằng không hề có sự phân biệt nào cả đâu.
- Vậy thì - Người phụ nữ tóc đuôi sam lại đứng dậy và phản bác - có ai ngoài những bác sĩ được thông báo tới đây không?
Người đàn ông châu Phi cười:
- Đây là buổi họp riêng của đội ngũ bác sĩ trong bệnh viện thôi mà, chị Elaine, vì vậy đương nhiên chỉ có các bác sĩ tới...
- Anh nghĩ những người còn lại không quan tâm hay sao?
- Tất nhiên - Người đàn ông châu Phi đáp - Tôi...
- Những phụ nữ của Bệnh viện Nhi đồng miền Tây đều rất lo sợ. Hãy tỉnh ngộ đi, mọi người. Tất cả mọi người đều cần được khích lệ. Các bạn thử nhớ lại mà xem, nạn nhân của hai vụ tấn công trước đều là phụ nữ và...
- Đúng, tôi biết là như vậy, thưa chị Elaine. Chúng ta đều biết cả. Và tôi xin cam đoan với chị rằng trong trường hợp tổ chức các cuộc họp khác thì dĩ nhiên chúng ta sẽ mời những người khác nữa.
Elaine định tiếp tục cuộc tranh luận, nhưng rồi chị ta lắc đầu và ngồi xuống.
Người đàn ông châu Phi quay trở lại với chiếc bảng và dùng mẩu phấn để chỉ:
- Tôi nghĩ chúng ta nên nói tới phần tiếp theo. vấn đề an ninh của nhân viên, được chứ?
Một vài cái gật đầu. Rất dễ nhận ra sự bất đồng trong những người ở đây. Tôi nhớ lại những cuộc họp mấy năm trước. Toàn là những cuộc tranh cãi bất tận nhưng rất ít hoặc hầu như không đi đến một quyết định nào.
Người đàn ông châu Phi đặt một dấu gạch chéo cạnh chữ Tưởng niệm Ashmore, viết tiếp dòng chữ An ninh nhân viên ở dòng tiếp theo, rồi quay lại đối mặt với toàn cuộc họp.
- Được rồi, quý vị còn ý kiến nào khác ngoài việc tăng thêm nhân viên an ninh và mở lớp karate không?
- Có - Một người đàn ông vai rộng, đầu hói lên tiếng - Chúng ta cần được trang bị súng.
Có vài tiếng tặc lưỡi.
Người đàn ông châu Phi cười khẩy:
- Cảm ơn, Al. Có phải ở Houston người ta thường xử lý tình huống theo kiểu này không nhỉ?
- Anh nói đúng đấy, John, S. và W. ở mọi ngóc ngách để khám xét bí mật. Đó là Smith và Wesson, hiểu chưa.
Người đàn ông châu Phi đưa tay làm ra vẻ một khẩu súng, chỉ vào Bald và nháy mắt:
- Có gì khác nữa không hả anh Al để biến bệnh viện này thành một trại vũ trang?
Dan Kornblatt đứng dậy.
- Tôi rất ghét phải nói ra nhưng quả thực chúng ta đang rơi vào tình trạng thấy cây mà chẳng thấy rừng. Điều chúng ta cần làm là giải quyết các vấn đề lớn hơn cơ.
- Nghĩa là sao, anh Dan?
- Nghĩa là mục đích của chúng ta ấy - mục đích của bệnh viện này.
Người đàn ông châu Phi có vẻ bối rối.
- Chúng ta đã bàn xong vấn đề thứ hai chưa nhỉ?
Kornblatt nói:
- Tôi thì cho là đã xong rồi. An ninh chỉ là biểu hiện của một căn bệnh lớn hơn.
Người đàn ông châu Phi chờ một lát rồi gạch chéo dòng chữ An ninh nhân viên.
- Căn bệnh lớn hơn đó là gì vậy, Dan?
- Đó là căn bệnh trống rỗng về tình cảm kinh niên giai đoạn cuối, căn bệnh trống rỗng tình cảm của riêng tổ chức này. Hãy nhìn xem. Trong những nhân viên ở đây có bao nhiêu người là bác sĩ hợp đồng? Hai trăm ư? Hãy nghĩ xem có bao nhiêu phần trăm quan tâm đến việc hoãn lại việc làm hôm nay để tuyên bố trước mặt họ...
- Anh Dan...
- Hãy để tôi nói hết đã. Có lý do để rất ít bác sĩ hợp đồng có mặt ở đây. Và đây cũng chính là lý do để họ tránh giới thiệu bệnh nhân của họ tới nơi này một khi tự tìm được cơ sở địa phương nào đó ổn ổn một chút. Cũng do nguyên nhân này mà rất nhiều bác sĩ dày dạn kinh nghiệm của chúng ta đã tìm đến nơi khác. Chúng ta đã bị xem là một đứa con nuôi - một bệnh viện thất bại. Và cộng đồng nhận thức được điều này bởi vì ban giám đốc và ban quản trị đã không quan tâm tới bệnh viện. Cả chúng ta cũng thế. Tôi đảm bảo rằng chúng ta đều có đủ khả năng tâm lý để biết cảm giác của một đứa trẻ ra sao khi nó luôn bị coi là kẻ thất bại. Nó sẽ bắt đầu tin đúng là như thế. Điều tương tự đúng với...
Cánh cửa bật mở. Những cái đầu quay lại. George Plumb bước vào, tay vuốt thẳng caravat, áo sơ mi trắng và bộ complê màu xám sáng. Đôi giày gõ vào sàn nhà khi ông ta đi xuống phía bục thuyết giảng. Khi tới nơi, ông ta đứng cạnh người đàn ông châu Phi, như thể đó là nơi của ông ta mới đúng.
- Xin chào tất cả các quý vị - Ông ta nói.
Kornblatt nói:
- Chúng tôi đang bàn về vấn đề trống rỗng tình cảm của bệnh viện, thưa ông George.
Plumb tỏ vẻ nghĩ ngợi, một nắm tay đặt dưới cằm.
- Tôi có cảm giác đây là buổi lễ tưởng niệm bác sĩ Ashmore.
Người đàn ông châu Phi đáp:
- Đúng là như vậy, nhưng chúng tôi muốn kết hợp bàn luôn một số vấn đề.
Plumb quay lại và nhìn lên bảng.
- Dường như đang bàn những vấn đề lớn đấy. Tôi có thể nói thêm một chút về bác sĩ Ashmore không?
Cả phòng im lặng. Rồi có những cái gật đầu. Vẻ mặt đầy tức giận, Kornblatt đành ngồi xuống.
- Trước tiên - Plumb nói - tôi muốn bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của ban giám đốc và ban quản trị về cái chết của bác sĩ Laurence Ashmore. Bác sĩ Ashmore là nhà nghiên cứu giỏi giang và ông mất đi để lại sự thương tiếc sâu sắc. Thay vì hoa, bà Ashmore đã yêu cầu tất cả các quỹ quyên góp được chuyển cho UNICEF. Văn phòng của tôi sẽ sẵn sàng đảm nhận tất cả việc quyên góp tiền bạc. Thứ hai, tôi muốn đảm bảo với mọi người rằng đã có những tiến bộ trong việc làm thẻ đậu xe mới. Các thẻ đã có rồi và có thể lấy tại Ban an ninh từ ba giờ đến năm giờ ngày hôm nay và ngày mai. Chúng tôi rất xin lỗi sự bất tiện này. Tuy nhiên, tôi đảm bảo tất cả các quý vị đều nhận thức được sự cần thiết phải thay đổi chìa khoá. Có câu hỏi nào không?
Người đàn ông to béo râu quai nón tên là Greg nói:
- Thế còn các biện pháp an ninh thật sự thì sao - tức là bổ sung nhân viên gác tại các cầu thang?
Plumb cười:
- Tôi đang định nói tới điều đó, thưa bác sĩ Spironi. Vâng, cả cảnh sát và nhân viên an ninh của chúng ta đều thông báo cho chúng tôi biết rằng các cầu thang là một vấn đề, và mặc dù chi phí sẽ kh á cao nhưng chúng tôi vẫn sẵn sàng duy trì nhân viên an ninh 24/24 giờ tại các cầu thang, mỗi người một ca đối với mỗi tầng của khu đậu xe dành cho các bác sĩ cũng như một nhân viên an ninh mỗi ca cho ba khu tự do bên kia đường. Vậy tổng số nhân viên an ninh dành cho khu đậu xe là mười lăm, có nghĩa là phải đưa thêm mười một người nữa vào đội ngũ bốn người hiện nay. Chi phí, cả trợ cấp và bảo hiểm, sẽ lên tới gần 400 ngàn đôla.
- 400 ngàn! - Kornblatt đứng bật dậy và kêu lên thất thanh - Vậy là phải trả tới gần 40 ngàn đôla cho một cảnh sát sao?
- Nhân viên an ninh chứ không phải cảnh sát, thưa bác sĩ Kornblatt. Cảnh sát thì còn phải trả nhiều hơn thế nữa ấy chứ. Như tôi đã nói rồi, con số này bao gồm tiền trợ cấp, bảo hiểm, bồi dưỡng, hậu cần, thiết bị, và cả các chi phí phụ trội ngoài lương khi phục vụ ở những vị trí nhất định chẳng hạn như những người làm công tác hướng dẫn và huấn luyện. Công ty mà chúng tôi ký hợp đồng có nhiều tiếng tăm tốt và họ đã đề nghị huấn luyện tự vệ và chống tội ác cho toàn bộ đội ngũ nhân viên của bệnh viện. Ban quản trị cảm thấy không nhất thiết phải tiết kiệm trong vấn đề này, thưa bác sĩ Kornblatt. Tuy nhiên, nếu anh muốn tìm kiếm nơi nào đó có giá cả cạnh tranh hơn thì xin cứ tự nhiên. Chỉ xin nhớ rằng thời gian là vấn đề lớn - chúng ta cần phải lập lại an ninh, đem lại niềm tin và sự an toàn tính mạng cho mọi người - trong thời gian ngắn nhất.
Chống tay vào cạnh sườn, Plumb nhìn Kornblatt.
Vị bác sĩ tim mạch nói:
- Lần trước tôi đã kiểm tra, công việc của tôi là điều trị cho những đứa trẻ, thưa ông George.
- Chính xác - Plumb nói. Quay lưng lại phía Kornblatt, ông ta nói:
- Còn câu hỏi nào nữa không?
Một phút im lặng giống như lúc mặc niệm Ashmore.
Kornblatt đứng dậy và lên tiếng:
- Tôi không biết các vị thế nào chứ tôi có cảm giác như đang bị câu thúc ấy.
Plumb hỏi:
- Câu thúc à? Nghĩa là sao, thưa bác sĩ Kornblatt?
- Này nhé, George, đây lẽ ra là cuộc họp của các bác sĩ nhưng ông đã ngang nhiên đi vào và còn chiếm luôn vị trí điều khiển buổi họp.
Plumb lấy tay xoa cằm, nhìn các bác sĩ một lượt, cười rồi lắc đầu.
- Thật ra - Ông ta nói - đó không phải là ý định của tôi.
- Có thể là không, George ạ, nhưng thực tế ông đã hành động như thế.
Plumb bước lên phía trước tới hàng ghế đầu, chọn một chiếc ghế trống và ngồi xuống, khuỷu tay đặt trên đầu gối, bàn tay đỡ cằm trông giống như một "triết gia" đang suy nghĩ.
- Câu thúc - Ông ta nói - tôi thực sự khẳng định điều đó không phải là ý đồ của tôi.
Người đàn ông châu Phi nói:
- Thưa ông George, điều Dan muốn nói...
- Không cần phải giải thích nữa, thưa bác sĩ Runge. Sự việc bi thảm xảy ra với bác sĩ Ashmore đã khiến tất cả chúng ta rất căng thẳng.
Vẫn tiếp tục tư thế của một triết gia suy tư, Plumb quay lại nói với Kornblatt:
- Tôi phải nói điều này, thưa bác sĩ, rằng tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi nghe những câu nói đầy bè phái đó từ miệng anh phát ra. Nếu tôi nhớ không lầm thì tháng trước chính anh đã thảo ra bản ghi nhớ kêu gọi tăng cường giao tiếp giữa ban quản trị và đội ngũ nhân viên chuyên môn. Tôi nghĩ từ mà anh đã sử dụng là "thụ tinh chéo" có đúng không?
- Tôi đang nói về chuyện đưa ra quyết định ở đây, thưa ông George.
- Thì đó cũng chính là điều tôi đang muốn làm tại đây, thưa bác sĩ Kornblatt. Đó là "thụ tinh chéo" đối với các quyết định về an ninh. Theo tinh thần đó, tôi muốn nhắc lại quyết định về an ninh - với tất cả mọi người: Hãy đưa ra đề xuất an ninh riêng của mỗi người. Nếu ai có được giải pháp toàn diện như của chúng tôi mà chi phí lại rẻ hơn hoặc bằng thì ban quản trị và ban giám đốc sẽ rất vui lòng xem xét để áp dụng. Tôi chỉ muốn nói như vậy thôi. Tôi nghĩ không cần phải nói với quý vị về tình hình tài chính của bệnh viện hiện nay. Số tiền 400 ngàn đôla đó chắc là phải lấy từ đâu đó rồi.
- Chắc chắn là đánh vào khoản chăm sóc bệnh nhân thôi - Kornblatt nói.
Plumb cười:
- Như tôi đã nói rồi, việc giảm các khoản chăm sóc bệnh nhân luôn là giải pháp bất đắc dĩ không ai muốn. Nhưng mỗi tháng chúng ta phải trả nhiều chi phí. Điều này chẳng phải lỗi của anh cả mà là một thực tế hiện nay. Thực ra, có lẽ có tốt hơn nếu tôi bỏ qua vấn đề cái chết của bác sĩ Ashmore và bàn bạc vấn đề này trong một diễn đàn mở. Nói chung, vấn đề tài chính và an ninh luôn đi kèm với nhau - cả hai đều bắt nguồn từ các vấn đề dân số nằm ngoài tầm kiểm soát của tất cả chúng ta.
- Vậy là phí cộng đồng không thu được nữa à? - Spironi hỏi.
- Thật không may, thưa bác sĩ, phí cộng đồng đã không còn tồn tại nữa.
- Vậy ông có đề xuất gì? - Elaine nói - Đóng cửa ư?
Plumb quay ngoắt ánh mắt sang chị ta.- Ông ta đứng dậy vuốt chiếc caravat cho thẳng ra và thở dài:
- Điều tôi đề nghị, thưa bác sĩ Eubanks, là chúng ta cùng phải nhận thức đầy đủ cho dù hơi đau đớn về những thực tế, dù muốn dù không, đang kìm hãm chúng ta. Những vấn đề riêng của từng bệnh viện làm tồi tệ thêm tình hình vốn đã tồi tệ trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ của thành phố này, bang này và về một phương diện nào đó là cả đất nước này. Tôi đề nghị tất cả chúng ta sẽ cùng nhau hợp sức trong một khuôn khổ thực tế để duy trì sự hoạt động cầm chừng của cái bệnh viện này.
- Cầm chừng ư? - Kornblatt hỏi - Nghe có vẻ như thu nhập của chúng tôi sắp tới sẽ bị cắt giảm đi ấy, thưa ông George. Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, lại cắt giảm biên chế, giống như đã làm đối với khoa Tâm thần ư? Hay sẽ phải cắt giảm ở tất cả các khoa, giống như những tin đồn mà chúng tôi đã nghe thấy lâu nay?
- Tôi thực sự cho rằng lúc này chưa thích hợp để bàn về việc đó một cách chi tiết - Plumb đáp.
- Tại sao chưa chứ? Đây là một diễn đàn mở rộng cơ mà.
- Đơn giản vì lúc này chưa có số liệu gì cả.
- Vậy là ông không phản bác ý kiến cho rằng sẽ có một vài cắt giảm trong thời gian tới đúng không?
- Tôi không phản đối, Daniel ạ - Plumb đáp, hai tay chắp sau lưng - Nếu tôi phủ nhận ý kiến đó thì tôi là người không nói thật. Tôi không phủ nhận nhưng cũng không khẳng định gì, bởi vì dù khẳng định hay phủ nhận ý kiến đó đều là một hành động tổn thương đến quý vị và đến tổ chức của bệnh viện. Lý do tôi tới dự cuộc họp này của quý vị là để tưởng nhớ bác sĩ Ashmore và để bày tỏ sự đoàn kết của tôi cũng như của tập thể bệnh viện nói chung với người quá cố. Bản chất chính trị của cuộc họp này không hề được thông báo trước cho tôi và nếu tôi biết rằng mình có hành động không nên không phải thì tôi đã tránh xa trước rồi. Vậy nên xin quý vị tha thứ cho sự đường đột của tôi. Còn bây giờ, nếu tôi không nhầm thì hình như bên ngoài có mấy vị tiến sỹ đang đợi tôi - Ông ta liếc nhanh sang tôi - Chúc quý vị một ngày tốt lành.
Ông ta vẫy tay chào và lao nhanh về phía cầu thang.
Người đàn ông châu Phi nói:
- Kìa ông George - à bác sĩ Plumb?
Plumb dừng bước và quay lại:
- Có chuyện gì thế, bác sĩ Runge?
- Chúng tôi - tôi xin thay mặt toàn bộ những người ở đây nói điều này với ông - rằng chúng tôi đánh giá cao sự có mặt của ông hôm nay.
- Cảm ơn anh, John.
- Có lẽ nếu như cuộc họp này tạo ra được sự giao tiếp nhiều hơn giữa ban giám đốc, ban quản trị và đội ngũ bác sĩ thì cái chết của bác sĩ Ashmore đã có được một chút ý nghĩa.
- Chúa sẵn lòng giúp chúng ta như vậy, John ạ. - Plumb đáp và ra đi.
Sau khi Plumb đi, cuộc họp mất luôn sự hào hứng. Một số bác sĩ ở lại tụ thành các nhóm để bàn bạc, còn hầu như mọi người cũng giải tán hết. Trong lúc tôi ra khỏi phòng thì bất chợt nhìn thấy Stephanie đang đi lại trong hành lang.
- Đã kết thúc chưa? - Cô hỏi và rảo bước nhanh hơn - Tôi bị giữ lại nên đến muộn.
- Kết thúc rồi. Nhưng cũng chẳng có gì nhiều để cô cảm thấy phải hối tiếc là đã không dự cuộc họp đâu. Dường như không ai có gì nhiều để nói về bác sĩ Ashmore. Cuộc họp đã biến thành cuộc đấu tố nhỏ chống lại ban quản trị. Rồi Plumb xuất hiện và khiến mọi người mất hết hứng bằng cách nhận sẽ thực hiện tất cả những yêu cầu của mọi người.
- Ví dụ?
- Tăng cường an ninh chẳng hạn - Tôi kể cho cô nghe về toàn bộ diễn biến cuộc họp, rồi chuyện tranh luận giữa Plumb và Kornblatt.
- Bức tranh sáng hơn rồi - Stephanie nói - Cuối cùng dường như chúng ta đã tìm thấy điều gì đó cụ thể với Cassie. Hãy xem đây.
Stephanie cho tay vào túi và móc ra một mẩu giấy. Tên của Cassie và số đăng ký ở bệnh viện được ghi ở trên cùng, phía dưới là một cột các con số.
- Mới tinh, được lấy từ phòng thí nghiệm vào sáng nay đấy.
Cô chỉ vào một con số.
- Lượng đường huyết thấp - hay giảm đường huyết. Điều này có thể là lời giải thích dễ dàng cho chứng bệnh nói chung của con bé rồi, Alex ạ. Điện tâm đồ không có khu tập trung và có rất ít các bất thường về sóng não. Bogner nói rằng đây là một trong những hồ sơ được đưa ra công khai để tìm câu giải thích. Tôi chắc là anh đã biết chuyện gì thường xảy ra với trẻ em rồi đấy. Vì vậy, nếu không tìm ra được chuyện con bé bị hạ đường huyết thì chúng tôi chắc chỉ còn đường chui xuống đất.
Stephanie đút mảnh giấy vào túi.
Tôi hỏi:
- Trong các xét nghiệm trước đó của con bé chưa từng phát hiện ra chuyện hạ đường huyết đúng không?
- Đúng, và tôi đã kiểm tra rất kỹ. Khi phát hiện ra hiện tượng co giật ở một đứa trẻ thì điều đầu tiên các bác sĩ thường xem xét là sự cân bằng canxi và đường trong máu. Người không có chuyên môn thì xem nhẹ chuyện giảm đường huyết nhưng ở trẻ nhỏ, giảm đường huyết có thể làm cho hệ thần kinh tổn thương nặng. Cả hai lần sau những cơn co giật, Cassie đều có mức đường huyết bình thường, nhưng tôi đã hỏi Cindy xem trước khi đưa con bé vào cấp cứu thì chị ta có cho nó uống gì không, chị ta nói rằng có cho uống nước sinh tố và soda. Cũng là chuyện đáng làm thôi. Khi thấy trẻ bị mất nước thì phải cho nó uống nước. Nhưng điều đó và quãng thời gian trên đường tới đây có thể làm cho các xét nghiệm không chính xác. Vì vậy, có khi con bé bị co giật ngay tại bệnh viện lại là chuyện tốt vì như vậy có thể làm ngay các xét nghiệm.
- Thế có biết tại sao lượng đường huyết của con bé lại thấp không?
Stephanie nhìn tôi nghiêm nghị:
- Vấn đề là ở đó, anh Alex ạ. Bệnh thiếu máu nặng đi cùng với co giật thường thấy ở trẻ sơ sinh nhiều hơn ở trẻ đã biết đi. Các trẻ sinh non, trẻ của những bà mẹ mắc bệnh tiểu đường thường bị những bệnh ảnh hưởng xấu tới tuyến tuỵ. Ở những trẻ khác, ta sẽ dễ dàng nghĩ ngay đó là do bị truyền nhiễm. Lượng bạch cầu của Cassie bình thường, nhưng có thể chúng ta chỉ thấy được những hiệu ứng còn lại thôi. Sự tổn thương dần dần tuyến tuỵ có thể do một bệnh truyền nhiễm cũ gây ra. Tôi cũng không thể loại bỏ các rối loạn về trao đổi chất, mặc dù đã kiểm tra khi con bé gặp vấn đề về hô hấp. Có thể con bé mắc một vấn đề hiếm về đường huyết mà chúng ta chưa từng gặp.
Cô ngước nhìn lên và thở dài:
- Cũng có khả năng là có khối u tuyến tiết insulin. Nếu vậy thì thật là tin không tốt.
- Thì chẳng có gì nghe có vẻ là tin tốt cả - Tôi đáp.
- Tất nhiên, nhưng ít nhất chúng ta sẽ biết mình đang làm gì.
- Thế cô đã nói với Cindy và Chip chưa?
- Tôi đã nói với họ rằng đường huyết của Cassie rất thấp và con bé có thể không có chứng động kinh kinh điển nào. Tôi thấy không cần thiết phải đi vào chi tiết trong khi chúng ta đang cố gắng chẩn đoán.
- Thế họ phản ứng ra sao?
- Cả hai người bọn họ đều thụ động - mệt mỏi. Giống như "hãy đấm thêm cho tôi một cú nữa vào mặt". Không ai trong số họ được ngủ ngon tối hôm trước cả. Người chồng liền đi làm việc ngay còn chị vợ thì lăn ra ngủ.
- Còn Cassie thì sao?
- Vẫn còn ngủ gà ngủ gật. Chúng tôi đang cố gắng để ổn định đường huyết của con bé.
- Thế con bé cần phải làm gì nữa, tiếp tục theo các thủ tục điều trị, theo dõi?
- Còn phải xét nghiệm máu, chụp X-quang ruột con bé. Có thể cuối cùng lại phải mổ ra xem bên trong đó có gì không - để được tận mắt thấy tuyến tuỵ của nó hoạt động bình thường. Nhưng thời gian còn dài. Cần phải trở lại với Torgeson đã. Ông ta đang xem xét các phác đồ điều trị trong văn phòng của tôi. Hoá ra ông ta lại là người khá hay, không hề khách sáo tí nào.
- Thế ông ấy có xem xét cả phác đồ của Chad không?
- Tôi yêu cầu nhưng người ta không tìm thấy.
- Tôi biết - Tôi đáp - Tôi cũng đang tìm đây. Có ai đó tên là Kent Herbert đã lấy nó đi rồi. Người này làm việc cho Ashmore thì phải.
- Herbert à? - Cô ngạc nhiên - Tôi chưa từng nghe nói tới người này bao giờ. Tại sao Ashmore lại cần tới phác đồ chứ, mà ngay từ đầu ông ta có hứng thú với chuyện này đâu?
- Thật là một câu hỏi hay.
- Tôi sẽ tra xét kỹ việc này. Còn bây giờ, xin hãy tập trung vào hệ thống trao đổi chất của Cassie.
Chúng tôi cùng đi về phía cầu thang.
Tôi hỏi:
- Liệu hiện tượng giảm đường huyết có thể giải thích cho các vấn đề khác được không - vấn đề khó thở và đi ngoài ra máu ấy?
- Không trực tiếp, nhưng tất cả các vấn đề có thể là biểu hiện của quá trình nhiễm bệnh nói chung hay một hội chứng hiếm gặp. Những căn bệnh mới luôn luôn đến với chúng tôi - và mỗi lần phát hiện enzyme nào đó thì chúng tôi cũng lại tìm ra người không có thứ enzyme ấy. Cũng có thể đây là một trường hợp không điển hình của cái mà chúng tôi đã cố công tìm kiếm nhưng lại không có trong máu của con bé, vì lý do gì thì có trời mới biết.
Stephanie nói nhanh và to. Cô tỏ ra hài lòng khi nói về những vấn đề thường gặp trong bệnh viện.
- Cô có còn muốn tôi tiếp tục tham gia vào vụ này không? - Tôi hỏi.
- Đương nhiên là còn. Tại sao anh lại hỏi vậy?
- Có vẻ cô đã không còn trung thành với giả thiết về hội chứng tâm lý Munchausen nữa và nghĩ rằng đây là một căn bệnh có thật.
- Mong sao đó là một căn bệnh thật sự và có thể điều trị được. Nhưng ngay cả khi sự thật là như thế thì có lẽ chúng ta đang phải đối mặt với căn bệnh kinh niên. Vì vậy, họ có thể sử dụng các thiết bị hỗ trợ, nếu anh không phiền.
- Tất nhiên.
- Cảm ơn nhiều.
Sau khi xuống khỏi cầu thang tới tầng tiếp theo, tôi hỏi:
- Liệu Cindy hay ai đó khác có thể gây ra chứng hạ đường huyết cấp không?
- Tất nhiên là có. Chị ta chỉ cần tiêm cho con bé một mũi insulin vào nửa đêm thôi. Tôi cũng đã nghĩ tới điều đó rồi. Nhưng việc đó đòi hỏi phải có những hiểu biết sâu sắc về cả thời điểm lẫn liều lượng thuốc sử dụng.
- Nghĩa là phải thực tập việc tiêm rất lâu phải không?
- Tiêm thẳng vào con bé thôi bởi vì Cindy cũng có rất nhiều thời gian bên con mình. Nhưng với phản ứng gay gắt của Cassie đối với kim tiêm thì nếu bà mẹ chọc kim tiêm vào nó thì liệu con bé có ngồi yên mỗi khi nhìn thấy mẹ nó không? Mà tôi là người duy nhất con bé đó sợ hãi... Hơn nữa, tôi chưa phát hiện ra vết tiêm bất thường nào trên cơ thể con bé.
- Liệu có dễ nhận ra những vết tiêm này không khi mà trên người con bé đã có bao nhiêu vết tiêm chích rồi?
- Tất nhiên là không dễ nhận ra, nhưng tôi luôn cẩn thận khi khám bệnh, anh Alex ạ. Lúc nào cơ thể con bé cũng được soi xét kỹ lưỡng.
- Liệu insulin có thể đưa vào cơ thể nó ngoài đường tiêm không?
Stephanie lắc đầu. Chúng tôi tiếp tục đi xuống.
- Đúng là có các chất uống vào làm cho đường huyết hạ xuống nhưng nếu có thì hội đồng độc tốt đã phát hiện ra rồi.
Nghĩ tới chuyện Cindy bị sa thải khỏi quân đội vì vấn đề sức khoẻ, tôi hỏi:
- Trong gia đình con bé có ai bị bệnh tiểu đường không?
- Anh nghĩ Cassie có cùng kiểu insulin như của ai đó à? - Stephanie lắc đầu - Ngay từ lúc đầu, khi xem xét hệ trao đổi chất của Cassie, chúng tôi đã yêu cầu luôn cả Cindy và Chip cùng làm xét nghiệm. Kết quả bình thường.
- Thôi rồi - Tôi nói - Vậy thì mong sao chúng ta gặp may trong việc tìm ra lời giải đáp.
Stephanie dừng lại và hôn nhẹ lên má tôi.
- Tôi rất cảm ơn về những nhận xét của anh, anh Alex ạ. Tôi rất thích thú được làm việc với vấn đề sinh hoá. Có lẽ tôi đang có nguy cơ bị giảm thiểu tầm nhìn rồi.
Trở lại tầng hai, tôi hỏi người lính gác nơi đặt văn phòng nhân sự của bệnh viện. Anh ta nhìn tôi từ đầu tới chân một lượt rồi mới cho biết nó ở ngay tầng hai này.
Hoá ra chính là nơi mà tôi vẫn còn nhớ chính xác. Hai người phụ nữ đang ngồi trước hai chiếc máy chữ. Người thứ ba đang xếp sắp giấy tờ. Người này đi lại chỗ tôi. Bà ta chừng năm mươi tuổi, tóc cứng, mặt lưỡi cày. Bên dưới tấm thẻ nhân sự của bà ta là cái phù hiệu hình tròn có vẻ đã cũ in hình con chó chăn cừu bù xù.
Tôi nói với bà ta rằng tôi muốn gửi thiệp chia buồn tới quả phụ của bác sĩ quá cố Ashmore và ngỏ ý xin địa chỉ của ông ta.
Bà ta đáp:
- Ôi, được. Thật kinh khủng phải không? Không biết nơi này sắp tới sẽ ra sao nữa?
Vừa nói bà ta vừa mở một chiếc kẹp tài liệu to bằng cuốn danh bạ điện thoại.
- Của ông đây, thưa bác sĩ - đường Bắc Whittier Driver, qua dãy Beverly Hills - một khu bất động sản lớn đáy. Dãy nhà số 900 ở ngay đường Sunset. Thật là đỉnh của các đỉnh. Ashmore đã sống không chỉ bằng tiền trợ cấp nghiên cứu đâu.
Người thư ký thở dài:
- Thật tội. Đấy, ông thấy không, ở đây thật không dễ tìm được sự an toàn.
Tôi hỏi:
- Thật thế sao?
- Chả thế là gì?
Chúng tôi cùng mỉm cười ý nhị với nhau.
- Con chó đẹp quá - Tôi nói và chỉ tay vào tấm phù hiệu.
Bà ta cười:
- Đó là cục cưng của tôi đấy - người bảo vệ cho tôi. Tôi nuôi toàn những con kiểu Anh cổ thực sự, vì nó có tính cách tốt và biết làm việc có ích.
- Nghe có vẻ ngồ ngộ nhỉ?
- Còn hơn thế nữa ấy chứ. Những con thú cho mà không hề mong đợi sẽ được đền đáp lại. Chúng ta có thể học được ở chúng khá nhiều điều đấy.
Tôi gật đầu:
- Tôi xin hỏi thêm một câu nữa. Bác sĩ Ashmore có làm việc cùng ai không - bác sĩ Kent Herbert gì đó phải không? Hiện đội ngũ nhân viên của bệnh viện muốn thông báo cho ông này về số tiền gây quỹ từ thiện được lập ra để tưởng nhớ tới bác sĩ Ashmore nhưng không ai biết ông ta đâu cả. Tôi đã được chỉ định tìm kiếm ông ta. Nhưng bản thân tôi, thú thực là cũng không chắc chắn ông ta còn làm việc tại đây. Vì thế, nếu bà có được địa chỉ của ông ta thì tôi rất lấy làm biết ơn.
- Herbert à - Bà ta nói - Vậy có phải ông cho rằng ông ta đã bỏ việc?
- Tôi không biết. Tôi nghĩ vào tháng Một và tháng Hai ông ta vẫn còn trong biên chế của bệnh viện. Hi vọng thông tin này có ích đôi chút cho bà.
- Rất có thể. Herbert à... để rồi xem.
Bà ta đi tới bàn làm việc của mình, lôi ra một tập hồ sơ dày cộp từ chiếc giá.
- Herbert hả, hiện tôi có hai người tên là Herbert nhưng chẳng ai trong số họ có vẻ là người mà ông nói tới. Herbert Ronald thì làm dịch vụ ăn uống còn Herbert Dawn thì trong ngành độc học.
- Có thể là Dawn. Độc học là lĩnh vực chuyên ngành của bác sĩ Ashmore mà.
Bà ta nhăn mặt:
- Dawn là tên của một người con gái. Tôi nghĩ là ông đang tìm kiếm một người đàn ông cơ đấy.
Tôi nhún vai hết ý.
- Có lẽ đã có sự nhầm lẫn - vị bác sĩ đưa cho tôi cái tên này không thực sự biết Herbert là ai, vậy nên cả hai chúng ta đều cho rằng người đó là một người đàn ông. Xin lỗi về sự nhầm lẫn này nhé.
- Ông đừng lo ngại về điều đó - Bà ta nói - Tôi không định làm to chuyện này đâu.
- Thế Dawn Herbert này có tên đệm bắt đầu bằng chữ "K" phải không nhỉ?
Bà ta nhìn xuống:
- Đúng rồi đấy.
- Thế thì đúng rồi - Tôi nói - Cái tên mà tôi được trao là D.Kent. Vậy công việc của người này thế nào?
- 533A - để tôi xem nào... - Bà ta lật qua một cuốn khác - Có vẻ như đây là một trợ lý nghiên cứu, bậc một.
- Liệu có thể nào cô ta đã được chuyển tới một khoa khác trong bệnh viện không?
Xem qua cuốn khác, bà ta nói:
- Không. Có vẻ như cô ta thôi không làm ở đây nữa.
- Thế hả... vậy bà có địa chỉ của cô ta không?
- Không, tôi không có. Chúng tôi thường bỏ đi những hồ sơ của cá nhân ba mươi ngày sau khi họ rời bệnh viện - thực sự ở đây chúng tôi đang thiếu chỗ lưu trữ.
- Bà có biết cô ta bỏ việc từ khi nào không?
- Tôi có thể giúp được ông việc này - Bà ta lật qua vài trang và chỉ vào một cái mã mà tôi không hiểu mô tê gì - Đây. Ông đã nói đúng. Cô ta ở đây khoảng trong tháng Hai. Nhưng đó cũng chính là tháng cuối cùng mà cô ta ở đây - lần cuối cùng cô ấy khai báo có mặt là vào ngày 15 tháng Hai và đến ngày 28 thì chính thức bị gạt khỏi bảng lương.
- Ngày 15 à - Tôi lẩm bẩm. Vậy là một ngày sau khi bệnh án của Chad bị lấy đi.
- Đúng ngày đó. Ông nhìn đây. 2 gạch chéo 15 (2/15) đúng không?
Tôi tiếp tục ngồi tán gẫu với bà ta thêm vài phút nữa, nghe bà ta nói chuyện về những con chó của mình. Nhưng đầu óc tôi lại hiện về những con vật hai chân.
Lúc tôi rời khỏi bệnh viện là 3 giờ 45. Cách đó vài bước chân, cảnh sát giao thông đi trên mô tô đang ghi vé phạt cho một y tá vượt ngang đường trái phép. Người y tá có vẻ rất tức giận còn khuôn mặt của viên cảnh sát thì lạnh như tiền.
Giao thông trên đường Sunset bị ngưng lại bởi vụ đâm nhau của bốn chiếc xe hơi. Phía sau là đám hỗn loạn những kẻ hiếu kỳ và những cảnh sát giao thông đang buồn ngủ. Phải mất gần một tiếng tôi mới tới được con đường xanh mướt hàng cây của đại lộ Beverly Hills.
Tôi lái qua những khu cỏ mọc rậm rì từng có ngôi nhà Arden. Cỏ bị khô héo còn cây cối trong khu đất đã chết. Cung điện Địa Trung Hải trước kia là nơi vui chơi của một vị vua Ả rập 20 tuổi rồi sau đó bị ai đó đốt mất. Dù lý do đốt cháy là gì thì người ta vẫn đồn đại rằng việc xây lại và phân chia thành từng khu cung điện đó phải tốn mất nhiều năm.
Một đoạn đường nữa thì tới khách sạn Beverly Hills nơi có những hàng dài xe Limo trắng đậu ở cửa. Có lẽ là trong khách sạn đang tổ chức đám cưới hay đang quảng bá cho một bộ phim mới.
Khi tới đường Whittier Drive, tôi quyết định tiếp tục đi không dừng lại. Nhưng khi mấy chữ trên tấm biển chỉ đường đập vào mắt, tôi lại rẽ sang phải và lái chầm chậm dần vào con phố rợp bóng cây.
Nhà của Laurence Ashmore ở cuối con đường, căn nhà kiểu Georgia bằng đá vôi cao ba tầng trên khu đất rộng ít nhất cũng 360mét vuông. Căn nhà liền một khối vững chắc và sạch sẽ. Một đường cho xe chạy lát gạch xuyên qua thảm cỏ cực kỳ bằng phẳng. Khung cảnh khá đẹp mắt, có cây khô, cây trà, và dương xỉ Hawaii - người Georgia thường thích trồng cây nhiệt đới. Một cây ô liu rủ bóng che kín một nửa bãi cỏ, nửa còn lại tràn ánh nắng vàng.
Bên trái nhà là lói cổng cho xe ra vào có mái che đủ dài để che kín một trong những hàng xe mà tôi nhìn thấy ở khách sạn. Phía sau cái cổng gỗ là những ngọn cây xanh cùng những đám hoa giấy đỏ rực.
Đúng là đỉnh của đỉnh. Dù đổ nát đi nữa thì giá ít nhất cũng là 4 triệu đôla.
Trong lối vào hình tròn dành cho xe hơi có đậu một chiếc xe, đó là con Olds Cutlass, đã năm hoặc sáu năm tuổi rồi. Trước và sau chiếc xe vài trăm mét đều là khoảng không trống rỗng. Không hề có những người mặc bộ đồ đen tưởng niệm hay những vòng hoa trên bậc cửa. Những cánh cửa sổ đều đóng kín; không dấu hiệu nào cho thấy rằng bên trong có người ở. Tấm biển của một công ty an ninh cắm trên bãi cỏ được cắt tỉa gọn gàng.
Tôi tiếp tục lái xe, vòng trở lại, đi qua căn nhà rồi về thẳng nhà mình.
Trong điện thoại chỉ có những cuộc gọi thường kỳ từ những dịch vụ mà tôi thuê; không thấy có tín hiệu từ Fort Jackson. Tôi liền gọi tới căn cứ và yêu cầu gặp đại uý Kart. Ngay lập tức anh ta có mặt.
Tôi nhắc lại cho anh ta biết tôi là ai và nói thêm rằng hy vọng tôi không làm gián đoạn bữa tối của anh ta.
Kart nói:
- Không sao đâu, thưa ông. Tôi cũng đang định gọi cho ông đây. Tôi nghĩ đã tìm ra cái mà ông muốn rồi.
- Thật tuyệt.
- Chờ tôi một giây nhé. Đây rồi. Bệnh cúm và bệnh viêm phổi trong mười năm qua, đúng thế không nhỉ?
- Chính xác rồi.
- Thế thì theo những gì tôi biết, chúng tôi chỉ có một đợt dịch cúm lớn - đó là loại bệnh dịch kiểu Thái ấy - xảy ra vào năm 1973. Nghĩa là trước thời gian mà ông yêu cầu tôi kiểm tra.
- Kể từ đó tới nay không có chuyện gì à?
- Có vẻ là vậy, thưa ông. Và cũng không có bệnh viêm phổi đâu, chấm hết. Tất nhiên những trường hợp cá biệt bị bệnh thì chúng tôi cũng có, nhưng không nghiêm trọng đến mức gọi là dịch đâu. Và chúng tôi cũng lưu giữ các tài liệu cẩn thận lắm. Điều duy nhất chúng tôi thường xuyên lo lắng về mặt bệnh truyền nhiễm là bệnh viêm màng não vi khuẩn. Chắc ông cũng biết căn bệnh này nguy hiểm thế nào ở trong một môi trường kín thế này rồi đấy.
- Tất nhiên rồi - Tôi đáp - Thế đã từng xảy ra trận dịch viêm màng não nào chưa?
- Có một vài trận. Cách đây hai năm thôi. Trước đó là vào năm 1983, rồi 1978 và 1975 cũng có. Có vẻ tôi là người hơi bi quan khi nghĩ về chuyện này. Có lẽ nên nghiên cứu về bệnh này thì hơn, biết đâu ai đó lại có thể phát hiện ra mô thức bệnh học của nó cũng nên.
- Thế những trận dịch ấy có nghiêm trọng không?
- Tôi chỉ được chứng kiến có một trận duy nhất cách đây hai năm và thực sự là nghiêm trọng. Có mấy quân nhân đã bị chết.
- Thế còn các biến chứng, tức là bị tổn thương não bộ hay những chứng rối loạn gây co giật thì có ai mắc không?
- Rất có thể. Tôi không có dữ liệu cụ thể trong tay nhưng có thể kiếm được. Hay ông muốn thay đổi đề tài nghiên cứu.
- Vẫn chưa - Tôi nói - Tôi chỉ hơi tò mò chút thôi.
- Vậy thì - Anh ta nói - tò mò cũng là một điều hay đấy. Chí ít thì cũng không sao trong thế giới dân sự.
Stephanie đã có những dữ liệu cụ thể của cô, và tôi cũng có dữ liệu của riêng mình.
Vậy là Cindy đã nói dối về việc chị ta bị loại khỏi quân đội.
Có thể Laurence Ashmore cũng đã biết được một vài dữ liệu. Biết đâu khi ông ta trông thấy tên Cassie trong giấy nhập viện và giấy ra viện nên đã tò mò.
Vậy thì chuyện gì đã khiến ông ta phải tiếp tục xem xét hồ sơ bệnh án của Chad Jones?
Bây giờ thì Ashmore đã không có cơ hội để giải thích, nhưng còn người phụ tá của ông ta thì sao?
Tôi gọi tới số 213, 310, 818 để xin một danh sách các tên Dawn Kent Herbert nhưng không tìm được gì. Tôi gọi tiếp tới các số 805, 714, và 619 nhưng cũng nhận được kết quả tương tự. Cuối cùng, tôi gọi cho Milo tại Trung tâm Parker. Anh nói:
- Tối qua tôi đã nghe về vụ án giết người mà anh nói tới rồi.
- Tôi đang ở bệnh viện thì chuyện đó xảy ra - Tôi kể lại cho anh nghe về cuộc thẩm vấn và cảnh tượng trong hành lang cũng như cảm giác bị theo dõi khi tôi lái xe ra khỏi khu đậu xe.
- Anh phải cẩn thận, anh bạn ạ. Tôi đã nhận được lời nhắn của anh và kiểm tra chồng của Bottomley nhưng không hề có dữ liệu nào về chuyện họ gọi tới cảnh sát vì có những xung đột bạo lực trong gia đình. Trong dữ liệu của Trung tâm Tội phạm Quốc gia cũng không có ai là chồng của bà ta. Nhưng đúng là cuộc sống của bà ta đang gặp một vài khó khăn. Reginald Douglas Bottomley làm trong ngành xử lý chất thải D.O.B năm 1970. Có thể đây là con trai hay là cháu trai hư hỏng của bà tay đấy.
- Thế nó đã làm chuyện gì khiến bà ấy khó xử vậy?
- Rất nhiều. Hồ sơ của nó đủ dài để phủ kín một chiếc giường của Abdul - Jabbar. Có hồ sơ phạm tội vị thành niên, uống rượu rồi lái xe, chứa chấp hàng cấm, trộm cắp cửa hàng, ăn cắp vặt, trộm đêm, cướp giật, tấn công người khác. Rất nhiều vụ phá phách, đã từng bị kết án vài lần, có một thời gian ngắn ở tù, tại nhà tụ quận hẳn hoi. Tôi đã phải viện tới một thanh tra cảnh sát của Foothill để có được thông tin về bà ta đấy. Thế chuyện gia đình của Bottomley có liên quan gì tới đứa trẻ?
- Tôi cũng chưa biết được - Tôi đáp - Chỉ muốn xem có yếu tố stress nào khiến bà ta có hành động bất thường không thôi. Cũng có thể do bà ta đã làm tôi bực mình nên tôi muốn tìm hiểu về bà ta. Tất nhiên, nếu vì bà Vicki đã đánh đập khiến thằng Reginald trở nên tồi tệ thì chúng ta cũng có được chút manh mối đấy. Bản thân tôi đang có một vài thông tin rất có giá trị. Cindy Jones đã nói dối về việc chị ta bị đuổi khỏi quân đội. Tôi đã nói chuyện với Fort Jackson và vào năm 1983 không hề có trận dịch viêm màng phổi nào xảy ra ở đó.
- Thế ư?
- Có thể cô ta đã bị bệnh viêm phổi, nhưng không hề nằm trong trận đại dịch nào cả. Vấn đề là chị ta lại nhấn mạnh tới trận đại dịch để giải thích lý do ra khỏi quân đội.
- Thật là một chuyện ngớ ngẩn để đem ra mà nói dối.
- Đó là trò chơi của những người bị Munchausen đấy - Tôi đáp - hoặc có thể chị ta đang che đậy điều gì đó. Nên nhớ, chuyện ra khỏi quân đội là một đề tài nhạy cảm với chị ta - khi nói tới chuyện này, chị ta đỏ mặt và lấy tay vấn tóc. Viên sỹ quan quân y ở căn cứ ấy nói rằng vào năm 1983 đúng là có một trận đại dịch - có thể là vào thời gian ấy Cindy đang còn ở trong quân ngũ. Nhưng đó lại là dịch viêm màng não, nghĩa là có thể dẫn tới co giật. Điều này cho chúng ta manh mối dẫn tới một hệ thống nội tạng khác mà con bé Cindy đang gặp vấn đề. Thực ra, tối qua, con bé đã có một trận co giật rất mạnh. Ngay tại bệnh viện.
- Đó là trận co giật đầu tiên ở bệnh viện đấy nhỉ.
- Đúng thế. Lần đầu tiên có người ngoài Cindy được chứng kiến.
- Lúc đó còn có ai chứng kiến nữa?
- Bottomley và người y tá trực phòng. Nhưng điều thú vị là ở chỗ: ngày hôm qua Cindy cứ khăng khăng với tôi về việc Cassie luôn mắc bệnh ở nhà và rồi nhanh chóng khỏi khi đến bệnh viện. Vì vậy mà mọi người cứ nghĩ chị ta điên. Và rồi vài tiếng sau đó thì có chuyện. Các xét nghiệm tại phòng thí nghiệm khẳng định rằng con bé bị hạ đường huyết cấp. Stephanie cũng khẳng định rằng tình trạng của con bé đúng là có bệnh. Nhưng anh Milo ạ, bệnh hạ đường huyết lại có thể làm giả được bằng cách thay đổi lượng đường trong máu, chẳng hạn tiêm vào đó một liều insulin thôi. Tôi đã thắc mắc điều này với Stephanie nhưng tôi cho rằng cô ta không để ý tới. Lúc này cô ta như người say ấy, cố tìm xem có căn bệnh hiếm thấy nào trong hệ trao đổi chất không.
- Cô ta thay đổi ý kiến hơi nhanh nhỉ - Milo nói.
- Tôi không trách gì cô ấy. Sau mấy tháng phải đối mặt với tình trạng này, cô ấy đâm ra chán nản và muốn làm điều gì đó thực sự là chữa trị chứ không muốn theo đuổi trò chơi suy đoán tâm lý nữa.
- Còn anh thì khác...
- Đầu óc tôi hơi đen tối, anh bạn ạ - vì có quá nhiều thời gian bên anh đấy.
- Đúng thế, anh bạn - Milo nói - Mà này, tôi nghĩ chắc anh cho rằng bà mẹ đã mắc căn bệnh viêm màng não đúng không? Co giật - chắc anh nghĩ mẹ nào con ấy chứ gì? Nhưng bản thân anh đâu có rành về cái đó. Và nếu như cô ta có điều gì đó muốn che giấu thì tội gì cô ta phải khơi ra chuyện bị ra khỏi quân đội làm gì?
- Thế tại sao những người bị thẩm vấn của anh lại bịa chuyện? Nếu chị ta là con bệnh Munchausen thì chắc chị ta muốn đùa tôi với một nửa sự thật. Có lẽ cũng cần phải lấy được hồ sơ bị đuổi ra khỏi quân đội của chị ta, anh Milo ạ. Cần phải tìm hiểu kỹ chuyện gì đã xảy ra với chị ta ở Nam California.
- Tôi có thể thử làm chuyện này, nhưng tốn thời gian đấy.
- Còn nữa. Hôm nay tôi đi kiếm hồ sơ khám nghiệm tử thi của Chad Jones nhưng nó đã bị lấy đi. Một phụ tá nghiên cứu cũ của Ashmore đã lấy đi vào tháng Hai và chị ta không trở lại nữa.
- Ashmore à? Có phải người đã bị giết không?
- Chính là người đó. Ông ta là chuyên gia về chất độc. Một năm trước, chính Stephanie đã yêu cầu ông ta xem xét hồ sơ bệnh của Chad Jones khi mà cô ấy bắt đầu thấy nghi ngờ về trường hợp của Cassie. Ông ta đã làm nhưng rất miễn cưỡng - đúng là một nhà nghiên cứu chính cống nên không muốn dính dáng tới bệnh nhân. Và ông ta đã báo cáo lại cho Stephanie rằng ông ta không tìm thấy vấn đề gì cả. Vậy thì tại sao ông ta lại lấy hồ sơ bệnh án đó làm gì chứ, trừ phi ông ta đã phát hiện ra điều gì đó mới về Cassie?
- Nếu ông ta không dính dáng tới các bệnh nhân thì làm sao ông ta lại biết về Cassie được chứ?
- Có thể ông ta đã nhìn thấy tên con bé trên danh sách nhập viện và xuất viện. Ngày nào danh sách này chẳng được thông báo và mỗi bác sĩ đều nhận được một bản. Chắc nhiều lần nhìn thấy cái tên này nên ông ta cảm thấy tò mò muốn xem xét lại cái chết của anh trai con bé. Người nữ phụ tá của ông ta là Dawn Herbert. Tôi đã cố liên lạc với cô này nhưng cô ta đã rời khỏi bệnh viện ngay sau khi lấy hồ sơ của Chad đi - đúng là đã có sự chọn lựa thời điểm. Và rồi Ashmore lại bị giết nữa. Tôi không muốn bàn tới chuyện có âm mưu gì ở đây nhưng rõ ràng chuyện này thật khó hiểu, phải không? Herbert là người có thể làm cho mọi chuyện rõ ràng nhưng không hề có địa chỉ hay số điện thoại nào được đăng ký theo tên của cô ta từ Santa Barbara cho tới San Diego.
- Dawn Herbert - Milo đáp - Có phải chữ H trong Hoover không?
- Tên đệm là Kent, K giống như trong từ Duke ấy.
- Được rồi. Tôi sẽ cố tìm xem sao trước khi hết giờ làm.
- Thế thì cho tôi cảm ơn trước.
- Anh hãy cảm ơn tôi bằng một chầu nhậu đi.
- Tôi xin đồng ý.
Tám giờ Milo tới nhà tôi, tay cầm chiếc hộp màu trắng. Bên ngoài cái hộp các tông có hình một người Ai Len đang cười toe toét, tay xoay xoay đĩa bột nhào.
- Bánh pizza à? - Tôi hỏi.
- Ừ, còn anh hãy chờ người ta mang hoá đơn đến để thanh toán nhé.
Milo mang chiếc hộp vào trong bếp, dùng móng tay để cắt dải buộc, nhấc cái nắp lên và lấy một miếng bánh ra đứng ăn tại bàn. Ăn xong, anh lại lấy thêm miếng nữa đưa cho tôi và một miếng cho mình.
Tôi nhìn miếng bánh trên tay, nào là pho mát chảy, lác đác có ít nấm, hạt tiêu, cá bống, xúc xích và rất nhiều thứ mà tôi không xác định nổi là gì.
- Cái gì thế này - dứa nữa à?
- Và cả xoài nữa đấy. Còn đây là thịt Canada, xúc xích lợn và xúc xích Tây Ban Nha. Đấy chính là pizza Pogo-Pogo chính cống đấy. Món ăn của dân chủ thực sự - một bài học về dân chủ trong ẩm thực.
Anh vừa ăn vừa phồng mồm trợn má nói:
- Có một gã người Indonesia bán thứ bánh này ở cái quán ven đường. Nhiều người xếp hàng để mua.
- Và cũng rất nhiều người xếp hàng để nộp phạt vì đậu xe sai quy định đấy.
- Anh nên nói cho đúng chủ đề đi, anh bạn - Nói đoạn, Milo lại tiếp tục chúi mũi vào đống pizza, một tay đặt bên dưới để hứng những giọt pho mát chảy xuống.
Tôi tới tủ và lấy ra hai chiếc đĩa giấy và khăn ăn để lên bàn.
- Chu cha, thật là tốt - Lấy tay lau cằm, anh hỏi tiếp - Uống tí gì chứ nhỉ?
Tôi đem hai lon Coca-Cola từ tủ lạnh.
- Cái này được chưa?
- Nếu lạnh thì được rồi.
Sau khi ăn hết miếng bánh thứ hai, Milo liền mở lon Coca-Cola và uống ừng ực.
Tôi ngồi xuống và cầm một chiếc bánh lên ăn.
- Thật không tồi đâu.
- Milo biết thứ đồ nào là đồ ngon mà - Anh lại uống thêm chút Coca-Cola nữa - Còn về cô Dawn Kent Herbert của anh ấy, tôi chẳng thấy có lệnh bắt hay lệnh truy nã nào với cô ta cả. Đây lại là một cô gái đồng trinh đấy.
Milo cho tay vào túi và lôi ra một tờ giấy đưa cho tôi. Trên tờ giấy có nét chữ đánh máy: Dawn Kent Herbert, làm trong ngành xử lý rác thải độc hại, sinh ngày 13 tháng 12 năm 1963, cao 1mét 65, nặng 60kg, da nâu, tóc nâu, đi xe Mazda Miata.
Bên dưới dòng chữ đó là một địa chỉ ở đường Lindblade, thành phố Culver.
Tôi cảm ơn anh và hỏi xem liệu anh có thông tin gì mới về vụ giết hại Ashmore không.
Anh lắc đầu nói:
- Có vẻ như một vụ cướp vẫn thường thấy ở Hollywood.
- Đúng là một người đáng để mà cướp đấy. Ông ta rất giàu có - Tôi mô tả ngôi nhà ở Bắc Whittier cho Milo.
- Không biết bên nghiên cứu có trả lương hậu hĩnh cho ông ta không? - Anh hỏi.
- Chưa bao giờ những người làm nghiên cứu được trả lương hậu hĩnh cả. Chắc Ashmore phải có nguồn thu nhập nào khác. Điều đó lý giải tại sao bệnh viện này lại thuê ông ta vào thời điểm họ đang cố gắng sa thải các bác sĩ và giảm tiền trợ cấp nghiên cứu. Có lẽ việc ông ta đến đấy đã đem theo một vài món hời nào đó cho bệnh viện.
- Có nghĩa là ông ta đã trả tiền để được vào đó làm việc?
- Chuyện đó không thể loại trừ.
- Vậy tôi hỏi anh điều này nhé - Anh nói - là chuyện anh đặt ra giả thiết Ashmore đã tò mò về trường hợp con bé ấy. Cassie đã ra vào bệnh viện đó ngay từ khi nó sinh ra. Vậy tại sao ông ta phải đợi mãi tới tận tháng Hai mới bắt đầu theo dõi?
- Thật là câu hỏi hay - Tôi khen - Xin chờ cho một giây nhé.
Tôi phóng tới phòng đọc và tìm kiếm mấy tờ giấy mà tôi đã ghi chép được về quá trình điều trị của Cassie. Milo đã ngồi xuống bàn và chúng tôi cùng lật từng trang một.
- Đây rồi - Tôi nói - Ngày đó là mười tháng Hai. Bốn ngày trước khi Herbert lấy đi hồ sơ bệnh án của Chad. Đó là lần nhập viên thứ hai của Cassie vì đau bụng. Chẩn đoán kết luận con bé bị đau bụng vì lý do không rõ ràng, có thể là do vi trùng - biểu hiện chủ yếu là đi ngoài ra máu. Có lẽ điều này đã khiến Ashmore nghĩ tới kiểu đầu độc nào đó. Có thể chuyên môn của ông ta đã không để ông ta khoanh tay trước tình huống này được.
- Nhưng sự thôi thúc ấy không đủ lớn và để ông ta nói chuyện với Stephanie.
- Đúng vậy.
- Vậy nên có thể ông ta đã tìm kiếm nhưng không thấy được gì.
- Thế tại sao không trả hồ sơ bệnh án? - Tôi hỏi.
- Kém trong quản lý gia đình thôi. Lẽ ra Herbert phải mang trả nhưng đã không làm như vậy. Cô ta biết mình sắp đi rồi và quên luôn cả những chuyện hồ sơ, giấy tờ đã mượn.
- Khi nào gặp cô ta tôi sẽ hỏi xem sao.
- Hay. Ai mà biết được, biết đâu cô ta lại cho anh được ngồi lên chiếc Miata của cô ta cũng nên ấy chứ.
- Thế anh có gì mới về Reginald Bottomley không?
- Vẫn chưa có gì. Fordebrand - viên cảnh sát điều tra ở Foothill - đang đi nghỉ vì thế tôi đã phải gửi lại lời nhắn cho gã tạm đảm nhận công việc của anh ta. Hy vọng gã này sẽ hợp tác.
Anh đặt lon nước xuống, nét mặt căng thẳng. Tôi hiểu anh đang nghĩ gì. Anh e ngại nếu viên cảnh sát kia biết được anh là người thế nào thì chắc gã sẽ chẳng thèm trả lời điện thoại.
- Cảm ơn anh nhiều - Tôi nói - về mọi thứ mà anh đã làm.
- Không có gì cả - Anh lắc lắc lon Coca-Cola. Cái lon đã trống rỗng. Anh liền chống cả hai khuỷu tay lên bàn, mặt đối mặt với tôi.
- Có chuyện gì à? - Tôi hỏi.
- Nghe anh nói có vẻ rất chán nản, thất vọng.
- Tôi nghĩ đúng là tôi đang thất vọng đây. Suốt ngày tôi chỉ đưa ra những lý thuyết suông trong khi Cassie lại đang gặp nguy hiểm hàng giờ.
- Tôi hiểu ý anh rồi - Anh đáp - Tốt nhất chúng ta nên tập trung, không nên bị đẩy ra quá xa vấn đề. Với những trường hợp ít có khả năng giải quyết thì nhận chúng quả là hơi liều lĩnh. Mà có trời mới hiểu, với tôi thì những chuyện như thế lại đâu có ít. Đầu tiên anh sẽ cảm thấy bất lực, rồi đến đấm không khí một cách điên cuồng mà vẫn không tìm ra được lời giải nào sáng sủa hơn. Cuối cùng, bản thân anh lại già đi mất mấy tuổi.
Một lát sau, Milo ra về. Tôi gọi điện tới phòng của Cassie. Lúc đó là sau chín giờ nên bệnh viện cắt tất cả các liên lạc trực tiếp với bệnh nhân. Tôi phải khai rõ danh tính của mình với nhân viên tổng đài mới được nối máy. Có tiếng Vicki đáp lời.
- Xin chào, tôi là bác sĩ Delaware đây.
- A... vâng, tôi có thể giúp gì được cho anh không?
- Mọi chuyện ở đó thế nào, thưa bà?
- Vẫn ổn, anh ạ.
- Bà đang ở phòng Cassie phải không?
- Không - ở bên ngoài.
- Tình hình Cassie ra sao rồi?
- Vẫn ổn.
- Nghĩa là đang ngủ à?
- Ư hừ.
- Thế còn Cindy?
- Cô ấy cũng ngủ.
- Thật là một ngày vất vả cho tất cả mọi người nhỉ?
- Ư hừ.
- Gần đây có thấy bác sĩ Eves tới không?
- Bà ấy đến lúc khoảng tám giờ - anh có cần tôi nói chính xác thời gian không?
- Không. Cảm ơn bà. Có gì mới về tình trạng đường huyết của con bé không?
- Có lẽ anh nên hỏi bác sĩ Eves mới phải.
- Thế không có đợt co giật nào mới chứ?
- Không.
- Được rồi - Tôi nói - Hãy nói với Cindy rằng tôi đã gọi tới nhé. Tôi sẽ tới vào ngày mai.
Bà ta cúp máy. Dù biết bà ta hơi kình địch với mình nhưng tôi vẫn có cảm giác kỳ lạ, gần như là sa sút về sức mạnh. Bởi vì tôi biết quá khứ bất hạnh của bà còn bà thì không hề nhận ra điều này. Rồi tôi nhận ra rằng điều đã biết khiến tôi không hề lại gần hơn chút nào với sự thật cả.
Thậm chí còn xa vời là khác. Đúng như Milo đã cảnh cáo.
Tôi ngồi đó, cảm nhận sức mạnh của mình đang dần dần biến mất.
Sáng hôm sau tôi tỉnh giấc bởi ánh sáng của mùa xuân trong lành. Tôi chạy bộ vài cây số, quên đi cảm giác đau giần ở đầu gối và miên man nghĩ về chuyện tối qua giữa tôi và Robin.
Sau khi chạy xong, tôi tắm, cho cá ăn và đọc báo trong lúc ăn sáng. Lại là những tin tức về cái chết của Ashmore.
Tôi gọi điện tới Ban trung tâm thông tin, cố tìm kiếm một số điện thoại khớp với địa chỉ mà Milo đã đưa cho tôi về Herbert. Không hề có số điện thoại nào của địa chỉ ấy nằm trong danh bạ và hai người Herbert kia sống ở Culver City cũng không biết về người nào có họ là Dawn.
Tôi gác máy, tự hỏi liệu gặp được cô ta rồi thì có giải quyết được chuyện gì không. Cứ cho là gặp được cô ta rồi thì biết phải dùng danh phận gì, câu chuyện gì để hỏi cô ta về hồ sơ của Chad?
Tôi quyết định tập trung làm theo những gì đã được đào tạo. Thay quần áo và kẹp tấm phù hiệu bệnh viện vào ve áo, tôi ra khỏi nhà, theo đường Sunset tới Hollywood.
Chỉ vài phút sau tôi đã tới được Beverly Hills và vượt qua đường Whittier Drive mà không đi chậm lại. Bên kia đường có điều gì đó đập vào mắt tôi.
Chiếc xe Cutlass màu trắng đang đi từ phía Đông trở lại. Nó rẽ sang đường Whittier và hướng về khu nhà số 900.
Tôi liền vòng trở lại. Khi tới căn nhà kiểu Georgia to lớn kia, chiếc xe được đậu vào đúng chỗ hôm trước tôi đã thấy. Một người phụ nữ da đen bước ra khỏi xe từ phía tay lái.
Đó là một người phụ nữ còn trẻ, trạc 28, 30, thấp và nhỏ nhắn. Cô ta mặc chiếc váy vải bông màu xám dài tới tận mắt cá chân, đi dép không quai hậu. Một tay cô nàng xách chiếc túi Bullock, còn tay kia cầm chiếc bóp da.
Có lẽ đây là người giữ nhà, tôi đoán vậy. Chắc là cô ta ra ngoài để làm một số việc mua bán cho bà vợ goá của Ashmore.
Vừa lúc cô nàng quay về phía căn nhà thì đã phát hiện ra tôi. Tôi mỉm cười. Vẻ mặt cô nàng bối rối, cô liền chậm bước qua đường vào nhà. Khi tới gần, tôi thấy cô nàng khá xinh xắn, da đen đến mức tôi cứ ngỡ là màu xanh da trời. Khuôn mặt cô tròn, cằm vuông, nhìn chung là có vẻ sáng sủa và sạch sẽ giống như đeo chiếc mặt nạ của người Nubia. Đôi mắt to, tò mò nhìn thẳng vào tôi.
- Xin chào ông. Phải chăng ông từ bệnh viện tới? - Giọng Anh, được đào tạo rất bài bản.
- Vâng, đúng thế - Tôi đáp, cảm thấy thật kỳ lạ nhưng rồi nhận ra rằng cô nàng đã nhìn phù hiệu của tôi trên ve áo.
Đôi mắt cô nàng hấp háy, rồi mở to. Xung quanh mắt có vết tím. Chắc chắn là cô ta đã khóc rất nhiều. Đôi môi cũng hơi run run.
- Thật cảm kích vì ông đã tới - Cô nói.
- Tôi là Alex Delaware - Tôi giới thiệu và chìa bàn tay ra ngoài cửa sổ xe. Cô đặt chiếc túi mua hàng xuống bãi cỏ và bắt lấy tay tôi. Bàn tay cô nhỏ, khô và rất lạnh.
- Tôi là Anna Ashmore. Tôi không nghĩ lại có người tới sớm thế này.
Biết nhận định của mình sai, tôi hơi xấu hổ nhưng cũng nhanh miệng nói:
- Tôi và bác sĩ Ashmore thực ra không phải là chỗ thân tình cá nhân đâu, nhưng tôi thực lòng muốn tới viếng ông ấy.
Cô ta liền để cho bàn tay rơi thõng xuống. Xung quanh đâu đó có tiếng máy cắt cỏ kêu.
- Chúng tôi không tiến hành nghi thức nào cả. Chúng tôi không phải là người theo đạo.
Cô quay lại phía căn nhà.
- Xin mời ông vào nhà!
Phòng khách có tới hai tầng, sàn lát đá hoa cương màu sữa. Tay vịn cầu thang bằng đồng rất đẹp và cầu thang lát đá hoa cương uốn hình xoáy ốc lên tầng hai. Bên phải là phòng ăn màu vàng rộng rãi có những đồ mới tinh màu đen bóng mà người giữ nhà thực sự đang lau chùi. Phía sau cầu thang, bức tường cũng đầy những tác phẩm nghệ thuật của Ba-tích châu Phi và tranh đương đại. Qua cầu thang, một hành lang ngắn dẫn tới cánh cửa thuỷ tinh, làm khung luôn cho tấm bưu thiếp lớn của California - bức tranh phong cảnh hữu tình mà tôi vẫn thấy bày bán ngoài đường phố.
Người hầu gái từ trong phòng ăn đi ra nhận lấy túi đồ của Ashmore. Anna Ashmore cảm ơn cô hầu gái xong liền chỉ tay về bên trái tới phòng khách rộng cỡ bằng hai phòng ăn, nền thấp hơn phòng ăn khoảng hai bậc.
- Xin mời ông đi lối này - Nói rồi cô đi xuống và bật công tắc khiến rất nhiều đèn bừng sáng.
Một góc nhà là chiếc piano lớn. Tường phía đông là những cánh cửa sổ lớn đang đóng để lọt vào những tia nắng như những lưỡi dao. Sàn nhà được lát gỗ màu vàng và trải thảm màu nâu của Arập. Trần nhà ốp gỗ màu trắng, bên trên những bức tường vữa màu vàng lại là những tác phẩm nghệ thuật, vẫn những bức tranh sơn dầu và thảm phong cảnh. Tôi nghĩ đã phát hiện ra một bức tranh của Hockney ở bên trái cái lò sưởi bằng đá granite.
Căn phòng lạnh lẽo và đầy đồ đạc khiến tôi có cảm giác đó là một trung tâm thiết kế. Ghế sôpha bọc da trắng của Italia, cái ghế đẩu Breuer màu đen, mấy chiếc bàn giả cổ bằng đá và vài cái bàn khác nhỏ hơn có chân bằng đồng, mặt kính. Một trong số những chiếc bàn đá ấy được đặt trước những chiếc ghế sôpha lớn nhất. Giữa mặt bàn là chiếc bát lớn bằng gỗ nghiến đựng đầy táo và cam.
Ashmore lại nói:
- Xin mời ông - Và ngồi xuống chiếc ghế phía sau cái bát đựng hoa quả.
- Tôi lấy thứ gì cho ông uống nhé?
- Không, xin cảm ơn cô.
Cô liền ngồi ngay trước mặt tôi, mặt đối mặt, im lặng.
Một lúc bằng khoảng thời gian đi từ phòng ngoài vào đây, mắt cô đã ngấn lệ.
- Tôi xin được chia sẻ sự mất mát của cô và gia đình - Tôi nói.
Cô lau nước mắt bằng một ngón tay và ngồi thẳng người lên.
- Cảm ơn ông đã tới.
Căn phòng tràn ngập không khí tĩnh lặng khiến tôi càng có cảm giác lạnh lẽo hơn. Cô nàng lại đưa tay lau mắt và rồi đan những ngón tay vào nhau.
Tôi khen:
- Căn nhà của vợ chồng cô đẹp quá.
Cô nàng giơ tay lên và làm một động tác bất lực:
- Tôi không biết sẽ phải làm gì với nó nữa, thưa ông.
- Cô đã sống ở đây lâu chưa?
- Mới chỉ một năm. Larry là chủ sở hữu của căn nhà này trước đó rất lâu rồi, nhưng chúng tôi không sống cùng với nhau ở đây. Khi chúng tôi tới California, Larry nói rằng chúng tôi nên cùng nhau tới sống tại đây.
Cô nàng nhún vai và lại giơ hay tay lên vẻ bất lực rồi buông thõng xuống đầu gối.
- Quá lớn, thực sự rất lố bịch... chúng tôi đã bàn tới chuyện bán căn nhà này... - Cô lắc đầu - Ôi, mời ông, ông dùng thứ gì đó đi.
Tôi cầm một quả táo và gặm. Thấy tôi ăn, cô nàng có vẻ rất hài lòng.
- Thế ban đầu vợ chồng cô từ đâu chuyển tới đây? - Tôi hỏi.
- Từ New York.
- Thế trước đó bác sĩ Ashmore từng sống ở Los Angeles đúng không?
- Không, nhưng ông ấy thường tới đây để mua nhà - ông ấy có rất nhiều nhà. Nhà của ông ấy ở khắp đất nước. Đó là... công việc của ông ấy.
- Mua bán bất động sản ư?
- Mua và bán. Đầu tư. Từng có lúc ông ấy mua cả nhà ở Pháp nữa. Một căn nhà rất cổ. Một vị bá tước đã mua lại căn nhà đó và nói với mọi người rằng dòng tộc của ông ta đã gìn giữ căn nhà đó hàng mấy trăm năm. Larry rất ghét kiểu khoác lác đó. Nhưng ông ấy rất hứng thú với việc mua và bán nhà. Nó mang lại cho ông ấy sự tự do, tự tại.
Tôi hiểu lời cô ta nói vì chính bản thân tôi cũng đã nhờ vào cơn sốt đất để có được sự độc lập về tài chính vào những năm giữa thập kỷ 70. Nhưng tôi hoạt động ở mức độ còn thấp hơn nhiều.
- Trên tầng - Cô nàng nói - hoàn toàn không có gì cả.
- Thế cô sống một mình à?
- Vâng. Chúng tôi không có con cái. Nào, xin mời ông ăn cam đi. Tôi lấy từ cây ở sau vườn đấy. Rất dễ bóc.
Tôi cầm trái cam, bóc vỏ và ăn một múi.
- Tôi chỉ biết có Larry thôi, không biết nhiều người khác - Cô nàng giải thích.
Nhớ lại cô nàng đã nói rằng tôi đến sớm, tôi liền nói:
- Thế đã có ai từ bệnh viện tới đây rồi à?
Cô nàng gật đầu.
- Họ đã đến cùng với món quà - giấy chứng nhận quyên góp cho UNICEF. Họ đã cho đóng khung tờ giấy chứng nhận ấy. Hôm qua một người đàn ông đã gọi điện cho tôi, để kiểm tra xem chuyện đã xong chưa, chuyện góp cho UNICEF ấy mà.
- Một người tên là Plumb phải không?
- Không... tôi không nghĩ thế. Một cái tên dài cơ - nghe như tiếng Đức ấy.
- Phải chăng là Huenengarth.
- Vâng, đúng đấy. Ông ta rất tử tế, nói những điều tốt đẹp về Larry.
Cái nhìn của cô nàng thay đổi, như thể bị mất tập trung, và nhìn vào trần nhà.
- Hay ông cứ để tôi lấy cho ông thứ gì đó để uống nhé.
- Thế thì cho tôi ít nước vậy.
Cô nàng gật đầu và đứng dậy.
- Nếu ông may mắn thì người đưa nước Sparkletts đã tới. Nước ở Beverly Hills không thể dùng được. Chúng tôi dùng nước khoáng, không dùng nước ở đây.
Khi cô nàng đi khỏi, tôi đứng dậy và xem xét các bức tranh. Tất cả đều có chứng nhận của Hockney. Có rất nhiều loại tranh và đồ đạc quý. Rất nhiều thứ tôi không xác định được nguồn gốc. Chúng được xếp cùng với những bức Batích gam màu đất.
Cô nàng quay trở lại với một chiếc ly rỗng không, một chai Perrier và khăn ăn đặt trên cái đĩa hình ôvan.
- Thật tiếc, đã hết nước mát rồi. Tôi nghĩ nước này cũng tốt.
- Không sao, cảm ơn cô.
Cô nàng rót nước ra ly cho tôi và ngồi vào chỗ của mình.
- Tranh đẹp thật - Tôi khen.
- Larry mua từ New York khi ông ấy làm việc tại Sloan-Kettering đấy.
- Viện ung thư phải không?
- Vâng. Chúng tôi đã ở đó bốn năm. Larry rất quan tâm tới bệnh ung thư - về sự gia tăng tần suất xuất hiện bệnh, về kiểu bệnh, về tình hình ô nhiễm của thế giới. Ông ấy rất lo cho thế giới này.
Cô nàng lại nhắm mắt.
- Có phải hai người gặp nhau tại đó không?
- Không. Chúng tôi gặp nhau ở nước tôi - Sudan. Tôi sống tại một ngôi làng ở phía Nam Sudan. Cha tôi là trưởng làng. Tôi đi học tại Kenya và Anh bởi vì những trường đại học lớn ở Khartoum và Omdurman là của người Hồi giáo trong khi gia đình tôi lại theo đạo Thiên chúa. Miền Nam toàn những người theo đạo Thiên chúa và những người theo thuyết vật linh - ông có biết đó là tôn giáo gì không?
- Là những tôn giáo của bộ tộc người cổ xưa.
- Đúng. Cổ xưa, nhưng tồn tại rất lâu. Những người miền Bắc rất ghét điều này - sự tồn tại dai dẳng của nó. Lẽ ra tất cả mọi người phải là người Hồi giáo mới phải. Một trăm năm trước, họ bán những người miền Nam như những nô lệ; bây giờ họ lại cố gắng biến chúng tôi thành nô lệ cho tôn giáo của họ.
Đôi bàn tay cô nắm chặt. Toàn thân vẫn không thay đổi tư thế.
- Thế chắc ông nhà cũng từng nghiên cứu ở Sudan?
Cô gật đầu.
- Ông ấy đi cùng với phái đoàn của Liên Hợp quốc, nghiên cứu về các mô thức phát triển của bệnh dịch - đó là lý do tại sao ông Huenengarth nghĩ rằng quyên góp cho UNICEF là một đóng góp hợp lý.
- Về mô thức phát triển của bệnh dịch à - Tôi lẩm bẩm - Phải chăng đó là dịch tễ học?
Cô gật đầu.
- Ông ấy được đào tạo về độc học và bệnh học môi trường, nhưng chỉ hành nghề trong lĩnh vực ấy một thời gian ngắn. Toán học mới là thứ ông ấy thực sự say mê, và với dịch tễ học, ông ấy có thể kết hợp toán học với y học. Tại Sudan, ông ấy nghiên cứu tốc độ lây lan của vi khuẩn từ làng này sang làng khác. Bố tôi rất thán phục việc làm của ông và giao cho tôi nhiệm vụ giúp ông ấy lấy mẫu máu của trẻ con - trước đó tôi đã học xong y tá tại Nairobi và trở về nhà - Cô mỉm cười - Tôi trở thành phụ tá của Larry - ông không thích làm đau trẻ con. Chúng tôi trở thành bạn của nhau. Rồi những người Hồi giáo tràn tới. Bố tôi bị giết - cả gia đình tôi đều bị giết chết...
Cô kể lại cho tôi nghe bi kịch của gia đình mình bằng giọng rất thật, như thể đời cô đã liên tục phải chịu những sự mất mát lớn. Tôi tự hỏi không biết có phải vì liên tục chịu những đau đớn, mất mát nên cô đã không quỵ ngã trước cái chết của chồng mình, hay nó chỉ làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn.
Cô nói tiếp:
- Bọn trẻ con trong làng... đều bị giết sạch khi người miền Bắc tới, Liên Hợp quốc không làm gì cả, vì thế Larry vô cùng tức giận. Ông ấy quá vỡ mộng với những nhân viên Liên Hợp quốc. Khi chúng tôi tới New York, ông ấy đã viết nhiều thư từ gửi đi các nơi và cố gắng nói chuyện với những người có chức quyền ở đó. Khi họ không chịu tiếp nhận ý kiến của Larry, ông ấy càng tức giận hơn và tính tình trở nên thâm trầm, hướng nội. Đó là lúc ông ấy lao vào mua bán bất động sản.
- Là để làm giảm bớt đi sự tức giận của ông ấy phải không?
Một cái gật đầu rất chắc chắn:
- Nghệ thuật trở thành nơi rút lui của ông ấy, thưa bác sĩ Delaware. Ông ấy gọi đó là nơi cao nhất mà con người có thể đạt tới. Mỗi khi mua được một bức tranh mới, ông ấy liền treo lên và ngắm nhìn hàng giờ đồng hồ. Ông thường nói rằng cần phải bao quanh chúng tôi bằng những thứ không làm tổn thương đến bản thân chúng tôi được.
Cô nàng đảo mắt quanh căn nhà một lượt rồi lắc đầu:
- Giờ ông ấy ra đi để lại toàn bộ những thứ này cho tôi, mà phần lớn những thứ này với tôi là vô nghĩa - Cô lại lắc đầu - Những bức tranh thường gợi tôi nhớ lại sự tức giận của ông ấy - ông ấy là người dễ nổi giận lắm. Kể cả kiếm tiền ông ấy cũng kiếm từ sự giận dữ.
Cô nàng nhận thấy vẻ bối rối của tôi.
- Ôi, xin lỗi đã bắt ông phải nghe câu chuyện của chúng tôi - tôi lại lan man mất rồi. Điều mà tôi muốn nói là cách bắt đầu kiếm tiền của ông ấy. Ông ấy chơi blackjack, rồi những trò chơi may rủi khác. Tuy nhiên, nói là chơi thì cũng chưa hẳn là chính xác đâu - khi đánh bạc, ông ấy ở trong thế giới riêng của mình, ham tới mức quên ăn, quên ngủ.
- Thế ông ấy thường đánh bạc ở đâu?
- Tất cả mọi nơi. Las Vegas, Atlantic City, Reno, Lake Tahoe. Số tiền kiếm được từ đánh bạc, ông ấy lại đầu tư vào những dự án khác - vào thị trường chứng khoán, trái phiếu - Cô vung cánh tay thành một vòng tròn.
- Thế ông ấy có hay thắng không?
- Gần như là luôn luôn thắng.
- Chắc ông nhà phải có hệ thống tính toán thế nào đấy chứ?
- Ông ấy có rất nhiều là đằng khác. Ông ấy dùng máy tính để tạo ra các phép tính. Nói đúng ra, ông là thiên tài toán học, bác sĩ Delaware ạ. Những hệ thống tính toán của ông ấy đòi hỏi một trí nhớ phi phàm, chỉ cần nhẩm tính là ông ấy cũng có thể cộng được cả những cột dài các con số, chẳng khác nào cái máy tính. Cha tôi nghĩ ông ấy là phù thuỷ. Khi chúng tôi lấy mẫu máu trẻ con, tôi yêu cầu ông ấy làm ảo thuật tính toán cho bọn trẻ. Chúng xem và đứa nào đứa nấy đều ngây người ra, ngỡ ngàng đến mức không còn cảm thấy kim tiêm chọc vào người mình.
Cô nàng cười và lấy tay che miệng.
- Ông ấy nghĩ rằng có thể làm thế mãi. Cô nói và ngẩng mặt lên - tức là làm giàu bằng bài bạc ấy. Nhưng rồi bọn họ phát hiện ra và xin ông ấy đi chỗ khác cho họ còn làm ăn. Đó là ở Las Vegas. Ông ấy liền bay tới Reno nhưng sòng bạc ở đó cũng biết ông ấy rồi. Larry vô cùng tức tối. Một vài tháng sau đó, ông ấy cải trang rồi trở lại sòng bạc đầu tiên. Ông ấy chơi với số tiền lớn và lại thắng.
Cô nàng nhớ lại những kỷ niệm ấy một lát, miệng tủm tỉm cười. Được giãi bày tâm sự đã làm cho cô nguôi ngoai đi phần nào nỗi đau. Việc này làm cho sự có mặt của tôi trở nên hợp lý.
- Thế rồi - Cô nói tiếp - ông ấy không chơi nữa. Ông ấy bảo đã chán rồi nên bắt đầu đi vào mua bán bất động sản. Về lĩnh vực này thì ông ấy tài lắm... Tôi chẳng còn biết phải làm gì khi chuyện xảy ra với ông ấy.
- Thế cô có gia đình, người thân nào ở đây không?
Cô lắc đầu và nắm chặt hai tay.
- Không có ở đây và cũng không có ở bất kỳ nơi đâu khác. Bố mẹ ông Larry nhà tôi cũng đã mất cả rồi... thật là trớ trêu quá. Khi những người miền Bắc đến, họ bắn chết phụ nữ và trẻ em. Larry tận mắt chứng kiến cảnh ấy và gào thét vào mặt họ, chửi bới và gọi họ bằng những cái tên kinh khủng nhất. Ông ấy không phải là người to lớn.. mà ông đã gặp ông nhà tôi chưa?
Tôi lắc đầu.
- Ông ấy rất nhỏ - Lại một nụ cười - Rất nhỏ. Khi không có mặt ông ấy, cha tôi thường gọi ông ấy là con khỉ. Tất nhiên là không hề có ác ý. Gọi là khỉ nhưng thâm tâm ông ấy lại nghĩ Larry là một con sư tử. Làng xóm hay lấy chuyện này ra làm chuyện khôi hài nhưng ông nhà tôi chẳng phật lòng. Có lẽ chính những người Hồi giáo cũng tin ông ấy là một con sư tử. Họ chưa bao giờ làm tổn thương tới ông ấy. Họ để ông ấy đưa tôi lên máy bay ra đi. Một tháng sau khi chúng tôi tới New York, tôi bị một tên nghiện chặn cướp. Hãi quá. Những thành phố ấy chưa bao giờ làm cho Larry phải sợ cả. Tôi thường đùa rằng ông ấy làm cho thành phố đó phải sợ. Ông ấy đúng là con khỉ nhỏ ghê gớm. Còn bây giờ...
Cô lại lắc đầu, lấy tay che miệng và nhìn đi nơi khác. Vài giây trôi qua, tôi hỏi:
- Tại sao hai vợ chồng cô lại chuyển tới Los Angeles?
- Larry không thích Sloan-Kettering. Có quá nhiều luật lệ, quá nhiều chính trị. Ông ấy nói rằng chúng tôi nên chuyển tới California. Ông ấy nói ngôi nhà này - ông ấy nghĩ đây là ngôi nhà đẹp nhất, tốt nhất ông ấy có và thật là ngu ngốc lại để cho kẻ khác hưởng thụ trong khi chúng tôi phải sống ở căn hộ. Vì thế ông ấy đuổi người thuê nhà đi - hình như đó là một nhà sản xuất phim đã không chịu trả tiền thuê cho ông ấy.
- Tại sao ông ấy lại chọn làm việc ở Bệnh viện Nhi đồng miền Tây?
Cô nàng ngập ngừng:
- Xin ông đừng giận, thưa bác sĩ, nhưng ông ấy lý luận rằng Bệnh viện Nhi đồng miền Tây là một bệnh viện ... đang suy sụp, gặp vấn đề về tiền. Vì vậy sự độc lập tài chính của ông ấy sẽ cho phép ông ấy được yên tâm làm công tác nghiên cứu.
- Thế ông ấy nghiên cứu về lĩnh vực gì?
- Vẫn như trước, mô thức phát triển bệnh. Tôi không biết nhiều về chuyện nghiên cứu của ông ấy - Larry không thích nói nhiều về công việc của mình - Cô lắc đầu - Ông ấy ít nói chuyện. Sau khi ở Sudan và làm việc với các bệnh nhân ung thư tại New York, ông ấy không hề muốn tiếp xúc với người bệnh và những nỗi đau của họ nữa.
- Tôi từng nghe ông ấy làm việc một mình.
Cô cười hiền:
- Ông ấy thích sống một mình. Ngay cả một thư ký ông ấy cũng không muốn có. Ông ấy nói rằng có thể đánh máy nhanh hơn và chính xác hơn máy chữ của ông ấy. Mà ông hỏi thế chắc có ý gì à?
- Ông ấy có trợ lý nghiên cứu thì phải, tên là Dawn Herbert gì đó.
- Tôi không biết tên những người này đâu, nhưng đúng. Thỉnh thoảng ông ấy có thuê những sinh viên mới ra trường, nhưng họ không bao giờ đáp ứng được các tiêu chuẩn của ông ấy.
- Có phải là trường đại học ở Westwood không?
- Đúng. Trợ cấp nghiên cứu ông ấy dành để trả cho những người phụ tá và những việc khác mà ông ấy không muốn làm. Nhưng ông ấy không bao giờ hài lòng với việc làm của họ. Sự thật là, thưa bác sĩ, Larry không thích phụ thuộc vào bất kỳ ai khác. Tự thân vận động chính là một thứ tôn giáo của ông ấy. Sau khi tôi bị cướp ở New York, ông ấy đề nghị cả hai chúng tôi cùng học võ để tự vệ. Ông ấy nói cảnh sát ở đây lười nhác và thiếu quan tâm lắm. Ông ấy tìm được ông thầy người Hàn Quốc ở Manhattan dạy chúng tôi karate, cước pháp - rất nhiều kỹ thuật. Tôi học được hai, ba buổi rồi thôi. Có vẻ như không được hợp lý lắm bởi làm sao chân tay không mà chúng ta có thể chống lại được mấy kẻ nghiện ngập có súng chứ? Nhưng Larry thì tiếp tục học và thực hành vào mỗi buổi tối. Ông ấy đã lấy được đai đấy.
- Đai đen à?
- Đai nâu. Larry nói rằng chỉ cần đai nâu là đủ; nếu như có gì đó hơn nữa thì có lẽ lại là cái tôi của ông ấy.
Cúi mặt xuống, cô nàng khóc. Tôi lấy chiếc khăn ăn từ đĩa, đứng cạnh ghế và sẵn sàng đưa cho cô khi cô ngẩng mặt lên. Bàn tay cô nắm chặt những ngón tay của tôi đến nỗi tôi cảm thấy đau, rồi mới bỏ ra. Tôi ngồi trở lại ghế.
Cô nói:
- Vậy ông có muốn dùng gì nữa không?
Tôi lắc đầu.
- Không biết tôi có thể giúp gì cho cô nhỉ?
- Không, cảm ơn ông. Chỉ cần ông đến viếng thăm gia đình thế này đã là tốt lắm rồi - chúng tôi không quen biết nhiều người đâu.
Cô nàng nhìn căn phòng thêm một lần nữa.
Tôi nói:
- Có phải cô sắp đặt chuyện tang lễ không?
- Thông qua luật sư riêng của Larry.. ông ấy đã có kế hoạch hết rồi. Tất cả mọi thứ. Ông ấy cũng có luôn cả một kế hoạch cho tôi nữa. Tôi không bao giờ biết cả. Ông ấy làm tất cả mọi thứ... tôi không biết khi nào thì tang lễ sẽ được cử hành. Trong những trường hợp như thế này... nhân viên khám nghiệm... Thật tệ quá...
Hai bàn tay cô nhanh chóng úp lấy mặt. Cô nàng lại khóc nức nở.
- Chuyện này tồi tệ quá. Tôi hay khóc lắm - Cô lấy khăn ăn lau mắt.
- Đây là một mất mát thật to lớn, thưa cô Ashmore.
- Không có gì là tôi chưa được chứng kiến cả - Cô nói rất nhanh. Bỗng nhiên, giọng cô nàng đanh lại, với vẻ mặt đầy tức tối.
Tôi không nói gì nữa.
- Mà - Cô lên tiếng - Có lẽ tôi cũng nên làm việc của mình thôi.
Tôi đứng dậy. Cô tiễn tôi ra cửa.
- Cảm ơn ông đã tới, thưa bác sĩ Delaware.
- Nếu như cô cần gì, hãy gọi tôi một tiếng nhé.
- Ông thật tử tế, nhưng chắc chắn là tôi sẽ tự làm được dù có chuyện gì xảy ra đi nữa.
Cô mở cửa.
Tôi chào cô nàng. Cánh cửa đóng lại phía sau tôi.
Tôi cất bước về phía chiếc Seville. Những tiếng làm vườn đã không còn nữa, đường phố thật đẹp và yên tĩnh.