Ngân Thành cố sự
Tác giả: Lý Nhuệ (Trung Quốc)
Dịch giả : Trần Đình Hiến
Tiếu thuyết Lịch sử
Đệ nhất chương : Hoàng Hà Tuôn Nước Từ Mây Trắng
Hồi 1
Trung Hoa đại lục, Ngân Thành thị xã. Năm một ngàn chín trăm mười. Mùa thu , lá vàng rơi rụng lác đác trong ráng chiều hơi gió đã bắt đầu trở nên lạnh lẽo …
Đến thời bấy giờ, phố thị này đã không còn thấy mùi phân trân nữa rồi. Vào hai triều Minh-Thanh, hoặc sớm hơn, trước đó sáu bảy trăm năm, người Ngân Thành vẫn dùng phân trâu khô làm nguyên liệu đun nấu .Các bà nội trợ nhét bánh phân đã khô vào giữa bếp lò, sau đó từ từ kéo ống bễ. mượn sức gió thổi bùng ngọn lửa. Đôi lúc một sợi khói lam thoát ra cửa lò, nó không hôi, chỉ tanh tanh, gây gây, pha mùi đậu răng ngựa cháy.
Có thể nói, lịch sử nơi này đầy ắp khói phân trân khô.
Mấy trăm năm ròng rã, cách dùng phân trâu khô đun nấu đã trở thành một thói quen không thể thiếu của những người dân thường ở đây. Nặn phân trâu thành bánh rồi đem bán đã từng trở thành một nghề dễ làm mà ổn định.
Ở phố thị này, chỉ cần làm công việc chân tay có tiếp xúc với trâu là đều nhận được phân trâu miễn phí, đều biết làm phân trâu bánh.
Khi quá bận, người ta thường mời khách trâu đến nặm giúp. Chỉ có người nặn phân trâu chuyên nghiệp mới được người ta gọi là khách trâu. Bánh phân trâu đã làm xong gọi là cháy trâu. Dốc núi dùng để hong khô phân trâu bánh gọi là dốc phân trậu. Chợ bán phân trâu bánh gọi là ngõ phân trâu. Trong tám món thiết yếu nhất của đời sống, là “củi, gạo, dầu, muối, nước tương, dấm, trà, đường.”, thì bánh phân trâu chính là “củi” của người Ngân thành.
Một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, ngày nào cũng không thể thiếu. Được năm thu hoạch ổn định, một lạng bạc trắng có thể đổi được sáu trăm xu tiền đồng. Gặp năm không thuận lợi, một lạng bạc trắng đổi được đến một ngìn năm trăm xu. Ở Ngân Thành, mua được năm mươi cân than mất ba trăm xu tiền đồng, năm mươi cân củi mất hai trăm xu, còn năm mươi phân trâu bánh chỉ cần một trăm xu. Phân trâu bánh vừa rẻ vừa dễ dùng, tất nhiên là lựa chọn số một của dân địa phương.
Mỗi ngày cứ vào lúc sáng sớm và chạng vạng tối, phân trâu đã phơi khô được đựng trong sọt tre, gánh tới ngõ phân trâu. Hoặc nhanh gọn hơn cả là đội trên đầu một cái nệm cỏ, rồi chất lên chồng bánh phân trâu cao ngất nghễu, hai tay cầm hai thanh tre gõ vào nhau, vừa đi vừa rao tới cuối ngõ. Chỉ cần nghe thấy tiếng gõ của hai thanh tre, các bà các cô sẽ thò đầu qua cánh cửa mà vẫy ” Cháy trâu, đem tới đây, đem tới đây.”
- * -
Tất cả các tài liệu lịch sử liên quan tới Ngân Thành đều như cố tình bỏ quên mùi khói của phân trâu bánh. Tất cả những người biết dăm ba chữ đều tự cho mình là đúng khi nghĩ rằng: lịch sử của con người không phải là lịch sử của trâu. Vì lẽ đó , có giở hết mọi loại sách lịch sử, bạn cũng không thể ngửi thấy mùi khói phân trâu, không tìm được manh mối gì về những cư dân sừng dài, cũng không thể phát hiện ra được mối quan hệ giữa những người khách trâu và một Ngân thành phồn vinh thịnh vượng.
Chỉ có các bà nội trợ đời nọ tiếp đời kia tin tưởng vững chắc rằng, nếu không có trâu, không có bánh phân trâu khô rẻ và tiện dụng thì khó mà sống thanh thản cũng như tất cả những thứ hiện giờ của phố thị này. Ngân Thành có vô số giếng muối, vô số lái buôn muối, vô số bạc, nhưng nếu không có những con trâu kia, bánh xe sẽ không quay, giếng sẽ không bao giờ đào xong, nước muối sẽ không bao giờ lấy được lên.
Tất cả sẽ là những lời sáo rỗng, lịch sử của Ngân thành cũng sẽ mất đi động lực phát triển. Khoảng sáu bảy trăm năm trước đó, hoặc hơn nữa , cùng chung sống với gần hai chục vạn người dân Ngân Thành, còn có hơn ba vạn chú trâu . Hơn ba vạn cư dân sừng dài này, mỗi năm ăn hết hai mươi lăm triệu cân đậu răng ngựa , một trăm sáu mươi triệu cân rơm, năm trăm bốn mươi triệu cân cỏ tươi.
Ba hạng mục này phải tiêu tốn xấp xỉ một trăm ba mươi vạn lạng bạc. Trong ba vạn chú trâu , mỗi năm đại khái có khoảng năm nghìn chú vì đau ốm, bệnh tật, già cả, “qua đời “ mà được giải ngũ. Việc giết mổ, gia công chế biến và buôn bán năm nghìn chú trâu này lại trở thành một thứ dịch vụ, một ngành nghề dài dài ở chốn này.
Quãng thời gian vài trăm năm đủ để tạo nên một món ăm nổi tiếng khắp gần xa, phục vụ cho khẩu vị những lái buôn muối nổi tiếng sành ăn, ở một nơi nổi tiếng nhất về thịt trâu. Đó là món khô trâu.
Khi mà tất cả mọi thứ thuộc về nơi đây đã trở thành quá khứ , nhòa dần ở một góc nào đó của lãng quên, thì món khô trâu vẫn thay sách vở và lịch sử, được lưu giữ trong khẩu vị của mỗi người, đời nọ truyền qua đời kia, tiếng lành đồn xa. Vì để có trâu bổ sung liên tục, bãi Cao sơn và thị trấn Kê ô nằm kề bên Ngân thành đã trở thành hai chợ trâu nổi tiếng. Mỗi tháng , cứ vào các ngày ba, sáu, chín là họp chợ trâu , trong đó chợ xuân ngày hai mươi ba tháng ba và chợ thu ngày hai mươi ba tháng tám là rầm rộ nhất .
Giao dịch mua bán hơn ba nghìn chú trâu trong năm đều nhờ cả vào hai phiên chợ này mà thành công. Chợ trâu phân ba đẳng cấp , mỗi chú trâu được rao bán với giá từ mười ba lượng đến trên một trăm lượng bạc. Nếu lấy mức giá tạm tính trung bình cho một đầu trâu là bảy mươi lượng , thì năm nghìn chú trâu là một phiên giao dịch lớn với trị giá ba mươi lăm vạn lạng bạc. Cứ hai mươi lăm chú trâu cần môt thành viên khỏe mạnh ăn uống, ngoài việc cắt cỏ, cho trâu ăn, dọn dẹp chuồng trại, thuốc thanh khi trâu đau ốm, …lúc trời nắng đưa trâu đến tắm ở các đập nước hoặc khe suối, bờ sông , mỗi tháng một lần đưa trâu đi tiêm thuốc xông ruột . .. Người làm những việc kể trên gọi là ” nài trâu “ Ba vạn chú trâu cần một nghìn hai trăm nài trâu thạo việc .
Trâu đã đóng vào xe , cần phải có người điều khiển các động tác đi đứng nhanh chậm. Người này gọi là phụ xe, thường vẫn gọi là “ gậy đánh chân trâu” . Cứ năm chú trâu cần một phụ xe, ba vạn chú trâu sẽ cần tới sáy nghìn phụ xe. Ở các giếng muối của Ngân thành, từ trước tới nay , đều là trâu nghỉ mà xe không nghỉ. Vậy nên ba vạn con trâu, một nghìn hai trăm nài trâu, sáu nghìn phụ xevà những người thợ ở các giếng muối tập trung lại thành một khối , không phân biệt ngày đêm, không kể nắng mưa rét mướt, một khắc cũng không dừng bánh xe chuyển động của lịch sử .
Ba vạn chú trâu lông xám, lắc lư cái cơ thể khổng lồ cùng những cặp sừng rất đẹp, chớp chớp đôi mắt hiền lành thân thiện, thản nhiên kéo Ngân thành về một câu chuyện cổ xưa sứt mẻ , thật giả khó lường …
- * -
Ngân Thành vẫn luôn là một thành phố phồn vinh thịnh vượng, sản xuất ra nhiều muối mỏ và khí thiên nhiên. Cả trăm nghìn giếng muối chen chúc giữa các thung lũng lớn bé hai bên bờ sông Ngân Khê , miệng giếng sừng sững hệ thống cần trục cao từ mấy trượng đến mười mấy trượng. . Để vận chuyển nước mặn làm muối , từ các giếng trong thung lũng , trong rừng sâu , người ta bắc các ống tre dài, cả vài chục dặm, ngoằn ngoèo như một con trăn khổng lồ.
Người Ngân Thành gọi hệ thống khung giàn làm bằng gỗ sam là cần trục, gọi ống dẫn làm bằng gỗ lim là ống máng. Dưới cần trục có ròng rọc, những chú trâu miệt mài kéo ròng rọc chuyển động phát ra những tiếng kẻo kẹt ngày đêm không nghỉ , kéo lên rồi hạ xuống những chiếc gầu tre, hoặc những vật dụng khác dùng để đựng nước từ vực sâu mấy chục trượng …
Nước từ giếng muối sẽ được kéo lên bằng một sợi dây dài vài chục tới vài trăm trượng rồi chạy thẳng vào những nồi chưng cất muối khổng lồ luôn sôi sùng sục nhờ ngọn lửa đốt bằng khí thiên nhiêncháy rực ngày đêm. Ngân Thành bình quân mỗi năm sản xuất ra hai trăm mười triệu cân muối mỏ, nộp hơn năm trăm vạn lạng bạc tiền thuế. Một nữa số tiền thuế thu được của cả tỉnh là từ Ngân Thành.
Hàng ngày, tựa như có cả rừng cột buồm từ những thuyền muối dựng nên cập bến Ngân Thành. Cả những đoàn người buôn muối từ Vân Quí, Khang Tạng xa xôi cũng lũ lượt kéo về đây. Nhờ sự phát đạt của nghề làm muối mà một loạt ngành nghề phụ cũng được thơm lây , như nghề đan tre, nghề mộc, nghề làm sắt, nghề chăn nuôi gia súc, trồng cây lương thực , vận tải, xây dựng , tài chính tiền tệ …
Chỉ riêng việc kinh doanh thuốc thú y mỗi năm doanh số cũng đã lên tới mấy chục vạn lạng bạc trắng. Người Ngân Thành từ xưa tới nay chưa từng tuân thủ thời gian biểu của nhà nông : mặt trời mọc ra đồng, mặt trời lặn về nghỉ. Sau khi mặt trời khuất sau núi, bóng tối bao trùm , thì cả nghìn vạn ngọn lửa vẫn rực cháy như thường. Đèn vẫn sáng tỏ trên tám trăm cửa hiệu và từ nhà của các đại thương gia buôn muối.
Công nhân làm ca đêm bên cần trục vẫn thắp vô số ngọn đèn mỡ trâu , ánh đèn từ những chiếc thuyển chở muối vẫn lấp lánh soi xuống dòng Ngân Khê. Có câu hát rằng :
Đố ai đếm được sao trời
Ngân Thành hạ giới có bao nhiêu đèn.
Ngân Thành giàu có nổi tiếng thiên hạ với đèn đuốc không nghỉ, lái buôn tập trung đông đúc, ngựa xe như nước. Ngân Thành với tài nguyên nhiều vô cùng tận , dùng không bao giờ hết. Trong cái thời đại canh nông, đất rộng người thưa, sự phồn vinh thịnh vượng của Ngân Thành càng nổi bật lên một cách quái đản , kỳ lạ, tựa hồ như phi lý.
Những người khách trâu mồ hôi đầm đìa, phơi khô cả năm mươi cân bánh phân trâu mới đổi được một trăm xu tiền đồng, được xếp vào loại lao động khổ cực nhất, rẻ mạt nhất ở Ngân Thành. Trong những năm tháng tiêu tiền như nước đó, không còn ai nhớ nổi rốt cuộc đã có bao nhiêu bánh phân trâu, càng không có người nhớ nổi Ngân Thành có bao nhiêu vị khách trâu nữa.
Nhưng, vào mùa thu năm một nghìn chín trăm mười dương lịch, tức là thời Đại Thanh năm Nguyên Thống thứ hai, nói một cách chính xác là ngày thứ năm sau tết Trung Thu, một vị khách phân trâu tên là Vương Tài vớt được một khúc tre từ giữa đám lau sậy bên bờ sông Ngân Khê . Những giọt nước trong vắt từ khúc tre đó và từ cánh tay Vương Tài tí tách rơi xuống mặt sông , tạo nên những khoảng tròn gợn sóng.
- * -
Giống như những bạn đồng nghiệp khác, hàng ngày Vương Tài nếu không được người khác thuê nặn bánh phân trâu thì cũng tự ra dốc phân trâu làn hàng , bán hàng. Vương Tài, cũng như những người cùng nghề, đều phải đi thu nhặt phân trâu tươi, trộn lẫn với một lượng cỏ khô vừa đủ, làm bay hơi nước, tiếp theo là dùng chân đất dẫm đi xéo lại trên đống hỗn hợp phân khô đó cho tới khi cỏ vụn và phân trâu được trộn đều với nhau .
Công việc này giống hệt như khi trộn rơm rạ với đất để đắp vách nhà. Sau đó một lớp mỏng cỏ vụn sẽ được trải xuống nền đất phẳng , rồi dùng xẻng xúc hỗn hợp phân vừa được giẫm đều đó đổ lên trên, cứ một xẻng là một bánh . Kế tiếp là công đoạn tỉa tót, đánh bóng bề mặt bánh phân, Đường kính của mỗi bánh khoảng một thước năm tấc, ngoài dày trong mỏng, từ viền ngoài một tấc dần dần mỏng lại tới chính giữa chỉ còn dưới nữa tấc. Phơi tới khí bánh phân khô tới một nữa thì chọc lỗ .
Dùng dây thừng xâu hai thanh tre rộng một đốt ngón tay, dài nữa thước thành một giá đỡ hình chữ thập. Xâu sợi thừng qua lỗ giá đỡ là có thể treo được bánh phân trâu lơ lửng. Những bánh phân trâu nữa khô nữa ướt này sẽ được treo ở một nơi thoáng gió có mái che mưa. Nếu thời tiết tốt, chỉ cần mười ngày tới nửa tháng là đã xong được một mẻ.
Gã trộn hàng kỹ lưỡng, nhuần nhuyễn, “ tỉa tót” bề mặt cẩn thận, nên những chiếc bánh phân trâu đều có bề mặt nhẵn bóng, rắn chắn, đầm tay và quan trọng nhất là khi đốt cho ngọn lửa sáng , đượm. Có thể nói, đó thực sự là hàng tốt .
- * -
Mùa thu năm một nghìn chín trăm mười, Vương Tài vô tình vớt lên được từ giữa đống lau sậy cạnh bờ sông Ngân Khê một thanh tre, đang chăm chú nhìn ngắm thì lại phát hiện thêm hai thanh tre nữa nằm giắt giữa đám gốc sậy, bèn bước thêm hai bước, vớt chúng lên. Trên mỗi thanh tre đều có ai đó dùng sơn dầu viết chữ lên . Gã không biết chữ, nhưng thấy mấy thanh tre này dài hơn một thước, rộng một đến hai tấc, chính giữa thủng một lỗ vừa vặn có thể buộc thành hình chữ thập để phơi bánh phân trâu.
Gã nhìn quanh, hy vọng tìm thêm mấy thanh nữa …
Bên bờ sông, dưới ánh chiều tà, mặt nước lấp lánh như đất vàng . Chen chúc nơi khúc quanh của dòng sông , những chiếc thuyền gỗ chờ lấy muối cột buồm vàng óng. Từng thân cây sậy đang phất phơ cũng như được dát vàng ... Tiếc thay, cảnh huy hoàng tráng lệ đó lại không có thứ gã đang tìm kiếm .
- * -
Vì làm tốt bánh phân trâu, bản thân lại thật thà chăm chỉ nên trong mắt các bà nội trợ, Vương Tài cũng có đôi chút tiếng tăm. Sau khi đã thanh toán xong tiền, nhận thêm hàng, đôi lúc các bà các cô mời chén nước trà, nhìn gã uống như trâu, cổ họng kêu ùng ục chỉ vài tợp là uống cạn chén nước. Những người phụ nữ tốt bụng gợi ý, cả đời gã làm cháy trâu thì làm gì có “tài” ( của cải) mà “ vương” (giàu có), sao không học thêm một nghề nào đó để cưới vợ , sinh con ...
Đàn bà thường đơn giản hóa những việc khó khăn nhất trên đời thành một câu cửa miệng nhưng rất khó phản bác. Những lời này nghe nhiều rồi, gã chẳng buồn thanh minh, chỉ nói bản thân mình vốn dĩ sinh ra đã có số làm “khách trâu” rồi …Lúc nói những điều này, nụ cười bẽn lẽn, ngượng ngùng như mắc lỗi – đặc biệt là có lỗi với người phụ nữ đã có lòng tốt rót chén trà kia, luôn thường trực nhìn trên khuôn mặt .
Có điều, các bà các cô không thể biết rằng, nụ cười chất phát nở trên khuôn mặt kia lại chính là tấm lá chắn bên ngoài. Gã không hề ngờ nghệch đần độn như trong tưởng tượng của họ, chỉ là không muốn giải thích lần lượt từng người về số phận của mình mà thôi. Kể cả khi không khát, cũng uống hết bát nước trà .
Gã biết mình không thể từ chối lòng tốt của họ, nên uống trà không phải chỉ để giải khát mà thường là để những bà nội trợ kia hài lòng, để lần sau còn được mang bánh phân trâu đến bán .
- * -
Vương Tài đứng dưới sông ngoảnh lại nhìn mấy chữ mà không biết đọc. Khoảng cách quá gần có thể ngửi thấy mùi nước bùn tanh khi rửa còn phảng phất trên tay chân .
Ráng chiều êm ả trên đỉnh Ngọc Tuyền, in trên dòng sông Ngân Khê ảo ảnh lộng lẫy, biến bóng dáng cởi trần thành pho tượng lóng lánh màu sắc. Không biết có phải do những nỗi vất vả cực nhọc cả buổi chiều, nên khiến gã không cảm thấy mình là tượng thần trong ảo ảnh. Gã vừa lấy bùn cát cọ sạch phân trâu dính trên tay chân .
Bờ sông sau lưng đang phơi bộ quần áo lam lũ và đôi giày cỏ, trên dốc phân trâu gần đó đầy những viên bánh phân trâu vừa nặn xong. Bộ quần áo và đôi giày cỏ rách nát , cùng với những viên bánh phân trâu được sắp xềp ngay hàng thằng lối kia, tất cả chìm trong ảo ảnh lộng lẫy của ráng chiều.Vương Tài là một khách trâu thích sự sạch sẽ .
Mỗi ngày, sau khi hoàn thành xong phần việc của mình, thường tới đây tắm rửa kỳ cọ. Bùn cát ở lòng sông chính là loại xà phòng tốt nhất và rẻ nhất. Khi trời nóng, có thể cởi hết quần áo nhảy xuống sông bơi lội một hồi thỏa thích. Ở đây không có mùa đông giá rét , mặt sông chưa từng bị đóng băng. Vì thế , cho dù là giữa mùa đông vẫn có thể ngâm mình trong nước lạnh lau rửa sạch sẽ. Phần lớn những vị khách trâu khác cũng đều tới đây để tắm rửa, nhưng không tắm kỹ và cũng không thích ngâm nước nhiều .
Họ thường cười khi thấy gã lưu lại bên dòng nước lạnh, nói :
- Này, chú mày khộng phải ông chủ, sư phụ cũng không, kỳ cọ sạch bong thế này hẳn là muốn tới lầu uyên ương tìm em út hả ? Hay là để cho cô Ba nhà bà Sáu Thái xem mặt ?
Nhưng gã chẳng hề để ý tới những lới trên chọc đó, vẫn xuống sông tắm rửa như thường ngày. Giờ đây, tắm đã tắm rồi, bơi cũng đã bơi rồi .
Dòng sông mùa thu nước đầy ắp như cơ thể sung mãn của người phụ nữ, chở những đám mây dàn như thế trận trên mặt nước, trôi qua thị xã, vượt qua cống ngầm, xuyên qua tấm thân cường tráng của gã , tràn qua bãi ngãi điệp, rồi chậm rãi chảy đi. Dòng sông mang đến của cải dồi dào này sẽ từ cửa Quan Âm nhập vào sông Thanh Y. Sau đó cùng với nó chảy thẳng vào Trường Giang.
Gã đứng giữa dòng nước hiền hòa, đột nhiên nhớ lại lúc trước ở miếu Ngưu Vương đã nhìn thấy mấy thanh tre có viết chữ, rồi có mấy đạo sĩ lắc lọc sọc cái ống thẻ, rồi từ ống thẻ rơi ra mấy thẻ tre có viết mấy chữ bên trên. Người đạo sĩ dựa vào mấy chữ này mà đoán lành dữ. Hay là hôm nay đức Long Vương thả những thẻ tre này trên sông Ngân Khê ? Nghĩ vậy, gã vội nắm chặt ba thẻ tre có chữ trong đôi tay rắn chắc, thô ráp mà cười tủm như vừa nhận được món quà nhỏ.
Để xem món quà của Long Vương có linh nghiệm hay không ?.
Lại nghĩ, chuyện nghe nói chưa chắc đã thành sự thật, bà Sáu Thái chưa chắc đã lại thay đổi ý kiến …Thế là lại do dự, bất giác ngẩng đầu nhìn bức tường thành sừng sững trong ráng chiều bên bờ sông đối diện, tự biết ước mơ của mình có phần giống ráng chiều, mặt trời khuất sẽ chẳng còn lại dấu vết gì nữa. Như sợ mất bảo bối, tự nhiên siết chặc mấy tấm thẻ tre trong tay .
Gã không biết mình đã vô tình nhặt được một vật thường được người ta gọi bằng cái tên “ LỊCH SỬ “
Ngân Thành cố sự
Tác giả: Lý Nhuệ (Trung Quốc)
Dịch giả : Trần Đình Hiến
Đệ nhất chương : Hoàng Hà Tuôn Nước Từ Mây Trắng
Hồi hai
Những người lính ì ạch khiêng theo một cái sọt to bê bết máu, từ ngoài phố đi vào trong gian phòng lớn của quán trà Hội Hiền. Máu tươi chảy ròng ròng qua khe sọt .Vào cái khoảnh khắc đáy sọt chạm đất, Nhiếp Cần Hiên nghe thấy rất rõ tiếng máu rơi, có cảm giác như những giọt máu tươi bắn thẳng vào mắt .
Trong khoảng tối của cái nhắm mắt, Nhiếp Cần Hiên nhận ra, người lính già đã bị xếp xó là mình đây, kẻ đứng ngoài cuộc là mình đây, hiện giờ đã không còn sự chọn lựa nào khác, phải liều chềt một phen trong thời điểm loạn lạc này. Trong cái sọt đầm đìa máu đó, ngoài một ít vải quần áo nát vụn, có thể nhận ra nửa miếng xương đầu người còn dính theo bím tóc đuôi sam, hai mảnh xương hàm dính vài chiếc răng sâu, ba miếng thịt đùi, hơn nửa cánh tay, vài thanh xương sườn gãy vụn, một đống tim phổi lũng nhũng máu thịt, một ít ruột và vài đốt ngón tay chỏng trơ .
Thật lạ, mấy ngón tay dài dài, xương xương, vẫn còn nguyên cả móng dài, trong đó có một ngón vẫn còn đeo cả một chiếc nhẫn vàng màu ngọc bích . Phía trên cùng của cái sọt thịt, xương, quần áo nát vụn đó là mũ quan tứ phẩm của đại nhân Vương Tuyết Môn, tri phủ huyện Đồng Giang. Huyện này tọa lạc cách xa thị xã Ngân thành hơn ba trăm dặm về phía tây nam .
Huy hiêu sau mũ không biết đã lưu lạc nơi đâu, nhưng đính trên chóp mũ đầy máu và cát là viên đá màu xanh da trời không hề bị hư tổn, như một kỳ tích phát ra thứ ánh sáng lấp lánh
Không khí bị nén nóng dần lên , không gian tanh mùi máu, được tô điểm bởi tiếng vo ve không ngớt, cũng vũ điệu say sưa của lũ ruồi nhặng tham lam. Ngay sau khi chiếc sọt đặt xuống đất, trong không khí hoảng loạn, một loạt tiếng thở dài cất lên .
Rất nhiều người đã quay mặt đi. Luồng sát khí bao trùm gian sảnh lớn. Một người lính quỳ một chân cạnh cái sọt tre, sắc mặt nhợt nhạt , run rẩy bẩm báo :
- Đại nhân, chúng con đã tìm khắp nơi theo lờ dặn, tất cả đều ở trong cái sọt này…Thi thể Viên đại nhân chỉ còn có vậy thôi ạ ...
Trong quãng đời chinh chiến, Nhiếp Cần Vương đã nhìn thấy vô số cái chết, nhưng đây là lần đầu tiên nhìn thấy cái chết thê thảm, nát vụn thành trăm mảnh thế này. Nhìn vào cái giỏ tre máu me đầm đìa kia, nhìn vào lũ ruồi nhặng vo ve lượn lờ kia, Nhiếp Cần Vương khó có thể tin được rằng đống xương thịt nát vụn đó là thi thể còn lại của người vừa chia tay với mình cách đây không lâu …
Hai ngày trước, Viên Tuyết Môn còn không màng tới cả tết Trung Thu, từ thành Đồng Giang mang theo một tiểu đoàn lính tuần tra, quân lệnh gấp rút cấp độ ba, ngày đêm hành quân tới Ngân Thành bố trí quân canh phòng, để chuẩn bị ứng phó với những hành động của bọn loạn đảng chống lại chính quyền đương thời .
Để tăng cường khả năng phòng vệ, lúc vừa rồi khi chia tay, Viên đại nhân còn cố tình giữ bên mình một tốp lính và gần năm trăm khẩu súng kíp.
Sao ông ta có thể chỉ trong chớp mắt đã biến thành đống thịt xương lẫn lộn thế kia ? Đêm Trung Thu hôm qua, không phải chính là đống thịt xương này và mình đã trút bầu tâm sự, nâng lý cạn chén với nhau hay sao ?
- * -
Nhiếp Cần Vương nhận ra chiếc nhẫn mặt ngọc này. Hôm đó, Viên Tuyết Môn còn nâng ly rượu lên bằng bàn tay đeo nó và nói :
“ Người anh em, tôi biết anh đang không vui, đã hủy lệnh đi rồi thay đồi, bắt anh dẫn quân ở lại đây đánh trận này . Tình nghĩa giữa hai chúng ta về căn bản, là không đủ để anh vào sinh ra tử như vậy đâu. “
“ Những năm gần đây trong quân đội có một số thay đổi đáng kể về chế độ chính sách. Ngài có thể bị lưu lại rất lâu trong hàng ngũ quân bộ binh mà không được thăng chức . Việc quân trước mắt đang cấp bách. Chế đại nhân cấp trên tung ra lệnh ủy quyền tạm thời chỉ huy quân tuần tra đó cũng là vì để cứu lấy lửa gần.”
“Bây giờ tri huyện Ngân Thành vì bảo có chuyện buồn mà từ chối tham gia, chắc ngài không thể trông mong vào mấy tên buôn lậu muối bị tôi dùng lệnh của Nha huyện và cục Quan vận bắt làm lính tuần canh, tạm thời ra trận chiến đâu nhỉ ! “
Thấy Nhiếp Cần Vương không có biểu hiện là phản đối, Viên đại nhân tiếp lời :
“ Ngân Thành hiện thời chỉ còn trông đợi vào mỗi ngài thôi. Chuyện trên tỉnh tháng trước, quân loạn đảng Lưỡng Quảng, Vân Nam cũng vậy, đều lấy tàn quân làm chủ lực mà . Về nguyên tắc, triều đình cho họ xuất dương, phong chức quan cao, thưởng nhiều bổng lộc, ban cho họ súng tây, pháo tây tốt nhất, … Triều đình cậy nhờ vào họ là nhiều nhất “
“ Nhưng giờ đây , bốn bề gây chuyện tạo phản lại chính là tàn quân . May mà quân loạn đảng không cẩn thận làm nổ một quả bom, Chế đại nhân tức khắc đã ra tay xử trảm hơn ba chục giáo viên và học viên lục quân trên thao trường cùng hơn chục sĩ quan khác bị nghi ngờ có dính líu . Không ngờ tháng này, chúng vẫn liều chết gây chuyện tại Ngân Thành , loạn đảng của Tôn Văn đúng là kẻ trước ngã xuống, người sau tiến lên, ngày càng nhiều tựa như thủy triều dâng cao. “
“ Tôi đã già rồi, những việc như thế này cũng không còn hiểu nổi nữa. Dân nghèo đói muốn tạo phản đã đành, đến cả chức cao lộc lớn mà cũng muốn tạo phản sao ? Người Tây cần phải đánh, loạn đảng cũng phải đánh, người mình cũng cần phải đánh. Ai như thói đời bây giờ, bốn bề khói lửa, bấp bênh nhất định, xóa bỏ các cuộc thi cử, tiến hành lập hiến, gốc rễ tổ tiên của các chế độ cũ đều vứt hết vào bãi rác rồi mà vẫn không ngăn được loạn đảng khắp nơi . “
Nói tới lúc này , Viên đại nhân không ngăn được tiếng thở dài, nữa như tâm sự nữa như muốn nói lời từ biệt xa xăm :
“ Người anh em, ngày hôm nay chúng ta còn ngồi đây đối ẩm, ngày mai ra sao còn ai hay biết. Năm nay chúng ta còn tận sức kiệt lực vì triều đình, năm sai ai còn ai mất làm sao đoán nổi, sợ rằng đến cả sự tồn vong của Đại Thanh còn khó tiên liệu ấy chứ. Ôi , cái này không gọi là sinh vào thời loạn lạc, mà phải gọi là sinh nhằm lúc thời cùng thế tận mới phải … Cái mà chúng ta có thể làm được , cùng lắm chỉ là biết mà để đó mà thôi…”
Ánh trăng lành lạnh chiếu xuống gương mặt nghiêm trang nhưng buồn thảm của Viên Tuyết Môn, hắt thứ ánh sáng ảm đạm đó xuống đầy cả ly rượu và viên ngọc bích gắn trên chiếc nhẵn vàng đeo trên tay. Viên đại nhân mang theo ba quân lệnh .
Lệnh thứ nhất là thay chức tổng giám sát quân xanh lâm thời của bản thân ông thành chức Thống lĩnh quân tuần tra ở Ngân Thành, đồng thời báo lên bộ binh thẩm duyệt trước khi bẩm tấu hoàng thượng . Nhưng thực chất binh mã nắm giữ trong tay cũng chỉ là tám trăm quân xanh dưới quyền từ xưa, cộng thêm một cánh quân bộ binh và gần trăm khẩu súng kíp, miễn cưỡng lắm mới góp nhặt được ba tiểu đoàn.
Lệnh thứ hai là yêu cầu trước khi bạo động xảy ra, cố gắng lùng bắt được tên cầm đầu và một số thành viên nòng cốt của quân loạn đảng.
Lệnh thứ ba là bản thân ông phải theo dõi , kìm hãm được quân tân binh từ tỉnh xuống chi viện , đề phòng có kẻ dùng chiêu nội công ngoại kích.
Nghe xong ba quân lệnh giật gấu vá vai này , Nhiếp Cần Hiên không nói được lời nào, chỉ biết nở nụ cười chua xót. Viên đại nhân nói đúng, đây là lúc thời cùng thế tận, đánh trận này chỉ là không thể không đánh, tới trận sau cũng vẫn vậy mà thôi .
Mắt thấy vận mệnh Đại Thanh đã hết, đánh hay không đánh, chung qui vẫn chẳng còn sức về chầu trời , sợ rằng cũng chỉ là quần thần còn sót lại mà thôi . Không những thế, lại còn là một vị quan bị giao quyền tạm thời nữa chứ. Tận trung với triều Đại Thanh, nhưng ai sẽ hài lòng khi thấy sự tận trung vô ích đó ?
Mất một khoảng thời gian, hai người nâng chén mà không nói được nên lời. Ánh trăng Trung Thu vằng vặc, chút rượu lạnh trong chén , tất cả rọi vào thế giới trước mắt, quá rõ ràng, quá lạnh lẽo .
- * -
Nhiếp Cần Hiên thấy đống máu thịt trong đáy sọt bỗng chốc như hòa làm một, rồi một dòng máu đột ngột túa ra , hướng thẳng về phía chân mình . Nỗi buốn nén lại bấy lâu chợt ùa vỡ, tự nhiên nước mắt rưng rưng .
Ông vội vàng dụi mắt lần nữa, thực chất là để che dấu tình cảm vừa bộc phát , gằn giọng quát :
- Chúng mày nhất thiết phải dùng đến cái sọt tre này sao ? không thể tìm được cho Viên đại nhân một chiếc quan tài được sao ?
Một lúc sau, mấy tên lính vác vào một chiếc quan tài làm bằng gỗ lim lấy từ kho của quán trà. Ngay sau quan tài là ông chù quán trà Trần Thế Đường, run rẩy vì sợ hãi, quỳ mọp dưới đất tựa như tế sao :
- Đại nhân, đại nhân, con tự nguyện sung quan tài vào công quĩ… con không dám nhận một hào một xu … Con không biết gì, không hiểu gì, quả thật oan uổng …Con làm sao biết được tri phủ đại nhân sẽ đi qua đây … Con tự nguyện dâng quan tài, một hào một xu cũng không dám nhận mà đại nhân …
Hết kiên nhẫn, Nhiếp Cần Hiên phẩy tay, lệnh cho quân kéo lão chủ quán xuống nhà dưới, thuận miệng ra lệnh :
- Chặt lấy hai cái đầu trong đám phen với loạn đảng, kéo đi khắp phố ba ngày cho dân chúng đều biết . Những kẻ tình nghi còn lại giải hết về doanh trại chờ xét xử.
Sau vài tiếng “ Oan cho tôi quá, oan cho tôi quá …” phát ra từ phía ngoài sảnh lớn , người ta nghe thấy tiềng đao chặt vào đầu người “ bụp, bụp “ .
- * -
Đám vệ binh của Viên Tuyết Môn Viên đại nhân kể lại rằng, chiếc kiệu đang di chuyển thì bất thình lình từ trên không rơi xuống một món đồ , nhìn giống như một ấm trà rơi tọt vào trong kiệu của Viên đại nhân, nổ tung.
Quả bom này quả là ghê gớm, không những giết chết Viên đại nhân, nổ tung chiếc kiện, làm bị thương mấy anh em chiến sĩ, đến phu kiệu cũng chết mất hai người . Nhưng ngoài hình dáng giống cái “ ấm trà” ra, họ chẳng còn nhìn thấy gì cả. Sau một tiếng nổ như sét đánh, đám binh sĩ chui được lên từ đống đất bụi thì đã thấy không còn kiệu, cũng chẳng còn tri phủ đại nhân nữa .
Trước khi đi, vì biết tình hình cấp bách, Viên Tuyết Môn đã cố ý đem theo một tiều đoàn quân tuần tra và hơn hai trăm khẩu súng kíp để tránh phục kích. Khi đi qua đoạn núi Đồng Lĩnh, ông chỉ cưỡi ngựa chứ không ngồi kiệu. Nhưng ông không ngờ đám quân Cách Mạng Đảng nghệ cao mật lớn, không sợ chết kia lại dám liều lĩnh hành thích giữa nơi đường phố đông đúc .
Kẻ dẫn đầu đám binh lính là Trần Quang Đại, vừa nhìn thấy cái chết của tri phủ đại nhân đã sợ tới mức hồn xiêu phách lạc. Ngoài việc ra sức bám riếc người khác, gã chẳng còn nghĩ ra được cái gì hay hơn …
Nhiếp Cần Hiên vừa nhận được tin dữ , đã lập tức hạ lệnh đóng chặt bốn cửa thành cũ , truy nã trong toàn thành.
Sau khi xem xét hiện trường, ông đã gởi điện khẩn cấp báo tới tổng giám sát binh sĩ của huyện, thông báo việc tri phủ Đồng Giang bị giết hại, thúc giục quân chi viện đang trên đường hành quân , tiến nhanh về Ngân Thành. Kế đó, dặn dò Trần Quang Đại để lại những binh lính bị thương , số còn lại ngay lập tức hộ tống linh cữu của Viên đại nhân về Đồng Giang .
- * -
Tất cả chỉ có thể sắp xếp được đến vậy.
Cần bắt đã bắt rồi, cần chém đã chém rồi. Không thể bắt cũng không thể giết được thêm người nào nữa.
Chỉ có hai người Tây. Từ lúc vội vàng tới hiện trường, Nhiếp Cần Hiên phát hiện trong đám người có liên quan đến vụ án đang quì mọp dưới đất kia , có lẫn hai thanh niên mặc đồ Tây .
Nhiếp Cần Hiên biết bọn họ. Đó là những giáo viên ở Học đường Dục nhân, được mời tới từ Nhật Bản, lương bổng rất hấp dẫn .
Học đường Dục nhân vốn dĩ là trường của một dòng họ do một lái buôn muối họ Lưu tự bỏ tiền ra xây dựng . Từ khi bãi bỏ chế độ thi cử, họ Lưu đã cho xây thêm ký túc xá, sân vận động, mua cả dàn máy móc thiết bị dạy học từ Nhật, lập nên một trường kiểu mới
Giáo viên là con cháu họ Lưu du học ở Nhật . Ngoài ra còn mời thêm ba vị giáo viên người Tây, hai nam một nữ .
Ngoài việc dạy học chính quy, còn mở thêm một lới dự bị du học Nhật Bản . Học đường Dục Nhân được đổi tên thành trường Dục Nhân . Tiếng lành đồn xa, con cháu của những nhà giàu có từ các làng xã lân cận đều nô cức tới học .
Hai người đang đứng trước mắt, một người là Hideyama Ojiro, người còn lại là Ino Toruzo . Cả hai bận áo veston, giày da bóng lộn như quét sơn , nghiêm chỉnh từ đầu tới chân, ung dung như khách phong lưu .
Người tên Hideyama là một đại quái thai ở Ngân Thành này . Y có một cái máy Tây gọi là “ máy ảnh “ gì đó , có thể lưu lại trên giấy toàn bộ cảnh sắc thiên nhiên, sự vật, già trẻ gái trai . Người nào đã nhìn thấy những tờ giấy của y đều khẳng định đó là người thật vật thật , không thắc mắc nghi ngờ gì hết . Chỉ cần anh ta dẫn theo một người khuân vác thuê đi ra khỏi trường là có ngay già trẻ lớn bé tò mò nối gót.
Giờ đây, chính hai kẻ ngoại quốc này, tuy không lộ vẻ sợ hãi như đám người đang quỳ mọp dưới đất kia , nhưng nét mặt tái xanh tái xám đã tự tố cáo về họ. Hideyama đang xách theo một cái túi. Khi bắt gặp ánh mắt Nhiếp Cần Vương lướt xuống phía mình, Hideyama không phải là người kém thông minh, tự động mở túi, vửa đủ để lộ ra bên trong chỉ có một bao trà và một quyển sách.
Nhiếp Cần Vương quá thừa kinh nghiệm để biết rõ ràng, làm kinh động tới trường Dục Nhân sẽ có phản ứng thế nào của không ít nhà danh gia vọng tộc đang có ý bất mãn với triều đình, cho nên lúc này không thể làm chuyện gì hồ đồ và ngu xuẩn. Ông gật gật đầu, giơ cả hai tay ra và nói :
- Làm kinh động tới hai vị, mời đứng dậy, đứng dậy đi !
Hideyama không dấu được nụ cười như vừa cất đi gánh nặng, rồi cùng với một chút gượng gạo và cứng ngắc, cúi gập người theo kiểu chào Trung Quốc, miệng thốt mấy tiếng Trung, hai tay vòng trước ngực :
- Đa tạ Nhiếp đại nhân !
Vừa nói vừa liếc mắt lại phía sau, ra hiệu cho người bạn cùng cảnh ngộ đi trước. Nhiếp Cần Vương nhìn vào vết thương khá lộ liễu trên tay người có tên là Ino Toruzo. Nó giống hệt một vết thương do bí một vật gì đó xé rách.
Tỏ vẻ lịch sự , ông ta lại giơ tay ra :
- Ino tiên sinh bị thương rồi, ngài nên băng bó ngay vết thương. Thứ cho tôi bận việc không thể ra tiển. Xin mời !
- * -
Nhìn theo hai người Nhật Bản xa dần cửa sảnh lớn, Nhiếp Cần Hiên nghĩ thầm, mấy tên này nói tiếng Trung Quốc còn giỏi hơn cả mình, không biết học ở đâu ? Rồi ông lại nghĩ, thời này lấy đâu ra nhiều loạn đảng vậy nhỉ ? …
Nhiếp Cần Hiên đã rất dễ dàng thả hai người Nhật đó , mà xét cho cùng, họ là người nước ngoài, ông cũng không thể không thả. Nhiếp Cần Hiên giải về đồn tất cả số dân Ngân Thành có mặt tại hiện trường lúc bom nổ, vì ngoài chuyện đó ra, cũng chẳng còn manh mối nào khác.
Trừ hai kẻ vừa bị xử trảm, tính thêm cả ông lão chủ quán trà, người hầu bàn và tất cả đám khách kia , tổng cộng mười tám người. Nhiếp Cần Hiên hiểu rất rõ, hiện tại bản thân ông không chỉ phải đối phó với tên hung thủ ném bom , mà còn với cả tên tổng chỉ huy của cuộc bạo động ,
Việc làm ông lo lắng nhất là không hiểu hành động ám sát tri phủ đại nhân có phải là tín hiệu cho cuộc bạo động của bọn loạn đảng hay không .
Trong ba quân lệnh mà Viên đại nhân mang theo, có một lệnh đặc biệt nhấn mạnh, kẻ tổng chỉ huy cuộc bạo động lần này tại Ngân Thành là một người có tên là Tôn Văn phái từ Nhật về.
Nhưng hai năm gần đây, chỉ riêng người Ngân Thành lưu học từ Nhật trở về đã là mười mấy người . Số người này sau khi về tới Ngân Thành đã xây bệnh viện , mở trường học, làm báo chí, mở ngân hàng, …Chỉ cần công việc gì ở Tây có, mà ở Trung Quốc không có là họ làm . Những người này muốn tham gia Cách Mạng Đảng, thì e rằng cũng không khó lắm .
Nhưng con cháu của những thương gia giàu có này đầu được các cây cao bóng cả che chắn và nâng đỡ, chạm vào bất kỳ ai trong số họ cũng chẳng phải chuyện dễ. Bản thân ông , sỡ dĩ có thể bắt không do dự lão chủ quán trà là vì Trần Thế Đường chỉ đơn thuần là một người mở quán bán trà, sau lưng lão ta không có đại gia buôn muối nào , cũng không có quan tướng nào che chở .
Nhiếp Cần Hiên không dám lưu lại quán trà Hội Hiên quá lâu. Ông cũng không biết vụ ám sát này có phải là kế điệu hổ ly sơn của quân cách Mạng Đảng hay không. Nhiếp Cần Hiên lo là có kẻ lợi dụng cơ hội này để đánh úp doanh trại kho tàng. Trong kho, ngoài một số súng ra, còn có cả mười mấy thùng đạn và đạn pháo mà Viên đại nhân lén giữ lại làm vốn riêng để đối phó với Tân quân .
Trước cửa quán trà vẫn còn lưu lại vết tích của mấy bãi vết máu khô , cùng hai cái xác không đầu. Hai cái đầu người lấm bùn và máu , vẻ mặt thờ ơ như đóng kịch . Đứng ngay cạnh đó là mấy người lính già lưng dắt dao găm, vai đeo súng kíp. Báng súng đỏ sậm chống xuống đất như nhuộm máu đã khô .
Đường phố sau một hồi huyên náo bỗng yên lặng rợn người ….Tít đằng xa , mấy đứa trẻ tò mò , thập thò nơi đầu ngõ, thoắt cái đã mất dạng .
Trong cảnh tịch mịch tanh mùi máy này, chỉ còn mấy con chó béo múp lượn lờ , thè cái lưỡi dài đỏ như máu cùng hơi thở gấp gáp , ai nhìn thấy cũng hiểu ngay chúng đánh hơi thấy mùi đại tiệc .
- * -
Binh lính cầm súng , những vết máu đã khô đen , những cái xác không đầu cùng lũ chó đang phấn khích , tất cả tạo nên cảnh thê lương xưa nay hiếm thấy ở thị xã Ngân Thành phồn hoa này .
Tin về cái chết của tri phủ đại nhân phút chốc đã loan truyển cả hai thành cũ và thành mới của dòng Ngân Khê. Những chi tiết chỉ có trong tưởng tượng cùng những phỏng đoán cũng theo đó mà mọc lên như nấm. Tâm trạng khiếp hãi như đám mây bao phủ khắp nơi !
Đám nhà buôn muối từng giờ từng khắc lo lắng cho tình hình giá cả muối mỏ , tính toán mua vào bán ra. Đám phụ nữ quanh năm suốt tháng chỉ biết cắm mặt vào kim chỉ biếp núc , rồi tới cả những người thợ quanh năm vất vả quanh cần trục, tất cả đều như bị tiếng nổ kia làm cho đờ đẫn vì khiếp sợ.
Người Ngân Thành không ngờ tri phủ đại nhân lại có thể bị nổ tung giữa đường phố đông đúc và sầm uất này . Tiếng nổ kinh thiên động địa làm những người Ngân Thành vốn dĩ bao đời nay chỉ quen với cuộc sống nhỏ nhặt và bình dị sợ tái mặt ….Tất cả các thương gia muối lập tức chuyển tiền mặt đi nơi khác , những chú la thồ những bọc nặng trĩu dưới sự giám sát của đội bảo vệ , bí mật lợi dụng bóng đêm. đi về tấp nập.
Người Ngân Thành có những căn cứ riêng của mình để phán đoán về thời cuộc. Khi đồng bạc còn ổn định, tự do lưu thông, mọi người đều sống yên ổn, hòa mục với nhau. Tới khi đồng bạc tự nhiên mất tích một cách bí mật. mọi người bắt đầu ra sức tích trử lương thực, chuẩn bị ứng phó với tai họa.
Vị quan mới nhận chức thống lĩnh đội tuần tra Ngân Thành là Nhiếp Cần Hiên. Phe chuẩn bị bạo động thuộc quân Cách Mạng Đảng đã tàn nhẫn bày ra trước phố xá, trước ánh mắt đói tiền của người dân Ngân Thành một bức tranh thê lương.
Cả tòa thành bỗng chốc chìm trong không khí khủng hoảng trước nay chưa từng có. Cú đòn bất ngờ làm những ngón tay chỉ quen gẫy bàn tính bỗng chốc hoang mang, mất đi tự tin. Trước đại họa cận kề, xuất phát từ tận cùng của bản năng sống, người Ngân Thành chỉ còn tin vào tiền bạc .
Thế là, để giải cứu cho những kẻ vừa bị bắt, đã có rất nhiều tiền bạc , rất nhiều thuyết khách bất đất dĩ, tới gõ cửa doanh trại .
Nhưng sự không nhân nhượng của Nhiếp Cần Hiên đã vượt xa tầm phán đoán của người Ngân Thành và quân Cách Mạng Đảng .
Không ai hay, không ai biết, để cứu vãn tình thế, trong lòng Nhiếp Cần Vương đã bắt đầu hình thành nên một kế hoạch lãnh khốc vô tình .
Đệ nhất chương : Hoàng Hà Tuôn Nước Từ Mây Trắng
Hồi 03
Mặc cho anh trai kiên quyết phản đối, mặc cho anh trai luôn miệng cảnh cáo không được dính dáng gì tới đám con trai "China", nhưng Hideyama Hoko vẫn rất thích đến bến đò Thính Ngư giặt quần áo. Để chiếc chậu gỗ đựng quần áo cạnh bờ sông, cô ngâm cả đôi chân đang đi guốc xuống thềm đá xanh ngập trong nước mát lạnh. Nước sông ngọam vào chân man mác, buốn buốn, ngứa ngứa; dòng nước đang chảy xuôi bị đôi chân chặn lại, tạo thành những gợn sóng dài, lặng lẽ chảy thẳng vào lòng người, rồi lại từ lòng người chậm rãi trở lại dòng sông... kéo mộc chiếc áo sũng nước lên thềm đá, chiếc vồ trắng phau đều đặn giơ lên hạ xuống Đệ, những hạt nước li ti tóe lên mặt...
Phụ nữ Ngân Thành đều ngồi xổm bên bờ sông giặt quần áo, nhưng Hoko lại luôn khom lưng đứng giặt giữa dòng nước. Lâu dần thành quen, người Ngân Thành không còn tò mò trước những động tác đặc biệt, trang phục đặc biệt, đôi guốc gỗ đặc biệt của cô nữa. Hoko vẫn còn nhớ lần đầu tiên, ánh mắt của những người phụ nữ Ngân Thành quan sát từng cử động của chiếc vồ đập vào quần áo, rồi tất cả ồ lên xuýtt xoa khen ngợi. Dù bất đồng ngôn ngữ, nhưng những người phụ nữ Ngân Thành vẫn phát hiện ra cô gái Nhật Bản này cũng dùng công cụ giặt quần áo như họ! Phát hiện này ngoài việc làm cho đám phụ nữ Ngân Thành ngạc nhiên thú vị, càng khiến cho họ thêm tự tin và cảm giác thân thiết. Phụ nữ trong thiên hạ hóa ra đều giống nhau. Phụ nữ Nhật bản cũng phải dùng vồ để giặt quần áo! Đám phụ nữ quây lại bên bờ sông trong vắt, giơ những cánh tay và những cái vồ trắng phau, cười nói rôm rả. Họ mồm năm miệng mười, hỏi tíu tít :
" Cô giáo ơi, anh trai cô mỗi tháng kiếm được một trăm năm mươi lạng bạc, cô mỗi tháng cũng kiếm được sáu mươi lượng, sao cô vẫn phải tự giặt quần áo?"
"Phụ nữ Nhật các cô cũng phải tự làm lấy mọi việc ư? Phụ nữ cũng có thể thành giáo viên, thành tiến sĩ , thành trạng nguyên sao? Phụ nữ cũng biết buôn bán chứ? Phụ nữa mà đi làm việc thế này thì nuôi dưỡng con cái như thế nào?"
"Là một phụ nữa chân yếu tay mềm tới nơi trời cao đất rộng như thế này, cô không sợ sao? Cô không nhớ nhà à?"
Cô sang Trung Quốc thế này, bố mẹ chồng cô cũng đồng ý sao?"
Hoko bị bao vây giữa những câu hỏi lọan xạ, mặc dù không hiểu những người đó nói gì, nhưng cô hiểu họ có thiện chí cũng như vẻ ngạc nhiên của họ. Hoko cố gắng nghĩ cách để giao lưu với họ, cô chỉ ra bến và nói:
"Thính... Ngư..."
Rất nhiều âm thanh trả lời cô: "Đúng, bên kia là là Thính Ngư đình. Đây là bến Thính Ngư. Mọi người đều tới đây đề giặt giũ và tắm rửa"
Cô lại chỉ về phía không xa, nơi có hai chữ to màu gan gà khắc trên vách núi, lộ ra chỗ khúc quanhcủa dòng sông" "Tô... Đông ... Pha..."
Những âm thanh lộn xộn nọ như càng hưng phấn. "Cô cũng biết đấy à? Đúng đấy, đúng đấy. Hai chữ đó là do Tô Đông Pha viết. Trong những người hát giọng cao, sẽ có người hát về Tô Đông Pha, ông là một đại quan văn đời nhà Tống, ông đã đến Ngân Thành của chúng tôi. Hai chữ "Thính Ngư" to to trên vách núi cao kia là do ông viết."
Hoko biết điển tích đó của Ngân Thành, cô còn biết "Dạ Bán Thính Ngư" là một trong bát cảnh của Ngân Thành. Ở bờ đối diện của vách núi đó, đối diện từ xa với hai chữ của Tô Đông Pha là một cái đình. Trên cột trụ của cái đình có một đôi câu đối: "Hà biên cổ sắt du ngư thính/ Liễu ngoại xao kỳ thụy lô phi" ( tạm dịch " Trên sông cá ngừng bơi để nghe đàn/ ngòai rằng liễu cỏ giật mình bay vì tiếng quân cờ va đập" ) .
Những điển tích này đều do Ino Toruzo kể cho cô nghe. Trước khi tới đây giặt quần áo, ba người đã tới cái đình đó, anh trai Ojiro của cô còn chụp cho họ một tấm ảnh nữa. Họ còn ngồi ở đó khui chai rượu sa kê mang từ quê sang, vừa uống rượu vừa trò chuyện cho tới khi trăng lên, không gian phủ đầy ánh trăng, tĩnh lặng tới mức nghe được cả tiếng cá quẫy nước vọng lại từ bờ bên. Dòng Ngân Khuê u tối bừng sáng dưới ánh trăng, rồi lại chìm trong bóng tối phía xa...Trên vách núi dựng đứng bên kia sông, là rừng rậm, đàn cò ngủ trên những ngọn cây, thân cò trắng toát ẩn hiện trong đám lá.
Nhưng hôm nay, ngôi đình bên kia sông không có người , chỗ bậc đá của bến Thính Ngư cũng không có người, vắng ngắt. Những chiếc thuyền gỗ đậu trên bến phu thuyền đội nón lá ngủ gật ở mũi thuyền. Trong cảnh tĩnh lặng đến ngạc nhiên, Hoko thả một chiếc váy dải xuống dòng nước trong vắt. Chiếc váy từ từ mở rộng ra, chậm rãi trôi theo dòng nước, hình những chiếc lá phong của quê hương in trên tấm váy cũng bồng bềnh theo. màu đỏ của lá phong, mùa thu buồn vương trên lá phong, dòng nước mát lạnh khơi dậy nỗi nhớ quê hương da diết khôn nguôi.
Hoko cảm thấy nước mắt khiến cô nhìn không rõ, Cô nâng váy, dùng chân khuấy nhẹ làn nước vấn vương tình cảm. say sưa ngắm cảnh, cô chợt nhớ bài thơ cổ :
" Trên mảnh vải hoa nhiều màu sắc
Hoa kia bối rối tựa lòng ta
Lòng ta vì ai mà thổn thức
Vì chàng, xin chớ hỏi gần xa "
Từ bến Thính Ngư ngược lên phía trên, vượt qua cửa sông, vượt qua chiếc cầu bảy nhịp, xa xa, nơi tận cùng dòng Ngân Khuê là ải Đồng Lĩnh giữa núi non trùng điệp, thấp thoáng cánh cò trắng trên bầu trời Ngân Khuê.
Ino Toruzo nói: " Thành mây trên ải Đồng Lĩnh" cũng là một cảnh đẹp nữa của Ngân thành. Con sông Ngân Khuê cũng được bắt nguồn chính từ bức thành mây đó." Trong ba người, Ino Toruzo kiêm luôn chức phiên dịch, anh ta hiểu Ngân Thành gần như lòng bàn tay.
Một hôm, Toruzo lấy ra quyển "Huyện Chí" cũ. Trên đôi tay mảnh khỏanh của anh, quyển sách bìa xỉn màu như cái giếng cổ, không biết bao nhiêu năm tháng chìm trong đó. Toruzo nói huyện, châu, tỉnh nào ở Trung Quốc cũng đều có "Chí". Quyển "Chí" này ghi chép địa lý, sản vật, phong tục, nhân vật, sự kiện lịch sử và tòan bộ những "cảnh" nêu trên. Mỗi địa phương cũng đều có "bát cảnh" của riêng mình. Kể cả cảnh vật có sơ sài tới đâu, thì cũng cố kiếm đủ cho được con số tám. Mỗi một cảnh đếu phải có một bài thơ tức cảnh để miêu tả, để cảm khái. Nhưng những thi sĩ này hầu hết cũng chỉ là những gã tầm thường.
Ngân Thành là một ngôi thành cổ nổi tiếng, nên những "cảnh" của Ngân Thành càng không thể thiếu, dù chỉ một. Anh tủm tỉm cười và nói: những hiểu biết của anh về Ngân Thành đều từ quyển "Chí". Khi Toruzo nói, nét mặt anh vừa nho nhã, vừa sôi nổi. Anh nâng quyển sách lên trước ngực, màu xanh sẫm của bìa sách càng làm nổi bật tuổi trẻ và vẻ nhợt nhạt của anh...
Nhìn những ngón tay mảnh khỏanh giở bìa sách, nhanh nhẹn lật những trang sách đã ngã màu, Hoko không kìm được con tim thổn hức. Cái tình của Hoko dành cho Toruzo ai cũng biết. Nhưng ở cái đất Ngân Thành xa xôi này, "người ngoài cuộc" mà nhìn xuyên thấu được trái tim cô đang thổn thức duy nhất chỉ có một người, đó là anh trai Ojiro của cô. Nhưng ojiro đã kiên quyến cấm cô, ngây cả trong ý nghĩ.
Khi quyết định cùng anh trai sang Trung Quốc dạy học, Hoko nào ngờ chính bản thân cô lại vướng vào lưới tình, càng không ngờ ở một nơi xa cách quê hương như thế này , mối tình "không thể" này lại dằn dặt con người ta đến như vậy. Hoko nhất quyết tới Trung Quốc vì cô thích Trung Quốc, nhất là thích trung Quốc của Lý Bạch và Tô Đông Pha. Cô đặc biệt thích thơ cổ. Nhờ những tập thơ như "Vạn diệu tập". "Cồ kim tập", hoặc "Bách nhân nhất thư" mà cô thêm hiệu về Trung Quốc. Cô tin chắc rằng, Trung Quốc của những áng thơ bao đời song hành cùng văn học cổ Nhật Bản quyết không phải là một China hiện tại đã bị Nhật đánh bại như lời đám thanh niên đã nói.
Hai năm trước, họ mang theo những trang thiết bị mới trang bị cho một trường học, lên tàu vượt biển ba ngày ba đêm từ Yokohama tới Trung Quốc. Sau đó ngày đi đêm nghỉ, từ Thượng hải ngược dòng Trường Giang bảy ngày đến Trùng Khánh, rồi lại từ Trùng Khánh đổi thuyền gỗ, thuê người chèo tiếp tục ngược dòng Trường Giang, Thanh Y, Ngân Khuê. Cuộc hành trình này mất gần một tháng, cứ chiều tối cập bến, sáng sớm nhổ neo, hết bế lạ này tới bến lạ khác, hết thành thị tới nông thôn.
Ngày ngày ngồi nơi mũi thuyền, ngắm tấm lưng trần của người phu kéo thuyền gập người mà bước trên bãi cát, trên những mỏm nham thạch, miệng hát, lời ca buồn tê tái. Hết núi lại sông, hết sông lại núi. Hoko thấy mình như đã đi tới tận cùng của chân trời góc bể, thấy trái tim trẻ trung của mình tựa cánh diểu cô độc, bị những người phu thuyền đưa đi mãi, còn Ngân Thành như câu chuyện thần thoại phía chân trời...
Khi chiếc thuyền gỗ của họ bắt đầu rẽ vào Ngân Thành, khi đi qua bãi Ngải Diệp, sát gần đập nước, thì Ngân Thành giàu có xuất hiện đột ngột trước mắt cô như trong câu chuyện "Nghìn lẻ một đêm". Tường thành thành cao sừng sững dựa lưng vào núi, nằm ở phía đông của bờ sông, dưới chân là dòng nước trong vắt tới đáy. Trên bến , thuyền bè ra vào tấp nập như mắc cửi. Hai bên bờ sông, những chiếc cần trục, hệ thống ròng rọc cùng những đường máng bằng tre chen chúc, giăng ngang trời.
Đâu đâu cũng có thể nhìn thấy lưỡi lửa hực sáng, tiếng kẽo kẹt của những bánh xe do lũ trâu kéo... Ba người bọn họ bỗng ngây người trước quang cảnh lạ lùng trước mắt. Họ không ngờ một Chine nghèo khó. lạc hậu . mê muội lại có một thành phố phồn hoa như vậy. Lưu Lan Đình- hiệu trưởng trường Dục Nhân, người đồng hành với bọn họ suốt chặng đường dài - chỉ tay tỏ vẻ phấn khởi:
"Các bạn nhìn ngôi nhà màu đỏ kia, đó là trường học của chúng ta, trên bờ Tây của dòng sông này, phía Thành Mới, còn nhà họ Lưu Đôn Mục Đường của chúng tôi thì tại bờ Đông của dòng sông, thuộc Thành Cũ. Nhà của các Đại thương nhân giàu có của Ngân Thành đều ở Thành Cũ. Nhà họ Lý Cửu Tư Đường, họ Vương Thận Di Đường, họ Triệu Đào Thục Đường cũng đều sống tại thành cũ. Ngọn núi phía sau thành cũ gọi là núi Ngọc tuyền, treên núi có " suối bay" là một trong số những thắng cảnh nổi tiếng của Ngân thành chúng tôi. Phía dưới không xa là biệt thự Tùng Sơn của gia đình tôi, hôm nào tôi sẽ đưa ba vị tới đó tham quan cảnh " suối bay dưới trăng" Có điều, cho đến khi các thiết bị mới toanh trên thuyền này đều đã lắo đặt, trường Dục Thanh của chúng ta sẽ trở thành một kỳ quan mới của Ngân Thành... Hideyama huynh, chiếc máy ảnh của huynh tới lúc đó sẽ rất được việc đấy! "
Như để đáp lại câu nói đầy tự hào của Lưu Lan Đình, những người phu thuyền lại chậm rãi cất tiếng hò, khiến vô số ánh mắt tò mò nhìn ra. vài người tinh mắt chợt reo lên: "Ơ kìa, cậu Bảy Lưu đã từ Nhật Bản trở về đây này" Chỉ một thóang, trên bến đã tập trung một đám lớn những kẻ tò mò. Ai đó trong đám họ khen:
"Cậy Bảy Lưu, mang theo cả người Tây về quê thì oách quá !"
" Cậu Bảy Lưu , cậu có hiếu quá nhỉ! Ông Ba ở nhà ngày ngày lo cho cái bím tóc của cậu. Cậu vẫn giữ được bìm tóc, chắc cụ Ba vui lắm đấy !"
Lưu Lan Đình chỉ còn biết vòng tay trước đám đông, đỏ mặt cười trừ.
Tận mắt chứng kiến cảnh một thành phố và cả một đám đông đột ngột hiện ra trước mắt như trong chuyện thần thoại, Hoko bất giác nắm chặt tay anh trai. Cô chợt nhớ Yokohama, nhớ tiếng kêu buồn bã của những con hải âu giữa biển trời, sóng gió bao la. Nơi đây xa quê cô hàng vạn dặm, ngăn sông cách bể, ngay từ giớ phút đấy, Hoko đã vương vào giữa những sợi nhớ sợi thương quê nhà, mong manh nhưng bền và khó gỡ. Hai năm trở lại đây, nỗi nhớ quê hương, sự ngóng chờ người yêu khiến cho trái tim của Hoko tựa hồ như một tấm mạng nhện mảnh mai và nhạy cảm, chỉ cần một va chạm nhỏ là đã rung động khôn nguôi.
Ngày hôm nay vẫn còn trong dịp nghỉ tết Trung thu. Vốn dĩ, Hoko dự định cùng bọn họ đi uống trà ở quán trà Hội Hiên bên thành cũ, nhưng Ojiro và Toruzo kiên quyết không đi. Nhìn vẻ mặt cả quyết của họ, cô linh cảm sẽ có chuyện quan trọng.
Quả nhiên vào lúc gần trưa, một tiếng nổ cực lớn vang lên từ phía thành cũ. Sau phút hoảng loạn đầu tiên, cả Ngân Thành bỗng im lặng đáng sợ. Bến Thính Ngư nằm chếch với cửa bắc của thành cũ, nên từ xa Hoko đã nhìn thấy đám binh lính đóng ngay cửa thành. Cô vội vàng vơ hết quần áo đang giặt dưới sông, rồi nhanh chóng bước lên bậc thềm đá. Đi được vài bước, cô đột ngột dừng lại, đặt chiếc chậu gỗ đầy quần áo xuống thềm đá, ngẩn người nghĩ ngợi.
Cổng thành cũ đã đóng, mà bến Thính Ngư là con đường Ojiro buôc phải về qua. Thà rằng ở đây đợi họ còn hơn chạy thẳng về trường. Dù biết nếu anh trai nhìn thấy mình ra sông giặt áo sẽ rất giận, nhưng giờ thì đành vậy. Hoko thấp thỏm ngồi chờ nơi thềm đá, sốt ruột nhìn về phía cổng thành đóng chặt.
Vụ nổ đáng sợ vừa rồi, người thân của cô có sao không? Sợ hãi và sốt ruột khiến mặt cô tái nhợt. Trên tòa thành cao sừng sững, lá quân kỳ tung bay trước gió, phía dưới là đám binh lính chạy nhốn nháo . Tòa thành cổ trong nháy mắt đóng chặt cả bốn cổng, biến thành nơi thâm nghiêm đáng sợ. Hoko ngồi trên thềm đá bỗng cảm thấy buồn quá, cô khóc.
Trên bến, người phu thuyền cũng giật mình kinh hoảng vì tiếng nổ. Anh ta lật ngược nón trên đầu, liếc Hoko đang ngồi trên thềm đá, lòng bất giác khen thầm:
"Cô giáo Nhật này thật chẳng khác Bạch Nương Tử giáng trần"