Bạn bè nhiều năm không gặp, tất có nhiều điều để nói, cho nên sau bữa ăn, hai người còn tán gẫu rất lâu. Người già thường hoài niệm về những ký ức xa xưa, thuở mà hai ông lão còn xông pha, ra sức giúp triều đình với trái tim bừng bừng nhiệt huyết của tuổi thanh niên. Phùng lão đang trò chuyện bỗng dỏng tay lên lắng nghe:
- Lão nghe có tiếng hô, là ai tập võ lúc này à?
Đại sư Viên Ngộ đáp:
- À, là Vô Tướng đấy, thằng bé rất mê tập võ, hễ rảnh rỗi không có việc gì làm là đi luyện công, luyện tới quên cả thời gian.
Phùng lão tấm tắc khen ngợi:
- Thảo nào Hoàng Giác Thần Công của Vô Tướng đạt đến cảnh giới cao như vậy. Đúng là có thầy giỏi tất sẽ có trò giỏi.
Phùng lão vừa vui vẻ đó lại buồn bã ngay, ông lắc đầu than thở:
- Chẳng bù với tôi, gần hết đời người rồi mà vẫn chưa thu được một học trò nào để truyền thụ, đáng buồn thay.
Đại sư Viên Ngộ cười tủm tỉm an ủi:
- Đó là do Phùng huynh chưa gặp người có duyên mà thôi.
- Dù gặp kẻ hữu duyên chỉ e tư chất khó mà bằng được như Vô Tướng.
Phùng lão ngẩng đầu lên nhìn trời, thở dài cảm thán. Con mắt sắc sảo phản chiếu lại ánh sáng của tinh tú trên trời cao.
Trời hôm nay đẹp lạ thường, dải ngân hà vắt ngang rực rỡ đầy màu sắc. Mấy chú tiểu lẫn nhà sư nhỏ tuổi trong chùa tụ tập trên sân chỉ trỏ lên bầu trời, bàn tán to nhỏ với nhau vô cùng thích thú:
- Nhìn kìa, nhìn kìa, sao trên trời hôm nay đẹp thật, sáng quá đi mất.
Một trong hai chú tiểu ngăn Phùng lão hôm nay ở ngoài cửa chùa, chỉ tay vào một đám sao lung linh nói lớn:
- Ừ, cũng kỳ lạ nữa! Ồ, mọi người xem, lại xuất hiện ngôi sao mới nữa, sáng rực luôn
Đại sư Viên Ngộ và Phùng lão nhìn nhau mỉm cười. Khung cảnh yên bình làm cho tâm hồn thanh thản. Cả hai ông lão cùng ngẩng đầu lên quan sát, thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên.
Đột nhiên, nét mặt Phùng lão dần trở nên cứng lại, ánh mắt đăm chiêu nhìn chằm chằm lên các vì sao, mà đại sư Viên Ngộ ở bên cạnh cũng biểu hiện tương tự.
Đích thực đúng như lời chú tiểu kia nói, ngôi sao màu tím chính giữa bầu trời trước nay vẫn luôn sáng nhất thì tối hôm nay bỗng nhiên mờ đi, thay vào đó là ngôi sao xanh gần bên bỗng nhiên phát sáng rực rỡ. Ngoài ra, một ngôi sao bất chợt xuất hiện ở phương Nam cũng tỏa sáng mạnh mẽ chảng kém gì ngôi sao xanh đó. Hơn nữa, xung quanh nó còn có thêm mười tám cái khác, khiến nó trở nên nổi bật hơn cả.
“Trên trời có thiên tượng lạ, ắt dưới đất có chuyện.” Phùng lão thông hiểu thiên văn, am tường địa lý, quan sát các vì sao mà đoán sự đời.
Trời không có gió nhưng quần áo của Phùng lão tự dưng bay phần phần, ống tay căng phồng, hiển nhiên nó chứa đầy nội lực. Phùng lão đang thi triển thần thông, hai mằt sáng rực, cát bụi dưới chân ông xếp thành một vòng tròn bao quanh bàn chân và quay theo chiều từ phải sang trái, rồi sau đó là những chiếc lá rụng trên sân chùa. Phùng lão chỉ đứng im một chỗ mà khiến cho mọi vật chuyển động theo ý mình, võ công của lão đã đạt cảnh giới không thể đo lường được.
“A! Chuyện gì đang xảy ra vậy, thế này... thế này là sao?” Phùng lão trợn tròn hai mắt kinh ngạc khi nhìn thấy khung cảnh hiện ra trước mặt.
Ông nhìn thấy ba luồng long khí có màu sắc khác nhau cùng hiện trên bầu trời, một màu tím, một màu xanh lam và một màu vàng. Con rồng tím (tử long) lớn bao bọc ngôi sao tím trước đây vốn rất to giờ đã nhỏ đi rất nhiều, thay vào đó là đồng thời ở hai ngôi sao màu xanh và màu vàng lại xuất hiện hai con rồng khác. Con rồng xanh (thanh long) bé hơn một chút, nó nhe nanh múa vuốt nhăm nhe tấn công tử long, tiếc rằng sức lực chưa đủ nên vẫn bị tử long trấn áp. Còn con rồng vàng (kim long) thì nhỏ nhất và yếu nhất và đang ở trạng thái ngủ yên. Tử long và thanh long cách khá xa kim long nên kim long không bị uy hiếp bởi chúng. Nó đang không ngừng phát triển lớn dần lên.
“Long khí bị phân tán làm ba, sắp xảy ra việc động trời.” Trong lòng Phùng lão chấn động. Long khí thể hiện cho vận mệnh của một quốc gia. Xưa nay mỗi lần long khí có sự đột biến là lại xảy ra nạn binh đao, máu lửa.
“Long khí chia ba, lẽ nào không thể tránh được nạn can qua ư?” Phùng lão bấm đốt ngón tay thầm tính toán rồi khẽ lắc đầu.
- Ai di đà phật! Thiện tai! Thiên tai! Vậy là lại sắp có trường hạo kiếp ập xuống đầu người dân vô tội rồi.
Đại sư Viên Ngộ niệm kinh, tâm trạng đại sư rất buồn bã, giống như Phùng lão.
Phùng lão quay sang đùa một câu:
- Lão không biết là đại sư cũng hiểu chút đạo thuật nhỏ nhoi này đấy.
Đại sư mỉm cười đáp:
- Từ sau khi lão nạp thấu hiểu được Hoàng Giác Chân Kinh do tổ sư truyền lại thì lão nạp có học được chút ít, trước mặt Phùng huynh khác gì múa rìu qua mắt thợ, chẳng đáng để nhắc tới.
- Ha ha, đại sư quá khiêm tốn rồi.
- Ai di đà phật! Phùng huynh nhận định thế nào về điều kỳ lạ này?
Đại sư Viên Ngộ hỏi Phùng lão về thiên tượng. Phùng lão không trả lời ngay mà trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi mới nói:
- Hiện tại lão thấy ý trời vẫn chưa rõ ràng, có lẽ phải chờ thêm một thời gian nữa hẵng tính.
Đại sư dường như cảm giác được Phùng lão đang e ngại điều gì đó nên hỏi tiếp:
- Lão nạp chỉ sợ rằng chưa đến lúc đó mà điềm xấu đã xảy ra, bách tính lâm vào cảnh lầm than thôi, bấy giờ Phùng huynh tính sao?
Phùng lão thở dài:
- Lão hiểu đại sư muốn nói gì, nhưng nếu số trời đã định thế thì đâu thể tránh khỏi, đúng không?
- Phùng huynh, huynh có đạo thuật phi thường, thử nghĩ cách hóa giải xem.
Phùng lão gật đầu:
- Cách đương nhiên lão sẽ nghĩ, có điều lão vẫn chưa nắm bắt được hết thiên ý nên tạm thời... không có cách nào vẹn toàn, đành đi bước nào hay bước ấy.
Dứt lời, Phùng lão chắp tay sau lưng, ngước mặt nhìn trời, trầm tư nghĩ ngợi. “Sư đệ à, đệ sẽ xử lý chuyện này ra sao?” Phùng lão bất giác nhớ tới một cố nhân từ rất lâu. “Hoàng thượng nhất định sẽ phát hiện có điều bất thường, ngài sẽ đến hỏi đệ thôi. Đệ sẽ trả lời ngài ra sao? Ôi chao! Sao ta thấy bất an quá!”
Suy nghĩ của Phùng lão lại miên man ngược dòng thời gian quay về dĩ vãng, quá khứ năm xưa như một thước phim quay chậm dần dần hiện ra trong mắt lão. Đại sư Viên Ngộ thấy ông không nói nữa thì cũng lặng im đứng đó. Hai người nhất thời rơi vào trầm mặc... Mỗi người theo đuổi một suy nghĩ riêng.
Vô Tướng luyện công xong, trở lại, bắt gặp hai lão tiền bối đứng lặng như tờ, chàng tò mò hỏi:
- Thầy, Phùng tiền bối, tại sao hai người có vẻ căng thẳng vậy ạ? Có chuyện gì không tốt sao ạ?
Giọng nói của Vô Tướng cắt dứt dòng suy nghĩ, kéo hai ông lão quay về thực tại. Đại sư Viên Ngô không muốn cho Vô Tướng biết trên trời có thiên tượng xấu nên lảng sang việc khác:
- Không có gì đâu, ta và Phùng tiền bối đang nhớ lại trận tỷ thí chiều nay thôi.
Phùng lão hiểu ý đại sư, gật đầu nói theo:
- Đúng thế! Chúng ta bàn về trận tỉ thí đó!
Vô Tướng đâu thể suy nghĩ sâu xa như hai ông lão nên chàng cười nói:
- Thầy đừng quá lo lắng, hôm nay bọn chúng bị một trận mất mặt phải bỏ đi, chắc chắn chúng không dám quay lại đây nữa đâu ạ.
- Ta cũng mong là được như thế.
Tiếng nói của đại sư Viên Ngộ nhẹ đến mức chỉ Phùng lão đứng sát cạnh là nghe được. Rồi hai lão thoáng đưa mắt nhìn nhau thấu hiểu, cả hai không mong muốn làm vấn đục tâm địa thiện lương của đứa trẻ này nên lựa chọn cách giấu đi, hy vọng duy trì cuộc sống bình yên cho nó được chừng nào hay chừng ấy!
Vô Tướng nói:
- Thầy và Phùng tiền bối vào trong nhà đi ạ, trời đã trở lạnh, hai người không nên đứng ngoài quá lâu.
Phùng lão gật đầu đáp:
- Ừ, sương rơi mỗi lúc một dày hơn rồi, chúng ta vào trong nghỉ thôi.
Thật ra với võ công của hai ông lão, thời tiết thế này có đáng kể gì, chẳng qua hai ông không muốn Vô Tướng suy nghĩ lung tung nên đồng ý.
Sáng sớm hôm sau, Phùng lão sửa soạn đồ đạc, khăn gói lên đường. Đại sư Viên Ngộ cùng Vô Tướng tiễn ông đến cổng chùa, Phùng lão nói:
- Đại sư tiễn lão đến đây được rồi, hai người quay về đi.
Bữa tiệc nào cũng đến lúc tàn, cuộc gặp nào rồi cũng có lúc phải chia tay, đại sư hiểu rõ điều này, ông cười nói:
- Phùng huynh có dự định đi đâu chưa?
- Lão chưa biết nữa, có lẽ lão sẽ đi thăm một vị cố nhân trước, còn sau đó thì vẫn cứ nay đây mai đó, xem bốn bể là nhà thôi.
Hai người đều đã vào cái tuổi cổ lai hi, lần này chia tay tại chùa, không biết còn có cơ hội gặp lại nhau nữa không, trong lòng bỗng cảm thấy hụt hẫng, đại sư thở dài nói:
- Lão nạp hiểu trong lòng Phùng huynh còn vương vấn nhiều việc cần phải làm nên lão nạp không tiện giữ lại, chỉ biết chúc Phùng huynh lên đường bình an.
- Cám ơn đại sư, à phải, lão muốn khuyên Vô Tướng tiểu sư phụ một câu, tiểu sư phụ tài năng xuất chúng, tiểu sư phụ đừng để nó mai một ở chốn này, mà hãy đem ra giúp nước giúp đời.
Vô Tướng chắp tay thành khẩn đáp:
- Cám ơn tiền bối đã chỉ báo, tiểu tăng xin ghi nhớ.
- Hay lắm, ha ha, vừa rồi chỉ là ngu ý của lão, xin đại sư bỏ quá cho.
Đại sư mỉm cười lắc đầu:
- A di đà phật, lời Phùng huynh khuyên bảo Vô Tướng rất đúng, lão nạp mừng còn không kịp, sao lại trách Phùng huynh chứ.
Phùng lão ha hả đáp
- Ha ha, đại sư quả là tri kỷ của lão, ha ha ha, lão đi đây, tạm biệt, hẹn ngày gặp lại.
Đại sư và Vô Tướng cùng nói:
- Tạm biệt Phùng huynh! (Tạm biệt tiền bối!)
- Tạm biệt! Ha ha ha ha!
Phùng lão thi triển khinh công xuống núi, thoáng một cái không thấy bóng dáng đâu nữa. Người đã đi rất xa nhưng tiếng cười thì vẫn văng vẳng trong núi, vọng vào tai các nhà sư rõ mồn một, khiến cho ai nấy đều khiếp hãi lẫn thán phục.
Kinh thành Thăng Long, nằm dọc theo bờ con sông Nhị, một nơi phồn hoa đô hội. Những đoàn thuyền nối đuôi nhau ra vào tấp nập, trên hai bờ, khung cảnh buôn bán sầm uất, chợ búa, hàng quán mọc lên khắp nơi. Hàng nghìn những mái nhà lớn nhỏ san sát nhau kéo dài vượt ra khỏi tầm mắt
Trời đã bắt đầu chuyển về chiều mà phố xá vẫn nhộn nhịp người lại qua, tiếng nói tiếng cười rộn rã. Cuộc sống đã bắt đầu trở lại với nhịp độ vốn có của nó sau khi quân Chiêm rút khỏi kinh thành.
Giữa khung cảnh tươi vui, xuất hiện 1 lão nhân tay xách túi nải, ông lão đó chính là Phùng Sĩ Chu. Quãng đường từ Yên Sơn đến Thăng Long nói gần chẳng gần, nói xa cũng không phải xa, bằng vào võ công bản thân, ông lão chưa mất đến một ngày đêm đã tới kinh thành.
Ông chọn một quán ăn nằm ở bờ Đông của Hồ Tây để nghỉ ngơi trong những ngày ở kinh thành. Ông không định sẽ ở đây lâu, bởi theo dự tính của ông thì sau khi xong việc tại kinh thành ông sẽ quay trở về bản môn, đã đi xa bản môn hơn hai chục năm, trong lòng tất nhiên sẽ nhớ nhung.
Đứng trên lầu ngắm cảnh hoàng hôn, trong lòng Phùng lão chợt dấy lên một nỗi niềm khó tả. Kí ức năm xưa chợt ùa về, nhớ ngày đó ông thường cùng vợ ra Hồ Tây ngắm cảnh, mỗi lần như thế nàng đều nói cười vui vẻ, ánh mắt long lanh, má hây hây đỏ làm ông ngây ngất. Nụ cười đó, ánh mắt đó, đôi môi đó, bòng hình thướt tha đó đã khắc sâu vào tâm khảm ông, cả đời cũng không thể nào quên được!
Ông nhìn xuống Hồ Tây, mặt hồ sóng gợn lăn tăn, nhìn sang bãi cỏ, gió thổi qua thảm cỏ có vẻ gì đó thật đìu hiu, trong lòng bỗng thấy buồn man mác. Ôi, cảnh còn nhưng người thì đã mất, cảm xúc trào dâng, bất giác ông ngâm lên:
Thập niên sinh tử lưỡng mang mang
Bất tư lượng
Tự nan vong
Thiên lý cô phần
Vô xứ thoại thê lương
Túng sử tương phùng ưng bất thức
Trần mãn diện
Mấn như sương
Dạ lai u mộng hốt hoàn hương
Tiểu hiên song
Chính sơ trang
Tương cố vô ngôn
Duy hữu lệ thiên hàng
Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ
Mịnh nguyệt dạ
Đoản tùng cương.
Dịch thơ:
Mười năm sinh tử miên man
Lòng xuân khôn dứt muôn vàn ái ân
Quan san vạn dặm cô phần
Thê lương tình ấy phân trần nơi đâu
Tương phùng chẳng nhận được nhau
Tóc xanh mặt ngọc đượm màu phong sương
Đêm mơ về lại cố hương
Thấy em hiên vắng soi gương chải đầu
Nhìn nhau chẳng nói một câu
Tóc xanh ướt đẫm lệ sầu chứa chan
Biết khi trăng sáng thông ngàn
Đoạn trường chốn ấy gặp nàng được chăng
(Vi Nhất Tiếu dịch)
Tâm trạng của Phùng lão bây giờ bảy phần giống với Đông Pha cư sĩ thời nước Đại Tống khi nhớ vợ mình, nên mới tức cảnh sinh tình, buột miệng ngâm thơ. Nỗi nhớ người thương bùng cháy làm lòng ông đau như cắt.
Trời dần về đêm, ánh mặt trời cuối cùng cũng đã lặn xuống và những người nông dân cũng lặng lẽ về nhà lặng yên nằm ngủ như quá mệt mỏi vì vất vả cả ngày.
Những vì sao lung linh như mộng ảo phủ kín bầu trời đêm, trăng trên cao tỏa sáng vằng vặc, chiếu những sợi tơ vàng xuống mặt đất như phủ lên một tầng lụa mỏng mơ hồ, tất cả tạo nên một khung cảnh đẹp đến say lòng người, đáng tiếc lúc này Trần Thì Kiến lại không có tâm tình thưởng thức. Gương mặt ông hiện rõ sự bồn chồn lo lắng: "Triều chính rối ren, vận nước bất ổn, thế cục đảo điên, lại thêm ngoại xâm đe dọa, ôi, biết bao giờ mới thấy được hòa bình." Ông lòng không yên, cứ tới tới lui lui không ngừng, những nếp nhăn do thời gian hằn sâu trên trán. Thế rồi Trần lão bỗng mỉm cười nói:
- Sư huynh, huynh nấp ở đó cũng lâu rồi, sao vẫn chưa chịu xuất hiện đi.
- Ha ha ha!
Tiếnp cười của Phùng lão vang lên sang sảng:
- Ha ha ha, ta đã vận công bế khí, không ngờ vẫn bị đệ phát hiện.
Phùng lão từ trên mái nhà phi thân xuống, râu trắng phất phơ như thần tiên hạ phàm, vẻ mặt tươi cười, ông hiện tại rất vui. Trần lão cũng vui mừng không kém, hai sư huynh đệ ôm chặt nhau, cười to đầy sảng khoái. Trần Thì Kiến cười nói:
- Sư huynh, mấy chục năm không gặp, râu tóc đã bạc trắng cả.
Phùng lão cảm thán:
- Đệ cũng giống vậy thôi, chúng ta đều già hết rồi, già hết cả rồi.
Sau phút xúc động, Trần Thì Kiến thâm tình nói:
- Sư huynh, quá lâu chúng ta chưa có cơ hội gặp nhau thế này, huynh hãy ở đây vài ngày.
Phùng lão từ chối:
- Không, ta chỉ đến thăm đệ rồi sẽ rời đi.
- Hay nói rõ hơn, huynh đến để xem đệ giải thích với hoàng thượng như thế nào đúng không?
Làm sư huynh đệ đồng môn đã mấy chục năm nên Trần lão rất hiểu Phùng lão. Phùng lão cũng không nói dối, gật đầu trả lời:
- Không sai, khi nhìn thấy thiên tượng liên tục xuất hiện, ta đã rất lo cho đệ. Làm bạn với vua như làm bạn với hổ, chỉ một lần lỡ lời thì lập tức mất mạng.
Trần lão tiếp lời:
- Nhắc đến nhiệm vụ phò tá Hoàng Thượng và triều đình, đệ xin nói thật một câu, khi xưa sư huynh đệ chúng ta từng hợp sức trợ giúp tiên đế đánh bại quân Nguyên, sau đó vài năm, sư huynh đột ngột bỏ đi, khi biết tin, đệ đã rất buồn và thất vọng.
Chuyện cũ xảy ra từ rất lâu, nhớ lại nó, trong lòng không khỏi có chút hoài niệm, Phùng lão không vì lời thẳng thắn của sư đệ ông mà giận, ông chỉ cảm khái:
- Sư huynh biết chứ, có điều chẳng phải khi xưa, trước lúc chúng ta rời sư môn đi phò tá tiên đế, sư phụ từng nói sau khi đại phá quân Nguyên lần ba thì chúng ta nhất định phải rời đi. Nếu còn tiếp tục ở lại, hậu quả khôn lường.
- Tính tình huynh thích tiêu dao tự tại, đệ hiểu rõ nên chẳng chê trách sư huynh đâu. Những lời khuyên răn của sư phụ đệ nhớ chứ, mà bản thân đệ cũng muốn được như sư huynh, chỉ là quốc gia đang trong lúc dầu sôi lửa bỏng, đệ không thể khoanh tay đứng nhìn.
Hai tay Phùng lão siết chặt đầu vai Trần lão, đôi mắt ông mở lớn, sáng rực như tóe lửa:
- Ôi sư đệ của ta, sao đệ vẫn mãi chấp mê bất ngộ như vậy, Hoàng Thượng hiện tại ngồi trên ngai vàng hiện tại có đáng để đệ ra sức phò tá hay không? Mặt khác, đệ thân là trưởng môn, đệ phải nghĩ cho tâm huyết của các bậc tiền nhân đã sáng lập ra môn phái chứ.
Trần lão vẻ mặt cứng lại, không phục, lên tiếng phản bác:
- Không, người chấp mê bất ngộ là sư huynh chứ không phải là đệ. Tuy rằng huynh nói đúng, Hoàng Thượng tửu sắc vô độ, gian thần lộng triều nhưng dù sao vẫn còn một số ít trung thần luôn luôn ra sức cố gắng vực nó dậy, trong đó cả huynh lẫn đệ, chả lẽ nó không đáng sao? Không, đệ thấy đáng lắm, và chắc hẳn các bậc tiền nhân của bản phái cũng đồng ý với việc làm của đệ.
- Chỉ sức lực của một vài người như đệ liệu có thể làm được gì? Sư đệ à, không gì cả, tất cả công sức chỉ là muối bỏ bể mà thôi, nó không tạo ra ảnh hưởng gì cả đâu.
Trần lão cương quyết:
- Nhưng nếu như có thêm sư huynh thì sẽ khác, chỉ cần hai chúng ta hợp sức thì không gì không làm được, giống như bốn mươi năm về trước vậy.
Phùng lão bất lực buông tay ,thở dài chán nản:
- Quá khứ mãi mãi chỉ là quá khứ, đệ đừng nhắc nữa! Sư đệ, ta một lần nữa khuyên đệ hãy quay về đi, đừng ở đây nữa.
Trần lão vẫn lắc đầu:
- Thôi sư huynh đừng nói nữa, xem ra cả huynh và đệ đều là những kẻ chấp mê bất ngộ, khó có thể sửa đổi, giờ lòng đệ đã quyết, dù trời có sập đệ vẫn sẽ làm.
Phùng lão định nói thêm gì nữa, sau cùng thở dài xua xua tay:
- Được rồi, ta không nói nữa. Phận làm sư huynh, ta chỉ muốn tốt cho đệ, nhưng ta cũng không muốn thấy vì chuyện này mà gây ảnh hưởng đến tình cảm của sư huynh đệ chúng ta.
Lúc này một tên nô tài của phủ đi tới thông báo cho Trần lão:
- Đại nhân, Hoàng thượng giá đáo.
Trần lão không hề ngạc nhiên, ông hờ hững nói:
- Hoàng thượng đến đây ư? Được, ta ra ngay!
Phùng lão hướng mắt ra ngoài đại sảnh, rồi quay lại bảo sư đệ ông:
- Sư đệ, Hoàng Thượng đến, ta không tiện ở đây lâu, có lẽ ta tạm lánh đi một lát.
Trần lão gật đầu đồng ý:
- Sư huynh nói cũng có lý, vậy huynh ra hậu viện ngồi đợi đệ, khi Hoàng Thượng trở về rồi chúng ta sẽ lại tiếp tục hàn huyên.
- Được
Trần lão sau khi sắp xếp chỗ cho Phùng lão thì ra ngoài đại sảnh. Ông chỉnh lại y phục rồi quỳ xuống dập đầu hành lễ:
Trần Phế Đế là vị vua thứ mười của triều Trần. Ông ta là một vị vua u mê, nhu nhược, không làm nổi việc gì, để cho uy quyền ngày càng rơi vào tay kẻ dưới, không ai khác mà chính là Lê Quý Ly. Ông ta lại có phần hơi háo sắc, không chịu tu tâm dưỡng tính nên võ công Hoàng triều của Trần gia chỉ luyện được chưa đến hai phần.
Ngay trong đêm thiên tượng xảy ra, khi vua đang say sưa với cung tần mỹ nữ thì bỗng dưng người mệt lả, cảm giác dương khí trên người thoát ra nhiều, không tự chủ được mà “thả quân”. Ông ta ở ngôi cửu ngũ chí tôn, võ công Hoàng triều có liên hệ mật thiết với Long khí, dù chỉ luyện ít ỏi nhưng nếu nó biến động, ông ta vẫn sẽ biết được. Vì thế ông ta hoảng hốt, chạy ngay đến Trần Thì Kiến hỏi.
Trần lão cứ giải thích đúng sự thật đó là do Quý Ly có ý đồ làm cướp ngôi, làm Tử Long khí suy yếu, ông bỏ qua Kim Long khí bởi sự uy hiếp lớn nhất hiện tại là Thanh Long khí. Phế Đế hỏi tiếp ông cách xử lý thì ông đáp lại rằng: “chỉ có cách duy nhất là trừ khử Quý Ly.”
Trong lòng Phế Đế e ngại quyền lực của Quý Ly trong triều quá lớn mạnh nên chưa dám quyết định, bề ngoài giả bộ nói là việc này quá lớn, cần phải xem xét kỹ lưỡng. Nhưng rồi dương khí mỗi lúc một yếu, vua càng thêm lo sợ nên hôm nay lại đến tìm Trần lão. Trần lão dù hiểu nhà vua đến đây với mục đích gì nhưng phận làm bề tôi vẫn phải hỏi:
- Đêm đã khuya, Hoàng Thượng nên nghỉ ngơi, Ngài thân chinh đến phủ của thần hẳn có việc gì gấp rút?
Vua trừng mắt nói:
- Ngươi còn giả ngốc nữa hả, đại kiếp của trẫm chưa hóa giải, ngươi nghĩ trẫm có thể ngủ yên được sao?
Ông lặp lại câu nói lần trước:
- Hoàng thượng, vi thần đã từng nói muốn hóa giải trường đại kiếp này và ngồi vững ngôi vàng, chỉ có duy nhất một cách là người phải trừ khử Quý Ly, không được để cho y tự tung tự tác, phá hoại triều đình nữa.
Phế Đế tức giận vung tay quát:
- Trẫm biết, đương nhiên trẫm biết, nhưng hiện giờ thế lực của hắn rất lớn, nhân tài của hắn nhiều vô số kể, còn trẫm chỉ có mình ngươi và tên thái giám hầu hạ bên cạnh là tâm phúc thì làm sao có thể diệt được hắn đây.
Trần lão vẫn chỉ trả lời lấp lửng:
- Hoàng thượng, chỉ cần người có lòng muốn diệt lão ta, tất sẽ có nhân tài giúp người.
Vua hiểu ý, hỏi ngay:
- Vậy ngươi có cách gì không?
- Dạ thưa Hoàng thượng, tai vách mạch rừng, vi thần khó mà nói ra được.
Rồi ông dùng phép Truyền Âm Nhập Mật truyền sang vua tâu trình kế hoạch.
***************Chú thích*******************
Năm 1165, vợ của Tô Thức là Vương Phất từ trần mới 27 tuổi. Mười năm sau (Ất Mão 1775), Tô Thức đang làm “Tri Châu” ở Mật Châu (Sơn Đông), xa cách quê hương (Tứ Xuyên) mấy ngàn dặm. Đêm mơ thấy người vợ đã khuất, ông làm bài từ điệu vong này. Tô Thức là người đầu tiên làm từ điệu vong.
Trần Thì Kiến dùng phép Truyền Âm Nhập Mật nói với nhà vua:
- Hoàng thượng, hai ngày nữa là đến ngày các vì sao đổi dời, thần sẽ thi triển đạo thuật mạnh nhất của mình, trước tiên để hóa giải sự suy yếu của Long khí, Lê Quý Ly vì thế mà sẽ bị đau ốm. Sau đó, Hoàng thượng cho Cấm Vệ Quân âm thầm tới bắt Quý Ly rồi trừ khử hắn đi là ngài sẽ không cần phải lo lắng gì nữa cả.
Danh tiếng Dịch lý và đạo thuật của Trần Thì Kiến vang danh khắp nơi, những lời này tất không phải giả, nhưng ông ta vẫn tò mò muốn biết nhiều thứ nên hỏi:
- Nhưng khanh làm phép gì mà có thể khiến cho Lê Quý Ly bị đau ốm vậy?
Trần lão tâu:
- Bẩm Thánh thượng, là như thế này ạ. Trời có Thiên khí, đất có Địa khí thì người cũng có Nhân khí. Chính Nhân khí của Quý Ly đã làm suy yếu Long khí của Thánh thượng nên muốn loại trừ hắn chỉ có cách làm yếu Nhân khí của hắn.
Ông tìm lời uyển chuyển chứ nói đúng sự thật thì vua sẽ nổi trận lôi đình mà hỏng kế hoạch. Vua nghe thế gật gù bảo:
- Ra là thế, vậy cứ làm theo lời khanh.
- Thánh thượng yên tâm, nhất định lần này Quý Ly khó lòng chạy thoát.
Phế Đế bật cười to:
- Ha ha ha, hay lắm, hay lắm, Trẫm có khanh phò tá, lo gì đại nghiệp không thành.
Phế Đế sau khi có được lời đảm bảo của Trần lão thì vui mừng quay trở về và lệnh cho tên thái giám thân cận của mình:
- Ngươi hãy đi lựa chọn mười lăm mười sáu người giỏi nhất trong Cấm Vệ Quân cho trẫm.
Lão thái giám già rất ngạc nhiên bởi ông ta chưa bao giờ thấy Hoàng Đế tỏ ra nghiêm trọng như thế, bèn hỏi:
- Hoàng Thượng, ngài bỗng nhiên triệu tập Cấm Vệ Quân, không biết ngài gặp chuyện gì vậy ạ?
Phế Đế đáp:
- Không có việc gì, trẫm muốn bắt trộm.
- Hoàng thượng muốn bắt trộm? Có tên trộm nào cả gan dám trộm đồ của Ngài ư?
Lão thái giám đã sống nhiều năm trong cung nhưng đây là lần đầu tiên ông ta nghe nói có trộm.
Phế Đế gật đầu dặn dò:
- Đúng là có trộm đấy, hơn nữa y rất táo tợn và nhanh nhẹn, mấy lần trẫm cho người đuổi bắt nhưng y cũng thoát được. Lần này trẫm nhất quyết phải bắt y cho bằng được.
Lão thái giám thấy từng lời nói của Phế Đế đều chắc như đinh đóng cột, thầm nghĩ: "Hoàng Thượng không giống như đang đùa, có lẽ trong cung có trộm thật." Ông ta hỏi tiếp:
- Ngài định bắt y ngay tối nay luôn ạ?
- Không, vẫn chưa chuẩn bị chu đáo, bắt làm sao được, mà hơn nữa, trẫm đã cho người nhử mồi y vào tối mai rồi. Bây giờ ngươi đi chuẩn bị đi.
- Thần tuân lệnh!
Lão thái giám cúi đầu nhận mệnh.
Phế Đế bỗng gọi giật lại nhắc nhở.
- À này, ngươi nhớ phải chọn những ai giỏi võ và đáng tin đấy, nếu để lộ ra, coi chừng cái đầu trên cổ của ngươi đấy.
Việc này vô cùng hệ trọng nên ông ta phải cẩn thận.
Lão thái giám đáp:
- Vi thần tuân lệnh.
Lão thái giám đi rồi, Phế Đế nghĩ tới viễn cảnh tươi sáng sắp tới mà bật cười ha hả.
Về phần Trần Thì Kiến, sau khi Hoàng Đế rời đi, ông quay lại hậu viện thì không thấy Phùng Sĩ Chu đâu nữa. Phùng lão đột ngột rời đi làm cho ông hụt hẫng, cứ tưởng phen này được hàn huyên với sư huynh sau mấy chục năm xa cách. Nhưng rồi sau đó ông lại tự nhủ Phùng lão vẫn đang ở đây lâu, thể nào cũng có cơ hội. Điều quan trọng hơn là chuẩn bị cho công việc của ngày mai.
Phùng lão đang trên đường về bỗng nhiên bắt gặp một toán lính đang ngồi ăn ở trong quán. Toán lính này mặc áo màu xanh nước biển, cổ áo viền tròn màu đỏ, giữa ngực có một hình tròn to cũng màu đỏ, trong hình tròn là một chữ "tốt" khá lớn màu đen, mặc ý phục như vậy thì đích thị là quân Ngô. Ông quét mắt qua, quả nhiên đã nhìn thấy Từ Phong trong đó. Bọn chúng ngồi tụm vào một chỗ nhưng có vẻ khá yên lặng, không nói chuyện nhiều, mà cắm đầu ăn, trông qua sắc mặt có chút mệt mỏi uể oải. Sau thất bại ở chùa Vân Tiêu, bọn chúng bỏ đi đâu không rõ, hóa ra là đi đến Thăng Long, nhưng vì đi quá chậm nên phải mất hai ngày mới đến nơi.
Từ Phong cũng trông thấy ông nhưng hắn không có phản ứng gì, cúi đầu tiếp tục bữa ăn; đúng thôi, khi trên núi Yên, ông đứng ở xa quan sát nên hắn nghĩ ông chỉ là một phật tử đến nghe giảng đạo nên bây giờ dù đứng đối diện nhau thế này, hắn cũng chẳng nhớ nổi.
Phùng lão vốn chán ghét chúng nên đi thẳng luôn lên lầu, chẳng thèm liếc mắt một cái. Ông vào phòng của mình. Không bao lâu sau, ông nghe thấy âm thanh nói chuyện ở phòng bên cạnh vọng sang:
- Tướng quân, mọi mệnh lệnh của Hoàng Thượng, tìm hiểu Tứ Đại Bảo Khí (1), điều tra sức mạnh của Đại Việt ngài đều đã hoàn thành, cớ sao vẫn chưa quay về?
- Không, hiện tại ta vẫn chưa thể quay về được!
Người hỏi là tên tướng đã đánh nhau với Vô Ngã và kẻ trả lời lại là Từ Phong, không ngờ hắn lại chọn đúng ngay phòng bên cạnh phòng của Phùng lão, tiếng bọn chúng dù rất nhỏ nhưng vẫn lọt vào tai ông một cách rõ ràng. Ông thầm nghĩ: "Quả nhiên chúng đến đây chẳng có ý đồ tốt gì! Hết đi tìm hiểu Tứ Đại Bảo Khí rồi điều tra sức mạnh Đại Việt. Mình không nên manh động, để xem chúng còn âm mưu gì nữa không!" Ông lại tiếp tục lắng nghe tên cấp dưới nói:
- A, tại sao ngài chưa thể quay về? Nhiệm vụ xong hết rồi mà!
Từ Phong liếc mắt ra xung quanh rồi hạ giọng xuống đáp:
- Ngươi không biết đấy thôi, chuyến đi lần này Hoàng Thượng không chỉ ra lệnh như vậy, ngài còn một nhiệm vụ bí mật hơn lệnh cho ta đi làm và làm cho bằng được.
- Nhiệm vụ gì thế ạ?
Gã thuộc hạ càng sốt sắng, hỏi ngay lập tức, mà Phùng lão cũng tập trung lắng theo dõi câu trả lời của Từ Phong. Từ Phong dường như đã quên mất câu “tai vách mạch rừng” nên đáp:
- Vì các ngươi là thuộc hạ thân tín của ta nên ta nói cho biết. Thật ra trước khi sang Đại Việt, ngoài mấy nhiệm vụ kia, Hoàng Thượng còn lệnh ta khi quay trở về phải mang theo hai món thần khí mạnh nhất của Đại Việt.
Gã thuộc hạ kinh ngạc, Phùng Sĩ Chu thì vừa ngạc nhiên vừa tức giận, “không ngờ bọn chúng còn âm mưu cướp cả báu vật của Đại Việt, đáng chết!” Đang nghĩ thầm trong bụng thì ông nghe thấy tên thuộc hạ kia khẽ thốt lên:
- A, Đại Việt còn có thần khí ngoài Tứ Đại Bảo Khí, thật không ạ?
- Hoàn toàn thật! Nó...
- Tướng quân! Tứ Đại Bảo Khí đã to nhường vậy thì Thần khí còn lớn đến như thế nào nữa chứ, chúng ta sao có thể mang về nước được chứ.
Hai tên lính xung quanh nghe chuyện cảm thấy rất hay, quá háo hức không tự chủ được ngắt lời y, cũng may Từ Phong thấy bản thân được bọn thuộc hạ chú ý, nên tâm trạng vui vẻ, không giận mà bỗng nhiên có nổi hứng, y nói:
- Các ngươi sai rồi, Tứ Đại Bảo Khí rất lớn nhưng Thần khí thì nhỏ hơn vạn lần, chúng chỉ là một thanh kiếm và một bộ áo giáp mà thôi.
- A!!...
Gã kia vừa a một tiếng thì im bặt, suýt nữa thì gã lại ngắt lời thượng cấp. Từ Phong trừng mắt nhìn gã tỏ ý khiển trách rồi kể:
- Đó là Chân Long kiếm và Phù Đổng Thiên Vương thần giáp. Theo truyền thuyết Chân Long kiếm được thủy tổ của dân Đại Việt, Lạc Long Quân rèn. Thân kiếm dài ba thước, mặt kiếm sáng bóng, uy lực vô biên. Người ta truyền miệng nhau rằng khi Chân Long kiếm ra khỏi vỏ thì sẽ có rồng bay lên trời. Nhưng nghe nói từ sau khi Lạc Long Quân dẹp yên một trận loạn lạc lớn thì Chân Long Kiếm mất tăm tích nữa, không ai biết nó ở đâu nữa.
Bọn lính ngồi nghe, có kẻ nín thở than chuyện này quả là thần kỳ nhưng cũng có kẻ bĩu môi cho là truyện bịa đặt, cho rằng thần ở nước gã thì có thể tồn tại chứ Đại Việt thì làm sao mà có được. Từ Phong nhấp một ngụm rượu, đợi cho bọn thuộc hạ sốt ruột nhìn mình rồi mới kể tiếp:
- Phù Đổng Thiên Vương thần giáp, hay còn gọi là Phù Đổng thần giáp. Năm xưa khi nước chúng ta mới thành lập, triều đại lúc bấy giờ gọi là Ân Thương. Lúc đó chúng ta binh hùng tướng mạnh, kỵ binh cũng ra đời, bách chiến bách thắng, oai hùng bốn phương. Vua Thương có hùng tâm mở rộng bờ cõi nên đã tập hợp quân đội, ra lệnh cho quân xuôi nam. Lúc đầu quân ta đánh đến đâu thắng đến đó quân địch không cản nổi bị đánh cho chạy tan tác. Nhưng thật là đáng tiếc... khi quân ta vừa đến chân núi Vũ Ninh thì đã bị đánh thua phải chạy về.
Nói xong thì lại thở dài một hơi, nhấp ngụm rượu, mấy tên thuộc hạ thấy hắn dừng lại không khỏi buồn bực lên tiếng hỏi:
- Tướng quân, tại sao một quân đội hùng mạnh như thế kia lại có thể thua?
Phải nói rằng tên Từ Phong này khá là có khiếu kể truyện, hắn biết dùng đúng lúc, để cho người ta chờ đợi sốt ruột rồi nhao nhao lên hỏi thì hắn mới tiếp tục:
- Chính là do Phù Đổng Thiên Vương!
"Ồ!" Mọi người ồ lên một tiếng. Có người nhíu mày hỏi:
- Tướng quân, chỉ là một bộ giáp thì sao có thể đánh bại mấy vạn quân chứ?
Từ Phong bĩu môi nhìn tên lính vừa hỏi kia một cái:
- Ta có nói đó là một bộ giáp à?
Tên kia há mồm định nói gì đó nhưng cuối cùng lại nuốt xuống, trong lòng buồn bực, rõ ràng là vừa nói nó là thần giáp gì đó mà! Từ Phong không để ý đến tên thuộc hạ mà nhìn khắp mấy tên đang vây quanh mình:
- Phù Đổng Thiên Vương là thần tướng nhà trời!
Hài lòng nhìn vào vẻ mặt kinh ngạc của bọn thuộc hạ, Từ Phong chậm rãi kể tiếp:
- Theo truyền thuyết của Đại Việt kể lại thì khi quân ta quá dũng mãnh, vua Hùng thứ sáu đã kêu gọi người tài khắp cả nước đi lính. Nghe nói Phù Đổng Thiên Vương hay dân gian còn gọi là Thánh Gióng từ bé là một đứa trẻ ba tuổi rồi mà vẫn chưa biết nói năng gì nhưng khi nghe tiếng sứ giả của nhà vua đi tuyển người tài thì bất ngờ lên tiếng đòi đánh trận. Phù Đổng Thiên Vương được vua Hùng ban cho một bộ áo giáp bằng sắt, một cây thiết côn và một con ngựa sắt. Ông ta lên ngựa ra chiến trường, dùng thần thông của mình, đơn thương độc mã đánh tan quân địch. Sau đó, có lẽ vì đã hoàn thành nhiệm vụ, ông ta lên đỉnh núi Sóc Sơn cởi bỏ lại bộ giáp rồi cưỡi ngựa bay về trời. Người đã đi nhưng vật còn đó, bộ giáp được những thợ rèn giỏi nhất của Đại Việt làm ra, lại được thần lực của Thánh Gióng bồi đắp,đã trở thành thần khí hiếm có trong trời đất, vì thế mà dân Việt đặt tên nó theo tên của ông ta. Sau này nó trở thành bảo vật trấn quốc, đáng tiếc do thời cuộc thay đổi, Phù Đổng Thiên Vương cũng biến mất.
Bọn lính nghe chuyện mà xuýt xoa không thôi. Thật không ngờ là Đại Việt lại có một truyền thuyết như vậy, lại có người tinh ý phát hiện ra một chuyện:
- Tướng quân, sao người lại biết rõ mọi chuyện như vậy?
Từ Phong nghe thuộc hạ hỏi thì hơi mất tự nhiên, trầm ngâm một lúc mới nói:
- Ta nghe sư phụ kể lại. Trước kia sư phụ ta từng đến đây du lịch được người ta kể lại.
Bọn lính gật gù như đã hiểu, ngược lại bên phòng kia, Phùng lão đang thắc mắc vấn đề này. Một tên tướng quân người Tàu với chức vụ nhỏ nhoi sao có thể biết truyền thuyết của Đại Việt rõ như thế được, mà cái cớ đi du lịch là do Từ Phong bịa đặt, chứ thực ra gã cũng chẳng rõ nguyên nhân làm sao mà sư phụ gã biết được mấy truyền thuyết kia.
- Tướng quân, thuộc hạ nghe ngài nói vậy, xem ra sư phụ ngài quả là một cao nhân trăm năm khó tìm.
Nghe tên thuộc hạ khen sư phụ mình, Từ Phong càng thêm sướng trong bụng, mặt vênh lên tự đắc, y cười đáp:
- Còn phải nói, sư phụ ta là bậc kỳ tài hiếm có trên đời. Bản lĩnh của người kẻ phàm tục đâu thể hình dung ra được, có thể nói là rồng trong loài người... Được làm đệ tử của người là may mắn của đời ta, nếu không nhờ ông ấy, ta sao có được như ngày hôm nay.
Hai mắt gã kia sáng rực, hỏi thêm một câu:
- Tướng quân, đại danh quý tánh của sư phụ tướng quân là gì vậy, thuộc hạ rất mong có cơ hội được đến bái phỏng.
Từ Phong vặn lại:
- Ta nói tên ông ấy ra liệu ngươi có biết không?
- Dù không biết thuộc hạ vẫn cố gắng tìm cho bằng được.
Gã thuộc hạ cười khan để lấp đi sự xấu hổ. Từ Phong gật gù vẻ hài lòng:
- Tốt! Có tinh thần như vậy là tốt! Sư phụ ta tên Địch Cối, cư ngụ ở Đại Tuyết Sơn.
Cả đám lính ồ lên kinh ngạc, danh tiếng Đại Tuyết Sơn vang khắp "Trung Nguyên", sư phụ của Từ Phong ở đấy thì hai chữ cao nhân thật chẳng ngoa. Còn Phùng Sĩ Chu ngồi phòng bên thì thiếu chút nữa bật cười lớn. Nãy giờ nghe tên Từ Phong ca ngợi sư phụ y đến tận mây xanh, ông cứ tưởng ông ta là bậc thần thánh phương nào, hóa ra lại là tên phản đồ của Hoàng Liên tông bị đánh đuổi bốn mươi năm về trước.
Năm đó không hiểu vì sao Địch Cối sang Đại Việt xin vào làm đệ tử của Hoàng Liên tông. Tông chủ của Hoàng Liên tông bấy giờ thấy y là nhân tài, lại không ngại y là ngoại tộc, đồng ý thu nhận làm đệ tử tông phái, còn tận tình truyền thụ võ công cho.
Ban đầu Địch Cối tỏ ra là một đệ tử chăm chỉ, hiếu học, rất có năng khiếu về võ công. Y thường xuyên nhờ các sư huynh đệ khác giải đáp thắc mắc trong lúc luyện công, cũng như tìm hiểu về các truyền thuyết của Đại Việt, các đệ tử trong tông phái đều quý mến y. Về sau y lại làm ra chuyện không thể tha thứ, phản lại sư môn khiến cho ai nấy đều vô cùng tức giận, hận y thấu xương.
Chuyện này kinh động đến cả thiên hạ, tông chủ chưa kịp ra tay trừng phạt thì đại đệ tử của Hoàng Liên tông đã giao đấu một trận với Địch Cối, đánh cho y thất bại thảm hại. Đáng tiếc cuối cùng lại để cho y trốn thoát về nước, về sau thì không một ai biết số phận y ra sao.
Đến bây giờ thì Phùng lão mới biết y đến Đại Tuyết Sơn khai tông lập phái, mà cũng chỉ có y mới tạo ra một đệ tử như Từ Phong. Mấy kẻ hậu sinh chẳng biết thực hư thế nào nên cứ tung hô y lên làm thần làm thánh. Đám lính kia cũng như vậy, chỉ có một tên ngay từ đầu đã không tin truyền thuyết, gã nói một cách thận trọng:
- Tướng quân, những chuyện ngài vừa kể tuy rất hay nhưng truyền thuyết dù sao vẫn chỉ là truyền thuyết, thuộc hạ vẫn không tin hai món thần khí đó thực sự tồn tại, Hoàng thượng thông minh tài giỏi, chắc Ngài không tin đâu.
Từ Phong gật đầu đáp:
- Ngươi nói đúng, ban đầu khi sư phụ kể, ta không tin, Hoàng thượng cũng không tin, nhưng sau đó Lưu quốc sư khẳng định là chúng có thật nên Hoàng thượng mới phái ta đi truy tìm chúng.
Lại thêm một tiếng ồ kinh ngạc, đám lính bàn tán xôn xao, danh tiếng Lưu Bá Ôn khỏi phải bàn, liệu sự như thần, ông ta đã nói có thì triều đình nhà Minh không ai nghĩ là không có. Phùng lão đã hiểu đầu đuôi mọi chuyện, tất cả đều từ Lưu Bá Ôn mà ra.
Tên lính khác hỏi:
- Tướng quân, theo như truyền thuyết thì hai món thần khí kia đều đã mất tích, vậy chúng ta biết đi đâu tìm bây giờ? Lưu quốc sư chỉ dẫn ra sao?
Từ Phong thở dài, giọng tiếc nuối:
- Cái này thì đến tận lúc mất, Lưu quốc sư vẫn không biết, nhưng theo truyền thuyết của dân Việt thì thanh thần kiếm biến mất ở vùng đất phía nam Đại Việt, còn bộ giáp thì chẳng rõ tung tích, nên chúng ta sẽ đi tìm thanh Chân Long Kiếm trước.
- Vì thế mà tướng quân quyết định đi xuống phía nam?
- Đúng vậy. Mà cũng đến giờ nghỉ ngơi rồi, tất cả các ngươi mau đi ngủ để mai còn lên đường.
Mấy tên lính đồng thanh hô:
- Vâng thưa tướng quân.
Phùng Sĩ Chu biết hai thứ báu vật kia hoàn toàn có thật, chỉ là chúng đang bị thất lạc ở đâu đó mà thôi, ông nghĩ thầm: "Không thể để thần khí lọt vào tay vua Ngô được, giết hết bọn lính này cũng không ổn, có lẽ ta nên ngầm theo dõi, nếu bọn chúng tìm thấy trước thì cứ để cho chúng lấy, sau đó âm thầm đoạt lại.”
Ban đầu ông tính dừng chân ở kinh thành vài ngày để hai sư huynh đệ tâm sự, nhưng khi nghe xong cuộc nói chuyện của đám lính Ngô kia, ông bỏ ý định ban đầu. Dù sao sư đệ ông quá cố chấp, có khuyên bảo thêm nữa cũng chỉ vô ích, chi bằng bám theo bọn lính Ngô, quyết không thể để cho bảo vật của đất nước rơi vào tay chúng. Sau khi suy tính cẩn thận mọi thứ, ông nhắm mắt dưỡng thần, lấy sức khoẻ để mai đi.
...
Trên đỉnh núi thấp thoáng hai bóng người xẹt qua xẹt lại, xen lẫn vào là những tiếng binh khí đụng nhau liên hồi. Một cuộc giao chiến tay đôi. Cả hai đều đã là những ông lão ngoài sáu chục tuổi.
Không biết họ đi lên bằng cách nào, chỉ thấy một bên là vách núi cheo leo, hiểm trở vô cùng, một bên là vực sâu thăm thẳm, nhìn không thấy đáy, chỉ cần sẩy chân một cái là thịt nát xương tan. Ấy thế mà hai ông lão đứng ngay lưng chừng núi, chân đạp trên con đường nhỏ rộng chưa đầy một thước, thi triển tuyệt học bình sinh, quyết đấu với nhau. Đây rõ ràng chẳng phải là cuộc tỷ thí bình thường nữa mà là một trận chiến sống còn. Vô số vết kiếm hằn sâu trên vách đá. Mỗi một chiêu của người này đánh ra đều nhằm vào chỗ yếu hại của đối phương mà chém mà đâm. Bỗng người bên trái quát lớn:
- Ngươi giỏi lắm, ngươi là kẻ đầu tiên khiến ta phải tung ra chiêu thức cuối này, tiếp chiêu...
Nói rồi ông ta phóng kiếm đâm tới. Bóng kiếm tỏa ra trùng trùng điệp điệp, bao phủ bốn phương tám hướng, hoàn toàn không có một sơ hở nào.
Người kia thấy chiêu kiếm đối phương cực kỳ lợi hại, vội vàng tụ kình chống đỡ. Đột nhiên hai mắt ông trợn trừng, lộ vẻ sợ hãi, thế kiếm của ông đã bị phá vỡ tan nát, kiếm của kẻ địch đâm thẳng tới như sấm vang chớp giật.
Lưỡi kiếm khi vừa gần tới ngực thì thân hình ông ta đột nhiên tan biến như làn khói, rồi tất cả mọi thứ cũng biến mất theo...
Phùng lão đột ngột mở mắt, thở hắt ra. Thì ra trận giao đấu vừa nãy nằm trong suy nghĩ của ông, kẻ thù cũng là kẻ thù trong suy nghĩ, khi ông đang luyện công thì đã tưởng tượng ra điều này.
Nhưng nó hoàn toàn có thật, nó đã xảy ra từ mấy chục năm về trước, người bị kiếm đâm chính là ông, kẻ thù là đại ma đầu Trọng Kiệt. Y dựa vào kiếm pháp xuất quỷ nhập thần của mình hoành hành bá đạo, không chừa một tội ác nào. Thấy hắn làm hại vô số người vô tội, ông bừng bừng lửa giận tìm y khiêu chiến.
Trận đấu hung hiểm nhất đời Phùng lão. Ông buộc phải dùng tuyệt kỹ lợi hại nhất - Tru Hồn Kiếm, nhưng tiếc rằng vẫn phải nhận thất bại về mình. Ông bị đánh bay từ trên núi xuống, nghĩ rằng bản thân chắc chắn sẽ mất mạng thì may sao trong khi rơi thì có cao thủ vọt ra cứu ông, chính là Viên Ngộ đại sư.
Ông không chết nhưng thất bại khiến ông mất đi hùng tâm tráng chí. Sau đó ông làm theo lời dặn của sư phụ, quyết định thoái lui khỏi chính trị lẫn giang hồ, chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu hoàn thiện Tru Hồn Kiếm nhằm phá giải kiếm pháp của tên đại ma đầu kia.
Khi khám phá được cách hóa giải rồi, ông quay lại tìm, tiếc rằng tới nơi thì hay tin y đã chết từ lâu, chết bởi chưởng pháp của sư đệ ông. Thì ra Trần Thì Kiến nghe tin Phùng lão thua trận, lại lâu quá mà chẳng thấy ông trở về thì cho rằng tên ma đầu giết ông, bèn kiếm hắn trả thù. Trọng Kiệt vốn dĩ đã trọng thương trước, kế tiếp hứng chịu thêm chưởng lực hùng mạnh, tất nhiên không thể thoát khỏi cái chết bi thảm.
Từ đó Phùng lão càng xa lánh thế tục, ông đi khắp nơi, nay đây mai đó. Nhưng mà, nỗi đau thất bại thì mãi khắc sâu trong đầu, nó luôn ám ảnh ông bấy lâu, muốn quên không được, chính vì thế, mỗi lần luyện công khung cảnh nọ luôn luôn xuất hiện. Sáng sớm nay cũng không phải ngoại lệ.
"Cạch!" Tiếng động mở cửa ở phòng bên kéo ông ra khỏi dòng suy tư, bọn lính Ngô sửa soạn chuẩn bị lên đường.
Phùng lão đợi bọn chúng đi được một quãng đường xa mới xuống trả phòng và bám theo.
Sau khi Phùng lão rời đi khoảng một canh giờ, một thanh niên chừng mười chín hai mươi tuổi tìm đến quán trọ. Anh ta hỏi ông chủ:
- Ông chủ, tôi muốn tìm một ông lão đang trọ ở đây, ông ấy thường mặc bộ đồ màu trắng.
Ông chủ ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp:
- Có phải ông lão râu tóc bạc trắng như bụt phải không?
Ông lão đó được tả khá giống với Phùng lão, hình như là đúng rồi. Vẻ ngoài của ông ấy khá nổi bật nên chủ quán trọ nhớ rất kỹ. Chàng thanh niên gật gật đầu:
- Đúng rồi, chính là ông ấy đấy, tôi có việc rất quan trọng cần gặp ông ấy, xin hỏi bác ông ấy ở phòng nào?
Ông chủ quán trọ tặc lưỡi nói:
- Thật tiếc quá, cậu đến trễ quá, ông ấy đã trả phòng và rời đi cách đây khoảng hai canh giờ rồi.
Anh kia thở dài chán nản:
- Thật sao? Giờ này có lẽ ông ấy đi xa lắm rồi.... Ôi, không tốt rồi!
- Sao thế, cậu gặp chuyện xấu à?
- À à, không có gì cả đâu, cám ơn bác đã quan tâm. Thôi, cháu không làm phiền bác nữa, cháu đi.
Chàng thanh niên không tìm được người thì tạm biệt ông chủ quán trọ và rời đi. Anh ta là ai và đến gặp Phùng lão có mục đích gì?
-------------------------------
Hiện tại đám lính Ngô đang đi theo hướng Đông Nam. Trong một canh giờ, chúng đã đi được ba mươi mấy dặm. Phùng Sĩ Chu vẫn không nhanh không chậm, duy trì khoảng cách nhất định với bọn chúng nên không kẻ nào biết ông ở phía sau. Mà khinh công của ông nhanh hơn cả tuấn mã, nhẹ nhàng như cơn gió, cho dù ông đi gần sát, chúng cũng chằng thể nào nhận ra, theo dõi chúng, chi bằng cứ nói dạo chơi nghe hay hơn.
Toán lính đi được nửa canh giờ nữa thì một tên lính lên tiếng:
- Tướng quân, cho bọn thuộc hạ nghỉ ngơi chút, chúng ta đã đi được một lúc lâu rồi.
Từ Phong ngoảnh lại quát:
- Các ngươi là lính mà đi chưa bao lâu đã than mệt rồi.
Gã thuộc hạ nói tiếp:
- Tướng quân, bọn thuộc hạ không mệt nhưng mấy con ngựa này chỉ là ngựa thường, chúng mệt lắm rồi.
Từ Phong liếc mắt nhìn mấy con ngựa. Đúng là chúng rất mệt mỏi, hắn hừ một tiếng và nói:
- Đi thêm một đoạn nữa, tới dưới chân núi kia hãy nghỉ, nếu các ngươi còn chậm chạp, trời mà mưa thì chạy không kịp đâu.
"Trời đang nắng thế này lấy đâu ra mưa chứ." Mấy tên lính quay sang nhìn nhau, trong lòng có ý bất mãn nhưng nào dám lộ ra, vâng lệnh đi theo gã.
Hình như tên Từ Phong làm nhiều việc xấu, bị trời ghét hay sao đó, sau khi hắn dứt lời không bao lâu thì gió bắt đầu thổi mạnh từng cơn ù ù, làm hai mắt cay xè; trời mù mịt che hết tất cả ánh nắng, mây đen bắt đầu xuất hiện từng mảng lớn, ánh chớp ẩn hiện sau đám mây.
- Trời mưa thật sao! Không xong, chạy mau!
Cả đám lính trở nên rối loạn, lúc nãy thì đòi nghỉ ngơi, giờ thì chả cần Từ Phong ra lệnh, tên nào tên nấy giục ngựa ầm ĩ, đua nhau chạy nhanh tới cánh rừng phía trước.
Phùng lão ngẩng đầu lên nhìn trời, từng đám mây đen đều bay theo hướng bắc, tập trung ngay trên thành Thăng Long, sấm nổ đùng đoàng, báo hiệu một trận mưa giông. Ông bèn tìm một nơi để nấp. Ông nhìn sang đám lính Ngô, chúng đang co cụm dưới một cây đại thụ, tán xoè ra rất rộng.
Phùng lão quan sát đám mây đen đang vần vũ trên bầu trời, không hiểu sao lại có cảm giác rất kỳ quái, ông quyết định tìm một chỗ cao thử quan sát kỹ hơn xem sao. Ông đưa mắt ra xung quanh thì tìm được một cây cổ thụ, nó cao ít nhất hai trượng. Ông khẽ nhún chân một cái, thân hình nhẹ nhàng vọt lên cao hơn ngọn cây rồi từ từ đáp xuống đứng trên cành cây. Cành cây đó khẽ oằn xuống rồi thẳng ra trở lại như cũ. Bọn lính Ngô đang mải chú ý tới những gì diễn ra trên bầu trời nên không để ý bên này.
Từ trên cao nhìn hướng về phía Thăng Long, nhiều đám mây đen đang tập trung lại, cuộn xoáy vào nhau như cơn lốc khổng lồ, từng hồi sấm rung chớp giật, tạo nên cảnh tượng có phần đáng sợ, vậy mà trên khuôn mặt những người dân ở thành Thăng Long lại hiện lên vẻ hân hoan sung sướng, cơn hạn hán kéo dài vừa qua khiến mùa màng thất thu, nay trời mưa tất nhiên ai cũng mừng vui. Ấy thế mà một canh giờ rồi hai canh giờ trôi qua, họ chờ đợi mãi mà trời không hề rơi một giọt nào. Trong lòng Phùng lão chợt có cảm giác chẳng lành, ông thấy khung cảnh này hôm nay có vẻ gì đó khác thường nhưng dường như lại khá quen thuộc, trong đầu suy nghĩ miên man.
Tiếng sấm mỗi lúc một vang to hơn, những luồng sét lớn đánh sáng rực khoảng không gian, trải rộng đến vài mẫu, cho dù Phùng Sĩ Chu đang ở ngoài mấy chục dặm mà vẫn thấy được rõ ràng. Ông chợt liên tưởng tới Trần lão, lo lắng thốt lên:
- A! Lẽ nào đệ ấy đang làm việc đó? Không thể nào!
Ông bất chợt nhớ lại một chuyện từng xảy ra gần trăm năm về trước. Mọi thứ cũng giống thế này, và người tạo ra nó chính là do sư phụ ông làm phép. Bây giờ nó lại xuất hiện, nếu bản thân ông không làm thì chỉ do sư đệ ông, bởi phép này chỉ có mỗi môn phái của ông biết được mà thôi. Mới nghĩ tới đây thôi, lòng ông đã sợ hãi, ông hạ xuống mặt đất rồi thi triển khinh công chạy ngược trở về lại kinh thành, bỏ luôn ý định bám theo đám lính Ngô kia.
Tiếng sấm rền vang, nhiều tia sét tụ lại với nhau thành những luồng sét đỏ rực, đáng sợ vô cùng. Người dân ngó trân trân lên trời không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
- Sắp rồi! Nó sắp tới!
Phùng lão hoàn toàn hiểu rõ, lòng ông cực kỳ lo lắng, một trong hai thiên tượng ghê gớm nhất sắp tới, là hình phạt nặng nhất cho những kẻ dám làm trái ý trời - Thiên Khiển. Sư phụ ông năm xưa luyện mặc dù luyện thành cả hai bộ tâm pháp, võ công xuất thần nhập hóa, song khi thực hiện vẫn cần hai sư huynh đệ ông ở bên cạnh hộ pháp, huống chi Trần lão lần này làm phép một mình, chắc chắn sẽ gặp vô vàn nguy hiểm, nghĩ đến đây, ông càng tăng tốc độ, người lướt đi nhanh như chớp, trong chớp mắt đã không còn thấy bóng dáng đâu nữa.
Đúng như Phùng lão lo lắng, Trần Thì Kiến hiện tại đang một mình làm phép.
Nửa ngày trước….!
Trần lão nghe được rằng trong buổi chầu, Lê Quý Ly "đề nghị" vua hãy dời đô từ Thăng Long về Thanh Hóa, vì thế mà ông rất tức giận. Kinh kỳ đã tồn tại mấy trăm năm, nói dời đô là dời sao? Một yêu cầu thật quá ư vô lý. Ông gieo quẻ, đọc ra được số của nhà Trần đến hồi lâm nguy, ông quyết định học theo cách của sư công - làm phép trợ giúp nhà Trần vượt qua kiếp nạn.
Phép này dĩ nhiên vô cùng phức tạp và đầy nguy hiểm, luôn luôn phải có người hộ pháp bên cạnh, đáng tiếc hiện tại không ai đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ này, duy chỉ có mỗi sư huynh ông là Phùng Sĩ Chu thì lại không rõ tung tích. Bản thân phép này là ngược với ý trời, cái giá phải trả cho việc làm phép rất đắt, sư công của ông vì thế mà đã tổn thọ ba bốn mươi năm. Nhưng để đất nước vượt qua cơn hoạn nạn, ông bất chấp tất cả, một mình làm phép.
Ngay khi ông vừa làm phép thì mây đen ùn ùn kéo đến, chưa đầy nửa khắc sau, sấm sét nổ đùng đoàng ầm ĩ cả bầu trời Thăng Long. Tất cả mọi người đều lo lắng, hối hả chạy vào trong nhà. Khung cảnh chợ búa trở nên nhốn nháo, ai nấy gấp rút dọn dẹp hàng quán, mau chóng tìm nơi ẩn nấp.
Bao quanh người ông là một luồng khí màu hồng kéo cao lên đến tận trời, đây là cách ông dùng để tạm thời tránh Thiên Khiển, bất quá lúc phép hoàn thành thì Thiên Khiển lại càng khủng khiếp hơn. Khi đấy ông đã cạn kiệt tinh lực, không dám đảm bảo mình còn có sức chống đỡ nữa hay không, có thể kết quả cuối cùng là phải bỏ mạng. Phùng Sĩ Chu biết rõ điều này nên vừa trông thấy bầu trời kia đã hiểu ra mọi chuyện, vội vàng dùng tốc độ nhanh nhất đến chỗ Trần Thì Kiến.
Thời gian dần trôi qua, một canh giờ rồi hai canh giờ... trời chuyển dần sang chiều rồi về đêm, phép đã hoàn thành được hơn một nửa. Trên đầu Trần lão bốc lên một cột khí trắng thẳng tắp, chứng tỏ ông đang vận công lực đến tột cùng. Ngay tại thời điểm quan trọng nhất thì bỗng một vật đen sì không biết từ đâu bay đến va trúng chiếc bàn hương án làm phép, ầm một tiếng, hương án vỡ tan tành.
Trần lão đang dốc toàn bộ tâm sức ra làm phép, hoàn toàn không để ý được những thứ xung quanh, khi phát hiện vật kia bay tới gần thì không kịp trở tay, cuối cùng mọi việc thành ra đứt gánh giữa đường. Ông đưa mắt nhìn lại thì thấy ngay ở nơi vật kia bay ra xuất hiện bốn gã lạ mặt. Ông tức giận nghiến răng nghiến lợi lẩm bẩm:
- Là bọn sát thủ, không ngờ chúng lại đến đây phá rối, thuật cải mệnh bị phá hỏng giữa chừng rồi, chả lẽ thời vận của nhà Trần thật sự chỉ có thể đến được chừng đó thôi hay sao?
Một trong bốn kẻ lạ mặt lên tiếng:
- Lão già, ông lẩm bẩm gì đấy, cầu nguyện trước khi chết đấy hả?
Trần lão vẫn giữ im lặng. Mây đen trên trời đang dần tan đi, sấm sét cũng dịu xuống, Thiên Khiển đã rút. Nó chỉ xuất hiện khi có kẻ làm trái với quy luật trời đất đã đặt ra, nếu như việc đó không còn dù là do tự thân nó kết thúc hay bị cưỡng ép phá hỏng thì nhiệm vụ của nó cũng chấm dứt. Ông cũng thu lại cột khí hồng, tiếp đó hỏi bọn chúng:
- Các ngươi là ai? Sao lại tới đây phá việc của ta?
Một tên mặt đen trong bốn gã đáp:
- Chúng ta là ai, lão không cần biết, chỉ cần biết hôm nay bọn ta tới đây là để giết chết lão già ngươi.
- Kẻ thuê các ngươi là ai? Sao lại muốn giết ta?
Gã cầm đao cười khẩy nói:
- Làm sát thủ thì có bao giờ tiết lộ danh tính người thuê cho mục tiêu biết chứ? Lão già, ông mau đầu hàng đi, bọn ta sẽ để cho ông được chết nhẹ nhàng.
Trần lão nhếch mép cười mỉa đáp:
- Khỏi cần các ngươi trả lời, ta đã biết kẻ đó là ai.
Ông liếc mắt nhanh vào cái trụ bên trái ở trong bóng tối rồi bất ngờ quát:
- Lê Quý Ly, ngươi nấp sau cái trụ đó làm gì, chả lẽ ngươi sợ ta đến mức không dám ra đây ư?
Trong tiếng quát ẩn chứa nội lực thâm hậu khiến mấy gã sát thủ đầu váng mắt hoa nên chúng vội vàng vận kình chống lại. Sau cây trụ chợt vang lên một tràng cười lớn, rồi một người đàn ông bước ra, dáng người y hơi mập, mặt mũi đôn hậu, đôi mắt rất linh động. Người này không ai khác ngoài Lê Quý Ly, đừng vội đánh giá ông ta qua vẻ bên ngoài, chứ ông ta thực sự là một kẻ lắm mưu nhiều kế. Quý Ly cất tiếng cười ha hả và nói:
- Trần Thì Kiến, ông quả không hổ danh là người thông minh tuyệt đỉnh, đoán ra được tôi.
Trần lão nói:
- Kẻ có tham vọng làm phản thì nhiều, nhưng kẻ có đủ khả năng lôi kéo nhiều cao thủ như vậy thì rất ít. Ngươi lại là kẻ có thế lực mạnh nhất, không phải ngươi thì còn có thể là ai chứ?
Quý Ly chỉ cười chứ không đáp, xem như y mặc nhiên đồng ý với lời "tán dương" của ông. Ông nhìn sang hướng khác, sau đó hỏi lão ta:
- Đệ tử của ta đứng ngoài cửa thế nào rồi? Các ngươi đã làm gì cậu bé?
Cậu bé ông vừa nhắc tới là đệ tử của ông, và cậu ta chính là người đã đến quán trọ tìm Phùng Sĩ Chu sáng nay. Nếu đám người Quý Ly đã vào được đây, tất nhiên có thể đoán được bọn chúng đã làm hại nó.
Quý Ly trả lời:
- Ông cứ yên tâm, ta tuy xấu nhưng không phải hạng người táng tận lương tâm, ta chỉ bảo họ đánh ngất cậu ta thôi, chừng hai ba canh giờ sau, cậu ta sẽ tỉnh lại.
Quý Ly đã nói là không làm hại nó thì sẽ không có việc gì, Trần lão thở một hơi nhẹ nhõm, đồng thời suy nghĩ tìm cách xử lý hoàn cảnh hiện nay. Ông bắt gặp lão ta ngay tại phủ của mình thì sực nhớ tới kế hoạch đã bàn luận với Hoàng Thượng vào đêm hôm trước, tâm tư bỗng thấy bất an, ông thầm nghĩ: "Hỏng, kế hoạch hỏng hết cả, tên cáo già Quý Ly tới chỗ này rồi thì làm sao Thánh Thượng có thể bắt hắn được đây, tức thật, đúng là người tính không bằng trời tính!" Ông bèn tiếp tục hỏi:
- Sao ngươi biết ta ở chỗ này mà đến?
- Ông ẩn cư mấy chục năm qua, ai cũng nghĩ rằng ông đã chết, nhưng tôi biết ông vẫn còn sống, thậm chí biết cả chỗ ở của ông.
- Ngươi giỏi lắm, chức phụ chính của ngươi quả không phải là hư danh, có mạng lưới thông tin rất giỏi. Nhưng mà ngươi đến chỗ ta không thăm hỏi đàng hoàng thì chớ, sao lại phá hoại việc tốt của ta.
Trần Thì Kiến phải công nhận Lê Quý Ly là người rất giỏi, giờ đã chẳng mấy ai còn nhớ tới ông, chỉ có mỗi lão ta, chẳng qua vẫn phải làm cho ra lẽ việc lão ta phá hỏng đại sự của ông. Quý Ly nghe xong thì trả lời:
- Hừ, việc tốt với ông nhưng là việc xấu với tôi, tôi hôm nay đột nhiên rất mệt mỏi, sức lực như bị rút kiệt, lại thêm thời tiết kỳ lạ như vậy thì biết nhất định có liên quan đến ông, vì thế tôi đến đây để ngăn lại.
Trần lão hỏi vặn lại:
- Sao ngươi dám khẳng định là do ta hại ngươi, chả lẽ ngươi hiểu thuật này là thuật gì?
- Ha ha ha, sao lại không, nếu không hiểu thuật cải mệnh này thì tôi đã không cho người đánh vỡ cái hương án kia rồi.
Ông tức tối quát:
- Ngươi có biết hành động vừa rồi của ngươi sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn vong của triều đình không hả?
Quý Ly chỉ hờ hững đáp:
- Đương nhiên tôi biết nó sẽ ảnh hưởng đến thế cục ở triều đình, nhưng có kẻ âm mưu hại tôi thì tôi phải tìm cách giải quyết chứ.
Trần lão nghe mà giật mình, thầm nghĩ bụng: “Xem cách nói của lão ta, hình như lão ta đã rã biết hết mọi chuyện rồi, thôi rồi, mình quá chủ quan, không nghĩ tới việc đề phòng tai mắt ở trong triều đình của lão ta.”
Quý Ly quan sát thấy sắc mặt ông lúc tốt lúc xấu, ánh mắt thì biến đổi liên tục, dường như lão ta hiểu đối phương đang nghĩ điều gì. Nhiều năm qua lão ta tốn công gây dựng thế lực, dĩ nhiên phải có gián điệp bên cạnh Phế Đế, nên kế hoạch kia dù sớm hay muộn thì cũng sẽ biết thôi, nhưng mà nhanh đến thế thì đúng là quá nhanh rồi, chả trách triều đình bị lão ta thao túng trong lòng bàn tay. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên, vờ như không hay biết:
- Ngươi nói có kẻ định hãm hại ngươi thì đi tìm hắn chứ đến tìm ta làm gì?
Quý Ly bật cười lớn:
- Thì Kiến ơi là Thì Kiến, ông đừng giả ngốc nữa, tôi làm quan hai mươi năm nay đã quen với kiểu mặt đó lắm rồi. Những kẻ nào tham gia, tôi đã rõ như lòng bàn tay rồi, tội không có bằng chứng mà hãm hại đại thần là lớn lắm đấy, nhất định không thể tha được.