Cơn mưa ập đến bất ngờ và nhanh chóng. Ầm ào, thác đổ. Nhanh đến mức lúc giương máy hình chụp cổng tam quan cô chỉ thấy vài hạt mưa bụi lấm tấm trên màn hình LCD.
Vậy mà, chưa đến chục bậc cấp lên đến sân miếu tóc cô gần như sũng ướt. Tấp vào mái hiên, cô thấy anh đang lúi húi dựng xe ở gian nhà phía sau. Lưng áo sơ mi trắng của anh cũng bết nước dính vào da một mảng màu hồng.
Lúc chạy xe lên núi, cổng tam quan đẹp quá đã khiến cô nhảy xuống xe để anh một mình đi hết con đường mòn vòng ra phía sau ngôi miếu nhỏ nằm trên lưng chừng núi. Ở độ cao 80m và dốc 40 độ, cô không nỡ ngồi yên phía sau để nghe chiếc xe anh nặng nề, gầm rú.
Trong chốc lát cả cánh đồng lúa mênh mông bát ngát bên dưới chân núi chỉ còn một màu trắng xóa. Cả trăm bậc cấp đi lên cũng chẳng còn. Cây phượng già rũ xuống trong màn mưa và những chùm phượng đỏ co mình oằn theo cơn gió. Nước từ mái tôn ào xuống thành dòng leo qua cây mã tiền cổ thụ có gốc hai thân, xoáy vào cái hõm sâu có màu của thời gian trộn lẫn với màu rêu rồi đổ vào khe đá, chảy xuống núi.
Mới vừa nãy thôi, cô còn ghi được hình ảnh cánh đồng lúa chín vàng bên dưới có những đụn khói đốt đồng bốc lên cao quyện lẫn vào mây trời. Mới vừa nãy đây thôi, dừng xe lại dưới chân núi hướng về phía mặt trời lặn, cô đã chớp được cảnh nắng chiều phủ sáng rực một chỏm núi mà khi nhìn vào màn hình LCD anh đã xuýt xoa: “Núi Phú Sĩ cũng đẹp đến thế là cùng”…
Mới vừa nãy đây thôi, cô đã chụp được toàn cảnh hồ chứa nước rộng bao la nằm dưới chân mấy dãy núi phía bên kia...
Thật ra, lúc đứng trên con đập chạy dài bao quanh hồ, giương ống kính về phía mặt trời để chụp dáng núi in bóng xuống mặt nước, cô đã thấy những đám mây đen đầy vẻ đe dọa. Nhưng khi quay đầu lại, màu xanh của cánh rừng tràm trải dài bất tận như lẫn trong màu mây tạo cho cô cảm giác an tâm để tìm những góc ảnh đẹp. Vậy mà, giờ đây tất cả không còn gì hết!
Từ bên trong chính điện, một vị sư già bước ra đi về phía anh, rồi nhìn về phía cô như muốn mời cô vào gian nhà tôn có bộ bàn ghế đá và bộ ấm chè chờ sẵn để mời khách thập phương. Có một khoảng trời ngăn cách nơi cô đứng với gian nhà tôn.
Nước từ máng xối đổ xuống thùng phuy bên dưới tạo thành những âm thanh dòng chảy thật to hòa với tiếng mưa khẳng định thêm “đẳng cấp” của cơn mưa! Cô ngẫm nghĩ, nếu nhanh chân lắm, bước qua bên đó ít nhất cô cũng bị ướt hai ống quần và đầu tóc. Ngần ngừ một lúc cô cúi đầu chạy nhanh qua phía bên kia.
Anh đang trở lại chỗ chiếc xe và dắt nó vào sâu hơn một chút bên trong mái tôn. Mưa giăng mùng tứ phía, bụi nước lấm tấm vào mặt cô, vào bộ bàn ghế đá và cả bộ ấm chén. Vị sư già ngồi xuống ghế đá, thủng thỉnh cầm lấy phích nước đổ ra tráng chiếc ấm, bỏ vào đó ít trà và chế nước.
Mưa vẫn mịt mùng. Gió thổi thốc từng cơn, cô cảm giác mình nghe được tiếng rít của gió. Anh bước đến ngồi sát bên cô. Tiếng vị sư già lẫn trong tiếng mưa:
- Mưa này chắc lâu, mấy tháng rồi mới có mưa!
Cô ngoái nhìn phía sau. Vách núi gần sát, sừng sững, lạnh lùng. Bầu trời nặng màu chì chợt loé sáng, ngoằn ngoèo những đường chớp rồi tiếng sấm vang lên kéo dài từ trên núi, xuống cánh đồng và lan ra vô tận. Cảm giác bất an bỗng dưng ập đến. Biết bao giờ mưa mới tạnh để về lại phố? Lúc ra đi nắng vàng đẹp thế sao giờ lại có cơn mưa núi long trời lở đất như thế này!
Mọi chuyện bắt đầu khi cô gửi cho anh đường link vào một trang web có tấm hình chụp cảnh hồ buổi hoàng hôn mà cô vô tình tìm thấy được khi lang thang vào một forum. Có ai đó đã một lần đến đây ghi được những tấm hình quá tuyệt vời, thêm vài dòng cảm xúc rồi đưa lên cho mọi thành viên xuýt xoa chiêm ngưỡng. Tấm ảnh đã khiến anh, một người đam mê chụp ảnh phải “băn khoăn” suốt tuần sau đó.
Cuối cùng, đầu giờ chiều cuối tuần hôm nay anh nhắn cho cô: “24km từ thành phố. Đi và về trong chiều. OK?”. Cô bấm lại “OK” và send. Để rồi sau đó cô phải năn nỉ trưởng phòng cho về sớm vì có công việc gấp ở nhà; còn anh phải nháy mắt với cô thư ký: “Chiều nay anh xuống cơ sở có lẽ về nhà luôn, có việc gì khẩn cấp gọi di động cho anh” (cô đã đọc ở đâu đó rằng người ta thường nói dối mỗi ngày ít nhất một lần!). Và như thế, anh đã chở cô đến nơi này, một di tích lịch sử khá nổi tiếng nhưng cả cô và anh chưa ai một lần đặt chân đến.
Cô nhìn bao quát xung quanh. Ngày xưa nơi này nổi tiếng linh thiêng theo kiểu cầu được ước thấy. Núi này có tên là Đại An. Bình an luôn là điều mong ước to lớn nhất của con người. Bà mẹ xứ sở đã từng sống ở đây chỉ dạy dân làng cách làm ruộng, làm nhà, trồng cây, dệt vải… Khi Bà mất người ta lập miếu thờ và dựng lên rất nhiều truyền thuyết.
Qua bao mùa mưa nắng, cả trăm năm sau những ngày lễ hội vẫn được duy trì, cả vùng như được hồi sinh trong mùa lễ hội. Những phong tục, tập tục từ lâu đời được kể lại qua các điệu múa bóng, như nêm vào cuộc sống chút gia vị của huyền thoại. Cánh đồng lúa mênh mông bát ngát bên dưới kia có tên gọi là Đại Điền và cái hồ ban nãy cô đến là hồ nhân tạo, một công trình thủy lợi lịch sử của người dân trong vùng với trữ lượng nước gần cả trăm khối cho cả năm.
Phải công nhận hồ quá đẹp! Lúc nãy cô đã rất ưng ý với tấm ảnh toàn cảnh lòng hồ và anh thì khoái chí với tấm ảnh một góc hồ có chùm hoa gạo đỏ chói. Trừ cái hồ thủy lợi, những điều người ta kể về vùng này mang tính chất hoang đường, nhưng cô nghĩ, những chi tiết để xây dựng nên chuyện hoang đường đều dựa vào những thành tựu của ngày hôm nay một cách rất logic.
Vị sư già đứng lên đi về phía bên kia gian miếu, bỏ lại cô và anh ngồi với hai tách trà bốc hơi. Khoảng im lặng ngăn cách giữa hai người như rộng hơn theo cái nhìn âu lo của anh hướng về màn mưa trước mặt. Cô nhìn đồng hồ tay. Vẫn còn sớm để chấm hết một buổi chiều của công việc. Nếu cô không về được chỉ có một người thắc thỏm là mẹ cô nhưng nếu anh không về kịp sẽ có đến hai người đợi anh: vợ và con gái.
Tự nhiên cô trách mình đồng ý đi theo anh làm chi để rơi vào tình huống bị động như thế này. Không biết nói gì với anh, cô lôi chiếc máy hình trong túi ra xem lại những tấm hình đã chụp nhưng bụi mưa hắt vào làm cô phải vội cất đi. Anh rút di động bấm bấm gì đấy rồi thở dài bỏ vào túi, rủ cô:
- Qua bên miếu tham quan. Em có xin gì thì xin rồi nhớ bỏ ít tiền vào thùng phước sương.
- Biết cầu xin gì ?
- Em còn trẻ thiếu gì điều để cầu xin. Tiền tài, danh vọng, tình yêu …
Một cơn gió ào thốc vào mái tôn, cô rùng mình, thấy lạnh. Vết thương liền da từ lâu lắm bỗng nhói lên đột ngột. Nỗi buồn ập đến. Ngày xưa có một chiều mưa gió như thế này, cô và người ấy tạt vào trú mưa dưới mái hiên một ngôi chùa cổ. Người ấy đã cùng cô cầu xin cho hai người có một tình yêu trăm năm.
Vậy mà, chưa đầy một năm sau, người ấy đã chủ động nói lời chia tay với cô. Đó là nhát dao cứa vào tim cô một vết cắt thật sâu, đến nỗi cho đến bây giờ, nhiều năm đã qua, cô khó có thể nói lên một lời cầu xin nào nữa về tình yêu. Cô lắc đầu hất mảng quá khứ chật hẹp vừa thoáng qua, nói với anh:
- Để em cầu xin Bà cho mau hết mưa, em và anh về lại phố bình an.
Bất giác cô nghĩ đến con đường đất sét ngoằn ngoèo đi xuống, lởm chởm bởi đá và nước đang ào ào thác đổ. Cô đã đọc ở đâu đó, người ta xuống núi khi trời mưa phải có cây gậy làm điểm tựa (!). Không biết cô và anh sẽ xuống núi như thế nào đây?
Đầu óc cô gần như trống rỗng khi đứng trước bàn thờ chính. Bức tượng Bà cao khoảng một mét ngồi dựa trên bệ rồng, tay cầm quạt đặt trên đầu gối. Cô đã một lần cầu xin và đã thất vọng. Làm sao có thể cầu xin ai đó ban cho mình tình yêu? Hay tiền tài, hay danh vọng? Anh đứng bên cô trông nghiêm trang và kín đáo. Người đàn ông này đâu phải của cô? Có ai cầu xin thứ gì đó được về mình mà lại gây mất mát cho người khác? Bao nhiêu năm cô vẫn một mình.
Tình yêu là một vật thể xa lạ và khó nắm bắt. Nắm tay này lại tuột tay khác, cơ hội đến rồi cơ hội lại ra đi. Mối quan hệ giữa cô và anh chỉ là mối quan hệ giữa hai người có cùng một đam mê tìm kiếm những hình ảnh đẹp mà theo lời anh nói anh không tìm thấy sự đồng cảm ở người vợ. Vậy thôi!
Trên con đường dong ruổi, có đôi lúc cô ước ao anh là của cô, nhưng cô biết chẳng bao giờ điều đó là hiện thực. Bởi vì đối với anh, một người cha mẫu mực, một người chồng tốt luôn là tiêu chí để đánh giá, để suy nghĩ. Có thể người ta không thật hoàn toàn hạnh phúc, nhưng không vì điều không hoàn thiện đó mà người ta lại đánh mất tất cả!
Anh bỏ vào thùng phước sương mấy tờ giấy bạc rồi kéo tay cô sang gian bên. Cô nhìn thấy hủ xăm đặt trên chiếc bàn nhỏ. Cô muốn bước đến và nhón lấy một thẻ để xem thử thì tương lai trong tâm trạng của kẻ bị mưa phong kín đường về, thế nhưng bàn chân cô khựng lại. Việc gì đến sẽ đến.
Biết trước kết cuộc một cuốn sách, một bộ phim thì liệu nó có còn hấp dẫn? “Thiên cơ bất khả lậu”! Không ai có thể biết trước được con đường mình đến. Liệu mình có thể làm tốt hơn không hay mọi thứ sẽ xấu đi? Nước chảy từ trên núi xuống biết là sẽ ra biển nhưng trên đường đi của nó biết bao uốn khúc quanh co. Con người ta cũng như nước chảy, sẽ biết lượn theo uốn khúc quanh co để tồn tại.
Anh và cô im lặng bước ra sân miếu. Phía nhà sau có tiếng thùng phuy nhựa đẩy ầm ầm để hứng nước. Mấy người đàn bà áo nâu có dáng vẻ cam chịu và nhẫn nại của người đã sống, đã nếm và muốn được yên đang làm công việc lấy nước để dành cho sinh hoạt.
Ban nãy cô có đọc được dòng chữ: “Tiết kiệm nước” bằng sơn màu xanh trên bồn chứa nước inox đặt phía sau miếu. Mùa lễ hội vào tháng ba của miếu đã qua và lễ hội mùa xuân thì còn lâu lắm mới đến để người ta mang nước lên núi.
Cuối cùng, khi nhìn đồng hồ tay, anh quyết định xuống núi. Đã đến giờ của bổn phận. Có người phụ nữ và đứa con gái bé nhỏ đang chờ anh trong cái tổ ấm dưới phố.
Đưa cho cô chiếc mũ bảo hiểm mắc ở tay lái, anh nói đùa:
- Giờ nó là chỗ dựa tinh thần tốt nhất cho mình khi xuống núi.
Vị sư già từ bên trong bước ra:
- Anh chị về nhé! Gài số 1 xuống núi. Mưa to quá thế này khó mà tạnh được.
Cô ngồi gọn lỏn phía sau lùng bùng trong chiếc áo mưa của anh. Đôi bàn tay cô ngần ngừ một lúc rồi bám chặt vào hông anh. Cô nhắm mắt. Mọi thứ phó mặc cho trời. Mưa núi sao mà to và dai dẳng thế không biết! Cô cảm nhận được một chân anh ở tư thế chạm đất nhấc từng quãng ngắn tạo điểm tựa giữ cho xe khỏi trượt. Anh nói đùa với cô một câu:
- Nếu có té cũng phải chọn cảnh té nào đẹp mắt nhất!
Xuống đến chân núi, lúc rẽ qua con đường nhựa, cô nghe tiếng anh nói to lấn át tiếng mưa có vẻ như trút đi gánh nặng ngàn cân :
- Nếu em biết đường xuống núi trơn đến cỡ nào!
Cô rùng mình, hé áo mưa nhìn ra bên ngoài. Cánh đồng ướt sũng. Núi trước mặt mờ ảo. Con đường phía trước vắng tanh, vắng ngắt. Mưa quất vào tay cô ran rát, chui vào áo mưa, cô thấy tấm lưng anh gần sát nhưng sao xa vời vợi. Nó không phải là của cô để cô có thể gục đầu vào đó dù chỉ trong chốc lát.
Mùi đàn ông quyện với mùi rơm rạ, mùi đất cày xới bao trùm lấy cô. Những giọt nước vẫn lộp độp trên tấm áo mưa. Những vạch sơn trắng dưới đường nhoa nhóa qua mắt cô. Bàn tay cô như một phản xạ bám chặt lấy hông anh khi xe vấp phải một cái ổ gà.
Mặt cô chạm vào lưng anh. Cô cảm nhận được hơi nóng ấm tỏa ra từ người anh. Thế nhưng, nó cũng chỉ trong tích tắc. Đường về phố rất bằng phẳng. Cái ổ gà chỉ là chút sơ ý của anh khi tránh vũng nước. Mưa nhỏ dần.
Cô dở áo mưa, ngoái lại nhìn bầu trời phía núi vẫn mịt mùng một màu xám chì nặng trĩu. Qua vai anh, cô thấy trời quang dần và ánh hoàng hôn sáng một góc trời trước mặt. Núi càng lúc càng lùi lại phía sau ….
Hắn điện thoại cho tôi sau hai mươi ba năm không gặp, với câu nói :"Ngày ấy anh đã yêu em biết bao, mà không bao giờ dám nói ... ". Tôi hơi sững người, nhưng với bản tính hay giễu cợt tôi trấn tĩnh ngay :"May mà ngày ấy anh đã không nói, biết đâu bây giờ anh khỏi cảm thấy hối tiếc" - "Tại saỏ" "Tại vì em bây giờ tàn tạ, xấu xí, và lắm điều ... ".
Hắn nói nhiều, rất nhiều, để bù lại hơn hai mươi năm không được nói với tôi, hắn bảo vậỵ
Những ngày sau đó hầu như ngày nào hắn cũng gọi điện thoại tôị Điện thoại đường dài và số tiền cước hình như không ảnh hưởng gì đến hắn, có khi hắn nói, có khi hắn im lặng, mỗi ngày hai ba lần gọi, mỗi lần gọi không ít hơn 15 phút. Tôi bảo hắn :"Chắc là bưu điện phải cám ơn em nhiều lắm lắm ... ". Hắn phàn nàn rằng tôi hay nói đến tiền bạc. Biết nói gì với hắn bây giờ khi tôi chỉ là một người phụ nữ, rất phụ nữ với bao nhiêu năm xoay quanh bếp lửa gia đình, lo toan trong cuộc sống đầy ắp những bận bịu đời thường: đi làm, chợ búa, cơm nước, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc bọn trẻ ...
Ban đầu ý tưởng về hắn trong tôi chỉ là những câu nói đùa bông lơn nhưng rồi những cú điện thoại của hắn xáo trộn cuộc sống của tôi - xáo trộn mặt hồ yên bình, rất yên bình. Tôi bắt đầu suy nghĩ về hắn, bắt đầu nhớ lại những gì đã qua của một ngày xưa xa lắc.
Tôi quen hắn khi tôi ghi tên vào đội bóng bàn của trường. Nhà trường bố trí hắn tập cho tôị Tuổi mười sáu, hắn là một thần tượng: hắn đỡ dập, rờ-ve của tôi và kết thúc là tôi phải đi lượm banh. Tôi chẳng đoạt được một giải nào cho trường trong khi hắn ôm về bao nhiêu là giải thưởng.
Hắn kể với tôi những điều mà tôi lục hoài trong trí chẳng nhớ nổi: hắn và tôi thường len lén bạn bè trao vội cho nhau một vài dòng chữ vẩn vơ, hắn bảo cho đến bây giờ hắn vẫn còn giữ (?). Hắn nói với tôi những điều mà một con người thực tế như tôi chẳng thể nào tin được: Hắn luôn mang hình bóng tôi đi suốt hơn hai mươi năm bôn ba khắp chốn, tôi là mối tình đầu tiên của hắn mà hắn không bao giờ quen được ... Tất cả những điều đó dĩ nhiên dù không tin nhưng tôi vẫn cảm thấy một chút hài lòng nho nhỏ, một sự hài lòng của một người bao nhiêu năm chôn vùi ký ức để đối phó với những khó khăn của đời thường. Duy chỉ có một điều tôi hơi buồn lòng là hắn luôn nói rằng vợ hắn rất dễ thương - nó cứa vào sự ích kỷ của một người phụ nữ.
Tôi bắt đầu có những đêm mất ngủ để suy nghĩ về những cú điện thoại của hắn, bắt đầu có những giờ phút chờ chuông điện thoại reo, bắt đầu tự hỏi: có chuyện gì không mà chiều này không thấy hắn gọi, mình đã nói những gì vô ý với hắn hay là có chuyện gì đã xảy ra VỚI HẮN ... Ở CƠ QUAN MỌI NGƯỜI BẮT ĐẦU THAN PHIỀN LÀ tôi hay có những cuộc nói chuyện lâu trên điện thoại, chồng tôi cũng bắt đầu thắc mắc về những cú điện thoại mà mỗi khi anh bắt máy là đầu dây bên kia cúp máỵ Con người hiện tại trong tôi kêu lên: Bắt đầu rắc rối đâỵ Con người quá khứ của tôi thì bảo: Cứ nghĩ về hắn, để tô điểm thêm cho cuộc sống, cuộc sống vốn dĩ đã chẳng quá khó khăn, đơn điệu đó sao
Hắn gửi cho tôi một món quà sinh nhật, tôi thật bàng hoàng vì hắn còn nhớ đến ngày sinh của mình. Những đĩa hát, toàn là những bài tôi thích. Tôi tự nhủ thầm: cuộc sống bình yên của tôi bắt đầu chấm dứt rồi đâỵ Đầu óc tôi đầy ắp những suy nghĩ về hắn: tò mò, thắc mắc và tự nhiên trong tôi có một cảm giác như những ngày xưa khi mới biết thế nào là tình yêu
Hắn gửi cho tôi hai tấm vé máy bay chưa đăng ký ngày giờ, hắn muốn gặp tôi, rất nôn nóng gặp tôi. Công việc của hắn không cho phép hắn bỏ đị Tôi ngần ngại, tôi chần chừ, tôi cũng muốn đến nơi hắn ở, cũng muốn thấy hắn bây giờ ra saọ Tôi lưỡng lự, tôi lo sợ, tôi lại có những đêm mất ngủ vì hai tấm vé máy bay của hắn. Cuối cùng tôi quyết định, phải gặp hắn một lần để tìm ra đáp số cho bài toán.
Không thế nào nhận ra hắn giữa đám đông người hỗn độn chen chúc ở phi trường. Nhung hắn nhận ra tôi, vì theo như hắn bảo, bao nhiêu năm qua tôi vẫn không thay đổi mấy ...
Tôi quan sát từ đầu đến chân và không thể nào tin đây là hắn: một con người mập mạp, trắng trẻo (biểu hiện của sự thành đạt), vòng bụng căng tròn, tròn hơn tôi tưởng rất nhiều, không còn là thần tượng một thời của tôị Nhìn hắn tôi bỗng nhiên thèm nhớ biết bao vòng bụng thon và bộ ngực chắc nịch của chồng tôi, bộ ngực mà mỗi lúc vui các con tôi hay bắt bố chúng gồng lên cho chúng đấm vào Tôi nói với hắn :"Lúc em đi thằng cu con hơi sốt, suốt thời gian ngồi trên máy bay tự nhiên em nóng ruột quá, chắc em nhờ anh đăng ký vé cho em quay về chiều nay". Hắn mở to tròn con mắt ngạc nhiên. Tôi nhớ đến hắn ngày xưa có một đôi mắt rất đẹp với cái nhìn sâu thăm thẳm, làm mềm lòng ngườị Bây giờ hắn chỉ còn có đôi mắt, tôi không dám nhìn vào đôi mắt làm mềm lòng người khác của hắn. Chiều nay tôi phải bay về ngay với gia đình mình. Giá mà tôi đừng gặp hắn, cứ để cho những đêm không ngủ nhớ về những ngày thật đẹp trong quá khứ. Cuộc sống vẫn có nhiều mâu thuẫn ngay chỉ trong một con người
Tôi nhớ lại một câu nói của một người nào đó :"Nếu phải chuyển đi đến một hành tinh khác chỉ có hai người, em cũng không lấy anh ... "
Ba giờ, chiều thứ sáu. Quá trễ để bắt đầu một việc! Thế nhưng, tôi không còn thời gian rãnh rỗi nào khác trong tuần rời khỏi cơ quan đi thanh toán tiền bảo hiểm cho thằng con nằm viện tuần trước. Tập hợp các chứng từ và thẻ bảo hiểm, tôi thẳng tiến đến cơ quan bảo hiểm nằm ở một ngã tư đường lớn. Chắc không có gì trục trặc đâu mình đã thanh toán một lần nằm viện ở tận Saigon kia mà, tuy có chờ đợi hơi lâu vì người ta phải gởi hồ sơ đi giám định nhưng cuối cùng mọi việc cũng tốt đẹp. Với ý nghĩ chắc mẫm như thế tôi tự nhiên lái xe cua vào cơ quan bảo hiểm.
Nơi để xe cho khách không còn một chỗ trống, nhìn ngang dọc thấy trước cửa nhà xe có một chiếc xe gắn máy chắn ngang, tôi dựng chiếc xe của mình bên cạnh và an tâm bước vào khi thấy người bảo vệ nhìn tôi mà chẳng có ý kiến gì. Người ta đôi khi cứ thích theo lối mòn của người đi trước, cho dù biết chắc rằng điều đó không đúng.
Người bảo vệ chờ đợi câu hỏi của tôi với gương mặt thật hà tiện nụ cười. Bài học về maketing tôi thuộc nằm lòng: khách hàng ngoài việc mua hàng hoá, họ rất thích mua quan hệ với người bán, người giữ vai trò rất quan trọng trong việc bán quan hệ đầu tiên là người gác cổng và nhân viên trực điện thoại hay lễ tân. Bài học còn nhấn mạnh: không biết cười thì đừng mở cửa hàng. Là người đi mua quan hệ, tôi hỏi với giọng điệu của kẻ bước chân đến xứ người, dù biết rất rõ mình sẽ đến phòng nào. Quả đoán không sai, tôi nhận được câu trả lời rất ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa:
- Thanh toán bảo hiểm lầu 4, phòng 5.
Tôi vừa dợm bước đi thì khựng lại bởi một câu gắt gỏng đuổi sau lưng:
- Chị dắt chiếc xe để vào đúng nơi quy định đi. Chỗ đó là trước cửa nhà xe, chị không thấy à?
Tôi thấy chớ, biết chớ, nhưng chẳng lẽ giờ đây lại trả lời rằng có chiếc xe của ai dựng trước rồi nên tôi bắt chước. Không xong đâu, dễ bị mắng lắm, chị có phải là con nít đâu mà thấy người ta làm thì bắt chước? Vừa may có người dắt xe ra cho tôi điền vào chỗ trống.
Một mình trong thang máy, tôi có dịp ngắm lại dung nhan của mình một cách rất thoải mái. Tôi vuốt tóc, cười với chiếc gương, ngắm lại bộ quần áo, hơi nghiêng đầu một chút. Tất cả đều tạm ổn. Chiều cuối tuần thế là tốt rồi, tôi tự tin nghĩ như thế khi rời khỏi thang máy bước thẳng đến phòng số 5. Một mái đầu đang cắm xuống cuốn sổ mở to đùng, ngước nhìn tôi:
- Thanh toán bảo hiểm hả, thứ hai chị quay lại đi, mấy anh đó đi công tác hết rồi. Sao không đến đầu tuần mà lại để cuối tuần?
Tôi cố gắng níu một chút hy vọng:
- Không còn ai làm việc này sao chị? Tôi sợ thứ hai không rãnh.
- Không có ai giờ này đâu.
Lần này thì tôi nhận được một câu đuổi khéo:
- Chị qua phòng bên cạnh, có người ngồi bển hỏi thăm.
Tôi nghĩ thầm ráng kiên nhẫn sẽ được đến bù. Phòng bên cạnh, một cặp kính nhướng lên nhìn tôi, nói như ra lệnh:
- Thanh toán gì? Đưa giấy tờ coi.
Tôi mừng rỡ không đợi mời ngồi ngay vào ghế, chìa ra một xấp giấy tờ. Cặp kính xem xét hồi lâu:
- Tại sao học sinh nằm viện không đóng tiền theo bảo hiểm y tế? Con chị học trường nào?
- Trường X.
Bốn mắt ngước nhìn tôi:
- Mười năm nay trường X. không không mua bảo hiểm y tế.
Đến lượt tôi ngạc nhiên:
- Tôi cứ tưởng ….
- Tưởng gì. Chị về mà hỏi hiệu trưởng.
- Thế giờ tôi tự mua cho cháu có được không?
- Không được.
Một câu khẳng định chắc nịch và khô khốc vang ra. Cặp kính trắng còn xem xét giấy tờ của tôi hồi lâu, xem đến tấm thẻ bảo hiểm cặp kính ngẩng lên nhìn tôi xoi mói:
- Chị không biết chữ à?
Tôi có nghe lầm không nhỉ? Chợt nhớ, trong đời mình đã từng đi dạy xóa mù chữ hai mùa hè, thêm một mùa hè dạy bổ túc văn hóa. Tôi nhẩm nhanh một con tính: 17 năm ngồi ghế nhà trường chính quy, chưa kể những khoá huấn luyện chuyên môn hay những lớp học theo quy định của ngạch công chức … trải dài hơn 20 năm làm việc. Tôi chưa kịp trả lời thì cặp kính trắng được gỡ ra khỏi gương mặt, lộ rõ cái cau mày và một đôi mắt thật khó chịu đẩy về phía tôi tấm thẻ bảo hiểm :
- Chị đọc kỹ coi thẻ này mua ở đâu. Trước khi đến đây, chị phải chú ý cho, mất thì giờ quá!
Một câu đuổi thẳng. Tôi cầm tấm thẻ. Trời đất ơi, tôi không biết chữ thật rồi, thẻ này trường con tôi mua của Cty X, giờ tôi cầm đến đòi thanh toán ở Cty Y. Sao tôi lại xớn xác như thế này nhỉ. Tôi biết lỗi, đứng lên chào và đi ra. Cặp kính tiễn tôi:
- Lần sau chị rút kinh nghiệm nhé!
Dứt khoát rồi. Tôi nghĩ thầm như thế và đi nhanh đến buồng thang máy trong đầu lẩm nhẩm cái địa chỉ mình sẽ đến.
Người bảo vệ Cty Y. bước ra, vừa dẹp mấy chiếc xe vừa càm ràm:
- Để xe thì phải để cho gọn, mấy người không thấy cái lề đường có chút bẻo sao?
Khi người ta đang bực, im lặng là vàng. Thấy tôi cầm xấp giấy, một cô ngồi ở bàn hướng dẫn nói:
- Chị đưa coi thử.
Cô hướng dẫn xăm soi mấy tờ giấy một cách cẩn thận rồi trả lại cho tôi:
- Chị chưa đóng dấu ra viện.
Tôi như quả bóng hết hơi! Chực nhớ, hôm ấy có lẽ vui quá vì con khỏi bệnh tôi quên mất việc đóng dấu, mà phòng đóng dấu cách phòng thu tiền chỉ có mấy bước chân. Nhìn đồng hồ nhẩm tính thời gian quay đến bệnh viện, tôi hỏi cô hướng dẫn:
- Liệu đi đóng dấu rồi quay lại có được thanh toán trong chiều nay không hở chị?
Lần này thì câu trả lời không được nhẹ nhàng cho lắm:
- Chị cứ đi đóng dấu còn kịp hay không làm sao tôi trả lời được. Ở trong kia làm chớ phải ngoài này đâu, chị không thấy còn một loạt người đang ngồi chờ kia sao?
Tôi nhìn lại hàng ghế, đầy những khuôn mặt không dấu được vẻ nôn nóng. Một người nói giọng điệu thông cảm:
- Thôi đi lấy dấu rồi quay lại, không kịp chiều nay thì thứ hai.
Bước ra khỏi Cty Y đầu óc tôi quanh quẩn những ý nghĩ rời rạc. Con tôi nằm viện 3 ngày, theo mức thanh toán sẽ được 45 ngàn, công nhiều hơn của…. Nghĩ đi, hay thôi bỏ quách nghĩ lại, mắc mớ gì bỏ, tiền chớ bộ rác sao. Rồi đâm tự trách mình, sao mà cứ xớn xác mãi thế này …
Khi tôi quay lại Y. chỉ còn một người ngồi ở hàng ghế đợi. Câu nhắc của người bảo vệ: “Khi nào có tiếng chuông là đến phiên chị” làm cho tôi có cảm giác đang chờ đến lượt khám bệnh. Không biết làm gì tôi thả tầm mắt nhìn bao quát gian phòng mát lạnh, chiếc TV đựng trong một cái tủ lớn ở góc phòng, bức tranh treo tường có một cô gái với đầy những chiếc lá vàng dưới chân, tấm cờ thêu hình tam giác, giải thưởng một lần thi đấu cầu lông của đơn vị; trang thờ nằm dưới đất bên cạnh bình hoa cúc vàng có mấy trái cam, vú sữa, nải chuối … Cánh cửa ra vào chợt mở ra kéo tầm nhìn của tôi về hướng ấy, một người phụ nữ mang theo vào căn phòng mùi nắng, mùi đường phố ngồi xuống bên cạnh, tự nhiên nói với tôi như thể quen biết tự hồi nào:
- Chiều giờ chạy muốn hụt hơi!
Chìa cho tôi một tờ giấy, chị hỏi:
- Khai tờ giấy này chưa? Con em té gãy tay, nằm viện 5 ngày. Em không biết chữ phải chạy về nhờ hàng xóm viết. Còn phải đóng dấu xác nhận của trường học nữa. Hành quá sức.
Tôi nhìn tờ giấy và thật sự phát hoảng khi nghĩ đến đoạn phải quay về trường học xác nhận. Tự nhủ, may mà chiều nay mình đã không nhờ ông chồng yêu quý đi giùm, nếu gặp phải “ca” này chắc là ổng sẽ bỏ của chạy ngay, chưa kể còn phải nghe càm ràm suốt buổi: “Lần sau đừng nhờ anh đi nữa, mất công, mất việc lắm”.
Có tiếng chuông phát ra, tôi bước vào phòng thanh toán với cảm giác căng thẳng làm sao! Một cặp mắt kính nữa nhìn tôi kèm theo lời mời:
- Chị ngồi đi, cho xem giấy tờ.
Bốn mắt xem xét tờ giấy ra viện và tấm thẻ bảo hiểm một cách cẩn thận, xong đưa tôi một tờ giấy giống hệt tờ giấy của người phụ nữ khi nãy, bảo điền vào những thông tin cần thiết. Trả lại tờ giấy đã có đầy đủ thông tin, tôi hỏi:
- Có phải về trường xác nhận không chị?
Bốn mắt ngước nhìn tôi:
- Ai nói chị phải về trường xác nhận?
Tôi chỉ vào tờ giấy:
- Thấy trong này có ghi.
Bốn mắt cúi xuống, lầm bầm:
- Người ta không yêu cầu thì thôi, hỏi làm gì.
Đúng quá rồi còn gì, người ta không yêu cầu mà cứ hỏi. Tôi ngồi im với dáng điệu của người vừa rút được một kinh nghiệm.
Thủ tục thanh toán nhanh chóng và nhẹ nhàng, tôi qua phòng thủ quỹ nhận được 60 ngàn đồng, hơn dự tính 15 ngàn. Nhìn đồng hồ đeo tay. Một tiếng rưỡi đồng hồ cho tất cả mọi việc. Nắng chiều vẫn còn tràn đầy trên phố, mang tâm trạng nhẹ nhõm của người vừa làm xong việc lớn, tôi chạy xe thẳng đến siêu thị. Cần phải mua cho thằng nhóc một thứ gì đó như hộp sữa chẳng hạn. Thế nhưng vào siêu thị cái tính phụ nữ đã kéo tôi đi hết quầy này đến quầy kia. Khi cái giỏ trong tay tôi bắt đầu hơi nặng, tôi bước đến quầy đông lạnh xem xét và chọn hai lốc sữa chua của một hãng sữa nổi tiếng.
Tôi mang tâm trạng thoải mái như thế suốt con đường về nhà. Mấy đứa nhỏ vừa đi học về thấy tôi xách cái bị màu vàng to đùng liền ùa tới bàn salon náo nức chờ tôi lần lượt bỏ từng món ra khoe:
- Mẹ mua yaourt này ăn thử xem sao, mắc hơn loại mình thường ăn đến một ngàn đồng một hủ đó.
Con gái tôi có lẽ đang đói và khát nước cầm vội hủ yaourt:
- Mẹ cho con ăn nghe mẹ, thấy thèm quá!
Không kịp chờ tôi gật đầu, nó lấy cái muổng nhựa, kéo phăng miếng giấy thiếc. Múc một muổng đưa vào miệng, nó nhăn mặt lè ra:
- Ghê rợn quá, chua lèm, lạt nhách …
Nó đẩy cái hủ về phía tôi. Nếm một miếng, tôi không thể tưởng tượng được tại sao mình lại xớn xác như vậy. Tôi đã đứng ở quầy đông lạnh gần cả 10 phút, xem xét đến tận cùng những chi tiết nhỏ như hàm lượng calci bao nhiêu, chất béo bao nhiêu, protein, carbonhydrate bao nhiêu mà bỏ qua hai chữ màu đỏ nổi rõ trên nền màu xanh: “Không đường”. Thằng bé con đang ngồi bó gối một góc salon theo dõi phim hoạt hình trên TV quay lại:
- Yaourt gì vậy mẹ?
Chồng tôi tay cầm cái áo sơ mi đứng gần trả lời thay:
- Yaourt xớn xác con ạ.
- Xớn xác là gì?
- Là vô ý, bộp chộp, không ngó trước ngó sau.
- Lần sau mẹ phải cẩn thận chớ !
Thằng bé nói với tôi bằng giọng điệu của một ông cụ. Tôi chợt nhớ giờ này tuần trước nó còn nằm ở bệnh viện, trên tay loằng ngoằng sợi dây chuyền dịch, mặt mày xanh mét nói không ra hơi có đâu lên lớp cho tôi một câu đáng đồng tiền như vậy.
Hai hàng đèn cao áp màu vàng sáng rực soi rõ từng đám cỏ bên vệ đường. Có một con rắn mối đi ăn đêm chạy xẹt ngang thật nhanh từ bên này; đến giữa đường tim màu trắng nó khựng lại, ngẩng đầu lên nghe ngóng rồi tích tắc phóng vụt vào bãi cỏ phía đường bên kia. Chỉ có anh và chiếc bóng đen ngắn ngủn đồng hành. Anh dừng lại lấy trong túi áo cái bật lửa và điếu thuốc rồi ngồi xuống bordure. Trên bầu trời đen chiếc đĩa tròn sắc nét màu trắng dõi theo anh qua những con phố mờ tối giờ nhòe đi nhợt nhạt. Anh nhìn quanh những con đường mới nằm trong khu quy họach chạy vuông vức như ô bàn cờ. Vẫn còn những khu đất trống đầy cỏ lau chen lẫn những khu nhà đã được xây cất tử tế, có ánh đèn vàng hắt ra từ những ô cửa sổ. Một con chó hoang như vừa chui ra từ lùm cỏ lau nào đó chạy tới phía anh, nó dừng lại dỏng tai, giương mắt nhìn anh như muốn làm quen. Anh húyt sáo và đưa bàn tay vẫy, con chó ngần ngừ một lúc rồi chầm chậm bước tới. Đến gần chỗ anh ngồi, nó chăm chăm chờ những tín hiệu tỏ vẻ chấp thuận cho nó tới gần hơn nữa. Thấy anh không còn vẫy tay hay húyt sáo con vật dè dặt nằm xuống cách xa anh khỏang hai thước. Nhìn con chó tự dưng trong anh có một cảm giác cô đơn và hụt hẩng lạ thường. Anh nhìn về phía trước mặt, ánh đèn sáng chói nơi anh ngồi nhấn chìm khu rừng dương và biển trong một màn đen. Như vậy, anh đã đi bộ hơn năm cây số từ khu phố cũ để về lại nhà khách nằm trong khu vực quy họach mới này của thị xã.
Anh có đúng 22 năm để trở lại nơi này. Nếu không phải là đại biểu có tham luận trong hội nghị ngày mai chắc có lẽ anh không bao giờ đến đây. Ban chiều, chiếc xe rẽ ngoặc vào con đường chính tim anh như muốn vỡ tung, kỷ niệm cũ và nỗi day dứt mơ hồ nào đó thi nhau vò xé lòng anh. Anh đã trải qua năm năm của thời tuổi trẻ không buồn, không vui ở đây. Con phố chính cắt đôi thị xã chạy dài từ Quốc lộ 1A về phía biển bị chắn bởi khu quân sự cũ và rừng dương cùng một cồn cát làm đường ranh phố – biển ngày xưa thường ngăn bước chân khám phá của anh. Anh không thích biển nơi đây, không có núi che chắn, nó bao la và mênh mông quá dễ làm anh chóang và ngộp thở. Cho đến một ngày, không chịu nổi sự tĩnh lặng luôn mang dáng vẻ uể ỏai của nó, những bài giảng nhai lại kèm theo những khuôn mặt học trò vô cảm, anh ra đi.
Những con đường trong phố vẫn còn nguyên hàng cây xà cừ thật lớn chạy ngang dọc như những nhát dao băm vằm tim anh - sự thay đổi chậm chạm nơi đây làm lòng anh càng thêm trĩu nặng. Phải chi nó khác đi nhiều so với ngày xưa để anh có cảm giác mình đang đến một nơi hòan tòan xa lạ. Đã vậy, những tấm banderole ghi dòng chữ chào mừng đại biểu về dự hội nghị như vả nhẹ vào mặt anh, thị xã vẫn đang bao dung mở rộng tấm lòng đón anh - một kẻ đã từ chối và bỏ chạy để bây giờ nhìn lại mọi việc diễn ra trong cuộc đời như một “nhãn tiền” mà ở tuổi hai mươi ngày ấy anh làm sao biết được!
*
Ra trường năm hai mươi hai tuổi anh nhận quyết định về dạy học ở một trường trung cấp nằm trong thị xã. Cùng về với anh đợt ấy có Khoa và Bích, hai người là bạn học cùng trường. Anh và Khoa là dân thành phố còn Bích là người địa phương. Học trò đa phần là các em học sinh vừa tốt nghiệp lớp 9, bộ đội phục viên hay cán bộ đi học. Anh dạy môn phụ nên dù có đầy nhiệt huyết cũng không thóat khỏi tâm trạng chán nản. Còn Khoa, tuy dạy môn chính nhưng do gia đình ở thành phố tương đối khá giả, phải về đây Khoa cũng chẳng phấn khởi gì. Chỉ có Bích là thoải mái vì cô được về gần nhà và được dạy môn chính.
Anh và Khoa ở cùng phòng trong khu tập thể. Biết tâm trạng buồn chán của hai người, sáng nào lên lớp Bích cũng tranh thủ đi sớm gần nửa tiếng tạt vào lôi anh và Khoa lên lớp. Có hôm cả hai trùm chăn kín mít mặc cho Bích gõ cửa đến mỏi tay và luôn vùng dậy khi nghe giọng cô bắt đầu nghèn nghẹn nước mắt.
Nhiệt tình của Bích dần cảm hóa được hai người, cô kéo anh và Khoa từ trong đống chăn mền bèo nhèo trên chiếc giường đơn ở khu tập thể những ngày nghỉ cuối tuần để ra phố, về quê, ra biển hay về nhà cô - một ngôi nhà nằm trên con phố chính có cây xà cừ xòe tán rộng phủ trùm hết vuông sân thượng, có những buổi sinh họat gia đình đầm ấm cùng những món ăn ngon do chính tay mẹ cô làm thết đãi hai người. Ba Bích một người đàn ông vui tính và chân thật, thích chơi cờ; thỉnh thỏang ông vẫn nói đùa anh và Khoa là Sơn tinh và Thủy tinh, ai thắng ông liên tiếp ba ván sẽ được ông gả con gái. Không bao giờ anh hay Khoa thắng được ông, nhưng chắc có lẽ khi ấy cả hai người chẳng ai có ý nghĩ muốn thắng ông liên tiếp ba ván…
Một học kỳ, hai học kỳ rồi những học kỳ sau đó trôi qua trong bình lặng và tẻ nhạt vô cùng đối với anh. Những lá đơn xin việc anh gởi về thành phố mong được chuyển một công việc làm khác ngày càng ít hy vọng; sự tự tin trong anh mòn dần, có đôi lúc biến thành mặc cảm, tự ti hay những buồn vui vô cớ. Anh đem tất cả những muộn phiền ấy trút hết cho Bích. Cô yên lặng hàng giờ nghe anh tâm sự, cố gắng cùng anh tưởng tượng về một tương lai khá hơn cho anh, thế nhưng cuối cùng bao giờ cô cũng nhận từ anh một gáo nước lạnh hất đi vùng vằng : “Em làm sao hiểu hết được những điều ấy!”. Anh chẳng thèm đếm xỉa những nét buồn u ám đến tội nghiệp trên gương mặt Bích, anh chỉ biết loay hoay với những trăn trở cho riêng mình.
Một buổi tối thứ bảy, Khoa đã về nhà. Anh cảm thấy rất ngột ngạt trong căn phòng mười sáu mét vuông, anh lôi chai rượu ra uống một mình. Những suy tư về một tương lai không có viễn ảnh gì sáng sủa ở thị xã nhỏ bé và hiu hắt này thi nhau dằn xé, anh có cảm giác mình như con cá bị bủa trong tấm lưới chật hẹp, càng vẫy càng bị bó chặt. Đang lúc cực điểm của sự bế tắc thì Bích đến. Như người chết đuối vớ được chiếc phao, anh ôm lấy Bích và trút hết vào cô những nỗi buồn, những bế tắc. Bích dịu dàng vuốt ve anh xoa dịu dần sự căng thẳng. Khi sợi dây đã chùng, cô nhận thấy anh chẳng hề yêu cô; cô chỉ là một từ hay một cụm từ điền vào dấu ba chấm đang bị khuyết trong cuộc đời anh, cô lặng lẽ rời khỏi căn phòng ấy và nuốt ực xuống cổ cảm giác buồn, tủi, đớn đau.
Cuộc sống là một chuỗi thất vọng rồi hy vọng kéo dài theo dạng biểu đồ hình sin lay lắt kéo anh những giờ lên lớp vô cảm. Cho đến một ngày chuỗi hy vọng ở đỉnh điểm cao nhất là lúc anh nhận được sự chấp thuận về làm việc ở một viện nghiên cứu trung tâm thành phố. Cùng lúc đó, tất cả như nhấm chìm anh xuống điểm cực tiểu khi Bích đến báo tin có một mầm sống đang cựa quậy trong cô. Đó là một đêm mưa. Tiếng mưa rơi đều đều trên mái tôn đưa anh từ từ rớt xuống đến tận cùng. Biểu đồ hình sin cuốn lại chập chờn dùng dằng trong anh , cuối cùng như một sợi dây nó kéo nhanh anh lên khỏi vực sâu với một lời từ chối quyết liệt: “Anh đã quyết định rời khỏi nơi này trong tháng tới!”. Khi buột miệng nói xong câu đó, có lẽ lần đầu tiên trong đời anh nhìn thấy một đôi mắt khác thường như vậy từ Bích. Nó như một tấm thảm trải rộng được đan bằng những sợi dây thương yêu, óan hận, tuyệt vọng đến căm hờn và cuối cùng được gút lại ở đường biên bằng những sợi chỉ lạnh lẽo, vô hồn, không cảm xúc. Bích đứng lên, quyết liệt và mạnh mẽ. Cơn mưa bên ngòai đã hết, cầm tấm áo mưa cô rũ thật mạnh cố làm rớt hết từng hạt nước nhỏ rồi xếp lại một cách chậm rãi và bước rất nhanh ra khỏi căn phòng ấy.
Cuối cùng mọi việc kết thúc như có một bàn tay sắp đặt khéo léo. Ngày đám cưới Khoa và Bích cũng là ngày anh bước lên xe đò rời khỏi thị xã. Hôm ấy mưa rất to, những giọt nước mưa như những viên đá quất vào mặt anh đau rát và lạnh buốt; dù việc ra đi đã quyết định từ trước nhưng cái tâm trạng của người vội vã chạy trốn vẫn theo anh bao năm trời đằng đẵng về sau và đến mãi hôm nay.
Anh không gặp lại Khoa, Bích từ đó; tin tức của hai người thỉnh thỏang tạt vào đời anh như những cơn mưa bóng mây, khi thì nhỏ lúc thì ồ ạt. Họ đã có con, một bé gái xinh đẹp nhưng yếu ớt vì được sinh ra và nuôi nấng trong bối cảnh người mẹ bị đau ốm triền miên. Hai năm sau họ chia tay. Người ta nói họ không hợp nhau nhưng anh hiểu Khoa đã làm xong vai trò của mình. Khoa chuyển công tác về một thành phố trên cao nguyên và lập gia đình sau đó ít năm; còn Bích sau những chìm nổi trong cuộc đời, như một con bướm được thóat xác cô vươn mình đứng dậy, nghe nói mấy năm sau được đề bạt lên làm hiệu trưởng.
Anh bơi ngược bơi xuôi trong bể cuộc đời khi chìm, khi nổi cũng đến gần mười năm sau đó mới lập gia đình. Cuộc sống gia đình của anh sẽ hòan tòan thuận lợi và đầy đủ nếu vợ anh mang đến cho anh những đứa con; thế nhưng, một năm, hai năm rồi năm năm hy vọng ấy càng ngày càng tắt, càng chờ càng mất. Vợ anh đòi đi khám, nhưng anh nhất quyết không chịu. Anh biết rất rõ điều này, anh yêu vợ thật sự và anh không muốn cô phải mang tâm trạng người có lỗi. Anh nhận phần thua thiệt về mình, đó là lần đầu tiên trong đời anh nhận mình là người bại trận : “Có lẽ anh đã lớn tuổi nên không thể có con được, nếu chúng mình yêu nhau thì sống như vầy cũng được rồi”. Anh nói với vợ như thế. Và từ đó căn nhà của họ là hai thế giới riêng biệt, cô lao vào vào những đề án, những chương trình, những công việc ngòai xã hội; anh chìm đắm vào những trang sách dịch, những bản văn tự cổ, những tấm văn bia trải qua nhiều thế hệ, anh lút đầu sau những cuốn tự điển thật dày tìm lại quá khứ trong những trang tài liệu đã có hàng trăm năm. Cuộc sống của anh như con thuyền trôi chậm rãi, bình an trên dòng sông thời gian đưa con người về đến một cái đích cuối cùng nào đó. Thế nhưng ám ảnh về những đứa con vẫn không thôi rời bỏ anh, những giấc mơ của anh thường xuyên có những đứa trẻ bụ bẫm với nhiều tiếng bi bô không rõ nét hay những tiếng cười trong trẻo; thỉnh thỏang anh mơ thấy ngôi nhà trên con phố chính có cây xà cừ xòe tán rộng, trên vuông sân thượng đặt sẵn một bàn cờ, có anh và một người đàn ông đang thận trọng tiến thóai đẩy lui mong giành phần thắng cuộc, xung quanh lũ trẻ con chạy nhảy, chơi ô quan, chơi canh chuông, có đứa thụp xuống níu lấy người anh mong được anh che chắn trong một trò chơi trốn tìm… Tất cả những điều đó luôn dằn vặt anh như anh đã từng có những dằn vặt một thời trai trẻ ở cái thị xã buồn tẻ và uể ỏai ấy.
*
Con chó hoang đã lần hồi nhích đến sát chân anh tự lúc nào, anh giật mình khi bàn tay bỗng chạm vào lớp lông mềm của nó. Búng tàn thuốc còn đốm lửa đỏ ra xa anh đứng dậy và đi về phía bóng tối. Chiếc bóng và con chó lại lẳng lặng theo chân anh trên con đường vắng. Hết con đường có hàng đèn cao áp, anh rơi vào vùng ánh sáng mờ nhạt của những bóng đèn nhỏ đủ soi đường cho anh xuống biển. Mặt trăng ló ra khỏi lùm dương như một con mắt tò mò cố dõi theo anh. Bóng cây in trên bờ cát những vệt đen lờ mờ xiên xẹo không hình thù. Không có một ngọn núi nào che chắn, biển lặng như một tấm thảm trải rộng. Không gian bao la và thóang đãng làm anh ngộp thở. Xuống đến mép nước, anh thấy rõ những con sóng chạ nhẹ vào bờ cố không gây nên một tiếng động nào dù là tiếng xạc xào nho nhỏ. Gió se se mang cái lạnh gai gai của đêm đang chuyển dần sang ngày khác. Con chó lúc này đã mạnh dạn hơn, nó quấn lấy chân anh như muốn tìm một chút hơi ấm. Anh ngồi xuống bờ cát, con chó phục xuống nằm bên cạnh, anh lấy tay vuốt đầu con vật, được bàn tay người thương yêu nó duỗi mình dài ra và mọp sát đầu xuống cát.
Người ta có thể dối với bất cứ ai, dấu giếm nhiều người nhưng không bao giờ qua mắt được người mẹ. Tối nay anh đã đến ngôi nhà đó. Thời gian phủ một lớp mờ lên tất cả mọi thứ. Anh dựa lưng rất lâu vào cây xà cừ đã có dáng vẻ hơi cỗi vẫn xòe tán xum xuê như tựa vào một người quen cũ. Qua khung cửa kính anh vẫn còn nhìn thấy bộ salon cổ ngày trước. Khi cánh cửa bật mở ra, một người đàn bà có gương mặt phúc hậu, mái tóc bạc trắng, dáng đi nhẹ nhàng thanh thóat nhìn anh chẳng có gì lạ lẫm hay ngạc nhiên :
- Tôi biết rồi cũng sẽ có một ngày cậu đến đây!
Không mời anh vào nhà, đứng dưới gốc cây xà cừ bằng một giọng nhẹ như gió thỏang bà đã nói với anh:
- Mọi việc qua lâu rồi, chúng tôi đã quên tất cả. Mong cậu hãy hiểu cho là giờ đây chúng tôi đang sống rất bình yên.
Cánh cửa sắt kéo lại, những bánh xe có lẽ từ lâu chẳng được tra dầu mỡ nghiến ren rét trên đường ray như nghiền nát quả tim anh. Aùnh sáng bên trong vụt tắt trả lại bóng tối của cây xà cừ trùm kín lấy người anh.
*
Mặt trăng đã nghiêng chếch về Tây. Con chó dưới chân anh đã ngủ từ lúc nào. Biển mênh mông là thế nhưng sao không hề nghe tiếng sóng? Cảm giác mỏi mệt thấm dần khắp người anh. Mọi thứ mờ ảo trước mắt. Anh đứng dậy trở ngược lên con đường đi về nhà nghỉ bỏ lại sau lưng bờ biển vắng và con chó hoang bằng bước chân của người đi trong vô thức. Thả người xuống chiếc giường nệm, anh nằm im cố lắng nghe tiếng sóng từ xa dội lại, thế nhưng xung quanh anh tất cả đều yên ắng. Anh đã có một đêm ở biển không hề nghe tiếng sóng.
Anh ngủ được chút xíu thì bị đánh thức bởi những âm thanh xôn xao ngòai hành lang. Hình như có một đòan khách ở xa vừa đến. Màu trời xanh thật nhạt bên ngòai khung cửa sổ đã kéo anh nhổm dậy. Biển gần đến nỗi anh tưởng mình có thể nhảy qua khỏi khung cửa kia là rơi ngay vào làn nước xanh lơ đó. Anh bước đến bên cửa sổ nhìn xuống đường. Dòng người đi biển sớm như những quân cờ di động, hàng dương kéo dài ngút mắt không có điểm dừng. Trời và biển xanh đến nao lòng, thị xã mang một vẻ đẹp hoang sơ và tinh khiết của một cô gái không hề có chút điểm trang. Anh nhìn mãi những màu xanh được pha trộn một cách hòan hảo trước mặt với đầu óc trống rỗng và giật mình khi có người gõ cửa phòng mời anh chuẩn bị đi ăn sáng để bắt đầu cho ngày làm việc đầu tiên.
*
Hội nghị được tổ chức theo kiểu bàn tròn tọa đàm. Từng thành viên tham dự lần lượt được giới thiệu. Anh bị thôi miên vào góc cuối căn phòng, người ta vừa giới thiệu một đại biểu còn rất trẻ, cô vừa tốt nghiệp ra trường nhưng đã có nhiều công trình nghiên cứu đóng góp cho địa phương và hiện đang là giáo viên trường Cao đẳng của thị xã. Một mái tóc xõa dài ôm bờ vai nhỏ nhắn, nụ cười e ấp và khuôn mặt ửng hồng vì thẹn. Anh giật mình. Có phải là tuổi trẻ của anh đó không? Một khuôn mặt quen lắm trong miền ký ức xa thẳm nào đó? Bên cạnh anh có tiếng một người giới thiệu với một người như muốn khẳng định thêm uy tín cho cô gái: “Con cô Bích, hiệu trưởng trường Trung cấp Y…”. Sống lưng anh lạnh tóat, tay anh run rẩy, đầu óc anh chóang váng. Mọi việc sau đó diễn ra một cách máy móc đối với anh, những ánh đèn flash lóe sáng, những ống kính đưa tới chụp gương mặt anh cận kề, bài tham luận và những câu trả lời phỏng vấn bên lề hội nghị… Đầu anh ong ong, tim anh muốn vỡ tung ngàn mảnh … Ngôi nhà có cây xà cừ xòe tán rộng và câu nói của một người lại văng vẳng bên tai : “Giờ chúng tôi đang sống rất bình yên …”. Anh đã làm dang dở một thời tuổi trẻ của cả ba người: anh, Khoa và Bích và đã gây nên biết bao sự việc rắc rối trong quá khứ ở đây. Anh không có quyền làm xáo trộn sự bình yên nơi này một lần nữa. Thị xã vẫn rất yên tĩnh cũng như đêm qua biển không có sóng đấy thôi!
Hội nghị còn tiếp tục một ngày nữa, nhưng chiều tối hôm ấy không chịu nổi những dằn vặt và nỗi buồn nặng trĩu trong tim, anh rời khỏi nhà nghỉ ngoắc một chiếc xe đò Bắc – Nam, vội vã giống như một ngày mưa cách đó 22 năm.
Khi chiếc xe đò dừng lại một quán ăn bên đường cho tài xế cùng hành khách nghỉ ngơi, ăn tối. Đứng tựa lưng vào một gốc cây nhìn ra quốc lộ nhuộm màu đen thẳm của đêm anh nghe tiếng hát một người mù ai óan tả cảnh gà trống nuôi con và trách cứ ông trời sao bày vẽ chi nhiều bi kịch bắt người đời phải gánh chịu. Người chủ quán đang chế cà phê cho khách nói bâng quơ một mình theo thói quen muốn tìm ai chia sẻ trong cái đám đông đang lặng lẽ đứng, ngồi chung quanh: “Ông ta mù hát rong kiếm tiền mà nuôi con gái tươm tất lắm. Con gái ông học rất giỏi , vừa thi đậu vào trường chuyên thị xã …”.
Câu nói bâng quơ như nhát dao xắn vào quả tim nặng trĩu của anh một nhát thật sâu. Không suy nghĩ gì thêm nữa, anh khóac vội chiếc túi du lịch bước ra đường cái vẫy một chiếc xe đò Nam – Bắc khác đang ngược về thị xã bỏ lại sau lưng vài câu suy đóan mơ hồ của đám đông : “Ông ta vừa lên ở K. ban nãy mà…”. “Chắc chợt nhớ bỏ quên gì đó quan trọng lắm nên mới vội vã quay lại như thế!”.
Người phụ xe xếp cho anh một chỗ ngồi trên băng ghế sau cùng. Ngả đầu vào thành ghế anh nhắm mắt. Quá khứ, hiện tại, tương lai hiện lên trong mắt anh như một cầu vồng nhiều màu sắc khi nhòa, khi tỏ. Những luồng gió đêm tạt vào xe mang theo cái mùi nồng nồng của rơm rạ và của đất hòa quyện với hơi người trong xe tạo thành một hơi ấm xoa dịu dần nỗi đau đớn trong trái tim anh. Biển trước mặt anh trải rộng đến vô cùng và xanh thẫm một màu ngọc bích. Vẫn là đêm không hề nghe tiếng sóng.
“Cuộc sống như một con tàu tốc hành cứ lao về phía trước, cô đã bỏ mất nhiều dịp may để tìm cho mình một nửa kia. Rồi cô gặp được anh như người đang bơi giữa dòng mệt mỏi tìm thấy chiếc phao. Cứ thế, trong nhiều năm liền, tiến không được mà thoái cũng không xong. Cô nhấm nháp vị đắng của tình yêu như một người lữ hành cô độc thảng hoặc dừng chân vào lữ quán trong cuộc hành trình thật dài".
Nhẹ nhàng, chậm rãi và êm ái, bốn chiếc ca-bin bốn mầu treo trên một sợi dây cáp từ đỉnh núi cao đi xuống. Nhìn từ xa, cáp treo giống như những cái hộp trò chơi của bọn con nít lủng lẳng trên một sợi dây chăng ngang trời. Rừng xanh bên dưới, núi dường như cao hơn và bầu trời thấp đi một chút, mây trắng lững lờ như lùa vào cả trong ca-bin.
Cô nhìn xuống thung lũng, một thảm thực vật dày đặc, xanh rì điểm xuyết những đóa hoa rừng đủ mầu sắc, có cảm giác như đang nhìn xuống một chiếc võng đung đưa. Ðó chỉ là ảo giác khi người ta đang đứng hay ngồi trong một vật thể chuyển động nhìn ra không gian bên ngoài. Bầu trời như chiếc chuông khổng lồ úp xuống thung lũng lòng chảo, cô chợt có cảm giác mình bé nhỏ vô cùng trong vũ trụ và con người chỉ là hạt bụi bay lơ lửng trong bầu trời. Ở độ cao 1.487 m so với mặt nước biển, gợi thèm cảm giác phiêu lưu. Cái cảm giác bắt đầu hình thành khi ngồi trong xe, vượt mười sáu cây số đường đèo dốc đứng, qua năm mươi hai khúc quanh gấp khúc như cùi chỏ, mỗi khúc quanh là lên một tầng cao mới, vách đá một bên, vực sâu một bên, cứ thế cho đến đỉnh núi. Nhiệt độ đang xuống từ từ, bắt đầu ở khoảng 20oC. Nắng mỏng manh trải dài trên lưng núi hững hờ nhìn buổi chiều đang xuống chầm chậm. Những con chim chưa một chút vội vàng về tổ, còn nấn ná nhởn nhơ từ phía xa kia, có đôi chim lạ vờn bay chơi trò trốn tìm trong mây. Mây sát gần trước mặt như với tay là bắt lấy được. Tiếng ve sầu kêu râm ran vang vọng khắp núi rừng. Tại đây, mọi đau khổ, buồn vui, hạnh phúc được xếp gọn lại bỏ vào trong va-li, khóa chặt. Cô ưỡn người ra phía sau, hít một hơi thật dài không khí trinh nguyên của đất trời, mắt mơ màng nhìn về phía trước, tận hưởng cảm giác thật tự do và thoải mái khi được ngồi một mình trong chiếc ca-bin. Qua ba trụ tháp có cảm giác gập ghềnh như ngồi trên chiếc xe vừa qua một cái ổ gà nhỏ trên đường, cáp treo bắt đầu di chuyển thật chậm. Vận tốc bây giờ là không phẩy ba mét trên giây. Cô an tâm khi đọc thấy dòng chữ ghi chú bên trên: "Cáp treo di chuyển thật chậm giống như đang dừng để quý khách ngắm phong cảnh". Rừng dưới chân, mây trên đầu, mây trước mặt, mây sau lưng, núi ôm vòng thung lũng, thật xa kia là biển như một đường bút chì kẻ trên nền giấy mầu xanh nhạt. Vết tích hơn hai trăm ngôi biệt thự xây dựng trong thời kỳ Pháp thuộc chỉ còn là những ngôi nhà đổ nát nằm rải rác giữa vùng núi đồi bát ngát. Giữa mùa hè mà cô có cảm giác như mình đang ở vào một mùa xuân của vùng ôn đới.
Có bốn ca-bin đang chầm chậm ngược chiều lên từ phía dưới kia, đong đưa giữa vùng mây trời. Cô thờ ơ nhìn chiếc ca-bin màu xám nhạt đang trôi từ từ thật chậm, cho đến khi nó tiến sát dần đến. Tự dưng tai cô ù đi mà không phải là do áp suất không khí thay đổi đột ngột. Cô nuốt ực xuống cổ để tạo cảm giác thoát hơi ở lỗ tai, mắt cô mở thật to nhìn một người quen lắm trong chiếc ca-bin đối diện. Từ bên kia, một người đàn ông cũng đang tròn đôi mắt nhìn sang cô. Ở độ cao 1.487 m so với mặt nước biển, hai người đã vô tình gặp nhau.
Mùa hè vẫn còn tươi roi rói trên những cây phượng trong thành phố. Cách đây một tháng họ gặp nhau. Anh nói với cô rằng, anh sẽ đưa bọn trẻ con đi nghỉ hè trong tháng tới, nhưng chưa biết là sẽ đi đâu. Hôm trước khi đi Ðà Nẵng dự hội nghị, cô có gọi điện thoại cho anh, nhưng đường dây cứ báo bận, tắt máy hay ngoài vùng phủ sóng. Bây giờ, tại đây, nơi cách xa Sài Gòn hàng ngàn cây số, anh và cô lại gần nhau với khoảng cách chỉ còn vài mét, trong hai chiếc ca-bin đang ngược chiều nhau thật chậm. Cô ngoái lại lần nữa nhìn cho kỹ để xác định đó là anh. Không nhầm lẫn vào đâu được, cái lưng quen thuộc, đầu tóc quen thuộc. Bên cạnh anh có hai đứa trẻ và một bà cụ. Sóng mobifone chập chờn, khi có khi không. Giá mà níu mây trời nhắn tin được đến anh, giá mà có con chim rừng nào đó bất chợt sà xuống đưa giùm cô một tín hiệu. Xuống đến trạm dừng bên dưới mà tai cô vẫn còn ù, tim cô vẫn còn đập loạn nhịp cô ngơ ngẩn đến độ trưởng đoàn phải nhắc đến mấy lần. Khi ngồi trên cáp treo trở lên, cô không còn lòng dạ nào mà nghĩ đến rừng xanh bên dưới, mây trắng trên đầu. Ðầu óc cô lúc này chỉ còn ẩn hiện bóng dáng một người, cô mong chiếc cáp treo đi thật mau lên đỉnh, để cô nhìn thấy anh lần nữa. Sương mù bắt đầu đậm dần, chắc là anh sẽ ở lại tối nay. Nghĩ đến điều này cô mới an tâm nhìn xuống thung lũng ngắm một lần nữa toàn cảnh Bà Nà. Vẫn là biển phía xa kia với một đường bút chì kẻ thật nhạt, những con chim rừng đã về tổ và những đóa hoa rừng cũng vừa đang khép cánh, chỉ còn tiếng ve sầu râm ran, những vết tích hoang phế mờ ảo chìm dần trong màn sương. Khi cánh cửa ca-bin tự động mở ra, bước chân cô như chạy xuống về phía khu vực nhà nghỉ. Trong dòng người tấp nập bên dưới, cô không tìm thấy bóng dáng nào quen thuộc.
Khu biệt thự nghỉ mát nằm dưới tán lá dày đặc của rừng nguyên sinh. Có những con đường thật nhỏ dẫn vào mỗi ngôi nhà. Cây rừng chen chân người, tiếng gió len qua từng kẽ lá hòa với tiếng nước chảy róc rách từ xa vọng lại của một dòng suối nhỏ nào đó, tạo thành một âm thanh quấn quýt bước chân. Ðây là khu nghỉ mát mới được xây cất để đón khách du lịch nghỉ lại và tham dự các chương trình sinh hoạt dã ngoại ban đêm. Mọi người chọn phòng. Thả chiếc túi xách, cô ngả lưng xuống giường. Chiếc điện thoại di động trong túi rơi ra. Cô cầm lên, mobifone có sóng, bốn vạch ngang nhỏ tạo thành một hình tam giác thật đậm ở góc phải. Một tiếng tít thật nhỏ phát ra, cô bấm nút để đọc lời nhắn tin: "Em đang ở đâu?". Tim đập rộn ràng cô nhắn lại: "Ở đây, trong biệt thự N". "Tối nay mình sẽ gặp nhau". Anh đã nhắn cho cô mẩu tin nhắn cuối cùng như vậy.
Mặt trời chuẩn bị đi ngủ sau một ngày mệt mỏi. Núi Chúa bây giờ như tấm lưng khổng lồ che chắn mọi ánh sáng thiên nhiên. Người ta thường gọi ngọn núi cao nhất trong một dãy núi là núi Chúa, với nhiều ngọn núi nhỏ thần phục chung quanh. Sương mù đã đậm đặc dưới chân, trên đầu, trước mặt. Ðất trời đã hòa làm một, con người như tan biến vào thiên nhiên. Cảm giác dễ chịu len lỏi trong từng mạch máu, không phải là cái lạnh buốt của miền bắc, không phải là cái lạnh khô vào mùa đông của miền trung, cũng không phải là cái lạnh của Ðà Lạt vào mùa hè mang hơi ẩm của mưa. Cái lạnh phảng phất hơi ấm nồng của vị mặn từ biển Ðà Nẵng đưa lên. Ðến khi hoàng hôn vừa tắt, cái lạnh của mùa đông mới thực sự ùa về, vạn vật mờ ảo không còn nhận biết được đâu là đâu, những ngôi biệt thự thấp thoáng ẩn hiện nhuốm đầy mầu sắc huyền bí. Vách núi dựng đứng, ánh đèn điện hắt ra từ khu vui chơi tạo thành những luồng sáng tối nhập nhòa như một bức tranh chưa hoàn thiện, những lá dương xỉ to và dài xòe nhô ra từ vách đá, chập chờn trông giống như những cái quạt nan đang phe phẩy. Ở thật xa dưới kia nổi trên nền trời đen những ánh đèn đủ sắc mầu chớp nháy. Thành phố dưới chân đang chuẩn bị vào đêm. Chỉ một nơi tĩnh lặng như thế này cô mới thấu hiểu được hết giá trị của ánh sáng đô thành và cả giá trị của bóng đêm yên tĩnh. Bỏ hết đi những buồn vui trần thế để cho tâm hồn tĩnh tại. Trong bóng hoàng hôn trập trùng chớm đêm, cô đã ngồi thật lâu và nhìn xuống thung lũng bên dưới. Ở đây, bất kỳ nơi nào cũng có chỗ yên tĩnh cho người ta ngồi suy ngẫm, có thể là soi rọi lại nỗi buồn, có thể ôn lại những sự việc đã qua trong cuộc đời để chiêm nghiệm, để trải lòng mình ra cho đất trời, thiên nhiên phân tích đúng, sai.
Sau bữa cơm, mọi người dự tính chương trình vui chơi buổi tối, ai thích thì nhậu, không thì sinh hoạt lửa trại, còn không nữa thì đi dạo. Trưởng đoàn còn nhắc thêm một câu hơi thừa:
- Nhớ mặc thêm áo lạnh, đêm ở đây nhiệt độ xuống thấp lắm!.
Anh nhắn tin cho cô lúc tám giờ rưỡi tối. Bóng đêm với những con đường nhỏ này sẽ không ai nhận ra ai. Ở đây không phải là Sài Gòn với mùa hè nóng bức, oi nồng mùi khói xe, và khó tìm được một chỗ hẹn hò lý tưởng, lúc nào cũng nơm nớp, phập phồng bị người quen phát hiện. Cô lao vào vòng tay của anh ấm và chắc. Thung lũng dưới chân, trời cao trên đầu, và tình yêu lỏng lẻo như đứng trên chiếc cầu treo nối liền hai bờ, một bên là vách đá, một bên là khu vực nhà nghỉ. Anh dìu cô đi chậm rãi, đèn pin soi đường, ngang dọc tới lui những vạch ánh sáng tròn khi nhòa, khi sắc. Xuống con đường mòn nhỏ hẹp dẫn đến ngõ cụt bên dưới có một vực sâu, hai người liền quay trở lại. Ngày mai trời sẽ sáng và khung cảnh núi rừng hùng vĩ sẽ lại hiện ra. Cuộc sống như những đóa hoa rừng vô tư và trong sáng, không ai dại gì bước thêm một bước để phải rơi xuống vực sâu. Hãy tận hưởng những gì ngọt ngào nhất của thiên nhiên và cả tình yêu ban tặng vào lúc này, đừng nghĩ đến ngày mai, cô nhủ thầm như vậy.
Anh đi nghỉ hè với gia đình bên vợ. Chỉ có điều ngạc nhiên duy nhất là không có người vợ đi cùng. Vợ anh không rảnh vào mùa này, cô đang bận coi thi trong thời gian cô em gái từ nước ngoài về Việt Nam nghỉ hè.
Rời khỏi chiếc cầu treo, hai người ngược trở lại con đường cũ rồi đi tiếp lên dốc cao. Một cây số đường dốc mới đến được đỉnh núi. Anh nói với cô:
- Năm 1945 ba anh đã đi bộ lên đỉnh Bà Nà trong một đoàn hướng đạo. Người Pháp đã tìm ra nơi này hơn một trăm năm trước, với những độ cao được đánh dấu dần lên, tất cả đều được ghi vào nhật ký của cuộc thám hiểm. Tại đỉnh cao nhất, cả một dải đồng bằng sẽ được thu lại tóm gọn trong tầm mắt.
Anh chỉ cho cô vùng bán đảo nằm dọc theo con sông Hàn nơi anh sinh ra và lớn lên. Ngày xưa nơi đó là một vùng quê yên tĩnh và thành phố ở bên này sông, có trường anh học. Một ngày mấy bận đón xe đi về là phải qua mấy lần phà. Anh kể về cuộc sống tuổi thơ, về những bản nhạc giao hưởng được viết trong một ngôi nhà cũ ở vùng bán đảo. Anh kể về một mối tình xưa lắc, về ngôi giáo đường những chiều thứ bảy. Anh nói về một bãi tắm muốn đến phải đi qua núi hoặc đi thuyền trên sông. Anh kể về những hang động từ đó có thể đi lên trời hay xuống địa ngục. Anh kể về những mối tình khi đã lớn, về những ngày tháng bận rộn trong trường đại học và lý do tại sao anh bỏ Ðà Nẵng để ra đi. Khoảng thời gian đầy hoa mộng đan xen những tháng năm có nhiều nước mắt, chiến tranh, dòng người ly tán... Anh chỉ cho cô một vùng đất hoang tàn trong chiến tranh bây giờ đã và đang xây dựng một thành phố giao thương với một nước láng giềng phía tây. Giọng anh trầm ấm và chậm rãi đều đều như ru cô ngủ, có lúc chợt sôi nổi, có lúc chợt xúc động. Thành phố dưới kia lung linh huyền ảo như một chiếc vương miện đính đầy những hạt trân châu, xe cộ về đêm như những con kiến loay hoay bò ra bò vào không tìm được đường thoát. Lâu lắm rồi cô mới tìm lại được cảm giác bình yên như thế này. Cuộc sống như một con tàu tốc hành cứ lao về phía trước, cô đã bỏ mất nhiều dịp may để tìm cho mình một nửa kia. Rồi cô gặp được anh như người đang bơi giữa dòng mệt mỏi tìm thấy chiếc phao. Cứ thế, trong nhiều năm liền, tiến không được mà thoái cũng không xong. Cô nhấm nháp vị đắng của tình yêu như một người lữ hành cô độc thảng hoặc dừng chân vào lữ quán trong cuộc hành trình thật dài. Nỗi cô đơn, sự buồn chán, niềm hạnh phúc bủa vây lấy cô không phân biệt đâu là ranh giới. Cô nhắm mắt, ngả đầu vào vai anh. Trong đêm tối vô cùng cô chợt thấy có một con đường mòn dẫn vào ngõ cụt, hình như có một nhánh rẽ thật nhỏ ở phía cuối con đường, có ánh sáng nhỏ nhoi, mong manh và yếu ớt chờ đợi cô như là một thử thách, như là một quyết định cuối cùng.
Màn đêm bị xé toang bởi tiếng chuông điện thoại di động reo trong túi anh, reo trong túi cô, tiếng những người có trách nhiệm nhắc nhở cô trở về. Anh rọi đèn pin vào chiếc đồng hồ đeo tay, trời đã gần nửa đêm. Anh đưa cô về trong cái lạnh lẽo của đêm, bước chân hai người vang vang trên con đường vắng đều đều một giai điệu buồn và thật cô đơn. Người ta không thể sống mà không có tập thể, không có xã hội. Cô hít một hơi thật dài khí lạnh có mùi của sương quyện lẫn trong mùi của lá cây rừng nguyên sinh có thoang thoảng mùi quế. Cảm giác mệt mỏi bởi một ngày phải vượt biết bao cây số để lên đến đây ập đến. Cô đứng lại trước cửa nhìn bóng tối đang nuốt chửng hình bóng anh. Cô nghĩ mình sẽ cuộn trong chăn và ngủ một giấc thật sâu đến sáng mai. Ðêm bên ngoài chỉ còn tiếng lá rừng trò chuyện với nhau. Sương đêm như một tấm màn dày đặc thả xuống buông trùm vạn vật.
Ðêm đó cô đã nằm mơ, một giấc mơ thật buồn đến nỗi cô phải khóc, cô thấy mẹ cô mất. Hình như cô khóc lâu lắm. Tỉnh dậy cô thấy ướt một bên má, nước mắt còn đẫm thêm một bên mái tóc. Cô mở máy điện thoại di động. Cô sợ rằng lỡ câu chuyện buồn trong giấc mơ là sự thật, người thân sẽ liên hệ được với cô. Thế rồi cô nằm mãi không ngủ được cho đến gần sáng. Những con chim rừng đi ăn đêm lao xao ngoài kia, xa xa có tiếng cú mèo kêu văng vẳng. Cô chưa bao giờ tin dị đoan đó là một con chim mang điềm gở. Rồi bỗng dưng có cơn mưa thật nhỏ bên ngoài, những giọt mưa rơi xuống lá rừng tạo thành một âm thanh thật tuyệt diệu, lần đầu tiên cô được nghe. Cô nghĩ đến một dòng suối lượn lờ chảy từ trên cao, hai bên là bờ cát in đầy những dấu chân nai. Cô nghĩ đến những cây dương xỉ thật to mọc trên vách đá, những cây cau rừng xòe tán thật rộng có dây leo bám vào, trên đó nở đầy những đóa hoa đủ sắc mầu rực rỡ. Bản nhạc mưa chậm dần rồi tắt hẳn khi cô chìm lại vào giấc ngủ.
Cô gặp lại anh vào buổi sáng trong lúc đang ngồi nhấm nháp ly cà-phê ở khu trung tâm. Sương giăng phủ khắp các ngọn đồi. Mặt trời dậy muộn nên cây rừng cũng lười biếng im lìm trong sương sớm. Anh đi cùng với hai đứa trẻ con, một người phụ nữ còn rất trẻ và bà cụ dáng dấp vẫn còn khỏe mạnh. Ðó thật sự là một gia đình bền vững, cô mãi mãi là nhân vật đứng bên lề đường nhìn chiếc xe anh đi ngang qua. Cô uống hết những giọt cà-phê cuối cùng rồi đứng lên. Lúc đi ngang qua anh, hai người như chưa hề quen biết, như chưa hề có một đêm cùng đứng giữa núi rừng, chiêm ngưỡng vẻ đẹp tự nhiên của vạn vật, hít thở không khí trinh nguyên của đất trời, và gắn chặt hai đôi môi đều có vết hằn sâu của cuộc đời để cùng cảm nhận được sự ấm áp giữa núi rừng lạnh lẽo, tịch liêu. Tất cả như chưa hề có bao giờ.
Cô gặp lại anh lần nữa tại Khu di tích Mỹ Sơn. Ga-li-lê ngày xưa đã phải chịu nhiều oan khuất và bị treo cổ khi chứng minh rằng trái đất tròn. Anh tròn mắt nhìn cô pha lẫn một chút xíu giễu cợt, ý nói: "Không hẹn mà cùng gặp". Không còn ánh mắt xa lạ của buổi sáng ở độ cao trên núi, anh dừng chân lại, nói với cô:
- Ngày hôm nay anh sẽ trở lại Ðà Nẵng và ngày mai bay về Sài Gòn.
Anh còn hẹn với cô một buổi chiều thứ bảy trong một quán cà-phê quen thuộc, rồi quày quả đi theo mọi người sang một khu tháp khác ra ngoài.
Mỏi chân, cô ngồi xuống một chiếc ghế đá bên đường. Cây rừng xanh um, gió đùa trong thung lũng chờn vờn trên đầu làm tóc rối đi. Giữa đống gạch đổ nát của một khu tháp chưa được phục chế, cô chợt nhìn thấy hàng vũ nữ đang uốn lượn theo một điệu nhạc Chăm-pa. Ngày xưa, nơi đây đã có biết bao nhiêu mối tình, có mối tình nào vô vọng như cô? Có người vũ nữ nào khắc khoải mong chờ từng đêm đấng quân vương cho vời đến dù chỉ để làm vật tế lễ cho các thần linh? Nắng và nóng của mùa hè đã thổi tan hết khí lạnh của đêm mù sương. Tất cả đã trở thành quá khứ.