Jules Verne là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Pháp trong thể loại "Tiểu thuyết khoa học viễn tưởng”. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Bạn đọc Việt Nam, ai là người chẳng từng đọc qua các tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài này như Vòng quanh thế giới trong 80 ngày, 20.000 dặm dưới đáy biển, Năm tuần trên khinh khí cầu.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, ngòi bút của ông cũng không kém phần sắc sảo. Bạn đọc nào ưa thích thể loại này hẳn đã phải đọc qua:
Những đứa con của thuyền trưởng Grant, Phiêu lưu vào vùng mỏ Aberfoyle của ông, cũng do Nhà Xuất bản Trẻ xuất bản.
Lần ấn hành này, chúng tôi cho ra mắt bạn đọc cuốn Ngọn hải đăng nơi cuối trời, một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm của Jules Verne để đóng góp thêm vào tủ sách Văn học dịch của Việt Nam.
Chuyện xoay quanh việc chính phủ nước cộng hòa Argentina cho xây dựng trên một hòn đảo mang tên “Đảo các auốc gia" một ngọn hải đăng, nhằm hướng dẫn các tàu bè qua lại eo biển Lemaira, một eo biển hẹp lởm chởm các bãi đá ngầm.
Sau khi khánh thành ngọn đèn biển này, toàn bộ công nhân xây dựng, kỹ sư... đã được rút đi chỉ để lại trên đảo một toán bảo vệ gồm ba người là Vasquez, Felipe và Moriz. Tổ bảo vệ này có trách nhiệm vận hành đèn hằng đêm và bảo vệ nó. Họ sẽ ở lại đảo trong một thời gian nhất định, sau đó ở đất liền sẽ có một tổ bảo vệ khác ra thay thế họ để tiếp tục công việc trên.
Mọi việc đã diễn ra khá suôn sẻ trong thời gian đầu. Cho đến một ngày kia, trong một lần đi săn thú để có thịt tươi cải thiện bữa ăn, toán bảo vệ hạ được một con nai đã bị thương do một viên dạn mà ai đó đã bắn vào nó trước khi bị toán bảo vệ bắt được.
Sự việc này đem đến một nỗi lo ngại: trên hoang đảo này đã có người ngoài họ, mà những người này lại có súng.
Những người đó là ai, người lương thiện hay kẻ bắt lương?
Câu trả lời đến ngay sau đó với cái chết của hai nhân viên bao vệ là Felipe và Moriz. Họ bị hạ sát trong khi đang thi hành nhiệm vụ, bởi một băng cướp có vũ trang; bọn chúng khoảng 12 tên, tên cầm đầu là Kongre, một tên cướp khét tiếng ở vùng biển này.
Chỉ còn lại một mình tổ trưởng Vasquez đối mặt với một băng cướp có số lượng đông hơn gấp nhiều lần.
Anh sẽ phải hành động ra sao để có thể tự bảo vệ mình, đồng thời vẫn hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ "Ngọn hải đăng nơi cuối trời” nhằm tránh cho các tàu bè qua lại eo biển khỏi gặp hiểm nguy.
Xin mời bạn đọc xem diễn biến câu chuyện qua hơn 200 trang sách dưới đây.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Mặt trời sắp lặn đằng sau những quả đồi phía tây. Thời tiết rất tốt. Về phía trước, mặt biển như hòa vào bầu trời ở phía đông và đông-bắc, những đám mây nhỏ còn phản chiếu những tia nắng cuối cùng, những tia nắng mà chẳng mấy chốc nữa sẽ chìm vào bóng hoàng hôn, một hoàng hôn rất dài ở một nơi có vĩ độ năm mươi lăm độ của nam bán cầu. Đúng vào lúc đĩa mặt trời vừa khuất hẳn dưới đường chân trời thì một phát đại bác vang lên trên tuần dương hạm Santa-Fé, và lá cờ của nước Cộng hòa Argentina được kéo lên đỉnh cột buồm sau, nó phần phật cuộn bay trong gió biển.
Cùng lúc đó một chùm tia sáng tỏa lan rực rỡ từ đỉnh ngọn hải đăng được xây cách vịnh Elgor, nơi tuần dương hạm Santa-Fé thả neo, một tầm súng. Hai người gác đèn cùng đám thợ tụ tập trên bãi cát còn thủy thủ đoàn thì tập họp trên boong trước của chiến hạm, tất cả cùng reo vang chào đón chùm tia sáng đầu tiên được thắp lên ở nơi bờ biển xa xôi này.
Hai phát đại bác nữa lại vang lên như đáp lại những tiếng reo hò đó, những tiếng nổ đập vào những ngọn núi xung quanh vang dội trở lại nhiều lần. Những lá cờ trên chiến hạm lại được hạ xuống đúng theo nghi thức hải quân; và sự im lặng lại bao trùm lên hòn đảo “đa quốc gia” nằm đúng ở nơi gặp nhau của hai biển lớn Đại Tây dương và Thái Bình dương.
Sau đó, đám thợ bước lên boong của chiếc Santa-fé và như vậy trên bờ chỉ còn lại ba người để làm công việc gác đèn.
Một người gác đang làm nhiệm vụ trong phòng, hai người kia chưa về nơi nghỉ ngay mà còn dạo bước chuyện trò dọc theo bờ biển.
- Anh Vasquez này! - Người trẻ nói - ngày mai chiếc tuần dương hạm mới nhổ neo chứ...
- Đúng thế Felipe - Vasquez đáp - và tao hy vọng là chuyến đi về này được suôn sẻ.
- Có xa không anh Vasquez?...
- Chuyến đi bao xa thì trở về cũng y như thế.
- Chưa chắc thế đâu - Felipe vừa cười vừa đáp.
- À này - Vasquez tiếp - đôi khi lúc đi, thời gian lâu hơn lúc về trừ trường hợp gió không được ổn định lắm!... Nhưng nói cho cùng một ngàn rưỡi hải lý cũng không phải là xa nếu như con tàu có máy móc ngon lành và chuyến đi thuận buồm xuôi gió.
- Và nếu như thuyền trưởng chiếc Lafayate lại rành đường đi nữa thì hẳn là...
- Thì tàu cứ việc thẳng đường mà đi, lúc đi đã theo hướng nam, như vậy lúc về ta cứ hướng bắc mà tiến, và nếu gió cứ tiếp tục thổi từ đất liền ra thì ta cứ men theo bờ biển mà đi, cứ như đi trên con sông mà thôi.
- Nhưng con sông đó chỉ có một bờ - Felipe tiếp.
- Mặc, miễn là có gió, tốt nhất là luôn luôn được gió thổi.
- Đúng thế - Felipe nhận xét - nhưng nếu gió cứ luôn đổi chiều thì...
- À, nếu thế thì không may rồi, tao mong rằng gió sẽ không thổi ngược và nếu được như thế chỉ trong vòng nửa tháng là nó có thể băng qua một ngàn rưỡi hải lý để đến buông neo trong cảng Buenos Aires... Thí dụ, nếu gió thổi từ phương đông lại thì...
- Nhưng nếu gió không thổi từ đất liền ra nữa mà thổi từ biển vào thì làm sao tìm ra nơi trú bão!
- Đúng như mày nói. Từ mũi đất lửa hay còn gọi là Paragonie, không nơi nào có bến ghé. Lúc đó chỉ còn cách là lao thẳng ra biển, nếu không muốn đâm vào bờ!
- Nhưng anh Vasquez này, tôi cho là trời sẽ vẫn tiếp tục tốt như thế này đấy!
- Tao cũng đồng ý với mày, hiện vẫn mới là ngày đầu của mùa biển lặng kéo dài đến ba tháng nữa mà... 3 tháng nữa cũng dài đấy chứ...
- Và thế là công việc trên đảo đã hoàn tất vừa khớp với thời tiết nhỉ.
- Ừ. Chúng ta đang ở vào đầu tháng Chạp. Thời tiết mùa này tốt như tháng Sáu ở Biển Bắc. Mùa này rất hiếm khi xảy ra những cơn bão xoáy. Còn khi chiếc Santa Fé đã vào đến bến rồi thì dù cho có gió, có bão đi nữa cũng mặc. Chẳng phải lo sợ hòn đảo cùng với ngọn hải đăng này chìm xuống đáy đại dương!
- Nhất định là thế rồi. Nhưng sau khi đã báo cho ở nhà biết tin tức thì bao lâu sau con tàu mới trở ra đây cùng với những người thay thế cho bọn mình?
- Ba tháng nữa, chú em ơi!
- Và họ sẽ tìm ra đúng đảo này đấy chứ?
- Tất nhiên rồi. Và với chúng ta trên đảo nữa chứ - Vasquez đáp trong khi xoa hai tay vào nhau, đoạn ông đưa tẩu thuốc lên miệng rít một hơi dài và nhả khói mù mịt - Mày biết không, chúng ta đang ở một nơi không phải là trên boong một con tàu mà mưa bão có thể đẩy tới, đẩy lui, và nếu có là một con tàu đi nữa, thì nó cũng đang neo đậu chắc chắn ở cái đuôi của châu Mỹ, không thể trôi đi đâu cả. Cho dù vùng biển này có hiểm trở đi nữa, cho dù người ta đồn đại nhiều chuyện về vùng biển ở mũi HoRn này đúng là như vậy! Và cho dù tàu thuyền bị đắm nhiều ở hòn đảo Đa Quốc gia này, hay cho dù bọn cướp xác tàu đắm không thể tìm ra nơi nào dễ làm giàu hơn nơi đây, và còn nhiều điều nữa! Nhưng mọi chuyện rồi sẽ phải thay đổi, Felipe ạ! Giờ đây hòn đảo Đa Quốc gia đã có ngọn hải đăng của nó, không cơn bão nào có thể thổi tắt đèn! Các tàu thuyền qua đây nhờ nó mà nhận ra đường đi, nhờ nó mà tránh được nguy cơ va vào các tảng đá ở mũi Santa-jean, ở mũi San-Diegos hay mũi Fallows, ngay cả trong những đêm trời tối đen như mực!... Chính chúng ta là những người thắp đèn và nó sẽ hoạt động ngon lành trơn tru.
Vasquez nói lên những điều ấy bằng tất cả nhiệt tình không chỉ để trấn an mà còn nhằm làm giảm bớt những căng thẳng trong những tuần lễ sắp đến trên hoang đảo này, những ngày sẽ không gặp được một đồng loại nào từ đây cho đến ngày cả ba được thay thế bằng toán khác.
Để chấm dứt câu chuyện, Vasquez nói thêm:
- Này chú mày, bốn mươi năm qua, tao đã lăn lộn trên mọi vùng biển của cựu lục địa cũng như tân lục địa, khi thì làm thợ học việc, lúc làm thủy thủ, lúc thì chỉ huy tàu. Giờ đây khi sắp về hưu tao chỉ muốn làm anh gác đèn pha, và đèn pha nào mày biết không? Gác cái đèn nào nằm ở tận cùng trái đất.
Và thực tế là trên hoang đảo này, ở xa đất liền, xa cái văn minh, tên gọi này mới đúng làm sao!
- À này Felipe - Vasquez vừa nói tiếp, vừa lấy tay gõ chiếc tẩu thuốc đã tắt vào lòng bàn tay kia - mấy giờ thì mày thay cho Moriz?
- Mười giờ.
- Tốt lắm, và đến hai giờ thì đến lượt tao thay chú mày cho đến sáng.
- Đúng thế. Còn bây giờ thì tốt hơn hết là hai chúng ta đi ngủ.
- Ừ, thì đi.
Vasquez và Felipe cùng leo lên khu đồi thấp có tường xây chung quanh, chính giữa là ngọn hải đăng; cả hai đi vào chỗ ở dành cho đội gác. Cánh cửa khép lại ngay sau khi họ vào.
Một đêm yên tĩnh trôi qua. Vào lúc trời gần sáng, Vasquez tắt ngọn hải đăng đã cháy gần suốt mười hai tiếng. Thủy triều ở vùng biển này nói chung yếu nhất là dọc theo duyên hai châu Mỹ và châu Á trông ra Thái Bình dương. Trái lại, ở chung quanh Đại Tây dương, thủy triều rất mạnh và mạnh chỉ dội vùng biển Magellan xa xôi.
Ngày hôm đó, thủy triều bắt đầu rút từ lúc sáu giờ sáng và chiếc tuần dương hạm phải chuẩn bị máy móc từ sáng sớm để có thể lợi dụng hiện tượng đó. Nhưng vì chưa chuẩn bị xong nên thuyền trưởng quyết định chờ đến tối lúc thủy triều lên mới ra khỏi vịnh Elgor.
Chiến hạm Santa-fé của hải quân Cộng hòa Argentina là một con tàu có trọng tải hai trăm tấn, sức máy là một trăm sáu mươi mã lực, được chỉ huy bởi một thuyền trưởng và một phó thuyền trưởng. Thủy thủ đoàn dưới quyền gồm năm mươi người trong đó có cả lính thợ. Tàu có nhiệm vụ canh phòng đường biển kéo dài từ cửa sông Rio de la Plata đến eo biển Lemaire trên Đại Tây dương. Vào thời kỳ này, các công xưởng hải quân chưa thể đóng được những con tàu có tốc độ lớn như các tàu tuần tra, tàu phóng lôi và một số loại khác. Vì vậy, chiếc Santa-fé nói trên chỉ di chuyển với tốc độ tối đa là chín hải lý một giờ. Với tốc độ này tàu cũng đủ sức tuần tra vùng biển này nơi đa số các thuyền, tàu qua lại nơi đây đều là thuyền đánh cá.
Năm nay, chiếc Santa-fé có nhiệm vụ đôn đốc công trình xây dựng ngọn hải đăng ở cửa vào của eo biển Lemaire. Tàu phải chuyên chở đám thợ xây cùng các vật liệu mà công trình đòi hỏi. Tất cả công việc trên đã được hoàn tất một cách tốt đẹp nhờ theo kế hoạch của một kỹ sư giỏi của Thủ đô Buenos-Aires.
Thế là chiếc Santa-fé buông neo ở cuối vịnh Elgor đã ba tuần lễ. Sau khi đã chuyển lên bờ lương thực dự trữ cho bốn tháng, sau khi đã bảo đảm không còn thiếu thứ gì cho tổ gác đèn cho đến ngày có nhóm khác ra thay thế, thiếu tá Lafayate dự định đưa toán thợ trở về ngay cả nếu như có tình huống bất ngờ xảy đến, làm trì hoãn việc hoàn tất công trình. Từ một tháng nay, chiếc Santa-fé đã lo chuẩn bị để quay về đất liền.
Tóm lại, trong suốt thời gian neo đậu ở đây, thiếu tá Lafayate không có gì phải lo ngại cho tàu vì tàu đang ở trong vịnh rất an toàn, chỉ có biển động mới làm ông lo ngại. Tuy nhiên, về mùa xuân, ở vùng biển này, thời tiết ôn hòa và giờ đây mới bắt đầu sang mùa hạ, người ta có lý do để hy vọng sẽ không có thay đổi gì lớn về thời tiết ở khu vực này.
Bây giờ là bảy giờ sáng, thiếu tá Lafayate và viên thuyền Phó là Riegal ra khỏi ca-bin của họ nằm ở phần trên đuôi tàu. Các thủy thủ đã hoàn tất công việc lau rửa sàn tàu, những xô nước rửa cuối cùng vừa được trút qua các lỗ thoát nước. Cùng lúc đó, viên hạ sĩ quan cũng đã thu xếp xong các công việc chuẩn bị sẵn sàng cho lúc nhổ neo. Mặc dầu giờ xuất phát sẽ vào buổi chiều nhưng mọi việc hầu như đã hoàn tất: buồm đã được kéo ra khỏi bao, các ống thông gió, các la bàn đã được lau chùi bóng lộn, chiếc xuồng lớn đã được kéo lên, còn chiếc xuồng nhỏ thì vẫn còn bập bềnh trên sóng.
Khi mặt trời đã lên cao, lá cờ hiệu được kéo lên đỉnh cột buồm sau.
Bốn mươi lăm phút sau, bốn tiếng chuông được vang lên từ phía mũi tàu và các thủy thủ đã sẵn sàng bên cạnh các hàng súng ở mạn tàu.
Sau khi ăn sáng cùng nhau, hai sĩ quan cùng đi lên tháp chỉ huy để xem tình hình thời tiết. Sau khi thấy trời quang, biển lặng, họ ra lệnh cho viên hạ sĩ quan cùng lên bờ.
Suốt cả buổi sáng hôm đó, thuyền trưởng muốn xem xét lại lần cuối ngọn hải đăng và những công trình phụ của nó, là nơi ở của tổ gác và kho chứa lương thực và chất đốt, sau cùng là kiểm tra lại máy móc trên ngọn hải đăng, xem có vận hành tốt không.
Bước lên bờ, ông thiếu tá đi cùng viên hạ sĩ quan đến khu xây dựng xung quanh ngọn hải đăng. Mọi người đều tỏ vẻ lo ngại cho ba người gác đèn sắp phải sống trong cảnh cô đơn buồn chán trên đảo.
- Ở đây gay đấy - thiếu tá nói - những con người dũng cảm này phải xem như luôn phải đương đầu với nghịch cảnh để sống còn, đấy là cuộc sống của người thủy thủ thời xưa và việc gác hải đăng bây giờ đối với họ chỉ là một sự nghỉ ngơi tạm thời mà thôi.
- Đương nhiên là như thế rồi - thuyền phó Riegal lên tiếng - nhưng có sự khác nhau giữa việc gác hải đăng ở một nơi nhiều tàu thuyền qua lại, dễ liên lạc với đất liền và việc gác hải đăng ở nơi hoang đảo cô quạnh, tàu thuyền chỉ thấp thoáng ở xa.
- Tôi đồng ý với ông về điều đó. Vì vậy cho nên cứ ba tháng lại phải thay tổ gác một lần. Ba người này, Vasquez, Felipe và Moriz sắp bắt đầu nhiệm vụ trong giai đoạn ít gay go nhất. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Đúng vậy, thưa thiếu tá, họ sẽ không phải chịu đựng mùa đông khắc nghiệt ở mũi Horn này...
- Đúng là kinh khủng - thuyền trưởng xác nhận - Từ lần trinh sát mà chúng ta đã thực hiện cách đây vài năm ở eo biển này, từ vùng Đất lửa đến vùng Đất Hoang vắng, từ vùng Trinh nữ đến vùng Pilar, tôi không học thêm được bài học nào về các trận bão cả! Nhưng các người gác đèn của chúng ta đã có một chỗ ở vững chắc mà gió mưa không làm gì nổi. Họ không thiếu lương thực và chất đốt cho dù nhiệm vụ của họ kéo dài thêm hai tháng nữa cũng không sao. Chúng ta đã để họ ở lại trong tình trạng mạnh khỏe, thì lúc gặp lại họ, họ vẫn mạnh khỏe như vậy, bởi vì khí hậu ở đây dù có lạnh lẽo, nhưng ít ra nó cũng trong lành!...
Hai vị sĩ quan đi đến nơi Vasquez cùng hai bạn gác đang chờ. Sau khi đáp lại lời chào đúng theo nghi thức quân đội của ba người gác, hai vị sĩ quan dừng lại. Trước khi hỏi chuyện, thiếu tá Lafayate quan sát họ, từ đôi giày hải quân cho đến chiếc áo khoác có mũ đội đầu may dính liền với nhau.
- Đêm qua, mọi chuyện đều ổn cả chứ? - ông hỏi người tổ trưởng.
- Tốt, thưa thiếu tá. - Vasquez đáp.
- Các anh có nhìn thấy tàu, thuyền nào ở ngoài khơi không?
- Không có cái nào cả, và vì trời không có sương mù, chúng tôi có thể nhìn thấy đốm lửa ở cách đây 4 hải lý.
- Đèn chạy tốt chứ?
- Đèn sáng liên tục, thưa thiếu tá. Tận cho đến lúc mặt trời mọc.
- Anh không bị lạnh trong phòng trực chứ?
- Không, thưa thiếu tá. Phòng trực rất kín gió vì cửa sổ có những hai lẦn kính.
- Chúng tôi sẽ đi thăm chỗ ăn ở của các anh, rồi sẽ đến ngọn đèn sau.
- Tuân lệnh thưa thiếu tá - Vasquez đáp.
Nơi ở của tổ gác được xây ngay dưới chân tháp bằng những bức tường dày dán có thể đương đầu với cả phong ba gió bão. Hai sĩ quan lần lượt thăm qua các gian phòng bày biện một cách thích hợp. Rõ ràng với công trình như thế này thì không còn gì đáng ngại. Mưa gió hay bão táp vốn rất dữ dội ở vùng vĩ độ gần sát nam cực này cũng chẳng phải lo.
Các gian phòng được ngăn cách nhau bởi một hành lang mà ở cuối hành lang là cửa để vào bên trong tháp đèn.
- Chúng ta leo lên nào - thiếu tá Lafayate nói.
- Tuân lệnh.
- Chỉ cần một mình anh đi theo chúng tôi.
Vasquez ra hiệu cho hai đồng đội đứng ngoài hành lang. Đoạn ông đẩy cửa cầu thang và bước lên, hai vị sĩ quan đi theo.
Cầu thang xoáy trôn ốc không tối tăm lắm. Các bậc lên bằng đá và được gắn vào bờ tường. Có mười lỗ châu mai soi sáng cầu thang từ dưới lên.
Khi mọi người đã tới phòng trực mà ở bên trên là thiết bị đèn thì hai sĩ quan ngồi xuống một băng ghế hình tròn gắn vào tường. Từ phòng này, bốn chiếc cửa sổ nhô trổ ra, tầm mắt mọi người có thể bao quát cả bơn phía đến tận chân trời.
Mặc dầu trời không có gió mạnh nhưng ở độ cao này, ta cũng nghe tiếng gió rít mạnh mẽ, xen lẫn tiếng kêu sắc của các loài chim biển.
Sau khi nhìn bao quát đảo và cả vùng biển xung quanh, hai sĩ quan leo lên một cái thang dẫn đến hành lang bao quanh ngọn hải đăng.
Nguyên một phần đảo trải ra dưới mắt họ, phía tây hoang vắng như mặt biển; còn từ mạn tây bắc sang phía nam có một vòng cung khá rộng, ngắt quãng đôi chỗ bởi các ngọn núi của mũi Saint - Jean. Ngay dưới chân ngọn hải đăng là vịnh Elgar mà trên bờ vịnh, các thủy thủ của chiếc Santa-fé đang đi đi lại lại. Không một cánh buồm, không một làn khói tỏa ngoài khơi. Chẳng có gì ngoài sự mênh mông của đại dương.
Quan sát trên nóc ngọn đèn biển được chừng mười lăm phút thì hai sĩ quan cùng Vasquez leo xuống và cùng trở về tàu.
Sau khi ăn trưa xong, thiếu tá Lafayate cùng thuyền phó Riegal lại vào bờ lần nữa. Họ dùng thời gian còn lại trước khi tàu nhổ neo để đi dạo trên bờ bắc của vịnh. Trước đây đã nhiều lần vì không người hướng đạo nên ông chỉ quanh quẩn chung quanh phạm vi tháp đèn mà không dám đi thám sát xa hơn. Hôm nay hai sĩ quan thử lần đầu tiên kéo dài cuộc đi dạo của mình ra xa hơn. Bước qua eo đất hẹp nối liền vịnh Saint - Jean với phần còn lại của đảo, hai người đứng quan sát bờ cảng mà từ phía bên kia nhìn qua nó có hình dáng của một viên ngọc trai trên chiếc vòng cổ là vinh Elgor.
- Này ông Riegal - viên thiếu tá nói - cái cảng Saint-Jean này thật tuyệt. Nó đủ sâu để nhận những con tàu tải trọng lớn. Chỉ tiếc là lối vào cảng hơi khó. Phải chi có một chiếc hải đăng nhỏ nữa thẳng hàng với hải đăng Elgor, sẽ cho phép tàu lớn dễ dàng vào đây tìm nơi trú ẩn.
- Và đấy sẽ là ngọn hải đăng cuối cùng mà ta thấy, khi qua eo biển Magellan - thuyền phó Riegal nói thêm.
Vào lúc bốn giờ chiều, hai sĩ quan quay trở về; sau đó từ giã ba chiến sĩ trong tổ gác đèn đang đứng trên bờ đá để chờ đợi giờ tàu xuất phát. Đúng năm giờ, áp suất trong nồi súp-de của pháo hạm bắt đầu tăng, ống khói tàu nhả ra từng đám khói đen lớn. Mặt biển đang ở trong tình trạng triều dừng và chiếc Santa-fé sẽ kéo neo ngay lúc nước triều bắt đầu xuống.
Đúng sáu giờ kém mười lăm, thuyền trưởng phát lệnh nhổ neo và cho máy chạy. Hơi nước xì mạnh qua các ống thoát về phía mũi tàu, viên thuyền phó đang kiểm tra thao tác của các thủy thủ, chiếc mỏ neo vừa kéo lên giá đỡ và con tàu rùng mình khởi động.
Chiếc Santa-fé dần xa bờ, trong khi ba người gác đèn vẫy chào từ giã. Và cho dù Vasquez có nghĩ gì chăng nữa, cho dù hai người lính gác kia có nhìn con tàu xa bờ mà lòng vẫn không xao xuyến thì các sĩ quan và thủy thủ trên tàu lại rất nao lòng khi phải bỏ lại đằng sau họ ba con người trên cái hoang đảo ở nơi địa đầu châu Mỹ này.
Chiếc Santa-fé, với vận tốc vừa phải, đi men theo bờ biển giới hạn vịnh Elgor về phía tây bắc. Chưa tới tám giờ tối con tàu đã ra tới đại dương. Sau khi vượt qua mũi San-Juan, tàu mở hết tốc lực, bỏ lại eo biển về phía tây và khi bóng đêm đã trở nên dày đặc thì ánh sáng của ngọn Hải đăng của tận cùng thế giới này chỉ còn thấp thoáng như một ngôi sao ở cuối chân trời.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của V.E.A.R
Hòn đảo "Đa Quốc gia” hay còn gọi là “Vùng đa Quốc gia” nằm ở cực đông nam của Tân lục địa. Đó là mảnh đất cuối cùng nằm ở cực đông của quần đảo Magellan mà những trận địa chấn thời kỳ Pluto đã cấu tạo nên, nằm ở vĩ tuyến năm mươi lăm, cách vòng cực nam khoảng ba3y độ. Đảo được bao bọc bởi nước biển của hai đại dương, những con tàu đi từ đại dương này sang đại dương kia vẫn thường xuyên đi ngang qua nó, khi thì từ hướng đông bắc lại, khi thì từ hướng tây nam khi đã vượt qua mũi Horn.
Vùng biển đẹp, chỉ rộng từ 25 đến 30 cây số, được một nhà hàng hải người Hà Lan tên là Lemaire khám phá ra từ thế kỷ 17, nên vùng biển mang tên ông này, là vùng biển phân cách giữa đảo “Đa Quốc gia" và vùng "Đất lửa”. Biển này giúp cho các tàu thuyền có một con đường vừa ngắn vừa dễ đi hơn, tránh được các cơn sóng bừng đáng sợ vẫn thường hoành hành ở vùng duyên hải của đảo Đa Quốc gia.
Đảo này phân cách về phía đông với eo biển Lemaire trên một chiều dài chừng mười hải lý kéo dài từ mũi Santa - Antoine đến mũi Kempe và những tàu hơi nước cũng như thuyền buồm khi đi qua đường này được che chắn nhiều hơn là khi đi qua đường phía nam của đảo. Chiều dài của đảo Đa Quốc gia đo được ba mươi chín hải lý nằm theo hướng đông tây, từ mũi Saint - Barthélemy đến mũi San - Juan, còn chiều rộng của nó dài từ mũi Colnett đến mũi Webster, đo được mười một hải lý.
Bờ biển của đảo Đa Quốc gia cực kỳ manh mún. Đó là một chuỗi những vịnh, những vũng mà lối vào thường bị những cù lao, những tảng đá ngầm chắn ngang. Rất nhiều tàu thuyền đã bị đắm ở đây, ngay dưới những vách đá dựng đứng hay những bờ lởm chởm đá tảng mà ngay những hôm trời lặng, sóng biển ở đây cũng tạo nên những tiếng ì ầm giận dữ.
Đảo không có người ở, nhưng không phải là không sống được, tháng Mười một, tháng Chạp, tháng Giêng, và tháng Hai làm thành mùa hạ của nơi vĩ độ cao này. Các đàn thú có thể tìm ra đủ thức ăn trong những cánh đồng rộng trải dài bên trong đảo, đặc biệt là khu vực nằm ở phía đông của cảng Parry, lọt thỏm giữa mũi Conway và mũi Webster. Ngay khi những lớp tuyết dày tan ra dưới ánh nắng của mặt trời nam cực thì những bãi cỏ xanh mượt đã hiện ra và mặt đất sẽ còn giữ mãi một độ ẩm thích hợp cho đến mùa đông. Có lẽ những loài động vật nhai lại quen với điều kiện sinh sống vùng cực nam rất phong phú ở đây. Nhưng khi mùa lạnh đến thì cần phải đưa đàn thú về những nơi có khí hậu ôn hòa hơn, hoặc ở vùng Patagonie, hoặc ở ngay vùng Đất lửa.
Ta có thể gặp nơi đây vài ba con hoẵng, một loài hươu nhỏ có thịt rất ngon khi nướng hay quay. Và nếu như những con thú đó không chết đói trong suốt mùa đông kéo dài ở đây là vì chúng biết cách bới tuyết để tìm những rễ cây hay loài rêu mà dạ dày của chúng có thể tiêu thụ.
Hai bên những cánh đồng trải dài ra ở trung tâm của đảo một vài cánh rừng thưa phô bày những nhánh cây khẳng khiu cùng những chùm lá vàng nhiều hơn là xanh. Đấy là những cây sồi vùng địa cực có thân cao tới hai mươi mét, cành của chúng đâm ngang, hoặc là một vài loại cây gai có thể cho một thứ tinh dầu thơm như mùi vani.
Thực ra thì những cánh đồng và cánh rừng chỉ chiếm khoảng một phần tư diện tích toàn đảo. Phần còn lại là những núi đồi mà thành phần chính của chúng là đá thạch anh, rồi những thung lũng sâu, những dãy đá trôi giạt kéodài rải rác đó đây, kết quả của những cuộc phun trào núi lửa vào thời rất xa xưa. Ngày nay người ta cũng chẳng còn tìm ra được những miệng núi lửa trong vùng Fuégie hay Magellan. Ở phần trung tâm của đảo có những cánh đồng rộng trông như những thảo nguyên và trong tám tháng mùa đông địa cực, không có một cây cỏ nào có thể mọc lên giữa lớp băng tuyết phủ kín mặt đất. Càng về phía tây của đảo thì địa hình càng trở nên rõ nét với những vách đá cao đứng rải rác trên bờ biển. Nơi đây có cả những quả núi cao mà đỉnh của chúng có thể lên đến gần 1.000 mét so với mực nước biển. Đứng trên những ngọn đó, tầm nhìn của ta có thể bao quát toàn đảo. Đó chính là cái vành đai cuối cùng của dãy núi Ande kỳ diệu trải dài từ bắc xuống nam, làm thành cái sườn vĩ đại của tân lục địa.
Chắc chắn là trong những điều kiện khí hậu như thế, dưới ảnh hưởng của những cơn giông tố lạnh lẽo khủng khiếp ở vùng địa cực thì các loài thảo mộc của đảo chỉ còn lại vài loài hiếm hoi, những loài không thể nào quen được với thủy thổ của vùng lân cận với eo biển Magellan hay quần đảo Malouines cách bờ biển Fuégie chừng một trăm hải lý. Đó là những cây huyền sâm, cây đậu chổi, cây địa du, cây rau thủy... những loại cây này có màu sắc rất nhợt nhạt. Dưới sự che khuất của các tán cây rừng lẫn giữa các đám thấp lè tè của đồng cỏ, những bông hoa nhợt nhạt của các loài thảo mộc kể trên phô bày trăm hoa, nhưng khi vừa nở xong thì lại tàn héo ngay. Dưới chân những tảng đá ở bờ biển, trên các sườn dốc có nhiều phấn thổ, các nhà tự nhiên học còn có thể tìm thấy những loài rêu và những rễ cây có thể ăn được; thí dụ rễ cây khô (họ đỗ quyên) mà các bộ tộc Pécherais ăn thay cho bánh mì, tuy nhiên chúng cũng chẳng có mấy chất dinh dưỡng.
Người ta cũng chẳng tìm ra một con sông nào trên đảo Đa Quốc gia này. Chẳng có tiếng nước suối róc rách trên mặt đất lổn nhổn những đá là đá. Nơi đây chỉ có băng tuyết đọng lại và tồn tại suốt tám tháng của năm và cho đến mùa nắng - đúng hơn là mùa ít lạnh - tuyết tan ra dưới những tia nắng mặt trời chiếu chênh chếch; và nhờ thế mà mặt đất duy trì được một độ ẩm thường xuyên. Vào mùa nóng, rải rác chỗ này chỗ kia trên đảo, những ao, hồ hình thành và duy trì cho đến mùa đóng băng. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Vào thời điểm mà câu chuyện này bắt đầu, những khối nước như thế bắt nguồn từ những vùng cao kế bên ngọn hải đăng ào ào đổ xuống vũng nhỏ như vịnh Elgor hay tuôn vào cảng Saint-Jean.
Để bù cho sự nghèo nàn về động vật và thảo mộc của đảo, cá trong vùng biển này cực kỳ phong phú. Vì thế mặc dầu các thuyền bè luôn gặp nguy hiểm cần tìm đường vào đảo mỗi khi ngang qua eo Lemaire thì các bộ tộc Fuégiens vẫn thỉnh thoảng tới đây để đánh bắt cá. Cá ở đây rất phong phú; ngoài cá chim, cá thu, cá nhụ, cá đé ra còn có cả cá tuyết khô, cá diệt, cá ngừ, cá tráp... Hơn nữa, việc đánh bắt các loài cá lớn như cá voi, cá nhà táng... và cả loài hải cẩu, hải sư... cũng thu hút nhiều tàu đánh cá lớn tới vùng biển này. Các loài động vật biển này bị săn bắt riết ráo quá nên phải chạy về vùng địa cực để lánh nạn, nơi đấy dù sao thì con người cũng khó đến hơn.
Người ta cũng có thể dễ dàng nhận ra trên toàn bộ đảo, nơi các bờ đá xen kẽ các vịnh nhỏ, có vô số các loài sò, ốc, hầu... và trong các hang, hốc đá có vô vàn các loài giáp xác như tôm, cua, ghẹ...
Đảo cũng là nơi trú ngụ của rất nhiều loài chim; nào là hải âu lớn như thiên nga, sâm cầm, chim mang biển suốt ngày ồn ào réo gọi.
Tuy nhiên, sự mô tả hòn đảo của Đa Quốc gia này không nhằm khêu gợi lòng ham muốn của hai nước Chilê và Cộng hòa Argentina. Thực ra thì nơi đó chỉ là một hòn đảo lớn không có người ở. Đảo này thuộc về nước nào vào lúc câu chuyện này xảy ra? Chưa thể có được một kết luận rõ rệt. Tất cả những gì có thể nói được chỉ là: đảo nằm trong quần đảo Magellan, lúc đó còn là lãnh thổ chung của hai nước Cộng hòa nằm ở vùng cực nam châu Mỹ này.
Trong những ngày thuộc mùa đẹp trời trong năm, đám thổ dân Fuégiens hay Pécherais ít khi xuất hiện trong vùng, chỉ những khi trời xấu, biển động họ mới ghé vào để tìm chỗ trú ẩn. Còn đối với những tàu buôn lớn, đa số chọn con đường đi qua eo biển Magellan, con đường này đã được vạch rõ ràng trên các bản đồ hàng hải và họ có thể đi theo mà không sợ gặp bất trắc dù là đi từ hướng đông sang, hay từ hướng tây lại. Chỉ có những con tàu chọn con đường đi qua mũi Horn là hay ghé lại đảo Đa Quốc gia này.
Để dễ dàng nhận ra hòn đảo, Cộng hòa Argentina đã có một sáng kiến tuyệt vời là cho xây dựng một ngọn hải đăng tại nơi cùng trời cuối đất này và các quốc gia khác dĩ nhiên là phải nợ món nợ ân nghĩa này. Thực vậy, vào thời kỳ đó, chưa hề có một ngọn hải đăng nào được xây dựng trên bờ biển Magellan từ cửa vào eo Magellan trên trũng Vierges thuộc Đại Tây dương cho tới lối ra của eo biển đó ở vũng Pilar thuộc Thái Bình dương. Ngọn hải đăng nơi tận cùng trái đất ấy sẽ mang lại những lợi ích hiển nhiên cho tàu bè qua lại ở nơi có địa hình nguy hiểm này. Trên mũi Horn cũng không có hải đăng, vì vậy ngọn hải đăng sắp xây dựng trên đảo Đá Quốc gia có thể tránh cho các tàu bè nhiều thảm họa khi đi từ Thái Bình dương qua eo biển hẹp Lemaire.
Vậy là chính phủ Argentina quyết định xây dựng ngọn hải đăng ở cuối vịnh Elgor. Sau một năm tích cực thi công, lễ khánh thành ngọn đèn biển đã được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng Chạp năm 1859.
Cách vùng nằm cuối vịnh khoảng trăm rưỡi mét có một khu đất cao diện tích gần năm trăm mét vuông, độ cao của khu đất khoảng gần bốn chục mét. Một bức tường đá ong bao quanh khu đất đó, chính giữa khu đất sẽ là nền móng của tháp hải đăng. Xung quanh tháp đèn các công trình phụ như nhà ở và nhà kho sẽ được xây dựng. Toàn thể công trình phụ gồm:
1. Phòng ngủ cho tổ gác đèn, bên trong có trang bị giường ngủ, tủ quần áo, bàn ghế, một lò sưởi chạy bằng than mà ống dẫn khói sẽ thoát khói qua mái nhà.
2. Một phòng chung cũng có trang bị lò sưởi được sử dụng làm phòng ăn với bàn ghế, một cái kệ chứa các dụng cụ lặt vặt như kính viễn vọng, phong vũ biểu, nhiệt kế... các đèn chiếu sáng được gắn vào trần, ngoài ra còn các đèn dự phòng trường hợp hải đăng bị trục trặc.
3. Những nhà kho dùng để chứa lương thực đủ dùng cho một năm, mặc dầu cứ ba tháng một lần sẽ có tàu chở nhân sự ra thay thế. Đồ ăn, thức uống gồm đồ hộp, thịt muối, mỡ, rau khô, bánh quy, trà, cà phê, đường, rượu mạnh và cả thuốc men.
4. Dự trữ dầu đốt dùng cho hải đăng hoạt động.
5. Trong kho còn có củi, chất đốt đủ dùng cho nhu cầu của tổ gác trong suốt mùa đông nơi địa cực.
Ấy là toàn thể các công trình phụ nằm xung quanh tháp đèn, bên trong bức tường thành bao bọc.
Tháp đèn vô cùng chắc chắn, được xây dựng bằng chính các vật liệu trên đảo. Các tảng đá ở đây cực kỳ bền vững, được liên kết vào nhau bởi các thanh giằng bằng sắt ghép với độ chính xác cao, thanh này lồng vào thanh kia theo kiểu ghép mộng đuôi én. Tất cả hợp thành một cấu trúc có thể đương đầu với các trận cuồng phong, các cơn bão cực mạnh thường nổi lên ở nơi tiếp giáp của hai đại dương lớn nhất địa cầu. Chính vì thế mà Vasquez thường nói rằng gió ở đây không thể nào mang cả cây tháp đi. Đấy là cây đèn mà ông cùng hai người bạn trẻ trấn giữ và họ sẽ làm tốt công việc ấy dẫu cho mưa giông, gió giật đến đâu chăng nữa.
Chiều cao của tháp đèn là ba mươi hai mét và nếu tính cả độ cao của khu đất nữa thì ngọn đèn sẽ vươn lên cao hơn mặt biển là khoảng bảy mươi mét. Như vậy là ánh sáng của đèn có thể nhận biết từ một khoảng cách mười lăm hải lý. Nhưng trong thực tế, tầm xa của đèn chỉ vào khoảng hơn mười hải lý (xấp xỉ 19km). Vào thời kỳ này, chưa có các hải đăng hoạt động bằng khí đốt hay điện khí. Với vị trí của một hoang đảo xa xăm, mọi liên lạc với đất liền đều khó khăn, thì phải chọn cách đốt nào đơn giản và ít đòi hỏi sửa chữa nhất; và người ta đã chọn phương pháp đốt đèn bằng dầu với tất cả các cải tiến mà khoa học cũng như nền công nghiệp thời đó cho phép.
Tóm lại, tầm xa mười hải lý của đèn là vừa đủ. Nó giúp cho các tàu thuyền đến được eo Lemaire dễ dàng cho dù tàu đi từ hướng nào lại cũng được. Mọi hiểm nguy đều được loại trừ nếu các tàu thuyền tuân thủ nghiêm nhặt các hướng dẫn do cấp thẩm quyền hàng hải phát hành. Ngoài ra, trong những trường hợp rất hiếm hoi mà các tàu thuyền gặp phải, đó là những khi tàu cần vào neo đậu trong vịnh Elgor, lúc đó hải đăng sẽ giúp tàu vào vịnh dễ dàng. Trong trường hợp trở về đất liền của chiến hạm Santa-fé đã nói trên, nó có thể rời cái vũng nhỏ ngay trong ban đêm. Vì chiều dài của vũng chỉ là ba hải lý, tính đến đầu mũi San - Juan, mà tầm xa của hải đăng những mười hải lý, chiếc tuần dương hạm còn được chiếu sáng thêm bảy hải lý nửa trước khi đi vào khu bờ đá dốc đứng của đảo. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Ngày trước, các hải đăng thường dùng những chiếc gương lõm làm bộ phận phản quang, như thế rất bất tiện vì gương hấp thụ gần một nửa lượng ánh sáng phát ra. Nhưng sự tiến bộ của khoa học đã giải quyết được nhiều thứ trong đó có vấn đề trên. Giờ đây người ta đã thay bằng các loại kính khúc xạ để tập trung ánh sáng; và với kính này chỉ một phần rất nhỏ ánh sáng bị mất đi.
Dĩ nhiên là ngọn hải đăng nơi cuối trời có một chùm sáng cường độ không đổi. Cũng không sợ có viên thuyền trưởng nào lại lầm nó với một nguồn sáng khác, bởi vì suốt dọc bờ biển này, kể cả ở mũi Horn nữa, không nơi nào có hải đăng. Cũng không cần thiết phải làm cho nó đặc biệt gì hơn, chẳng hạn như cho nó luôn nhấp nháy hoặc là cho nó sáng rực hẳn lên. Muốn thế lại phải làm thêm các cơ phận phụ, vừa cồng kềnh, vừa khó sửa chữa.
Bộ phận phát sáng của hải đăng là tập hợp nhiều ngọn đèn đặc biệt có thể phát ra một chùm tia sáng rất mạnh ở ngay tiêu điểm của hệ thống thấu kính. Hệ thống dẫn dầu để cung cấp cho đèn được thiết kế theo kiểu đặc biệt nên không bao giờ bị thiếu. Còn hệ thấu kính được cấu tạo bởi những thấu kính sắp theo hình bậc thang phần trung tâm có hình dạng bình thường, nhưng bao quanh nó là những hình vành khuyên ghép lại để tạo thành một thấu kính và do đó chùm ánh sáng sau khi phản chiếu qua hệ thống này sẽ là một chùm tia sáng song song cực kỳ rõ. Hôm tàu rời đảo, thời tiết lại tốt nên viên thuyền trưởng có thể xác nhận là vị trí của ngọn đèn cũng như vận hành của đèn không cần phải điều chỉnh điểm nào nữa cả.
Rõ ràng là đèn hoạt động tốt phụ thuộc hoàn toàn vào tính chính xác và sự chăm sóc kỹ lưỡng của đội gác đèn, miễn là bảo trì đèn cho tốt. Đấy là việc thay bấc đèn cho cẩn thận, cho thêm dầu đốt đúng lúc với tỷ lệ thích hợp, rồi điều chỉnh các gương phản chiếu cho đúng, tắt mở đèn đúng lúc hoàng hôn và bình minh, và nhất là không được rời mắt khỏi đèn một giây phút nào và nếu thế có thể nói ngọn hải đăng đã đem lại lợi ích lớn cho ngành hàng hải ở vùng biển xa xôi của Đại Tây dương này thì không còn nghi ngờ gì nữa, đấy là nhờ vào thiện chí và lòng hăng say của Vasquez cùng với hai người bạn của ông ta. Sau một cuộc tuyển lựa gắt gao giữa một số lớn các ứng cử viên, cả ba người qua những nhiệm vụ đã được giao trong quá khứ, họ đã chứng tỏ được lòng tận tâm, sự can đảm và sức chịu đựng của mình.
Cũng không phải là vô ích khi nhắc lại điều này: tổ gác đã được bảo đảm an toàn mặc dầu hòn đảo Đa Quốc gia này ở rất xa bờ, nó cách Buenos Aires ngàn rưỡi hải lý là nơi duy nhất có tàu tiếp tế đi ra đảo. Đám thổ dân Fuégiens và Pécherais chỉ ghé đảo những khi trời tốt và cũng chỉ ở lại đó ngắn ngày. Với đám thổ dân nghèo đói ấy thì cũng chẳng có gì phải lo ngại. Sau khi đánh cá xong, họ gấp rút băng qua eo biển Lemaire để về lại Đất lửa hoặc là tới những hòn đảo khác trong vùng. Còn những người lạ mặt khác thì ở đây chưa từng thấy bao giờ. Bờ biển của đảo quá hiểm trở nên không thuyền bè nào dại dột vào đây để tìm chỗ ẩn náu trong khi có rất nhiều chỗ tốt hơn ở trong vùng Magellan này.
Tuy nhiên, người ta cũng đã đề phòng trong trường hợp có người lạ xâm nhập vịnh Elgor. Các công trình xây dựng phụ của ngọn hải đăng đều có cửa rất chắc chắn luôn được khóa ở bên trong và cũng không ai có thể phá được những tấm lưới chắn các cửa sổ. Ngoài ra, tổ gác còn được trang bị súng các-bin, súng lục với đầy đủ đạn dược.
Sau cùng, ở cuối hành lang dẫn đến chân tháp đèn, người ta có làm một cửa sắt vô cùng kiên cố. Còn như nếu có ai đó muốn xâm nhập tháp đèn bằng lối khác thì làm sao họ có thể chui qua những lỗ châu mai đục dọc theo cầu thang đã được những thanh sắt xây chắn bên ngoài. Còn nếu muốn vào bằng ngã hành lang vòng bên ngoài đèn thì lại bị chắn bởi những sợi dây chắn bảo vệ cột thu lôi.
Đấy là công trình quan trọng cực kỳ vừa được hoàn thành tốt đẹp trên hòn đảo Đa Quốc gia này, một công trình của chính phủ nước Cộng hòa Argentina.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của V.E.A.R
Chính vào mùa này, từ tháng Mười một cho đến tháng Ba năm sau, là thời kỳ có nhiều tàu bè qua lại vùng biển Magellan này nhất. Biển vẫn luôn dữ dội. Nhưng nếu như những cơn cuồng phong đến từ hai đại dương vẫn chưa chịu lắng dịu đi thì ít ra thời tiết cũng bớt khắc nghiệt và nếu như vẫn còn gió bão thì cũng chỉ là những trận bão thoáng qua mà thôi. Những chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước và nhũng tàu chạy bằng buồm đã dám mạo hiểm đi vòng qua mũi Horn trong thời tiết dễ chịu này. Tuy nhiên, không phải sự lưu thông của các tàu thuyền hoặc từ eo biển Lemaire, hoặc từ phía nam hòn đảo Đa Quốc gia đi qua, đã làm giảm đi sự đơn điệu của những ngày dài vì các tàu thuyền đó chưa bao giờ đông đúc, và càng ngày càng trở nên hiếm hơn; kể từ khi phát minh ra tàu chạy hơi nước, cùng với các bản đồ hàng hải chính xác, việc vượt qua eo Magellan trở nên bớt nguy hiểm hơn và đấy là con đường vừa ngắn vừa dễ đi. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tuy nhiên, sự đơn điệu ấy không dễ dàng nhận biết được từ phía những người làm việc thường trực ở đây. Đa số họ đều xuất thân là thủy thủ hay dân đánh cá. Họ không thuộc loại người cứ ngồi để đếm ngày, đếm giờ. Họ luôn biết cách tìm ra việc để làm, biết cách giải khuây. Hơn nữa, công việc của họ không chỉ đóng khung trong việc duy trì ánh sáng của ngọn hải đăng từ tối đến sáng hôm sau. Vasquez và hai bạn anh còn phải theo dõi kỹ càng đám tàu bè ra vào vịnh Elgor, vài ba lần trong tuần họ còn phải đi tới mũi San - Juan để quan sát bờ biển phía đông cho tới mũi Several, nhưng không bao giờ đi xa hơn ba đến bốn hải lý. Họ phải ghi chép cập nhật cuốn “Nhật ký hải đăng”, phản ánh mọi sự kiện xảy đến trong ngày từ số tàu thủy, thuyền buồm đi qua vịnh, đến quốc tịch các con tàu, tên gọi cùng số hiệu của tàu nếu có thể trông thấy, rồi tình hình thủy triều, hướng và sức gió thổi, tần suất mưa bão và các hiện tượng khí tượng khác. Tất cả những dữ liệu đó đủ để ta có thể phác họa ra bản đồ khí tượng của vùng biển này.
Vasquez sinh ra ở Argentina cũng như Felipe và Moriz; ông là tổ trưởng tổ gác hải đăng ở hòn đảo Đa Quốc gia. Năm nay bốn mươi bảy tuổi, với bề ngoài khỏe mạnh và dẻo dai thích hợp với tính cách của một thủy thủ đã từng tung hoành dọc ngang. Với tính tình quyết đoán, cương nghị, thường xuyên đối đầu cùng nguy hiểm, ông biết quyết đoán trong những hoàn cảnh cần phải liều cả mạng sống của mình. Người ta đã chọn ông làm tổ trưởng không phải căn cứ vào tuổi tác mà vào tính cách riêng mà ông đã được từ sự trui luyện trong gian khổ khiến người ta có thể hoàn toàn an tâm khi tin cậy vào ông. Mặc dầu ra khỏi ngành hải quân với cấp bậc không cao hơn ngạch bếp trưởng, ông vẫn được mọi người lưu luyến. Do đó khi ông xin làm người gác đèn ở đảo, phía Hải quân đã chuẩn y ngay mà không thắc mắc điều gì. Còn Felipe và Moriz, cả hai đều đã từng là thủy thủ, một người bốn mươi tuổi, người kia ba mươi bảy tuổi. Vasquez đã quen biết gia đình họ từ lâu năm nên ông đã tiến cử họ để chính phủ lựa chọn. Cũng như ông, Felipe còn sống độc thân. Chỉ có Moriz là đã có vợ nhưng chưa có con. Vợ anh, người mà anh sẽ gặp lại trong ba tháng nữa, làm việc tại một nhà cho thuê phòng ở cảng Buenos - Aires.
Sau khi hết thời hạn ba tháng, ba người sẽ trở về trên chiếc Santa - Fé, con tàu đưa tổ thay thế ra đảo, và sau khi ba người sau hết nhiệm kỳ ba tháng của họ, thì ba người này lại trở lại đảo để thay. Như vậy là vào tháng sáu, bảy và tám họ sẽ lại trở về đây làm việc và lúc đó là đúng vào giữa mùa đông địa cực. Sau phiên công tác đầu tiên, họ chưa phải nếm trải những bất thường của thời tiết, nhưng đến vòng sau họ mới phải nếm mùi cực nhọc. Nhưng chúng ta dễ dàng nhận thấy là điều đó không hề làm họ lo âu. Vasquez và hai người bạn của ông lúc đó đã quen với khí hậu của đảo, và họ sẽ biết phải làm cách nào để chống chọi với cái lạnh, với gió bão và với tất cả những khắc nghiệt của mùa đông địa cực.
Ngay hôm ấy, ngày 10 tháng Chạp, công việc trên đảo đã được sắp xếp đâu vào đấy. Hằng đêm, những chiếc đèn của hải đăng sẽ hoạt động dưới sự canh chừng của một người gác ngồi trong phòng trực, trong lúc hai người kia nghỉ trong phòng ngủ. Ban ngày, mọi dụng cụ, máy móc sẽ được lau chùi, bảo quản, thay bấc, thấm dầu, sẵn sàng cho việc chiếu ra những tia sáng mạnh khi màn đêm buông xuống.
Thỉnh thoảng, theo những hướng dẫn nhiệm vụ đã qui định, Vasquez cùng hai bạn xuống vịnh Elgor, men ra đến biển hoặc đi bộ trên bờ, hoặc sử dụng chiếc sà-lúp dành cho tổ gác, đó là một chiếc sà-lúp có hai buồm ở mũi và lái dùng để thám sát vịnh. Chiếc sà-lúp này chưa dùng đến, thì neo đậu trong một nơi kín đáo, được che chắn bởi các vách đá dựng đứng, không lo những luồng gió thổi từ phía đông lại, những luồng gió từ hướng này là đáng sợ nhất.
Dĩ nhiên là trong lúc tổ gác đi tuần tra như vậy thì vẫn có một người ở lại trực ở trên hành lang thượng của hải đăng. Lúc đó, nếu có tàu thuyền nào đi qua vịnh cần liên lạc thì họ kịp thời ghi nhận. Từ trên đài quan sát, người ta chỉ thấy mặt biển từ hướng đông đến đông bắc. Các hướng khác đều bị các vách đá dựng đứng che khuất. Do đó, nhất thiết phải có một người trong phòng trực để có thể liên lạc với các tàu thuyền.
Những ngày đầu tiên đã trôi qua bình lặng, không chuyện gì đáng nói kể từ lúc chiếc Santa - Fé rời đảo. Thời tiết rất đẹp cái lạnh đã giảm đi nhiều, nhiệt kế chỉ mười độ bách phân trên số không. Từ sáng đến chiều, gió thổi từ biển vào thành từng đợt, đến khi chiều tối gió đổi hướng thổi từ đất liền ra, tức đến từ tây bắc, từ những cánh đồng xứ Patagonie và từ Đất lửa sang. Đôi lúc cũng có mưa trong vài tiếng đồng hồ và vì không khí ấm dần lên nên thế nào cũng sẽ có những cơn giông làm thời tiết dịu đi.
Những tia nắng mặt trời đem đến đảo một luồng sinh lực mạnh mẽ, các loài thảo mộc bắt đầu phát triển rõ rệt. Cánh đồng cỏ kế cận với khu vực hải đăng trút bỏ đi tấm áo choàng trắng toát để phô ra một tấm thảm màu xanh nhạt. Trong khu rừng sồi địa cực, người ta còn được cái thú là nằm dài ra dưới tán lá sum suê. Dòng suối nước lúc nào cũng chan hòa, chảy từ trên núi xuống tận biển. Những đám rêu, những đám địa y lại xuất hiện dưới những gốc cây và phủ xanh các mỏm đá; ngoài ra ta còn thấy mọc lên nhiều loại cỏ ốc tai rất hiệu nghiệm trong việc trị bệnh hoại huyết. Sau cùng, nếu không phải là mùa Xuân - cái danh từ đẹp đẽ này ít được nghe thấy ở vùng Magellan - thì đây chính là mùa Hạ, một mùa còn kéo dài thêm vài tuần lễ nữa trên phần cực nam của châu Mỹ này.
Một ngày qua đi trước khi thắp ngọn hải đăng, theo thói quen, ba người gác đèn cùng ngồi lại với nhau trên bao lơn hình tròn quanh hải đáng để tán gẫu, dĩ nhiên là tổ trưởng Vasquez sẽ điều khiển và dẫn dắt câu chuyện.
- Này các bạn - ông vừa nói vừa chăm chú nhồi thuốc vào chiếc tẩu, động tác này được hai người kia bắt chước - cuộc sống ở đây thế nào? Tốt chứ?
- Đương nhiên là thế, anh Vasquez ạ - Felipe đáp – Nhưng mới chỉ vài ba hôm chưa đủ thời gian để có thể cảm thấy buồn chán hay mệt nhọc.
- Đúng thế! - Moriz nói thêm - nhưng mà ba tháng rồi cũng sẽ qua mau hơn mình tưởng đấy.
- Đúng thế các bạn, ngày tháng sẽ qua nhanh như những chiếc thuyền buồm gặp gió ấy mà.
- Lại tàu thuyền - Felipe nhận xét - ngày hôm nay không hề có bóng dáng tàu nào qua vịnh, kể cả những chiếc xuất hiện xa xa nơi chân trời cũng không có.
- Rồi sẽ có, Felipe, chúng sẽ đến - Vasquez vừa nói vừa chụm tròn bàn tay lại giống như chiếc ống nhòm đặt trước mắt - Ta đã dựng lên ở đây một ngọn hải đăng mà nó có thể chiếu sáng cả chục cây số, chẳng lẽ lại không có con tàu nào đến để sử dụng nó sao?
- Nhưng mà ngọn hải đăng của ta vừa mới được bóc tem, nó quá mới - Moriz nhận xét.
- Đúng như cậu nói - Vasquez đáp - và cũng phải có thời gian các thuyền trưởng mới biết được là từ nay trở đi, bờ biển này đã được soi sáng. Và một khi họ đã biết được điều ấy, họ chẳng ngại gì mà không ùn ùn kéo qua đây, điều ấy có lợi cho họ mà! Nhưng biết được điều đó cũng chưa đủ, còn phải xem cái hải đăng đó có được thấy sáng liên tục suốt đêm không nữa chứ.
- Mọi người sẽ biết ngay thôi sau khi chiếc Santa – Fé về đến Buenos Aires - Felipe nhận xét.
- Bạn nói rất đúng - Vasquez đáp - và ngay sau khi thiếu tá Lafayate làm xong tờ trình, giới hữu trách sẽ mau chóng phổ biến tin này đến toàn thể giới hàng hải. Và từ đó các nhà hàng hải không được phép không biết chuyện gì đã xảy ra ở đây đâu nhé.
- Nhưng chiếc Santa - Fé chỉ mới rời đảo có năm hôm thôi - Moriz nói tiếp - à mà chuyện vượt bể lần này kéo dài bao lâu nhỉ?
- Theo tao biết thì khoảng hơn một tuần lễ! Trời yên, biển lặng như thế này, mà lại xuôi gió... Chiếc tàu của chúng ta sẽ đi chếch gió cả ngày lẫn đêm, thêm cả sức đẩy của máy móc thì tốc độ sẽ đạt tới chín hay mười hải lý đấy.
- Vào giờ này - Felipe nói - chắc tàu đã qua eo Magellan và đã vượt qua mũi Trinh nữ đến mười lăm hải lý.
- Chắc chắn là như vậy - Vasquez nói - Lúc này hẳn là tàu đang men theo bờ biển Patagonie và nó sẽ bất chấp cuộc đua ngựa của dân Patagon... Có Trời biết được tại sao ở cái xứ sở đó có cả người lẫn súc vật cứ luôn lồng lên như lũ ngựa vía ấy!
Những kỷ niệm về chiếc Santa - Fé vẫn còn tươi rói trong ký ức những con người can đảm ấy. Với họ, con tàu như là một mảnh đất của quê hương vừa mới từ giã họ mà trở về, họ sẽ nghĩ đến chuyến đi của nó cho đến khi nó trở về. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- À, mà hôm nay mày câu được nhiều cá không? – Vasquez hướng về Felipe mà hỏi.
- Cũng kha khá, Vasquez. Tôi câu được hơn chục con bống trắng, tôi còn chộp được một chú cua nặng chừng ký rưỡi đang lẩn trong hốc đá.
- Thế là tốt rồi - Vasquez đáp - mày đừng sợ hết cá ở đây nhé! Cái giống cá ấy rất lạ, mình càng bắt nhiều, nó càng sinh sôi ra hàng đàn, nhờ có lũ cá ở đây ta có thể tiết kiệm được thịt khô và mỡ muối trong kho!... À, thế có tìm ra rau không?
- Tôi đã vào cả trong rừng sồi - Moriz đáp - và bới được ít rễ cây và bắt chước bếp trưởng trên tàu, tôi sẽ nấu cho anh một món này ngon tuyệt.
- Món ấy sẽ được nồng nhiệt hoan nghênh, bởi vì ta cần tiết kiệm đồ hộp! - Vasquez cười nói - Tất cả các món ăn tươi đều ngon: thịt mới xẻ, cá mới bắt hay rau củ mới đào, đều tuyệt.
- Mà này - Felipe nói - nếu tóm được một con gì thuộc loài nhai lại trên đảo thì tuyệt quá... một chú nai hay hoẵng chẳng hạn.
- Tao không chê một miếng thăn hay một đùi nai đâu - Vasquez đáp - Giờ mà vớ được một đĩa thịt rừng thì cái bao tử của ta chỉ còn biết nói lời cảm ơn mà thôi!... Do đó, từ nay nếu con mỗi xuất hiện thì các cậu cứ việc bắn hạ. Nhưng phải lưu ý một điều là không được đi quá xa khu tháp đèn để tìm con mồi dù lớn hay nhỏ. Chủ yếu là các cậu phải luôn giữ nguyên tắc chỉ rời khu tháp đèn khi cần quan sát điều gì trong vịnh Elgor mà thôi, hoặc trên biển, trong khoảng từ mũi San Juan đến mũi Diegos.
- Tuy nhiên, nếu có con vật nào ngon ăn đến vừa một tầm súng... - Moriz, vốn thích đi săn nên nói thêm.
- Vừa một tầm súng hay hai, ba tầm súng gì cũng được - Vasquez ngắt lời - nhưng các cậu nên nhớ rằng nai ở đây là giống thú hoang, chưa biết con người là gì cho nên tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu chỉ thấy có một cặp sừng nai đơn độc xuất hiện trong rừng sồi, hoặc là ngay cạnh khu tháp đèn của ta đây.
Thực ra thì kể từ khi công trình xây dựng hải đăng bắt đầu cho tới giờ, chưa bao giờ có con vật nào được ghi nhận là có mặt trong khu vực này. Viên thuyền phó của chiếc Santa - Fé là đại úy Nemrod đã nhiều lần thử tìm săn nai nhưng không có kết quả mặc dầu ông đã đi sâu vào trong đảo đến năm sáu hải lý. Con mồi săn lớn hoặc không có hoặc chỉ thấp thoáng ở ngoài tầm súng, rất khó săn. Cũng có thể, nếu ông ta chịu khó leo lên cao, hoặc đi qua cảng Parry hay sang tới đầu kia của đảo thì sẽ may mắn hơn. Nhưng ở đó, núi lại quá cao, đường đi lại khó khăn, cho nên ông ta cũng như một số người khác trên chiếc Santa-Fé chưa bao giờ đi đến tận cùng của mũi Saint - Barthélemy.
Trong đêm 16 rạng sáng 17 tháng Chạp, Moriz gác từ sáu giờ đến mười giờ, có nhìn thấy ánh đèn ở ngoài khơi từ hướng đông, cách bờ khoảng từ năm đến sáu hải lý, chắc chắn đấy là ánh đèn của một con tàu, con tàu đầu tiên xuất hiện kể từ khi có ngọn hải đăng.
Moriz cho rằng sự kiện này cũng đáng cho các bạn quan tâm; vì lúc đó họ chưa ngủ nên anh liền báo ngay cho các bạn. Vasquez và Felipe lập tức lên phòng trực với Moriz, và với chiếc ống nhòm trong tay họ chăm chú quan sát ở hướng đông.
- Đèn này màu trắng - Vasquez tuyên bố. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Và như vậy - Felipe nói - nó không phải là đèn báo vị trí của tàu, bởi vì nó không phải màu xanh hay màu đỏ.
Nhận xét này rất có ý nghĩa thực tế. Đấy không phải là đèn báo vị trí của tàu vì theo quy ước quốc tế, đèn màu xanh là để báo mạn trái và màu đỏ cho mạn phải của tàu.
Vasquez tiếp:
- Vì đèn màu trắng nên đây là đèn treo trên dây neo cột buồm đằng mũi, nó báo hiệu là đang có một con tàu chạy hơi nước đang nằm trong tầm nhìn của đảo.
Chắc chắn đây là một chiếc tàu chạy bằng hơi nước đang trở về mũi San Juan. Không biết nó sẽ qua eo biển Lemaire hay đi vòng về phía nam? Đây cũng chính là câu hỏi mà cả ba người đều muốn biết sớm câu trả lời. Họ chăm chú theo dõi đường đi của con tàu khi nó tiến lại gần và trong nửa giờ sau, họ đã xác định được hướng đi của tàu kia.
Con tàu này bỏ ngọn hải đăng nằm bên mạn trái, và chạy thẳng về hướng eo biển. Ta có thể nhận ra đèn hiệu màu đỏ của tàu khi nó đi vào cửa cảng Saint - Jean; sau đó thì biến ngay vào đêm đen.
- Đây là con tàu đầu tiên mà ngọn hải đăng ở tận cùng trái đất này ghi nhận được - Felipe reo lên.
- Và chắc chắn nó không phải là chiếc cuối cùng! - Vasquez khẳng định.
Ngày hôm sau, trong buổi sáng sớm, Felipe báo có một chiếc tàu buồm lớn xuất hiện ở chân trời. Lúc này trời quang đãng, bầu không khí cho gió đông nam nhè nhẹ nên không có sương mù, điều đó có phép thấy rõ con tàu ở một khoảng cách gần mười hải lý. Vasquez và Moriz, vì đã được thông báo nên cùng leo lên ban công để theo dõi. Con tàu hiện ra ngay bên cạnh những vách đá dựng đứng của bờ biển, hơi chếch sang phải của vịnh Elgor, giữa mũi Diegos và mũi Several.
Con tàu dong buồm lướt nhanh với vận tốc khoảng từ mười hai đến mười ba hải lý một giờ. Các cánh buồm của nó no gió, phồng căng lên. Tuy nhiên vì nó tiến thẳng đến đảo Đa Quốc gia nên chưa xác định được là nó muốn đi lên hướng bắc hay xuôi về nam.
Vì đều là dân đi biển nên cả ba cứ bàn cãi mãi về chuyện này. Sau cùng thì Moriz đã có lý khi cho rằng chiếc thuyền buồm không có ý định đi vào eo biển. Thực vậy, khi còn cách bờ biển khoảng một hải lý rưỡi thì con tàu lái về phía gió, để hứng được nhiều gió hơn mà vượt qua mũi Several. Đây là một con tàu lớn, trọng tải ít nhất là một ngàn tám trăm tấn, được trang bị ba buồm. Đây là loại tàu đóng ở Mỹ, và vận tốc đường dài của nó thì phải rõ là tuyệt hảo.
- Tôi dám cá với hai anh là tàu này được đóng ở tận New England đấy! Nếu không đúng thì cho các anh lấy ống dòm của tôi ra làm dù che đấy.
- Con tàu sắp cho ta biết số hiệu đã đăng kiểm đấy - Moriz nói!
Và vasquez nói ngay:
- Nhiệm vụ của nó mà!
Đấy quả thực là điều mà con tàu kia sắp thực hiện khi nó quay mũi về hướng Several. Một loạt cờ hiệu được kéo lại cột buồm giữa, những tín hiệu này được Vasquez giải mã ngay sau khi tra cứu từ một quyển sách để trong phòng trực.
- Con tàu mang tên Montank, đi từ cảng Boston, Tiểu bang New England của Hoa Kỳ.
Tổ gác trả lời bằng cách kéo cờ Argentina lên nóc cột thu lôi và họ tiếp tục nhìn con tàu cho đến khi cột buồm chính của nó khuất sau những quả núi của mũi Webster, trên bờ biển nam của đảo.
- Và bây giờ - Vasquez nói - chúng ta chúc cho chiếc Montank thuận buồm xuôi gió và cầu trời đừng giáng cho nó một cơn bão trong vùng mũi Horn.
Những ngày kế tiếp đó, mặt biển rất vắng, chỉ có một hai cánh buồm thấp thoáng ngoài chân trời ở phía đông.
Những tàu đi qua đảo Đa Quốc gia ở khoảng cách mười hải lý thì chắc chắn là không ghé vào vùng đất của châu Mỹ này. Theo ý của Vasquez thì chúng là những tàu đánh bắt cá voi đang trên đường đi tới những ngư trường vùng địa cực. Còn lại là vài chiếc tàu hơi nước từ những vùng cực đến thì vẫn chạy xa bên ngoài mũi Several khi hướng về Thái Bình dương.
Cho tới ngày 20 tháng Chạp, chẳng có gì đáng kể để ghi chép vào nhật ký của hải đăng ngoài những quan sát về khí tượng thời tiết có vẻ như muốn thay đổi với những trận đổi gió đột ngột từ đông bắc chuyển sang đông nam. Tuyết rơi dày nhiều lần liên tiếp kèm theo mưa đá, điều này chứng tỏ trong khí quyển điện đang tích tụ lại. Người ta đã nghĩ tới những cơn giông tố có thể xảy ra trong thời gian này.
Buổi sáng ngày 21, Felipe vừa đi dạo vừa hút thuốc gần tháp đèn, bỗng nhìn thấy một con vật thấp thoáng trong rừng sồi.
Sau khi quan sát hồi lâu, anh bèn đi vào trong gian phòng lớn để lấy chiếc ống nhòm. Chẳng mấy khó khăn, Felipe đã nhận ra đấy là một chú nai lớn, cơ hội săn thú đã đến rồi. Ngay khi vừa lên tiếng gọi Vasquez và Moriz lập tức lao ra khỏi phòng ngủ, và cả ba cùng đứng quan sát. Tất cả đồng ý là sẽ săn cho được con thú ấy. Nếu hạ được nó, họ sẽ có được thịt tươi để cải thiện bữa ăn hàng ngày cho bớt nhàm chán. Phương án thích hợp nhất là: Moriz xách theo một cây súng các-bin sẽ đi vòng ra phía sau con thú, sau đó tìm cách xua cho nó chạy ra bờ vịnh, Felipe sẽ rình ở bên đường, chờ nó chạy ngang qua thì bắn.
- Dù sao thì các bạn cũng nên thận trọng - Vasquez đề nghị - Giống thú này có đôi tai và cái mũi rất thính! Nếu nó trông thấy hay đánh hơi thấy Moriz từ xa là nó sẽ chạy biến mà mày không tài nào đuổi kịp để bắn nó đâu. Cứ để nó đi đâu thì đi, nhưng không được làm mất dấu nó hiểu không?
- Đồng ý - Moriz đáp.
Vasquez và Felipe cùng chốt lại bên tháp đèn và qua ống nhòm con thú không hề động đậy từ lúc nó xuất hiện đến giờ. Hai người cũng theo dõi bước đi của Moriz.
Moriz tiến về phía khu rừng sồi. Anh sẽ lẩn vào rừng và có thể nấp sau những tảng đá mà không làm con vật kinh động. Sau đó anh sẽ đánh động để con vật chạy ra phía vịnh. Hai người dõi theo Moriz cho đến khi anh này biến mất vào rừng.
Nửa tiếng đồng hồ trôi qua. Con nai vẫn đứng im và Moriz đã có thể nã vào nó một phát đạn. Vasquez và Felipe cùng chờ đợi tiếng nổ để sau đó con thú hoặc sẽ ngã vật ra, hoặc co chân chạy biến.
Tuy nhiên không hề có tiếng nổ và trong sự ngạc nhiên đến tột cùng Vasquez và Felipe nom thấy con nai, thay vì vùng chạy đi, lại nằm soài ra đất, chổng bốn vó lên trời, nó đã gục xuống, tựa hồ như không còn chút sức lực nào nữa cả.
Gần như tức thì, Moriz, sau khi đã luồn được đến sau tảng đá, liền chạy ra đến bên con nai nằm bất động; anh cúi xuống lấy tay sờ nắn thân hình con thú và vụt đứng dậy.
Đoạn, quay người về phía tháp đèn, anh giơ tay phác họa một cử chỉ mà không ai có thể hiểu lầm được. Đấy là gọi hai người đến đây ngay lập tức.
- Có chuyện lạ phải không? - Vasquez hỏi - Nào ta đến đó ngay, Felipe.
Rồi cả hai từ trên tháp đèn lao vụt xuống, cùng chạy vào rừng sồi.
Không đầy mười phút sau, họ đã vượt qua khoảng cách đó.
- Sao, con nai? - Vasquez hỏi.
- Nó đây - Moriz đáp và lấy tay chỉ vào đầu con vật cạnh chân anh
- Nó chết rồi chứ? - Felipe hỏi.
- Chết rồi - Moriz đáp.
- Vì già yếu à? - Vasquez kêu lên.
- Không... nó bị bắn bị thương.
- Nó bị thương à?
- Đúng vậy, một viên đạn bắn trúng sườn.
- Viên đạn bắn à...? - Vasquez nhắc lại.
- Không còn gì có thể rõ ràng hơn nữa. Sau khi trúng đạn con thú đã lết được tới đây, rồi lăn ra chết .
- Vậy là có thợ săn ở trên đảo? - Vasquez lẩm bẩm.
Không nói một lời, anh ngước cặp mắt lo ngại nhìn xung quanh.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của V.E.A.R
Nếu như Vasquez, Felipe và Moriz mà đến được bờ phía tây của đảo Đa Quốc gia, họ sẽ thấy phần đất ấy khác xa với phần đất từ mũi Saint - Jean đến mũi Several. Ở đấy toàn là những vách đá dựng đứng cao khoảng sáu mươi mét, chúng đứng sừng sững ngay trên bờ nước sâu, ngày đêm bị sóng biển đập vào, ngay cả những hôm biển lặng. Đằng trước những bờ đá cằn cỗi đó có các khe hở, các hang hốc được các bầy chim biển chọn làm chỗ ẩn náu, là những vỉa đá lởm chởm, có những cái còn chạy ra ngoài khơi đến vài hải lý và chỉ phô mình ra khi triều xuống. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Chỗ những vỉa đá ngầm đó là những luồng lạch, những lối đi không thuyền bè nào qua nổi, kể cả những chiếc xuồng nhỏ bé. Rải rác đó đây là những kè đá, những trảng cát với lơ thơ vài đám cỏ biển xơ xác, trên mặt cát đầy rẫy những vỏ sò vỏ ốc luôn bị nước biển mài mòn những khi nước triều lên. Bên trong những vách đá đó là rất nhiều hang động trong đó có những hang rất sâu, lối vào lại hẹp, lòng hang lúc nào cũng khô ráo, không sóng biển nào vào trong đó được ngay cả khi biển động. Người ta đi vào hang qua những quãng dốc đứng, qua những đám đất đá sụt lở mà đôi khi nước triều cũng len lỏi tới. Muốn đến các mỏm đá cao phải vượt qua những thung lũng sâu, còn nếu muốn đến vùng cao nguyên ở trung tâm đảo thì phải vượt qua những ngọn núi cao tới chín trăm mét, và khoảng cách phải đi qua cũng không dưới hai mươi lăm cây số. Nói tóm lại, về tính cách hoang dã, hiu quạnh thì ở đây rõ nét hơn nhiều so với phần bờ biển đối diện, nơi trông ra vịnh Elgor.
Mặc dầu bên bờ biển phía tây hòn đảo Đa Quốc gia, từng phần đã được những ngọn núi cao ở vùng Đất lửa và quần đảo Magellan che chắn khỏi bị gió tây bắc quét, nhưng sóng biển ở đây cũng luôn gào thét dữ dội không kém vùng biển ở mũi San Juan kéo dài từ mỏm Diegos đến mỏm Several. Nếu như phần biển phía Đại Tây dương đã có một ngọn hải đăng soi đường thì phần biển bên phía Thái Bình dương cũng cần có một chiếc khác để dẫn đường cho các con tàu muốn đi vào eo biển Lemaire, sau khi đã vượt qua mũi Horn. Có thể là chính phủ Chilê vào lúc ấy cũng dự tính một ngày nào đó, sẽ theo gương của Argentina. Tuy nhiên, nếu việc xây dựng hải đăng được tiến hành đồng thời tại hai đầu Đa Quốc gia thì điều này sẽ đặc biệt nguy hiểm cho tình cảnh của băng cướp đang trốn quanh mũi Saint - Barthélemy.
Nhiều năm trước, bọn bất lương này đã vào cửa ngõ của vịnh Elgor và phát hiện ra một hang sâu được thiên nhiên tạo ra trong dãy vách đá dựng đứng ven biển. Cái hang ấy đã trở thành nơi ẩn náu rất an toàn cho chúng và vì lúc ấy không có tàu thuyền nào vào neo đậu ở hòn đảo Đa Quốc Gia nên chúng được tuyệt đối an toàn.
Bằng cướp này có mười hai đứa mà tên cầm đầu là Kongre, và một đứa khác tên Carcante làm phó. Bọn chúng đến từ nhiều vùng ở Nam Mỹ. Năm đứa trong bọn có quốc tịch Argentina hay Choé. Đám còn lại đều từ Fuégie đến và đều được Kongre thu nạp. Chúng chỉ việc băng qua eo Lemaire để đến hòn đảo mà chúng biết quá rõ những khi đến đấy để đánh cá vào mùa biển lặng.
Về Carcante, điểm duy nhất mà mọi người biết là hắn người Chilê, còn về làng xóm, gia đình ở đâu, ra sao, không ai biết được. Tuổi hắn khoảng bốn mươi, dáng người tầm thước trung bình, hơi gầy. Tính tình hắn rất nóng nảy, dối trá, lừa lọc và chưa bao giờ ngán chuyện trộm cắp và giết người.
Về thủ lĩnh băng cướp, không ai biết gì về hắn. Hắn người ở đâu, chưa bao giờ hắn nói với ai về chuyện này. Có đúng hắn tên Kongre hay không thì cũng chưa chắc lắm.
Điều duy nhất chắc chắn là cái tên đó khá phổ biến trong đám thổ dân vùng Magellan và vùng Đất lửa. Trong một chuyến hải hành từ Astrolabe đến Zélée, ông thuyền trưởng Du mont – d’Urville, sau khi ghé lại cảng Reckett ở eo biển Magellan, đã nhận lên tàu của ông một người vùng Patagonie mang cái tên như thế. Nhưng chưa chắc Kongre có quê quán ở Patagonie. Hắn không có khuôn mặt thót lại ở phía trên và banh ra ở cằm của những người vùng đó, trán hơi hẹp, cặp mắt kéo dài, mũi tẹt, dáng người nói chung là cao. Ngoài ra, mặt hắn không có nét dịu dàng vốn gặp ở những thổ dân vùng này.
Tính tình Kongre vừa hung dữ vừa quyết đoán. Điều này dễ nhận thấy ngay qua những đường nét dữ tợn trên khuôn mặt mà bộ râu rậm đã có vài chấm bạc trên đó cũng không che chắn được. Hắn là một tên cướp thực sự. Một tên vô lại đáng sợ với đôi tay nhuốm máu đủ loại tội ác. Hắn không thể tìm được nơi trốn tránh nào khác ngoài hoang đảo này, nơi người ta chỉ biết mỗi vùng bờ biển. Nhưng, từ khi đến ẩn náu nơi đây, làm thế nào mà Kongre cùng đồng bọn lại có thể trụ lại được? Điều này sẽ được lược giải ngay sau đây.
Sau khi nhúng tay vào những phi vụ tội ác, những tội ác mà giá của nó là sợi dây treo cổ, thì Kongre và tên đồng lõa Carcante của hắn đã trốn khỏi Punta - Arénas, cảng chính của eo Magellan để đến ẩn náu tại vùng Đất lửa, nơi không ai có thể lần ra tung tích của chúng. Ở nơi này nhờ sống giữa những người thổ dân vùng Fuégie, bọn chúng biết được là vùng chung quanh đảo Đa Quốc gia thường có nhiều tàu thuyền bị đắm, lúc chưa có ngọn hải đăng. Như vậy là không còn gì nghi ngờ nữa, các bờ biển ở đây đầy rẫy đủ loại xác tàu, với các hàng hóa trong đó có cái hẳn là rất có giá. Kongre và Carcante bèn nảy ra ý định lập một băng nhóm để đi vơ vét của cải ở các tàu thuyền bị nạn. Chúng đã thâu nạp được vài ba tên cướp ở Fuégie chuyên làm nghề này từ trước, cộng thêm khoảng chục thổ dân vốn trước đây đánh cá, nay bỏ xứ để theo chúng. Bọn chúng dùng một chiếc thuyền đánh cá để đi sang bờ bên kia của eo biển Lemaire. Mặc dầu Kongre và Carcante đã từng là thủy thủ, đã từng dọc ngang đi về trên những vùng bể hiểm nguy của Thái Bình dương, chúng cũng vẫn không tránh khỏi tai nạn. Một cơn bão đã cuốn thuyền của chúng về phía đông và sóng đã đánh va thuyền của chúng vào bờ đá gần mũi Calnett, giữa lúc chúng tìm cách neo đậu lại ở vùng nước lặng của cảng Parry. Và thế là cả bọn đều phải lội bộ đến vịnh Elgor. Nơi đây chúng đã thấy lại niềm hy vọng. Bờ biển ở đây suốt từ mũi San Juan đến mỏm Several đầy rẫy xác tàu đắm, từ cái mới đắm lẫn cái đã đắm từ lâu, nhiều kiện hàng còn nguyên, nhiều thùng lương thực còn đầy ăm ắp, có thể giúp chúng sống trong nhiều tháng, lại có cả vũ khí, súng lục, súng trường, đạn dược bảo quản kỹ trong các thùng sắt. Rồi còn cả vàng, bạc, châu báu đến từ các tàu thuyền Úc châu, các đồ gỗ như giường, tủ, bàn, ghế... rải rác đó đây còn sót lại vài bộ xương, nhưng không còn ai sống sót trong những thảm họa hàng hải đó.
Thực ra, khi đã là dân đi biển thì chẳng ai còn lạ gì cái hòn đảo đáng sợ này. Tất cả tàu thuyền khi bị gió bão thổi đến đây thì xem như xong, mất từ người cho đến của cải.
Kongre và băng nhóm của hắn chẳng cần vào sâu trong đảo để tìm chỗ cư trú, bọn chúng ở ngay con đường vào đảo, như vậy sẽ thuận tiện cho công việc của chúng và đồng thời có thể canh chừng mũi San Juan. Do ngẫu nhiên, bọn chúng tìm được một cái hang mà lối vào được che khuất bởi các loài cây mọc ở bờ biển như các loài tảo bẹ, tảo giạt; hang này đủ lớn đế có thể chứa cả bọn. Hang được che khuất bởi những vách đá dựng đứng trên bờ bắc của vịnh, do đó không còn lo gì gió bão. Bọn chúng bèn khuân về đó đủ các thứ lấy được từ các xác tàu đắm, từ giường tủ, quần áo cho đến các thức ăn rất dồi dào, nào bánh bích quy, thịt muối cho đến rượu vang, rượu mạnh. Hang thứ nhì, ngay cạnh hang đầu, chúng dùng để chứa các đồ đặc biệt như vàng, bạc, nữ trang. Nếu sau này mà Kongre tìm cách đánh cắp được một con tàu bị dụ dỗ vào trong vịnh thì hắn sẽ chất tất cả những của cải ăn cắp được lên đó rồi dong buồm trở về những hòn đảo trên Thái Bình dương, nơi khởi đầu sự nghiệp trộm cắp của mình.
Cho đến nay, cơ may ấy chưa đến với chúng, đám vô lại này chưa thể rời khỏi đảo Đa Quốc gia. Rõ ràng là trong khoảng hai năm trên đảo, của cải của chúng không ngừng gia tăng. Đã có thêm tàu bị đắm và từ đó bọn chúng càng giàu thêm nhiều. Ngoài ra, bọn chúng còn học theo cách của những tên cướp biển trên các vùng biển nguy hiểm ở lục địa cũ cũng như ở Tân thế giới, đấy là dụ dỗ những con tàu dẫn xác nạp mình cho tai họa.
Ban đêm, trong khi gió bão đang gầm thét ngoài khơi, nếu thấy có chiếc tàu nào xuất hiện trước đảo, chúng liền đốt lửa lên và tìm cách dẫn dắt tàu vào chỗ có đá ngầm, và nếu có ai thoát chết vì tai nạn, thì cũng không thoát khỏi bàn tay lũ cướp. Đấy là những hành vi phạm tội của lũ cướp mà nhiều người còn chưa biết.
Tuy nhiên, băng cướp vẫn tiếp tục bị cầm chân trên đảo. Kongre tuy đã có thể làm cho vài con tàu bị đắm, nhưng bọn chúng vẫn chưa lừa được tàu nào đi vào vịnh Elgor để cho chúng cướp. Hơn nữa, ít có tàu nào dám liều lĩnh vào neo đậu trong vịnh, nơi mà các thuyền trưởng chưa quen luồng lạch; ngoài ra lại còn phải lựa cho được con mồi nào có thủy thủ đoàn không đủ sức chống lại chúng, chúng mới dám ra tay! Thời gian cứ trôi và cái hang đá càng ngày càng đầy ắp của cải. Ta có thể hình dung ra nỗi sốt ruột, sự tức giận của Kongre và lũ cướp như thế nào. Và đấy cũng là đề tài của câu chuyện trao đổi giữa Carcante và tên đầu sỏ. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
- Cứ mắc kẹt mãi trên đảo này y như tàu mắc cạn! Biết đến bao giờ tụi mình mới có thể khuân về nhà đống của cải này!...
- Được rồi - Kongre đáp - bằng mọi giá chúng ta phải đi!
- Bao giờ và làm thế nào mà đi? - Carcante sốt ruột hỏi.
Và câu hỏi này vẫn không được trả lời.
- Lương thực của chúng ta rồi sẽ hết - Carcante nhắc lại. Khi câu được cá thì đi săn lại về không?... Và còn nữa, chúng ta còn phải chịu mấy mùa đông nữa đây? Lạy Chúa! Cứ nghĩ đến chuyện phải ở đây mãi là tao không chịu nổi!
Trước những câu hỏi đó, Kongre còn biết trả lời ra sao. Hắn vốn ít nói và không mấy cởi mở. Nhưng gan ruột hắn thì luôn sôi lên sùng sục khi thấy mình bất lực! Không, hắn không thể làm gì cả!... Không!... Vì không tài nào gặp được một con tàu vào neo đậu trong vịnh, nếu có thấy được một chiếc thuyền đánh cá của dân Fuégien đi về phía đông của đảo, Kongre cũng chẳng ngần ngại gì mà không đoạt lấy nó. Khi ấy, nếu không phải hắn thì Carcante cùng vài tên Chile khác có thể đi đến eo biển Magellan. Đến được đó rồi thì có nhiều cơ hội để tới Buenos Aires hoặc Valparaiso. Với tiền bạc rủng rỉnh, bọn chúng có thể mua hẳn một con tàu chở được từ trăm rưỡi đến hai trăm tấn, sau đó Carcante cùng với thủy thủ đoàn sẽ đưa tàu tới vịnh Elgor. Tàu vào được vịnh rồi, bọn hắn sẽ thủ tiêu toàn bộ thủy thủ đoàn... Sau đó cả băng sẽ lên tàu cùng với đống của cải để đến tận quần đảo Salomon hay Nouvelles Hébrides.
Nhưng mọi toan tính chỉ dừng lại ở đó mà thôi. Bởi vì, mười lăm tháng trước lúc bắt đầu của câu chuyện này, tình hình đã đột ngột thay đổi.
Vào đầu tháng mười năm 1858, một chiếc tàu thủy mang cờ Argentina xuất hiện trước đảo và tìm cách vào neo đậu trong vịnh Elgor.
Kongre và đồng bọn lập tức nhận ra ngay đây là một chiếc tàu chiến, mà với loại tàu này, bọn chúng chẳng làm gì được cả. Sau khi xóa sạch mọi dấu vết chứng tỏ sự hiện diện của chúng và cho tạm lấp đi hai cửa hang, bọn cướp rút vào phía trong của đảo để chờ đến khi chiếc chiến hạm ấy bỏ đi.
Đó chính là chiếc Santa-fé, đến từ Buenos Aires, trên tàu có một kỹ sư với nhiệm vụ xây dựng một hải đăng trên hòn đảo Đa Quốc gia, và lúc đó ông kỹ sư vừa mới xác định được vị trí để xây tháp đèn.
Chiến hạm chỉ neo lại có vài ngày trong vịnh Elgor, sau đó nó rời vịnh mà không hề phát hiện ra sự có mặt của Kongre và băng cướp.
Tuy nhiên, lợi dụng đêm tối, Carcante đã lần ra tận nơi tàu đậu và hắn đã tìm ra lý do chiếc Santa-fé vào neo đậu trong đảo. Đó là một ngọn hải đăng sẽ được xây dựng trong lòng vịnh Elgor!... Vậy là sẽ phải rời bỏ nơi này. Chắc chắn là cần phải làm ngay, nếu có thể.
Kongre nhanh chóng đi đến một quyết định. Hắn đã biết rõ phía tây của đảo, vùng lân cận với mũi Saint - Barthélemy, nơi đó có nhiều hang động có thể dùng làm nơi trú ngụ cho toàn thể. Không được chậm ngày nào cả, vì chiếc chiến hạm sẽ mau chóng trở lại đảo cùng với đám thợ xây dựng hải đăng, hắn đã cho di chuyển ngay tới chỗ mới tất cả những vật phẩm cần thiết, đủ dùng cho một năm. Hắn có lý khi cho rằng với khoảng cách từ đây cho đến mũi Saint - Jean, cả nhóm sẽ không còn lo bị phát hiện.
Tuy nhiên, thời gian không đủ cho hắn mang hết mọi thứ cất trong hai cái hang đó đi. Hắn đành bằng lòng với việc chỉ mang đi phần lớn chỗ lương thực, đồ hộp, đồ uống, quần áo và một số báu vật. Hai cửa hang được lấp lại bằng đá và cành cây. Của cải còn lại trong đó thì phó mặc cho trời đất quỉ thần.
Năm ngày sau hôm bọn cướp rời đi, chiếc Santa-fé xuất hiện từ sáng tinh mơ nơi cửa vịnh Elgor và sau đó vào neo đậu trong vịnh. Đám công nhân xây dựng cùng vật liệu được chuyển lên bờ. Địa điểm xây dựng tháp đều đã được chọn, nằm trên một ụ đất cao, công việc xây dựng được khởi công ngay tức thì và như ta đã biết, công trình xây dựng đã mau chóng hoàn tất.
Chính vì vậy mà băng cướp Kongre buộc phải lui vào ẩn náu trong mũi Saint - Barthélemy. Chúng dùng nước từ một con suối do tuyết tan tạo thành. Câu cá và săn bắn đã giúp chúng có thể tiết kiệm được phần lương thực mang theo từ khi rời vịnh Elgor.
Nhưng không nói, mọi người cũng hình dung ra sự sốt ruột của Kongre, Carcante và đồng bọn khi chờ cho hải đăng được xây xong để sau đó chiếc Santa-fé lại ra đi và chỉ trở lại sau ba tháng với toán bảo vệ mới.
Dĩ nhiên là Kongre và Carcante phải theo dõi mọi diễn biến ở trong lòng vịnh, nơi đây thi công hải đăng. Bằng cách đi dọc theo bờ biển, từ phía nam hay từ phía bắc lại, hoặc tiếp cận công trường từ bên trong đảo, hoặc từ các đỉnh núi cao bao bọc phía nam của cảng New - Year, bọn chúng có thể nắm vững tiến độ xây dựng tháp đèn để tính xem đến lúc nào thì việc xây dựng sẽ hoàn tất. Qua công việc theo dõi nói trên, có thể Kongre sẽ thực hiện một kế hoạch đã được nung nấu trong nhiều ngày. Sau đó, ai có thể biết được điều gì sẽ xảy ra một khi vịnh Elgor đã được chiếu sáng, và lúc đó biết đâu chả có một con tàu sẽ đến neo đậu trong vịnh, Kongre sẽ tìm cách chiếm tàu, và thủ tiêu thủy thủ đoàn?
Còn về khả năng các sĩ quan của chiến hạm có nghĩ đến chuyện đi thám hiểm mạn tây của đảo không thì Kongre cho là khó xảy ra. Không có ai lại muốn mạo hiểm đi về phía mũi Saint - Barthélemy khi phải vượt qua những khu đồi trọc, những thung lũng sâu rất khó đi qua. Tất cả phần núi non đó, nếu muốn qua cũng phải trả giá bằng nhiều nỗi nhọc nhằn. Thực ra, cũng có khả năng viên thuyền trưởng của chiến hạm sẽ cho tàu làm một vòng quanh đảo. Nhưng khó xảy ra chuyện ông ta cho các thủy thủ đổ bộ lên phần bờ biển lởm chởm những đá ngầm và trong mọi trường hợp, băng cướp sẽ luôn đề phòng đã không bị phát hiện. Truyện "Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Cuối cùng thì chuyện đó đã không xảy ra và tháng Chạp đã tới gần, trong thời gian đó mọi công việc có liên quan đến tháp đèn phải được hoàn tất. Sau đó chỉ còn lại những người gác đèn và Kongre biết điều đó khi thấy những tia sáng đầu tiên mà hải đăng chiếu lên bầu trời trong đêm tối.
Cho nên, trong những tuần lễ cuối cùng này, một tên trong băng cướp phải đến phục chờ sẵn trên một trong những đỉnh đồi mà từ đó chúng có thể trông thấy hải đăng từ một khoảng cách từ bảy đến tám hải lý; tên này sẽ trở về báo tin ngay cho Kongre biết, càng nhanh càng tốt, ngay lúc ánh đèn đầu tiên được phát ra.
Thế rồi, chính xác là vào đêm mùng 9 rạng ngày mùng 10 tháng Chạp mà Carcante báo tin này về mũi Saint - Barthélemy:
- Thế là xong - Hắn kêu to lên như vậy khi đến gặp Kongre trong hang đá - cuối cùng thì lũ quỉ cũng phải xây xong và thắp đèn lên, cây đèn quỉ ấy sẽ phải tắt.
- Chúng ta không cần đến nó! - Kongre vừa đáp vừa vung nắm tay đe dọa về phía đông.
Sau đó vài ngày, đó là vào đầu tuần lễ tiếp theo, Carcante, trong một chuyến đi săn ở gần cảng Parry, đã bắn bị thương một con nai nhưng lại để con nai đó xổng mất. Chuyện xảy ra tiếp theo thì chúng ta đã rõ ở phần trên, con nai đã chạy đến gục chết dưới chân Moriz ở bìa rừng sồi. Và cũng bắt đầu từ hôm đó mà Vasquez cùng các bạn anh, vì biết trên đảo có người, đã canh phòng cẩn mật hơn vùng xung quanh vịnh Elgor.
Ngày hôm đó, Kongre quyết định sẽ đưa cả bọn rời mũi Saint-Barthélemy để trở lại mũi San-Juan. Băng cướp bỏ lại mọi thứ trong hang đá. Chúng chỉ mang theo lương thực đủ dùng cho cả bọn trong ba hay bốn ngày đi đường, sau đó đã có dự trữ của tổ bảo vệ tháp đèn. Hôm ấy là vào ngày 22 tháng Chạp. Xuất phát từ sáng sớm, bọn chúng đi theo con đường nằm ở trong núi, ngày đầu tiên chúng dự tính đi một phần ba đoạn đường, chặng này dài khoảng mười hải lý, toàn đường núi lại có nhiều cây che phủ, đêm sẽ ngủ lại ở một ngóc ngách nào đó. Sau chặng dừng chân này, ngày hôm sau cũng sẽ đi từ sớm trên một đoạn đường thứ hai cũng dài xấp xỉ chặng thứ nhất, rồi trong ngày cuối cùng, chúng sẽ đến thẳng vịnh Elgor vào lúc chiều tối.
Kongre cho là chỉ có hai người gác ở tháp đèn, thực ra là có đến ba người, nhưng điều ấy đâu có gì là quan trọng, cả ba ngươi: Vasquez, Moriz và Felipe làm sao chống cự nổi cả một băng cướp khi họ không ngờ đến sự có mặt của chúng ở đây. Vậy thì có hai đứa sẽ gục ngã ngay trong khu nhà ở, còn đứa thứ ba, bọn chúng sẽ giải quyết trong phòng trực một cách dễ dàng.
Sau đó Kongre sẽ trở thành chủ nhân của hải đăng. Và hắn tha hồ mang các thứ để lại ở Saint - Barthélemy trước đây về cất trong cái hang trước cửa vịnh Elgor.
Đó chính là kế hoạch được phác họa ra trong đầu tên cướp đáng sợ này, chắc chắn nó phải thành công, điều ấy là hiển nhiên, nhưng vận may có đến tiếp không, thì chưa chắc lắm.
Thực ra đến đây thì chuyện sẽ không còn tùy thuộc vào hắn nữa vì còn phải có một chiếc tàu nào đấy neo đậu ở vịnh Elgor đã chứ. Chắc chắn là nơi neo đậu này được các nhà đi biển biết đến sau chuyến đi của chiếc Santa-fé. Như vậy sẽ không còn trở ngại nào cho con tàu có trọng tải trung bình vào neo đậu trong một vùng biển đã được hải đăng đặt cọc tiêu. Dĩ nhiên như vậy sẽ tốt hơn là phải vượt thêm một cung đường đầy sóng gió hoặc qua eo biển, hoặc vòng lên phía nam của đảo... Kongre nhất quyết là con tàu ấy sẽ rơi vào tay hắn, đem lại cho hắn khả năng mà hắn chờ đợi bấy lâu nay. Hắn sẽ lái tàu chuồn sang Thái Bình dương, nơi hắn tin chắc rằng những tội lỗi hắn đã phạm trước đây sẽ không bị trừng phạt.
Nhưng mưu đồ trên muốn trót lọt điều tiên quyết là thời gian, cần phải làm sao để mọi chuyện xong xuôi trước khi chiếc chiến hạm Santa-fé mang tổ gác mới trở lại thay thế. Nếu không may rời đảo vào đúng lúc này thì Kongre và đồng bọn buộc phải quay lại mũi Saint - Barthélemy.
Và rồi tình hình sẽ càng phức tạp hơn nếu viên thuyền trưởng phát hiện ra việc ba người gác đèn đã mất tích, ông ta sẽ nghĩ ngay đến một vụ bắt cóc hay ám sát nào đó. Và cuộc tìm kiếm sẽ được thực hiện. Chiến hạm sẽ chưa rời đảo chừng nào chưa lùng sục tung cả đảo lên. Làm thế nào có thể chạy thoát khỏi cuộc truy tìm đó, và làm thế nào có thể nuôi sống cả bọn nếu tình hình ấy kéo dài?... Khi cần, chính phủ Argentina có thể phái thêm những chiến hạm khác. Ngay cả khi bọn Kongre đã có trong tay một chiếc thuyền đánh cá của thổ dân - điều này rất dễ thực hiện - thì eo biển cũng sẽ bị canh phòng rất cẩn mật, và như thế thì làm sao thoát ra khỏi đây để đến được vùng Đất lửa và không biết cả bọn có còn đủ may mắn để thực hiện được mưu đồ trên khi còn đủ thời gian?
Buổi tối ngày 22 tháng Chạp, Kongre và Carcante vừa đi dạo vừa nói chuyện ở gần mũi Barthélemy, và theo thói quen của dân đi biển, chúng quan sát trời và biển.
Thời tiết hôm đó không có gì đặc biệt. Nhiều mây đêm xuất hiện ở chân trời, gió thổi mạnh từ hướng đông bắc tới. Lúc ấy vào khoảng sáu giờ rưỡi tối, Kongre và đồng bọn vừa toan về nơi ẩn náu như mọi hôm thì bỗng Carcante nói:
- Như vậy là phải bỏ lại tất cả ở mũi Saint – Barthélemy.
- Chứ còn gì nữa - Kongre đáp - Sau này, khi đã làm chủ được tình hình thì việc mang đi sẽ dễ dàng hơn...
Hắn chưa kịp nói hết câu, cặp mắt hắn bỗng nhìn chăm chú ra biển, rồi nói:
- Này Carcante... nhìn xem có cái gì ở ngoài vịnh kìa...
Carcante nhìn theo hướng tay chỉ của Kongre.
- A! - hắn reo lên - Nếu tao không lầm thì đấy là một con tàu!
- Mà nó đang định ghé vào đảo đấy - Kongre tiếp – nó đang chạy chậm, vì ngược gió...
Đúng là có một chiếc tàu đang dong buồm tiến vào, còn khoảng hai hải lý thì tới bờ vịnh.
Mặc dầu gió thổi ngược, con tàu cũng từ từ tiến vào và nếu nó muốn tìm eo biển, thì phải đến đêm mới vào đấy được.
- Đó là một chiếc thuyền buồm dọc - Carcante nói.
- Đúng, một chiếc thuyền buồm dọc trọng tải khoảng hai trăm tấn - Kongre đáp.
Không còn nghi ngờ gì nữa, chiếc thuyền buồm đang tìm cách vượt qua eo biển thay vì đi tới mũi Saint – Barthélemy. Tất cả vấn đề là ở chỗ liệu nó có thể tới được đó trước khi trời tối mịt hay không. Với hướng gió như thế này, liệu có nguy cơ tàu sẽ bị sóng đánh xô vào bãi đá không? Cả bọn giờ đây túm tụm lại ở đầu mũi đất. Kể từ ngày chúng tới đây, đây không phải là lần đầu tiên có một chiếc tàu vào gần đảo đến thế. Trước đây, khi gặp trường hợp thế này thì bọn chúng sẽ đùng ánh lửa để dụ cho tàu va phải bãi đá. Nhưng bây giờ liệu bọn chúng có còn dám dùng cách này nữa không?
- Không được - Kongre đáp - không được để cho chiếc này bị đắm mà phải tìm cách bắt lấy nó... Hiện giờ gió đang thổi ngược sóng và trời thì tối đen. Tàu không thể nào vượt qua eo biển được. Sáng mai nhất định nó sẽ còn trong vịnh, lúc đó ta sẽ biết cần phải làm gì.
Một giờ sau đó, chiếc tàu biến mất trong bóng tối dầy đặc, không một ngọn đèn hiệu nào cho ta thấy sự hiện diện của nó.
Đêm hôm đó, gió đổi hướng, chuyển sang tây nam.
Sáng sớm hôm sau, khi Kongre và đồng bọn đi xuống bờ đá, bọn chúng thấy chiếc thuyền buồm đang nằm mắc cạn trong bãi đá của vịnh Saint - Barthélemy.
Mọi người vào vào đây ủng hộ 4r trong thời kỳ khó khăn này
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của V.E.A.R