Làng Ái Loan của tôi nằm ở một vị trí khá đặc biệt. Nó ở phần đuôi cái doi đất mỏng như ngọn lá, dài và thuôn như chiếc đòn gánh, hai đầu là hai cửa biển một to một nhỏ cách nhau chừng hơn một ngày đi bộ, bên trong là đầm phá mênh mông chỗ phình ra chỗ eo lạ chạy suốt chiều dài không lấy gì làm thẳng thớm của doi đất. Bởi vậy, làng như một hòn đảo nhỏ, việc đi lại rất khó khăn, mỗi khi có việc gì cần phải lên huyện lên tỉnh, dân làng phải vượt qua đầm phá chỗ eo thắt nhất bằng đò ngang để qua bên kia đường quốc lộ.
Trong làng có gia đình ông Tô, thường gọi là ông Tô Tiền, không biết tự khi nào, có lẽ từ thời ông nội cụ kỵ gì của ông truyền lại, đã sớm phát hiện ra đieuè nói trên và đã lập nên một cái bến đò ở chỗ cái eo thắt ấy. Chợ làng cũng đặt bên trên đó độ vài mươi bước chân.
Nghề đưa đò ngang xưa nay chẳng phải là cái nghề ăn nên làm ra gì nhưng đối với ông Tô Tiền này hình như khác, phải nói là gia đình ông giàu có. Đò ngang của họ được đóng bằng gỗ săng lẻ mua tận bên kia đường quan vè, xảm bằng vỏ tràm khô chắc chắn, ngày đêm qua lại đầm không biết bao nhiêu chuyến vẫn khô rang, tịnh không một giọt nước nào rỉ vào, chẳng mảy may tốn một công múc tát nước ra như các đò khác; thật là hết ý. Sau này, khi thời cuộc có biến động, đổi thay, lính cộng hòa và lính Mỹ tràn ngập hai bên bờ đầm cùng với hàng hóa vật dụng máy móc ben kia quốc lộ ùn ùn tràn qua, làm văn minh hẳn cái doi đất hẻo lánh quê mùa, thì vợ chồng ông Tô cũng đổi thay theo. Ông mua một chiếc máy nổ gắn vào chiếc đò, sửa sang lại đôi chút sàn ván, mui che, biến nó vừa là đò ngang vừa là thuyền vận tải hàng hóa. Cau, chuối, dừa, cá mú... bên này chở sang: gỗ, xi măng, đá hộc, sắt thép.. bên kia chở về. Nhà ông Tô vì vậy càng giàu, thật xứng với cái tên Tô Tiền. Ông bèn sắm máy nổ to nhiều sức ngựa, thuê thợ đóng một chiếc thuyền lớn rộng kiểu như canô, hai bên trổ hai dãy cửa sổ vuông có các tấm che bằng gỗ để nhấc lên sạp xuống. Hai bên lòng thuyền là hai dãy ghế băng dài cũng đóng bằng gỗ làm nơi ngồi cho khách sang ngang, ở giữa và trên mui là nơi chất hàng. Tàu đóng xong, ông Tô bán chiếc đò ngang cho một người trong làng. Còn ông rời hẳn cái eo thắt, với chiếc thuyền to lớn, vượt phá rộng mười hai cây số chạy luôn qua huyện lỵ, mỗi ngày bốn chuyến, sáng qua trưa về chiều qua tối về. Từ đó, dân làng tôi gọi chiếc thuyền lớn này là “tàu”, có người cẩn thận hơn thì kêu là “tàu nước” để phân biệt với tàu lửa, tàu biển. Ông Tô Tiền trở thành ông chủ tàu, vợ ông trở thành bà chủ tàu. Ông Tô là người có đầu óc tiếp thị ngay từ dạo đó. Bà chủ tàu lúc bấy giờ đã năm mươi, suốt bao namư chèo đò ngang trên sông nước nên già nua méo mó, da dẻ lại đen thui, nom chẳng ra cái bộ dạng gì nên ông chủ xua bà chủ lên bờ, về nhà cơm nước, trông coi vườn tược, gà qué. Ông Tô lôi xuống tàu làm người bán vé thu tiền cô con gái thứ ba mới mười bảy, học hành không ra cái gì, đã thôi việc đèn sách từ lâu. Cô gái ten là Cam, mặt mày cũng dễ coi, có một bộ ngực đồ sộ rất bắt mắt, chỉ nhược điểm là cái tay chân dài ngoẵng. Dù vậy, cô Cam vẫn là một cô gái đẹp, trẻ trung, sức lực. Phấn son bôi vào, may ô áo thun hở tay chật căng, váy bó và vận cao lên một chút, thế là bao nhiêu khách khứa đi tàu đổ xô đến, bao nhiêu hàng hóa cũng vì thế mà chất chồng lên - ông Tô bảo thế và bắt cô con gái làm y như thế. Cô gái nghe lời cha răm rắp, cô còn thích thú ra mặt nhìn mẹ – bà chủ tàu thất sủng – với một vẻ rất khiêu khích. Bắt người ta ở nhà mãi loanh quanh với chợ búa bếp núc à? Con gái đang hơ hớ tuổi xuân như mình phải đi đây đi đó, phải ra vài tiếp xúc với người hàng huyện hàng tỉnh, đầu óc nó mới sáng ra, con người nó mới khôn lên chớ! Bà mẹ trừng mắt mắng:
- Mi đú đởn vừa vừa ý! Giờ cha mi đuổi tau lên bờ, lôi mi xuống để làm ** đó, mi biết chưa?
Ông Tô quát ngay:
- Ô hay con mụ, ăn nói như cái quân mất dạy! Mụ nói ai làm **? Thế lâu nay mụ ở dưới đò ngang với tôi, mụ cũng làm ** đó chắc?
Mụ Tô độp lại:
- Ông mới là cái đồ ăn nói mất dạy! Rồi kể lể, bù lu bù loa khóc:
- Tôi chèo đò ngang, đứng đầu mũi dầm mưa gội nắng, đến lúc có máy nổ thì lại tay sào tay đẩy, mỗi khi đò cập bến phải lội xuống nước ngập đến lưng quần, kéo trì, ghìm cho khách xuống lên, cho hàng hóa lên bờ; có đui mù ông mới không thấy cảnh đó. Giờ đây, qu bao nhiêu năm tháng đầu tắt mặt tối làm lụng vất vả gieo neo, mỗi tuổi mỗi già, hỏi sao mà còn đẹp còn giòn như thời son trẻ? Ai vậy? Ai đã làm cho tôi ra cái nông nỗi này, ông thử trả lời tôi coi. Vậy mà ông còn bảo tôi cũng làm **! Làm ** với ai? Với ông à? Cái đó chắc rồi, không thì sao bây giờ ông có ba mặt con sờ sờ ra kia?
Ông chồng phì cười trước lí lẽ của vợ, nói át đi:
- Thôi thôi mụ! Thế thì mụ cũng đừng nói tôi lôi con Cam xuống tàu làm **! Thời buổi giờ, hàng họ khách khứa, muốn lôi cuốn người ta, muốn thu về lắm tiền nhiều của phải biết cách chớ! Con Cam, cho nó xuống tàu là cái cách đó của tôi. Mụ không bằng lòng sao?
Bà vợ chừng như xuôi xuôi, thôi khóc:
- Mặc kệ cha con ông muốn làm sao thì làm. Miễn sao con nó đừng ễnh bụng ra là được!
Ông chồng cười làm lành, xòe hai bàn tay ra trước mặt như phân trần:
- ễnh bụng là ễnh làm sao? Ban ngày ban mặt lại nơi đông người tàu bè qua lại, còn tôi đây tôi cai quản nó chớ! Mụ cứ lo bò trắng răng! Thôi dẹp!
Thế là êm cái khoản hoán đổi vị trí giữa hai mẹ con bà chủ tàu, không ai có ý kiến gì nữa. Cô Cam tuy mới lớn nhưng đã biết mình có cái “vốn tự có” nên làm tiếp thị khá thoải mái. Còn hai đứa con trai của ông bà Tô, công việc của chúng đã đâu vào đó. Thằng em tên là Quít, học khá giỏi, trước ở trường làng, sau ông Tô gửi lên tỉnh cho học tiếp. Thằng anh đầu tên ổi, dĩ nhiên là nối nghiệp cha, không phải bàn luận cãi vã gì. Cũng như con em, thằng này học quá dốt, tuồng như sinh ra chỉ để xuống sông xuống đầm chứ không phải để đến trường. Được cái, hắn chữ nghĩa không nhét được vô đầu nhưng dầu mỡ, máy móc thì nhét vô rất nhanh. Mấy tháng trước đây khi ông Tô quyết định phát triển ngành nghề, ông đã gửi hắn qua huyện để học lái tàu nước chỗ mấy người thợ quen biết với một món học phí hậu hĩnh cho các thầy. Khi chiếc tàu hoàn thành, hạ thủy, ông Tô đã có trong tay người lái là thằng con ông, không phải chiều lụy ai, không phải tốn tiền thuê mướn ai. Có mấy người khá giả trong làng học tập cách thức ông Tô, người riêng rẽ, người hùn vốn lại với nhau, một năm sau khi ông Tô mở đầu, họ có thêm hai chiếc tàu tương tự ra đời. Mặc nhiên cái bến chợ ái Loan trở thành cái bến tàu đỗ, đông vui nhộn nhịp lạ thường. Nhưng rồi, ngày một ngày hai, khốn khổ cho các ông chủ của hai chiếc tàu mới này, họ không có ai tiếp thị được như cô Cam của ông Tô Tiền! Bao nhiêu khách khứa hàng hóa qua lại, đi về đều hút cả theo cô Cam. Không có khách, tàu nằm không trên bến cũng hư hỏng mục nát, hai ông chủ tàu mới đành ngậm đắng nuốt cay bán lỗ vốn cho người làng trên làng dưới. Thế là trên bến chợ ái Loan, tàu cha con ông Tô độc quyền, ngày ngày làm ăn rầm rộ, tấn tới. Nhà ông Tô tọa lạc ngay trên bến, xế về bên phải nơi có mấy cây si già cành lá uồm ra trên mặt nước như cái vòm che. Chỗ này luôn luôn mát mẻ, nắng sớm nắng chiều đều không dọi vào được, ngày còn đò ngang, vợ chồng ông thường neo nấp đò dưới cái vòm này. Trước đây cha ông để lại một mảnh vườn và cái nhà rường ba gian hai chái trong làng. Giờ đây, ông mua thên mảnh đất bến chợ, xây lên một ngôi nhà hai tầng, tầng dưới là nơi chứa hàng, khách khứa bán mua đều đến ở đây; tầng trên là nơi ở; nhà rường trong làng chỉ để thờ phụng ông bà tổ tiên.
Chạy tàu nước vừa đúng mọt năm thì ông thợ lái, tức thằng ổi tuyên bố sẽ cưới vợ. Vợ chưa cưới của hắn chẳng phải ai xa lạ, chính là cái Nu, em gái út của tôi. Hai đứa này thương yêu nhau từ thuở gia đình ông Tô còn lái đò ngang nơi eo thắt. Gia đình ông Tô vốn là láng giềng của gia đình tôi hai ba đời nay. Ngày chưa chạy tàu nước, ông Tô vẫn ở trong làng, nơi cái nhà rường kia. Nhà tôi chỉ cách nhà ông có một bờ đất mỏng mọc toàn cây găng và ươi. Thằng ổi thường chui qua bờ cây rủ Nu khoèo quả ươi chín xuống xếp thành một vòng tròn đỏ ối trên một lớp lá găng vàng tươi, bẻ mấy cọng cỏ đuôi chồn làm hương cắm lên rồi xì xà xì sụp cúng bái. Nu giả làm người cầu xin còn thẳng ổi làm thầy cúng. Vái xong ba vái, thằng ổi cầm nắm cọng cỏ huơ huơ trước mặt mấy vòng, thét lên một tiếng, xong hạ giọng xuống lầm rầm hát: “Trời cao đất thấp/ Chó nấp mèo kêu/ Đây khều đó lượm/ Bếp đượm lửa hồng/ Chất chồng củi nỏ/ Cho chó chạy ra/ Vấp phải mệ gà/ Mèo tha đứng dậy/ Ba con đều lạy/ Ha hả hà ha/ Ha hả hà ha...”.
Không biết ổi ta học được ở đâu hoặc ai bày vẽ cho mà thuộc lòng hát véo von . ổi ta hát xong một câu, con Nu lắc người qua bên này; hát xong câu thứ hai, con Nu lắc người qua bên kia; cứ thế cho đến hết. Hai đứa sụp xuống vái tạ, xong bươi vầy cái đám quả ươi lá găng ra, giả vờ ăn no uống say. Cuối cùng hai đứa lăn đùng ra đất, cười. Thằng ổi đàn ông nên cười hà hà, con Nu đàn bà nên cười hỏn hẻn.
Cứ như vậy chúng nó lớn dần lên, cho đến khi thằng ổi biết hổ thẹn không dám ở truồng chui qua bờ găng ươi nữa, mà diện một chiếc quần mời hồ cứng kêu loặc xoặc và con Nu biết bẻ cành lá che mỗi lúc mót đái phải đi xa ra thằng ổi một đoạn... Đám cưới của hai đứa diễn ra một cách giản dị, một mặt cha mẹ tôi không ưa thách cưới to, mặt khác ông Tô Tiền nghe cha tôi, được lời như cởi tấm lòng , nên cũng không bày vẽ gì tốn kém nhiều. Chuyện này thì gia đình nhà trai thích quá, đặc biệt là mụ Tô. Mụ chỉ mong mau mau rước cô con dâu về nhà mình để ở với mụ sớm hôm cho có bạn. Lại nữa, tất cả những việc nhiêu khê trong nhà, mụ sẽ giao cho Nu, mụ càng rảnh rỗi để qua hang xóm ngồi lê đánh tứ sắc tối ngày với mấy bà buôn thuốc lá xâu. Ba cha con ông Tô sáng sớm tinh sương đã ra bến tàu, tối mịt bên kia mới về. Huỳnh huỵch dọn dẹp, khuôn vác hàng hóa, thu xếp đâu vào đó mãi đến tám chín giờ mới tắm táp xong, ngồi vào mâm cơm.
Một buổi chiều cha Mẹ Tôi đang ngồi dóc cau ở bậc thềm thì ông Huề Phụng – người anh em con chú con bác với cha tôi đi vào, bô bô từ ngoài cổng:
- Chú, chú! Chú biết chuyện chi chưa?
Cha tôi ngước lên:
- Bác Phụng đó hử, mời vô nhà uống nước. Chuyện chi là chuyện chi/ Huề Phụng ngồi bệt xuống thềm, tay bứt một ngộn thuốc lá khô, xé cuộn một điều to bằng ngón tay cái, đưa lên môi:
Mẹ tôi nói:
- Không! Không thiệt mà!
Huề Phụng cười rổn rảng:
Ui chùi! Huyện vui như tết mà không biết. Thằng rể chú thím đó. Bữa hai vợ chồng hắn đi lại mặt về, con Nu vô thay áo trong buồng, thằng ổi lại bàn thờ thắp hương. Đang còn khăn áo lùng nhùng nên vừa thắp hương vào thì ổi ta lều quều sao đó, vướng víu làm rơi cả bát hương của ông nội hắn từ trên bàn thờ lan lông lốc xuống nền nhà. Lại hậu đậu sao đó nữa, cứ chạy vô chạy ra một chặp lâu. Đến lúc mụ Tô Tiền hét toáng lên thì ổi luống cuống chạy vô, thò hai tay hốt đất cát lẫn chân hương cho vô lại bát hương. Không ngờ lúc ổi ta chạy ra ngoài , cái con mèo già trời đánh thánh vật ở đâu trong nhà mò tới ỉa vào đó một bãi rồi cào đất cát lấp lại. ổi ta không biết , cứ hốt; thấy hai tay nhoe nhoét liền chùi vào vạt áo lương. Ôi thôi rồi! *** mèo thối hoăng, chua lòm chua loét. Con Nu trong buồng chạy ra thấy vậy cười như nắc nẻ, bị mụ Tô tế cho một trận. Tế đến đâu, co Nu cười ngặt ngà ngặt nghẽo đến đó. Vui thiệt...! Điềm báo chi rứa thím hè?
Ông Huề Phụng là một nhân vật “quái kiệt” trong làng. Sở dĩ ông mang cái tên như thế là do một chuyện chết cười hồi còn trẻ. Phụng là người thổi kèn cúng của làng mỗi khi tế lễ. Bấy giờ anh ta chưa có vợ, nhà ở cạnh nhà thầy đề người cùng xóm nhưng đi nhậm chức ở vùng ngoài cách khoảng vài chục cây số, tuần mới về nhà một lần. Bà đề bấy giờ còn trẻ lắm, mới độ ba mươi, ở nhà một mình với đứa con nhỏ. Một hôm chuẩn bị cho ngày mai tế lễ sớm, Phụng đem chiếc kèn ra lau và thổi thử. Thổi đi thổi lại chiếc kèn vẫn rè rè, chốc chốc lại tắc cứng. Phụng tháo chiếc lưỡi gà ra xem thì thấy nó mòn vẹt lại hơi cong lên bởi dùng lâu ngày nước bọt ngấm vào làm biến dạng. Thứ này muốn thay chỉ có hóp gọt ra là tuyệt, mà hóp thì không đâu xa xôi, có mờy bụi um tùm sát tường rào nhà bà đề, cạnh giếng. Trời vừa tối, Phụng lận con dao nhíp nhỏ sắc, bước ra cổng nhà bà đề định gọi vào xin. Sau nghĩ thấy rắc rối quá, có là gì đâu một cái nhánh hóp! Phụng trở vào, nhân lúc trời tối anh ta leo qua tường nhảy xuống, lần tới bụi hóp. Vừa tỉa xong được một nhánh giắt vào lưng quần bỗng nghe thấy tiếng nước suối ào ào, tiếng vỗ bồm bộp. Không đừng được, Phụng ta ghé mắt nhìn qua kẽ bụi hóp. Thì kìa bà đề đang lồ lộ, trắng lốp, khỏa thân tắm. Bà cứ vừa tắm vừa xoa xoa vuốt vuốt, vừa hứng chí vỗ bồm bộp, nựng như nựng trẻ con: “Chị kỳ cho” sạch sẽ thơm tho nghe! Chút nữa thôi trăng lên thì ông đề về. Ông đề về thì em sướng nghe! Lúc đó thì em lại sưng lên nghe! Sưng to lên như cái miệng thắng Phụng mỗi khi thổi kèn nghe!”. Suýt nữa thì Phụng nẩy người lên phì ra cười, may sao ghìm lại được. Phụng lặng lẽ quay về nhà . Bà đề cũng vô tình không biết chuyện gì xảy ra . Từ đó cứ gặp bà đề đâu là Phụng ta lại nhìn vào mặt bàn trân trân, không nói chi cả, chỉ cười; lúc cười mỉm, lúc cười phá, lúc cười sằng sặc. Bà đề quá ngạc nhiên, hỏi Phụng mi có chuyện chi mà cười tau. Phụng ta quay đi và cười to hơn. Tức mình quá vì đã nhiều lần, một hôm bà đề đưa đơn thưa kiện với ngũ hương trong làng. Ngũ hương triệu tập Phụng tới tra hỏi vì sao mi dám cười vào mặt bà đề, gặp khi mô cười khi cười khi nấy là sao. Gặng mãi, mãi Phụng chỉ thưa: “Không thể nói được!”. Và nhìn vào bà đề đang ngồi trước mắt, cười mức nở hơn. Điên tiết, ông hương kiểm đứng dậy hét: “Phụng! Mi có nói vì sao không? Nói thì tha, không nói thì trị thẳng cẳng! Mi có muốn ta vả một trận nhừ tử vào miệng không? Nói đi! Nói!” . Đến nước này thì Phụng đành nói thật, kể thật, kệ cha bà đề trước mặt: “Thưa hôm đó cái kèn của tôi nó bị hỏng lưỡi gà, tôi lần qua bụi hóp cạnh giếng nhà bà đề để cắt một lóng thì thấy bà đề đang tắm...”. Vừa nói đến đó bà đề đỏ bừng mặt, giật mình vỡ lẽ, vội xua xua hai tay, cắp nón đứng lên: “Thôi thôi, xin quý vị ngũ hương tha lỗi. Chuyện này tôi không kiện nữa, xin huề (hòa)! Phụng, thôi về! Huề mi Phụng! Huề!”.
Sau đó cả dân làng tôi ai cũng biết chuyện. Họ gọi tôi bằng “Huề mi Phụng”. Riết rồi bỏ chữ “mi” còn gọn lại Huề PHụng. Đó là hồi còn trẻ, bây giờ về già người ta gọi ông Huề Phụng là “cái đài bờ-rép-xép”, không có chuyện gì xảy ra trong làng mà ông không biết, không “đưa tin”. Đến như chuyện thằng ổi rể nhà tôi bốc phải *** mèo mà ông còn biết nữa là! Tuy nhiên cha tôi lại nghi ngờ: “Ai biết bác ấy thật hay bịa !”. Ông bảo người anh họ: “Chuyện đâu bỏ đó nghe bác; bác chớ có “phát thanh” loang troạng ra nữa. Hay ho chi cái việc của thằng rể tôi mà nói?” . Ông bác họ tôi nói: “Thôi không nói chuyện đó nữa. Nhưng phải nói chuyện này chú thím nghe. Trong làng ta khối người biết rồi! Cái nhà thông gia của chú thím đó, vợ chồng lão giàu đâu phải nhờ chuyện đò ngang, tàu nước! Lão ta đào được một hũ vàng cạnh gốc khế ở mảnh vườn ngay bên cạnh nhà chú thím đây mà chú thím cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như bò đội nón là sao?
Cha tôi giật thót:
- ủa... ?
Huề Phụng lắc lắc đầu như ngao ngán:
- ủa chi mà ủa? Bộ chú nghĩ tôi bày đặt ra à?
Kể từ đó, cha mẹ tôi tin rằng ông thông gia của mình đào được hũ vàng thật...!
ổi lấy Nu đầu năm, cuối năm để sinh đôi được hai thằng con trai. Mụ Tô mừng hú, bận tíu tít với nàng dâu và hai thằng cháu, tự dưng chẳng ai bảo mà bỏ hẳn được cái tật ngồi lê đánh bài tứ sắc.
Thằng Quýt đậu cử nhân ở Huế xong về làng. Ông Tô Tiền nghỉ việc mấy ngà, mở tiệc ăn mừng, mời bà con trong làng đến khá đông đêr chia vui. Thằng ổi thợ lái không có mặt trong tiệc mừng đó. Hắn tham công tiếc việc, nói với cha cứ nghỉ, tàu bè để một mình hắn lo, bỏ mấy ngày uổng phí lắm. Tiệc nhà ông Tô để chia vui với hàng xóm nhưng sinh lợi rõ rệt. Mụ Tô ngồi đếm các phong bì tiền mừng thấy lời khá to. Hơn đứt cả mấy ngày chạy tàu vượt đầm phá của mấy cha con ông Tô. Mụ nói: “ Thời buổi hay thiệt! Chuyện chi cũng có thể buôn bán làm giàu được! Sướng ghê!”. Không biết thật giả ra sao, trong bữa tiệc, ông Huề Phụng rỉ tai Quýt: “Tau mới ở bến tàu bên huyện về, nhủ thằng ổi cùng đi. Hắn không về, lại nói: “ Cử nhân thì cử nhân chớ! Không có xu mẹ nào trong túi thì cử nhân cũng chỉ là cục *** mình thì thôi!” Quýt nghe, tím bầm mặt.
Mấy năm nay, thằng Quýt trở lên Huế, đánh giấy về: “Con được lệnh trên vô Đà Lạt học trường võ bị quân đội cộng hòa. Cha mẹ yên tâm, làm sỹ quan cộng hòa giờ cũng buôn bán giàu có thêm được đó!”.
... Ông Tô Tiền bỏ ra năm mươi vạn đồng gửi vô cho thằng Quýt lo lót để được về quê hương sau khi đã tốt nghiệp khóa sỹ quan. Thằng Quýt thường nhìn xa hơn, hắn làm thế nào đómà được điều ngay về trên đầm phá Tam Giang làm thuyền trưởng thủy quân lục chiến, mang lon thiếu úy, súng lục cứ xề xệ bên hông. Thế là toại nguyện. Hắn nghĩ thầm trong bụng, không hở ra với bất cứ ai, kể cả cha mẹ hắn. Hắn cũng quá biết ở làng còn có ông Huề Phụng mồm mép như cái đài bờ-rép-xép, cha mẹ hắn biết là Huề Phụng biết; Huề Phụng biết là cả làng biết, việc tính toán của hắn sẽ bại lộ. Cái gia tài khá kếch sù của cha mẹ hắn khi ông bà qua đời sẽ về tay thằng anh hắn là Ổi. Hắn phải trừ cái hậu họa này. Lại nữa, hắn vẫn găm trong lòng; một là thằng anh hắn ngu như bò, chữ nghĩa không đủ để viết cái vé thu tiền, thứ người như vậy lại là người thừa kế rủng rẻng tiền bạc ư? Hai là hắn đậu cử nhân, thằng anh mất mặt không hiện diện để mừng cho hắn, vậy có khác nào thằng anh đó không công nhận sự thành đạt của hắn?... Anh xem tôi như cục *** hay là vàng nghe! Đừng có oán!...
Một ngày kia, quân đội cộng hòa bủa vây ba bề bốn bên để bắt lính, trên từ cửa Thuận qua Trường Hà, Mai Vĩnh xuống; dưới từ cửa Tư Đồng Dương, Mỹ á lên; hai bên từ biển ái Loan Hàm Trưng và quốc look Tuồi Nong kẹp lại. Từ sáng sớm tiếng thuyền máy, tiếng súng dồn dập bắn chỉ thiên lấy uy đã rộn vang, sầm sập... Khắp cả dải đầm Thủy Tú Cỗu Hai. Thuyền trưởng thiếu úy Quýt xuất phát từ bến Thúy Vân, mở một đường đột phá xuyên chéo qua Đá Bạc, nơi tàu nhà của hắn vẫn đậu chờ hàng và khách cho thuyền về chợ ái Loan buổi trưa. Quýt đứng trên mui tàu, cũng lùn như ổi nhưng đẹp trai hơn, trắng trẻo hơn, mắt không có lông mày, đeo đôi kính mát tròn to như hai cái đĩa, súng xệ thắt lưng. Bến Đá Bạc vắng tanh bóng người. Xe lửa Đà Nẵng ra phải mười giờ. Xe đò từ Huế về cũng phải đến giờ đó. Hàng hóa đã chuyển lên hết, mọi người đi tàu nước đã chuyển ra, khách khứa đi lại, người buôn chuyến, người ra vô đều đã rời bờ hết, mỗi người một việc, một đường theo lộ trình riêng của mình. Ông Tô và con gái cũng đang yên vị trong một cái quán nào đó bên đường quốc lộ, nghỉ ngơi làm bát bún bò giò heo, nhâm nhi ly la-de, rít vài hơi thuốc thẳng. Chỉ còn ổi đang lục cục dưới tàu nơi khoang máy. Thuyền thiếu úy Quýt cặp mạn tàu. Hắn cùng với mấy người lính nhảy lên tàu, chui vô khoang. ặi vẫn vô tình dọn dẹp, quet tước . Quýt vẩy súng chỉ vào ổi: “Đó đó, thằng ni định trốn! Bắn, bắn tụi bây”. ổi ngẩng mặt leenthif mấy băng đạn của lính Quýt đã ập vỗ vào mặt vào người. ặi chỉ thoáng thấy cái mặt trắng trẻo không có lông mày và cái miệng mím mím của thằng em, không kịp kêu lên một tiếng, ngã sấp, máu xối ra đỏ bầm cả khoang tàu. Quýt thấy xong chuyện một cách gọn lẹ, vội vẫy bọn đàn em nhảy trở lại thuyền chiến, thét tên lái chạy lùng khắp nơi khác...
Ông Tô cùng cô con gái trở lại tàu chỉ con một việc là kêu trời kêu đất xong tức tốc chạy thuê một chiếc đò gắn máy với cái giá gấp đôi gấp ba chiếc đò, chở xác thằng ổi về làng chôn cất (Nếu như không vậy thì chẳng ai chở cho, vì sau khi trở xong phải đốt chiếc đò đó, bỏ tiền ra sắm chiếc khác).
Mất một người quai cọc nhất là thợ lái, tàu ông Tô phải nằm chết ở bên này gần một tháng. Ông quá đâu đớn quá buồn rầu, kêu người bán đổ bán tháo chiếc tàu, bán luôn cả mảnh đất với ngôi nhà ở bến chợ, bỏ nghề về ngôi nhà rường trong làng uống rượu say khướt từ sáng đến tối. Tỉnh rượu ngồi dậy ôm một đống tiền đi qua làng bên, vào sòng xóc đĩa. Chẳng mấy chốc tiền, vàng hết sạch, chẳng còn gì để đánh nữa. Ông Tô lại về nhà, lại say rượu suốt từ tối đến sáng. Cô Cam mấy năm liền chạy tàu không sao, giờ lên bờ, bụng cô bỗng nổi lùm lùm mỗi ngày một lớn, y như có đứa bảo tại nhà cô không có tàu nước nữa vậy! Không có đồng tiền thu vô xủng xẻng hàng ngày, mọi thứ chi tiêu đều ăn mòn dần vào số để dành cho đến kiệt quệ, con gái lại vác cái bụng chửa hoang to tướng về nhà, mụ Tô phát bện tâm thần, chửi bới, chì triết, đay nghiến không lúc nào ngớt . Chửi chồng chửi con chán, mụ bắt qua chửi đồng tiền, coi cái đồng tiền như con người để chửi. Rằng mi lad cái đồ khốn nạn, cái đồ thúi thây nhơ nhớp, không có mi khổ đã đành, có mi lại càng khổ, mi phá tán tanh bành nhà tau, mi có chết trôi sông đầm cũng chưa xứng, chết cháy, chết thui cũng chưa đủ. ông Huề Phung nghe mụ chửi, đi khắp làng để rao kể lại và bình luận: “Thế mà mụ nớ còn tỉnh táo đó chớ! Biết lôi đồng tiền ra ma chửi bới, mấy ai trong thiên hạ được như mụ!”.
Một bữa đi chợ về, con Nu vào nhà trong để vần bao thuốc lá xâu ra bán cho người buôn ở vhowj theo về, thì thấy ông Tô đã treo cổ chết bằng sợi dây dừa bó thuốc lá trên xà nhà chỗ gian thờ ông bà ông vải. Khốn khổ, họa vô đơn chí, mụ Tô trở nên điên dại thật sự, sau những ngày toàn ra ngoài đứng chửi người chửi tiền, mụ vô nhà ngồi im thin thít, cởi áo ra đếm hột nút, cứ đếm lên đếm xuống rồi lại đếm xuống đếm lên, mồm lầm rầm liên tục. Nu nhìn bà mẹ chồng, biết bà đã mất trí hoàn toàn rồi, không có cách chi cứu chữa được, cứ đứng sững nước mắt tuôn ròng ròng. Thiếu úy Quýt bên quốc lộ về chịu tang cha, nhìn mẹ nhìn chị dâu, lừ lừ như một con gấu rừng, không nói gì cả. Hình như cả làng không ai biết hắn đã diệt thằng anh. Có một người xóm dưới qua Đá Bạc hôm nào nói có tháng thấy thằng em qua chui vô khoang thằng anh rồi nghe có tiếng súng. ông Huề Phụng đến tai, tìm tới chận họng: “này chú em,chú em đâu có mục kích sở thị, phải không? Vậy thì không nên đoán mò, mà nếu có như rứa thiệt thì đó là việc anh em nhà họ thành toán lẫn nhau, không phải là việc của nhà chú em!” . Anh nọ tịt luôn. Lần đầu tiên trong đời không thấy ông Huề Phụng phát huy “Cái đài Đờ- rép – xép” của ông. Chuyện này trôi luôn vào dĩ vãng. Riêng cô Cam, trước gia cảnh khủng khiếp đó, một đêm cô tỉ tê tâm sự cùng người chị dâu: “Em nghĩ chán rồi, nhất quyết là em theo cha về dưới suối vàng. Nhục nhã quá chị ơi, chịu không thấu!”. Nu mắng: “O nói điều chi tầm bậy tầm bạ rứa? Phàn o đã vậy, còn đứa con trong bụng hắn có tội tình chi o bắt nó chết theo o?”. Rồi dỗ dành: “Nếu không muốn ở bên này nữa, chị sẽ đưa o về ở bên cha mẹ đẻ chị . Cha mẹ chị sẽ lo cho o, đừng bận tâm gì cả. Nhưng mà o đã ngủ với ai chứ? Sao không bắt hắn gánh chịu?”. Cam thút thít xoa xoa cái bụng đã to lắm, sắp đến ngày đẻ: “Hai thằng lận chị ơi, không biết đích xác của thằng nào, nhưng một thằng bên Đá Bạc chạy làng rồi!”. Nu vuốt lưng cô em chồng khốn khổ: “Còn thằng thứ hai?”. Cam nuốt nước bọt đánh ực: “Con trai thứ ông Phụng Huề đó chị ơi!”. Nu nhíu trán: “Được được, để đó chị! Thằng này là anh em họ với chị, chị sẽ nói vỗ mặt hắn ta, bắt hắn ta mở to mắt ra. Đã có gan ăn ốc phải có gan đổ vỏ chứ!” Nói làm gì, Nu chạy gặp ông bác họ. Không biết cô em gái út của tôi thắt buộc, dồn vén thế nào đó mà hai cha con Huề Phụng chịu phép. Không có đám hỏi đám cưới chi cả, chỉ là một bữa gọi là cơm thân mật giữa hai nhà với bà con họ hàng gần gũi. Anh chàng Thận nọ lấy được vợ mà không phải bỏ công sức gì. ông Huề Phụng tự bình luận chuyện của nhà ông: “Bợ được cả ổ về không tốn một đồng, như rứa cũng sướng”.
Thiếu úy Quýt trong một lần ghé nhà, đòi quyền thưa kế hưởng gia tài. Bà mẹ mấy lâu cứ im thít như câm, chỉ biết cởi áo ra đếm nút, bỗng vùng lên chửi rất tục: “cái thằng liếm l... kia, mi liếm của bàn dân thiên hạ chưa đã hay sao giờ về đây còn đòi liếm nữa? Mi cút đi mất mặt cho tau nhờ!”. Nhu nhìn thằng em chồng , bình thản nói: “Còn mẹ đẻ điên khùng của chú đây, còn hai thằng cháu mang dòng máu của anh chú đây, chú rước đi mà nuôi, gia tài cái nhà này chẳng còn chi, chỉ còn mảnh vườn và cái nhà phần chú được cả, không việc chi phải đòi. Chú rước mẹ , hai cháu đi xong tôi về nhà cha mẹ đẻ tôi ngay tắp lự”.
Quýt ngọng mồm, tức tối lột cái kính mát ra khỏi đôi mắt chẳng có sợi lông mày nào, rồi lại tức tối đeo vào, cọp cộp giày quay lưng đi thẳng. Tháng sau, nghe nói mấy chú lính biết được chuyện người bị giết ở bến tàu dạo nọ là anh ruột người ra lệnh giết, mấy chú đó như để chuộc tội, trong một dịp thuận lợi đã lôi Quýt ra một nơi vắng vẻ để hỏi tội và tặng luôn cho hắn một băng đạn vào ngực. Khác với người anh ngã sấp, Quýt ngửa người ra chết.
...Còn lại một mình. Nu vừa chăm sóc mẹ chồng già điên dại vừa thu vén góp nhặt nuôi hai đứa con sinh đôi lớn lên, kiên quyết không đi bước nữa. bà Tô mất sau ngày giải phóng miền Nam, ngày tôi từ Bắc về thăm gia đình ở làng quê.
...Mới đó mà mấy mươi năm đã trôi qua. Giờ đây hai thằng con của cô em út tôi đã tốt nghiệp đại học, ra làm việc và lấy vợ sinh con rồi...
Và Nu đã trở thành một bà già tóc trắng như bông...