Trong 17 năm viết tiểu thuyết gián điệp, tác giả đã nhận được nhiều thư của bạn đọc, nhất là giới trẻ. Gần đây, sau khi tác giả viết về sức khỏe ngày càng yếu của ông Hoàng, bạn đọc đã nêu câu hỏi "ông Hoàng còn sống được bao lâu nữa ?"
Vấn đề tuổi thọ là một trong những vấn đề trọng đại của khoa học hôm nay. Các yếu nhân lãnh đạo đều tìm mọi cách để đuổi xa Tử Thần. Cũng như C.I.A. Mỹ, MI-6 Anh quốc GRU Sô Viết và Quốc Tế Tình Báo sở Hoa Lục, sở Mật Vụ của ông Hoàng đã có một ban đặc biệt gồm các nhà bác vật về di truyền học, nhằm nghiên cứu phương pháp kéo dài tuổi thọ.
Sở dĩ con người chết non - chứ không sống 700 năm như ông Bành Tồ ngày xưa - là dọ bệnh tật. Nhiều chứng bệnh kinh hoàng đã được chữa khỏi, song vẫn còn nhiều chứng bệnh kinh hoàng khác tiếp tục hoành hành, điển hình là bệnh ung thư và bệnh tim. Sự phát minh ra thuốc trụ sinh ri-fam-py-xin vừa mang lại một tia hy vọng cho bệnh ung thư. Nhưng còn bệnh tim ? Dầu người ta đã có thể mổ tim, xoa nắn tim để hồi sinh, hoặc tháp tim, đó chỉ là bước đầu. Muốn trường sinh bất lão, khoa học phải chế ra con người mới, hoàn toàn mới. Con người bất khả xâm phạm đối với bệnh tật. Con người có khả năng tự thay thế những bộ phận già yếu, hư hỏng trong cơ thể như thể thay đồ phụ tùng xe hơi. Và là con người tuyệt đối thông minh...
* * *
Đời Sống vũ trụ đã có từ ba ngàn triệu năm. Tự nhiên, con người chỉ mới xuất hiện từ 35.000 năm trước. Tổng số sinh vật trong thái dựơng hệ, kể cả súc vật và thảo mộc, là 100 triệu loại, 98 phần trăm của tổng số này đã bị tiêu diệt. Chỉ còn lại 2 phần trăm. Và nếu con người không cố gắng vượt bực thì ngày tận thế của 2 phần trăm này cũng chẳng còn xa mấy.
Tế bào là nền móng của đời sống. Con người, súc vật, thảo mộc đều do tế bào mà ra. Điều đáng chú ý là những tế bào này lớn nhỏ không đong đều. Thân thể người ta là sự tập hợp của hơn 10 ngàn tỉ tế bào. 10 ngàn tỉ là con số kinh khủng, nếu có ngần ấy giấy bạc mà ta ngồi đếm, đếm cả ngày, cả đêm, không ăn, không uống, không nghỉ, thì đời cha, đời con, đến đời cháu, đời chắt may ra mới đếm xong. Tế bào không ngẫu nhiên mà có, nó chỉ có thể sinh sôi nẩy nở từ một tế bào khác.
Tế bào chứa bên trong chất prôtid, và bên trong chất prôtid có một acid gọi là acid desoxyribonucleic <1> gọi tắt là A.d.n. Mãi đến năm 1944, người ta mới khám phá ra A.d.n. là nguồn gốc của sự di truyền. Nói dễ hiểu hơn, nhờ A.d.n., con Rồng cháu Tiên nên dân tộc Việt không có mắt xanh, da trắng mà là mắt đen, da vàng.
Năm 1953, hai nhà bác học trẻ tuổi James s. VVatson và Francis Crick chọc thủng được màn bí mật của A.d.n. Nếu phân tố A.d.n. được phóng lớn ra hàng tỉ lần thì người ta sẽ có cảm tưởng đó là một cầu thang xoáy ốc. Và cái cầu thang xoáy ốc này chính là nơi cất giữ những kỳ lạ của cuộc sống. Tại sao trải qua 150 triệu năm dài đăng đẳng, đại dương biến thành nền mà con sò huyết vẫn giữ nguyên hình và vẫn thơm ngon không hề thay đồi ? Tại sao con cọp cái lại đẻ ra con cọp con, chứ không đẻ ra con voi con ? Và tại sao nước Việt Nam lại có những bậc anh thư như Hai Bà Trưng, những thi hào như Nguyễn Du ? Tại sao chúng ta lại có những bộ óc siêu đẳng như ông tổng giám đốc Hoàng ?
Hàng trăm nhà bác học hữu danh từ Đông sang Tây đang làm việc không ngừng để đẩy rộng cánh cửa A.d.n. huyền bí. Nhiều phòng thí nghiệm đã nuôi A.d.n. sống theọ phương pháp nhân tạo. Một thời gian nữa - chắc không xa lắm
- Người ta sẽ có thể chế tạo được hài nhi, đoạt quyền thiên nhiên. Năm 1961, Daniel Petrucci, ở Ý, đã nuôi một phôi thai nhân tạo sống đúng 59 ngày trong hộp thủy tinh. Phôi thai này do ống ấp tinh trùng đàn ông mà ra. Nỗ lực đoạt quyền thiên nhiên của Petrucci đã làm Tòa Thánh La Mã bất bình. Theo sự can thiệp của Tòa Thánh, Petrucci ngưng thí nghiệm. Nhưng đó là chuyện xảy ra từ 10 năm về trước. Và cuộc thí nghiệm của Petrucci cũng như của nhiều nhà khoa học khác như bác sĩ J.B. Gurdon (Anh quốc), bác sĩ Landrum Shetles (Hoa Kỳ)... đã được báo chí đăng tải. Nhưng còn nhiều nhà khoa học khác hoạt động kín tiếng trong phòng thí nghiệm ở sau bức màn sắt ? Nhưng còn nhiều nhà khoa học khác hoạt động kín tiếng trong tổng hành doanh C.I.A., MI-6 và sở Mật Vụ của ông Hoàng ?
Theo đà tiến bộ vượt bực của khoa học, như chương trình du hành nguyệt điện đã chứng tỏ hùng hồn, trong tương lai, người ta có thể chế tạo được siêu nhân. Chẳng hạn, lấy tế bào của tổng giám đốc công an Mỹ F.B.I. J. Edgar Hoover để chế tạo một đạo quân cảnh sát, hoặc chế tạo hàng trăm vua túc cầu Pélé, hàng trăm người đẹp... Thẩm Thúy Hằng, hàng trăm danh ca Út Trà ôn, Hùng Cường... Bác sĩ J.B.S. Haldane (Anh quốc) còn nghĩ đến cách chế tạo những phi hành gia không có chân để khỏi choán chỗ trong vũ trụ xa, lại bớt được dự trữ thực phẩm và dưỡng khí. Có nhà bác học đề nghị chế tạo óc người lớn hơn để chứa thêm não tế bào, làm thêm mắt để nhìn sau lưng, thêm ngón tay để cầm vững hơn, thậm chí bao tử nên chia làm hai ngăn (bò có bao tử 4 ngăn) để con người có thể tiêu hóa được cel-lu-lôt. Và đặc biệt là thành lập ngân hàng phụ tùng thân thể, hỏng đâu thay đó, tim đau thì thay tim, đầu bị xe hơi cán dập thì thay đồ khác....
* * *
Những điều đó không phải là huyền hoặc. Mười mấy năm trước, có ai dám nói chắc là con người sẽ lên viếng chị Hằng ?
Những điều không huyền hoặc này đã được đúc thành hồ sơ nghiên cứu tỉ mỉ, đặt trên bàn giấy của ông Hoàng. Ông tổng giám đốc già của chúng ta đã quá già, cái ngày ông ra đi vĩnh viễn cũng gần đến. Các cộng sự viên thân tín của ông đang dấn thân vào cuộc chạy đua tốc độ với kim đồng hồ... Không những ông Hoàng quá già, ông Hoàng còn mang nhiều bệnh nữa. ông bị đau tim nặng, không khéo đến phải tháp tim mới, song lối tháp tim này cũng chưa được an toàn, tốt nhất là kiếm được kỹ thuật... trường sinh bất lão.
* * *
Bộ truyện "Ba Lê... mắt biếc môi hồng" - dĩ nhiên với vai chính quen thuộc Văn Bình z.28 - kể lại những cố gắng của Sở Mật Vụ trên đường chinh phục kỹ thuật trường sinh bất lão.
Người Thứ Tám.
Ba Lê... Em là ai ?
Gọi thành phố Ba Lê, Paris, là em, không sai chút nào. Với gần 8 triệu dân, Ba Lê được đặt mỹ danh "kinh đô ánh sáng" ngay từ khi đèn điện chưa được phát minh, nhưng nhiều người quen thuộc Ba Lê - trong số 10 triệu du khách mỗi năm đến viếng - và đặc biệt người sinh sống ở đó đều đồng ý rằng sự sầm uất tân tiến với nhà chọc trời thi đua mọc như nấm, sự uy nghi của tháp Effeil, nhà thờ Notre Dame, khu Phế Binh, nơi hoàng đế Nã Phá Luân ( Napoléon) an nghĩ, Khải Hoàn Môn và đại lộ Champs Elysées, tất cả vẫn chưa thể so sánh với sự nên thơ của vườn Lục Xâm Bảo ( Luxembourg), rừng Boulogne và Vanh-xen ( Vincenne), và nhất là giòng sông Sein chia Ba Lê ra làm hai, hữu ngạn và tả ngạn, tả ngạn gồm khu La- tinh, đại học Sọt-bôn ( Sorbonne), khu thượng lưu Xanh Giéc-Manh ( Saint Germain), khu nghệ thuật Mông-pát-nát ( Montparnasse) và tháp Effeil, còn khu hữu ngạn thì có hằng hà sa số khách sạn và tiệm hàng sang trọng, đại lộ tráng lệ và bảo tàng viện lu-vơ-rơ ( Louvre).
Ba Lê là hiện thân của cái đẹp, không phải cái đẹp trừu tượng mà là cái đẹp nẩy nở có thể làm tảng băng chảy thành nước, chả thế mà gần cuối thế chiến thứ hai, quân đội quốc xã phải rút lui, Hít-le (Hitler) hạ lệnh san bằng mà tướng tư lệnh Von-Choltitz đã mê say Ba Lê mà không tuân theo.
Cái đẹp của Ba Lê là cái đẹp gợi tình, với 6.000 đường phố trai gái tha hồ hẹn hò. Mỏi chân ư ? Đã có hơn 40.000 quán ăn và tiệm nước mở cửa đón tiếp, thích hợp với mọi túi tiền, cũng như mọi mầu da. Kỹ nghệ nấu nướng của Pháp lại được liệt vào hàng ngon nhất thế giới. Thật ra, trên một vài phạm vi, Pháp có thể thua Tàu, song về khoảng ngon tinh khiết, ngon quý phái thì Pháp phải chiếm số một. Từ 50 đến 80 quan (khoảng từ bốn ngàn bạc trở lên) có thể dẫn em vào nhà hàng đờ-luých (de luxe), và đố ai đã từng cầm muỗng nĩa ở Grand Vefour, ở Maxim's, ở Ritz, ở Tháp Bạc (Tour d'Argent) mà không tương tư Ba Lê khi trở về với... bà xã. Vả lại, cũng chẳng cần có nhiều tiền mới được ăn ngon. Ba Lê còn có những tiệm trung lưu và bình dân mà khẩu cái khó tính nhất cũng vừa ý.
Ăn xong, muốn nghỉ ngơi một lát - ấy, người Ba Lê thường ngủ 2 giờ buổi trưa, họ cũng yêu nhau sau giờ ăn trưa - thì hơn 6.000 khách sạn, lữ điếm luôn luôn mở cửa. Một trong các đặc điểm là phòng ngủ thuê giờ, khỏi cần ghi tên, giành cho những cuộc hẹn hò gấp rút. Trong trường hợp du khách không có giai nhân, thì Ba Lê sẵn sàng cung ứng. Bạn đọc có biết Ba Lê nuôi bao nhiêu "chị em ta" không ?
Xin thưa, trên dưới 120.000.
Bạn đọc không sợ thiếu phương tiện di chuyển vì Ba Lê có khoảng 2 triệu xe hơi và 150.000 tắc-xi. Em bé đậu xe dưới bóng cây mát để rước khách. Một cặp trai gái ngồi chờ trong xe. Cặp thứ nhì đậu xe phía sau. Rồi bóp mấy tiếng kèn. Luật lệ lưu thông ở Ba Lê cấm dùng kèn. Nhưng trai gái đã có lối dùng riêng. Hễ xe phía trước bóp kèn đáp lại là hai bên đổi nhau, chàng này sánh vai với nàng kia. Ôi thôi, đó mới là một trong hàng chục, hàng trăm điều mắt thấy tai nghe ở Ba Lê, nếu muốn nói hết phải viết mỏi tay.
Ba Lê được chia làm 20 quận. Quận nào cũng giống quận nào, nghĩa là đàn bà nhiều hơn đàn ông, và đàn bà chỉ giỏi ái tình. Phải là ông già tu sắp thành chánh quả may ra ghé Ba Lê mới nằm lì trong phòng, không thuê xe xuống Mông-mác (Monmartre), Pi-gan (Pigale), nghĩa là những thiên đường hồng lâu, thanh lâu có một không hai trên trái đất. Chu choa... đã có nhiều ông già cùng vợ đến Ba Lê, song để vợ lại khách sạn, nói là tạt qua đại bảo tàng viện Lu-vơ-rơ để chiêm ngưỡng những bức tượng được đèn chiếu sáng như sao sa. Bảo tàng viện này mở cửa từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều, riêng thứ sáu mở đến 10 giờ đêm và có đèn, ngày thứ ba hoàn toàn đóng cửa. Ấy thế có những ông già du khách nói dối vợ đến bảo tàng viện vào đêm thứ ba... Bạn đọc biết không, chẳng qua trong khu vực này có 2 con đường bất hủ, đường Hônôrê ( Honoré) bán hàng hóa đắt tiền, và cũng bán... gái đẹp đắt tiền...
Đại hí viện Opéra cũng là nơi "số dách", mặt ngoài toàn là tác phẩm điêu khắc trứ danh, bên trong với cầu thang cẩm thạch trắng với những bộ đèn cồ bằng pha lê, du khách bước vào như lạc vào trong động tiên. Thật vậy, từ Đông sang Tây, chưa có hý viện nào rộng bằng và sang bằng Opéra. Bất cứ chàng khách quốc tế nào đến Ba Lê cũng không quên giành thời giờ cho đại hí viện Opéra. Tuy nhiên, một số chánh khách (số này khá đông đấy nhé !) lại chỉ mượn cớ đi xem hí viện, nhưng là để đậu xe ở gần đó, và lội bộ lại đường Cô-mạc-tanh , một xóm yêu hoa không lấy gì làm đắt tiền mà hoa biết nói lại khá thơm tho.
* * *
Ba Lê là như vậy, z.28 là điệp viên đa tình nên không lẽ không cho phép đến Ba Lê. Văn Bình đã làm quen với bạn đọc từ 17 năm nay, từng ghé Ba Lê như đi chợ, nhưng Người Thứ Tám đã cố ý không nhắc nhở.
* * *
Hôm nay, sở Mật Vụ muốn z.28 lục lạo khắp kinh đô ánh sáng để kiếm phép trường sinh bất lão. Chuột sa Chĩnh gạo, z.28 vội lên đường ngay, sợ chùng chình, Sàigòn đồi ý kiến thì hỏng bét.
Người Thứ Tám cũng vội lại bàn máy chữ, ghi lên giấy trắng cuộc phiêu lưu hồng của Văn Bình z.28.
Trân trọng kính mời bạn đọc...
Văn Bình áp ống nghe vào tai. Điện thoại kêu ro ro làm chàng đói bụng thêm. Từ lúc đặt chân xuống thành phố Ba Lê mưa rơi lành lạnh đến giờ, chàng chưa có phút nào rỗi rải để phụng sự thần khẩu. Phi cơ vừa hạ cánh thì thót ra tắc-xi, phóng thẳng một mạch về khách sạn. Khách sạn 4 ngôi sao thuộc loại nhất hạng, phòng nào cũng có điện thoại, chỉ nhấc lên là người đẹp quay số giùm, khỏi cần phí phạm sức lao động, nhưng chỉ thị của sở - những chỉ thị luôn luôn lố bịch một cách đáng ghét - lại không cho phép chàng dùng điện thoại qua tổng đài. Chàng phải đội mưa ra đường, leo tắc-xi đến gần một ngã tư, rẽ vào tiệm bán thuốc lá mua gói Salem và cái giơ-tông (jeton).
Một phật-lăng(francs) mua được hai giơ-tông <2> té ra Sàigòn đã đắt, Ba Lê lại đắt hơn nhiều. Văn Bình cảm thấy kiêu hãnh khi nghe đường dây câm lặng mấy phút đồng hồ dài đăng đẳng rồi mới phát ra tiếng "cụp" quen thuộc. Chàng vừa kiêu hãnh giùm cho các cô điện thoại ở Sàigòn. Thiên hạ thường chê điện thoại Sàigòn bết bát, sự thật là điện thoại của kinh đô ánh sáng còn bết bát gấp mấy.
Chàng đang mải nhớ Sàigòn, nhớ những cô gái giữ tổng đài trong các đại lữ quán, và công tư sở xinh như mộng, nhưng cô gái làm việc tại tổng nha Bưu Điện có giọng nói ngọt như mía lùi, nên quên bẵng cả alô như thường lệ. Từ đầu dây, người lạ đã alô trước.
Đang bị đàn kiến vô hình rỉa cắn bao tử, Vặn Bình bỗng no nê, tinh thần sảng khoái. Vì người lên tiếng trả lời là đàn bà. Giọng nói thánh thót như đàn dương cầm. Và chắc nàng còn trẻ :
- Anh hả ? Anh yêu của em hả ?
Chết rồi.... chàng mới biết số điện thoại này và mới quay gọi lần đầu tiên, chàng chưa hề gặp người đối thoại, vả lại đương sự là gái Pháp chính cống nên không thể biết được z.28 là cha căng chú kiết nào. Tại sao giai nhân lại gọi chàng là "anh yêu của em ?"
Giọng nói lưu loát tiếp theo :
- Em chờ anh mãi, giờ này anh mới kêu. Anh lấy phòng ở hotel nào ? Phòng số mấy ?
Dĩ nhiên Văn Bình không được phép tiết lộ chỗ ở dầu chỉ là chỗ ở tạm thời. Chàng bèn nói ám ngữ :
- Tôi vừa ở Ba Lan tới, tôi...
Cô gái trong điện thoại đã cắt đứt mật khẩu bằng giọng ưỡn ẹo, cái ưỡn ẹo làm đứng tim của vũ nữ thoát y chuyên nghiệp :
- Anh từ đâu đến, em không cần biết. Hôm nay, trời khá lạnh, lại có mưa lất phất, người sinh trưởng ở Ba Lê cũng chịu không nổi, huống hồ anh là du khách. Nào, đừng ỡm ờ mất thời giờ vô bổ nữa, anh lấy phòng ở ô-ten nào, phòng số mấy ?
Chàng đáp bừa :
- Bờ-rít-tôn.
Bờ-rít-tôn là một trong các đại lữ quán ở Ba Lê, tiền phòng từ 130 đến 205 phật-lăng mỗi ngày, phải là ông bự có trương mục gồm từ 6 dêrô trở lên ở ngân hàng Thụy Sĩ mới dám léo hánh tới. Mỗi chuyến ghé Ba Lê, Văn Bình thường đến một khách sạn mới, tuy nhiên chàng khoái đến Bờ-rít-tôn vì nơi này đối với chàng có khá nhiều kỷ nịệm. Dĩ nhiên, chàng có kỷ niệm suốt đời không quên với một vài nhân viên mắt biếc, mũi lõ, cặp giò cao tồng ngồng. Nhưng kỷ niệm hằn sâu nhất là những phút, những giờ thần tiên tột đỉnh chàng sống với một nữ bá tước có sức làm tình vô tận tình cờ chàng gặp trên đường thánh Hônôrê, đường của lữ quán thượng thặng Bờ-rít-tôn.
Cô gái điện thoại ré lên cười:
- Ông ơi, ông xạo vừa vừa chứ ! ông biết số điện thoại và gọi cho tôi, tất ông phải biết giá biểu làm việc của tôi. Bọn tôi ở đây có tổ chức đàng hoàng, quận nào ở quận nấy, không xâm nhập giang sơn của người khác. Thời giờ eo hẹp lắm, cứ vờ vỉnh như thế này thì đến nữa đêm vẫn chưa thảo luận xong. Thế nào, hoàng tử của lòng em, 32 phật-lăng chưa kể tiền cuốc tắc-xi, chịu không ? Chịu đi, em sẽ đến trong vòng nửa giờ đồng hồ.
Chết rồi, Văn Bình đã quay lầm số. ở cái thị trấn quốc tế người đông nhung nhúc như kiến cỏ này với hơn năm trăm ngàn máy điện thoại thì quay lầm số là chuyện thường. Định mạng thất đức đã khiến chàng rơi đúng số điện thoại của một côn-gớt <3> gái gọi. Loại gái gọi này có đến cả vạn ở Ba Lê (Sàigòn cũng chẳng hiếm đâu nhé, theo tin tức riêng của z.28 thì có đến ba trăm, ba trăm có nơi ăn chốn ở chững chạc và số dây nói oai vệ...), giá biểu hành nghề tùy khu vực và tùy sự giới thiệu. Nếu ở khu chợ trung ương hoặc ra đến gần ngoại ô thì giá biểu không cao hơn giá biểu Gò Vấp là mấy, nhưng coi chừng... ở khu hữu ngạn, kế cận đại lộ Champs Elysées, con đường huyết mạch của thành phố thì gấp ba, gấp bốn, hoặc đôi khi cả chục lần là cái chắc.
Lẽ ra, quay lầm số của gái gọi, Văn Bình phải cúp. Một cậu bé cũng biết cách gián đoạn điện đàm. Chỉ đặt máy vào gìá rồi đút cái giơ-tông khác vào khe là xong. Nhưng chẳng hiểu sao khi ấy chàng lại quên cả phương pháp cúp giây nói. Chàng cứ thích nghe thêm nửa. Bỗng dưng chàng đâm ra tiếc tiền. Tiếc nửa phật-lăng bỏ ra hồi nảy để mua giơ-tông. Chàng tiếc một số tiền tương đương với ba, bốn chục bạc Việt-Nam, trong khi điệp vụ chàng đang có bổn phận thực hiện có thể mang về cho sở xoàng ra từ 500 triệu đến 800 triệu.
Nói cho đúng, chàng không hề biết tiếc tiền. Chẳng qua bệnh hảo ngọt bắt chàng tiếc... món quà trời ơi, đất hỡi. Chàng cũng cười họa theo :
- Tại sao em không đòi 30 hoặc 20 cho nó chẵn mà lại ra giá 32 phật-lăng ?
Cô gái đáp ngay :
- Anh cù lần lắm. sở dĩ em xin anh 32 là vì má em vừa xài hết của em 32 phật-lăng. Bà ấy mới 35, 36 tuổi nên ngày nào cũng đi xi nê và chải tóc. Hên cho anh, chứ có ngày bà ấy tiêu đến trăm phật-lăng. Em có cái tính kỳ lạ, má em cần bao nhiêu thì em làm bấy nhiêu. Tuy chưa giáp mặt anh nhưng em đoán anh đẹp trai nên châm chước cho anh, em mà tính thêm tiền buộc-boa cho bồi phòng nữa thì anh sẽ nghẹn thở. Em đến liền nhé ?
Văn Bình thè lưỡi liếm mép. Đúng như lời cô gái gọi, trời teng teng và lất phất mưa rét như thế này, được du dương trong phòng sưởi ấm với người đẹp Ba Lê thì sướng hơn Lưu Nguyễn ngày xưa. Nhưng chàng không thể hẹn hò. Dầu cô gái mới 15, 16 chàng cũng không dám. Vì chỉ thị của sở đã nói dứt khoát "sau khi đến nơi, phải kêu điện thoại ngay cho giáo sư Nguyễn Phước Bửu Khoa".
Tuy tiếc rẻ, chàng vẫn phải hạ máy. Cửa ca-bin điện thoại mở hé, hơi lạnh sông Sein ùa vào làm da thịt chàng cóng buốt. Kể ra, mùa đông chưa tới, thời tiết chưa có gì là lạnh, bằng chứng là đàn bà sồn sồn - nghĩa là hết khả năng hỏa diệm sơn, cởi trần đi giữa băng tuyết mà da thịt vẫn nóng hôi hổi - còn mặc đồ ngắn tay. Thế mà điệp viên z.28 mới trên ba mươi lại lạnh phát run.
Xa xa, những cụm hoa đủ màu sặc sở nổi bật trên nền lá xánh dưới bầu trời xế chiều không nắng.
Văn Bình sực nhớ đang ở tả ngạn, ở khu vực cổ xưa nhất thành phố, khu vực Thị-đảo <4>. Những đốm xanh đỏ trắng tím vàng trước mặt chàng là Chợ Hoa <5>. Ba Lê có nhiều nơi bán hoa song đây là chợ hoa lớn nhất. Chàng đến nơi đúng buổi chiều thứ bẩy, nếu là chủ nhật thì trong tiếng xe cộ lưu thông, tiếng rì rầm của giòng sông, tiếng người cười nói, chàng có thể nghe tiếng chim hót, vì ngày chủ nhật, Chợ Hoa biến thành Chợ Chim vào buổi chiều. Và phía sau ca-bin điện thoại là khối nhà ảm đạm xám xịt của bệnh viện thành phố, đi thêm một quãng nữa là đến nhà thờ Chánh Tòa <6>, giáo đường hùng vĩ và tráng lệ mà bất cứ du khách ngoại quốc nào cũng ráng trèo đủ 387 bậc để lên đỉnh tháp hầu có thể nhìn thấy toàn diện thành phố.
Văn Bình chắc lưỡi, cúi đầu xuống máy điện thoại. Chàng là con người sắt đá nhưng khi cần lại đa sầu đa cảm hơn cả nhà thơ lãng mạn nữa. Chiều thứ bảy là chiều thần tiên nhất trong tuần, thiên hạ chỉ nghĩ đến ái tình trong khi chàng phải lao đầu vào công tác hiểm nghèo, xa quê hương, xa những hình bóng thương mến.
Điện thoại gồm 7 số, lần này chàng quay từ từ, vì chàng chỉ có hai giơ-tông, nếu gọi lộn, chàng phải mất thời giờ đổi tiền mua cái khác. May thay, chàng khỏi phải đợi lâu, chàng vừa vừa hỏi "alô, có phải văn phòng bác sĩ Nguyễn Phước Bửu Khoa không" thì có tiếng trả lời ngay. Chàng hỏi bằng tiếng Pháp và cũng được trả lời bằng tiếng Pháp êm ái. Dĩ nhiên, người trả lời là đàn bà. Chàng nói luôn một hơi:
- Tôi vừa ở Ba Lan tới, cách đây 3 tuần tôi đã nhận được thư của giáo sư, hiện tôi đang ở tạm nhà quen ở khu Mông-mác.
Mật khẩu khá dài này gồm 4 chữ "Ba Lan, 3 tuần, thư riêng và Mông-mác". Chàng nghe hai ba tiếng dạ liên tiếp rồi giọng nói êm ái quen thuộc lại cất lên :
- Xin ông chờ một phút, để tôi liên lạc với giáo sư.
Người đẹp dặn một phút nhưng trên thực tế, đường dây câm lặng hơn ba phút dài giằng giặc. Rồi Văn Bình nghe giọng người đàn ông. Người Quảng chính cống. Giọng của giáo sư Bửu Khoa. Và chàng định thần mới nghe được rõ vì giọng nói này quá nhỏ, hơn nữa, một đoàn xe hơi vừa chạy qua rầm rầm.
- Nguyễn Phước Bửu Khoa là tôi đây. Hân hạnh được ông gọi điện thoại, ông thuộc đường trong thành phố không ? Chàng đáp :
- Cũng khá. Đường nào không biết thì nhờ tài xế tắc-xi.
- Đường tôi sắp hẹn với ông không đến nỗi khó lắm đâu. Tôi chắc ông đã qua đó nhiều lần. ông biết đường Đồng Hồ dọc tả ngạn không ?
Đường Đồng Hồ, quai de 1Horloge chỉ cách ca-bin điện thoại chàng đang nói và Chợ Hoa một quảng đường ngắn. Bửu Khoa lại hỏi:
- Ông cũng biết công trường Đô-phin chứ ?
- Biết.
- Bây giờ là 16 giờ 24. Không, tôi lầm, đồng hồ tôi bị chậm 2 phút. Bây giờ là 16 giờ 26 phút. Đúng 17 giờ, nghĩa là đúng 5 giờ chiều nay, sẽ có xe hơi của tôi đến đón ông ở công trường Đô-phin, ông nhớ nhé, công trường Đô-phin nhưng là về phía đường Đồng Hồ. Thôi, chào ông. ông cần hỏi thêm điều gì nữa không ?
- Cần. Đón bằng xe gì ?
- À, xin lỗi, tôi đãng trí quên khuấy. Đó bằng xe 204 mui trần, màu đỏ, bảng số... Và người đón là...
- Biết rồi. Là cô thư ký vừa gọi điện thoại cho tôi.
- Ông tài thật. Vâng, tôi có 2 nữ thư ký, một Việt, một Pháp. Cô người Pháp sẽ đích thân lái xe đón ông. ông phải có mặt đúng giờ đấy, tôi bận lắm.
Văn Bình mở cửa ca-bin điện thoại bước ra đường. Chàng đang dưỡng sức trên bãi biển Busum thì tòa đại sứ từ Bonn gọi đến, yêu cầu về Ba Lê gấp. Busum là một trong hai trung tâm nghỉ mát nổi danh ở Tây Đức. Đặc điểm của Busum là sự hiện diện của những thanh niên khôi ngô sẵn sàng làm bạn với đàn bà cô đơn. Chàng lưu lại ba tuần lễ, và trong thời gian xả hơi này, chàng không bỏ lỡ cơ hội làm quen thật nhiều và hưởng thụ thật nhiều. Nhưng ngày nào cũng ăn một món đàn bà Đức thành nhàm chán, Văn Bình mong được ông Hoàng gọi về. Và ông Hoàng đã nhờ sứ quán liên lạc với chàng ...
Mọi lần đã qua, ông Hoàng quái ác chỉ rình những lúc chàng sánh vai với giai nhân mới kêu chàng đến trình diện để nhận điệp vụ. Bởi vậy mọi lần đã qua chàng đều oán ông tổng giám đốc.
Ngoại trừ lần này.
Lệnh của sở được gởi đến giữa lúc chàng đã ngấy bãi biển Busum. Giá sở quên gọi, chàng cũng khăn gói quả mướp trèo lên chuyến phi cơ gần nhất để vù tới kinh đô ánh sáng. Chàng không oán, chàng còn phải cám ơn ông tổng giám đốc nữa là khác.
Vả lại, cho dầu ông Hoàng lại giở trò phá đám Văn Bình cũng không dám oán. Vì chàng được tin ông đau nặng. Từ mấy năm nay, ông đau hoài. Hết tim đến ruột. Khỏi khan cổ thì phổi lại réo thuốc. Các bệnh có vi trùng được chữa khỏi thì đến phiên bệnh không vi trùng thi đua hoành hành. Đúng như các vị y sĩ riêng tiên liệu, ông Hoàng khó thể giữ chức tổng giám đốc đến già. Sự lo nghĩ, và những bệnh của thời hoạt động giang hồ xưa kia còn sót lại đã làm ông già trước tuổi. Hai tuần trước, chàng nghe nói ông bị mệt, suýt mê man, phải chở vào bệnh xá đặc biệt của sở, và nằm 72 giờ đồng hồ trong phòng lạnh dưới sự chăm sóc cẩn mật của một nhóm bác sĩ chuyên khoa. Chàng muốn về thăm ông song không được phép. Công việc ở nhà mà ông Hoàng gọi đùa là "đi chợ và nấu nướng" được giao một phần cho Triệu Dung với sự cộng tác của chàng "sếu vườn" Lê Diệp và nữ bí thư "không bao giờ lấy chồng" Nguyên Hương, còn công việc xông pha hòn tên mũi đạn "công việc kiếm tiền nuôi vợ con" chỉ có Văn Bình mới đảm nhiệm nổi. ông Hoàng thường dặn chàng "anh phải cố gắng xoay cho thật nhiều tiền", sở có thật nhiều tiền thì mới đủ khả năng tồn tại và tôi mới có thể bình thản nhắm mắt.
Ông Hoàng muốn ra đi trong sự thoải mái, để công việc lại cho các cộng sự viên mà ông mất bao tâm cơ huấn luyện, chuẩn bị mọi mặt, song họ lại không muốn ông ra đi. Họ muốn ông ở lại với họ. Con người không ai sống mãi, họ biết ông Hoàng sẽ phải ra đi, nên họ tìm cách kéo dài thời gian ông Hoàng còn sống trên cõi thế. Kéo dài bằng thuốc men. Kéọ dài bằng những phát minh khoa học kỳ lạ. Gần đây họ dồn nỗ lực vào công cuộc nghiên cứu di truyền học để tiến đến cải lão hoàn đồng.
Trước ngày lên đường chàng không được giáp mặt ông tổng giám đốc. Vì ông còn nằm bệnh viện. Đây là một ngoại lệ, vì sau bao năm hoạt động dưới quyền ông, Văn Bình đều nhận mệnh lệnh của ông, ngay cả những lần ông liệt giường, ông cũng kêu chàng vào tận nơi. Tuy chàng không nói ra, nhưng trong thâm tâm chàng luôn luôn nghĩ rằng sự có mặt của ông Hoàng giúp chàng gia tăng sức mạnh tinh thận và thể chất để hoàn thành công tác. Hôm ấy chàng chỉ đưọc gặp Triệu Dung, người được ông Hoàng chọn để kế chức, Triệu Dung có bộ mặt buồn như đưa đám
- Ông cụ đang ở phòng mổ không trò truyện được với anh. Nghe nói anh đi, ông cụ yêu cầu y sĩ hoãn lại cuộc giải phẫu song họ không chịu. Chắc anh đã biết tình trạng ông Hoàng mỗi ngày một tệ. Trong thời gian anh đi vắng, chúng tôi đã bàn luận với nhau và đều đồng ý tập trung nỗ lực vào kế hoạch DT-44. DT là chữ di truyền viết tắt, nội dung của kế hoạch này là đẩy mạnh công cuộc khám phá về di truyền học.
Văn Bình thắc mắc về "sự liên quan giữa bệnh già của ông Hoàng và kế hoạch DT-44 nghiên cứu di truyền học" thì "Anh cả" Triệu Dung, cộng sự viên nổi danh chính chắn nhất sở, nói tiếp :
- Vì di truyền học là con đường ngắn nhất dẫn đến bí quyết cải lão hoàn đồng, trường sinh bất lão. Theo những tin tức xác thực, chúng ta có thể làm ông Hoàng trẻ lại, và nhờ vậy, ông Hoàng sẽ sống ít nhất trên trăm tuổi. Và biết đâu sẽ sống hai, ba trăm tuổi, đồng thời để giữ cho một bộ óc siêu việt độc nhất vô nhị như ông Hoàng khỏi bị mai một oan uổng, chúng ta sẽ tiến tới chế tạo hàng chục, hàng trăm ông Hoàng khác.
Văn Bình khựng người:
- Nghĩa là lấy tinh trùng cấy cho sống rồi nuôi trong ống nghiệm thành hài nhi ?
Triệu Dung giải thích :
- Đó là phương pháp cũ. Phương pháp này e không thích hợp với tuổi tác của ông Hoàng nữa. Vì ông cụ đã quá già, chắc... tinh trùng không còn nữa, hoặc nếu còn thì cũng yếu xìu. Phương pháp mới giản dị mà tao bạo hơn nhiều, ấy là lấy một số tế bào tốt của ông cụ đem nuôi, nuôi rồi chích cho người khác. Người chích sẽ thừa hưởng sự thông minh quán thế của ông cụ.
- Úi chao, tôi không đến nỗi ngu dốt, nhưng khi nghe anh nói tôi trở thành đệ nhất ngu dốt.
- Tôi cũng chẳng hơn gì anh. Chẳng qua, mấy ông bác học trong sở thuyết trình và tôi nghe lỏm đựợc. sở dĩ tôi nói về kế hoạch di truyền học với anh là vì trong tương lai gần, tôi nghĩ rằng anh sẽ giữ một vai trò quyết định. Hiện nay, các nhà khoa học di truyền của sở và phòng thí nghiệm tại Gò vấp, chừng nào anh trở về, tôi sẽ dẫn anh đến thăm. Vì di truyền học là một bộ môn mới, tế nhị và khó khăn nên sở còn thiếu rất nhiều chuyên viên, và bắt buộc phải thu hút tài năng ngoại quốc.
- Ha ha... tôi sắp được qua Mạc-Tư-Khoa ăn caviar và uống vốt-ka rồi ?
- Không, anh sẽ không qua Liên Sô. Tôi biết anh khoái qua đó chẳng phải vì caviar và vốt-ka mà vì đàn bà Nga khá ngon lành. GRU cũng đặt vấn đề khám phá di truyền học lên hàng đầu, nhưng họ chưa có chuyên viên nổi bật. Họ cũng đang lo tìm kiếm chuyên viên di trùng học như sở mình. Gần đây, nghe nói nước Cộng sản Nam Tư có một nhà di truyền học cự phách nên thái độ của Liên Sô đối với nước này cũng đổi khác. Tên ông ta là Tôlan.
- Anh muốn tôi chộp Tôlan mang về ?
- Khó lắm. Nếu dễ, GRU đã ra tay trước chúng ta. Vả lại, trong trường hợp tóm được Tôlan mà hắn không chịu hợp tác thì cũng vô ích.
- Vậy anh muốn tôi làm gì ?
- Thú thật với anh, tôi cũng chưa biết anh phải làm gì, và chúng ta phải làm gì nữa, mặc dầu mục đích của chúng ta là tìm mọi cách chiếm hữu được Tôlan và chiếm hữu được sự hợp tác của hắn. Tôi chỉ biết là ông Hoàng giao cho giáo sư Nguyễn Phước Bửu Khoa, hiện ở Ba Lê công việc móc nối với Tôlan và thuyết phục hắn bỏ sang Tây phương.
- Công việc móc nối và thuyết phục này đã đi tới đâu ?
- Anh sẽ tiếp xúc với Bửu Khoa.
- Tại Ba Lê ?
- Phải.
- Chừng nào ?
- Chưa rõ. Sau khi anh đi, tôi sẽ hỏi ông Hoàng thêm chi tiết.
- Bửu Khoa là thành phần tin cậy ?
- Thành phần A. Ông Hoàng rất mến ông ta. Bửu Khoa cũng là chuyên viên hữu hạng về di truyền học. Song vì những lý do mà tôi chưa biết, ông ta không chịu hồi hương. Bửu Khoa chỉ nhận lời thay mặt sở để mời Tôlan. Hễ có tin tức mới, tôi sẽ yêu cầu tòa đại sứ tại Bonn chuyển cho anh, và như thường lệ bằng mật mã đặc biệt, chỉ riêng anh đọc nổi.
- Nguyễn Phước Bửu Khoa độ bao nhiêu tuổi ?
- Hồ sơ về Bửu Khoa nằm trong tủ sắt của ông Hoàng. Nếu anh cần, tôi sẽ gởi sau cho anh.
- Khỏi gửi. Đến đó hãy hay.
"Đến đó hãy hay", Văn Bình đinh ninh phải đợi nhiều tuần, có khi nhiều tháng liền nên không muốn làm mệt trí nhớ. Nhưng tên Nguyễn Phước Bửu Khoa đã xuất hiện trong bức mật điện gửi qua sứ quán. Chàng phải đích thân gặp Bửu Khoa để bàn về việc lôi kéo giáo sư di truyền học Tôlan.
Nguyễn Phước Bửu Khoa?
Văn Bình lui tới Ba Lê như đi chợ và đã quen tên, biết mặt các cộng sự viên của ông Hoàng tại đây, song chưa hề nghe nói đến giáo sư Bửu Khoa. Chàng gặp hắn về vụ Tôlan, nhưng vụ Tôlan diễn tiến tới đâu, chàng hoàn toàn mù tịt. Triệu Dung chỉ đảm bảọ với chàng trong bức mật điện là chàng "có thể tin cậy Bửu Khoa trăm phần trăm, tuy nhiên chỉ được phép gặp hắn một lần mà thôi, còn về thực hiện kế hoạch thì phải đơn phương hành động".
Khi ấy Văn Bình đã qua hết Chợ Hoa và quẹo trái sang đường Lutèce. Đường một chiều, xe hơi phóng nhanh mặc dầu sở cảnh sát thành phố và nhà thương ở gần kề mà Văn Bình bước ngơ ngơ nên suýt nữa chàng phải lắp chân gỗ. Môt chiếc xe đua chạy áp bên hông, chàng vội co cẳng nhảy lên lề. Tài xế, một cô gái choai choai, tóc vàng chấm vai giơ tay ra vẫy.
Cuối đường này là một đại lộ, gọi là đơờng Tòa Án. Trước mặt chàng, một ngôi giáo đường cổ xưa đứng sừng sững. Chàng rẽ bên phải ra đường Đồng Hồ. Bên kia đường là sông Sein nước cuộn trong xanh. Và bên này là đề lao cũ. Bất cứ du khách nào đến Ba Lê cũng đều đến khu đề lao cũ vì ngày xửa ngày xưa các tử tù thường bị nhốt bên trong trước khi ra pháp trường. Nhiều đàn bà đẹp đã mất đầu dưới máy chém trong những ngày cách mạng sôi bỏng. Hồi hoạt động cho đồng minh, cuối thế chiến thứ hai, Văn Bình hay đến khu đề lao cũ để lãnh chỉ thị. Người đại diện o.s.s. giao công tác cho chàng là một thiếu phụ mắt biếc, môi hồng. Thiếu phụ, vì nàng có chồng, có con đàng hoàng, chứ không phải vì nàng lớn tuổi. Thật ra nàng lớn hơn chàng một con giáp mà diện mạọ và thân hình còn trẻ măng. Giờ hẹn thường diễn ra buổi tối, hai người giả vờ làm đôi tình nhân ôm lưng nhau, mỗi lần qua khu đề lao cũ nàng đều run như cây sấy. Thoạt tiên chàng tưởng nàng sợ. Mãi sau này chàng mới khám phá ra nàng còn can đảm hơn cả đàn ông, sở dĩ nàng run như cầy sấy vì nàng thấy lờ mờ trong bóng đêm những thủ cấp đàn bà đẹp máu me lênh láng <8>.
Bỗng dưng hôm nay Văn Bình rùng mình. Trời mới ngã chiều, mưa bụi đã hết, thời tiết sang thu khá đẹp, vậy mà khu đề lao cũ lại tiêu điều và bí mật khác thường.
Chàng vội rảo bước. Qua khỏi Tòa Án là đến công trường Đô-phin. Công trường này nằm giữa thành phố, song lại không đông đúc và ồn ào. Chàng liếc cườm tay. Còn 3 phút nữa mới tới 5 giờ. Bửu Khoa đã nhắc đi nhắc lại "đúng 5 giờ, không chậm cũng không nhanh phút nào . Chàng có cảm tưởng Bửu Khoa mắc cái bệnh đúng giờ, đúng phút, đúng giây của giới đi khuya về tắt. Chàng mắc bệnh này từ nhiều năm nay nên lắm lúc cuộc sống nhạt loãng mất thi vị. Đàn bà ghét nhất trong cơn hò hẹn đầy mộng đẹp đàn ông luôn luôn coi giờ. Chàng muốn chừa thói quen coi giờ, song căn bệnh mỗi ngày một ăn sâu vào tiềm thức.
Kém một phút đầy 5 giờ. Đường Đồng Hồ cũng lưu thông một chiều nên cô thơ ký của Nguyễn Phước Bửu Khoa phải lái xe từ Chợ Hoa đến. Nàng lái xe 204 mui trần, màu đò, chàng không thể nào lầm được.
Xe cộ vượt qua mặt chàng nhưng chàng không thấy chiếc nào màu đỏ mui trần, và không chiếc nào dừng lại, đậu vào lề, tuy kim đồng hồ trên cườm tay chàng đã chỉ đúng 5 giờ rồi từ từ nhích sang bên trái, 5 giờ 2 phút. Rồi 5 giờ 5 phút.
Chàng nóng ruột khác thường. Chắc cô gái đã gặp sự trục trặc. Hẹn hò trong những thị trấn lớn thường xảy ra những trở ngại bất ngờ, một giãy đèn lưu thông luôn luôn vàng đỏ, một hồi xíp-lê cảnh sát đòi xét giấy tờ hoặc đòi biên phạt chạy quá tốc độ ấn định, hoặc bể ống dầu thắng, sợi dây cu-roa chờ đến phút chót thì đứt phựt và vỏ lốp mới tinh hảo đột nhiên xẹp lép... Bởi vậy những người làm nghề điệp báo phải đi sớm hơn nửa giờ hoặc cả giờ... Cô gái lái xe 204 chắc cũng đi sớm. Tại sao giờ này nàng chưa tới ?
Giác quan thứ sáu của chàng đánh hơi thấy chuyện bất tường. Tuy vậy chàng vẫn phải đợi. Chàng sẽ đợi đến 5 giờ 15 hoặc 20?.. Nếu nàng không tới, chàng sẽ điện thoại lần nữa cho Nguyễn Phước Bửu Khoa.
Nhưng chiếc PỜ-DÔ( Peugeot) 204 đỏ chói đã từ đường Tòa Án quẹo ra bờ sông. Tài xế phóng nhanh như đang lái xe Hồng Thập Tự chở bệnh nhân cấp cứu. Đến nơi chàng đứng, chiếc 204 mui vải thắng lại. Tuy là xe mui trần nhưng mui lại được kéo lên. Người ta sắm xe mui trần, tốn thêm một mớ tiền, là để hưởng gió sông Sein. Ba Lê đầy nghẹt hơi người và bụi bặm, được thở gió sông không phải là chuyện chơi.
Trời chiều tắt nắng, cô gái do gián điệp Bửu Khoa cử đến, lại kéo mui kín mít để làm gì ?
Văn Bình không cần đặt câu hỏi vì chàng đã hiểu bằng linh tính. Tiếp sau chiếc 204 sơn đỏ là chiếc DS thấp lè tè. Nó đậu sát cốp xe 204, suýt nữa đâm vào cảng, cửa xe DS sơn đen mở tung.
Nhanh như rô-bô điện tử, Văn Bình phóng nhanh ngọn độc cước.
Chú thích:
1. Di truyền học là một khoa học lớn, muốn giải thích thông suốt phải mất nhiều thời giờ, mà bạn đọc chỉ có thời giờ đọc truyện giải trí nên tác giả mạn phép không đi vào chi tiết. Tác giả tin rằng bạn đọc sành khoa học đã sẵn sàng lượng thứ.
2. Giơ-tông (jeton) được bán tại bưu điện hoặc trạm xe điện ngầm, 0,40 phật-lăng một cái, ở các tiệm tư nhân, 0,50 phật-lăng. Một đô-la Mỹ tương đương với 5 phật-lăng, nghĩa là theo hối xuất đen hiện thời, một phật-lăng bằng 70 đồng Việt Nam.
3. Call girls.
4. Tức lle de la Cité, tiểu đảo nên thơ nằm lọt giữa hai nhánh sông.
5. Chợ Hoa = Marché aux Fleurs,
6. Nhà thờ Notre Dame de Paris được đặt móng năm 1163,
7. Những hoạt động của Văn Bình trước khi đến Busum đã được tường thuật trong tác phẩm "Đêm loạn Hăm-Bua" đã xuất bản.
8. Biết bao giai nhân đã bị xử trảm như bà Barry, bà Roland, đáng kể là hoàng hậu Marie Antoinette, vợ vua Lô-Y ( Louis) XVI.
Trong cả hai xe đều có người ngồi. Xe 204 đỏ do một thiếu phụ lái, chắc nàng là thư ký của Bửu Khoa, bên cạnh nàng có một gã đàn ông. Ghế xe 204 không đến nỗi chật, vậy mà khối thịt của hắn bị nhồi nhét như khúc giò, điều này đủ chứng tỏ hắn to lớn gấp đôi Văn Bình. Tuỵ nhiên, Văn Bình chưa cần quan tâm đến hắn. Vì xe đậu bên trái, chàng ở phía sau tài xế, hắn muốn trồ tài phải mất thời giờ mở cửa thót xuống đường, và vòng qua mũi xe mới có thể đụng chàng trên lề.
Ngọn độc cước chớp xẹt của chàng được giành cho gã da đen thui, có lẽ là dân Phi Châu nhiệt đới, vừa hùng hồ vọt ra trong khi xe DS chưa dừng lại hẳn. Văn Bình đã xử dụng môn đá là đối phương khó có hy vọng tránh đòn nên bàn chân của chàng vừa tung lên, gã mọi đồ sộ đã chúi đầu vào cửa xe. Hắn chỉ kêu oái được một tiếng ngắn rồi ngã chềnh ềnh trên vĩa hè đầy vỏ giấy bọc kẹo cao-su.
Ngoài gã mọi ra, xe DS còn một tên khác nữa. Hắn là tài xế. Cộng với khối thịt khổng lồ trong xe 204 vị chi là ba. Một tên bị đo ván, còn lại hai. Trong chớp mắt, gã khổng lồ đã rời xe 204, khoa quả đấm to gần bằng quả bưởi Biện Hòa đánh chàng. Người lạ chưạ biết tài nghệ của Văn Bình không thể không lo sợ giùm chàng vì trái thôi sơn kếch xù phật ra tiếng gió ào ào, thiết tưởng đánh nhằm những phiến đá lót bờ sông Seine cũng vỡ chứ đừng nói là đánh nhằm mặt chàng nữa.
Gã khổng lồ chửi đồng trước khi vụng quyền. Nhưng chỉ mấy giây đồng hồ sau, hắn bỗng đứng yên như bị chôn chân xuống đất. Mặc dầu hắn vừa đấm trúng màng tang Văn Bình.
Chàng có thể né tránh dễ dàng song chàng đã dụng ý chịu đòn hầu trấn áp và lung lạc tinh thần của địch. Chàng đoán không sai, gã khổng lồ thấy chàng lãnh trọn cú đấm trăm cân vào yếu huyệt trên mặt mà vẫn tỉnh khô nên đâm ra hoảng hốt. Trong khi đó, Văn Bình đã chộp đựợc cánh tay của gã tài xế, quay tròn một vòng rồi hất ngược, nạn nhân bị đánh văng vào kiếng chắn gió xe DS. Kiến chắn gió xe DS thuộc loại tốt, nó gồm nhiều lớp chặn lên nhau, đụng mạnh trong tai nạn mới rạn vỡ vậy mà gã tài xế đã chui luôn nửa cái đầu vào bên trong.
Sở dĩ gã tài xế làm tấm kiếng bể nát là do Văn Bình vận kình. Chàng dùng phép phóng kình độc đáo của Thái Cực Quyền biến nạn nhân thành vật cứng với sức mạnh của viên đạn thoát khỏi nòng súng. Đầu đâm qua kiến chắn gió, gã tài xế chết không kịp ngáp, mặt mày đầy máu. Thật ra Văn Bình không chủ tâm giết hắn, chẳng qua hắn mang hết sức bình sinh cưỡng lại nên bị rơi vào tình trạng thê thảm "gậy ông đập lưng ông" tối kỵ của Thái Cực Quyền. Giá hắn ngoan ngoãn chịu đòn thì tệ lắm mình mẩy xây xát hoặc gẫy tay chân. Sự kháng cự đần độn của gã tài xế chứng tỏ hắn chưa phải là dân quyền thuật có hạng. Vì nếu hắn là nhân viên điệp báo hải ngoại thì khó thể là nhân viên Quốc Tế Tình Báo sở. Vì nhân viên Tình Báo sở Hoa Lục đều được hấp thụ căn bản của Thái Cực Quyền.
Văn Bình quay lại, gã khổng lồ có quả đấm to gần bằng quả bưởi vẫn chưa hết sảng sốt. Hắn giơ tay lên rồi hạ xụống. Có lẽ trong đời hắn đã choảng ai là người ấy phải sụm. Hắn hoang mang vì đây là lần thứ nhất hắn gặp một đối phương "chì" ngoài sức tưởng tượng.
Cái chết méo mó và lầy lụa của gã tài xế làm hắn bừng tỉnh. Song hắn không có thời giờ lấy lại phong độ thuở xưng hùng xưng bá của kẻ mù trong đám người chột. Vì Văn Bình đã tấn công bằng đầu gối. Cục xương lồi ở đầu bánh chè đâm trúng gồ thịt gần nách, nơi tọa lạc của huyệt nhị tiên truyền đạo. Hụyệt này bên ngực nào cũng có, nhưng huyệt bên trái mới là huyệt chết, còn huyệt bên phải chỉ gây ra bại liệt và bất tỉnh. Văn Bình đã tung đòn vào nách hữu, tuy vậy nạn nhân cũng dộng đầu xuống đất kêu rầm một tiếng trước khi nằm lăn như cây gỗ.
Triệt hạ 3 đối thủ xong, Văn Bình vẫn ung dung, nét mặt không hề biến đồi. Chàng mở cửa xe Pờ-dô 204, cô gái mắt biếc môi hồng đang ngồi thu hình như sợ người ngoài nhìn thấy. Da mặt nàng tái mét tuy nàng thoa thật nhiều phấn hồng. Dưới ảnh hưởng của cơn kinh hãi, môi nàng chuyển sang màu đỏ sám. Nàng ngước nhìn chàng, giọng run run
- Ông... ông có bị thương không ?
Văn Bình cười:
- Không. Cô đừng sợ. Phiền cô ngồi sang bên, để vô-lăng cho tôi.
Cô gái loay hoay mãi mới lách nổi cặp giò dài lê thê. Khi ấy Văn Bình mới nhận thấy nàng đẹp. Kể ra mặt mũi nàng khá đặc sắc, bộ phận nào cũng đều đặn và tươi mát, không có chỗ nào thô tháp làm đàn ông chán ngán, nhưng chàng không tha thiết lắm. Chàng vốn thích vẻ đẹp thiên nhiên, nghĩa là diện mạo và thân hình phải do tạo hóa nhào nặn trăm phần trăm, chàng không gắn bó với những giai nhân được bàn tay người mổ sửa. Ba Lê là kinh đô của thế giới làm đẹp, thẩm mỹ viện đếm được cả ngàn, đàn bà đẹp nghiêng nước nghiêng thành không hiếm song tỷ lệ đàn bà đẹp không cần đến cao-su, son phấn và lưỡi dao giải phẩu chỉ lên đến 3, 4 phần trăm là cùng...
Cho nên những đường cong cân đối của cô gái mắt biếc môi hồng làm Văn Bình hoài nghi. Trên người nàng, chắc chắn chỉ có cặp giò là thật. Thật chính hiệu. Vì không lẻ nàng nối thêm xương cho nó dài thêm. Dầu sao nó cũng không thể thuôn tròn đến thế. Nàng mất tinh thần khiến khuôn mặt trái xoan xinh xắn của nàng xinh xắn thêm, chàng muốn ôm ghì lấy nàng và hôn hít cho bỏ cơn... đói bụng.
Nhưng chàng phải tự kềm hãm vì sau lưng có tiếng động. Chàng bước trái, nằm rạp vào vè xe hơi. Rầm... thanh sắt tròn được dùng để mở đinh ốc mỗi khi thay vỏ lốp giáng xuống làm cửa xe 204 bị lún xuống. Nếu Văn Bình còn đứng ở chỗ cũ, xương thịt chàng khó thể vẹn toàn. Vì kẻ xử dụng thanh sắt đã nhắm khoảng vai yếu nhất để chém vạt gốc. Hung thủ là gã mọi đen bị chàng đạp lăn chiêng hồi nãy. Hắn tưởng Văn Bình không đỡ nổi ngón đòn xuất kỳ bất ý. Hắn xuống tấn, thu thanh sắt về, toan đánh tiếp thì ngọn cước thụt hậu của Văn Bình đã thọc giữa cái miệng cá ngáo của hắn.
Văn Bình thả thắng tay, lái chiếc 204 ra khỏi lề. Từ phía sau, xe cộ vẫn chạy tới nườm nượp, nếu chàng điều khiển vô-lăng kém điệu nghệ thì tai nạn đã xảy ra. Tuy vậy, không xe nào ngừng lại. Một phần vì cuộc đụng độ giữa Văn Bình và đám nhân viên lạ đựợc kết thúc trong vài phút đồng hồ ngắn ngủi nên khách qua đường, nhất là khách ngồi trong xe, không kịp nhìn thấy. Phần khác, vì cuộc sống xô bồ ở những đô thị lớn làm con người trở nên ích kỷ, ai chết mặc ai, không muốn mang lụy vào thân nên tài xế càng tống ga xăng.
Chàng toan quẹo trái thì cô gái ngồi bên vội nói:
- Cầu Mới, Cầu Mới.
Cầu Mới, nghĩa là rẽ bên phải. Cũng như nhiều thành phố trên thế giới, Ba Lê có những địa danh kỳ dị. Cầu Mới,( Pont Neuf), song lại chẳng mới tý nào. Nó được coi là cây cầu xưa nhất. Và cũng là cây cầu đẹp nhất mặc dầu được hoàn thành từ 3 thế kỷ trước.
Văn Bình bẻ vô-lăng nhưng cô gái nhổm khỏi băng, giọng hoảng hốt:
- Tay trái, tay trái, nhanh lên.
Văn Bình đành trườn mình sang bên trái. Xe cộ Ba Lê lưu thông trên lề phải nên một lần nữa chàng đã gây ra sự lộn xộn. Cũng may không xe hơi nào chạy sau bị tróc sơn hoặc móp tôn. Chàng thở phào nhẹ nhõm khi chiếc 204 đâm vào đại lộ Bờ Sông - cũng là đường một chiều - mang cái tên nên thơ là đường Kim Hoàng <1>. Mắt cô gái ngồi bên vẫn nhớn nhác. Chàng hỏi nàng :
- Cô sợ hả ?
Nàng gật đầu :
- Vâng. Dường như có xe rượt theo.
Chàng cười xòa :
- Không phải đâu. Cô nhìn lầm.
Cô gái lấy mù-soa chấm mồ hôi mũi. Phụ nữ làm đỏm Tây phương hay có điệu bộ chấm những giọt mồ hôi tưởng tượng trên mũi. Nhưng ở đây cô gái đã sợ hãi thật sự. Trời lạnh teng teng mà mồ hôi vã đầy trán và dọc sóng mũi thẳng băng và bóng loáng của nàng. Nàng sợ hãi thật sự nên hơi thở gấp gáp, ngực nàng phồng lên xẹp xuống vội vàng. Nhờ phản ứng tự nhiên này của nàng chàng mới có cơ hội nhận xét chính xác hơn về sắc đẹp của nàng. Cặp giò của nàng thuộc loại thật trăm phần trăm, và bộ ngực nở nang của nàng cũng không chịu thua một phần trăm nào.
Chiếc 204 chạy qua khu La-tinh. Đến đường Huy-sét <2>, qua hai ngôi nhà thờ. Đến đại lộ Xanh Giéc-manh, qua bảo tàng viện Cờ-lu-ni <3>. Tiếp tục chạy thẳng nữa sẽ đến đại học Sọt-bon, và xa hơn nữa là đền thờ danh nhân <4>.
Chàng giảm tốc độ và nghiêng về phía nàng :
- Cô hết sợ chưa ?
Nàng đáp gọn :
- Chưa. Tim em đang đập thình thịch.
Chàng biết chắc nàng sẽ mời chàng khám phá đôi gò bồng đảo nếu chàng giơ tay ra vịn cớ nghe tim nàng đập. Song chàng lại tiếp tục cuộc đối thoại nhát gừng :
- Giáo sư đang chờ ?
- Vâng.
- Cô bị họ chặn lại ở đâu ?
- Dọc đường. Họ rình sẵn ở ngã tư. Gặp đèn đỏ, em phải ngừng lại. Một tên trèo lên xe, dí súng dọa giết, em sợ mất hồn, và phải răm rắp tuân lệnh.
- Họ biết cô lái xe đến đón tôi ?
- Biết. Họ còn biết rõ gia cảnh của em nữa. Họ nói nếu em lộn xộn, họ sẽ quăng con em xuống sông Sein.
- Cô có mấy cháu ?
- Một. Một trai độc nhất. Gần ba tuồi. Ngoan kinh khủng. Nó là nguồn sống của em. Nó chết thì em cũng chết, ông nghĩ coi... hoàn cảnh em rất khó khăn... em không thể làm giấy khai sinh đàng hoàng cho con... nhưng thôi, em xin lỗi ông, em thật bậy, lẽ ra em không được phép mang chuyện riêng ra kể lại làm bẩn tai ông.
- Cô cứ nói. Phụ nữ có chuyện ấm ức, thố lộ ra được thì cảm thấy nhẹ nhõm như cất được gánh nặng. Cha đứa bé đã có vợ rồi ư ?
- Chưa. Còn độc thân. Độc thân nhưng có nhiều bạn gái và nhiều con riêng.
- Chắc nó giống cha như đúc ?
- Đúng thế, ông ạ. Mắt tôi biếc mà mắt nó lại đen láy, da nó lại hơi vàng mới lạ chứ.
- Tôi hiểu rồi. Cha của đứa bé là giáo sư Nguyễn Phước Bửu Khoa.
Cô gái tái mặt:
- Ấy chết. Ai bảo ông như vậy ?
Chàng nhún vai
- Một người bạn trong tổng lãnh sự. Chàng chưa tạt qua lãnh sự quán. Chàng đoán mò là Bửu Khoa vì nghe nói ông ta là vua đào hoa, mà vẫn sống đời xê-li-bạt. Vả lại, chàng không đến nổi ngây ngô để không hiểu được rằng nàng cố ý đưa ra những chi tiết độc đáo khiến chàng có thể biết được danh tánh người chồng không cưới xin của nàng. Tại sao nàng cần khoe khoang như vậy ? Chàng đang nghĩ cách hỏi nàng thì nàng đã rú lên như cô gái đồng trinh bị tên lưu manh bóp nhũ hoa ngoài công lộ :
- Chết tôi rồi !
Văn Bình thắng lại. Cô gái vội khoác tay :
- Khổ quá, ông đậu lại làm gì ? ông quẹo ra đại lộ Xanh Giéc-manh đi.
- Tại sao cô la chết ?
- Vì trong cơn hốt hoảng tôi quên nói lộ trình làm ông lái loanh quanh mất thời giờ. ông thuộc đường không ?
- Thuộc. Nhưng cũng không bằng người bản xứ. Cô muốn tôi lái về đâu ?
- Về văn phòng của giáo sư Bửu Khoa, ông tài quá, ông là người ngoại quốc mà tôi còn thua ông xa mặc dầu tôi sinh trưởng và lớn lên ở đây, nhiều khi tôi lái xe lộn đường một chiều, vậy mà từ nãy đến giờ tôi chưa hề thấy ông lộn đường nào cả. Đến ngã tư, phiền ông qua cầu Sun-ly.
- Văn phòng của Bửu Khoa ở trong khu đảo thánh Lô-y ? <5>
Đảo thánh Lô-y cũng là một hòn đảo nhỏ nằm trên sông Sien, và chỉ cách Thị-đảo, nơi chàng tản bộ hồi nảy, một cây cầu. Nghĩa là chàng chỉ chạy một vòng là đến nơi, chứ không phải chạy xuống tận phía Nam rồi đổ ngược lên theo sự chỉ dẫn của cô gái.
Dường như hiểu được sự thắc mắc của chàng, cô gái xin lỗi:
- Em làm rộn ông nhiều quá, ông đừng mắng em nhé.
Văn Bình nghiêng đầu :
- Tôi đâu dám.
- Giáo sư Khoa thường bảo em là con nít cũng không sai chút nào. Không khéo em mắc bệnh tàng cũng nên.
- Bậy nào. Nếu cô tàng thì trên cõi đời này, ai cũng tàng hết.
- Ha ha... giáo sư Khoa cũng nói như ông. À, em quên, em chưa hỏi tên ông.
- Văn Bình, tôi là Văn Bình.
- Em là Lilian. Giáo sư Khoa đặt tên Việt cho em là Lệ Liên.
Nàng nói hai chữ "Lệ Liên" rõ ràng, có đủ dấu nặng và dấu mũ hẳn hòi, làm chàng sửng sốt:
- Té ra cô biết tiếng Việt ?
Lệ Liên - Lilian cười dòn :
- Sơ sơ thôi, ông ơi ! Em tập nói tiếng Việt từ hồi còn ở đại học và Bửu Khoa là thầy giáo sinh vật học. Sau ngày tốt nghiệp, em về làm cho Bửu Khoa, em lại cố gắng học thêm. Nhưng nói sõi tiếng Việt để làm gì, hả ông ? Cuộc đời chán quá, em chẳng thiết sống nữa.
- Đối với phụ nữ có nhan sắc là hệ trọng. Cô là người đàn bà đẹp, tôi chưa thấy người đàn bà đẹp nào chán đời cả. Hơn nữa, cô lại đã có con. Cô lại nói đứa con trai này là nguồn sống của đời cô.
- Cám ơn ông, ông đã an ủi em, nhưng ông ơi...
Lệ Liên ngưng nói. Chàng thấy hai mắt nàng rưng rưng. Chàng đến Ba Lê để lo việc chung cho sở, không phải để băng khoăng về số kiếp hẩm hiu của một thiếu phụ khác chủng tộc. Nhưng không hiểu sao, lòng chàng vẫn nao nao. Có lẽ vì trong cơn xúc động Lệ Liên bỗng tăng vẻ đẹp sắc sảo và lôi cuốn. Chàng ngó trông con mắt ngấn lệ của nàng, giọng ngọt ngào :
- Bửu Khoa bỏ cô để theo người khác ?
Lệ Liên lắc đầu :
- Không, không bao giờ. Nhược điểm của Bửu Khoa là đàn bà, tuy vậy ông ta chưa yêu ai bằng em. Em đã nghĩ đến thành hôn, song quá nhiều trở ngại đã xảy ra. Trong thời gian gần đây, em bị đe dọa hoài.
- Ai đe dọa ?
- Không biết. Phần nhiều đe dọa bằng điện thoại. Em đang làm việc, người ta gọi dây nói đến văn phòng, ban đêm, em về nhà, người ta cũng biết cả số dây nói riêng của em. Người ta đe dọa là nếu em lăm le kết hôn với Bửu Khoa, em sẽ lãnh trọn một chai acit vào mặt. Chỉ ăn một vài cái tát em cũng sợ hết hồn, phương chi bị tạt cường toan, cho nên...
- Cô có nói cho ông ta biết không ?
- Không, em không dám, em sợ Bửu Khoa buồn, vả lại, đang còn nhiều trở ngại khác nữa. vấn đề tôn giáo chẳng hạn. Bửu Khoa theo đạo Phật và là tín đồ thuần thành, hàng tháng ăn chay 6 ngày, còn em là đạo dòng Công giáo.
Chiếc 204 vẫn bon, bon chạy dọc bờ sông. Tuy đậy là khu trung tâm thành phố, sự sinh hoạt lại phẳng lặng lại phẳng lặng như ở vùng ngoại ộ. Hầu như không thấy bóng xe cộ trên những con đường chỉ chạy một chiều, hai bên toàn là nhà cồ nghiêm trang, trầm mặc soi bóng trên giòng sông Sein lờ lững....
Lệ Liên bỗng nói:
- Đến rồi. Đến trồi.
Nguyễn Phước Bửu Khoa ngụ trong một ngôi nhà đồ sộ, chung quanh có vườn, kiến trúc cồ kính và vững chãi. Ngoài cổng chỉ có một tấm biển đồng đã lu, trên khắc dòng chữ "giáo sư Nguyễn Phước Bửu Khoa", cổng bằng sắt sơn đen ảm đạm, Lệ Liên bóp ba tiếng kèn thì có tiếng giầy đàn ông lộp cộp từ trong sân chạy ra rồi tiếng xích sắt chạm nhau kêu lách cách, cửa mở hé, một bộ mặt sồm soàm râu ria ló ra. Nhận ra chiếc 204 quen thuộc và Lệ Liên ngồi bên trong, gã đàn ông râu ria vội mở rộng cửa.
Văn Bình cho xe vào sân, và đậu bên cái hồ nước đầy rêu xanh, Lệ Liên hỏi gã râu rìa :
- Giáo sư đâu ?
Gã râu rìa đáp :
- Trên lầu. Giáo sư gắt om từ nãy đến giờ.
Lệ Liên quay lại cười với Văn Bình :
- Người này là bồi phòng kiêm hỏa đầu quân cho ông Bửu Khoa. Em quên chưa kể rõ về tính tình của ông ta. Em đã đọc bản dịch Tam Quốc, ai cũng cho Trương Phi là người nóng tính nhất, song theo em nhận xét, Bửu Khoa còn nóng hơn Trương Phi nhiều. Khi sửng sồ lên thì trời cũng coi bằng vung. Ai xớ rớ đến là ông ta cho ăn đòn sụm xương.
- Ông ta có võ ?
- Vâng. Chẳng hiểu ông ta học võ ở đâu mà giỏi thật là giỏi, ông ta có thể đánh ngã 5, 6 người lực lưỡng. Nhưng ông ta không bao giờ cậy giỏi võ để ăn hiếp. Tư cách nhà bác học mà... nóng thì đến lửa cũng chưa nóng bằng, song chỉ nóng một vài phút rồi nguội ngay, ông đừng phiền lòng nếu Bửu Khoa to tiếng với em nhé !
- Cô yên tâm. Người nóng tính thường tốt bụng. Kẻ nào luôn luôn phẳng lì như đá mài mới đáng sợ. vả lại, cô về chậm, ông ta nổi cáu là đúng lắm. Trừ phi ông ta biết cô bị quân gian chận lại dọc đường, và tôi gây ra mấy vụ giết chóc thì đó lại là chuyện khác.
- Em đã dặn ông kỹ càng, ông đừng vui miệng thuật lại thì rầy rà to. Ông biết không ? Việc gì em cũng giấu diếm.„ Bửu Khoa là một thiên tài có thể giúp ích nhiều cho nhân loại, ông ta biết rõ tất sẽ bỏ dở công cuộc thí nghiệm để bảo vệ em... em không muốn đề cao hạnh phúc cá nhân... nghĩ đến bản thân là xấu, phải không ông Văn Bình ?
- Cũng còn tùy. Dầu sao cô cũng là người đàn bà đáng quý. Vì cô đã chịu hy sinh rất nhiều...
Lệ Liên cúi mặt để che giọt nước mắt vừa rớt xuống má. Gã đàn ông râu ria đã khóa xích cồng, lộp cộp bước vào. Đến gần Lệ Liên, hắn cất tiếng bô bô :
- Chờ mãi không thấy cô về, ông ta đập bận, đập ghế ầm ầm, bắt tôi lái xe đi tìm cô cho bằng được. Cô Diễm Hà cản ngăn thì ông ta đuổi luôn ra khỏi phòng, đến khi cô Diễm Hà tức tưởi khóc, ông ta mới nguôi.
Lệ Liên vừa khóc vừa cười:
- Nghĩa là bây giờ hỏa diệm sơn đã ngừng phun lửa ?
Gã râu ria cũng cười:
- Ngừng rồi. Ngừng hẳn cách đây 5 phút. Hồi nãy, tôi vào phòng, nghe ông ta xin lỗi cô Diễm Hà.
Lệ Liên nói nhỏ vào tai Văn Bình :
- Diễm Hà là cô bí thơ người Việt. Đấy, ông ta lạ lùng như thế đấy, cơn nóng bùng lên thì phát ngôn thục mạng, khi hết giận thì xuống nước xin lỗi... ông ta kỵ nhất nước mắt đàn bà, ông ta đang khoa tay múa chân tưởng như sắp ăn tươi nuốt sống thiên hạ, thế mà em hay Diễm Hà rớt một giọt nước mắt... là hỏa diệm sơn bỗng xìu xuống. Bọn em vẫn gọi đùa ông ta là hỏa diệm sơn... Nào, mời ông lên cầu thang.
Ngôi nhà của giáo sư Bửu Khoa được xâỵ cất theo kiểu cổ lổ sĩ, giống như hai tòa lâu đài thuộc thế kỷ thứ 17 đứng sừng sững gần đó và được nhà cầm quyền liệt vào loại thắng tích hạng nhất. Chẳng hiểu người Pháp dựa vào tiêu chuẩn nào để khen kiến trúc đẹp, chứ thành thật mà nói thì Văn Bình không ngửi nổi. Chàng bực mình nhất khi phải đặt chân lên những bậc thang trơn trượt và dựng ngược. Chàng trèo phát mỏi chân mà chưa lên đến lầu trong khi cặp giò tiên nữ của giai nhân Lệ Liên vẫn ruỗi ra khép vào dẽo như kẹo kéo làm chàng rệu nước miếng. Giáo sư Bửu Khoa phải tu nhân tích đức từ 10 kiếp trước mới vớ phải người đẹp trường túc Lệ Liên. Và tuy chưa gặp Bửu Khoa, cũng như chưa được nhìn hình ảnh Bửu Khoa, Văn Bình đã có thể đoán được ông ta có trái tim thật tốt. Nếu là trái tim hạng trung bình thì Bửu Khoa đã mặc sơ-mi gỗ từ khuya, và giờ này nấm mồ của ông ta đã vàng hết cỏ.
Trời chưa tối song cầu thang và lầu nhất đã bật đèn vì mọi cửa sổ đều đóng im ỉm như nhà có ngườị đau nặng. Lầu nhất đựợc trang hoàng gọn gàng, đó đây lơ thơ mấy chậu sứ trồng hoa và những ngọn đèn chao bằng pha lê. Văn Bình rất sành hoa nhưng chàng đành chào thua, không biết những cây hoa nở hàng chục bông hồng dịu mắt này là hoa gì.
Gã râu ria chỉ trèo lên hết bậc thang rồi dừng lại. Lệ Liên mời Văn Bình đi trước. Nàng gõ nhẹ cánh cửa gỗ tếch đánh bóng, phía ngoài không ghi số hay tên. Gõ xong, nàng lùi lại, đứng chờ. Chàng nhận thấy chốc chốc nàng lại ngó trộm chàng bằng đuôi mắt. Cặp mắt ướt át thế này, mỗi lần nhìn đàn ông thì đến tượng đá trong các giáo đường kế cận cũng xụm đầu gối huống hồ Văn Bình lại là một giống đa tình... Tuy nhiên, khi chàng nhìn trả lại thì nàng lại lật đật quay ra chỗ khác.
Bên trong không có tiếng trả lời, Lệ Liên gõ cửa lần thứ nhì, và lần này tay nàng đập mạnh hơn.
Cũng không có tiếng trả lời. Mặt Lệ Liên vụt tái. Nàng đập thình thình, rồi gọi lớn :
- Diễm Hà, Diễm Hà, mở cửa cho khách.
Không khí mỗi lúc một thêm nặng nề. Văn Bình có cảm giác như thân thể chàng thiếu khí ốc-xy khiến buồng phổi bị nghẹt. Lệ Liên gọi lớn hơn nữa :
- Giáo sư Bửu Khoa còn ở trong phòng không ? Có khách, có khách.
Gã râu ria đã lộp cộp chạy tới. Hắn dùng hết sức bình sinh xô cánh cửa gỗ tếch. Hắn có tấm thân lớn trên mức trung bình Tây phương, nhưng chắc hắn chưa rành võ thuật nên cánh cửa vẫn không hề chuyển động trong khi hắn thở phù phù, lưng bàn tay đọng máu tím bầm. Hắn nhìn Lệ Liên rồi nhìn Văn Bình, tỏ vẻ sợ hãi rõ rệt:
- Tôi vừa nói chuyện với giáo sư mà... không lẽ giáo sư đi đâu... mà còn cô Diễm Hà nữa... không khéo có chuyện gì rồi đây, trời ơi... trời ơi...
Văn Bình không đợi Lệ Liên yêu cầu chàng nữa. vả lại, nàng cũng không thể biết rằng chàng có thừa bản lãnh triệt hạ cánh cửa kiên cố này. Chàng không cần lùi lại để lấy trớn. Chàng cũng không cần dùng bờ vai làm đòn bẩy. Thản nhiên, chàng đặt bàn tay vào quả đấm bằng đồng. Kình lực từ đan điền cuồn cuộn dâng lên như thác lũ, truyền ra tay, Văn Bình hích nhẹ một cái, cánh cửa bật tung ồ khóa, mở mạnh vào trong.
Điều chàng hình dung trong óc đã thành sự thật.
Sự thật ghê gớm có thể đảo lộn hết kế hoạch và mưu đồ của chàng... Bửu Khoa, giáo sư khoa học hữu danh Nguyễn Phước Bửu Khoa, người nắm đầu dây mối nhợ trong việc tiếp xúc và thuyết phục thiên tài di truyền học Tôlan của xứ Nam Tư lạp phu, đang quỳ gối trên đất, tay ôm bụng, mặt nhăn nhó trong sự đau đớn vô tả.
Bên cạnh Bửu Khoa là một người đàn bà.
Nàng là người Việt chính cống, căn cứ vào nước da và sống mũi, tuy thân thể nàng to lớn mà nàng mặc đồ đầm. Khỏi cần được giới thiệu, Văn Bình đã biết tên nàng là Diễm Hà, nữ bí thư của giáo sư Bửu Khoa. Nàng nằm sóng sượt, mắt nhắm nghiền, mớ tóc đen dài lòa xòa phủ nửa mặt.
Có lẽ cả Bửu Khoa lẫn Diễm Hà đã chết.
Lẽ ra cử chỉ đầu tiên của chàng phải là bước nhanh lại, bắt cườm tay xem mạch. Nếu họ không bị thương ở não bộ, và tim họ mới ngừng đập, chàng có thể dùng bí thuật kuatsu để cứu sống.
Nhưng Văn Bình chỉ tiến lên một bộ rồi vội vàng nhảy tréo sang trái. Trong thâm tâm chàng, hồi chuông báo nguy của linh tính bỗng ngân vang. Rồi căn phòng đang yên lặng bỗng tràn ngập tiếng động. Tiếng động của bàn ghế đồ lỏng chỏng. Và tiếng động của một khối sắt nặng từ góc phòng ném hụt qua đầu Văn Bình, tông vào giữa cách cửa gỗ tếch dầy cộm.
Chú thích:
1.- Quai des Oríèvres.
2.- Huchette.
3.- Cluny.
4.- Panthéon.
5.- L'ile de Saint Louis.
Sở dĩ bàn ghế đồ lỏng chỏng là vì Nguyễn Phước Bửu Khoa rút hai tay ra khỏi bụng và ngã xấp, khiến gã râu ria, bồi phòng kiêm hỏa đầu quân, luống cuống chạy tới. Sự sợ hãi đã làm hắn mất phương hướng, thay vì chạy thẳng hắn lại đâm đầu vào cái bàn nhỏ bên trên đặt toàn chai lọ thủy tinh : cái bàn nhẹ bị lật nghiêng, đồ đạc vỡ loảng xoảng, gã râu ria ngã vùi và kéo theo mấy cái ghế.
Tuy nhiên, tiếng động mà Văn Bình chú ý nhất là do khối sắt từ phía sau Bửu Khoa phóng tới. Khối sắt này hình tròn như quả tạ, kẻ vừa ném phải có nhiều công phu luyện tập vì chẳng phải bất cứ ai cũng có thể vận dụng 5, 6 ký kim khí nhẹ tăng như con nít bắn bi. Văn Bình nhanh mắt, ngoẹo cổ tránh thoát, khối sắt tròn được quăng mạnh đến nỗi cánh cửa bị chẻ làm đôi và dứt khỏi ba bản lề rơi luôn xuống đất.
Hung thủ núp cạnh tủ buýp-phê. Ném ám khí xong, hắn co chân nhảy ra. Chắc hắn vững tin vào tài nghệ của hắn nên tuy bị bắt quả tang hắn vẫn không lộ vẻ nao núng. Cách Văn Bình hai mét hắn phi thân, quét ngang hông chàng một ngọn cước karatê.
Văn Bình lùi sát tường để tránh. Chàng chưa phản công vì chàng cần quan sát kỹ lưỡng căn phòng xem ngoài hung thủ ra còn ai nữa không. Đây là phòng làm việc. Chỉ thấy bàn, ghế và tủ. Một phần căn phòng được dùng làm nơi thí nghiệm với các dụng cụ khoa học hình thù cổ quái và máy móc điện tử tinh vi, song Văn Bình nhận thấy Bửu Khoa làm việc giấy tờ ở đây nhiều hơn là thí nghiệm thực hành, và ngoài nơi này ra chắc đang còn phòng thí nghiệm khác trong tòa nhà.
Bửu Khoa không tha thiết đến nghệ thuật nên trên tường có nhiều bức ảnh mà chẳng được bức nào nên thân. Hầu hết là ảnh y học. Cũng có vài ba chân dung phụ nữ, song không có gì đặc sắc.
Hung thủ đang đối diện với chàng có lẽ là người lạ duy nhất trong phòng, vì Văn Bình thấy ngoài cái tủ buýp-phê ra, không còn chỗ núp kín đáo nào khác.
Như vậy, chàng đã có thể yên tâm. Một chọi 3, chọi 10 chàng còn coi là trò đùa, huống hồ là một chọi một. Trong vi phân thời khắc, trước khi đối phương xấn lại để gở lại ngọn cước bị hụt, Văn Bình đã phăng ra yếu điểm của hắn. Hắn là người phương Tây, về khoản đồ sộ và nặng ký chàng chỉ đáng làm em út. Hắn biết đá karatê, và vờn quyền theo nhu đạo, lại thạo ném ám khí nặng, thế tất hắn không phải là võ sĩ cà mèng như đám đàn ông ngồi xe DS bị chàng đánh ngã tứ tán.
Hắn đá hụt nên tỏ vẻ thận trọng hơn trước. Hắn hơi rùn người, vươn ra nhưng chưa tấn công. Thấy bàn tay lớn hơn cái găng đánh bốc, và nhất là cái lưng tròn bành, dầy và rộng như bộ ván bên dưới bộ mặt ngắn ngủn, phũ phàng, đầy mụn và vết thẹo ngang dọc, Văn Bình đã biết ngay "căn cước" của hắn.
Hắn là "anh hai" trong số mấy chục khối thịt khổng lồ chuyên sống bằng nghề xưng hùng xưng bá tại khu Chợ trung ương của thành phố. Bất cứ khu chợ nào trên thế giới cũng có du đãng và trùm du đãng, chợ trung ương Ba Lê đã khét tiếng những trùm du đãng chưa nơi nào có. Trong chợ này, có chừng 500 người nặng trăm ký trở lên, họ làm trật tự viên hoặc khuân vác ở quầy hàng, thường thường vác trên vai nửa con bò, nghĩa là 250 ký. Không phải ai cũng hành nghề khuân vác này được, họ có đoàn thể hẳn hoi, muốn gia nhập hội phải đeo nổi trên vai một cái bồ đựng 2 tạ đá và đi nổi 150 mét. Có người vác nổi 3 tạ, và còn nỗi máu anh hùng mời một cô gái nõn nà trèo lên lưng dạo chơi vài vòng nữa.
Đa số phu khuân vác đều hành nghề lương thiện. Thiểu số gồm những kẻ bán trời không văn tự, không vợ, không con, hợp thành nhóm riêng, và bầu bán cấp chỉ huy theo thủ tục rất dân chủ. Nghĩa là hàng năm, chức "anh hai" được tuyển chọn một lần, cả bọn tụ tập lại, có người tự ý tranh cử hoặc được bạn bè đề cử, và các ứng viên lên võ đài tranh tài cao thấp. Trong những lần ghé Ba Lê, Văn Bình được nghe kể lại thành tích của bọn trùm du đãng tại khu chợ chính, đặc biệt là thành tích của một tên "anh hai" võ nghệ cao cường. Hắn chuyên xử dụng môn đá, tuy nhiên môn ruột của hắn là ném bi thép, một loại bi tròn bằng sắt đặc, tuy gọi là bi nhưng lớn hơn trái banh tơ-nít. Cách xa hàng chục mét, hắn vẫn ném trúng mục phiêu nhỏ bằng bàn tay. Hắn làm mưa, làm gió tại khu chợ trong gần chục năm, ngày nay hắn đã quá ngũ tuần, gân cốt không còn tráng kiện như hồi thanh xuân nữa, nhưng không ai dám vuốt râu hùm vì hắn đã truyền nghề mọn lại cho một số đàn em.
Gã đàn ông mặt thẹo, lưng rộng vừa ném hụt bi-thép phải là dân chơi có hạng từ khu chợ tới. Văn Bình đã đọ quyền với nhiều dân chơi có hạng ở kinh đô ánh sáng, nhưng chưa có cơ hộị thù tiếp dân chơi của các quầy hàng thịt <1>. Chàng bèn nghiêng đầu cười khẩy, dáng điệu khiêu khích. Hắn đã tiến đến gần sát người chàng nên không tiện dùng cước pháp. Hắn cũng biết như vậy và dồn sức vào cánh tay.
Hắn càu nhàu mấy tiếng Pháp tục tỉu đồng thời chập hai nắm tay làm một giáng xuống vai chàng. Chàng có thể đỡ đòn hoặc tránh đòn dễ dàng vì lối tấn công của hắn thiếu tính cách thần tốc. Tuy nhiên chàng muốn biểu diễn tài nghệ chịu đòn cho hắn kiềng mặt người Việt da vàng. Nhưng nếu chàng kềm chế tự ái, để không coi đối phương nặng gấp đôi chàng và bắp thịt rắn không thua bắp thịt chàng là đồ bỏ thì chàng đã không đau điếng. Vì chàng khinh địch, chàng không tích cực vận kình, biến da thịt trên vai thành hào lũy bất khả xâm phạm. Té ra miếng đòn hai nắm tay chập một của hắn thuộc loại chân truyền... Văn Bình khuỵu xuống, mắt tối sầm.
Chàng đang loạng choạng thì hắn xây mình, hạ thấp xuống, ghé vai húc chàng một cái thật mạnh. Không dám lơ mơ như trước nữa, Văn Bình phải nhảy lùi đụng ttường, và quét chân sát đất, hầu làm cho đối phương mất thế quân bình. Dầu sao chàng cũng đổ mồ hôi hột. Nếu chàng thoái chậm một phần trăm giây đồng hồ, sức húc kinh hồn của hắn có thể tông gẫy xương sườn của chàng.
Chàng được bạn bè kể lại nghệ thuật tấn công bằng vai của dân chơi ở khu chợ chính Ba Lê mà chàng không tin, giờ đây chàng mới thấy đúng. Họ có thể dùng vai xô đổ bức tường kiên cố. Hàng ngày, hàng đêm khuân nặng trong một thời gian dài đã luyện cho vai họ cứng như thép trui trong lò.
Giới phu khuân vác ở chợ chính Ba Lê được nhà vua rất trọng vọng thời xưa. Mỗi khi nhà vua băng hà, họ được cử đại diện khiêng quan tài từ hoàng cung tới giáo đường. Lý do là vì khu chợ ở gần hoàng cung, nhưng theo huyền thoại, sở dĩ họ được tuyển chọn là vì một số "anh hai" trong bọn họ đã có bờ vai vô cùng kiên cố.
Rầm... rầm... gã đàn ông mặt thẹo hụt đòn, nhào vào cái tủ thư viện, đựng toàn là sách. Tủ này cao hơn 2 mét rưỡi, được chia làm nhiều ngăn từ gần mặt đất lên đến trần phòng, ngăn nào cũng đầy ứ sách đóng bìa cứng. Sách về khoa học thường dầy cộm, ổng số sách trong tủ lên đến 3, 4 tạ là ít, vậy mà hắn cũng hất vèo sang bên, sách rớt ra ngoài kêu lên những tiếng ầm ầm không ngớt.
Tự ái cố hữu của điệp viên bách chiến bách thắng z.28 đã bị va chạm cao độ. Chàng đã ăn đòn xửng vửng. Nhưng đòn đau trên da thịt chưa làm chàng tê tái bằng đòn đau tinh thần. Gã mặt thẹo đã chơi trèo ngang ngược, hạ nhục chàng ngay trước mắt người đẹp, sự tức giận pha lẫn xấu hổ làm chàng tăng thêm sức mạnh.
Gã mặt thẹo toan tái diễn đòn vai thì Văn Bình đã chặn trước. Chàng đánh luôn đòn chân và đòn tay cùng một lúc. Yếu tố to cao chỉ có lợi trong các trận đấu lấy thịt đè người, và hoàn toàn có hại trước đối phương am tường bí quyết điểm huyệt atêmi. Vì hai đòn atêmi phủ đầu của Văn Bình đã làm hắn suy giảm phân nửa mãnh lực. Hắn gầm lên như sấm đoạn lăn xả vào người chàng, ôm đại ngang lưng hòng quật ngã. Nhưng hắn chỉ mới chạm vào áo chàng là đã bị đánh bật ngữa. Chàng bồi thêm ngọn độc cước giữa đan điền, khí huyết đột nhiên bế cản, gã mặt thẹo bổ sứt cạp lăn kềnh ra.
Cuộc đọ sức giữa Văn Bình và gã mặt thẹo kéo dài trong vòng mấy phút đồng hồ. Tuy chỉ có 60 giây mà chàng có cảm tưởng như 60 phút. Vì chàng nóng ruột muốn biết thương tích của giáo sư Bửu Khoa và nữ thư ký Diễm Hà ra sao.
Chàng lấy làm mừng khi thấy Bửu Khoa và Diễm Hà được đỡ dựa lưng vào tường. Nghĩa là hai người đều sống. Diễm Hà có vẻ đau đớn và mệt mỏi hơn, da nàng mỗi lúc một tái, nàng thở một cách khó khăn như thể cuống họng bị chặn nghẹt.
Bửu Khoa đã nhận ra chàng, ông ta cười, miệng hơi méo, chứng tỏ ông ta cười gượng gạo, cười để trấn an khách. Khác với dự đoán của chàng, Bửu Khoa không còn là thanh niên sung sức nữa, những nếp nhăn thời gian đã hiện rõ trên cổ, trên vầng trán rộng, và nhất là ở đuôi mắt. Dường như ông ta đã cố gắng làm đẹp, nhờ nhà giải phẫu thẩm mỹ mổ kéo căng da mặt, nhưng nổ lực khoa học đã chịu thua sức tàn phá của tạo hóa. Nếu ông ta không nhuộm tóc chắc hẵn mái đầu đã bạc phơ, tuy nhiên, chàng có cảm tưởng là ông ta bận bịu nhiều công việc quan trọng trong mấy tuần qua vì tóc nhuộm đã lợt, hai bên màng tang xoắn lên và đỏ quạch như râu ngô mà ông ta chưa thể đến được tiệm cắt tóc.
Bửu Khoa trạc 60 tuổi. Tuổi này chưa phải tuổi già, vì ở phương Tâỵ, kể từ 65 tuổi người ta mới gọi là "tuổi thứ ba". Tiến bộ khoa học đã làm con người trẻ lại dễ dàng. Cho nên, với tuổi lục tuần, Bửu Khoa còn hảo ngọt, còn có hàng tá con rơi và bồ trẻ măng, cũng không phải là chuyện động trời, vả lại, Bửu Khoa có một thân thể khá cốt-tô, cử chỉ còn vững vàng, tự tin như là con trai, cặp mắt lại ướt uớt, ông ta say mê đàn bà và đàn bà say mê ông ta chỉ là sự việc thông thường như chàng mê say thuốc lá Salem, rượu huýt-ky và người đẹp núi lửa vòng mông vòng ngực 160 xăng-ti-mét vậy...
Bửu Khoa mặc com-lê sậm, khoác ba-đờ-suy bên ngoài. Cái mũ dạ vành mềm và cái phu-la quấn cổ rớt văng trên đất. Những đồ phụ tùng này cho thấy ông ta sửa soạn ra đường. Trời chưa tối, và chưa lạnh lắm mà ông ta trưng diện ba-đờ-suy lẫn phu-la, thế tất ông ta sửa soạn đi đâu xa.
Diễm Hà cũng đã tỉnh lại hoàn toàn. Sau ót nàng còn vết máu ướt và một cục bướu lớn bằng trái ổi. Chắc nàng đang ngồi làm việc thì gian phi đi vòng ra sau bàn giấy và đánh vào gáy nàng khiến nàng bất tỉnh. Bửu Khoa có võ nên đã chiến đấu ngang ngửa trước khi bị đòn đau ở bụng, ngã khuỵu xuống, địch toan đánh bồi để kết thúc cuộc quần thảo thì cửa phòng mở tung, đoàn cứu tinh xuất hiện.
Chàng nói với Bửu Khoa :
- Tôi là Văn Bình. Đáng tiếc là giáo sư gặp nạn. Lẽ ra tôi đến sớm hơn nữa.
Bửu Khoa hơi đỏ mặt. Tính sừng sộ quen thuộc sắp sửa bùng lên. Ông ta dằn giọng với Lệ Liên :
- Em lái xe lộn đường một chiều rồi bị cảnh sát tốp lại biên phạt hả ? Tôi đã dặn em cả trăm, cả ngàn lần mà em không thèm nghe. Khi ra đường phải thận trọng. Phố xá Ba Lê không phải như ở đồng quê, em phóng như mưa thì còn có ngày chết nữa kìa... Từ đây đến đó chỉ có nửa cây số, em cũng lạc đường được ư ? Em từng đậu cử nhân khoa học, lại theo bậc đại học, trí thông minh của em đâu đến nỗi kém, tại sao không nhớ nỗi các con đường một chiều ?
Lệ Liên đáp, dịu dàng :
- Em xin lỗi giáo sư.
Bửu Khoa nói như hét:
- Xin lỗi... xin lỗi, em bắn tôi chết rồi cũng xin lỗi à...
Đột nhiên Bửu Khoa ngưng nói. Có lẽ ông ta bắt đầu nhận thấy sự lố bịch của mình trước mặt khách lạ. Lệ Liên đưa mù-soa cho ông ta lau mồ hôi rồi dìu lên ghế dài. ông ta củng ngón tay vào đầu nàng rồi nói, giọng trở lại bình thường :
- Tôi buồn cười quá, em bắn tôi chết thì còn xin lỗi thế nào được nữa... Em đã biết tính tôi nóng như lửa mà cứ trêu tức tôi hoài.
Rồi hắn phân bua với Văn Bình :
- Khổ quá, tôi chừa mãi không được. Hễ ai làm phật ý là tôi sừng sộ. Như tôi đã nói với ông, tôi gặp ông rồi ra sân bay. Tôi chờ cô Lệ Liên mãi không thấy về nên đâm cáu. Cô bé này vẫn có thói quen lái xe la cà, đường xá đàng hoàng không đi, cứ đút đầu vào hẻm cụt và đường một chiều, và tệ hơn nữa là ở các ngã tư có đèn lưu thông, đèn xanh thì thắng lại, còn đèn vàng đèn đỏ thì tống hết ga xăng. Vì chúng ta có chuyện cần, Lệ Liên là người tin cậy, tôi mới nhờ cô ta đi đón. Ngờ đâu chứng nào vẫn tật nấy.
Văn Bình định thuật lại tai nạn Lệ Liên gặp dọc đường và cuộc ẩu đả với bọn cô hồn trong xe DS, nhưng chàng bắt gặp đuôi mắt đầy ý nghĩa của nàng. Nàng không muốn làm phiền Bửu Khoa. Thái độ này chứng tỏ nàng yêu Bửu Khoa ghê gớm. Bảo rằng ông ta xấu trai e không đúng, vì mặt mũi khá cân đối, bộ mã lại dễ nhìn, nhưng thật khó mà khen ông ta khôi ngô, hợp "týp" đàn bà choai choai hiện tại. Nàng yêu ông ta ghê gớm chỉ có thể vì một trong hai nguyên nhân sau đây : yêu tài bác vật có một không hai, hoặc yêu tài... ngầm, tài này đàn ông nhỏ tuổi thường thua đàn ông lớn tuổi, và những kẻ có tài thiên bẩm thường giấu kín, chỉ riêng đàn bà trong phòng vắng mới biết, một khi đã nếm mùi thì chết cũng không buông. Văn Bình có ý nghĩ là Lệ Liên yêu Bửu Khoa về cả hai đặc tài, tài lộ và tài ngầm. Bỗng nhiên chàng thèm địa vị của Bửu Khoa. Chàng thèm vì sực nhớ đến ông ổng giám đốc. Mai kia, già bằng ông Hoàng, giáo sư Bửu Khoa vẫn dẻo vẫn dai. Văn Bình đâm sợ tuổi già. Chàng hy vọng còn giữ được sức lực. Nếu chàng ốm o xụi bại như ông ổng giám đốc thì thà... chết sướng hơn.
Nguyễn Phước Bửu Khoa quan sát cục bướu đọng máu sau ót của Diễm Hà rồi ra lệnh cho gã râu ria xum xoe đứng bên :
- Nhờ chú đưa cô Hà sang phòng bên nghỉ, sau đó chú kêu điện thoại cho bác sĩ.
Diễm Hà đứng dậy, giọng trong trẻo :
- Cám ơn giáo sư, em hết đau rồi. Để chú Sáu lo việc khác.
Giáo sư Bửu Khoa gạt phắt:
- Không được. Em bị đánh vào đầu, cần cho y sĩ khám lại và chụp hình xương sọ. Vả lại, hôm nay em làm việc quá nhiều, từ sáng đến giờ chưa có phút nào xả hơi, cho nên em phải dưỡng sức.
Văn Bình biết Bửu Khoa kiếm cớ đuổi khéo các cộng sự viên để được tự do nói chuyện với chàng. Lệ Liên quả là người đàn bà tế nhị, gã râu ria mang cái tên cục mịch là chú Sáu vừa khép cửa phòng thì nàng cũng đứng dậy :
- Giáo sư quên. Em cũng cần nghỉ một lát.
Chẳng nói chẳng rằng, Nguyễn Phước Bửu Khoa kéo Lệ Liên lại, hôn nhẹ lên má nàng, ông ta hôn Lệ Liên với cử chỉ âu yếm nhưng phớt đời, như thể căn phòng được đóng kín và không có mặt người lạ. Ông ta đãng trí hay bất chấp dư luận, Văn Bình chưa rõ, song điều chàng có thể nhận thấy ngay lão già 35 Bửu Khoa có một lối hôn độc đáo, không những hôn bằng miệng mà còn hôn bằng tay, bằng chân, bằng mọi bộ phận trong thân thể nữa. Văn Bình có cảm tưởng Lệ Liên đang bị đè nghiến trong vòng tay lực lưỡng và nàng dính bết lấy da thịt ông ta. Chàng đứng xa hai người một sải tay, hơi nóng hừng hực từ thân thể bị kích thích tột độ của Lệ Liên thổi ùa lại làm chàng ran rát. Lệ Liên và các cô gái khác gắn bó sống chết với nhà bác học lục tuần hảo ngọt này chỉ là chuyện dĩ nhiên. Nếu công việc được thành tựu suông sẻ, chàng phải cắp sách thụ giáo giáo sư nghệ thuật vuốt ve đàn bà của giáo sư di truyền học Nguyễn Phước Bửu Khoa mới được.
Nhìn Lệ Liên núng nẩy bước ra khỏi phòng, Bửu Khoa chắc lưỡi:
- Ông thấy hai cô thư ký của tôi ra sao ?
Văn Bình cũng chắc lưỡi:
- Đẹp, giỏi và ngoan nữa. Nhưng theo thiển ý, đàn bà đẹp, giỏi và ngoan không hiếm. Nếu hiếm, chỉ hiếm những người đàn ông như ông. Thú thật là tôi đi nhiều, quen nhiều, song chưa gặp ai lớn tuổi mà còn tráng kiện và hấp dẫn như ông.
Bửu Khoa cười, để lộ hai cái răng vàng óng ánh ở sâu bên trong :
- Ông đoán tôi bao nhiêu tuổi ?
Văn Bình lắc đầu :
- Chịu. Kể về tài ba và kinh nghiệm, ông phải là người sống nhiều tuổi đời. Nhưng về diện mạo, thân hình, cũng như về sức khỏe, ông lại còn quá trẻ.
- Trẻ nghĩa là mấy chục ? Năm chục, sáu chục, bẩy chục ?
- Chết chửa. Người như ông làm cách nào đến bẩy mươi được. Nhiều nhất là 60. Và 60 là...
- Thôi, để tôi nói thật cho ông khỏi mất thời giờ. Nhiều người cũng cho tôi là 60, 62 là cùng. Nhưng tuổi đúng của tôi tính đến hôm nay là 75. Vâng, tôi vừa chẵn 75 tuổi Tây... Tính theo tuổi ta thì tôi 77. Vì tôi ra đời ngày 23 tháng Chạp, ông Táo chầu trời, có 7 ngày hết năm ta mà tôi có thêm những 2 tuổi.
- Trời ơi, tôi không tin. ông... cụ., gần 80 tuổi rồi ư ?
- Hừ... tại sao anh lại gọi tôi là cụ ? Sự thật là tôi đã 77 tuổi, song tôi còn khỏe, còn mạnh như đàn ông 40, 45. Chẳng thế mà thằng cha khổng lồ chỉ dám đánh trộm tôi, chứ không dám đối diện... A, tôi quên thuật ông nghe việc xảy ra, chú Sáu vừa ra, tôi đang đọc thư cho Diễm Hà ghi tốc ký thì tôi bị tấn công sau lưng. Nhờ Diễm Hà nhìn thấy la lên nên tôi không bị trọng thương, hắn bèn đánh nàng bất tỉnh rồi quay ra quần thảo với tôi. Nếu tôi không vụng về để hắn đá trúng bụng thì có lẽ chưa chắc mèo nào cắn miêu nào...
- Ông có biết hắn là tay sai của ai không ?
- Không. Tôi thưởng bị người lạ lẻn vào nhà lấy trộm tài liệu hoặc chặn đường hành hung như vậy. Riết rồi đâm quen, tôi ỷ võ nghệ và tài bắn súng nên chẳng buồn nhờ nhà chức trách bảo vệ nữa. Vả lại, ông nghĩ coi... đàn ông ở đây, uống vang thượng hạng, và ăn phó mát thượng hạng, người nào người nấy bụng phưỡn ra, họ làm cận vệ cho tôi thì tôi càng chóng chết. Thiên hạ rõ nực cười, họ muốn tôi hợp tác với họ, họ hứa hẹn đủ điều, họ trả hàng chục triệu đô-la tiền thưởng, đinh ninh tôi nghe theo, đến khi tôi thẳng tay từ chối, họ liền giở thói vũ phu...
- Họ là gián điệp Cộng sản, phải không giáo sư ?
- Úi chao, nếu họ chỉ là Cộng sản không thôi thì tôi cũng đỡ tủi thân. Đằng này phe nào, nước nào cũng nhảy vào vòng chiến. Họ không thể hiểu rằng tiền bạc, danh vọng và ngay cả sắc đẹp nữa, đều không mua chụộc được tôi. Trong đời, tôi chỉ rung động trước tình bạn. Tôi chịu cực, chịu khổ tại Ba Lê, nghĩ cách móc mối và thuyết phục Tôlan là vì tình bạn ngày xưa. Tôi không thể khoanh tay đứng nhìn bạn ngày xưa của tôi chết dần chết mòn vì những chứng bệnh vô lý và xuẩn ngốc là bệnh già, ông rõ chưa ?
- Thưa... ông là bạn già của ông Hoàng ?
- Đích thị. Ông Hoàng chưa cho anh biết hả ? Gớm, cái anh già này luôn luôn méo mó nghề nghiệp... nhưng chẳng hề gì đâu, ông Hoàng đã nói với tôi về đại tá z.28. Anh là đại tá z.28 phải không ? Chỉ thấy mặt anh là biết liền, ông Hoàng thường nói trên đời này có 2 thằng đàn ông đệ nhất đa tình, già là Bửu Khoa, còn trẻ là đại tá Văn Bình z.28. Hà hà... ông Hoàng khen anh lắm, nếu không ông ta chẳng giao công việc này cho anh. ông ta hiểu tính tôi, cái tính bốc đồng ấy mà, khoái thì làm, không khoái thì tẩy chay, súng kê sát thái dương cũng... cóc cần.
Ngày xửa, ngày xưa, bọn chúng tôi bỏ quê hương ra nước ngoài để tìm phương tiện tranh thủ độc lập. Chúng tôi ra đi đông lắm, trong phong trào Đông Du có đến hàng ngàn, song chỉ một số vài ba trăm qua Châu Âu. Tôi lấy tên Bửu Khoa, Nguyễn Phước Bửu Khoa là để che dấu hoạt động dĩ vãng, đúng họ của tôi là họ Trần, tôi sinh trưởng ở tỉnh Quảng Nam tại Gò Nổi, thuộc phủ Điện Bàn. Gò Nổi là nơi chôn nhau cắt rốn của những anh hùng dân tộc như Trần Cao Vân, Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ.... Tôi không có vinh dự làm họ gần với ông Trần Cao Vân, song nhờ cha mẹ cũng ăn mày được ít chữ thánh hiền và hiểu được thảm cảnh nước mất nhà tan để liên lạc với Việt Nam Quang Phục hội. Ông Trần Cao Vân và ông Thái Phiên móc nối với vua Duy Tân để phất cờ khởi nghĩa. Chuyện này xảy ra từ hơn nửa thế kỷ mà tôi vẫn nhớ rõ, cuộc khởi nghĩa định vào 3-5-1916, nhưng bại lộ, vua Duy Tân bị Pháp bắt và đưa đi đầy, còn Trần Cao Vân, Thái Phiên và Phạn Hữu Khánh bị xử chém tại An Hòa, anh em thanh niên chúng tôi dính líu vào vụ này nên bị lùng bắt ráo riết. Tôi mầy mò xin được chân rửa bát dưới tàu thủy, lênh đênh sang Tàu, rồi từ đó qua Âu Châu. Tôi kết bạn với ông Hoàng ở Pháp. Tôi vừa đi làm, vừa đi học, tốt nghiệp y khoa bác sĩ, tiến sĩ khoa học trong khi ông Hoàng làm phóng viên báo chí, làm cách mạng, làm gián điệp. Tuy ít gặp nhau vì mỗi người một nghề nghiệp, một hoàn cảnh, song chúng tôi rất ý hợp tâm đầu, tôi là một trong số rất ít bạn phù rể của ông Hoàng khi ông thành hôn với bà Maria ở Ý Đại Lợi <2>.
Lẽ ra, với kiến thức chuyên môn của tôi, tôi có bổn phận trở về giúp nước, và nếu không muốn nói đến chữ tồ quốc quá thiêng liêng thì tôi cũng có bổn phận đối với tình bạn con chấy cắn đôi. Nhưng định mạng éo le không cho phép tôi hồi hương, anh ạ. Tôi phải lưu lại đất khách quê người vì... duyên nợ đàn bà, ông Hoàng đã biết điều này nên trong nhiều năm liền, ông ta không đặt vấn đề hồi hương với tôi.
- Thưa... chắc bà nhà không hợp với khí hậu và thủy thổ Sàigòn ?
- Tôi là người đàn ông độc thân, anh quên rồi ư ? Nói cho đúng, tôi hiện sống độc thân là do những liên hệ với dĩ vãng. Sở dĩ tôi không già cũng do những liên hệ này mà ra. Dĩ vãng lạ lùng ấy bắt đầu từ những năm trước đại chiến thứ hai, tôi đã hơn 40 tuổi, đã tạo được tiếng tăm trong y học và sinh vật học trước khi chuyển qua di truyền học và bí quyết trường sinh bất lão.
Khi chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ với vụ Lư cầu Kiều, và Hít-le võ trang mạnh mẽ nước Đức, đời sống ở Âu Châu vẫn bình thản, tôi đang kiếm tiền như nước và chơi bời kinh khủng. Anh tính, ban ngày thì ở trong phòng mổ, tôi mổ từ sáng đến tối, và mổ rất giỏi nên bệnh nhân và bạn đồng nghiệp trọng vọng, tối về phòng thí nghiệm, từ 9, 10 giờ trở đi, tôi la cà xuống xóm, nhiều khi 4, 5 giờ sáng chưa về. Về nhà, chỉ chợp mắt qua loa là phải đi bệnh viện. Cuộc sống phí sức này đã làm thân thể tôi yếu đuối, và tôi trở thành ông già, mặc dầu tôi mới 43, 44 gì đó. Tôi già trước tuổi, tóc bạc gần hết, mắt hoa, đầu gối và bàn tay run... khiến cho lưỡi dao giải phẫu mất tính cách chính xác, và quân đội Pháp vừa bại trận, nước Pháp bị chiếm đóng thì tôi cũng phải... giải nghệ y sĩ giải phẫu.
May thay, tôi gặp nàng. Nhờ nàng, tôi đã tìm lại được hương vị của cuộc đời thanh xuân. Tôi làm lễ cưới nàng trùng vào ngày tướng Đờ-Gôn lên tiếng trên đài bá âm Luân-Đôn, kêu gọi dân chúng Pháp kháng chiến chống Đức Quốc Xã.
- Ngày 18-6-1940?
- Phải, ngày 18-6. Năm ấy tôi đã 48. Nàng là người Trung Hoa, giòng họ Lý, nổi tiếng bên Tầu, không phải về thơ văn mà về kỷ lục sống lâu. Nàng là con gái của Lý Trương Uyên, người phá kỷ lục sống lâu nhất trên thế giới, 256 tuổi mới chết <3>. Sau vụ Lư cầu Kiều, nàng trôi giạt sang Âu Châu, gia đình nàng cũng ly tán tại Hoa Lục. Nàng kể cho tôi nghe gốc gác của nàng, trong giòng họ nàng, yểu ra cũng sống trên 150 tuổi, tôi là nhà khoa học nên không tin, chắc anh cũng biết khoa học rất nghiệt ngã, chỉ phê phán trên những bằng chứng cụ thể và xác đáng, về vụ ông bành tổ Lý Trương Uyên báo chí có nói song giới khoa học không công nhận. Không riêng vụ này, nhiều vụ phá kỷ lục khác cũng không được chính thức công nhận như ở Liên Sô sống 190 tuổi <4>, Hung Gia Lợi, 185 tuổi, Ba Tư 185 tuổi. Theo thống kê, thì trong số 2.100.000 người mới có thể có một người sống đến 115 tuổi, và con người sống thọ nhất chỉ được 114 tuổi, tên là Du-be <5>.
Nàng nói, tôi không tin, nhưng thời gian qua, tôi bắt buộc phải tin. Tôi chung sống tình vợ chồng với nàng, dần dà tôi trẻ ra, tóc tôi đang bạc hóa ra đen, những nếp nhăn biến mất, sức lực tôi trở nên dồi dào như thể tôi mới 35, 39 tuổi, tôi có cảm tưởng là được dùng thuốc cải lão hoàn đồng.
- Bà ấy cho cho ông uống thứ thuốc nào lạ không ?
- Không, hoàn toàn không. Mãi sau này tôi mới khám phá ra. Vợ chồng đi lại với nhau, những tế bào trong bộ phận sinh dục của nàng đã qua cơ thể tôi và đó là những yếu tố làm thay đồi tạng phủ và giúp tôi trẻ lại. Giờ đây, chuyện này không còn là chuyện hoang đường nữa, nhưng cách đây 30 năm, không ai dám khẳng định rằng tuổi thọ có thể tăng lên gấp đôi, gấp ba nhờ những hóa chất chứa đựng trong tế bào mà mắt thường không nhìn thấy.
Nàng rất đẹp, đàn bà phương Tây còn mỏi chân mới theo kịp nhan sắc của nàng. Không những đẹp, nàng còn trẻ nữa. Ngày cũng như đêm, lúc nào nàng cũng tươi như bông hồng vừa được tưới nước. Tôi không hỏi tuổi nàng, vì căn cứ vào thân thể và lối sống của nàng, tôi biết chắc nàng chỉ độ 25, 26 tuổi. Anh tính, hồi ấy tôi 48 tuổi, cưới được con gái 25, 26 đẹp đẽ, phúc hậu, sướng quá Lưu Thần, Nguyễn Triệu lên tiên, tôi còn tra khảo số tuổi thật của nàng làm gì nữa.... Té ra tuổi nàng không phải như vậy. Anh thử đoán tuổi thật của nàng hồi ấy là bao nhiêu ?
- Bằng tuổi ông.
- Bằng tuổi tôi, nghĩa là 48 ư ? Còn lâu, anh Văn Bình ơi. Tôi nói ra, hẳn anh không ngờ. Hồi ấy, khi nàng nói cho tôi biết sự thật, tôi đã ngớ ngẩn suốt mấy tiếng đồng hồ. Hồi ấy, vợ tôi đã 82 tuổi rồi anh ạ...
- Bao nhiêu ? ông nói bà ấy bao nhiêu tuổi ?
- 82.
- Trời ơi, đàn bà 82 mà lấy chồng 48. Nếu ông không phải là giáo sư Bửu Khoa, có lẽ tôi bịt tai không nghe nữa.
- Ông Hoàng cũng đã có lần dọa bịt tai như anh. Vợ tôi đã hơn 80 thế mà vấn đề sinh lực lại nóng bỏng như con gái. Nàng cho biết con gái họ Lý sống thọ hơn con trai. Nếu cuộc đời tiếp tục chạy nhịp bình thường, thì ngày nay vợ tôi vẫn còn, nàng mới 110 tuổi... Nhưng trời đã bắt chúng tôi nửa đường đứt gánh, vợ tôi từ trần trong một tai nạn xe hơi. Nàng chết là tại tôi, tôi hẹn nàng 4 giờ chiều chờ tôi để đến viện bảo tàng coi một bức danh họa, tôi lại về chậm, đúng hơn, tôi quên phứt, mãi đến gần 5 giờ tôi mới nhớ ra và hối hả quay xe về nhà thì nàng đã được một người bạn chở đi. Xe hơi của người bạn này gặp tai nạn và vợ tôi tử thương.
Từ đó, tôi mắc bệnh coi đồng hồ cả ngày và hẹn đúng từng giây từng phút. Tôi không thể bỏ Ba Lê để về Sàigòn vì vợ tôi đã yên giấc ngàn thu ở Ba Lê và tôi đã hứa hàng ngày đến thăm mộ nàng.
Và cũng từ đó, tôi lăn xả vào công cuộc nghiên cứu di truyền học. Vì nếu tôi khám phá được những bí mật về sự sinh sản của tế bào tôi đã có thể cứu sống vợ tôi. Nàng bị thương nơi tim, nàng chỉ có thể thoát khỏi nanh vuốt Tử Thần nếu tôi chế tạo được trái tim mới. Nhưng nói thì dễ, còn làm thì khó nên công cuộc nghiên cứu của tôi gặp hết thất bại này đến thất bại kháv. Cho đến ngày tái ngộ Tôlan.
- Trước kia ông đã quen Tôlan ?
- Phải, chúng tôi quen nhau ở Ba Lê, thoạt đầu ở trường đại học, tôi học thuốc, Tôlan học sinh vật học, sau đó, tôi ra trường, mở phòng mạch, Tôlan trở thành bạn thân của vợ chồng tôi. Tôlan có khiếu đặc biệt về di truyền học, hồi ấy hắn đã được giới khoa học quốc tế chú ý, nhưng đại chiến chấm dứt, Tôlan rời Ba Lê để về nước, ở Nam Tư. Rồi chúng tôi mất tin tức của nhau. Mỗi lần có hội nghị di truyền học, tôi đều tìm kiếm Tôlan song hắn đã hoàn toàn biệt tích, tôi ngỡ hắn đã chết, hoặc bị giam cầm. Vì hắn là người ưa sống tự do, tất không kham nổi những sự kềm kẹp của chính quyền Cộng sản. Đùng một cái, hắn gõ cửa nhà tôi tại Ba Lê. Thì ra hắn bị bịnh ung thư, trong 10 năm chống lại Thần Chết, cũng trong thời gian này, hắn mai danh ẩn tích, sống thầm lặng trong phòng thí nghiệm để chọc thủng màn bí mật di truyền học.
Hắn đến thăm tôi với hai mục đích : thứ nhất, tham dự một hội nghị chuyên môn, thứ hai, báo tin là hắn đã bình phục. Khi đó, giới khoa học Đông Tây đang xôn xao về cuộc thí nghiệm của hai bác sĩ Shettles và Petrucci <6> nuôi "trứng" trong ống thủy tinh để thành bào thai.
Cuộc thí nghiệm này cho thấy khoa học có thể chế tạo được con người. Đáng kể hơn nữa là hai cuộc thí nghiệm khác của bác sĩ Gurdon và bác sĩ Spiegelman <7>. Bác sĩ Speilgeman thành công trong việc chế tạo một vi khuẩn đặc biệt, nói theo từ ngữ điệp báo là vi khuẩn phản gián, nên nó giống hệt các vi khuẩn sanh bệnh, song nó lại giả vờ kết tình đồng chí với chúng để đánh từ bên trong đánh ra. Còn bác sĩ Gurdon thì lấy một hột "trứng" của con ếch, dùng tia cực tím giết chết cái nhân của nó, và thay vào bằng cái nhân rút từ tế bào con cóc, kết quả là chế tạo được một bào thai nửa ếch nửa cóc. Anh đã thấy rõ chưa ? Khoa học chế tạo được ếch nhái tất một ngày kia sẽ chế tạo được con người. Con người sẽ hết bệnh tật vì sẽ có các loại vi trùng, vi khuẩn phản gián, nội tuyến giữ vai trò phòng thủ.
Sự có mặt của Tôlan đã làm toàn thể hội nghị kinh hoàng. Vì tất cả những cuộc thí nghiệm của Shettles, Petrucci, Spiegelman và Gurdon, đã được Tôlan hoàn thành từ lâu, và đạt được những kết quả không ai ngờ nổi. Sáng hôm ấy, đến phiên Tôlan tường trình trước hội nghị, kèm theo những hình chụp và vật dụng chứng minh, thì Tôlan bị bệnh tim đột ngột tại hội trường, đúng 5 phút trước giờ khai mạc.
- Thưa... Tôlan bao nhiêu tuổi ?
- Kém tôi 10 tuổi. Hắn độ 66, 67 gì đó. Tuy vậy, hắn già hơn tôi nhiều. Vì lẽ vợ hắn không phải là giòng giõi của Lý Trương Uyên.
- Có thật ông ta phải ngưng cuộc thuyết trình vì bệnh tim không ?
- Tôi không thể trả lời. Hôm ấy tôi bị cúm nên phải ở nhà. Đến khi tôi được tin thì Tôlan đã lên máy bay về thẳng Nam Tư. Và từ đấy đến nay, không ai nghe nói đến Tôlan nữa. Chính phủ Cộng sản Nam Tư không cho biết hắn còn sống hay chết và nếu còn sống thì hiện ở đâu, và làm gì. Thư từ gửi cho hắn đều bị hoàn trả.
Rồi ông Hoàng liên lạc với tôi, yêu cầu tôi tìm mọi cách đưa Tôlan ra khỏi bức màn sắt.
- Nghĩa là Tôlan còn sống ?
- Phải, còn sống nhăn, ông Hoàng phái một nữ nhân viên sang đây gặp tôi. Tên cô ta là Nguyên Hương, nghe đâu là bí thư trưởng của ông Hoàng. Nguyên Hương cho tôi coi một xấp ảnh chụp Tôlan ở trong một trang trại hẻo lánh cách thủ đô Nam Tư gần 50 cây số. Những tấm hình này cho thấy ông Hoàng đã nghĩ đến Tôlan từ trước và nếu không vấp phải những trở ngại lớn lao, ông ta đã không phiền đến tôi.
- Chắc trang trại của Tôlan được công an mật vụ bảo vệ hết sức kiên cố, không thể đột nhập được... !
- Dĩ nhiên. Tôi dùng chữ "pháo đài" để mô tả trang trại này cũng không ngoa. Nó nằm trên đỉnh một ngọn đồi trọc, lên xuống chỉ có một con đường vòng duy nhất, hàng rào được truyền điện cao thế, khu vườn cũng như các phòng trong nhà được canh phòng bằng máy vô tuyến truyền hình, chó bẹt-giê và một đội cận vệ.
- Tôlan bị giam lỏng ?
- Không. Hắn được tự do xê dịch, vả lại, vấn đề kiểm soát an ninh không thể đặt ra với Tôlan vì hắn có công với kháng chiến và là bạn của thống chế Titô, nhà độc tài cai trị Nam Tư từ sau thế chiến thứ hai đến nay. Titô rất trọng hắn, mặc dầu hắn cứng đầu như con lừa. Không trọng cũng không được vì Tôlan là tài sản của Nam Tư, nếu Tôlan bất mãn, bỏ trốn ra nước ngoài thì hàng chục cường quốc sẵn sàng đánh nhau bươu đầu sứt tai để giành giựt hắn...
- Tôlan không bất mãn ?
- Không, ông Hoàng chịu thua, và nhờ tôi giúp một tay sau khi ông nhận thấy không thể tổ chức bắt cóc hoặc khai thác sự bất mãn. Gặp tôi, Nguyên Hương đưa ra một số kế hoạch nhằm thúc giục Tôlan xuất ngoại với sự đồng ý và bão trợ của nhà cầm quyền. Vì tôi phải giáp mặt Tôlan mới hy vọng lôi kéo được hắn. Nhưng chính phủ Nam Tư đã cấm Tôlan xuất ngoại vì lý do an ninh, muốn giải tỏa lệnh này, phải nhờ đến thống chế Titô.
Như anh đã biết, Titô không còn trẻ nữa. Những người hét ra lửa, quen cai trị, quen sống sung sướng, đều là những người thèm sống lâu. Từ ngày ăn mừng thượng thọ 70 đến giờ, Titô có vẻ lo lắng nhiều hơn trước, sức khỏe của ông ta suy sút rõ rệt, ông ta sai nhân viên đến khắp hang cùng ngõ hẻm để kiếm thuốc trường sinh bất lão, song họ đều quay về tay trắng. Titô theo dõi chặt chẽ công cuộc khảo cứu của Tôlan, vì nếu Tôlan thành công, ông ta sẽ có thể tiếp tục làm Chủ Tịch xứ Nam Tư đến ngàn năm như ông già trong thánh kinh công giáo <8> hoặc ông Bành Tổ Trung Quốc <9>.
Qua trung gian của báo chí, ông Hoàng báo cho các cố vấn của thống chế Titô về một khám phá mới trong lãnh vực di truyền học : đó là làng Vin-ca-bam-ba ở cộng hòa Êquatơ, thuộc Nam Mỹ. Tại làng này, sống trên trăm tuổi là thường. Nhiều chuyên viên trên thế giới đã đến tận nơi để tìm hiểu. Họ cho biết sở dĩ dân làng này sống đại thọ là nhờ nước uống trong vùng rất tinh khiết, và trồng một số rau đậu do họ tự tay trồng trọt. Tin tức về làng Vil-ca-bam- ba <10> được truyền đến tai thống chế Titô như tên lửa trên đường thuốc súng, và Titô triệu Tôlan đến hỏi ý kiến. Tôlan chưa có cợ hội nào khảo sát phong thổ một nơi có nhiều người sống trên trăm tuổi nên ngỏ ý muốn đi. Nếu là đi phó hội quốc tế, hoặc mở một cuộc khảo sát thông thường thì Titô đã từ chối, đằng này, Tôlan xuất ngoại là để tìm phương thuốc trường sinh cho mình nên Titô chấp thuận một cách vui vẻ.
Mặc dầu Tôlan được một số cận vệ tháp tùng suốt ngày đêm, tôi vẫn gặp được hắn và thực hiện kế hoạch của ông Hoàng. Tôlan cũng góa vợ như tôi, song tôi không có con chính thức, còn Tôlan có một đứa con gái. Trong trận đại chiến thứ hai, hắn yêu một nữ họa sĩ cũng người Nam Tư, hai người không lấy được nhau vì hoàn cảnh gia đình, sau khi hòa bình trở lại, họ hồi hương và tuy chưa là vợ chồng, họ đã có con với nhau. Họ sắp sửa làm hôn thú để có thể chung sống công khai hợp pháp thì tai biến xảy ra. Thân phụ của người vợ dính líu vào âm mưu chống thống chế Titô, phải bỏ nước trốn đi, và Tôlan bỗng dưng mất cả vợ lẫn con, đứa con gái xinh xắn hồi ấy còn ẳm ngửa.
Người vợ nếu còn sống thì bây giờ độ 45, 46 tuổi. Nàng khá đẹp, học giỏi, lại trẻ, ngoan, sinh trưởng trong một gia đình quý phái, khiến Tôlan không thể quên nàng. Thân phụ nàng lưu vọng sang Hoa Kỳ và dường như khi đứa trẻ lên 8, 9 tuổi thì nàng mang bạo bệnh tư trần. Mỗi lần đến Ba Lê, Tôlan đều nhờ tôi điều tra tông tích của đứa trẻ, hắn không dám nhờ các cơ quan an ninh Nam Tư, sợ bị liên lụy thì ít, mà sợ họ giết đứa trẻ thì nhiều.
- Ông Hoàng đã tìm ra đứa trẻ và dùng nó làm cái mồi nhử Tôlan ra khỏi bức màn sắt.
- Đúng, ông Hoàng đã tìm ra đứa trẻ. Nhưng đứa trẻ này đã lớn, trở thành một cô gái tuyệt đẹp. Gặp Tôlan tại Nam Mỹ, tôi cho hắn coi xấp ảnh con gái hắn, từ ngày lọt lòng, nằm nôi, chập chững biết đi, cắp sách đến trường mẫu giáo đến ngày trưởng thành, với những nét giống mẹ như đúc, với tài vẽ bay bướm của mẹ. Chẳng hiểu ông Hoàng có bùa phép nào mà kiếm được cả một số thư từ của người mẹ. Bà này viết nhiều thư cho chồng. Viết nhưng không gửi. Và để lại một cuốn nhật ký. Tôi là nhà khoa học, chỉ quen với phòng thí nghiệm, ít thích tình cảm vụn, vậy mà đọc qua tập thư và mấy trang nhật ký tôi cũng nôn nao gan ruột. Tôi là người ngoại cuộc mà còn xúc động như vậy, chẳng hiểu người trong cuộc như Tôlan phải bị xúc động đến đâu nữa...
- Sau đó Tôlan đòi đi tìm con ?
- Không. Hắn không nói gì cả. Hắn ngồi im rất lâu rồi rút khăn mù-soa lau nước mắt. Rồi đột ngột hỏi tôi "C.I.A. hay I s đưa những kỷ vật này cho anh ?", tôi đáp không, hắn hỏi tiếp "hay là cơ quan điệp báo Liên Sô ?", tôi lại đáp không. Hắn thở dài, nói "tôi hỏi cho biết đấy thôi, nếu những cơ quan này dính vào thì thật kẹt cho tôi, nhưng dầu bị kẹt tôi vẫn phải nhảy vào, vì anh là bạn thân, anh hẳn biết vợ tôi là người tôi yêu hơn cả yêu đời tôi nữa, và ngoài vợ tôi còn con tôi... ai đưa những đồ ấy, anh nói đi, tôi sẵn sàng làm theo những điều kiện của họ miễn sao cha con tôi được trùng phùng."
Tôi nhắc đến tên ông Hoàng và sở Mật Vụ thì Tôlan mỉm cười, có vẻ không còn thắc mắc nữa. Tôi chuyển cho Tôlan những điều kiện của ông Hoàng : rời Nam Tư đi Sàigòn, ký khế ước phục vụ trong một thời gian tối đa là 10 năm, tối thiểu là 5 năm, về quyền lợi vật chất không đặt giới hạn, đền bù lại, Tôlan sẽ được tái hợp với con gái. Tôlan nhận lời. Hắn xin phép trở về Nam Tư để thu xếp, và trong vòng hai tháng sau kiếm cớ đi Nam Mỹ chuyến nữa hầu trốn qua Ba Lê.
Giọng nói của Nguyễn Phước Bửu Khoa trầm hẳn như sợ những vành tai lạ nghe trộm :
- Tôlan đã đúng hẹn. Gần hai tháng sau, hắn qua Ba Lê.
Văn Bình chăm chú nhìn Bửu Khoa. Thân thể ông ta khá đẫy đà, cái ba-đờ-suy bằng vải len dầy càng làm tăng vẻ đẫy đà. Trông ông, đố ai dám đoán tuổi hơn 60, chứ đừng là 77 nữa. Vậy mà tuổi thật là 77, như ông ta xác nhận. Nếu có cuộc thi làm tình, vị tất Bửu Khoa chịu thua thanh niên ba, bốn mươi. Chàng đã quen nhiều thanh niên mới một dúm tuổi trên đầu mà khối óc đặc sệt, tay chân khòng khèo, chưa đụng đến đàn bà đã thở hổn hển như mới dự cuộc đua việt dã mấy chục cây số.
Bửu Khoa gật đầu :
- Phải.
- Tôi muốn gặp Tôlan ngay được không ?
- Không được, vấn đề tiếp xúc đã được dự liệu từ trước. Phi cơ từ Nam Tư chỉ đến đậu lại trường bay 3 tiếng đồng hồ để đổ nhiên liệu và rước thêm hành khách. Tôlan đã lỉnh ra ngoài, thuê tắc-xi về trung tâm thành phố. Theo kế hoạch, hắn chỉ gọi điện thoại báo tin cho tôi, chứ không đích thân đến nhà tôi. Vì không riêng Nam Tư, mọi chính phủ trên thế giới đều muốn tóm cổ hắn, mang về làm việc. Phản gián Nam Tư không thể không biết Tôlan là bạn thân của tôi. Thế tất sau khi Tôlan biệt tích, họ phải theo dõi chỗ ở của tôi và hành động của tôi.
- Như vậy ông còn sai Lệ Liên đưa tôi về đây làm gì ?
- Tôi không biết. Tôi chỉ áp dụng đúng những chi tiết được ghi sẵn trong kế hoạch của ông Hoàng.
- Tôlan hiện trú ở đâu ?
- Tôi không biết. Nếu biết nơi hắn ở thì công việc của tôi đã giản dị hơn nhiềụ. Tôi chỉ cần lái xe đến, chở hắn ra ngoại ô là xong. Ba Lê như mê hồn trận, tôi có nhiều địa chỉ vô cùng kín đáo, giấu cả một tiểu đoàn binh sĩ cũng còn thừa chỗ, huống hồ chỉ có một mình Tôlan và người thư ký.
- Thư ký riêng ?
- Phải. Mà là nữ thư ký. Tôlan cũng thích bay bướm như tôi. Vả lại, hầu hết đàn ông bận bịu khoa học đều cảm thấy cô độc, và muốn kết bạn với đàn bà đẹp. Cô thư ký riêng của Tôlan vừa đẹp, khỏe, lại vừa trẻ nữa.
- Cũng chưa bằng Lệ Liên và Diễm Hà của ông.
- Cám ơn anh cố ý khen tôi, nhưng sự thật là cô thư ký của Tôlan trội hơn nhiều. Nhưng chúng ta phí thời giờ bàn luận sắc đẹp của thiên hạ làm gì hả anh Văn Bình ? Tôi nghĩ rằng đêm nay anh còn phải thăm viếng nhiều bạn bè, trời sắp tối, thủ đô Ba Lê ban đêm là cõi thiên đường, anh bó gối trong phòng thật uổng.
- Vâng, tôi xin cáo từ, còn xác chết của gã thẹo này ?
- Chẳng sao, chỉ cần 10 phút là hơn trăm kí thịt xương của hắn sẽ biến ra nước trong buồng tắm.
Văn Bình mở cửa, định bước ra ngoài. Nhưng Nguyễn Phước Bửu Khoa vội nói:
- Không, không, mời anh đi ra lối này.
Hồi nãy, Văn Bình đã quan sát căn phòng. Ngoài cánh cửa bằng gỗ tếch nặng phục phịch mở ra hành lang, chàng không thấy cánh cửa nào nữa. Té ra Bửu Khoa dẫn chàng vòng qua giảy bàn dài, bên trên kê những dụng cụ thí nghiệm bằng pha lê và kim khí bóng loáng, để đến một tấm rèm nhung đen. Bửu Khoa kéo rèm. Phía sau là cái tủ đựng sách, nằm trong lỗ hẻm hình vuông của tường phòng. Bửu Khoa đẩy cái tủ sang bên. Một cánh cửa nhỏ lộ ra.
Phòng làm việc của Bửu Khoa được thiết trí bí hiểm không kém buy-rô một yếu nhân điệp báo.
Như thể đọc được tư tưởng của chàng, Bửu Khoa mở cửa cho chàng chui qua, miệng nói:
- Anh kinh ngạc phải không ? Thú thật với anh, tác giả của cánh cửa hiểm hóc này không phải là tôi. Mà là của một ông hoàng đa tình dưới triều vua Lô-Y thập tứ. Nhà vua nổi tiếng đa tình cho nên quần thần và giới quý tộc cũng lây bệnh đa tình. Chủ nhân tòa nhà này lại đa tình kinh khủng, ông ta giữ một chức lớn trong triều, được vua nể vì, sản nghiệp đã to lớn, ông ta lại còn đẹp trai nữa nên đàn bà, con gái đẹp theo sau cả đống, ông ta sai đào một cái hầm riêng, trang bị đầy đủ tiện nghi, ra vào bằng cửa bí mật, để hẹn hò với giai nhân, khỏi bị bà xã ghen tuông. Lẽ ra tôi gặp anh ở một địa điểm khác nhưng ông Hoàng không đồng ý. Kế hoạch của ông Hoàng được vạch rõ từng li từng tí làm tôi phát sốt. Tiếp xúc xong với anh, tôi phải đi ngay, về phần anh, anh sẽ về bằng cửa hậu.
- Có lẽ ông Hoàng sợ bại lộ.
- Hư... Nếu sợ bại lộ tại sao lại mời anh rầm rộ đến bằng cửa trước. Phản gián Pháp và do thám địch tất phải nhìn thấy. Tôi không tin là họ thông manh. Đúng rồi, anh Văn Bình ơi, ông tổng giám đốc của anh đã bắt đầu lẩm cẩm. Khó ai qua tuổi 70 mà thoát khỏi lẩm cẩm.
- Thưa ông, còn lâu ông Hoàng mới lẩm cẩm. Các cộng sự viên ở đây biết đường hầm này không ?
- Không. Trừ chú Sáu.
- Nghĩa là chú Sáu được tin cậy hơn Lệ Liên và Diễm Hà ?
- Tôi không định nói thế. Chú Sáu sinh sống luôn tại đây với tôi nên không thể không biết, còn Lệ Liên và Diễm Hà chỉ đến làm việc.
Hai người đi qua một hành lang hẹp rồi bước xuống cầu thang hình xoắn ốc. Bửu Khoa mở đèn bấm, một vệt sáng xanh quét trên nền nhà bằng đá láng bóng. Một mùi thơm quen thuộc xông vào mũi Văn Bình. Mùi rượu vang đựng trong thùng gỗ. Pháp quốc là nơi sản xuất rượu vang ngon nhất thế giới, nhà quyền quý nào cũng có hầm rượu. Lần nào ghé Ba Lê, Văn Bình cũng đều không quên ghé thăm cái hầm đặc biệt của một đồng nghiệp điệp báo bợm nhậu hỗn danh là "vua rượu" <11>. Hầm của hắn chứa hàng vạn lít rượu đủ loại, hắn o bế hơn cả ông già 35 o bế gái tơ, không khí trong hầm luôn luôn mát mẻ, dầu ngoài trời nắng hè chảy mỡ hoặc tuyết đông giá buốt, hàn thử biểu ở đó phải giữ vững từ 10 đến 14 độ, để bảo vệ rượu vang, mọi kẽ hở được bịt kín để những mùi lạ khỏi lọt vào hầm, và tường hầm còn được lót lát-tích hãm thanh như phòng ghi âm thượng thặng hầu tiếng động phố xá không đến làm kinh động giấc nghỉ êm ái của nàng... vang...
Hầm rượu của Bửu Khoa không khác hầm rượu được liệt vào hạng thượng lưu của "vua rượu". Nghĩa là nền nhà có vẻ ẩm ướt mà khí hậu lại có vẻ khô ráo. Văn Bình đê mê như đang lạc vào thế giới không âm thanh, đâu đây chỉ có hương thơm trinh nguyên ngào ngạt. Bửu Khoa tắt đèn bấm :
- Ông thấy rõ đường đi rồi chứ ? Xin lỗi ông nhé, tôi có mấy két rượu trắng phải cất trong tối. Hễ ra gặp ánh sáng, nhất là ánh đèn, nó sẽ ngả ra màu vàng. Và không thơm ngon như cũ nữa.
Văn Bình nói, giọng vui vẻ :
- Không sao, tôi cũng là dân mê rượu như ông. Rượu vang ngon thường sợ ánh sáng.
- Trời, tôi cứ đinh ninh ông chỉ biết uống whuýt-ky.
- Vâng, whuýt-ky là món tôi khoái khẩu nhất. Nhưng tôi đâu dám... chê rượu vang. Vì rượu vang cũng như đàn bà ấy.
- Ông nói đúng. Người ta bảo rằng đàn bà Pháp khá đẹp và khá ngon lành là do rượu vang.
Pháp có cả thảy 350 vùng trồng nho khác nhau thì cũng sản xuất 350 loại đàn bà khác nhau <12> sở dĩ tôi ở lì lại đây, không chịu hồi hương là vì tôi trót đa mang rượu vang biết nói cũng như rượu vang không biết nói. vả lại, hồi vợ tôi còn sống, nàng cũng mê rượu vang như tôi. Nàng tậu được một thửa vườn nho nổi tiếng, nho ở đó ép thành rượu đặc biệt gửi về Ba Lê, mỗi ngày tôi đều cúng rượu cho nàng. Lạ thật ông ạ... tôi đã yêu hàng ngàn, hàng vạn đàn bà trong đời, vậy mà tôi vẫn không quên được nàng.
Nguyễn Phước Bửu Khoa nín lặng. Văn Bình chỉ nghe thấy tiếng giầy của nhà bác học gõ đều đều trên sàn hầm. Chắc ông ta đang thả hồn về dĩ vãng. Cuối hầm có một ngọn đèn điện le lói. Bửu Khoa chỉ cánh cửa sắt nhỏ ở góc :
- Hầm này ăn luồn dưới đất sang biệt thự kế bên. Một biệt thự cổ, khá rộng, chủ nhân là một bà già thuộc giòng vua chúa, bà này mắc bệnh bán thân bất toại, quanh năm nằm trong phòng trên lầu do vợ chồng tên tài xế hầu hạ. Vợ chồng lão tài xế cũng không có con cháu nên căn nhà vắng tanh vắng ngắt, ông tha hồ nghênh ngang trong vườn, khỏi sợ ai bắt gặp. Ông nhớ nhé, mở cửa sắt ra, có cầu thang gạch dẫn lên trên mặt đất. Trên đó là cái lăng được xây bằng đá cẩm thạch, bà già chủ nhân làm chúc thư để được chôn cất trong lăng, nhưng hiện nay bà già vẫn sống nhăn nên lăng này mọc đầy cây cỏ. Chung quanh lăng có cây ăn trái xum xuê, ban ngày ông cũng có thể vào ra tự do, chứ đừng nói là ban đêm, trời tối om nữa. Sau hàng rào cây ăn trái là đường phố. Thôi chào ông, hẹn sáng mai.
Nguyễn Phước Bửu Khoa nắm bàn tay chàng khá lâu. Dường như ông ta muốn nói điều gì mà hoàn cảnh không cho phép. Mãi đến khi cánh cửa sắt nghiến kèn kẹt trên bản lề rỉ sét, ông ta mới gọi chàng :
- Nè, ông Văn Bình, ông tổng giám đốc có dặn ông điều gì đặc biệt nữa không ?
Văn Bình hơi biến sắc. Chàng đã ngậm miệng kịp để tiếng "không" kẹt lại trong cuống họng. Chàng có linh tính là Bửu Khoa vừa nhắc đến một điểm hệ trọng. Chàng bèn nhún vai, đáp lưỡng :
- Có. Cũng có dặn một vài điều như thường lệ.
Bửu Khoa lắc đầu :
- Không, đây là một chuyện hơi đặc biệt, ông Hoàng hứa trao cho Tôlan một bức thư mới nhất do con gái Tôlan viết cho cha. Kèm theo tấm hình mới nhất.
Trời ơi ! Văn Bình chân ướt chân ráo đến Ba Lê, chưa kịp ăn cơm, chưa kịp gọi điện thoại hỏi thăm các cô bạn quen thuộc, chàng chưa hề tiếp xúc với nhân viên nào từ Sàigòn bay qua. ông Hoàng chỉ ra lệnh bằng mật điện, một bức mật điện ngắn ngủn, là chàng đến gặp Nguyễn Phước Bửu Khoa và từ đó đến giáo sư di truyền học Tôlan. Thế thôi. Ngoài ra, không còn gì nữa khác. Giờ đây Bửu Khoa đòi thư, đòi hình để nộp cho Tôlan, chàng xoay ở đâu ra những của nợ ấy ?
Tuy vậy chàng chỉ ừ hử, lựa lời đối đáp. Bửu Khoa hỏi dồn :
- Ông có mang theo lá thư và tấm hình ấy không ?
Bắt buộc chàng phải đối phương là "có". Song chàng cố tìm cách hoãn binh :
- Vâng, tôi sẽ đưa những vật này cho Tôlan vào sáng mai.
Bửu Khoa lại ngần ngừ một vài giây trước khi hỏi bằng giọng ngạc nhiên :
- Còn cái... của tôi ?
Văn Bình đành khất liều :
- Cũng xin hẹn đến sáng mai.
Bửu Khoa ra vẻ ngạc nhiên hơn :
- Phiền quá nhỉ ! Lẽ ra tôi và ông Hoàng là bạn thân từ nhiều năm nay, vấn đề tiền bạc không nên đặt ra, nhưng chính cô Nguyên Hương đã thay mặt ông Hoàng lặp đi lặp lại là sau vụ này tôi cần qua Mỹ một thời gian... Tôi nói tôi chỉ xin một số tiền nhỏ để tiêu pha dè xẻn 5, 7 tháng thì cô Nguyên Hương cho biết là ông Hoàng đã giành sẵn nửa triệu đô-la. Vâng, nửa triệu mỹ kim, ông Hoàng có nhã ý giúp tôi trang bị một cơ sở mới. Ngoài ra còn tiền thưởng cho Tôlan nữa.
Văn Bình chỉ có thể tỏ thái độ bằng sự nín lặng. Chàng giả vờ nhíu lông mày, bàn tay khum quanh tai để nghe ngóng, vẻ mặt thật nghiêm trọng, song Bửu Khoa đã cuời dòn :
- Ông quên rồi ư ? Hầm rượu này được hãm thanh. Cho dẫu ông ra đến cửa lăng và hét khàn cổ cũng không ai để ý...
- Không, tôi không nói như thế. Tôi vừa nghe được một tiếng động khả nghi.
Đứng bên chàng, Bửu Khoa nín thở. Chung quanh hai người thật ra chẳng có tiếng động khả nghi nào hết. Chẳng qua chàng bịa chuyện để đánh trống lảng vì ông Hoàng du chàng vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.
Bửu Khoa thì thào :
- Quái, tôi không nghe thấy gì cả.
Chàng thì thào lại:
- Có. Như thể tiếng chân người. Tiếng giầy đạp nhẹ nhẹ trên mặt đất. ông để mặc tôi đi một mình, tiện hơn.
Như cái máy, Bửu Khoa kéo cánh cửa sắt, và khóa lại. Trước mặt Văn Bình là bóng tối dầy đặc. Qua lớp cửa sắt, chàng vẫn nghe rõ tiếng thở gấp gáp của Bửu Khoa. Lời nói của chàng đã làm ông ta lo sợ thật sự. Bửu Khoa gõ hai tiếng vào cửa sắt, dường như để chúc chàng may mắn rồi quay về đường cũ.
Hơi lạnh, một hơi lạnh ghê gớm không biết từ đâu hiện ra vây kín Văn Bình.
Chú thích:
1. Bộ truyện z.28 này được viết trước ngày 4-3-1969, ngày mà khu chợ trung ương rộng 58 mẫu được nhà cầm quyền di chuyển ra vùng ngoại ô Rungis. Nguồn tin báo chí cho biết số người khổng lồ khuân vác hiện hành nghề ở Rungis chỉ còn chừng 350, và trong số này chừng 10 phần trăm là "dân chơi có hạng".
2. Muốn biết rõ về người vợ của ông Hoàng, và một trong những người bạn trai thân thiết của ông (tỉ phú Pô-lốt), xin đọc "điệp viên áo tím" đã xuất bản.
3. Theo tin báo chí, Lý Trương Uyên sinh năm 1680 và tạ thế năm 1936.
4. Ngoài kỷ lục 190 tuổi. Liên Sô còn khoe là riêng tại cộng hòa Nga (124 triệu dân) họ đếm được hơn 100 người thọ từ 120 đến 158 tuổi. Tại Azerbaijan và Géorgie có nhiều người thọ trên 100 tuổi.
5. Đó là Pierre Joubert, sinh tại Gia-nã-đại, ngày 15-7-1701 chết ngày 16-11-1814, thọ được 113 năm 124 ngày. Trường hợp của Joubert đã được chính phủ Gia-nã-đại điều tra và xác nhận.
6. Bác sĩ Landrum Shettles, thuộc đại học đường Columbia, Hoa kỳ, và bác sĩ Daniele Petrucci, tại Bologne, Ý đại lợi.
7. Bác sĩ J.B. Gurdon tại trường đại học Oxíord, Anh Quốc và bác sĩ Sol Spiegelman tại trường đại học Columbia, Hoa Kỳ.
8. Ông già trong Thánh Kinh tên là Methouselah, ra đời trước nạn đại hồng thủy và sống được 985 năm.
9. Ông Bành Tổ sống dưới Đường Nghêu thuộc vùng Bành Thành được 700 tuổi mới chết.
10. Làng Vilcabamba này hiện có gần 90 ông già bà cả trên dưới trăm tuổi. Điều lạ là từ khi ra đời đến 15 tuổi có nhiều người chết, song đã quá 15 thì sống đến trăm tuổi. Tuy lớn tuổi, họ đều làm lụng suốt ngày, bí quyết có lẽ vì khí hậu thích hợp, từ 21 đến 28 độ, mỗi tuần ăn thịt một lần.
11. Muốn biết "vua rượu" là ai, xin đọc "Mây mưa Thụy Sĩ" đã xuất bản.
12. Nước Pháp có 350 vùng trồng nho, nhưng về số rượu vang thì có đến 250.000 thứ (xin nhắc lại 250 ngàn) thường gọi tên theo chủ vườn như Château-Yquem, Mouton Rothschild...
Toàn thân Văn Bình run lẩy bẩy. Chàng không phải là người sợ lạnh, hồi còn để chỏm, chàng đã tắm truồng trên giòng sông lạnh giá giữa lúc già trẻ lớn bé quấn quýt lấy đống lửa sưởi. Đối với chàng, khí hậu Bắc Băng Dương không khác mùa Thu ở vùng ôn đới là bao, dường như tạo hóa đã phú cho da thịt chàng một bí quyết ngăn lạnh, nhiều năm mài miệt võ công đã biến cơ thể chàng thành cái máy điều hòa tuyệt hảo, muốn nóng thì nóng, muốn lạnh thì lạnh.
Tuy vậy Văn Bình vẫn cảm thấy gây gây mỗi khi vào nhà xác. Hơi lạnh từ những xác chết toát ra len lỏi qua lỗ chân lông, ngấm sâu yào tạng phủ làm kình lực bị sút giảm và thần kinh hệ dao động. Hơi lạnh của con đường hầm phía sau cánh cửa sắt vừa được đóng lại còn lạnh hơn cả hơi lạnh trong nhà xác, với những quan tài bọc kẽm, những tràng hoa cườm và những tấm khăn trắng phủ mặt người chết.
Toàn thân Văn Bình run lẩy bẩy. Bửu Khoa nói là sau cửa sắt có cầu thang gạch dẫn lên trên mặt đất, song chàng chẳng thấy gì cả. Cặp mắt có dạ quang của chàng bỗng trở nên bất lực trong bóng đêm kiên cố. Cách đây một phút, chàng hù Bửu Khoa là tiếng chân này có thực. Có thật chứ không phải do trí tưởng tượng của chàng tạo ra...
Giác quan thứ sáu của chàng vừa báo động sự hiện diện của thần Chết.
Con đường hầm này có lẽ là một trong hàng trăm con đường hầm của thủ đô Ba Lê, dài tổng cộng 1.900 cây số <1>. Ba Lê là thành phố có nhiều đường hầm nhất, chưa kể đường hầm tối tân dành cho xe điện ngầm, gần 30 nơi xe đậu ngầm, chỉ riêng các đường hầm được tạo từ ngày xửa ngày xưa cũng đã choáng một phần mười diện tích. Và đây cũng không phải lần đầu Văn Bình đi dưới hầm trong cảnh vắng lặng, lạnh lùng, trong quá khứ, chàng đã viếng thăm khu nghĩa trang ngầm <2>, bước xuống 90 bậc thang, luồn qua một hành lang cao hai mét trước khi đến một cánh cửa có tấm bảng "dừng lại, đây là giang sơn của thần Chết!"
Gần 6 triệu bộ hài cốt được táng trong khu nghĩa trang ngầm này qua nhiều triều đại, song hơi lạnh ở đó không làm chàng run lẩy bẩy. Vì ở đó, hơi lạnh không lấy gì làm lạnh, và mặc dầu người ta đã báo động "giang sơn của thần Chết", chàng vẫn cảm thấy dững dưng.
Chàng vừa dẫm chân vào vũng nước. Vũng nước hay vũng máu, chàng không biết. Một mùi tanh tanh khác thường xông lên. Chàng nghe đâu đây có tiếng sột soạt. Chàng nép sát tường hầm. Bóng tối tiếp tục phủ kín mọi vật, chàng chỉ nhìn thấy lờ mờ những bậc thang. Trước khi đặt chân lên bậc đá, chàng sờ soạn tứ phía, cầu thang đá này là phần cuối của đường hầm. Bên trên là vườn. Là khu nhà thờ. Một trong các đặc điềm của nhà thờ ở Ba Lê cổ xưa là có nghĩa trang kèm bên. Nghĩa trang với những lăng tẩm uy nghi cửa vua chúa. Nghĩa trang với những con đường nhằng nhịt đào sâu dưới đất. Có lẽ Bửu Khoa đã vớ được họa đồ khu vực này nên biết có con đường hầm ăn thông sang biệt thự của bà già bán thân bất toại, và ông chỉ cần sai nhân viên đến lấp chặn lại thành hầm riêng <3> ...
Bậc thang đã có từ ba bốn trăm năm là ít, vì mặt trên hoàn toàn nhặn thín. Nhãn thín đến nỗi người bước vô ý có thể trượt ngã. Văn Bình đếm được 52 bậc. Chàng lên đến gần mặt đất bóng tối càng bớt tối, và chàng đã có thể quan sát được tường hầm gồm những tảng đá ong sù sì đầy rêu. Đến bậc thứ 52, cầu thang chấm dứt. Bậc thứ 53 là cái bao lớn rộng như bộ ván gỗ. Sau đó là một cánh cửa gỗ nhỏ xíu trổ trong tường. Văn Bình phải ngồi bệt xuống đất, và khom lưng lại mới chui ra lọt.
Đúng như Nguyễn Phước Bửu Khoa nói, chàng đã lên đến cái lăng bỏ trống. Cánh cửa gỗ được một tấm bia lớn hơn đầu người che khuất nên người ở ngoài không thấy.
Không khí trong lăng ẩm mốc và hôi hám làm chàng ngộp thở. Chàng đứng hồi lâu bên tấm bia, cái ấn tượng gặp gỡ nguy hiểm người chết vẫn tiếp tục ám ảnh tâm trí chàng. Tiếng sột soạt hồi nãy không còn nữa. Giờ đây chàng còn nghe được nhiều tiếng động, nhưng đó chỉ là âm thanh quen thuộc của ban đêm. Thật ra, trời mới tối, song đối với khu vườn quạnh quẽ này thì 8 giờ tối đã là ban đêm u uất...
Lăng được xây cất khá chắc chắn và tốn tiền. Bề cao của nó chỉ bằng phân nửa ngôi nhà trệt, nhưng về chiều dài dần 30 mét. trong chốc lát chàng đã ra đến bên ngoài. Bốn bề hoàn toàn yên tĩnh. Những thân cây lớn chắn ngang tầm mắt soi mói của chàng. Chàng đang ở trung tam thủ đô ánh sáng mà như lạc lối trong rừng rậm hoang vu.
Văn Bình bước rảo lại thân cây gần nhất. Trong vườn có hàng trăm cây cao um tùm như vậy. Bên phải chàng là tòa nhà đồ sộ của bà già bại liệt, từ một cửa sổ đóng kín trên lầu chiếu xuống một lằn sáng yếu ớt, còn ngoài ra không ngọn đèn nào được bật, không phòng nào được hưởng ánh đèn. Nữ chủ nhân đã trở thành đồng minh tuyệt hảo của chàng. Giá nữ chủ nhân còn trẻ, chàng đã không ngần ngại vù lên lầu, tặng một cái hôn thật kêu vang như pháo Tết.
Cái sân rộng bao la chìm lỉm trong bóng tối, hai người đứng gần nhau phải trợn rách khóe mặt may ra mới nhìn thấy mặt. Bên trái, phía sau những thân cây xếp hàng chữ nhất là một giàn hoa leo chạy dài. Và phía sau giàn hoa leo là bờ rào. Bờ rào của biệt thự bỏ hoang có khác, nó gồm một giãy cọc xi-măng cao hơn một mét đựợc cắm xuống đất, giằng lại với nhau bằng dây kẽm gai, song nhiều cọc đã đổ nghiêng nghiêng hoặc cụt đầu. Muốn từ trong vườn ra đường cái, người ta khỏi phải tốn sức lao động, co chân nhảy qua hàng rào "phòng thủ". Mà chỉ cần đạp lên những cọc xi-măng nằm mọp trên mặt đất.
Văn Bình đặt bước thật nhẹ, tuy vậy duới chân chàng vẫn phát ra những tiếng rào rào của lá héo bị nghiến vụn. Chàng không gặp một ai, phố sá hoàn toàn vắng vẻ, có lẽ đây là một cái hẻm sau lưng con đường "Hai cây cầu", với hai cây cầu nối liền đảo nhỏ này với hai bờ sông Sein.
Văn Bình đi men theo hàng cây dọc vỉa hè để đến đầu hẻm. Ngoài tiếng lạo xạo do chàng gây ra, cố gắng không còn nghe được tiếng động nào nữa. Những biệt thự bên đường đều thuộc loại kiến trúc cổ xưa cửa trên cửa dưới đóng im ỉm và đều không thắp đèn. Ba Lê là thành phố của những người thức khuya, nhưng con đường đìu hiu này lại đi ngủ quá sớm, sớm đến nỗi chàng có cảm tưởng là dân phố gồm toàn bà già bại liệt đã rủ nhau đi ngủ từ lúc mặt trời chưa tắt.
Văn Bình dừng bước, dạt vào một thân cây lớn, hai người ôm không xuể. Thân cây đồ sộ này giúp chàng quan sát toàn cảnh vật chung quanh. Chàng chưa hết băn khoăn vì cái ấn tượng bị thần Chết theo dõi vẫn chưa nhạt loãng trong tâm trí. Không những thế, nó còn đậm nét thêm nữa.
Bằng giác quan thứ sáu, chàng thấy rõ những bóng người bí mật đang bám gót chàng. Nhưng chàng không đoán đựợc vị trí của họ. Bóng tối ngoài đường không dầy đặc như ở dưới hầm nên chàng moi móc các ngõ ngách bằng luồn nhỡn tuyến sắc bén không mấy khó khăn. Nếu có người lạ rượt theo chàng phải nhìn thấy. Trừ ra họ là những con giơi đen sì đang vỗ cánh oàm oạp từ cành cây đen sì này đến cành cây đen sì khác.
Năm phút sau, Văn Bình ra đến đường lớn. Quẹo bên tay phải là cầu Ma-ri. Ánh sáng thủ đô lấy đêm làm ngày đã bắt đầu chiếu xuống mặt nhựa trơn bóng. Chàng đã gặp người qua lại và xe cộ lưu thông. Tuy mức độ lưu thông trong khu vực hạn chế này rất ít ỏi, chàng vẫn thấy vô cùng náo nhiệt, vì chàng vừa từ nơi tuyệt đối vắng lặng bước ra...
Bao tử chàng bỗng đau thắt lại. Chàng sực nhớ ra bụng đói. Không những đói ăn, mà còn đói uống nữa. Chàng bèn nhẩn nha lội bộ qua cầu. Sang đến bờ bên kia, chàng còn đếm bước thêm một quãng nữa. Đến khi biết chắc là không bị ai theo, chàng mới vẫy tắc-xi.
Chàng thở phào, nhẹ nhõm, buông phịch xuống nệm xe. Không khí hữu ngạn mát rượi làm chàng dễ chịu, có lẽ nhờ hơi nước từ dưới sông bốc lên. Nệm xe tắc-xi thường êm, tuy nhiên chàng lại có cảm giác như ngồi trong xa-lông đại lữ quán.Té ra đây là tắc-xi đặc biệt, loại tắc-xi chuyến thường đậu trước rạp hát và khách sạn sang trọng để rước khách sộp, không gắn đồng hồ nên khách phải trả tiền theo cuốc, theo sự thỏa thuận với tài xế.
Văn Bình êrn lưng, êm mông là đúng vì chàng đang ngồi trong xe DS. Tài xế đinh ninh chàng là du khách Viễn Đông ghé Ba Lê để tìm thú vui ban đêm nên chàng vừa an vị là xả ga phóng thẳng một mạch, không buồn hỏi khách như thường lệ "thưa, ông đi đâu ?"
Ánh đèn nê-ông, mỗi lúc một nhiều, trước mắt Văn Bình hiện ra hàng trăm, hàng ngàn con rắn ánh sáng rực rỡ. Tắc- xi đã đến đường Rivoli, một trong những con đường dài nhất và có nhiều hàng quán chói lọi nhất. Tài-xế vẫn rạp mình xuống vô-lăng. Dạ dầy cồn cào, cuống họng khô đắng, Văn Bình đành phải lên tiếng hỏi tài xế :
- Ô kìa, anh lái đi đâu thế này ?
Tài xế vẫn tống ga, không quay lại:
- Xuống xóm. Tôi tưởng ông dặn lái xe xuống xóm.
Nói đến xóm "chị em ta" thì phải đếm cả chục. Nhưng chỉ có 3, 4 khu là đáng kể và ở về miệt hữu ngạn này thì đáng kể nhất là Mông-mác và Pi-gan. Nếu chàng có thời giờ (không cần có nhiều tiền) chàng đã đồng ý với gã tài xế là chạy một lèo đến Mông-mác Ghé Ba Lê ma quên ghe xóm yên hoa thì ở nhà làm mọi cho bà xã con hơn..<7>.
Nhưng khốn nỗi chàng lại bận việc. Chàng lại lắc đầu :
- Không xuống xóm.
Tài-xế hỏi lại:
- Vậy, ông muốn đi đâu ?
Văn Bình đáp gọn :
- Đậu lại.
Tắc-xi đã quẹo phải vào đường Thư Khố. Lái xe cho du khách mới đến Ba Lê mà bỏ đại lộ Rivoli huy hoàng để rúc vào con đường vô danh tiểu tốt, thái độ của gã tài xế là thái độ ngu ngốc, nếu không phải là ngu ngốc cố ý.
Văn Bình phăng ra sự chủ tâm của gã tài xế thì đã muộn. Phập, một tiếng gọn, cửa xe được tự động khóa lại. Tài xế vừa bấm nút khóa tự động trên táp-lô. Lẽ ra, khi trèo lên chiếc DS kiếng quay kín mít, bên trong có máy điều hòa khí hậu tối tân, chàng phải đề cao cảnh giác. Chàng lại coi đó là chuyện thường, vì trong quá khứ chàng đã nhiều lần ngự tắc-xi không gắn đồng hồ trả tiền, và được trang bị máy móc tiện nghi. Chàng cũng tỏ vẻ thản nhiên khi thấy bên trong được ngăn đôi bởi tấm kiếng dầy. Kiểu DS 21 này được chế tạo riêng cho các ông bự, đắt gấp rưỡi xe DS 21 thông thường. Tắc-xi đờ-luých thường có kiếng đậy ngăn đôi như vậy để đề phòng những vụ hành hung, cướp bóc có thể xảy ra, mặt khác, khách ngồi phía sau cũng được an toàn chuyện trò hoặc an toàn... làm tình.
Đến khi nút khóa cửa xe tụt xuống, và tài xế tống hết tốc độ đồng thời kiếng ngăn đôi sập kín, Văn Bình mới biết là sa bẫy. Đối phương quả là tay cự phách, họ không rình rập bên ngoài tòa nhà cô đơn của bà già bại liệt hầu dí súng bắt chàng giơ tay vì họ thừa rõ tài nghệ kinh thiên động địa của điệp viên z.28. Họ thừa rõ chàng sẽ đoạt súng. Họ thừa rõ đàn em của họ sẽ thành bao cát cho chàng tập đấm đá.
Cho nên, họ phải lập mưu. Nếu họ đậu xe ở gần cầu Ma-ri bên tả ngạn, Văn Bình sẽ nghi ngờ. Đằng này, chiếc DS đã rước khách ở hữu ngạn sông Sein, cách nhà của Nguyễn Phước Bửu Khoa cả cây số. Sự kiện ấy chứng tỏ đối phương đã bám sát chàng bằng các dụng cụ điện tử. Thảo nào chàng có linh tính là bị theo mà không nhìn thấy bóng người...
Điều chàng tiên liệu đã xảy ra. Gã tài xế khóa cửa, dập kiếng là để bơm khói mê vào sau xe. Chàng nghe tiếng xì xì êm tai, một luồng khói trắng bốc ra từ hai cái loa âm thanh nồi xinh xắn. Thoạt ngửi, chàng đã bải hoải tay chân. Chàng chưa khám phá ra đó là thuốc mê loại nào, vì trên nguyên tắc, các cơ quan điệp báo thế giới chỉ dùng một số hóa chất nhất định và Văn Bình cũng đã tập ngửi, tập chích cho quen.
Mùi khói trong xe thơm thơm như mùi bánh khảo nhân mứt hạt sen và mỡ ngào đường, thứ bánh khảo đặc biệt của tết Trung Thu ngoài Bắc. Văn Bình chưa ngửi mùi khói thơm thơm làm rệu nước miếng này bao giờ. Nghĩa là chàng sẽ khó thoát khỏi tình trạng hôn mê. Muốn thoát hiểm, chàng phải phá tung các cửa kiểng.
Sức khỏe của chàng có thể đập nát bức tường gạch, thế tất phá tung các cửa kiếng giam hãm trong xe không phải là chuyện khó khăn. Nhưng khốn nỗi, hóa chất do gã tài xế bơm vào lại có tác động quá nhanh chóng, Văn Bình không sao tập trung được chân khí vào đan điền hầu tống xuất lên cánh tay. Dầu sao chàng cũng không thể chần chờ thêm nữa, chàng bèn co tay, áp dụng chẩu-kình, choang mạnh tấm kiếng ngăn đôi.
Bình thường Văn Bình đánh bằng cùi trỏ rất mạnh. Nhưng khi chàng sung sức, đòn cùi trỏ của chàng có sức công phá không kém nhát búa tạ. Song tấm kiến vẫn trơ trơ. Văn Bình nhào luôn đầu gối. Tấm kiếng không hề rung chuyển. Thì ra tấm kiếng bề ngoài chẳng lấy gì làm dầy lại là một loại thủy tinh ngăn đạn, gồm nhiều lớp chồng chận lên nhau và gắn lại bằng keo riêng.
Văn Bình chỉ xuất được hai chiêu cùi trỏ và đầu gối là nằm vật ra trên băng xe, miệng thở hồng hộc. Chàng càng thở hồng hộc, hơi khói ác nghiệt càng ồng ộc tràn ngập tạng phủ của chàng. Và chỉ trong mấy phút sau, điệp viên bách chiến bách thắng z.28 đã bị hóa giải hoàn toàn.
Thế nhưng chàng chỉ mất sức, đầu nặng, tứ chi rời rã như người bị bệnh cúm nặng, chứ chàng không bất tỉnh. Chàng nằm gối đầu lên thành cửa, một chân duỗi trên băng xe, một chân buông thõng. Mắt chàng còn tinh sáng như thường lệ, và chàng đoán già kẻ địch chở chàng lên phía Bắc thành phố, một khu vực có nhiều thú vui ban đêm, giựt gân với xóm Mông-mác và Pi-gan.
Tài xế không lái xe theo những đại lộ rực rỡ ánh đèn. Hắn quẹo trái, quẹo phải, vèo vèo như thể ở trên vòng chảo đua xe, mỗi khi bẻ vô-lăng, hắn lại tống thêm ga xăng khiến lốp xe nghiến kèn kẹt trên đường nhựa. Tuy nhiên, hắn không thể phóng nhanh được mãi vì Ba Lê là thủ đô nghẹt xe nhất trên thế giới, chốc chốc hắn phải giảm bớt tốc độ, nhiều khi hắn phải thắng lại thật gắt, và trở lại gài số một. Hắn cũng không thể chui rúc được mãi trong những ngõ hẻm hoặc đường một chiều nửa tối, nửa sáng. Bắt buộc hắn phải ló đầu ra đại lộ.
Bởi vậy Văn Bình phăng ra lộ trình của xe DS là khu Mông-mác sau khi gã tài xế chạy qua công trường Nhà Hát Lớn. Tài xế ngừng lại rồi nhảy xuống xe, mở cửa sau xem xét. Hắn muốn kiểm soát chàng xem đã mê man hẳn chưa. Văn Bình nhắm nghiềng mắt. Gã tài xế lấy sợi tóc ngoáy lỗ mũi chàng. Nếu chàng còn tỉnh, sợi tóc sẽ làm chàng phải cựa quậy. Hoặc chàng phải hắt hơi.
Chàng nín thở, và nghỉ đến món ăn ngon. Nhờ tập trung ý chì, chàng đã vượt qua được cơn thử thách. Chàng muốn quai cho gã tài xế một trái đấm vẹọ hàm khi hắn cúi đầu nghe trống ngực của chàng. Song chàng không điều khiển cánh tay được nữa. Chàng đành nằm yên.
Ngoáy sợi tóc một hồi không thấy chàng phản ứng, gã tài xế cười khẩy :
- Rõ cẩn thận vô ích ! Mới ngửi sơ qua đã xụi lơ, nếu mình tăng thêm hơi chắc là chết thẳng cẳng.
Rồi hắn đập cổ chân chàng, giọng sặc mùi lưu manh :
- Chịu khó lát nữa thôi, về đến đường Lơ-pích, bồ sẽ được chích thuốc tỉnh...
Cửa xe vẫn mở, dường như gã tài xế đậu lại để chờ đồng bọn. Cửa được mở về phía lề đường nên gã tài xế tiếp tục để mở, miệng phì phèo thuốc lá. Văn Bình hé một bên mắt, quan sát. Đường phố khá tối. Chắc hắn đã lái đến xóm Mông-mác.
Xóm yêu hoa khét tiếng này được chia làm hai, thượng và hạ. Gần 150 năm trước, Mông-mác là một làng nông nghiệp nhỏ bé ở bên ngoài thành phố, trên đồi trồng toàn nho, ngày nay đã biến thành một trong các quận sậm uất của kinh đô ánh sáng, dân số từ hai ngàn vọt lên một phần tư triệu người. Nhưng sự đông đúc không đáng kể bằng sự hiện diện của thú vui xác thịt. Nếu so sánh về diện tích thì trên trái đất không có nơi nào nuôi sống nhiều đàn bà làm nghề bán vui bằng Mông-mác.
Người ta đặt tên là Mông-mác "thượng" vì nó tọa lạc trên cao. Nơi nào cũng thấy những khoái cảm nhục thể, nhưng ngược lại, những ai thèm khát sự thanh cao có thể đến thăm nhà thờ Thánh Tâm với một giáo đường rộng mênh mông chứa đủ 9 ngàn con chiên, và những ngôi tháp màu trắng cao vòi vọi như thách đố trời mây.
Văn Bình có cảm tình đặc biệt với khu Mông-mác "hạ", vì đó là nơi chàng từng sống hàng chục, hàng trăm cuộc hẹn hò bốc lửa, qua những năm lăn lộn trong trường điêp báo hành động hải ngoại. Xóm tình Pi-gan nằm gọn trong khu Mông-mác "hạ". Và đường Lơ-pích là con đường để lại trong lòng Văn Bình khá nhiều kỷ niệm...
Đó là một đường phố cong queo, kỳ cục, song những cô gái cười tình trên vĩa hè và làm tình như máy điện tử trong nhà sám lại chẳng cong queo và kỳ cục chút nào. Những đường phố kế cận Lơ-pích đều cong queo kỳ cục như vậy, các bông hoa biết nói cũng ** đỡn và nõn nường như vậy. Đối với điệp viên z.28, đường Lơ-pích là liều thuốc nhiệm mầu khiến suốt đời chàng vẫn không quên được Ba Lê và thiên đường Mông-mác.
Hồi đó chàng mới đến Pháp, còn lạ nước lạ cái, chàng không đến nỗi ngẩn tò te như chú Mán nhưng còn hoàn toàn i-tờ-rít về khoản du hí ở kinh đô ánh sáng. Chàng mầy mò lên khu ăn chơi với ý định ghé quán Con Thỏ Nhanh Nhậu 4 ở đường Dương Liễu, nơi hẹn hò tìm vui của văn nhân nghệ sĩ đầu thế kỷ đến giờ. Trời khuya mưa bụi lất phất, chàng đang đếm bước cô đơn trên lề thì gặp một giai nhân. Gái rước khách thường có thói quen bất di bất dịch: họ chỉ hành nghề trên vỉa hè, ở nhiều nơi, họ choán hết lề đường, đàn ông tạt qua là họ níu kéo.
Giai nhân đêm ấy lại đi dưới đường. Điều này chứng tỏ nàng là con nhà lành. Nàng lại bước nhanh, không nhìn ngó láo liên, cũng không phân phát những nụ cười toe toét. Chỉ có con nhà lành mới vội vã và chững chạc như nàng. Dưới ánh đèn, sắc đẹp quí phái và tươi trẻ của nàng hiện ra lồ lộ. Gặp nàng, Văn Bình mê mẩn tâm thần. Thay vì quẹo trái để tới đường Dương Liễu, chàng lùi lũi theo nàng.
Hai người đi bên nhau đến gần nửa cây số mà không ai lên tiếng. Nàng không phản đối "tại sao ông đi ngang hàng với tôi ?" và chàng cũng không tán tỉnh như thường lệ. Đi mãi, đi hoài như thế, mưa mỗi lúc một nặng hột thêm, và khí lạnh Ba Lê mỗi lúc một buốt thêm, nàng mới dừng lại và nói:
- Tôi không quen ông.
Chàng cười:
- Cô nói sai. Chưa quen, chứ không phải không quen. Và nếu cô cho phép, tôi xin làm quen với cô đêm nay.
Nàng dẩu mỏ :
- Ông nói tiếng Pháp đúng giọng, lối nói của ông lại có duyên nữa.
Cách dẩu mỏ của nàng thật chết chóc. Ngay trong phút đầu, Văn Bình đã có ấn tượng nàng là minh tinh màn ảnh, nổi danh về tài diễn xuất. Sự thật sau đó đã xác nhận : giai nhân đúng là một ngôi sao chói sáng của nghệ thuật thứ bẩy. Nàng không phải là gái chơi, song nàng không thể sống đơn độc trong phòng mỗi đêm. Nàng không thể lấy chồng. Vì nàng mang một chứng bệnh sinh lý hết sức đặc biệt: mỗi đêm nàng phải thay đổi người tình. Trừ phi là đàn ông khôi ngô, khả ái, thu hút được thiện cảm của nàng thì nàng mới chiếu cố đến... hai lần.
Văn Bình đã phá kỷ lục, không những giai nhân mời chàng đến nhà nàng hai lần, mà là hàng chục lần. Và, trời đất ơi, nhà nàng lớn không thua dinh Quốc Khánh ở Sàigòn, nàng có một khu vườn lợp kính trong suốt, bên trong được trồng tuyển một loài phong lan. Ở nước nhà, có ba, bốn trăm loại đã là tay chơi hạng nhất, trong vườn của giai nhân, chàng đếm được gần một ngàn. Lan là hoa vương giả, đứng đầu thiên hạ, nên rất đắt tiền, giai nhân lại sưu tầm những thứ đắt tiền hơn hết như loại đỏ vàng có sọc hường, hiếm như kim cương <5> và lan thiên-kim <6>.
Thân phụ của Văn Bình có duyên nợ với hoa lan, ông chán cảnh đô hội phồn hoa nên đưa gia đình lên rừng, quanh năm săn thú và trồng lan. ông thường nhắc cho cậu bé Văn Bình nghe lời than của đức Khổng Tử trên đường từ nước Vệ về nước Lỗ khi thấy hoa lan bị cỏ dại chen lấn "lan vi vương gia hương, kim dự chúng thảo ngụ" <7>. Lời nói của cha phần nào đã ảnh hưởng đến tương lai cậu bé Văn Bình, suốt đời chàng, chàng nâng niu đàn bà đẹp, và thù hận những kẻ tàn bạo đối với nữ giới như thể loài "cỏ dại" hiếp đáp hoa lan.
Bởi vậy, đêm ấy ở Ba Lê, chàng la cà với giai nhân trong vườn lan. Chàng không ngờ rằng sự la cà này đã cứu chàng thoát chết, vì bọn điệp viện địch biết chàng đến quán Con Thỏ Nhanh Nhẩu đã bố trí một cuộc phục kích hùng hậu trên đường Dương Liễu. Nếu chàng không gặp nàng, chàng đã chết. Nếu nàng chỉ tình tự trong vài ba giờ đồng hồ với chàng, chàng cũng chết. Vi bọn địch đã rình rập suốt đêm. Chàng ở lại đến sáng, một phần vì nàng. Phần khác vì vườn hoa lan tuyệt sắc.
Xóm ăn chơi Mông-mác đã giúp chàng trong quá khứ, cho nên chàng tin tưởng sẽ gặp hồng vận lần nữa. Gã tài xế vẫn phì phèo thuốc lá. Hắn hút để mà hút, chớ không phải dân nghiện, hắn không nuốt khói và thở ra dầy đặc quanh mình. Có lẽ hắn thấy chàng nằm rụp trên băng nên không cần quan ngại. Hắn không biết rằng định mạng đã xui khiến hắn ngoáy sợi tóc vào lỗ mũi Văn Bình để hóa giải cơn bại liệt do khói mê gây ra...
Cả đến Văn Bình cũng không biết. Sợi tóc tạo ra cảm giác buồn nôn, song chàng cố gắng chống lại bằng nội kình và ý chí. Sau khi gã tài xế dựa cửa xe hút thuốc lá, Văn Bình thử co duỗi ngón tay. Thoạt đầu, chàng co duỗi một ngón. Ngón trỏ. Ngón cần thiết để điểm huyệt atêmi. Trái với hồi nãy khi bất động, ngón trỏ đã cử động lại dễ dàng. Chàng thí nghiệm cả 5 ngón. Tiếp đến cánh tay và bắp chân.
Thì ra gã tài xế vô tình ngoáy sợi tóc chạm vào một nhánh nhỏ của huyệt thiên trụ. Huyệt thiên trụ nằm trong chỗ trũng của nhân trung, dưới mũi, điểm trúng thì chết. Lên đến mũi, huyệt thiên trụ đựợc chia ra làm ba nhánh, nhánh lớn chìm thật sâu, hai nhánh nhỏ ở trong lỗ mũi, mỗi khi chữa tê liệt hoặc muốn cầm máu, võ sĩ thạo phép hồi sinh kuatsu thường đánh vào hai nhánh nhỏ.
Đang cứng đơ như khúc gỗ, tay chân của Văn Bình bỗng mềm lại như cũ. Gã tài xế vừa ném mẩu thuốc xuống rãnh đầy nước, miệng càu nhàu những tiếng tục tĩu. Chắc hắn có hẹn với em bé, hắn chịu không nổi xuống xóm yêu hoa mà đứng chờ mỏi chân. Hắn ngần ngừ một phút rồi móc thuốc lá, châm hút lại.
Đường phố không tối song cũng không sáng, ngọn đèn gần nhất ở cách xe hơi ba, bốn chục mét. Văn Bình chỉ cần cựa mình, giả vờ ú ớ, lừa cho gã tài xế bước lại là chộp đưọc cổ hắn.
Nhưng chàng lại dằn lòng chờ đợi. Gã tài xế hấp tấp rút điếu thuốc ra khỏi miệng. Một bóng người đồ sộ vừa từ góc tối vụt ra, gã tài xế cất tiếng :
- Hắn đã ngủ say như chết.
Bóng đen khom lưng nhìn vào tấm thân bất động của Văn Bình trên băng sau chiếc DS :
- Chắc không ?
Gã tài xế cười hể hả :
- Trăm phần trăm.
Bóng đen trèo lên xe :
- Chìa khóa công tắc đâu ?
Gã tài xế giật mình, thọc bàn tay to tướng vào túi quần :
- Chìa khóa công tắc. Vội quá, tôi quên mất.
Bóng đen cầm lấy xâu chìa khóa xe. Qua làn sáng mờ mờ, Văn Bình nhận thấy người lạ có khuôn mặt trái bầu, trên nhỏ, dưới to, cặp mắt lươn ti hí nhưng sáng như chứa điện, miệng chữ nhất, hai cái răng chó lòi ra ngoài, và thay vì để râu mép, hắn lại nuôi râu cằm, một đống râu đen sì, rậm rạp dài gần hai đốt ngón tay.
Người lạ hỏi tài xế :
- Trước khi chở hắn, anh đã quan sát kỹ lưỡng phía sau, phía trước và hai bên chưa ?
Gã tài xế đáp, giọng có vẻ bực bội:
- Rồi. Tôi đã làm việc này cho anh ít ra cũng 3 lần rồi. Và 3 lần trước, không lần nào bị trục trặc, không lần nào anh chê trách. Anh còn thưởng công nữa là khác. Anh xét coi, tôi khéo lắm mới đưa nổi hắn vào xiếc. Tôi lái xe này, chứ nếu là bọn nhân viên ăn lương thường trực của anh thì còn... một thế kỷ nữa hắn mới chịu ngồi lên...
- Hừ, anh là thằng nghiện tiền...
- Đố ai tìm ra đứa nào ở Ba Lê không thèm tiền. Tôi biết điều nên đòi phải chăng, chứ nếu...
- Hiểu rồi. Mày lại sắp diễn thuyết rồi đó... Tiền đây ông cất kỹ rồi đi khuất mắt cho được việc.
Gã tài xế và người đàn ông có khuôn mặt trái bầu đứng cạnh vè xe DS. Gã tài xế xòe tay, sửa soạn lãnh tiền. Nhưng người lạ không đưa tiền. Văn Bình đã đoán ngay được những việc xảy ra. Chiến thuật "được chim bẻ ná, được cá quên nơm" là thủ đoạn ruột của nghề điệp báo. Người đàn ông lạ luồn bàn tay vào túi trong của áo vét-tông, và đúng như Văn Bình tiên liệu, hắn rút ra khẩu súng nòng dài quá khổ vì ống cao su hãm thanh.
Khẩu súng nồ bụp một tiến ròn. Hung thủ và nạn nhân chỉ cách nhau nửa mét, con nít 5 tuổi bắn cũng trúng, huống hồ là người lớn đã quen kỹ thuật ám sát bằng đạn đồng 9 li. Hung thủ tì miệng súng vào ngực nạn nhân đàng hoàng rồi mới lãy cò. Sự tráo trở của người đàn ông mặt bầu xảy ra quá đột ngột khiến gã tài xế sửng sốt, mắt hắn trợn tròn. Thân thể hắn cứng lại.
Nhưng gã tài xế không chết. Nghĩa là hắn vẫn sống nhăn, viên đạn cay nghiệt không xuyên qua tim mà cắm vào bắp thịt gần vai. Vì sự tráo trở của người đàn ông mặt trái bầu đã đột ngột song cũng chưa đột ngột bằng sự hiện diện của một đám tố nữ phục sức hở hang, son phấn lòe loẹt, không biết từ xó xỉnh nào túa ra, miệng thét đồng loạt như chạy giặc "anh, anh yêu".
Tiếng kêu bất thình lình đã lôi gã tài xế ra khỏi cơn sửng sốt "Từ Hải chết đứng". Hắn lạng quạng và mất thăng bằng ngay khi viên đạn quyết liệt bay vèo ra ngoài họng súng. Hắn thoát chết là thế.
Và hắn vụt hiểu. Đồng chí của hắn là những kẻ lòng lang dạ thú. Dùng hắn xong, họ giết hắn để bịt miệng. Họ sợ hắn bép xép với người khác. Trong quá khứ, họ cho hắn sống, họ trả tiền hậu hĩ vì họ cần nuôi hắn béo tốt để làm việc này, việc cải trang tài xế tắc-xi lái xe từ bờ sông hữu ngạn lên xóm tình Mông-mác...
Hắn không thể đứng yên chịu chết. Con kiến còn thèm sống, và đấu tranh để sống nữa là hắn. Hắn sinh trưởng trên đồi Mông-mác, lớn lên trong những khu nhà hẻm hóc ngang dọc nhằng nhịt như bàn cờ của xóm chơi Mông-mác, mùi da thịt đàn bà Mông-mác cần thiết đối với hắn hơn cả bình dưỡng khí cá nhận đối với phi hành gia ti toe sờ mó cung Hằng nữa... hắn phải giết gã đàn ông mặt trái bầu đốn mạt để cướp lại sự sống.
Miệng súng lại nhích từ phải sang trái. Lần này hung thủ nhắm giữa tim. Không thể nào trệch ra ngoài được nữa. Trong khi ấy, đám đông tố nữ vẫn kêu bai bải. Cả bọn ùa lại vây quanh hai người. Gã tài xế vung tay, gạt khẩu súng sang bên. Nhưng viên đạn đã nồ trước độ một phần trăm giây đồng hồ. Gã tài xế bất hạnh ngã nhào từ trước ra sau, tuy vậy hắn còn kêu được những tiếng cấp cứu thê thảm :
- Rờnê... thằng Rờnê phản phé...
Người đàn ông được gọi tên là Rờnê gạt bắn bọn tố nữ bằng cánh tay lực lưỡng, đoạn chĩa mũi súng xuống đất, tiếp tục lảy cò. Nạn nhân đã lặn xuống cống. Đúng ra, nửa thân trên của hắn còn nằm trên vỉa hè, chỉ có hai chân là ngọ nguậy trong làn nước cống rãnh hôi thối. Ba tiếng bộp bộp bộp nổ đều đặn, liên tiếp. Rờnê giết người đúng phương pháp nhà nghề. Không hấp tấp. Không xúc động. Thiên hạ bu đông chung quanh, hắn tỉnh bơ.
Toàn thể những viên đạn 9 li qua ống hãm thanh đều cắm vào ngực nạn nhân. Trên lý thuyết, chỉ một viên gần tim cũng đủ đưa hắn về quê. Nhưng trên thực tế, hắn chỉ tắt thở sau viên đạn thứ năm, và sau khi tiết lộ một bí mật động trời:
- Song Ngư. Song Ngư... đồ xỏ lá, lật lọng hơn cả thằng Rờnê đàn em nữa.
Câu nói trối trăng của gã tài xế bạc mạng như bầy ong rừng vừa châm nọc độc vào mông đít Rờnê. Hốt hoảng, hắn bước về phía se DS, Văn Bình đang nằm vắt vẻo bên trong. Bọn tố nữ của Mông-mác dạ lạc bị Rờnê xô ngã lung tung. Chắc không phải đêm đầu tháng, "chị em ta" đói khách yêu miệng và xụm giò nên kéo cả sư đoàn ra đường chặn xe. "Chị em ta" không dè gặp xác chết giãy đành đạch nên vấp té la oai oái. Rờnê lại có sức khỏe khác thường, hắn giang cánh tay rắn chắc ra là đám tố nữ xun xoe rụng rớt như sung.
Rờnê đinh ninh Văn Bình còn hôn mê nên hắn chỉ ngó sơ qua rồi mở cửa trước, sửa soạn rồ máy. Văn Bình cũng chưa muốn ra tay, bản tâm của chàng là theo hắn về đường Lơ-pích. Chàng sẽ gặp thêm đồng lõa của hắn.
Nhất là gặp con người có cái tên sặc mùi... tử vi đẩu số là Song Ngư...
Đối với chàng, Song Ngư là một bí danh quá quen thuộc, sở điệp báo Anh-cát-lợi có 12 văn phòng trú sứ ở rải rác trên 5 đại châu, một văn phòng phụ trách nhiều quốc gia. Mỗi văn phòng trú sứ mang một bí danh riêng, thay đồi hàng năm, hoặc đôi khi thay đồi hàng tháng. Gần đây, các văn phòng này mượn tên của 12 cung trong thiên văn Tây phương là Dương Cưu, Kim Ngưu, Hải Sư, xử Nữ, Nam Dương và ... Song Ngư đứng hàng cuối cùng trong 12 cung là bí danh của trú sứ Ba Lê.
Văn Bình luôn luôn theo dõi hành động của tình báo Anh Quốc vì hai lý do. Thứ nhất, sở Mật Vụ của ông Hoàng thường cử chàng làm mướn cho các ông nhà giàu quốc tế mà ông M. của Ml-6 là một trong mấy ông nhà giàu này (thật ra thì cũng chẳng giàu là bao, không những thể, MI-6 còn kẹo đến vắt cổ chầy ra nước nữa...). Thứ hai, (và ly do này quan trọng hơn lý do thứ nhất nhiều) vì ông tổng giám đốc M. có một vài liên hệ tình cảm với chàng, những liên hệ rối như mớ bòng bong đã trói chặt tay chàng trong điệp vụ nguy hiểm và kỳ thú không tiền khoáng hậu tại Bắc Kinh cách đây không lâu <8>.
Ông M. mến chàng thật đấy, nhưng từ ngày chàng dẫn xác từ Hoa Lục lù lù trở về thì ông M. chỉ mong cho chàng lăn đùng ra chết. Chàng còng sống, chàng sẽ là cái gai trước mắt ông M. Vì ông M. khác với ông Hoàng ở chỗ có hơi nhiều dây mơ rễ má với đàn bà đẹp. Mà Văn Bình trong chuyến đí Bắc Kinh lại nắm được tẩy của ông M. Nếu không có những ràng buộc trai gái vớ vỉnh này thì cũng vị tất MI-6 muốn Văn Bình sống thọ. Chẳng qua z.28 còn sống, z.28 sẽ đớp hết những công tác đấu thầu ngon ơ của C.I.A....
Gã tài xế nạn nhân vừa nhắc đến sự phản bội của Rờnê, đàn em của Song Ngư. Điều này có nghĩa là ông M. tổng giám đốc MI-6 đã xía vào nội vụ.
Chàng chưa biết mặt Song Ngư. Nhưng chắc hắn phải biết mặt chàng. Tại sao MI-6 bắt chàng ? Chàng không trả lời nổi. Họ có quyền phỗng tay trên, song họ không thể cạn tàu ráo máng. Trừ phi họ thủ tiêu chàng lén lút. Họ đặt ông Hoàng trước việc đã rồi. Đẹt... chàng ngã xuống, ông Hoàng đập bàn phản đối, đòi ông M. giải thích, ông M. giả bộ mở cuộc điều tra sâu rộng, nghiêm chỉnh và thân hữu, ông kết luận là "nhân viên cấp dưới nổ súng lầm", ông hứa trừng trị thẳng tay, nếu ông Hoàng muốn tru di tam tộc và xử lăng trì hung thủ ông M. cũng chấp thuận không bàn cãi.
Lần này, MI-6 và ông M. bị thộp cổ quả tang. Lát nữa, xe đậu ở đường Lơ-pích, chàng sẽ được xốc nách vào sào huyệt của Song Ngư, và chàng sẽ nhổ nước bọt giữa mặt Song Ngư, kèm theo những tiếng nguyền rủa :
- Đồ... từ nay giữa MI-6 và sở Mật Vụ không còn tình nghĩa gì nữa. ông M. già rồi, chả bao lâu nữa là đứt mạch máu mà chết. Phiền anh báo tin cho ông M. biết để làm chúc thư ngay mới kịp.
Hễ Song Ngư mở miệng chàng sẽ thọc luôn quả phật thủ của chàng vào cuống họng. Nghĩ đến lúc được hỏi tội Song Ngư, đại diện của ông M. ở Ba Lê, Văn Bình cảm thấy khoái trá.
Song chàng vội sìu ngay. Rờnê mới sập cửa, chưa kịp đề cho động cơ nồ máy thì trên vỉa hè lồi lõm đã lố nhố bóng người. Không phải những bóng mảnh mai ăn diện lõa lồ. Mà là những bóng đực rựa to lớn, hung hãn.
Mông-mác cũng như mọi xóm thanh lâu trên thế giới sống dưới hai chính phủ. Chính phủ do dân bầu lên, có cảnh sát viên giữ trật tự và có nhân viên sở thuế khôn như ranh. Và chính phủ chẳng do ai lựa chọn, chính phủ làm việc trong bóng tối, cũng thu thuế, cũng giữ an ninh như... ai. Đó là chính phủ của dân anh chị. Mông-mác có cả chục tiểu vương anh chị, mỗi ông vua cai trị một giang sơn, mỗi khúc đường hành nghề của đạo quân mày trắng đều có sẵn một đơn vị du đãng có trách nhiêm bảo vệ "chị em ta".
Thấy đám tố nữ bị Rờnê gạt ngã dùi dụi, bọn du đãng tụ tập dưới mái hiên đã vèo ra như tên bắn. Chúng gồm cả thảy 4 tên. Rờnê bị chúng dồn vào giữa. Nhưng chúng chưa đánh Rờnê. Chúng khởi sự bằng tấn tuồng mèo vờn chuột cũ rích, cốt làm cho đối phương khiếp đảm, để sau khi ăn đòn hội chợ sẽ cạch đến già.
Văn Bình nghe tiếng bụp của khẩu súng gắn ống hãm thanh, Rờnê vừa nhả đạn. Nhưng chàng biết phát đạn này không trúng mục phiêu vì không nghe tiếng người rên la. Tiếp theo là tiếng xương thịt va chạm. Một tên anh chị đánh bật khẩu súng của Rờnê. Tên thứ nhì ôm cổ hắn từ sau lưng, toan vật ngã.
Văn Bình nằm yên nhưng trống ngực lại đập đồm độp. Chàng hồi hộp hơn cả cậu học sinh hết hạn hoãn dịch đang chen đám đông để vào xem bảng đậụ thi Tú Tài nữa. Chàng hồi hộp không phải vô lý. Vì trong lúc sơ đấu, Rờnê chưa cho chàng thấy nét nào đặc sắc. Phản ứng của hắn không đến nỗi chậm chạp, nhưng nếu muốn chiếm thượng phong, hắn phải xuất chiêu nhanh hơn nữa. Rờnê là nhân viên tình báo Anh Quốc, giá hắn lãnh lương của ông Hoàng hắn phải về ... nhà bò là cái chắc. Đã cầm súng trong tay mà bị địch đánh rớt, sự bết bát này không thể tha thứ trong đám nhân viên sở Mật Vụ....
Gỡ đòn ôm cổ của địchcũng chẳng có gì là khó. Chàng chỉ xoay mình nhẹ nhàng là kẻ địch bám chặt đến mấy cũng lăn kềnh. Vậy mà Rờnê loay hoay mãi... và hắn càng loay hoay vòng vây của 4 tên du đãng càng kẹt cứng thêm.
Cũng may bọn du đãng không phải là đại ca trong võ lâm nên chúng cũng vất vã không kém Rờnê. Một tên chẹn cổ, một tên bẻ chân, hai tên còn lại thi đua đấm đá song Rờnê vẫn chưa chịu ngã. Chẳng biết bà tiên nào đã cho hắn phép lạ mà trong cơn vùng vẫy, tay chân múa đạp lung tung, mũi giầy nhọn kiểu Ý-đại-lợi của hắn đã thọc trúng hạ bộ tên du đãng to lớn và hung hãn nhất trong bọn.
Tên du đãng kêu hự một tiếng xé tim rồi chúi đầu vào cái gương chiếu hậu hình tròn gắn trên vè xe DS. Có lẽ cái gương thủy ngân và sắt mạ kền kiên cố này đập giữa ót hắn nên hắn nằm rụp luôn xuống bên bánh xe, không ngồi dậy được nữa.
Thắng lợi ngẫu nhiên đã gia tăng nhuệ khí chiến đấu của Rờnê. Ngọn cước chân trái của hắn lại đá lọi sườn một tên khác. Nhưng tên này chỉ bị đau điếng chứ chưa bị loại trừ ra khỏi vòng chiến. Rờnê toan tấn công tên thứ ba thì bị hất chân. Hắn lọạng choạng như bị đánh đòn nơi mặt. Một trái đìa-rét xô hắn ngã nằm lên cốp xe. Từ băng sau nhìn ra, Văn Bình thấy rõ . Chàng nhìn thấy cả mặt bọn du đãng. Lối phục sức của chúng giống nhau như được may cùng một tiệm, cũng loại quần bó mông, xòe ống, quét đất lòa xòa, cũng áo "pun" tay dài, cổ tròn, chật ních như "gen" nịt bụng của phụ nữ, mái tóc tên nào cũng che hai tai, chảy xuống ngang vai và bờm sờm một cách thật hỗn loạn. Khi chúng đến gần chàng, miệng chúng, da thịt chúng, áo quần chúng toát ra một mùi đặc biệt. Mùi rượu cỏ-nhác, mùi rượu vang, mùi thịt rô-ti, mùi thuốc lá cần sa và mùi phấn sáp rẽ tiền...
Rờnê bị dồn sát cốp xe, hai cánh tay bị giữ chặt và giang rộng ra, như bị đóng đinh trên thập tự giá. Hắn đã mệt lử cò bơ, hơi thở hồng hộc của hắn có thể đánh thức bệnh nhân trên bàn giải phẩu vừa bị chụp thuốc mê, tuy nhiên sức lực của hắn chưa tàn lụi, dầu bọn du đãng giã hắn một cách cẩn thận, cú nào cú nấy như trời giáng.
Văn Bình cảm thấy máu nóng chạy rần rần. Rờnê bị đánh ngất thì hỏng bét. Chẳng lẽ chàng điểm huyệt cho hắn hồi sinh rồi ngoan ngoãn theo hắn về trình diện sư tồ Song Ngư ở đường Lơ-pích. Nhưng nếu chàng không ra tay tế độ thì chắc chắn Rờnê sẽ bị đánh ngất.
Tiến thoái lưỡng nan, không can thiệp cũng dở mà can thiệp cũng dở. Nếu chàng can thiệp, ba tên du đãng sẽ tan ra thành xác pháo trong vòng ba giây đồng hồ. Sau đó, chàng không thể giả vờ mê man để cho Rờnê khiêng lên xe. Chàng đành nằm mà vái trời cho Rờnê tai qua nạn khỏi.
Đòn thù vẫn bay tới tấp vào mặt, vào ngực Rờnê. Mặt hắn gục xuống kiếng xe. Nguy lắm rồi... chàng không thể án binh bất động lâu thêm nữa. Bọn du đãng chỉ rần hắn thêm một vài phút nữa là hắn ngủm củ tỉ...
Trước đây Văn Bình thương Mông-mác bao nhiêu, giờ đây ghét Mông-mác bấy nhiêu. Chàng sếu vườn Lê Diệp của Sở Mật Vụ thường ví xóm thanh lâu quốc tế này với dạ đài. Dạ đài là một danh từ thi vị mà các cụ đồ ngày xưa dùng để chỉ âm phủ một cách ví von. Văn Bình bèn nhại một câu thơ bất hủ của Lý Bạch để bênh vực cho xóm yêu hoa Mông-mác "Dạ đài vô z.28, cô tửu dự hà nhân ?" <9>
Phút này Văn Bình mới thấy bạn chí lý. Con đường đi Mông-mác không phải là con đường lên cõi tiên. Mà là con đường xuống âm phủ. Gã tài xế chết. Rờnê sắp chết.
Giáo sư Bửu Khoa, chú Sáu, giai nhân Lệ Liên và Diểm Hà. Trong số này, ai sẽ là nạn nhân trong những giờ, những phút sắp tới trước khi chàng gặp Tôlan ? Chàng rùng mình.
Bỗng nhiên đâu đây có tiếng còi ré lên. Tiếng còi quen thuộc của cảnh sát.
Chú thích
1. Ngoài ra dọc theo 1.900 cây số đường hầm này còn có 6 triệu cây số dây điện thoại, 3.080 cây số ống dẫn nước và 30.000 giếng ngầm nữa (trong số này, chỉ còn sót lại 100 giếng)
2. Đó là nghĩa trang Catacombes ở công trường Denfert Rochereau.
3. Nha địa chất Ba Lê cũng đã ấn hành một họa đồ đặc biệt ghi rõ hệ thống cống hầm trong thành phố, gọi là Atlas des carrières souterraines de Paris et des départements.
4. Tiệm "con thỏ nhanh nhẩu" là Le Lapin Agile, tọa lạc ở số 4 đường Rue des Saules.
5. Loại phong lan hiếm quý này là Disa grandiflora được tìm thấy trên, núi Cái Bàn 1825, thuộc Nam Phi.
6. Đó là lan Odontoglossum crispum pittianum, loại lan thiên-kim này có những cánh bóng loáng, giá tiền một cây lên đến ngàn đôla. Năm 1906, tỉ phú Sander ở Luân Đôn mua một giỏ thiên-kim với giá 1.155 bảng Anh (khoảng hơn ba ngàn đô-la Mỹ).
7. Câu này có nghĩa là "hoa lan có hương thơm vương giả, nay lại sống chung với loài cỏ dại".
8. Câu thơ của Lý Bạch là "dạ đài vô Lý Bạch, cô tửu dự hà nhân" nghĩa là "dưới âm phủ không có Lý Bạch thì mua rượu biết uống với ai ?"
9. Muốn biết những liên hệ tình cảm của ông già M. tổng giám đốc MI-6 Anh Quốc với một giai nhân phía sau bức màn tre lục địa và mối thù với "tráng sĩ cụt tay", xin đọc "Bắc Kinh, 72 giờ nghẹt thở", đã xuất bản.