Tình dục học - một ngành khoa học trẻ
Giáo dục về tình dục là một bộ phận trong chương trình giáo dục về chức năng, bổn phận của vợ chồng, cha mẹ.
Chúng ta biết rằng tình dục tồn tại như một bộ phận hoạt động cấu thành đời sống con người. Chính nó là cơ sở sâu xa cho sự xuất hiện tình yêu, tình vợ chồng, và nhờ nó mà trẻ em ra đời, loài người tồn tại. Những bài học về tình dục đã và đang đi vào thời khóa biểu học sinh nhiều nước, hoàn toàn bình đẳng bên cạnh các môn toán học, địa lý, văn học v.v… Đáng tiếc rằng hiện nay trong nhiều trường phổ thông, những bài giảng cho học sinh về tình dục vẫn còn là những giờ học đầy lúng túng và ngần ngại đối với giáo viên. Nhiều giáo viên vừa giảng vừa lo sợ trước những phản ứng của phụ huynh học sinh ở nhà.
Loài người đang chinh phục vũ trụ, nhưng hiểu biết về thái độ của con người về đời sống tình dục của chính mình thì nhiều khi chẳng hơn gì hiểu biết và thái độ của người trung cổ. Cách đây hàng chục thế kỷ, người ta vẫn xem tình dục như là một điều xấu xa của thiên nhiên, với con người thì như một điều tội lỗi và không… sạch sẽ. Thật khó xử cho các ông bố, bà mẹ khi cô con gái của mình hoảng hốt báo tin mình bị “đổ máu”, hoặc cậu con trai run rẩy thổ lộ rằng con thấy có… “dầu nhờn”. Và tình hình càng khó xử hơn nữa khi cha mẹ phát hiện ra thằng con trai ngộc nghệch của mình đang bí mật thủ dâm. Có lẽ những ông bố, bà mẹ đó quen nghĩ rằng, đối với vấn đề tình dục thì con mình đã được học môn giải phẫu sinh lý rồi. Vì vậy, trước nhiều câu hỏi bất ngờ của đứa con đang lớn, họ không biết trả lời ra sao và cũng không biết trong tủ sách gia đình mình cần có một quyển từ điển thế nào cho thích hợp. Ngược lại với thái độ trên, lại có không ít những ông bố, bà mẹ “hiện đại”, tiêm nhiễm cho con cái mình những lối sống tình dục phóng đãng.
Nhìn chung, đại đa số những ông bố bà mẹ trong chuyện này thường để con cái hoang mang, cô đơn, không người dẫn dắt, bảo ban. Các kết quả điều tra cho thấy, các cô con gái ít nhiều còn được các bà mẹ thì thầm dặn dò, còn đại đa số các cậu con trai thì bị cha mẹ phó mặc, bỏ rơi. Họa hoằn lắm các cậu mới được một lời nói cộc lốc của bố. Vì vậy, về chuyện này các cậu hiểu biết rất lơ mơ. Thường thì các ông bố, bà mẹ hay lảng tránh những câu hỏi tò mò của con. Và trong thâm tâm, họ tự giải thích sự lúng túng của mình theo kiểu: “Đằng nào thì nó vẫn là trẻ con”. Một vài năm sau, bố mẹ cũng có chủ động thăm dò, nhưng sau một vài câu họ đã vội yên trí rằng “nó biết cả rồi”. Thế là một chuyện rất hệ trọng chưa có mở đầu đã kết thúc một cách chóng vánh, giả tạo, trong sự ngượng ngùng của cả cha mẹ và con cái. Các cô các cậu lại phải tự mò mẫm, tìm những dịp thuận lợi để thu lượm những thông tin bí mật về chuyện này. Do không muốn cha mẹ phải phiền lòng nên trước mặt cha mẹ, các cô các cậu thường tỏ ra mình thờ ơ trước “chuyện đó”. Một vài năm trôi qua, cha mẹ mới giật mình nhận ra trong lĩnh vực tình dục, con cái mình đã quay lưng lại những tập quán lâu nay, lối ứng xử của chúng trong chuyện này thật quá khó hiểu đối với các thế hệ trước.
Hiện nay, không ít các ông bố, bà mẹ quan niệm rằng, những chuyện xung quanh vấn đề tình dục thì chẳng cần phải học, “cứ lớn lên là khắc biết”. Những người đó chắc sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng có một ngành khoa học độc lập, chuyên nghiên cứu sự phát triển tình dục và đời sống tình dục của con người. Đó là Tình dục học (sexologie).
Mặc dù các nhà thơ, các nhà triết học đã quan tâm tới tình yêu và sự ân ái của con người ngay từ thời cổ đại, nhưng việc nghiên cứu một cách nghiêm túc hoạt động tình dục trên cơ sở khoa học chỉ được tiến hành cách đây không lâu. Có thể coi cuốn “Những rối loạn tình dục” xuất bản năm 1886 của nhà tâm lý học Kraphta Ebinzo (Áo) là cuốn sách nghiên cứu tình dục đầu tiên. Đây là cuốn sách thống kê lại những biểu hiện tình dục đa dạng, chủ yếu là những hiện tượng rối loạn tình dục. Nhờ nó, người ta mới vỡ lẽ về những trạng thái rối loạn tình dục, như hiếp dâm, tình dục bạo lực… Những khái niệm như khiêu dâm, kích dục thị giác, tình dục kiềm chế, ức chế tình dục… được K. Ebinzo đưa ra cách đây một trăm năm.
Sau K. Ebinzo, đã có nhiều công trình nghiên cứu hiện tượng tình dục đồng giới theo quan điểm tiến bộ. Nhiều nhà nghiên cứu coi tình dục đồng giới (hay còn gọi là “đồng tính luyến ái”) như một hiện tượng bẩm sinh. Từ thời Cơ đốc giáo, tình dục đồng giới đã bị xem như một hiện tượng phóng đãng, quái đản, một sự suy sụp về nhân cách hay là một biến chứng của một bệnh ngứa. Từ sau Ebinzo, nhiều nhà khoa học đã không lên án những nhu cầu của người đồng tính luyến ái.
Người có công thúc đẩy tình dục học phát triển là nhà tâm lý S. Freud (người Tiệp Khắc, sống ở Áo), người sáng lập ngành phân tâm học. Ngay từ đầu thế kỷ này, ông đã xem xét những nhân tố xã hội trên cơ sở môi trường con người sinh sống, lý giải những hành vi con người bằng những vận động thầm kín của đời sống tâm sinh lý. Ông nhấn mạnh rằng, sự xuất hiện bệnh thần kinh có thể là do khi còn bé, bệnh nhân được giáo dục quá kém, do những chấn động tâm lý thời thơ ấu, thời dậy thì, hoặc do những xung đột có tính xã hội khác. Năm 1905, ông cho xuất bản một cuốn sách rất có ý nghĩa: “Ba bài thảo luận về tình dục”. Một số quan điểm của ông cho tới nay vẫn giữ nguyên giá trị khoa học. Tuy nhiên, do chỉ dựa vào những quan sát y học, ông đã đưa ra nhiều quan điểm cực đoan, không đủ sức đứng vững trước sự phát triển của khoa học ngày nay.
Trong hàng chục năm liền, lý thuyết thăng hoa (Sublimace) của S. Freud đã hấp dẫn nhiều giới khoa học. Theo lý thuyết này, chỉ một phần của năng lượng tình dục được tiêu hao trong hoạt động tình dục; số năng lượng còn lại được chuyển hóa vào các lĩnh vực hoạt động khác như văn hóa, nghệ thuật, chính trị, tôn giáo… Cũng theo lý thuyết này, xã hội sẽ tốt hơn lên nếu con người hạn chế hoặc ngăn ngừa được năng lượng và bản năng tình dục, chuyển những năng lượng đó vào những lĩnh vực hoạt động khác. Từ lý thuyết thăng hoa của Freud, có thể rút ra kết luận: người nào “mạnh mẽ” trong đời sống tình dục thì ít thành công trong lao động và những hoạt động khác, cho dù anh ta khỏe mạnh và hoàn toàn sáng suốt. Điều đó cũng có nghĩa là người nào phung phí quá nhiều sức lực vào những lĩnh vực “phi tình dục”, đầu tư năng lượng của mình vào những hoạt động xã hội khác thì sẽ yếu đuối trong chuyện tình dục.
Tất nhiên, những người ủng hộ lý thuyết thăng hoa có thể tìm được nhiều ví dụ phù hợp để chứng minh cho nó. Nhưng việc khẳng định hay phủ nhận một lý thuyết không thể chỉ bằng cách đưa ra một vài trường hợp riêng lẻ. Chúng tôi không có ý định khẳng định hay phủ định lý thuyết này, chỉ nêu ra một thực tế là, có nhiều nghệ sĩ, chính trị gia, nhà khoa học nổi tiếng đã làm việc quên mình trong các lĩnh vực chuyên môn, đồng thời vẫn khá mạnh mẽ trong lĩnh vực tình dục. Những kết quả thăm dò gần đây đã chứng minh mối liên hệ qua lại tích cực giữa hai lĩnh vực hoạt động: tình dục và phi tình dục. Chân lý dường như lại nằm trong cái lý thuyết “Phản thăng hoa” này: Khi các hoạt động sản xuất, sáng tạo khoa học, nghệ thuật đạt hiệu quả cao, người ta sẽ vui vẻ, hài lòng, dẫn đến đòi hỏi khắt khe hơn trong hưởng thụ cá nhân. Vì vậy mà nhu cầu tình dục của người ta dễ bị kích thích, thức dậy. Ngược lại, khi cuộc sống tình dục đầy đủ, hài lòng thì con người cảm thấy say mê hơn trong các hoạt động lao động sáng tạo.
Một bước nhẩy vọt nữa của khoa học tình dục là những công trình nghiên cứu của A.C. Kinsey và những cộng sự của ông. Tuy là giáo sư động vật học nhưng Kinsey là người đầu tiên nghiên cứu tình dục từ góc độ xã hội học. Ông đã tiến hành kiểm tra rất nhiều phụ nữ và đàn ông. Kết quả kiểm tra được công bố trong cuốn sách "Ứng xử tình dục của đàn ông", in năm 1948, với số lượng 200.000 cuốn. Sách được bán hết ngay trong vòng hai tháng. Lý do hấp dẫn của cuốn sách rất đơn giản: Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, một số liệu cụ thể về đời sống tình dục được công bố rất nghiêm túc và lý giải một cách khoa học.
Trước cuốn sách đó, không ai biết chuyện thủ dâm phổ biến tới mức độ nào, bao nhiêu đàn ông, đàn bà nếm trải thứ tình dục đồng giới, bao nhiêu phần trăm phụ nữ “biết” từ 5 bạn tình trở lên. Một điều đáng ngạc nhiên nữa là cuốn sách còn công bố bao nhiêu phần trăm các cặp bạn tình kích thích bộ phận sinh dục bằng miệng, trong khi thời ấy người ta vẫn coi phương pháp kích thích này là một sự đồi bại.
Cuốn sách của Kinsey như một trái bom làm rạn nứt định kiến xã hội. Dưới sự tác động của những số liệu điều tra, xã hội học buộc phải thay đổi một số quan niệm. Ví dụ, nếu như trong thực tế có tới 90% đàn ông trẻ thủ dâm thì phải xem hành vi tình dục đó là điều bình thường, và xã hội phải quan tâm lưu ý không phải tới 90% đó, mà là với 10% còn lại kia.
Cuốn sách của Kinsey đã phân chia dư luận xã hội làm hai khối: tán thành và phản đối việc công bố các số liệu khách quan đó. Giới thầy tu, chính khách công khai phản đối việc lưu hành cuốn sách. Họ tuyên bố rằng, Kinsey đã phá vỡ nền tảng luân lý Mỹ, rằng những hoạt động tương tự như vậy sẽ làm suy sụp xã hội Mỹ… Thực ra, Kinsey đã phê phán xã hội Mỹ. Ông chứng minh tính giả tạo của những lý tưởng đạo đức Mỹ, khơi lên mối nghi ngờ về giá trị đích thực của chúng. Tất nhiên những con số mà ông công bố chỉ có ý nghĩa lịch sử, bởi vì nó chỉ phản ánh thực trạng đời sống tình dục Mỹ những năm 40 của thế kỷ 20.
Một mốc lớn nữa trong sự phát triển tình dục học là công trình nghiên cứu của nhà di truyền học V.H. Maxter và vợ ông, nhà tâm lý học V.E. Johnson. Vào những năm 60, họ quan tâm tới một khía cạnh khác của tình dục, đó là những quá trình sinh lý của xúc động tình dục và sự thỏa mãn tình dục. Họ đã quan sát các phản ứng sinh lý của 400 phụ nữ và 300 đàn ông trong khi giao hợp và hứng dục. Họ còn tiến hành quan sát 7.500 cơ quan sinh dục phụ nữ và 2.500 bộ phận sinh dục đàn ông. Vợ chồng ông bà Maxter đã trở nên nổi tiếng và rất gần gũi với mọi người thời bấy giờ vì đã chữa rất thành công cho nhiều cặp vợ chồng bị rối loạn chức năng tình dục. Chính Maxter là người đầu tiên khẳng định rằng, quá trình giao tiếp tình dục diễn ra qua 4 giai đoạn.
Năm 1968, hai nhà nghiên cứu Phordo và Bach (Tiệp Khắc) công bố cuốn sách nổi tiếng "Những hình thái tình dục". Hai ông đã tiến hành so sánh hoạt động tình dục của từng dân tộc và chủng tộc khác nhau, bổ sung thêm những thông tin mới về dịch học và sinh lý học. Hai ông đã khẳng định rằng, các hình thức hoạt động tình dục không đơn thuần nảy sinh từ trạng thái hoóc môn của cơ thể mà còn từ những yếu tố tâm lý xã hội.
Việc nghiên cứu tình dục ngày càng trở nên khẩn trương và có ý nghĩa xã hội quan trọng. Nó là vấn đề sức khỏe của mỗi cá nhân, đồng thời là vấn đề cần quan tâm chung của xã hội. Nó góp phần giải phóng xã hội khỏi các định kiến sai lầm và giải phóng con người thoát khỏi những dằn vặt và chịu đựng phi lý. Ngành khoa học này đã và đang đưa ra khả năng chữa chạy các bệnh rối loạn tình dục, khám phá được cơ sở sinh lý của những người thường bị coi là “đa dâm” và đề ra những biện pháp nhằm ổn định trạng thái tình dục của họ. Nhờ nắm bắt được quy luật phát triển tâm sinh lý của con người, ngành nghiên cứu này đã đưa ra chương trình giáo dục các lứa tuổi trẻ về tình dục một cách khoa học.
Phần 2: Những trục trặc trong quá trình phát triển sinh dục
Những trục trặc trong quá trình phát triển sinh dục
Các cụ tổ của chúng ta có hệ cơ khá khỏe trong thành bìu. Nhờ vậy, họ có thể thót bụng, kéo tinh hoàn lên sát bụng rất nhanh. Đến thế hệ chúng ta, khả năng vận động này chỉ còn lại rất ít. Một số thanh niên khỏe mạnh hiện vẫn giữ được khả năng đó: Họ “giấu” tinh hoàn đi rất nhanh như một phản xạ tự nhiên mỗi khi sợ hãi, gặp lạnh hoặc khi bị kích thích ở vùng háng. Nhưng cũng cần nói ngay rằng, nếu một cậu bé 10 tuổi có khả năng này thì phải đưa cậu tới ngay bệnh viện. Ở lứa tuổi này, hai tinh hoàn bắt đầu to nhanh. Những cú trượt lên bụng như vậy sẽ làm chúng chậm lớn.
Khi bé còn là bào thai, hai tinh hoàn nằm ở vùng khoang bụng. Chỉ gần tới ngày ra đời, chúng mới tụt xuống bìu. Khi mới sinh, cậu bé của chúng ta có thể thiếu một, thậm chí cả hai hòn. Nhưng không sao, hãy chờ xem! Một vài tháng sau, chúng sẽ tụt dần xuống chỗ quy định. Tất nhiên, nếu tới 2 tuổi mà tinh hoàn vẫn chưa xuống hết thì bé cần có sự can thiệp của bác sĩ.
Khi con trai lên hai tuổi, bố mẹ phải kiểm tra xem phần da quy đầu cậu bé có lỏng không, có khả năng tụt trở lại, để lộ cái nõn tù bên trong hay không. Nếu có thì từ tuổi thứ ba trở đi, mỗi khi tắm cho cậu bé, cha mẹ cần phải rửa cái phần da đó. Cũng từ ba tuổi, cha mẹ phải thường xuyên nhắc nhở để cậu nhớ rằng, rửa bao quy đầu là một công việc vệ sinh bắt buộc, một nhiệm vụ phải làm suốt cả đời người. Bởi vì gần tới tuổi dậy thì, các cậu đã có thể có tinh trùng. Nếu không rửa sạch thường xuyên, bao quy đầu sẽ là nơi phân hủy của tinh dịch ứa ra ngoài. Các chàng trai trống non đó có thể bị viêm nhiễm, đau đớn. Vì vậy, dù chưa có tinh dịch thì việc rửa bao quy đầu vẫn là một công việc vệ sinh bắt buộc đối với tất cả các “đấng mày râu” tương lai.
Có trường hợp bao quy đầu không cơ động do bị phimodip (một hiện tượng bẩm sinh do phần dưới của bao quy đầu quá hẹp), hoặc kết dính bẩm sinh (da trong của bao quy đầu kết dinh với đầu chim). Điều này không đáng lo ngại, vì đó chỉ là hiện tượng phát triển chậm hoặc không đồng bộ của các cơ quan sinh dục thời kỳ bào thai. Nhất thiết không được cố nặn bao quy đầu, chỉ nên mơn nhẹ trong nước mỗi khi tắm.
Tuy “bệnh” phimodip và “kết dính” không có gì đáng lo ngại nhưng bao quy đầu của cậu bé cần được xử lý trước khi cậu cắp sách tới trường. Sau khi kiểm tra cụ thể, bác sĩ nhi khoa sẽ cho biết cần thanh toán vào thời kỳ nào. Thông thường, bao quy đầu nếu hẹp chỉ là hẹp một phần, khi giải phóng nó khỏi đầu chim thì cần co kéo trong nước sạch. Nếu thấy đau thì nên hỏi bác sĩ để có một thứ thuốc mỡ thích hợp. Nhiều cậu bé đã lên 10 tuổi mà vẫn không biết rằng bao quy đầu có thể vận động qua lại được ở đầu chim. Đó là lỗi của cha mẹ, họ đã không biết rửa bao quy đầu cho con. Và cũng chính vì vậy mà họ không phát hiện được những khuyết tật bẩm sinh của cậu bé.
Đối với các bé gái, mặc dù bộ phận sinh dục ngoài được bố trí, sắp xếp chu đáo và an toàn hơn so với các chàng trai, nhưng chúng cũng đòi hỏi sự chăm sóc thường xuyên và sớm sủa. Cơ quan sinh dục phụ nữ phát triển mạnh vào tuổi dậy thì, nhưng ngay trong thời thơ ấu vẫn có thể bị nhiễm bệnh.
Bệnh thường gặp ở các cô bé là chảy mủ. Thật ra, đây không phải bệnh mà là một triệu chứng viêm nhiễm ở phần ngoài âm hộ. Nguyên nhân là vệ sinh thân thể không đúng qui cách, đồ lót bẩn, có giun sán, có dị vật trong âm đạo hoặc sa ruột thừa. Đôi khi, hiện tượng chảy mủ xuất hiện sau khi bé gái bị ốm (chẳng hạn sau khi viêm họng). Nếu không chữa dứt điểm, để tình trạng này kéo dài tới tuổi trưởng thành thì cô gái sẽ khó thụ thai.
Nếu bệnh viêm âm hộ phát triển thành mạn tính, ổ viêm có thể lan tới tận buồng trứng. Triệu chứng chủ yếu của bệnh viêm buồng trứng là đau ở bụng dưới. Những phụ nữ có kinh nghiệm khi thấy đau bụng dưới thì nghĩ ngay tới buồng trứng. Còn các cô gái trẻ ít khi nhớ ra buồng trứng của mình nên thường tìm nguyên nhân ở chỗ khác (chẳng hạn như đau bụng kinh hoặc viêm niêm đạo). Bệnh có thể dẫn đến vô sinh (mất khả năng sinh đẻ). Vậy mà nhiều bà mẹ lại ngại đưa con đi khám phụ khoa vì sợ cô con gái rượu của mình xấu hổ, hoặc sinh ra tò mò, thèm khát chuyện ái ân. Vì thế, các cô gái thường đến bệnh viện khá muộn, khi mà bệnh đã có xu hướng phát triển thành kinh niên.
Phần 3:Những hành vi tình dục tuổi thơ và tuổi dậy thì
Những hành vi tình dục tuổi thơ và tuổi dậy thì
Sự phát triển của cơ quan sinh dục kéo theo sự phát triển tâm lý và hành vi tình dục. Cuối thế kỷ 20, nhiều cha mẹ và cô bảo mẫu vẫn nhắm mắt quay đi trước những hành vi tình dục của trẻ em. Điều đó xét ra cũng không có gì lạ. Bởi vì chính họ cũng chẳng được tiếp thu chút thông tin gì về tình dục học; hay nói cách khác, họ không được giáo dục về tình dục con người. Nếu ta hồi tưởng lại tuổi thơ của mình, có lẽ bất cứ ai cũng còn nhớ mình đã lúng túng và hoang mang tới mức nào khi lần đầu tiên chứng kiến tận mắt những hành vi tình dục của người lớn. Vậy thì bây giờ, đã bao giờ ta thực sự nghiêm túc đặt câu hỏi: "Trẻ em tò mò điều gì xung quanh chuyện quan hệ tình cảm của cha mẹ?". Để góp phần trả lời câu hỏi này, chúng tôi đưa ra đây bảng phân cấp sự phát triển tình dục và những hành vi tình dục của trẻ em (được lập ra trên cơ sở những công trình nghiên cứu và kiểm nghiệm khá nhiều năm):
- Từ 1 đến 2 tuổi: Trẻ em biết quan sát những bộ phận trên cơ thể và ý thức được cấu trúc hình thể của mình. Các cậu bé thích sờ chim mình, túm lấy nó nghịch như nghịch một thứ đồ chơi lý thú. Hành vi này không có gì liên quan tới sự thủ dâm. Đó chỉ là biểu hiện của sự tự nhận thức.
Ở tuổi này, mỗi buổi sáng, khi thức dậy, các cậu hay chú ý đến cái chim bị cương lên của mình. Phản ứng này hoàn toàn tự nhiên, không phải do “hưng phấn” hay kích thích tình dục. Hiện tượng cường dương buổi sáng kéo dài suốt cuộc đời.
- Từ 2 đến 3 tuổi: Trẻ em đã ý thức được giới tính của mình, biết tự xếp mình vào loại nào. Chúng phân biệt theo những dấu hiệu thuần túy hình thức như cách ăn mặc, kiểu tóc… Lúc này, chúng đã để ý tới các cơ quan bài tiết nước tiểu của mình nhưng vẫn chưa nghĩ rằng đó là một bộ phận sinh dục.
- Từ 3 đến 4 tuổi: Trẻ đã ý thức được các bộ phận sinh dục của cơ thể mình và xác định được sự khác biệt của hai giới tính. Nó đã băn khoăn trước những câu hỏi thuộc lĩnh vực tình dục như "Vì sao lại có mình?", "Trẻ con được ra đời từ đâu, bằng cách nào?".
- Từ 4 đến 5 tuổi: Trong khi chơi, nhiều em thích chơi trò bác sĩ, trò cô dâu chú rể. Chúng đem vào trò chơi này những kinh nghiệm trực quan của mình. Nếu chú ý theo dõi, chúng ta sẽ biết được môi trường trẻ sinh sống, biết chúng được nuôi nấng như thế nào trong gia đình. Do đã quan tâm chút ít tới đặc trưng của mình, chúng thích gần gũi, tiếp xúc với những đứa trẻ cùng giới tính. Điều này bộc lộ rõ hơn ở các em trai. Nếu là con đầu, trẻ ở tuổi này thường thích có em, mặc dù khi có em rồi thì lại hay ghen tị.
- Từ 5 đến 6 tuổi: Trẻ thực sự thắc mắc về việc mình được sinh ra như thế nào, đồng thời băn khoăn một cách lý thú tới mối quan hệ giữa bà mẹ với đứa con lọt lòng. Trong lúc chơi, các em thường ưu tiên cho các bạn cùng giới tính với mình.
- Từ 7 đến 8 tuổi: Trẻ đã để ý tới các vấn đề tình dục. Chúng hay bàn tán với nhau. Nếu không được thông tin đầy đủ, mỗi em tự xây dựng cho mình một lý thuyết riêng về chuyện chửa đẻ. Các em gái quan tâm tới chuyện chửa đẻ hơn các em trai. Ở tuổi này đã xuất hiện tình bạn nhất thời giữa các cô bé với các cậu bé.
- Từ 9 đến 10 tuổi: Trẻ đã bộc lộ những thiên hướng giới tính. Trong giờ học ở lớp đã xuất hiện những bức thư nhỏ, những mẩu giấy nhỏ chuyền tay. Chúng đã biết rằng đàn bà có chồng thì mới đẻ được, nhưng đàn bà già thì không thể. Chúng suy nghĩ rất lung: "Vì sao nhiều bà mẹ tự do, không có chồng mà vẫn đẻ được ra em bé?".
Một số em đã quan tâm tới những chuyện “tục tĩu”, khuấy động lẫn nhau bằng những câu chuyện “đàn ông - đàn bà” mà mình nghe lỏm được, vô tình trông thấy hoặc tự bịa đặt ra. Các cậu con trai hay vẽ linh tinh lên nhà vệ sinh. Một số cậu đã thủ dâm, nhưng thường là làm theo sự rủ rê, hướng dẫn của những cậu bé nhiều tuổi hơn.
- 11 tuổi: Một số cậu đã vượt mức phát triển bình thường. Cậu thấy có cái gì đó không yên, xao động trong mình. Phần lớn các cậu không cho bạn gái tham gia vào tập thể của mình, trò chơi của mình. Nếu một cô nào đó lọt được vào tập thể của các cậu thì chỉ vì cô biết thán phục các cậu. Bọn con gái còn lại đều bị các cậu cho là ngốc nghếch. Đôi lúc, chúng cũng cũng quan tâm tới các cô bé, đặc biệt là các cô hay khóc nhè của lớp mình. Các cậu hay che đậy những thắc mắc của mình về giới tính của các cô.
Cả 2 giới đều quan tâm tới vai trò của ông bố trong chuyện chửa đẻ của bà mẹ, thích những sách báo có nội dung tình dục, mang tới trường những cuốn sách có minh họa. Trong lúc cùng xem chung, chúng cảm thấy có chút xao động tình dục. Những cậu phát triển sớm hay cố ý huých các cô bé với ý đồ va chạm được vào người các cô.
- 12 tuổi: Bọn trẻ vẫn tiếp tục trò chuyện về tình dục, nhưng chỉ trò chuyện trong nhóm nhỏ của mình. Chúng tìm sách tình dục, chuyền tay nhau đọc. Các cô gái thích ca sỹ, diễn viên nam, nhưng nghĩ tới họ như nghĩ về những người đàn ông. Các cô, các cậu đã bắt đầu để ý tới nhau, để ý tới một cô, một cậu cụ thể nào đó trong lớp, trong trường. Các cô bé để ý tới các chàng trai nhiều tuổi hơn mình, ở các lớp trên hay tới thăm lớp mình.
Một số cậu bé đã có những giọt tinh trùng đầu tiên trong những giấc mơ hoặc khi thủ dâm. Khi thủ dâm, chúng chưa hề có những hình ảnh tình dục hộ tống.
Ở một số cô gái đã xuất hiện kinh nguyệt. Tâm trạng của các cô trước hiện tượng chảy máu của mình phụ thuộc vào hiểu biết của các cô về chuyện đó. Nếu được đọc sách báo hoặc được cha mẹ nói trước, các cô không hề hoảng hốt. Con gái tuổi này đã quan tâm tới cặp vú của mình, xấu hổ khi thấy chúng lớn sớm, hay chùng người lại để giấu độ lớn của chúng. Ngược lại, chúng sẽ cảm thấy bất hạnh khi thấy bộ ngực của mình không nhô lên. Ở cả hai trường hợp, các cô đều cảm thấy hồi hộp, thiếu tự tin. Có ít bậc cha mẹ nhận ra rằng sở dĩ tính khí các cô lúc này hơi thất thường là vì chuyện ấy. Còn các cậu bé đã để ý tới cái phần nhô cao trong ngực áo các cô. Khi trêu đùa nhau, các cậu cố ý chạm vào chúng.
- Từ 13 đến 15 tuổi: Đã xuất hiện tình cảm yêu đương, nhưng thường là đơn phương và âm thầm. Các cô bé thường say mê chàng trai nhiều tuổi hơn mình.
Còn các cậu thì hay thích những cô gái đoan trang, chững chạc hơn mình. Chúng thích sưu tầm tranh ảnh khỏa thân, kể cho nhau nghe những chuyện tình ái và thường hay thủ dâm. Trong khi thủ dâm, các cậu đã có hình ảnh cụ thể trong đầu. Trong khi các cô chỉ thích nghe những chuyện tình vẩn vơ, lãng mạn thì các cậu đã biết sự tiếp xúc tình dục cần những gì và diễn ra như thế nào. Những khi rỗi rãi, chúng mong muốn được thể nghiệm.
Ở tuổi này, cả hai giới đã quan tâm tới chuyện tránh thai, phá thai và hiện tượng sinh đôi.
- Từ 15 đến 18 tuổi: Đã bắt đầu xuất hiện những mối tình đầu và những giao tiếp tình dục. Họ củng cố những hiểu biết trong lĩnh vực tình dục, quan tâm tới các tư thế giao hợp, kỹ thuật kích thích dạo đầu và những hiện tượng cực đoan trong tình dục.
Sự quan tâm của họ tới những vấn đề trên là một điều hoàn toàn tự nhiên. Việc họ không hỏi cha mẹ không có nghĩa là họ thờ ơ về chuyện đó mà chỉ có nghĩa là quan hệ giữa cha mẹ với họ không thực sự gần gũi. Đứa con biết trước cha mẹ sẽ từ chối trả lời, trả lời vu vơ hoặc sẽ mắng mỏ.
Đó là những vấn đề cụ thể của tình dục mà mỗi độ tuổi quan tâm tới. Các ông bố, bà mẹ đừng nghĩ rằng con cái mình không như thế. Nếu không thuộc loại chậm lớn, còi cọc thì các cô các cậu tất sẽ có những biểu hiện và những nhu cầu tự nhiên nói trên. Đó cũng là nhu cầu hiểu biết những cái mới của đời sống con người và hiểu biết về chính bản thân. Vì vậy, các bậc cha mẹ hãy tìm cơ hội thuận lợi để chủ động gợi chuyện với con mình, đừng để chậm trễ! Nếu tiến hành kịp thời, thích hợp, chắc chắn đứa con sẽ cảm kích trước những lời bảo ban, trao đổi quý giá của chúng ta và đền đáp lại bằng sự biết ơn sâu sắc và một niềm tin cậy ruột rà.
Những nguyên tắc giáo dục
Để tiến hành giáo dục có hiệu quả, chỉ có thiện chí không chưa đủ. Điều quan trọng là phải tuân thủ một số nguyên tắc có tính khách quan. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản:
- Tự giác: Giáo dục về mặt tình dục chỉ đạt kết quả khi bản thân người giáo dục thực sự tin rằng công việc của mình rất đúng đắn, cần thiết, và tiến hành công việc đó một cách tự giác. Với ý thức như vậy, người giáo dục sẽ không gặp khó khăn khi tìm tòi những hình thức, biện pháp và lựa chọn những thời điểm thích hợp.
- Phù hợp: Cũng giống như mọi chuyện khác của đời sống con người, chúng ta nên giải thích các vấn đề tình dục cho đứa trẻ lên 5 theo một kiểu, lên 10 một kiểu và đang yêu một kiểu. Trước nhiều câu hỏi của con cái, ta hay lúng túng, đôi khi lại có ý cho con cái mình mãi mãi là trẻ con. Khi ta tìm được câu trả lời đúng thì thường là hơi muộn. Khi ta muốn nói điều gì đó cho đứa con 14 tuổi biết, thì đó thường lại là những điều mà chúng thường quan tâm và cần được biết ngay từ tuổi lên 10. Cha mẹ hay phải nghe một câu trả lời chán nản của con cái: “Thôi mẹ ạ, chuyện ấy con đã biết lâu rồi”. Lúc ấy, cha mẹ mới giật mình nhận ra rằng, lâu nay, mình đã bỏ lỡ bao nhiêu dịp để thông tin cho con những điều hệ trọng của cuộc sống con người.
Có người nghĩ, chỉ nên nói chuyện tình cảm giữa đàn ông và đàn bà với con khi nào chúng hỏi tới. Điều đó chỉ đúng đối với những trẻ chưa cắp sách đi học. Ngoài lứa tuổi đó, bạn đừng đợi con mình hỏi, vì hết năm này qua năm khác, chúng sẽ không hỏi đâu. Hãy cứ tìm dịp thuận tiện mà nói. Bạn đừng lo là mình nói cho con biết quá sớm. Thà nói với chúng sớm một năm còn hơn nói chậm một giờ.
- Chủ động đề kháng: Cũng giống như nhiều lĩnh vực giáo dục khác, giáo dục tình dục không đơn thuần chỉ là truyền đạt thông tin, kinh nghiệm sống mà còn là vấn đề bồi dưỡng nhân cách và xây dựng quan niệm sống con người. Bởi vì đời sống tình dục của con người khác với bản năng tình dục của các động vật; khác ở sự nếm trải những tình cảm mang tính xã hội phong phú, tinh tế và ở trách nhiệm của cá nhân trước một cá nhân.
Ít người làm cha mẹ nghĩ rằng, đến một lúc nào đó, cậu học trò lớp ba, lớp bốn của mình sẽ chủ động nói ra những băn khoăn về lĩnh vực tình dục. Nhiều chuyện tày trời của cậu, cậu có thể can đảm thổ lộ, còn riêng chuyện đó thì lại không. Vì vậy, chúng ta cần vận dụng đúng quy luật thẩm thấu, “tiêm nhiễm”. Những câu giải thích đầu tiên của chúng ta cho con cái sẽ găm sâu trong ký ức của chúng đến tận cuối đời. Việc con cái nghe chúng ta nói cũng giống như chúng được nhận vào cơ thể một lượng kháng sinh. Từ đó, chúng có khả năng chống lại những tiêu cực về sau. Nếu chúng ta trả lời qua quýt, giả dối, những ảnh hưởng tiêu cực sau này của xã hội sẽ tiêu hủy toàn bộ lời nói của chúng ta, ngay cả khi trong đó có cả phần sự thật. Trí nhớ của con người không giống như dải băng, dễ ghi và dễ xóa. Nó là tờ giấy trắng, chữ nào được viết đầu tiên thì sẽ lưu dấu mãi với thời gian.
- Tin cậy: Nhiều cha mẹ thường hay hiểu nguyên tắc này một cách phiến diện. Trẻ em tin người giáo dục mình, đồng thời người giáo dục cũng phải tin tưởng trẻ em. Chỉ có sự cảm thông, tin cậy lẫn nhau mới tạo ra được sự gần gũi. Nếu ta thường xuyên nhớ lại thời thơ ấu của mình, ta sẽ nhận ra là những thắc mắc, nhu cầu của con ta hôm nay chính là những thắc mắc, nhu cầu của ta năm xưa. Trong sự liên tưởng ấy, ta sẽ dễ tìm ra những giải pháp thích hợp và đứa con sẽ cảm thấy mình được tôn trọng.
Đừng có gán cho con những ý đồ phi đạo đức, ngay cả khi nó đang say sưa trong mối tình đầu. Đừng nghĩ rằng con mình sẽ có những cuộc trác táng khi nó chào mình để đi với bạn trong bóng hoàng hôn. Cũng không nên đọc những lá thư tình và những trang nhật ký niên thiếu của con. Bạn có thể giải thích là mình làm thế để hiểu con hơn, nhưng thật ra điều ấy chỉ đem lại cho con bạn cảm giác bị xúc phạm. Mặc dù không thể tin trẻ một cách mù quáng và kiểm tra là cần thiết, nhưng bạn có thể kiểm tra một cách lịch sự, tinh tế và dễ chấp nhận hơn.
- Chân thực: Ngay cả với trẻ mẫu giáo, chúng ta cũng cần trả lời chúng một cách đúng đắn, chân thực. Sự im lặng hoặc giấu giếm thường làm cho câu chuyện tình dục mang một màu sắc bí hiểm, giật gân, kích động sự tò mò không cần thiết. Chúng ta nói dối trẻ em tức là cho chúng vay một món tiền giả, sớm muộn chúng cũng vứt đi và không bao giờ tin và hỏi chúng ta nữa.
- Hệ thống: Trong mọi phương diện của giáo dục, chúng ta phát triển tri thức của trẻ em một cách tuần tự như đặt viên gạch nền tới viên gạch mái. Trong tình dục cũng vậy, trẻ em cần biết tuần tự từ chuyện chửa, chuyện mang thai tới sự sinh đẻ, từ tình cảm giới tính cho đến sự giao hợp. Tất cả những chuyện đó đều cần được biết đến như những hoạt động tự nhiên, tích cực của con người. Chúng ta cần dẫn dắt những vấn đề ấy tuần tự theo lứa tuổi và có thể cho chúng nghe lại một cách thản nhiên và thoải mái khi có dịp.
- Cởi mở: Một số người nghĩ rằng, những chuyện tâm tình của con người chỉ nên nói giữa những người gần gũi, thân thiết thôi, không nên trao đổi rộng rãi. Chúng tôi cho rằng cần kết hợp cả hai hình thức. Khi thảo luận ở một tập thể nào đó, những người trẻ tuổi thường có được nhiều kinh nghiệm hơn. Vấn đề tình dục vẫn có thể được trao đổi một cách cởi mở, tự nhiên. Và chính trong phạm vi một tập thể nào đó, con cái chúng ta sẽ tìm được nhiều lời khuyên bổ ích hơn những lời khuyên vụng về của chúng ta.
Tình dục và nhân cách
Gần đây, nhiều ngành khoa học đã xác nhận ý nghĩa đặc biệt quan trọng của những năm tuổi thơ đối với cả đời người. Cha mẹ nào cũng vậy, đều có những phút bàng hoàng khi nhận ra trước mắt mình không phải là một cậu bé vụng dại nữa mà đã là một trẻ vị thành niên. Nhiều khi cha mẹ chưa kịp nghĩ tới chuyện giáo dục con cái một cách nghiêm túc thì những đặc tính cơ bản của tính cách con mình đã hình thành, kể cả đặc tính tình dục.
Con người chào đời với những thiên hướng bẩm sinh của nó. Ta không thể thay đổi được những thiên hướng đó nhưng có thể phát triển hoặc kiềm chế chúng. Sự phát triển lành mạnh hay sự trục trặc, bệnh tật của đời sống tình dục cá nhân đều liên hệ mật thiết với những biện pháp giáo dục nhất định và những điều kiện sống nhất định. Đặc tính tình dục của một cá nhân chịu nhiều nguồn ảnh hưởng khác nhau, ảnh hưởng của cha mẹ, anh em, bạn bè và cả những tiếp xúc bất ngờ trong xã hội.
Cha mẹ cần quan sát xem quãng thời gian nào con mình hình thành ý thức về giới tính để tiến hành giáo dục. Thông thường, trẻ em độ 1 tuổi rưỡi đã có những biểu hiện về giới tính, năm tuổi thì bộc lộ một cách rõ rệt. Ở tuổi thứ năm, trẻ em rất khó chịu khi người ta nhìn quần áo mà nhầm lẫn về giới tính của nó. Vì vậy, các cô bé một ngày nào đó sẽ đòi đeo hoa tai hoặc đòi để tóc dài. Còn các cậu bé thì tỏ ra bực bội khi có ai đó khen cậu như khen một cô gái đẹp.
Trẻ em như một tảng bột mềm, rất dễ nặn. Những người thân mà trẻ yêu quý và tiếp xúc thường xuyên có ảnh hưởng đặc biệt đối với chúng. Những ấn tượng nếm trải trong tuổi thơ sẽ in sâu vào nhân cách đứa trẻ. Có rất nhiều hành vi (tích cực hoặc tiêu cực) của người trưởng thành có thể được lý giải bằng những ảnh hưởng, ấn tượng từ thời thơ ấu.
Chúng tôi đã chữa cho một bệnh nhân nữ 24 tuổi. Lấy chồng đã hai năm nhưng cô chưa một lần giao hợp thực sự với chồng. Cô mắc bệnh vagina (hẹp âm đạo): Người phụ nữ sợ giao hợp nên âm đạo thường co chặt lại tới mức ngón tay cũng không lọt được vào. Cô kể rằng: Lúc còn học lớp 5, cô đã cùng bạn gái xem tranh porno. Tranh vẽ những người đàn ông có dương vật to một cách bất bình thường. Khi đó cô sợ tới vã mồ hôi và quyết định là sẽ không bao giờ lấy chồng. Tất nhiên là lúc lớn lên cô thấy chuyện đó là nực cười, là lo hơi quá mức. Cô yêu rồi lấy chồng. Nhưng đến phút giao tiếp tình dục thì lý trí chả giúp gì được cô. Từ trong tiềm thức xa xôi, có cái gì đó khống chế toàn bộ cơ thể cô. Cô hoàn toàn bất lực, không thể thỏa mãn ý muốn của chồng.
Một bệnh nhân nữ khác cũng có cái khó tương tự. Cô không hề xem tranh porno, cũng không có những cơn sốc trong tuổi thơ. Lý do là mẹ cô có quan hệ khá căng thẳng với bố cô và rất khắt khe trong chuyện tình dục với ông… Lúc cô còn bé, nhiều lần mẹ cô đã nói thẳng với cô rằng, vì lấy chồng mà bà đã tự hủy hoại cả đời mình. Nếu như làm lại cuộc đời, bà sẽ không bao giờ lấy chồng. Bố cô lấy được bà chỉ vì đã lừa bà, làm cho bà bị chửa. Bà dặn cô nhiều lần là đừng có gần gũi đàn ông, vì sa vào vòng tình ái của lũ đàn ông thì chỉ có cho mà không có được… Một cô gái được chỉ bảo, giáo dục như vậy thì tránh sao được những chuyện éo le khi bước vào cuộc sống tình dục.
Con người khác nhau bởi nhiều đặc tính, trong đó có đặc tính tình dục, cụ thể hơn là khác nhau ở khả năng “cảm ứng” tình dục, một quá trình bắt đầu bằng sự kích thích. Đặc trưng của quá trình này là cảm giác dễ chịu, khoan khoái trong trạng thái căng thẳng sinh lý. Nó có thể vượt lên đỉnh điểm lạc thú, ngây ngất để rồi đi đến sự kết thúc (tất nhiên, ở một số phụ nữ, quá trình này không nhất thiết diễn ra trọn vẹn). Khả năng cảm ứng tình dục (khác với xúc động tình dục) là khả năng phản ứng trước một tình huống kích thích nhất định. Khả năng này ở mỗi người mỗi khác. Ngay ở một người, khả năng này cũng khác nhau tùy từng thời kỳ, lúc trẻ thì mạnh, lúc già thì yếu, chậm dần. Nó cũng khác nhau ngay trong cùng một thời kỳ, phụ thuộc vào tác động của môi trường sinh hoạt và sức khỏe trong từng ngày, từng tháng, từng năm.
Những hành vi tình dục cụ thể, sự giao hợp thường xuyên, cường độ xúc động, khả năng đạt tới đỉnh sóng khoái cảm đều phụ thuộc vào khả năng cảm ứng tình dục. Khả năng này lại phụ thuộc vào cấu trúc thể chất và tâm lý của con người, tri thức hiểu biết của mỗi người, kinh nghiệm sống và hoàn cảnh sống của mỗi người. Điều kiện sống thuận lợi có thể tăng cường khả năng đó, và ngược lại… Một người đàn ông trẻ nếu trải qua một quan hệ tình dục nhạt nhẽo, ngán ngẩm, thì sau đó, khả năng cảm ứng tình dục của anh ta có thể giảm sút nghiêm trọng. Thậm chí vào buổi sáng, dương vật của anh ta cũng không cương lên.
Có thể xem xét khả năng cảm ứng tình dục từ hai góc độ: sinh vật học và tâm lý học. Trong thời gian cảm ứng tình dục, con người có cảm giác hạnh phúc và lạc thú tích cực. Đó không phải là cảm giác giản đơn, nhất thời mà có thể ảnh hưởng lâu dài đến nhân cách. Nó ảnh hưởng tới tâm trạng, sự ổn định tâm lý và nâng cao nhiệt tình, cảm ứng cho những hoạt động khác ngoài phạm vi tình dục. Ngược lại, những ấn tượng tình dục hời hợt, không thỏa mãn sẽ hạ thấp khả năng cảm ứng tình dục, nhu cầu tình dục và phá hoại độ cân bằng tâm lý.
Cảm ứng tình dục “thức dậy” ở tuổi dậy thì. Khả năng này xuất hiện khá đột ngột ở con trai và diễn ra chậm chạp ở con gái. Nó ảnh hưởng tới nhân cách con người. Điều này thể hiện rõ trong kết quả khảo sát đời sống tình dục của phụ nữ mấy chục năm gần đây. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, phần đông phụ nữ chỉ có khả năng xúc động tình dục mạnh mẽ khi đã sống với chồng vài năm liên tục. Ở nhiều phụ nữ, khả năng này vẫn im lìm “ngủ”cho tới lúc già. Có khoảng 1/3 phụ nữ thời ấy hoàn toàn không có khả năng nếm trải cảm giác khoái lạc tột đỉnh. Còn hiện nay, tình hình đã khác. Khả năng xúc động tình dục của các cô gái bây giờ xuất hiện rất sớm so với bà nội, bà ngoại của các cô. Chỉ một vài phần trăm trong các cô không biết tới cảm giác “đỉnh sóng” khoái lạc.
Cách đây không lâu, tình dục được giải thích rất đơn giản. Người ta cho rằng những quá trình sinh học trong cơ thể tạo ra năng lượng tình dục, dẫn tới sự hứng tình. Theo logic ấy, sự hứng tình buộc phải dịu dần qua từng giai đoạn. Hành vi tình dục được giải thích như là một hoạt động bản năng không khác gì chuyện ăn uống là do đói khát. Người ta ví tình dục con người như một chiếc lò hơi quá áp. Áp suất cực đại chấm dứt bằng đỉnh điểm khoái lạc. Nhu cầu tình dục thường trực và khả năng đạt tới tột đỉnh lạc thú được giải thích bằng sức mạnh của bản năng tình dục.
Ngày nay, lý thuyết “chiếc lò quá áp” chỉ còn là một quan niệm nghiệp dư. Nó đã bị khoa học hiện đại lật đổ. Nếu cứ theo lý thuyết ấy, không thể giải thích được vì sao những người ở tầng lớp xã hội và những nền văn minh khác nhau cũng khác nhau về tình dục (về khả năng đạt tới đỉnh điểm khoái cảm và nhu cầu giao hợp). Tình dục con người quả thực rất lạ: Nếu một trong hai người thực sự yêu nhau bị ốm, không thể hoạt động tình dục, thì người kia cũng giảm hẳn nhu cầu tình dục.
Giải thích tình dục con người chỉ từ góc độ bản năng sinh vật học là một điều hoàn toàn phiến diện. Theo quan niệm bản năng tình dục, phải có một quan hệ mật thiết giữa sức mạnh và bản năng, những yếu tố sinh hóa và sinh vật học tương ứng. Những biến đổi trong sự tích tụ hoóc môn sinh dục tất phải gây ra những biến đổi trong hành vi tình dục. Đối với bản năng sinh dục và hoạt động tình dục của cá nhân thì sự tổn thất, hư hại tuyến sinh dục tất phải đem đến những hậu quả tai hại.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở những động vật cấp thấp thì có mối liên hệ ấy thật. Nhưng mối liên hệ ấy đã bị thủ tiêu ngay từ loài khỉ.
Đối với đàn ông (và cả đàn bà) khối lượng hoóc môn tình dục là điều kiện vật chất cho xúc động tình dục của anh ta. Hoóc môn androgen (hoóc môn đàn ông) tạo cơ sở sinh lý học cho nhu cầu tình dục, cho sự nhạy cảm về tình dục. Nó được tạo ra trong các tuyến sinh dục của đàn ông, buồng trứng phụ nữ và phần thượng thận của cả hai giới. Tuy vậy, không có mối liên hệ chức năng rõ rệt giữa hành vi tình dục và sự sản sinh hoóc môn androgen. Một người tuy “mạnh mẽ” về tình dục vẫn không có lượng hoóc môn androgen nhiều hơn những người “yếu đuối”. Lượng hoóc môn androgen không tương ứng với cường độ giao tiếp tình dục. Một người khỏe mạnh ở mức trung bình dù có được truyền hoóc môn vào cơ thể thì cường độ tình dục của anh ta vẫn không tăng lên.
Nếu thuyết Bản năng đúng thì sau khi cắt tinh hoàn, khả năng xúc động tình dục của con người sẽ tự biến mất và một thời gian sau, anh ta sẽ hoàn toàn liệt dương. Nhưng trong thực tế lại khác. Sau khi bị “hoạn” cường độ sinh dục của một số đàn ông giảm đi đột ngột, một số giảm từ từ; một số khác qua nhiều năm vẫn “mạnh mẽ” như không có điều gì xảy ra (tình trạng hoóc môn của cả ba nhóm đàn ông trên đều như nhau). Thực tế cho thấy, trong khi giao hợp, yếu tố tâm lý đặc biệt quan trọng. Sự thiếu tự tin, nỗi lo lắng thất bại thường làm liệt dương.
Đối với phụ nữ, sau khi bị hủy hai buồng trứng, sự tiết hoóc môn androgen và hoóc môn phụ nữ chấm dứt. Nhưng nhiều người không giảm hoặc mất xúc cảm tình dục. Thậm chí ở một số người, khả năng xúc cảm tình dục lại tăng lên, nhu cầu giao hợp dày hơn.
Như vậy, chúng ta có thể kết luận: Hoạt động tình dục của con người bắt nguồn từ sự sản xuất hoóc môn đều đặn, cũng là kết quả của quá trình trao đổi, tích lũy kinh nghiệm tình dục. Những điều học hỏi được về tình dục sẽ nâng cao “sức mạnh bản năng”. Có khẳng định như thế, chúng ta mới hiểu được sự khác nhau về nhu cầu tình dục, cường độ và hiệu quả tình dục trong mỗi nhóm xã hội, mỗi dân tộc riêng biệt.
Khoa học hiện đại đã khẳng định ý nghĩa của giáo dục, của những chuẩn mực đạo lý, những kinh nghiệm nếm trải cá nhân thuộc lĩnh vực khác trong sự hình thành và phát triển đời sống tình dục. Chỉ trong cách xem xét biện chứng như vậy, giáo dục tình dục mới đạt tới mục đích xã hội chân chính với tư cách là con đường đạt tới sự nếm trải trọn vẹn hạnh phúc làm người.