Chương 1
Người nào mà chẳng chợt thấy se lòng khi sống lại một chuyện cũ?
“Tôi đã làm việc đó”. Tại sao những lời đơn giản ấy lại gây cho ta nỗi xúc động lớn? Đó là câu hỏi tôi tự đặt lúc ngồi ở góc toa tàu, nhìn phong cảnh đơn điệu xứ Essex lướt qua cửa sổ.
Bao nhiêu thời gian đã trôi qua từ cái ngày tôi cũng đi trên con đường này! Bi thương trong cuộc chiến tranh mà tôi vẫn cho là lớn nhất, mặc dù sau này cuộc đại chiến thứ hai tỏ ra dữ dội hơn nhiều, hồi đó năm 1916, tôi tin mình đã là người từng trải! Thực ra, tôi đâu có hiểu bấy giờ cuộc đời tôi mới chỉ bắt đầu.
Hồi ấy, tôi đi mà chưa hiểu rằng sắp gặp một người sẽ có ảnh hưởng lớn đến đời tôi. Tôi đang đi tới nhà một người bạn, John Cavendish, mẹ anh ta vừa tái giá và có một ngôi nhà nghỉ ở nông thôn đặt tên là “Styles Court”. Tôi hình dung lại lần đi ấy, niềm vui sắp được nối lại liên hệ với bạn cũ, không hề nghĩ là mình sắp bị cuốn vào những rắc rối của một vụ án bí ẩn.
Vậy mà chính tại Styles mà tôi đã gặp lại Hercule Poirot, con người bé nhỏ kỳ cục mà trước đó tôi đã làm quen ở Bỉ. Tôi còn nhớ mình kinh ngạc chừng nào khi thấy ông tập tễnh đi ngoài phố làng, bộ mặt vẫn điểm bộ ria đặc biệt.
Hercule Poirot! Từ hồi ấy, ông đã là bạn thân nhất của tôi, và chính trong khi cùng ông đuổi bắt một tên sát nhân, mà tôi đã gặp người con gái sẽ trở thành vợ tôi: người dịu hiền nhất, chung thủy nhất, người bạn đời tuyệt vời nhất mà một trang nam nhi có thể mơ ước. Giờ đây nàng đã yên nghỉ trên đất Argentina, để lại tôi thành người cô đơn, buồn chán.
Ôi! Nếu được quay lại quá khứ, bắt đầu lại cuộc đời! Nếu nhờ phép thần kỳ nào tôi được trở lại cái năm 1916, đang đi tới Styles lần đầu!... Từ đó đến nay, biết bao thay đổi! Đã vắng đi bao khuôn mặt thân quen! Chính ngôi nhà đã bị bán đi. John Cavedish đã mất, nhưng bà vợ Mary còn sống, ở đâu đó trong vùng Devon. Laurence cùng vợ và các con sang sống ở Nam Phi. Vâng, thay đổi, thay đổi nhiều.
Chỉ có một điều, kỳ thay, giống lần trước, tôi trở lại Styles để gặp Hercule Poirot.
Mấy hôm trước, tôi rất ngạc nhiên nhận được thư của ông, để địa chỉ từ Styles, vì đã hơn một năm rồi tôi không gặp ông. Lần gặp cuối đó, tôi đã rất buồn phiền, vì Poirot nay đã nhiều tuổi, đi lại khó khăn vì bệnh viêm khớp. Ông đã sang Ai Cập, hy vọng chữa được bệnh, nhưng theo thư ông viết, tình hình vẫn thế. Tuy vậy, giọng thư ông vẫn còn hăm hở...
... Anh có lạ không, khi biết tôi viết thư này từ đâu? Nó gợi cho anh nhiều kỷ niệm, phải không? Vâng, tôi đang ở Styles. Anh hình dung được không, bây giờ ở đó là một nhà trọ cho các gia đình, do một ông cựu đại tá làm chủ, tất nhiên vợ ông ta là tay hòm chìa khóa. Bà ta rất quán xuyến mọi việc, phải cái nói hơi nhiều, làm ông đại tá cũng phát ngán. Tôi mà ở vào địa vị ông ta, tôi sẽ không để như thế!
Tôi đọc quảng cáo họ đăng trên báo, và thế là tôi bỗng muốn trở lại cái nơi tôi đã ở đầu tiên khi tới nuớc Anh. Ở tuổi tôi, ai cũng thích sống lại quá khứ.
Ngoài ra, tôi gặp ở đây một vị huân tước là bạn ông chủ của con gái anh. Ông ta mời gia đình Franklin đến đây ở trong mùa hè. Bây giờ đến lượt tôi lại mời anh tới, thế là gặp nhau cả, rất vui. Vậy thì, anh Hastings thân mến, hãy mau mau tới đi. Tôi đã giữ cho anh một phòng có cả nhà tắm, vì anh biết không, bây giờ Styles Court cũng hiện đại hóa lắm rồi, và đã mặc cả tiền thuê với giá hời nhất.
Vợ chồng Franklin và Judith con gái anh tới đây đã đươc vài ngày. Mọi việc đã thu xếp xong, vậy anh chớ tìm cách thoái thác.
Thân ái
Hercule Poirot
Lời mời thật hấp dẫn, và tôi làm ngay theo lời ông bạn già. Tôi không vướng bận gì. Hai con trai, một đứa đang phục vụ trong Hải quân; đứa kia đã có vợ, lo trông nom cái trang trại của chúng tôi ở Argentina. Một con gái, tên là Grace, lấy chồng là quân nhân thì ở Ấn Độ... con gái út là Judith, chính là đứa tôi thầm cưng nhất, mặc dù chưa hiểu hết tính nết nó. Nó là một đứa con gái bí ẩn, ít nói, quen nghĩ một mình, không hỏi ý kiến ai. Tôi thường buồn phiền vì thái độ của nó, song vợ tôi hiểu nó hơn và bênh che nó, cho rằng không phải Judith không tin cậy, mà chỉ là tính rụt rè của tuổi mới lớn. Tuy nhiên đôi khi bà ấy cũng lo, bà ấy nói tình cảm của Judith quá tập trung, cô đặc, lại ít thổ lộ, nên có thể nguy hiểm. Đôi lúc nó có những cơn mơ màng và cố chấp một cách chua chát. Đổi lại, nó là đứa thông minh nhất trong mấy chị em, nên chúng tôi rất đồng tình để nó học lên tới đại học. Năm ngoái Judith đã tốt nghiệp và nhận làm trợ tá cho một bác sĩ đang chuyên nghiên cứu về những căn bệnh vùng nhiệt đới.
Đôi lúc tôi lo ngại tự hỏi Judith say mê làm việc và tận tụy với ông thầy đến thế phải chăng là có tình cảm riêng tư gì không. Tuy nhiên, thấy quan hệ nghiêm túc giữa thầy và trò, tôi yên tâm. Tôi cho là Judith rất yêu tôi, song ít khi để lộ, thường lại cố tình coi thường những suy nghĩ của tôi mà nó cho là tình cảm và cổ hủ. Thật lòng, tôi có hơi ngại về nó.
Đang nghĩ ngợi lan man thì tàu dừng lại ở ga Styles. À, nơi đây dù sao thì cũng không thay đổi. Thời gian trôi qua, nhưng cái ga xép này vẫn đứng trơ trọi giữa đồng không mông quạnh.
Nhưng khi tắc-xi đưa tôi qua làng, tôi mới nhận ra dấu ấn của thời gian. Gần như không nhận ra được thị trấn cũ nữa. Giờ đây đã có thêm trạm xăng, rạp chiếu bóng, hai khách sạn và những dãy nhà ở cho thuê rẻ tiền.
Xe đi qua cổng nhà Styles Court. Đến đây, đột nhiên tôi lại thấy mình trở lại cái thời xa xưa. Khu vườn vẫn y như cũ, có điều lối đi chính kém được sửa sang, nhiều cỏ dại. Đến lối ngoặt thì nhìn thấy tòa nhà. Bên ngoài không có gì thay đổi, mặt tiền và cửa sổ đã lâu không được sơn phết lại.
Hồi trước tôi đến, cách đây đã nhiều năm, có một bóng phụ nữ đang cúi xuống các bồn hoa. Lần này cũng vậy, và dường như trái tim tôi ngừng đập. Nhưng người phụ nữ đã đứng lên và tiến về phía tôi. Tôi thầm cười trong bụng, vì giữa cô Evelyn Howard khỏe mạnh trước kia và người đàn bà lúc này đang đứng trước mặt tôi, là cả một sự trái ngược. Bà này đứng tuổi, dáng cò lả, tóc xoắn dày và trắng toát, đôi mắt lạnh lùng khác hẳn với thái độ niềm nở mà tôi cho là hơi thái quá. Bà ta vồn vã hỏi:
- Ông là đại úy Hastings có phải không? Trời ơi! Tay tôi đầy đất thế này! Rất mừng là ông đã tới. Chúng tôi nghe nói mãi về ông! Xin giới thiệu: Tôi là bà Luttrell. Vợ chồng tôi chẳng biết tại sao tậu cái nhà này, và bây giờ đang cố thu hiệu quả. Tôi có bao giờ nghĩ lại trở thành chủ trọ! Nhưng xin đại úy nhớ cho rằng kinh doanh là kinh doanh, nên mọi thứ dịch vụ đều phải trả tiền...
Cả hai chúng tôi đều cười, coi như câu nói đùa dí dỏm, nhưng rồi tôi nghĩ điều bà Luttrell nói có thể trở thành sự thật. Phía sau vẻ hồ hởi của chủ nhà, có thấy dấu hiệu của sự tính toán sòng phẳng. Tôi hỏi thăm tin tức về ông bạn.
- A! Ông Poirot tội nghiệp! Ông ấy mong ông tới lắm.
Bà tháo đôi găng lao động, cùng đi với tôi vào nhà, vừa đi vừa nói:
- Còn cô con gái của ông nữa, sao mà dễ thương! Ở đây ai cũng khen cô ấy. Nhưng này, ông ạ tôi là người cổ, nên cứ thấy bắt một cô gái trẻ như thế suốt ngày ngó nghiêng vào kính hiển vi, là có tội đấy. Phải để cho cô ấy đi chơi, đi nhảy, kết bạn chứ.
- Con bé lúc này đang ở đâu?
Bà Luttrell nhăn mặt:
- Tội nghiệp! Vẫn ru rú trong cái phòng tôi cho bác sĩ Franklin thuê và rồi ông ấy biến thành xưởng thí nghiệm. Ở đó có đủ nào thỏ, nào chuột bạch... Nói thật, tôi không ưa cái thứ khoa học ấy... à, ông nhà tôi đây rồi.
Đại tá Luttrell vừa xuất hiện. Người cao lớn nhưng gầy, mặt nhợt nhạt như xác chết, song đôi mắt xanh trông rất hiền. Ông ta xem chừng có tính nóng nảy và cái tật vừa nói vừa giật giật ria mép. Bà Luttrell nói:
- Ông George ơi, đại úy Hastings đã tới.
Ông đại tá chìa tay:
- Ông đến bằng chuyến tàu... hờ... năm giờ bốn mươi, hả?
- Còn đến bằng chuyến nào khác? - Bà vợ nói như gắt - Vả lại, chuyến nào thì can gì? Ông hãy chỉ phòng cho ông ấy. Rồi có lẽ ông ấy muốn gặp ông Poirot. Hay là... ông muốn dùng trà cái đã, ông Hastings?
Tôi nói không dùng trà và muốn tới chào bạn ngay.
- Đồng ý, đại tá nói. Vậy ông theo tôi... À, này bà Daisy, đã mang hành lý của đại úy lên chưa?
- Đó là việc của ông chứ - bà Luttrell cau có. Tôi còn bận làm vườn đâu có ba đầu sáu tay.
Tôi cùng ông bước lên bậc tam cấp. Ngay ngưỡng cửa, gặp một người đi ra, tóc trắng, dáng người mảnh dẻ, bộ mặt trẻ thơ với cái nhìn ngơ ngác. Người đó đi hơi tập tễnh, tay cầm chiếc ống nhòm.
- Có một hoặc hai... tổ chim... gần cây sung - anh ta nói, giọng hơi lắp.
Vào tới sảnh. Luttrell bảo tôi:
- Đấy là Norton. Cậu ta rất tốt, rất mê chim và hoa.
Trong phòng chờ, một người cao đang đứng cạnh máy điện thoại.
- Tôi muốn treo cổ, xé xác tất cả bọn thầu thoán chết tiệt! Ông ta hầm hừ. Chúng chẳng đáng được gì nên trò.
Sự phẫn nộ quá đáng đó làm chúng tôi phải bật cười. Lập tức tôi có cảm tình với ông ta. Chắc đã quá ngũ tuần, nhưng trông còn đẹp mã. Mặt rám nắng chứng tỏ sống nhiều ở ngoài trời. Mặt khác, nhác nhìn đã thấy ông ta thuộc típ người ngày càng hiếm: loại người Anh chính gốc, bộc trực, biết tỏ uy quyền, cho nên tôi không ngạc nhiên khi đại tá Luttrell giới thiệu đó là ngài William Boyd Carrington. Tôi biết ông đã từng là thống đốc một bang ở Ấn Độ, nổi tiếng thiện xạ, hay đi săn thú rừng. Một trong những con người mà buồn thay, nước Anh ở thời kỳ suy thoái này không sản sinh ra nữa.
Ông ta cười và kêu lên:
- A! Rất mừng được thấy “ông bạn Hastings” bằng xương bằng thịt. Ông bạn già người Bỉ luôn nhắc tới ông. Với lại, ở đây còn cô con gái mỹ miều của ông nữa...
Tôi mỉm cười đáp lại:
- Tôi chắc con Judith ít khi nhắc đến tôi.
- Tất nhiên là không. Con gái hiện đại mà. Thời nay các cô gái dường như ngượng ngùng khi phải nhận mình cũng có cha có mẹ.
- Quả đúng như vậy - tôi thở dài. Thực tế là bố mẹ bị coi là xuống cấp hết.
Boyd Carrington lại cười:
- Tôi không biết ông cảm giác thế nào, vì tiếc thay tôi không có con. Judith của ông là một cô gái rất xinh, nhưng cựu kỳ tự phụ. Đáng ngại đấy.
Ông ta quay trở lại với điện thoại:
- Ông Luttrell hy vọng là ông không phiền, tôi phải xạc cho tổng đài một trận. Nó làm tôi khó chịu quá, phải đợi hoài.
- Vâng, ông cứ làm, tốt thôi.
Tôi theo ông đại tá lên cầu thang, rẽ sang trái, dừng trước một phòng tận cùng hành lang. Poirot đã giữ cho tôi căn phòng trước đây tôi đã ở.
Tuy nhiên, đã có nhiều thay đổi. Suốt dọc hành lang, các cửa đều mở, và tôi nhận thấy các phòng rộng trước kia đã được ngăn thành nhiều phòng nhỏ hơn. Song phòng của tôi trước đây vốn không rộng lắm, vẫn như cũ. Tuy nhiên ở một góc, có thêm một phòng tắm nhỏ xíu. Bàn ghế toàn kiểu mới, rẻ tiền, làm tôi hơi thất vọng. Tôi vẫn thích bày biện theo lối cổ, hợp hơn với chính kiến trúc của ngôi nhà.
Hành lý của tôi được mang lên. Ông đại tá cho biết phòng của Poirot ở ngay đối diện phòng tôi, ông sắn định đưa tôi sang thì có tiếng gọi giật giọng dưới nhà: “George!” Ông đại tá giật nảy mình, đưa tay lên miệng.
- Tôi... tôi... như vậy tạm ổn rồi chứ? Cần gì, ông cứ bấm chuông.
- George!
- Tôi xuống, tôi xuống đây, bà nó ạ.
Ông đi rồi, tôi hồi hộp băng qua hành lang, đến gõ cửa phòng Poirot.
Chương 2
Theo tôi, không có gì buồn hơn là sự suy thoái của tuổi già.
Tội nghiệp ông bạn tôi. Tôi đã nhiều lần mô tả ông, nên bây giờ tôi chỉ kể những gì có thay đổi. Bị thấp khớp, Poirot chỉ đi lại được bằng xe lăn. Thân hình bầu bĩnh trước kia nay đã sọp hẳn, mặt mũi đầy nếp nhăn. Ria mép và tóc thì vẫn đen nhánh, trước kia tôi còn ngờ ngợ, nhưng nay thì nhìn thấy rõ là đen nhờ thuốc nhuộm. Có cảm tưởng là ông mang tóc giả. Duy đối mắt không thay đổi: vẫn sắc sảo, linh lợi như xưa. Và lúc này đôi mắt ấy đang thể hiện niềm xúc động rõ rệt :
- A! Bạn Hastings, anh bạn Hastings...
Tôi cúi xuống để ông nồng nhiệt ôm hôn. Ông tựa hẳn người lên lưng ghế, hơi nghiêng đầu ngắm tôi :
- Vẫn thế. Lưng thẳng, vai vuông và tóc hoa râm, trông anh vẫn có thế lắm. Còn món đàn bà con gái? Họ vẫn ríu rít quanh anh chứ?
- Ồ, Poirot, chả nhẽ anh vẫn nghĩ...
- Không, tôi cho đó là một trắc nghiệm. Trắc nghiệm số một. Khi nào các cô gái trẻ tỏ ra lễ phép với anh, anh có thể tin rằng thế là hết. Đó là vị họ thương hại anh, họ nghĩ: “Thôi, ta cứ tử tế với các vị ấy, tuổi cao rồi, thật là buồn”. Nhưng anh, anh Hastings, anh còn trẻ. Với anh, còn rất nhiều triển vọng...
Tôi bật cười :
- Poirot, ông nói quá rồi đấy. Thế còn ông, sức khỏe ra sao?
Poirot nhăn mặt :
- Tôi, thì thân tàn rồi. Không đi lại được, gần như liệt. Nhưng nhờ trời, tôi còn tự ăn được, không phải người bón. Còn những chuyện phải có người giúp như giúp trẻ: đi ngủ, thức dậy, mặc quần áo... thật buồn. Cũng may, hình hài thì thế, những trí óc vẫn tốt. Vẫn hoạt động được.
- Và ông bằng lòng ẩn ở cái xó này? - Tôi hỏi.
Ông nhún vai :
- Tạm được. Tất nhiên, đây không phải là khách sạn Ritz. Cái phòng lúc đầu cho tôi thuê quá nhỏ, bàn ghế lại sơ sài. Tôi đổi sang phòng này, không phải trả thêm tiền. Còn về ăn uống, thì đúng là thực đơn Anh vào loại tồi tệ nhất.
- Thế thì không hay rồi.
- Nhưng tôi không kêu ca đâu nhé, anh nhớ điều đó.
Tuy nhiên Poirot tiếp tục phàn nàn :
- Lại còn cái tạm gọi là hiện đại hóa nữa chứ. Đúng là có phòng tắm với hàng loạt vòi nước. Nhưng từ tất cả những độ mạ kền sáng loáng ấy thì nước chảy ra thế nào? Khăn tắm thì mỏng tang...
- Đúng là ngày xưa vẫn tốt hơn.
- Nhưng không nên kêu ca, Poirot tiếp tục nói. Tôi sẵn lòng chịu đựng để theo đuổi việc lớn.
Một ý nghĩ chợt lóe trong óc tôi :
- Này ông Poirot, ông không.... không đến nỗi túng thiếu chứ? Sau chiến tranh, mọi thứ đều bị ảnh hưởng, cả tình hình kinh tế...
Poirot vội xua tay để tôi yên tâm :
- Không, không. Tôi vẫn thoải mái, còn giàu là đằng khác. Không phải vì tiết kiệm mà tôi đến đây.
- Nếu vậy thì tốt. Có lẽ tôi hiểu ông cảm nghĩ gì. Người có tuổi có xu hướng muốn sống lại những ngày xưa cũ, tìm lại những cảm xúc cũ. Bản thân tôi không hăm hở trở lại đây lắm, song nó làm tôi sống lại biết bao hồi ức tưởng như đã quên. Tôi chắc ông cũng nghĩ thế.
- Hoàn toàn không phải vậy. Đó là anh nói về anh. Chứ còn tôi, hồi đó tôi tới Styles này chẳng vui vẻ gì. Tôi bị thương, chỉ là một kẻ lánh nạn như bao người khác, xa gia đình, xa tổ quốc, chỉ sống nhờ sự cưu mang của một nước xa lạ. Lúc đó tôi không ngờ nước Anh lại trở thành nơi trú ngụ lâu dài, và tôi tìm thấy hạnh phúc ở đó.
- Lâu ngày tôi quên mất chuyện đó. - Tôi thú nhận.
- Thấy chưa. Anh hay suy bụng ta ra bụng người. Hastings hạnh phúc, vậy mọi người đều hạnh phúc.
- Đâu, tôi có nghĩ thế đâu. - Tôi cười và chống chế.
- Mà sự thực, cũng đâu có thế. Anh rưng rưng nước mắt nhìn lại phía sau, thở dài: “Ôi, những ngày tươi đẹp! Hồi đó ta còn trẻ...” Nhưng thực ra lúc đó anh có sung sướng gì đâu. Anh cũng vừa bị thương, đang bực mình vì không được ở lại quân đội chiến đấu. Tinh thần anh suy sụp vì phải nằm thời gian dài trong trại an dưỡng. Đã thế anh lại gây thêm rắc rối vì phải lòng hai cô gái cùng một lúc.
Tôi lại cười và hơi đỏ mặt :
- Sao ông nhớ dai thế! Thế ông có nhớ lúc ấy ông nói gì với tôi? Rằng cả hai cô ấy không hợp với tôi, và tôi phải can đảm lên!
Về sau, cả Poirot và tôi lại có dịp gặp nhau tại Pháp. Và cũng tại nước Pháp, tôi đã gặp người phụ nữ duy nhất của đời tôi...
Poirot vỗ nhẹ cánh tay tôi :
- Tôi biết, Hastings, tôi biết. Vết thương lòng hãy còn mới, nhưng không nên cả nghĩ. Hãy nhìn về phía trước.
Tôi tỏ vẻ nản :
- Nhìn về phía trước? Nhưng trước mặt tôi thì có cái gì?
- Trước hết, anh có một nhiệm vụ cần hoàn thành.
- Nhiệm vụ? Nhiệm vụ ở đâu?
- Ở ngay đây.
Tôi ngạc nhiên nhìn ông bạn. Poirot nói :
- Lúc nãy, anh vừa hỏi tại sao tôi có mặt ở Styles. Và có lẽ anh không để ý là tôi tránh trả lời. Nhưng bây giờ tôi nói. Anh Hastings, tôi đến đây để truy bắt một tên giết người.
Tôi tiếp tục nhìn ông, càng thêm lạ lẫm. Và thú thật, tôi thoáng có ý nghĩ là ông bạn bắt đầu nói lẫn. Cuối cùng tôi ấp úng :
- Ông nói... nghiêm chỉnh?
- Nghiêm chỉnh nhất đời. Nếu không tại sao tôi gọi anh đến? Chân tay tôi yếu rồi, nhưng óc tôi vẫn nguyên. Phương pháp của tôi, anh biết đấy, không bao giờ thay đổi. Chỉ cần ngồi yên trên ghế và suy nghĩ. Việc đó tôi vẫn làm được. Thực ra, đó là điều duy nhất tôi có thể làm lúc này. Còn các phần điều tra tích cực khác, tôi đã có anh, Hastings, người bạn vô giá.
- Ông nói nghiêm chỉnh chứ? - Tôi hỏi lại.
- Nhất định rồi. Tôi và anh lại cùng nhau phá án.
Phải mất mấy giây tôi mới tin được là Poirot không đùa.
Poirot mỉm cười nói tiếp :
- Anh tin rồi chứ? Chắc thoạt đầu, anh cho là bộ óc tôi đã kém đi rồi?
Tôi vội chối :
- Không, không. Nhưng nơi này có vẻ như làm gì có tội ác...
- Anh nghĩ vậy ư?
- Tất nhiên, vì tôi chưa gặp hết mọi người.
- Anh đã gặp những ai?
- Mới gặp vợ chồng Luttrell, rồi một cậu tên là Norton - trông rất hiền lành - cuối cùng là Boyd Carrington, bề ngoài cũng dễ mến.
Poirot gật đầu :
- Thế thì, tôi xin nói điều gì: khi đã biết tất cả mọi người trong nhà này, anh vẫn thấy lời tôi nói vừa rồi là bí hiểm.
- Còn những ai nữa?
- Bác sĩ Franklin và vợ, cô Craven là y tá chăm nom bà Franklin - Judith con gái anh; một cô tên là Cole - chừng băm nhăm tuổi - cuối cùng là một anh chàng tên Allerton, có số đào hoa. Xin nói thêm: họ đều là những người dễ thương.
- Và trong đó có một tên là sát thủ?
- Một trong số ấy là kẻ giết người - Poirot tuyên bố nghiêm trang.
- Nhưng làm sao... nghĩa là... làm sao ông biết vậy? - Tôi nói thều thào, vì vẫn chưa hết kinh ngạc.
- Hãy bình tĩnh, Hastings. Và bắt đầu từ chỗ bắt đầu. Anh đưa tôi cái cặp để trên tủ kia. Tốt, cả chìa khóa nữa.
Poirot mở chiếc cặp da, lấy ra một số mẩu báo cắt rời và một mớ giấy đánh máy:
- Anh hãy đọc cái này. Trước mắt đừng quan tâm vội đến các bài cắt từ báo: đó chỉ là tường thuật một số vụ án khác nhau - mô tả hấp dẫ đấy, nhưng thường không chính xác. Anh hãy xem bản tóm tắt của tôi viết thì hơn.
Tôi tò mò đọc ngay.
“Vụ A: ETHERINGTON
Leonard Etherington, nghiện rượu và ma túy, tính tình tàn bạo. Cô vợ trẻ và đẹp, rất khổ vì chồng. Etherington chết, có vẻ bị ngộ độc thức ăn. Khám xét tử thi thì là chết vì bị đầu độc bằng thạch tín. Cô vợ bị bắt, bị buộc tội giết chồng. Trước đó có quan hệ với một công chức trẻ, nhưng anh này đã trở sang Ấn Độ. Không có chứng cớ ngoại tình, nhưng mối liên hệ có vẻ thân thiết. Trên đường trở về Ấn Độ, anh chằng kia làm quen với một cô gái và quyết định đính hôn. Anh ta viết thư báo cho bà Etherington, nhưng không rõ bà này nhận được thư trước hay sau khi chồng chết. Bà ta khẳng định nhận được trước khi. Chứng cớ buộc tội bà phần lớn là gián tiếp, vì không còn biết nghi ngờ ai khác. Do ông chồng đã có tiếng tàn bạo, hay hành hạ vợ, nên đoàn bồi thẩm có vẻ cảm tình với bị cáo. Bà Etherington được miễn tố. Tuy nhiên, dư luận vẫn cho bà là thủ phạm. Bà bị người thân xa lánh, gặp nhiều khó khăn trong đời sống. Hai năm sau, chết vì uống thuốc ngủ quá liều. Kết quả điều tra coi là chết vì tai nạn.
VỤ B: CÔ SHARPLES
Là một bà gái già tàn tật, khổ sở vì bệnh, có cháu gái là Freda Clay trông nom. Cô Sharples chết do bị tiêm một mũi moóc-phin quá liều. Freda nhận là mình tiêm nhầm, và nói thấy bà cô đau đớn quá nên tiêm cho giảm đau. Cảnh sát thì cho là không nhầm mà cố tình. Tuy nhiên không đủ chứng cứ nên Freda Clay vô can.
Vụ C: EDWARD RIGGS
Công nhân nông nghiệp. Nghi vợ ngoại tình với Ben Graig, người ở trọ trong nhà. Cuối cùng người ta thấy cả đôi “gian phu dâm phụ” bị bắn chết bằng khẩu súng Riggs. Anh này tự đến nộp mình
VỤ D: DEREK BRADLEY
Anh này quan hệ với một cô gái, bị vợ phát hiện, dọa giết chết. Quả nhiên Bradley chết do uống bia bị bỏ thuốc độc. Người vợ bị bắt và hoàn toàn nhận tội, bị kết án.
VỤ E: MATTHEW LITCHFIELD
Là bố của bốn con gái, nhưng có tính độc đoán gia trưởng, khiến các con khổ sở. Một hôm, về đến cửa nhà, ông ta bị tấn công, giáng một cú vào đầu. Margaget, cô gái lớn, thú nhận mình đã giết cha để các em đỡ khổ. Litchfield để lại gia tài lớn. Margaget được coi như đã hành động một cách vô thức, được gửi vào trại trừng giới, ít lâu sau thì chết”.
Tôi đọc chăm chú, mỗi lúc một ngạc nhiên hơn. Cuốicùng, đặt tập giấy xuống, tôi ngước nhìn Poirot có ý ngầm hỏi.
- Thế nào, anh bạn?
Tôi thong thả đáp :
- Vụ Bradley tôi có nhớ mang máng. Hồi đó tôi có theo dõi, còn nhớ cô vợ là người rất xinh đẹp.
Poirot gật đầu.
- Nhưng ông phải nói rõ hơn. Toàn bộ những vụ này có ý nghĩa gì?
- Anh cứ nói quan điểm của anh trước.
- Tôi vừa đọc tường thuật năm vụ án khác nhau, trong những tầng lớp xã hội khác nhau. Song không thấy giữa chúng có gì giống nhau. Một vụ là do ghen tuông; vụ kia là vợ bị hành hạ tàn bạo nên giết chồng; vụ thứ ba có động cơ là tiền bạc; vụ thứ tư thì có vẻ như nhằm mục đích tốt, vì thủ phạm tự ra đầu thú, còn vụ thứ năm thì có thể là đương sự say rượu.
Tôi ngừng lại một lát, rồi ngập ngừng hỏi:
- Giữa những vụ ấy, có điều gì giống nhau mà tôi chưa nhận ra?
- Không có gì hết. Anh đã thấy rất rõ. Anh chỉ có thể nhận xét một chi tiết phụ duy nhất, là trong từng ấy việc ai là thủ phạm đều rõ không hề có sự phân vân thực sự.
- Anh nói rõ xem nào.
- Ví dụ, bà Etherington được miễn tố, nhưng mọi người đều tin bà ta là thủ phạm. Freda Clay không bị kết án, nhưng không ai nghĩ còn thủ phạm nào khác. Riggs khai không nhớ mình có giết vợ và nhân tình không, nhưng ngoài hắn ra, còn ai vào đấy nữa. Còn Margaret Litchfield, cô này nhận hết. Anh thấy không, trong mỗi vụ chỉ có một kẻ tình nghi duy nhất.
Tôi cau mày suy nghĩ :
- Đúng vậy. Song tôi vẫn chưa hiểu từ đó ông rút ra kết luận gì.
- Hãy khoan. Tôi đi đến một điểm mà anh chưa biết. Giả sử ở mỗi vụ, có một sự việc từ bên ngoài, chung cho tất cả.
- Ông định nói sao?
- Tôi trình bày vấn đề như thế này nhé. Có một người nào đó ta gọi là X. Trong tất cả các vụ trên, bề ngoài X không có lý do gì để giết nạn nhân. Và nếu những thông tin tôi có là đúng, thì lúc xảy ra vụ án nọ, anh ta ở cách đó tới hai trăm năm mươi cây số. Tuy nhiên tôi phải nói là hắn có liên quan mật thiết với Etherington. Hắn lại có một thời gian ở cùng làng với Riggs. Hắn cũng quen biết bà Bradley và tôi có một tấm ảnh - chụp ngoài phố - hắn cùng đứng với Freda Clay. Cuối cùng, lúc Litchfield bị giết, hắn lại đang có mặt gần đó. Anh thấy thế có lạ không.
Tôi trố mắt nhìn Poirot, và nói:
- Thế thì hơi quá. Ta có thể chấp nhận có sự trùng hợp trong hai vụ - dđến ba là cùng - nhưng những năm vụ, thì khó nuốt quá. Dù vô lý thế nào, chắc phải có mối liên hệ gì giữa năm vụ đó.
- Thế là anh đã đi tới kết luận giống tôi.
- Có nghĩa chính tên X bí ẩn đó là thủ phạm.
- Và bây giờ, tôi xin báo với anh rằng X đang ở trong nhà này.
- Ở Styles này?
- Ở Styles. Từ đó ta suy diễn ra điều gì?
Tôi đã đoán trước được điều Poirot sắp nói. Ông nghiêm nghị tiếp :
- Phải, chẳng bao lâu nữa. Ở đây lại sẽ có người bị giết.
Một lúc lâu tôi chỉ nhìn Poirot, không nói một lời nào, vì sửng sốt cao độ. Cuối cùng mới cất nên lời :
- Ồ không! Ông phải ngăn chặn chuyện ấy.
Ông nhìn tôi một cách thân mến.
- Anh biết không, tôi rất xúc động vì anh đã đặt niềm tin vào tôi. Tuy nhiên, e rằng trong tình hình này lòng tin ấy không được đền đáp.
- Ông đừng nói lung tung. Ông thừa sức ngăn chặn tội ác.
- Hãy nghĩ mà xem, Poirit nói, nghiêm trang. Bắt một tên tội phạm thì được. Nhưng làm sao ngăn được tội ác?
- Ờ hờ... ông... ông... nếu ông biết trước...
Tôi ngừng bặt, thấy quả thực khó nói.
- Thấy chưa? Không đơn giản như ta tưởng. Có ba phương pháp. Thứ nhất là cảnh báo trước người nào có thể là nạn nhân. Việc này không phải lúc nào cũng có kết quả. Vì rất khó làm cho người đó tin mình đang bị đe dọa, nhất là khi mối họa đó lại từ một người rất gần gũi, thân thiết. Họ sẽ phản ứng lại và không tin. Cách thứ hai là cảnh cáo tên sát thủ, bằng cách ám chỉ “Tôi biết anh định làm gì rồi, nếu người này người nọ mà chết, tôi sẽ tố cáo”. Cách này có thể có hiệu quả, mà cũng có thể thất bại. Vì thường thì tội phạm rất chủ quan, hắn cho mình đã chuẩn bị chu đáo, đánh lạc hướng cảnh sát... Tóm lại, hắn vẫn thi hành thủ đoạn, và ta chỉ có thể bắt hắn sau khi hắn đã hoàn thành tội ác.
Ngừng một lát, Poirot nói tiếp :
- Trong đời, tôi đã hai lần cảnh cáo một tên tội phạm: một lần ở Ai Cập, một lần ở nơi khác. Cả hai lần, hắn đều không từ bỏ ý định... ở đây có thể cũng thế chăng...
- Còn phương pháp thứ ba?
- Phải. Nhưng cách này đòi hỏi cực ký khéo léo. Phải xác định thật rõ hắn sẽ phạm tội lúc nào và ở đâu, để sẵn sàng bắt quả tang, không phải sau khi hắn làm bậy mà đúng lúc hắn sắp sửa bắt đầu. Việc ấy rất khó, không ai dám bảo đảm kết quả. Có thể tôi hay tự đánh giá cao, nhưng không cao đến mức ấy.
- Ở đây, ông định vận dụng phương pháp nào?
- Có lẻ cả ba. Hiện nay cách thứ nhất là khó hơn cả.
- Tôi cứ tưởng ngược lại, cách đó dễ nhất.
- Với điều kiện phải biết ai là nạn nhân. Mà anh không hiểu là tôi chưa biết ai bị nhắm sao?
- Sao?
Tôi đã thốt lên câu hỏi ấy một cách không suy nghĩ. Tiếp đó, tôi hiểu việc đó không dễ dàng. Chắc chắn phải có mối liên quan giữa năm vụ án tôi vừa đọc nhưng bản chất mối liên hệ đó là gì thì chúng tôi chưa biết. Động cơ không xuất hiện rõ. Như vậy, làm sao biết ai đang bị đe dọa?
Poirot gật đầu khi biết tôi đã hiểu cái khó của tình hình.
Tôi hỏi tiếp :
- Vậy đến nay, ông chưa tìm thấy mối liên quan giữa các vụ án?
- Chưa.
Tôi suy nghĩ. Ngoài động cơ tiền bạc, có thể đây là một vụ báo thù nào đó chăng? Tôi nhớ trước đây đã đọc một loạt vụ giết người có vẻ như không có động cơ. Sau đó người ta đã phát hiện tất cả những người bị giết đã tham gia một đoàn bồi thẩm, đoàn bồi thẩm này đã đồng thanh kết tội một người, nên người này lần lượt trừ khử họ để trả thù. Có lẽ trường hợp này giống như vậy chăng? Song tôi chỉ nghĩ thế thôi, không nói ra, mà nói :
- Bây giờ xin hỏi, tên X bí ẩn của ông là ai?
Poirot lắc đầu quầy quậy :
- A, điều này thì tôi không nói.
- Tại sao?
Một ánh tinhn quái lóe lên trong đôi mắt thám tử :
- Tại vì, đánh chết anh vẫn là chàng Hastings ấy, với bộ mặt lộ liễu của anh.Tôi nói ra để rồi anh cứ nhìn hắn chòng chọc, lộ ra hết.
- Ông phải hiểu là khi cần, tôi cũng biết giả bộ chứ.
- Lúc nào anh giả bộ, lại càng tệ hơn. Không, tôi không nói đâu, phải giữ bí mật. Khi nào cần ta sẽ ra tay.
- Ông thật là...
Tôi không kịp nói hết, vì có tiếng gõ cửa.
- Cứ vào! Poirot nói.
Judith, con gái tôi, bước vào. Judith người cao, mặt ngẩng lên kiêu hãnh. Tôi thường có cảm giác nó tỏa ra hào quang của một nhân vật bi kịch.
- Chào ba.
Nó mỉm cười, nhưng không chạy đến ôm hôn tôi, nó không quen kiểu cách ấy. Nụ cười của nó cũng nhợt nhạt, hơi gượng gạo. Dù nó thiếu sự hồn nhiên tự phát, tôi vẫn thấy là nó mừng được gặp tôi.
- Ừ, ba... ba đây - tôi lúng túng.
Tôi cảm thấy mình thiếu tự nhiên, như mỗi lần tiếp xúc với giới trẻ.
- Con rất thích ba đến đây, Judith nói.
- Tôi đang nói về chuyện ăn uống ở Styles, Poirot nói dối một cách không e ngại.
- Ăn uống ở đây tồi lắm sao? - Con gái tôi hỏi.
- Lẽ ra cháu không nên hỏi thế. Chả lẽ cả ngày cháu chỉ nghĩ đến ống nghiệm và kính hiển vi? Tay cháu vẫn còn dính mêtilen xanh lè kìa. Chồng cháu sẽ không thích thú gì nếu cháu không quan tâm đến dạ dày anh ấy. Đàn ông mà...
- Nhiều cái chắc là cháu không lấy chồng.
- Có, có phải lấy chồng chứ. Nếu không, cháu cho rằng Chúa sinh ra cháu để làm gì?
- Để làm nhiều việc khác.
- Trước hết là để lấy chồng.
- Thôi được. Vậy bác kiếm cho cháu một ông chồng ngoan ngoãn, cháu sẽ chăm sóc dạ dày ông ấy cẩn thận.
Poirot nhìn tôi, nói:
- Cô bé giễu tôi đấy. Nhưng rồi một ngày kia, cháu sẽ thấy những gì các cụ xưa nói là đúng.
Lại có tiếng gõ cửa. Lần này là bác sĩ Franklin. Người cao và khô thẳng, mặt gân guốc, tóc vàng - hung, mắt xanh khoảng băn lăm tuổi. Là người lơ đễnh nhất mà tôi từng thấy: ông ta đi vấp lung tung vào những thứ quanh mình và vừa vào đã vướng phải chiếc màn gần ghế của Poirot, phải lúng búng xin lỗi. Tôi cố nhịn cười, nhưng Judith thì vẫn nghiêm chỉnh, có vẻ nó đã quen với chuyện đó. Nó bình thản nói :
- Ông còn nhớ ba tôi không?
Bác sĩ Franklin giật mình, hấp háy đôi mắt nhìn tôi rồi chìa tay :
- Nhớ, nhớ. Tôi đã nghe nói ông sẽ tới.
Ông ta quay sang Judith :
- Này cô, ta có bắt buộc phải thay quần áo không? Nếu không, ngay sau bữa ăn, ta có thể tiếp tục công việc...
- Không, Judith đáp. Tôi muốn nói chuyện với ba tôi.
- Ồ! Thế thì được.
Ông ta thoáng mỉm cười xin lỗi. Một nụ cười dụt dè của trẻ thơ.
- Rất tiếc. Tôi bù đầu vài thí nghiệm, sinh ra ích kỷ. Xin lỗi.
Đồng hồ điểm giờ. Franklin ngước nhìn :
- Chết thật! Muộn thế rồi ư? Lại sắp gặp rắc rối: Tôi đã hứa đọc sách cho Barbara trước bữa ăn.
Ông lại mỉm cười lần nữa rồi vội vã đi ra, và lại vấp vào khuôn cửa.
- Bà Franklin thế nào? Tôi hỏi.
- Vẫn thế. - Judith đáp.
- Thật buồn cho bà ấy.
- Với một bác sĩ, điều ấy càng khổ - con gái tôi nói. Thầy thuốc ưa những người khỏe mạnh.
Tôi thở dài :
- Lớp trẻ bây giờ tàn ác quá.
Con gái tôi lạnh lùng đáp lại :
- Con chỉ nói lên một sự thật.
Poirot can :
- Tuy nhiên, ông thầy thuốc này đang vội về đọc sách cho vợ nghe.
- Thật buồn cười, Judith nói. Việc ấy để cô ý tá làm cũng được. Phần cháu, rất ghét phải nhờ người đọc hộ.
- Ô hay, tôi nói, mỗi người mỗi tính.
- Vợ ông Flankin là một người đàn bà ngớ ngẩn, Judith nói.
- À, cháu ơi, điều ấy thì bác không đồng ý - Poirot nói.
- Bà ấy toàn đọc những tiểu thuyết rẻ tiền, không quan tâm gì công việc của chồng, không theo dõi thời sự. Chỉ biết kêu ca phàn nàn suốt ngày về sức khỏe.
- Dù sao bác bác cho rằng bà ấy vẫn dùng đầu óc suy nghĩ mà cháu không hề biết, Poirot nói.
- Bà ấy đúng là phụ nữ, hay tỉ tê, nũng nịu. Bác Hercule ơi, bác quan niệm là phụ nữa phải thế chứ gì.
- Không phải thế - tôi nói. Bác ấy thích phụ nữ cao lớn, vạm vỡ. Quốc tịch Nga càng tốt.
- Hastings, anh lộ bí mật của tôi đấy nhé! Judith ạ, ba cháu lại thích phụ nữ có tóc màu gụ. Chính vì thế mà ông ấy bị thất tình vài lần đấy.
Judith nhìn chúng tôi, cười độ lượng:
- Bác và ba cháu, thật buồn cười!
Cháu đi rồi, tôi đứng lên, nói :
- Thôi, tôi phải đi dỡ hành lý và tắm một cái trước khi ăn.
Poirot thò tay bấm chuông. Một phút sau, anh hầu hiện ra. Tôi ngạc nhiên thấy anh ta là người mới hoàn toàn.
- Thế George đâu?
George vốn là người hầu đã theo phục vụ Poirot từ nhiều năm.
- Bố cậu ta ốm, nên tôi cho cậu ta về. Song hy vọng cậu ta sẽ trở lại. Trong khi chờ đợi, đã có cậu Curtiss đây.
Ông mỉm cười, nhìn người hầu mới. Curtiss cao và khỏe, song bộ mặt hơi quê mùa.
Lúc ra đi, tôi để ý thấy Poirot cất cẩn thận các tài liệu lúc nãy vào cặp. Tôi bồi hồi qua hành lang để về phòng mình.
Tối đó, tôi xuống phòng ăn với cảm giác cuộc sống bỗng trở nên hư ảo. Trong lúc mặc quần áo, đôi lần tôi nghĩ chẳng lẽ Poirot đã bịa ra câu chuyện nọ. Nói cho cùng, bây giờ Poirot đã là một ông già, sức khỏe kém sút. Ông nói trí óc vẫn hoàn hảo, nhưng có thật như vậy không? Suốt đời ông chỉ làm việc truy lùng hung thủ, vậy nay tưởng tượng chỗ nào cũng có tội phạm. Phải ngồi yên một chỗ không hoạt động gì, buồn lắm. Vì thế mà ông nghĩ ra trò truy bắt này chăng? Ông chắp nối vài vụ án vặt rồi tưởng mình đã tìm ra ở đó một nhân vật mờ ám, một tên giết người điên loạn. Còn nghi ngờ gì nữa, mụ Etherington đã giết chồng, tên Riggs đã thủ tiêu vợ, đứa con gái đã cho bà cô uống liều moóc-phin chết người, mụ vợ ghen tuông đã dọa giết chồng rồi làm thật, và một cô gái khốn khổ khác đã giết cha rồi ra tự thú. Thực tế, những tội ác đó đã xảy ra đúng như nó phải vậy, không hơn.
Tôi có thể đem ý kiến đó - mà tôi cho là hợp lẽ nhất - để đối lại với Poirot, và không tin lời ông nói rằng một vụ giết người nữa sắp xảy ra. Một lần nữa Styles lại là nơi xảy ra bi kịch. Thời gian sẽ chứng minh hoặc bác bỏ lời khẳng định đó. Nhưng nếu điều đó là thật thì chúng tôi có trách nhiệm phải ngăn ngừa. Tôi không biết kẻ giết người là ai, nhưng Poirot nói là biết.
Càng nghĩ, tôi càng phiền lòng. Thực thà mà nói, bạn tôi lại chơi trò ấy với tôi ư! Muốn tôi cộng tác nhưng không tin cậy nói hết. Tại sao? Lý do ông đưa ra không thuyết phục. Tôi không hài lòng chút nào về lời nói rằng tôi có “bộ mặt lộ liễu”. Tôi cũng biết giữ bí mật như ai chứ. Poirot vẫn có định kiến là bản chất tôi “lộ liễu” tôi nghĩ gì đều lộ ra nét mặt. Tất nhiên ông có giảm nhẹ lời nói xúc phạm ấy, cho rằng sở dĩ vậy là do tình tôi thẳng thắn, không biết trí trá. Song nếu tất cả những chuyện trên chỉ do ông tưởng tượng bày đặt ra, thì thái độ đó là dễ hiểu. Tôi chưa biết tính sao thì tiếng cồng báo giờ ăn vang lên. Tôi đi xuống, trí óc và con mắt thật cảnh giác, quyết tâm khám phá tên X bí ẩn kia là ai. Trước mắt hãy tạm coi những gì Poirot nói là đúng. Vậy trong ngôi nhà này, có một kẻ đã năm lần giết người và đang chuẩn bị giết lần nữa. Kẻ đó là ai?
Trong phòng khách, trước giờ ăn, tôi được giới thiệu với cô Cole và thiếu tá Allerton. Cô Cole chừng băm ba băm tư còn rất đẹp, nhưng với thiếu tá Allerton thì tôi mất cảm tình ngay. Đó là một người đàn ông chừng bốn mươi, vai rộng, nước da rám nắng tuấn tú nhưng ăn nói vẻ bất cần, thở ra những lời đôi khi có ý nghĩa hai mặt. Dưới đôi mắt, có quầng thâm, thường là dấu hiệu của kẻ phóng đãng. Tôi xếp ngay anh ta vào loại người ăn chơi, rượu chè, cờ bạc, tán gái.
Hình như đại tá Luttrell cũng không ưa gì anh ta lắm, còn Boyd Carrington giữ thái độ lạnh nhạt. Sự thực Allerton chỉ thành công với phái yếu. Bà Luttrell vui thích ra mặt khi anh ta nói những lời nịnh bợ trắng trợn. Tôi khá buồn nhận ra là cả Judith cũng có vẻ thích gần anh ta và tìm cách bắt chuyện, mà tính nết nó xưa nay đâu có thế. Thật lạ tại sao những tên đàn ông mạt hạng lại được phụ nữ đứng đắn ưa thích. Linh tính báo cho tôi biết ngay Allerton là một thằng tồi, hỏi mười người đàn ông thì chắc chín người đều đồng ý. Nhưng hỏi mười phụ nữ, thì chín - có khi cả mười - lại không nghĩ như vậy.
Trong lúc mọi người ngồi vào bàn ăn, tôi đưa mắt nhìn một lượt, đánh giá mọi khả năng. Nếu Poirot nói đúng, nếu trí óc ông còn sáng suốt, thì một trong số những người này là kẻ giết người nguy hiểm. Tuy Poirot không nói rõ, tội đồ X phải là đàn ông. Ai trong số họ có vẻ có khả năng là tội phạm?
Chắc chắn không phải là lão đại tá Luttrell già, vốn tính mềm yếu không dám quyết định điều gì.
Cũng không phải Norton, cái anh chàng tôi gặp lúc nãy mới đến, luôn cầm ống nhòm trong tay. Anh ta trông dễ thương, mặc dù có vẻ là một con người vô bổ, thiếu sức sống. Đành rằng khối tên tội phạm chỉ là những kẻ bình thường không tầm cỡ và chính vì thế lại làm càn để tự khẳng định mình. Norton thuộc loại người ấy chăng, nhưng theo tôi, hắn lại mê chim và hoa, mà đã là người yêu thiên nhiên thì không thể là người tàn ác.
Boyd Carrington chăng? Không thể. Ông ta là người có tên tuổi trên thế giới, một người quản lý tài ba được mọi người yêu quý và kính nể, người đó không thể là tội phạm.
Tôi cũng loại trừ Franklin, người mà tôi biết con gái tôi, Judith luôn kính trọng, ngưỡng mộ.
Tôi xét tới trường hợp thiếu tá Allerton. Một kẻ rất mất cảm tính, loại người nếu cần có thể cứa cổ cả bà nội mình. Hắn đang kể một chuyện gì đó làm mọi người cười vang. Nếu hắn là X?
Song Poirot không hề nói rõ X là đàn ông, vì vậy tôi xét sang cô Cole. Người phụ nữ này có vẻ bình thường, nhưng luôn ngọ nguậy, rõ ràng tính tình nóng nảy. Quanh bàn ăn nay chỉ có mặt bà Luttrell, Judith và cô Cole. bà Franklin ăn trên phòng mình, và cô y tá chăm sóc bà nên sẽ ăn sau.
Ăn xong, tôi đang đứng trước cửa sổ ngẫm nghĩ, bỗng giật mình vì Judith chợt đến khoác tay tôi, kéo ra ngoài thềm.
- Có chuyện gì vậy, ba? Nó hỏi.
Tôi chột dạ :
- Chuyện gì? Ý con muốn nói sao?
- Ba cứ ngây ngô suốt buổi tối. Trong bữa ăn, sao ba cứ nhìn mọi người chòng chọc.
Tôi hơi lúng túng, không ngờ việc đó bị con gái để ý.
- À. Vì ba nghĩ đến quá khứ.
- Lúc trẻ, ba đã có một lần ở đây, phải không? Và đã có một bà bị giết, phải không?
- Đúng thế. Bị đầu độc bằng strích-nin.
- Bà ấy là người thế nào?
- Một bà rất tốt bụng, hay làm việc từ thiện...
- Ồ! Cái kiểu làm phúc ấy...
Judith nói với giọng coi thường; nó lại hỏi một câu nữa làm tôi ngạc nhiên :
- Hồi đó, mọi người ở đây có hạnh phúc không?
- Không, tôi đáp.
- Tại sao?
- Vì họ cảm thấy như bị cầm tù. Này nhé, bà Ingelthrop nắm giữ toàn bộ tiền bạc, và... chỉ chi ra từng tí một. Các con chồng của bà không có đời sống riêng.
Judith nhún vai, tay bíu chặt cánh tay tôi, nói :
- Không tốt. Rất không tốt. Không được phép lạm quyền như thế. Người già, người bệnh tật không có quyền ngăn trở cuộc sống của người trẻ, người khỏe, bắt họ phụ thuộc vào mình.
Tôi ngắt ngay :
- Đâu chỉ có người già mới ích kỷ.
- Con biết. Ba nghĩ lớp trẻ cũng ích kỷ. Có thể đúng, nhưng đó là thứ ích kỷ sạch sẽ. Chúng con chỉ muốn làm những gì mình thích, chứ không muốn để người khác làm thay. Chúng con không muốn bắt người khác làm nô lệ.
- Không, các con chỉ muốn chà đạp họ nếu họ tình cờ ở trên đường đi.
Judith giật tay tôi :
- Bà đừng chua chát thế. Con chẳng chà đạp ai. Vả lại, con công nhận ba không hề ép chúng con phải làm gì. Chị con, các anh con và con rất biết ơn vì điều đó.
Tôi đáp thẳng thắng :
- Nhiều khi ba cũng muốn làm như thế. Chính mẹ con mới là người muốn để các con tự chịu trách nhiệm hành vi của mình. Cả trách nhiệm về những sai lầm.
Tôi lại cảm thấy bàn tay Judith siết chặt cánh tay tôi.
- Con biết. Ba muốn ấp ủ các con như gà mẹ chăm sóc gà con từng tí. Con không thể chịu như thế. Nhưng chắc ba đồng ý với con là những kẻ vô dụng phải được hy sinh cho những người nào hữu ích.
- Chuyện ấy đôi khi xảy ra, không cần phải sử dụng những biện pháp hà khắc. Mỗi người cần biết tự lượng mình, tự rút lui...
- Vâng, nhưng có phải bao giờ cũng như thế đâu?
Giọng nói quá hung hăng làm tôi quay nhìn thẳng mặt con. Song trời tối, tôi không nhìn rõ. Judith nói tiếp, nho nhỏ nhưng sôi nổi :
- Có quá nhiều sự tính toán: tiền bạc... tinh thần trách nhiệm, ngại va chạm với người mình yêu... Và một số người thì không tự hiểu mình nữa. Họ bám dai như đỉa đói!
- Judith, con! - Tôi kêu.
Giọng bạo liệt của con làm tôi choáng váng. Có lẽ cũng hiểu là đã nói hơi quá, nên bỗng cất tiếng cười.
- Chắc ba cho là con quá dữ dội. Nhưng đây là vấn đề mà con quan tâm. Con biết một trường hợp... ồ! Đó là một kẻ vũ phu, và một người có cam đảm chống lại hắn để giải thoát người thân, thì thiên hạ lại bảo là điên. Điên ư? Thật ra đó là điều hợp lý nhất phải làm. Và dũng cảm nhất.
Tôi bỗng thấy cồn cào trong lòng. Chuyện này, dường như tôi đã nghe nói, mới đây thôi.
- Judith, con nói về ai vậy? - Tôi hỏi.
- Ồ! Chắc ba chả biết đâu. Họ là bạn của gia đình Franklin. Một lão tên là Licthfield. Giầu có, nhưng lại để các con gái gần như chết đói, không cho họ đi đâu, gặp gỡ bất kỳ ai... Thật là lão điên.
- Và đứa con gái đã giết bố, phải không?
- À, chắc ba đã đọc tin đó trên báo. Ba gọi đó là tội ác cũng được, song ba nhớ cho là cô ta làm việc đó không có chút động cơ cá nhân nào. Con cho rằng cô gái đó rất dũng cảm. Con chắc không có cái dũng khí ấy.
- Dũng khí tự ra đầu thú hay dũng khí giết người?
- Cả hai.
Tôi nghiêm nghị nói :
- ba không thích nghe con khẳng định là có những trường hợp giết người là chính đáng. Bác sĩ Franklin nghĩ thế nào về vấn đề đó.
- Rằng đánh kiếp cho tên vũ phu ấy. Ba biết không, có những kẻ thật đáng ghét, giết đi là phải?
- Ba không muốn con chủ trương cái thuyết lạ kỳ ấy. Ai dạy con vậy?
- Không ai cả.
- Vậy thì nghe ba đây, đó là những lý thuyết ngu ngốc và nguy hiểm.
- Thôi được, chúng ta dừng ở đây.
Judith yên lặng một lát, rồi nói nhẹ nhàng hơn :
- Thật ra, con gặp ba để chuyển lời mới của bà Franklin. Bà ấy muốn gặp ba, nếu ba vui lòng lên phòng bà.
- Ba không mong gì hơn. Thật buồn là bà mệt đến mức không xuống cùng ăn với mọi người.
Con gái tôi lạnh lùng đáp :
- Bà ấy chẳng sao cả, nhưng cứ thích làm ra nghiêm trọng.
Tôi rời khỏi cửa sổ, nghĩ thầm trong bụng: lớp trẻ ngày nay không còn biết thương xót ai cả.
Tôi mới gặp bà Franklin có một lần. Bà trạc ba mươi và thuộc loại tôi gọi là “quý phái”. Đôi mắt to đen sẫm, tóc đen rẽ ngôi giữa khuôn mặt bầu dục đầy vẻ hiền hậu. Dáng người rất mảnh, da trắng như trứng gà bóc.
Bà nằm trên giường nghỉ, đầu tựa lên gối, mặc bộ đồ ngủ trắng và xanh. Franklin và Boyd Carrington đang ngồi uống cà phê. Bà Franklin nhoẻn miệng cười chào tôi và chìa tay :
- Đại úy Hastings, cảm ơn ông đã đến thăm. Ông đến đây cũng là tin vui cho Judith. Cô ấy làm việc vất vả quá.
- Tôi thấy cháu rất khỏe, có sao đâu ạ.
Bà Franklin thở dài :
- Phải, về mặt ấy, con gái ông thật may, tôi ghen với cô ấy. Chắc cô không thể hiểu ốm yếu khổ như thế nào.
Bà quay về phía cô y tá :
- Cô Craven, tôi nói thế có phải không? Ồ! Xin giới thiệu với cô đại úy Hastings. Còn đây là cô Craven, cô chăm sóc tôi rất tốt. Không có cô ấy, không biết tôi sẽ xoay sở ra sao.
Cô y tá là một người đàn bà trẻ, đẹp, tóc màu gụ. Tôi thấy bàn tay cô ta thon và trắng muốt; khác hẳn tay của nhiều y tá bệnh viện. Cô ta có vẻ ít nói, chỉ hơi nghiêng đầu chào tôi. bà Franklin nói :
- Quả thật, ông John nhà tôi bắt cô Judith làm việc hơi nhiều. Thầy gì mà khắc nghiệt quá. Có phải không, ông Judith?
Ông chồng đang đứng gần cửa sổ, nhìn ra bãi cỏ, huýt sáo miệng, tay đút túi. Nghe vợ hỏi, ông giật mình :
- Barbara, em nói gì?
- Rằng anh bắt cô Hastings làm việc quá sức. Giờ ông đại úy đã tới, tôi và ông ấy sẽ đoàn kết chống lại cái kiểu bóc lột ấy.
Bác sĩ Franklin có lẽ là người không biết đùa. Ông hơi bối rối, quay về phía Judith thăm dò :
- Nếu có như vậy, cô cứ nói thẳng.
- Ồ không. Bà nhà chỉ đùa vui. À mà nhân nói chuyện công việc, tôi muốn hỏi bác sĩ về cái vết xuất hiện trên bảng mẫu thứ hai. Ông biết rồi, cái vết...
- À phải! Nếu không phiền, ta xuống phòng thí nghiệm xem lại... Hai người vừa nói vừa ra khỏi phòng.
Barbara Franklin thở một hơi dài, ngả người lên gối. Cô y tá bỗng lên tiếng bằng giọng có vẻ khó chịu :
- Trong hai người nếu có ai bắt ai làm quá sức, người ấy phải là cô Hastings.
Bà Franklin lại thở dài đánh sượt :
- Tôi biết lẽ ra phải quan tâm hơn đến công việc của chồng, nhưng không làm được, quá sức tôi. Thực sự trong người tôi có cái gì trục trặc...
Tiếng cười gằn của Boyd Carrington cắt ngang :
- Đừng vớ vẩn. Cô khỏe mạnh, có sao đâu không nên lo hão.
- Ôi, anh Bill tôi lo chứ. Tính tôi hay nản... luôn luôn nghĩ ngợi... mà cứ nghĩ đến những con chuột, con nhái ấy, lại thấy kinh!
Bà rùng mình, rồi lại tiếp :
- Tôi biết là vớ vẩn, nhưng vẫn ốm vì thế! Tôi chỉ muốn nghĩ đến những thứ đẹp đẽ, chim, hay hoa chẳng hạn. Anh hiểu không?
Boyd Carrington tiến lại, cầm lấy bàn tay bà đưa ra như cầu cứu.
Khuôn mặt ông ta có nhiều nét cứng cỏi, bỗng dịu hẳn.
- Barbara, cô vẫn không thay đổi như khi còn mười bảy tuổi.
Ông quay đầu sang tôi :
- Barbara và tôi biết nhau từ hồi trẻ.
- Vâng, là bạn lâu năm. Bà Franklin nói.
- Tôi công nhận hơn cô mười lăm tuổi. Nhưng ngay từ hồi cô còn bé, tôi đã chơi với cô như chơi búp bê, tôi đã cõng cô đi khắp nơi. Sau này khi tôi trở về, cô đã là một thiếu nữ xinh đẹp chuẩn bị bước vào đời. Tôi đã dạy cô chơi gôn để giúp vào việc đó. Cô nhớ không?
- Ôi, Bill, làm sao em quên!
Bà quay bộ mặt thánh thiện sang tôi, giải thích :
- Bố mẹ tôi ở Anh, anh Bill thình thoảng lại đến ở nhà ông bác ở Knatton.
- Cái tòa nhà sao mà buồn thảm, giờ nó vẫn thế. Cổ quá rồi, không biết có sửa sang nổi để ở được không.
- Ôi, nếu làm được việc ấy thì thích quá!
- Phải. Phiền một cái là tôi không biết sắp xếp thế nào. Cần có phụ nữ mới xong.
- Em đã bảo rồi, nếu anh đồng ý, em sẽ đến giúp. Em nói thật đấy.
- Nếu em khỏe, thì có thể được.
Ông ngước nhìn cô y tá :
- Cô nghĩ thế nào, cô Craven?
- Tốt thôi, thưa ngài. Tôi tin là ra ngoài, đổi không khí thì chỉ tốt cho bà Franklin. Tất nhiên, với điều kiện bà không làm quá sức.
- Vậy là nhất trí, Boyd Carrington nói. Còn bây giờ, cô phải cố ngủ đi, để mai có đủ sức.
Chúng tôi từ biệt bà Franklin và cùng đi ra. Tới cầu thang, Boyd Carrington nói:
- Ông không biết lúc mười bảy tuổi Barbara xinh đẹp chừng nào. Lúc tôi từ Miến Điện về sau khi vợ tôi chết và thú thật là tôi mê Barbara. Nhưng hai, ba năm sau, người cô ấy lấy là Franklin. Tiếc thay, tôi cho rằng cuộc hôn nhân ấy không thật hạnh phúc, và đó chính là do sức khỏe yếu kém của Barbara. Chồng cô chưa bao giờ hiểu hết và đánh giá đúng về cô. Mà bản chất cô ta cực kỳ nhạy cảm và sức khỏe suy giảm phần chính là do tinh thần. Nếu cô ấy vui vẻ, nếu để cô thoát khỏi cảnh ấy, cô sẽ hoàn toàn đổi khác. Nhưng cái tay chồng lang vườn nọ không biết gì khác ngoài mấy cái ống nghiệm và vật thú.
Boyd cười gằn vẻ ấm ức, và tôi nghĩ điều ông ta nói có phần đúng. Tuy nhiên, tôi lấy làm lạ ông ta quyến luyếnbà Franklin đến thế, dù bà có duyên và dễ thương thật nhưng dù sao sức đã yếu. Còn ông ta thì vẫn đầy sức sống và khỏe mạnh. Nhưng đúng rồi, mấy năm trước hẳn Barbara phải là cô gái cực kỳ hấp dẫn, nhất là với loại đàn ông lạng mạn như Carrington; những cảm xúc thời trẻ thường làm ta nhớ mãi, và những mối tình đầu để lại ấn tượng khó phai mờ.
Dưới nhà, bà Luttrell vớ ngay lấy chúng tôi, mời chơi bài. Tôi xin lỗi, lấy cớ phải lên với ông bạn Poirot.
Poirot đang nằm trên giường. Curtiss dọn dẹp trong phòng, rồi rút lui sớm sau khi đóng cửa cẩn thận. Tôi nói :
- Cầu trời đánh ông chết với cái thói bao giờ cũng giữ môt cái gì bí mật cho riêng mình. Cả tối nay tôi đã cố tìm xem cái nhân vật bí ẩn của ông là ai.
- Chú tâm vào việc ấy, chắc anh lơ đãng không chú ý gì khác. Có ai nhận thấy không, có ai hỏi gì không?
Tôi đỏ mặt khi nhớ lại những câu hỏi của Judith, và Poirot chắc nhận thấy sự lúng túng của tôi, vì trên môi ông thoáng nở một nụ cười tinh quái. Song ông không đả động đến điều đó nữa, chỉ hỏi :
- Thế anh đi đế kết luận nào chưa?
- Nếu tôi nói ra, ông có chịu nói là đúng hay sai?
- Tôi sẽ không nói gì.
- Tôi đã nghĩ tới Norton...
Poirot vẫn gồi yên, không lộ thái độ gì. Tôi tiếp :
- Không phải là có chứng cứ gì cụ thể. Tôi chỉ thấy hắn có vẻ... nhiều khả năng hơn những người khác. Tôi hình dung tên sát thủ đang truy lùng phải thuộc loại... nhún nhường, không khiến ai để ý.
- Có thể. Nhưng có nhiều cách để không làm mọi người để ý.
- Ý ông định nói gì?
- Giả sử một người lạ có ý đồ xấu đến đây vài tuần trước khi hành động. Tốt nhất cho hắn là đừng làm gì nổi bật, tránh sự chú ý, giải trí bằng môn thể thao vô hại, như câu cá chẳng hạn...
- Hoặc tha thẩn xem chim chóc. Chính tôi định nói thế.
- Mặt khác, tốt hơn nữa là hung thủ nên là một nhân vật đặc biệt: là anh hàng thịt chẳng hạn. Anh chàng này có cái lợi là nếu quần áo bị dây máu cũng không ai để ý.
- Nhưng nếu trước đó, mọi người đều biết anh hàng thịt đã cãi nhau với anh... hàng bánh chẳng hạn.
- Không hề chi, nếu anh hàng thịt chọn nghề này chỉ cốt để có dịp hai anh hàng bánh.
Tôi nhìn poirot chăm chú, tự hỏi ông nói như trên là có ám chỉ gì không. Nếu có thì hẳn là nhằm đại tá Luttrell. Ông này cố tình mở quán trọ gia đình để rình cơ hội ám hại một người đến trọ chăng?
Poirot lắc đầu:
- Không thể nhìn mặt tôi mà anh đoán được lời giải đâu.
- Ông thật khó chịu. - Tôi nói. Mà này, tôi không chỉ nghi Norton. Còn cái anh chàng Allerton nữa.
Poirot vẫn bình thản :
- Anh không ưa hắn ta ư?
- Không chút nào!
- A, anh cho hắn là tên vô tích sự, có phải không?
- Đúng thế. Ông đồng ý với tôi chứ?
- Rất đồng ý. Tuy nhiên... hắn ta rất hấp dẫn đối với phụ nữ.
Tôi hừ lên một tiếng khinh khỉnh.
- Thế phụ nữ mới ngốc! Chả biết họ tìm thấy ở hắn cái gì?
- Thật khó nói. Đôi khi như vậy đấy: kẻ xấu lại có sức hấp dẫn.
- Tại sao?
Poirot nhún vai :
- Có thể họ tìm thấy ở đó cái gì mà ta không biết.
- Ví dụ?
- Ví dụ, sự mạo hiểm. Trên đời này ai cũng ưa một chút mạo hiểm. Một số tìm thấy mạo hiểm qua người khác làm trung gian, như khi xem đấu bò tót, hay đơn giản hơn, khi xem phim. Bản chất con người không ưa sự quá bình lặng. Vì vậy, đàn ông tìm mạo hiểm bằng nhiều cách khác nhau, còn phụ nữ tìm trong các cuộc phiêu lưu tình ái...
Tôi trở lại vấn đề đang ấp ủ :
- Ông biết không, với tôi tìm ra lai lịch tên X tương đối dễ thôi.Chỉ cần sục sạo để biết kẻ nào có liên quan với các nhân vật trong năm vụ án mà ông đưa tôi xem.
Poirot như không thèm để ý đến vẻ đắc thắng của tôi :
- Hastings, tôi không mời anh đến đây để bắt anh phải vất vả làm lại cái việc tôi đã làm rồi. Và xin nói là mọi việc không đơn giản như anh nghĩ. Bốn trong số năm vụ án kia xảy ra ở cùng một quận nơi ta đang sống lúc này. Những người tập hợp tại Styles không hoàn toàn là một nhóm người đến đây một cách tình cờ, và nhà này không phải là một quán trọ bình thường như ta hiểu. Vợ chồng Luttrell gốc gác ở vùng này. Họ gặp khó khăn về tài chính, tậu cái nhà này và lao vào một vụ làm ăn mạo hiểm. Khách trọ hiện nay của họ là bạn bè, hoặc do bạn bè giới thiệu. Chính ngài Boyd Carrington đã thúc giục vợ chồng Franklin tới đây. Vợ chồng Franklin lại mời Norton và cả cô Cole, nếu tôi không nhầm. Và cứ thế tiếp tục. Có nghĩ là rất có khả năng một người nào đó đã quen biết một người thì cũng quen biết tất cả những người khác. Tôi lại xét thêm một điểm khác. Lấy ví dụ trường hợp anh công dân nông nghiệp Riggs. Nơi án mạng xảy ra xảy ra không xa ngôi nhà ông bác của Boyd Carrington là bao. Họ hàng của bà Franklin cũng sống ở quanh đó. Quán trọ của làng cũng có nhiều khách du lịch đến ở, và một số bạn của bà Franklin thường trọ ở đó. Chính bác sĩ Franklin cũng đến ở đấy một thời gian. Rất có thể Norton và cô Cole cũng từng ghé qua. Không, tôi yêu cầu anh đừng cố khám phá một bí mật mà tôi cần giữ, chưa nói với anh.
- Thật vô lý. Ông sợ tôi để lộ chứ gì? Cái điều anh nói tôi có “bộ mặt lộ liễu” là trò khôi hài vớ vẩn.
- Anh cho đó là lý do duy nhất khiến tôi phải giấu anh ư? Hóa ra anh không hiểu rằng biết sự thật nhiều khi cũng rất nguy hiểm? Tôi giấu anh cũng chỉ vì tôi lo sợ cho sự an toàn của anh.
Tôi đứng ngây người. Đến lúc này, tôi không hề nghĩ đến khía cạnh ấy của vấn đề. Bây giờ tôi hiểu thái độ của Poirot là có lý. Nếu tên sát thủ này rất khôn khéo và mưu mẹo, từng nhúng tay vào năm vụ án, phát hiện ra hắn đang bị lần dấu vết, tất hắn sẽ phản ứng kịch liệt.
Song tôi nói ngay :
- Nhưng nói vậy, chính ông cũng đang bị nguy hiểm.
Poirot khoát tay ra hiệu coi thường :
- Tôi quen rồi, và tôi có thể tự phòng vệ. Vả lại, tôi chẳng có bên mình ông bạn Hastings tận tụy luôn che chở tôi đó sao?