Lối bốn giờ chiều, nhờ mấy cây cồng lớn của làng trồng chung quanh nhà việc Tiển Cần che áng mặt trời, nên cái sân rộng trước nhà việc kêu là sân chợ cũ, có chỗ còn nắng, mà có chỗ đã mát. Một chú bán mì thánh, để gánh trên lề đường, đứng gõ sanh lắc cắc cụp. Một chị bán chè thưng đi dọc theo trước phố rao hàng tiếng nghe ngọt xớt. Sắp con nít tựu mấy chỗ có bóng mát mà trửng giỡn, đứa chạy rần rật, đứa la om sòm.
Thình lình có cái xe đò, chở đầy hành khách, ầm ầm chạy vô cái sân ấy, bóp kèn te te, bụi bay mù mịt. Sắp con nít la om: "Xe Trà Vinh qua, xe Trà Vinh qua" rồi lật đật đứng nép vô lề đường mà coi xe tới.
Xe hơi chạy chậm chậm rồi ngừng tại giữa sân. Hành khách chộn rộn leo xuống, người xách gói, kẻ bồng con, lại có nhiều người xúm chung quanh xe, chờ mà lấy hành lý. Trong đám hành khách lấy đồ đây, có một người trai, nước da trắng, gương mặt tròn, sơn đình cao, chơn mày rậm, mình mặc một bộ đồ âu phục bằng bố xám, đầu đội nón trắng, chơn mang giầy đen, đứng ngó dáo dác, bộ coi ngại ngùng lắm.
Trên xe hơi bỏ xuống một cái gương lớn. Người trai nhắc để dựa bên lề đường rồi nhắm mấy đứa con nít đứng gần đó, mà hỏi rằng: ''Mấy em biết nhà ông Ðốc học ở chỗ nào, xin làm ơn chỉ giùm cho qua chút?" Có hai đứa nhỏ giành nhau mà đáp rằng: "Ðây, nhà ông Ðốc ở phía sau nhà việc đây".
Người ấy hỏi: "Hai em dắt giùm qua lại đó được hay không?" Hai đứa nhỏ đáp: "Ðược".
Người ấy ngó cái rương rồi nói rằng: "Còn cái rương đây làm sao? Hai em biết ai làm cu ly, kêu giùm cho qua một người đặng qua mướn vác cái rương rồi đi mới được chớ".
Một đứa nhỏ liền kêu một người đương đứng gần đó mà nói rằng: "Ê! Anh Tao, thầy mướn vác cái rương đây nè, vác lại nhà ông Ðốc rồi thầy cho tiền xài". Người trai ấy trạc chừng mười bảy, mười tám tuổi, trên đầu tóc chôm bôm, ở trần đưa lưng đen chạy, mặc một cái quần vắn mốc thít, thủng thẳng bước lại hỏi vác đi đâu nhớm thử cái rương, rồi ngồi xuống kê vai mà vác.
Hai đứa nhỏ đi trước, người mặc đồ Tây với người vác rương đi theo sau. Mấy người đứng chơi tại sân, họ ngó theo mà nói với nhau rằng: "Thầy nào đó lạ mà hỏi thăm ông Ðốc học vậy kìa? Chắc là thầy giáo mới đổi lại đây chớ gì".
Phía sau nhà việc Tiểu Cần, có một dãy phố trệt mười căn, lợp ngói, vách ván, lót gạch, tuy phố cũ mà sạch sẽ. Ði tới hai căn chót, hai đứa nhỏ đứng lại mà chỉ rằng: "Ðây, ông Ðốc ở hai căn đầu đây".
Người lạ, mặc đồ Tây đó, ngó vô thì thấy nhà dọn bàn ghế hực hỡ, trước cửa có rào hàng rào tre, làm thành một cái sân nhỏ nhỏ. Trong sân có để chín mười chậu, cái thì trồng cau đỏ, cái thì trồng cau vàng, cái thì trồng kiểng bằng cây sộp, cây ngâu. Dựa theo hàng rào lại có trồng chuối nước với móng tay, trổ bông chỗ đỏ, chỗ trắng, chỗ tím, chỗ vàng, coi rất đẹp mắt. Người ấy day lại tạ ơn hai đứa nhỏ, rồi xăm xăm bước vô sân với người vác rương.
Trong nhà có cô thiếu nữ trạc chừng mười chín hoặc hai mươi tuổi, mặc quần lụa trắng, mặc áo bà ba cũng bằng lụa trắng, tóc gỡ láng nhuốt, gương mặt sáng rỡ, đương ngồi trên mà thêu. Cô thấy khách lạ bước vô, cô cúi đầu thi lễ, rồi bước xuống đất đứng hỏi rằng: "Chào thầy, chẳng biết thầy ở đâu lại?"
Người khách lột nón, đáp lễ và trả lời rằng:
- Thưa, tôi là thầy giáo mới đổi lại. Không biết phải nhà ông Ðốc ở đây chăng?
Cô thiếu nữ chúm chím cười rồi đáp rằng:
- Thưa phải, nhà này là nhà ông Ðốc. Em xin mời thầy vào.
- Thưa, không biết có ông ở nhà chăng?
- Ba tôi ở đằng trường học, đi lại đẳng với mấy thầy giáo từ hồi hai giờ rưỡi tới giờ... Mời thầy ngồi... Ba tôi có nói khai trường này sẽ có thêm một thầy giáo mới, té ra thầy đây hay sao?
- Thưa, phải.
- Thầy lại tới hồi nào?
- Tôi đi xe mới qua tới đây.
- Mời thầy ngồi chớ.
Thầy giáo đứng bợ ngợ, ngó mấy cái ghế, ngó người vác rương, rồi nói rằng: "Thưa cô, để tôi đi thẳng lại trường trình diện với ông Ðốc. Cô làm ơn cho tôi gởi cái rương đây được hay không?"
Cô thiếu nữ đáp rằng: "Thầy muốn lại trường kiếm ba tôi cũng được. Thầy để rương lại đây".
Người vác rương nghe nói liền để rương ngoài hàng ba. Cô thiếu nữ đưa tay ngoắt biểu đem rương vô để dựa cái bàn viết. Thầy giáo móc túi lấy một cắc bạc mà cho người vác rương rồi cậy dắt giùm qua trường. Thầy cúi đầu từ giã cô thiếu nữ rồi bước ra đi.
Thầy giáo mới đổi lại Tiểu Cần đây tên là Hà Tấn Phát, năm nay thầy được hai mươi hai tuổi. Thầy góc ở Vĩnh Long, khi mới nên mười tuổi thì mẹ đã mất. Ông thân thầy làm đội mã tà, vì có một mình thầy, nên ráng cho thầy ăn học. Hồi nhỏ thầy học tại trường tỉnh Vĩnh Long. Thầy thi đậu vào trường sư phạm sài Gòn học mới được hai năm kế ông thân thầy mất nữa. Thầy bơ vơ, tưởng là phải bỏ trường đi làm kiếm tiền nuôi thân. May nhờ có một người anh nhà bác, tên là Hà Tấn Tài, giúp việc cho một hãng tàu đò lớn ở Sài Gòn, thấy thầy coi cút mà lại học giỏi thì thương, nên lãnh nuôi thầy, lúc học mỗi tháng cho thầy một vài đồng bạc ăn bánh mua giấy, lúc bãi trường đem thầy về nhà nuôi cơm, hễ áo quần rách thì may cho thầy bận.
Thầy Hà Tấn Tài tuy giúp việc hãng buôn, mà thầy khá lắm. Thầy ăn lương lớn mà lại có tánh tiện tặn, nên tháng nào thầy cũng có dư tiền. Hồi trước thầy lại lãnh gia tài bên vợ được mười mấy mẫu ruộng và mấy ngàn đồng bạc. Thầy nhập số bạc này với số tiền dư mà cho vay. Thầy làm trong mấy năm thì đã có bạc muôn. Thầy mua đất cất nhà ở bên Khánh Hội. Thầy lại có mua thêm ba mẫu ruộng ở phía sau nhà của thầy nữa. Thầy mua miếng ruộng này được vài ba năm, kế nhà nước đào cái kinh Xóm Chiếu vô Chợ Lớn đi ngang qua ruộng thầy. Nhà nướ;c trả tiền thiệt hại cho thầy tính mỗi thước tới bốn đồng rưỡi. Thầy lãnh số tiền này được tới gần bốn mươi ngàn đồng. Thầy cũng còn đất dư; có một hãng buôn hỏi mua đặng cất nhà máy, thầy chấn bán bớt một miếng năm mươi sào, được hai mươi lăm ngàn đồng nữa, thành ra thầy là một người giàu lớn. Thầy có tiền nhiều, mà vợ lại hiền đức. Vợ chồng không có con, nên tuy giàu mà không được vui, vợ cứ đi chùa khẩn vái cầu con. Thầy nuôi Hà Tấn Phát làm nghĩa, chẳng phải Phật Trời muốn thưởng cái lòng tốt của thầy đó hay không mà cách ít tháng vợ thầy có nghén rồi sanh một đứa con trai mạnh mẽ ngộ nghi?hết sức. Vợ chồng thầy mừng rồi lại tưởng cái phước ấy là tại nuôi Hà Tấn Phát, nên càng đem lòng thương em. Nhớ cái vận hội như vậy đó, nên Hà Tấn Phát no cơm ấm áo mà học, khỏi lo đói rách nữa.
Hà Tấn Phát xét phận coi cút nghèo nàn, nên thầy chủ tâm lo học, quyết thi cho đậu đặng lập thân. Thiệt trong lớp thầy học giỏi hơn chúng bạn hết thảy, đến chừng thi ra trường, thầy cũng đậu đầu. Thầy thi đậu năm trước mà vì không có khuyết thầy giáo, nên qua năm sau nhà nước mới cấp bằng và bổ thầy đi dạy trường Tiểu Cần đây.
Trường học Tiểu Cần là trường tiểu học mới lập thành trường sơ học, năm này mới có lớp nhứt.
Thầy giáo cai quản trường này tên là Thiện Tâm vốn là một vị giáo sư chánh ngạch; thầy đã được bốn mươi tám tuổi, coi trường này đã trên mười năm, tổng làng dân sự trước kính tuổi tác, sau nghĩ công lao, nên kêu tưng thầy là "ông Ðốc học".
Ông Ðốc Lê Thiện Tâm có ba người con:
1) con trai tên là Lê Thiện Tánh, vốn ở trường cao đẳng sư phạm Hà Nội xuất thân, hiện nay đang làm giáo sư trường trung đẳng Pháp Việt Pétrus Ký trên Sài Gòn;
2) Lê Thị Thiện Tú, trường trung đẳng nữ học hiệu năm thứ ba, tại Sài Gòn, ấy là cô mà thầy Hà Tấn Phát gặp tại nhà đó;
3) con trai, tên là Lê Thiện Chí, mới mười lăm tuổi, còn học tại trường trung đẳng Mỹ Tho.
Thầy Hà Tấn Phát lại tới trường học, thầy thấy trong một cái phòng nhỏ có hai người đương soạn sổ sách, cả hai đều mặc âu phục, song một người lớn tuổi, tóc đã bạc hoa râm, còn một người thì trẻ hơn trạc chừng ba lăm tuổi. Thầy nhắm chừng người lớn tuổi đó là ông Ðốc, bèn gõ cửa, rồi bước vô đầu thi lễ mà nói rằng: "Tôi là Hà Tấn Phát, được giấy quan trên bổ tôi xuống dạy trường này, nên tôi kiếm ông Ðốc mà trình diện".
Ông Ðốc Lê Thiện Tâm đứng dậy, đưa tay mà bắt tay thầy Hà Tấn Phát và đáp rằng: "Té ra đi đon là thầy giáo mới. Phải, tôi có được tờ của quan Giám đốc Trà Vinh hổm nay. Tôi mới nói chuyện với thầy nhì hồi nãy đây, tôi nói thế nào mai đây đi đon cũng tới. Ði đon tới sớm vậy tốt quá. Thầy đây là M. Nguyên, năm rồi dạy lớp nhì năm thứ hai".
Thầy Phát liền cúi đầu chào M. Nguyên, hai người bắt tay mừng nhau.
Ông Ðốc kéo ghế mời thầy Phát ngồi rồi nói rằng:
- Thầy lại tới hồi nào?
- Thưa, tôi mới tới tức thì đây. Tôi hỏi thăm, tôi lại nhà ông. Người nhà nói ông ở trong trường, tôi xin gởi cái rương, rồi tôi đi liền tại đây.
- Thầy lại một mình hay là có vợ con?
- Thưa, tôi mới ra trường năm ngoái, tôi chưa có vợ. Tôi lại có một mình.
- Thầy có quen với ai ở đây hay không?
- Thưa, không. Thuở nay tôi mới đến Tiểu Cần lần thứ nhứt.
- Tôi nghe nói kỳ thi năm ngoái thầy đậu số một phải không?
- Thưa, phải... nhưng mà cái đó là cái may...
- Không, thi mà đậu đầu là giỏi lắm, chớ may giống gì. Tôi nghe thầy giỏi nên hổm nay tôi nhứt định để thầy dạy lớp nhứt đa.
- Thưa ông, tôi mới ra trường, chưa quen cách thức dạy, xin ông làm ơn cho dạy lớp nhỏ đặng tôi tập lần lần.
- Thầy khéo khiêm nhượng thì thôi! Ở trường sư phạm mà ra, lại thi đậu thứ nhứt nữa, cái gì lại chưa quen cách thức dạy. Trường Tiểu Cần năm nay mới mở thêm lớp nhứt. Số học trò lớp nhứt kể chắc chừng tám mươi. Thầy mới ra trường sức còn mạnh mẽ, chí còn hăng hái, thầy phải lãnh lớp nhứt, chớ nạnh cho ai được. Thầy nhì đây thầy phải ở lớp nhì đặng thầy kiếm học trò. Thầy dạy lớp nhứt, thầy ráng cuối năm học trò đậu được nhiều, thì trường mình vinh quang lắm. Tôi trông cậy nơi thầy đặng làm cho trường Tiểu Cần nổi danh, làm cho cha mẹ học trò đẹp ý. Thầy không nên từ chối.
- Tôi còn nhỏ tuổi, mà lại chưa lịch lãm về chức nghiệp. Xin ông thương. Tôi sợ không kham trách nhậm, chớ không phải tôi dám lánh nặng tìm nhẹ. Nếu ông buộc tôi phải dạy lớp nhứt, xin ông làm ơn chỉ bảo dìu dắt tô giùm, được như vậy tôi mới dám.
- Chớ sao. Tôi cũng phụ với thầy chớ.
- Thưa, trường này hết thảy được bao nhiêu học trò.
- Năm rồi được một trăm chín mươi. Khai trường năm nay tôi sợ số học trò lên tới hai trăm năm mươi. Lớp đồng ấu phải chia làm hai dạy mới được.
- Học trò đông quá...
- Mấy năm nay tôi ráng hết sức mới được vậy đó. Hồi tôi mới qua đây, là năm 1917, học trò có bốn mươi mấy. Bây giờ, số lên trên hai trăm, coi công phu của tôi là dường nào. Vậy mà quan Giám Ðốc cũng không chịu xin mề đai cho tôi. Ủa! đã năm giờ mấy rồi, thôi về ăn cơm chớ. Bây giờ thầy đi đâu? Thôi, về nhà tôi ăn cơm rồi sẽ tính. Thầy nhì cũng về thẳng nhà tôi ăn cơm nói chuyện chơi, thầy nhì.
Ông Ðốc dẹp sổ sách, khóa tủ, đóng cửa, rồi dắt hết hai thầy gíao về nhà. Ði dọc đường, ông cười chúm chím mà nói rằng: "Mình còn nghĩ có hai ngày nữa thì ráp dạy đa. Trường mình mới đủ lớp sơ học, mình phải ráng, lớp nào cũng phải cần cho lắm mới được... Ý, mà tôi còn phải sắp đặt đặng sáng mốt cho hai đứa nhỏ đi nhập trường nữa".
Thầy giáo Nguyên nói rằng:
- Cô Ba nhập trường đây lên năm thứ ba chớ?
- Phải, năm nay nó lên năm thứ ba. Cha chả, mà tôi coi sức nó yếu lắm. Từ hôm bãi trường tới nay tôi kiềm tôi dạy nó dữ quá. Có lẽ năm tới đây nó học không sút chúng bạn nữa.
- Còn thằng Tư, tôi coi thế nó khá, chắc ông khỏi lo. Năm rồi nó được phần thưởng thứ nhứt về rédac tion với lecture, thứ nhì về dictée.
Thầy Phát còn lạ, nên lóng tai mà nghe, không dám xen vô nói chi hết.
Về tới nhà, ông Ðốc kêu vợ với con gái con trai nhỏ ra cho biết mặt thầy giáo mới. Ông tiếc rằng con trai lớn của ông, là ông Ðốc học Lê Thiện Tánh, mắc về bên vợ ở Sa Ðéc rồi khai trường đi dạy luôn, nên không có ở nhà mà làm quen với thầy giáo Phát. Ông hối vợ con mua đồ thêm đặng dọn cơm đãi hai thầy. Ông bãi buôn vui vẻ, nói chuyện nghe thật tình lắm. Thầy giáo Phát mới xuất thân đi dạy, mà thấy tánh ý ông Ðốc như vậy, thì thầy mừng thầm.
Chừng ăn cơm, ông Ðốc hỏi thầy Phát rằng:
- Thầy tính mướn phố dọn ở riêng, hay là tính kiếm nhà ở đâu.
- Thưa, ý tôi thì tính mướn phố dọn ở riêng cho thong thả, ngặt vì mới lại, đồ đạc không có, nên không biết làm sao. Ðể tôi cậy thầy nhì đây chỉ giùm cho tôi nhà nào rộng rãi và chủ nhà chịu nấu cơm tháng, đặng tôi xin ở đậu ít ngày rồi sẽ hay.
- Ờ phải, mới lại tới dọn nhà sao được. Nè thầy nhì, nhà thầy rộng rãi, mà thầy có hai đứa con mà thôi, vậy cho thầy nhứt ở đậu đỡ được mà.
Thầy giáo Nguyên bị hỏi thình lình không suy nghĩ kịp, nên thầy ú ớ và đáp xuôi xị rằng:
- Thưa, thầy nhứt muốn ở đậu nhà tôi cũng được. Nhà tôi thì rộng, ngặt vì nhà lá nên không được sạch sẽ, mà lại ở xa trường nữa. Ðã vậy mà tôi lại có con nhỏ. Tôi e thầy ở đậu rồi cực lòng cho thầy chớ.
- Ðược mà, tôi nhắm thầy ở đậu nhà thầy được. Thà anh em trong ty mình đùm bọc với nhau, chớ để thầy đi ở đậu nhà người ngoài thì coi sao được.
Thầy giáo Nguyên lặng thinh. Thầy giáo Phát hiểu ý thầy Nguyên đã chịu rồi, nên nói rằng: "Nếu thầy nhì cho tôi ở đậu thì may mắn cho tôi lắm. Nhà lá nếu thầy ở được thì tôi ở được, đường đi dạy xa, nếu thầy đi được thì tôi đi cũng được, có can chi mà ngại".
Bà Ðốc học cũng tiếp vô mà khuyên thầy Nguyên cho thầy Phát ở đậu. Thầy Nguyên không thể chối được, nên phải chịu.
Ăn cơm rồi ông Ðốc mời khách qua bộ ghế giữa ngồi uống nước. Ông ngồi xỉa răng, lặng thinh suy nghĩa một hồi rồi tằng hắng mà nói rằng: "Tôi nghĩ M. Phát đổi lại dạy trường này thiệt là may mắn lắm. Nhà trường may có được một thầy giáo giỏi đệ nhứt; mà thầy cũng may lại đây gặp anh em đồng nghiệp đều tử tế đúng đắn hết thảy. Thiệt mấy thầy giáo ở đây ai cũng biết lo bổn phận, ai cũng chơn chất thiệt thà, không sanh chuyện chi hết. Còn Tổng, làng, dân sự ở chỗ này họ cũng biết đều lắm; tôi ở đây hơn mười năm rồi, chẳng có một người nào kiếm chuyện với tôi. Bọn chúng ta ở ty Giáo dục, cái thiên chức của chúng ta chỉ lo giáo hóa đoàn hậu tấn. Tuy bọn chúng ta chẳng có cái vinh được dân sự tôn trọng, chẳng có cái thế được làm giàu to, nhưng mà chúng ta có cái ân đức với xã hội, chúng ta có cái lạc thú rất thanh cao, chúng ta đã được thiên hạ kêu bằng "thầy" mà lại khỏi mang tiếng "nút máu" hay là "lột da" dân dại. Tôi xin lỗi trước với thầy nhứt, thầy ở nhà trường mới ra, mà thầy lại đậu hạng nhứt, tự nhiên thầy là một người có tài. Tôi không dám khoe tài giỏi hơn thầy, nhưng mà thầy có cái tài học thức, trong trí thầy chứa đầy sách vở, còn cái đường đời thầy mới vừa bước chưn vào kể từ bữa nay đây, nên việc ở đời chắc thầy chưa hiểu được. Tôi có tuổi tác, đáng bực anh của thầy, tôi lại có kinh nghiệm việc đời nhiều, vậy xin thầy cho phép tôi nói ít câu chuyện ở đời cho thầy nghe chơi..."
Thầy giáo Phát chận mà đáp rằng:
- Tôi ở nhà trường mới ra, thiệt việc đời tôi chưa hiểu chi hết. Ðã vậy mà tôi mồ côi cha mẹ, nên bấy lâu nay tôi còn thiếu cái giáo dục gia đình. Bực ông đáng cha mẹ tôi, nếu ông thương, ông dạy bảo việc đời giùm cho tôi, cái ơn ấy dầu ngàn năm tôi cũng chẳng dám quên.
- Té ra thầy mồ côi cha mẹ hết hay sao?
- Thưa, phải.
- Thầy có anh em được mấy người?
- Thưa, tôi có một mình, không anh em chi hết.
- Tội nghiệp dữ hôn! Vậy mà thầy ăn học thành thân được đây thiệt là giỏi lắm đa.
- Thưa, tôi nhờ nương dựa với một anh nhà bác nên tôi mới học được.
- Ở đời khổ lắm thầy ơi, mà nhứt là người cô thế như thầy lại cần phải tập tánh dè dặt cho lắm mới được. Mình chẳng nên tranh đua với người ta làm chi. Sách xưa có câu: "Nhu thắng cang, nhược thắng cường". Mỗi việc gì mình dằn lòng nhịn nhục cho được là hay hơn hết. Tôi thường thấy có nhiều thầy giáo, quan bổ vô dạy mấy trường nhỏ trong làng, mấy ổng ỷ có học thức nhiều hơn Hương chức rồi coi thiên hạ không ra gì hết. Hễ mình khinh khi người thì tự nhiên người ta cũng khinh khi mình lại, thành ra có cái ác cảm, rồi sanh kiện thưa lung tung, người bị quở, kẻ bị đổi, mất sự yên ổn hết. Mình làm thầy giáo, mà mình nghịch với Hương chức, hoặc nghịch với cha mẹ học trò thì có hại, chớ đâu có lợi. Thầy nghĩ đó mà coi, mình không phải là thánh nên mỗi việc đều tận thiện tận mỹ được. Còn người ta ở trong làng, người ta có vi kiến sẵn, người ta có bà con đông, nếu mình sanh chuyện gây gỗ với người ta, rủi mình đi dạy trễ hay là mình thọ con gà hay thúng gạo chi của học trò, người ta phân chứng, người ta kiện rồi mình chối cãi sao được. Ấy vậy ở đời, phải lấy câu hòa nhã mà đối với mọi người, thì bình yên hơn. Còn đối với quan bề trên, nên tuy tôi ăn lương trọng, mà hồi trước thằng Hai tôi đi học cũng có học bỗng luôn luôn, rồi tới bây giờ tới hai đứa sau còn đương học đó, cũng đều có học bỗng hết thảy. Vậy tôi khuyên thầy ở đời cứ giữ phận sự cho vuông tròn, đối với tổng làng cùng cha mẹ học trò phải lấy câu hòa nhã mà ở, còn đối với kẻ bề trên phải dằn lòng nhịn nhục là hay hơn.
- Tôi cảm ơn ông dạy dỗ nãy giờ. Vì ông thương tôi nên ông mới lấy thiệt tình mà khuyên bảo tôi như vậy đó. Tôi hứa tôi sẽ lo làm cho vừa ý ông đặng đền đáp cái thạnh tình của ông.
- Việc đời nói không hết được. Tôi tuổi tác đáng anh chị thầy, vậy thầy đừng ngại chi hết, nếu có việc gì uất trắc thì cứ tỏ thiệt với tôi, tôi sẽ chỉ giùm cho.
Chủ khách đàm luận với nhau với gần chín giờ tối, rồi thầy Nguyên mời thầy Phát về nhà mình mà nghỉ.
Hà Tấn Phát được giáp mặt với các bạn đồng nghiệp. Ông Ðốc học tiến dẫn thầy đặng làm quen với mọi người, rồi ông định chia lớp mà dạy:
Thầy Phát lãnh dạy lớp nhứt.
Thầy Nguyên lãnh lớp nhì (năm thứ hai) như cũ.
Thầy Hạp lãnh lớp nhì (năm thứ nhứt) như cũ.
Ông Ðốc bổ thân lãnh dạy lớp ba đặng kiềm cho học trò cuối năm thi bằng tiểu học đậu cho nhiều.
Thầy sanh lãnh lớp tư như cũ.
Thầy Thủ với thầy Hậu, hai thầy lãnh dạy hai lớp chót.
Mấy thầy vâng lời, ai đi lãnh lớp nấy, không ai dám kêu nài chi hết.
Thầy Phát lãnh lớp nhứt có ba mươi hai trò, vừa cho thầy dạy. Thầy ở trường sư phạm xuất thân, mà kỳ thi ra trường thầy lại đậu thứ nhứt nữa, bởi vậy khi thầy nói khiêm nhượng với ông Ðốc, song bắt đầu dạy, thầy chẳng bợ ngợ chút nào hết.
Vì thầy Phát mới đổi lại, nên chừng tan học, ông Ðốc dắt thầy lại quận mà trình diện với quan địa phương cho đủ lễ. Quan Chủ quận đương ngồi tại phòng văn, trong có lính hầu, ngoài có lính gác, coi bộ nghiêm nghị lắm. Thầy Phát bước vô, có ý sụt sè. Qua Chủ quận coi bộ thì oai nghiêm, mà ngài thì tiếp chào rất vui vẻ. Ngài mời ngồi, hỏi thăm thầy xứ sở ở đâu, có vợ con hay chưa, ra trường được mấy năm, rồi lấy lời hòa nhã mà khuyên thầy hãy cần lo dạy dỗ trẻ em, đặng cuối năm có số học trò thi đậu cho đông, trước rỡ ràng danh giá của nhà trường, sau khỏi phụ cái công của ngài với ông Ðốc hiệp nhau mà xin lập cho đủ lớp sơ học.
Chừng ra về, ông Ðốc mới nói nhỏ với thầy Phát rằng: "Ðối với ty giáo huấn thì quan lớn tử tế lắm. Nhưng mà ngài làm việc gắt hẳn hòi, bởi vậy chẳng nên lôi thôi".
Thầy giáo Nguyên ở một cái nhà lá ba căn, gần đầu cầu sắt Tiểu Cần, nhà trở cửa xuống mé rạch. Trong nhà chỉ có vợ thầy với hai đứa con, một đứa bảy tuổi, năm nay mới vô học lớp chót, và một đứa mới dứt sữa, vừa biết đi lẫm đẫm. Tôi tớ thì chỉ có một bà già đi chợ nấu ăn, và một đứa con trai chừng mười ba mười bốn tuổi tên thằng Lục, lãnh bồng em đi chơi.
Cô giáo Nguyên đen đúa, không chịu trang điểm, song cô bãi buôi vui vẻ, hay nói, hay cười, ưa làm cho vừa ý chồng, hay vui mà tiếp đãi khách.
Thầy Phát mới làm quen, mà thấy thầy Nguyên thiệt tình, cô giáo Nguyên tử tế, nên thầy không sợ ké né cho lắm.
Chiều bữa khai trường đó, thầy Phát mới cậy thầy Nguyên dắt đi thăm hết mấy thầy giáo cùng Hương chức ở trong châu thành.
Trước hết lại nhà thầy nhì Hạp. Thầy này ở một căn phố nhỏ. Thầy có vợ mà vợ thầy ở bên Trà Vinh, thầy ở nhà có một mình ăn cơm quán nơi nhà cha mẹ của một đứa học trò ở gần đó. Nhà thầy dọn sơ sài lắm, chỉ có một cái giường, một cái bàn với vài cái ghế mà thôi. Trên bàn thì sách vở để lộn với tách uống nước, nón, vớ. Khi thầy Hạp thấy hai ông bạn đồng nghiệp bước vô, thầy lật đật lấy áo bận, mời khách ngồi rồi nói rằng: "Nhà tôi lôi thôi lắm. Bãi trường tôi khóa cửa mà về Trà Vinh. Tôi mới trở qua hồi hôm nên chưa dọn dẹp chi hết".
Kế đó lại nhà thầy Tư Sanh. Thầy này ở một cái nhà ngói cũ ba căn. Thầy trạc chừng bốn mươi tuổi, có tám đứa con. Khi bước vô nhà thì con nít trộn rộn đầy nhà, đứa ở trần, đứa ở truồng. Thành sanh nói con đem bình trà ra, rồi thầy rót hai tách nước mà mời khách... Thầy nói rằng: "Tôi bị con đông quá, hễ đi dạy về thì nó đeo, không đi chơi bờ gì được hết". Thầy Nguyên chúm chím cười mà nói rằng:
- Tối tối tôi thấy thầy xách ba ton đi miệt dưới chùa Thổ hoài! Thầy khéo dấu thì thôi.
- Ðâu có.
- Ờ không có. Ðể bữa nào tôi bắt cho thầy coi mà.
Thầy Thủ cất nhà theo đường qua Rạch Lọp cách châu thành hơn hai ngàn thước, nên đi thăm không tiện. Thầy ở đó mà làm ruộng, mỗi bữa đạp xe máy ra trường mà dạy học. Thầy đã gần năm mươi tuổi rồi, nên lo làm ăn lắm; nhưng mà lo làm ăn là lo cho vợ thầy làm, chớ thầy hay ra chợ thường, ai rủ bài bạc thứ gì thầy cũng không từ, ai bày chơi cách nào thầy cũng có mặt.
Còn thầy Hậu thì còn trẻ, mới hai mươi mốt tuổi. Thầy ở một căn phố. Trong nhà có một cô mỹ nữ, tối ngày ai cũng thấy đầu gỡ láng nhuốt, mặt dồi phấn trắng toát. Thầy kêu người ấy bằng "mình" nói vơí ai thầy cũng xưng hô là "ma femme" nhưng mà lối xóm thảy đều nói là "mèo" của thầy, chớ không phải vợ. Khi thầy Phát và thầy Nguyên bước vô, thì không có thầy Hậu ở nhà. Cô mỹ nữ ấy ra chào và mời ngồi, rồi hỏi thăm thầy Phát việc này việc kia một cách dạn dĩ lắm.
Luôn dịp thầy Nguyên dắt thầy Phát ghé thăm ông Phán Liêu, chủ sự sở dây thép, thầy Ký Huy giúp việc cho quận, thầy ban biện Nghiệp và mấy vị Hương chức ở chung quanh chợ, đi đến bảy giờ mới về ăn cơm.
Khai trường mới mấy bữa thì đã tới thứ bảy. Chiều bữa ấy, thầy Phát với thầy Nguyên về tới nhà thì thấy cơm đã dọn sẵn rồi. Khi ngồi lại ăn cơm thì cô giáo Nguyên nói rằng: "Thầy nhứt mới đổi lại, chưa quen với ai, chắc là thầy buồn. Ðể tôi cho bầy trẻ đi mời mấy thầy lại đánh bài đặng thầy đánh chơi cho vui".
Thầy Phát liền đáp rằng:
- Thưa, tôi có biết đánh bài đâu.
- Hứ! Bài tứ sắc mà sao lại không biết. Vậy chớ thầy biết đánh thứ gì?
- Thưa cô, từ nhỏ tới lớn tôi không biết đánh thứ gì hết.
- Trời ôi! Thầy nói sao nghe quê mùa quá vậy? Thầy không biết đánh tứ sắc, sa hỏ, cẩu hấu, tam hường hay là thiên cửu gì hết sao?
- Thưa cô, việc bài bạc tôi xin chịu dốt ngay. Thuở nay họ đánh tôi không chịu coi nữa, chẳng luận là tới đánh.
- Ở đời phải theo đời, người ta làm sao mình phải làm như vậy mới vui chớ. Hồi nhỏ thầy mắc lo ăn học nên chẳng nói làm chi, bây giờ thầy đã có chức phận với người ta rồi, nay mai đây đầu này có mời đám giỗ, đầu nọ mời đám cưới. Nếu tới đám tiệc mà thầy không chịu chơi một thứ hết, thì anh em người ta cười chớ.
- Thưa, ai cười tôi chịu, chớ thiệt tôi không biết bài bạc mà tôi lại không ưa nữa.
Thầy Nguyên thấy thầy Phát cãi lẽ với vợ thầy, thầy bèn chen vô mà nói rằng:
- Thầy nhứt không ưa bài bạc là phải lắm. Trong sách nho có câu: "Ðổ bác môn trung học khứ thân, năng sử anh hùng vi hạ tiện". Mà tôi tưởng người ta nói đổ bác đó là như đánh me, đánh phé, đánh bài cào kìa. Chớ còn mình chơi thứ tứ sắc, thiên cửa, tam hường là chơi cho vui có hại gì đâu.
Thầy Phát cười mà đáp rằng:
- Vui mà cũng thua tiền, chớ phải vui mà không tốn hao hay sao?
- Anh em chơi nho nhỏ với nhau, ăn thua bao nhiêu mà sợ. Vợ chồng tui thuở nay ưa đánh tứ sắc lắm, thứ năm, chúa nhựt nào cũng chơi, mà có hại gì đâu. Mình đánh có sòng thua mà cũng có sòng ăn, chớ không lẽ mỗi sòng đều thua hết.
- Theo tôi tưởng ở đời tự nhiên phải chơi. Mà chơi chẳng thiếu cho cách, mình phải lựa cách chơi nào cho thanh cao mà chơi mới phải. Hoặc thừa lúc rảnh tụ hội anh em mà bàn luận việc phải quấy; hoặc làm việc nhọc thân mệt trí, mình đi ra ngoài đồng trống đứng ngó mông đặng hấp thanh khí, dưỡng tinh thần, hoặc tập thể thao luyện cho gân dẻo xương cứng đặng khỏi bạc nhược hoặc kiếm sách hay mà đọc đặng cho rộng thêm chỗ nghe thấy của mình. Chơi như vậy đã khỏi tốn tiền mà lại có ích lắm. Chớ còn chơi bài bạc, đã không bổ cho trí não, mà lại còn mệt mỏi cho thân thể mình nữa.
- Thầy nói theo sách quá! Hồi tôi mới ra trường tôi luận việc đời, tôi cũng nói như thầy vậy đó. Nội một năm thì tô tỉnh ngộ, tôi tính tôi đi sái đường. Ðể một ít lâu đây, rồi thầy sẽ thấy phong hóa ở trường khác, còn phong hóa ở đời khác, nếu mình cái phong hóa ở trường mà cư xử với đời, thì việc mình làm không thích hiệp với ai hết.
- Có lý nào mà kỳ vậy; phong hóa là phong hóa, luận lý là luận lý, dầu ở đâu, dầu đời nào, cũng vậy hoài, có thế nào mà dời đổi được.
- Ừ, thì để rồi coi mà. Có nhiều việc trong sách vở người ta cho là tồi phong bại tục, người ta ố lắm, nhưng mà ở thế gian thiên hạ họ làm thường hoài, có ai cười chê, có ai cho là làm bậy đâu.
- Nếu mình làm việc chi sái phong hóa, đầu người ta không chê cười trước mặt mình, mà trong trí người ta cũng khinh bỉ mình chớ.
- Ối! Ai cũng vậy hết, có ai mà khinh bỉ ai.
- Thầy nói, tôi xin lỗi thầy, thiệt tôi làm thinh không được. Ở đời có kẻ quấy người phải, có kẻ dại người khôn, chớ có lý nào ngu xuẩn hết thảy, đến nỗi ai làm trái luân lý không biết giận, ai làm trúng phong hóa không biết khen; nếu lời thầy nói đó mà quả thiệt như vậy, thì té ra xứ mình dã mang rồi còn gì! Tôi xin kêu nài việc đó, tôi kêu nài bẳn hòi.
- Tại văn minh quá rồi nó ra như vậy đó a thầy, chớ không phải dã man đâu. Thôi, mà việc đời hơi đâu mà cãi. Người ta làm sao, mình cũng làm vậy cho xong.
Thầy Nguyên nói dứt lời liền bỏ đi xuống nhà sau. Thầy Phát uống nước rồi ra lộ đi hóng mát.
Trời tối lần lần, mấy nhà ở dựa lộ đều lo đốt đèn. Thầy Phát chấp tay sau đít, thủng thẳng trở về nhà. Khi thầy bước vô cửa thì thầy thấy thầy nhì Hạp với thầy Ký Huy đương ngồi nói chuyện với chủ nhà. Thầt chào hỏi rồi cũng ngồi đó mà chơi.
Thầy Ký Huy rủ thầy Phát đánh bài tứ sắc, thầy Nguyên rước mà trả lời rằng: "Thầy nhứt nói thầy không biết đánh. Chớ chi thầy biết đánh, thì bốn anh em mình chơi với nhau tiện quá. Tôi có cho đi mời anh Hương hào Phúc rồi. Chờ một chút ảnh lại".
Cô giáo Nguyên trải chiến, đốt đèn, và bỏ sẵn một bộ bài trên ván. Cách chẳng bao lâu thiệt quả Hương hào Phúc lại tới, rồi đồng với chủ nhà, thầy Ký Huy, thầy nhì Hạp leo lên ván ráp đánh tứ sắc.
Thầy Phát bơ vơ, thầy bèn lại bàn viết đốt đèn lên, tính viết mấy câu tục ngữ có ảnh hưởng về phong hóa để dán trong lớp học cho học trò ngó thấy hằng ngày đặng nhớ mà tập tánh sửa mình. Thầy đương ngồi suy nghĩ, thình lình thầy Ký Huy kêu mà nói rằng:
- Không đánh thì lại đây coi, thầy nhứt. Coi có thua khiếm gì đâu mà sợ, thầy.
- Cám ơn, tôi mắc làm việc.
- Tối thứ bảy thì chơi, chớ làm việc gì.
- Tôi cũng chơi đây chớ.
- Chơi giống gì ngồi bàn viết mà chơi. Thầy chưa biết đánh thì lại đây tôi dạy cho. Tôi không biết dạy học trò, chớ dạy tứ sắc thì tôi nghề lắm. Tôi dạy thầy hai sòng, thì thầy đánh rành như chơi.
- Cám ơn thầy, học thứ gì, chớ học đánh bài, thiệt tôi không dám.
- Ðánh bài vui lắm đa thầy. Ông Ðốc học, bà Ðốc học cũng đánh luôn luôn đó sao. Tôi chắc bây giờ đây trên nhà ông Ðốc cũng có một sòng bài ở trển. Ai lên đó mà không có tôi chịu thua.
Cô giáo Nguyên ngồi dựa một bên chồng mà coi bài, cô chận mà nói rằng: "Trên ông Ðốc thì tự nhiên có một sòng rồi, mà ở trển đánh tới hai cắc hoặc một cắc chớ phải đánh năm xu như mình hay sao; ở xứ này ai cũng đánh bài hết, duy có một mình thầy nhứt thẩy khác hơn người ta".
Thầy giáo Phát không trả lời. Thầy cứ ngồi gạch giấy mà viết chữ lớn, viết theo điệu chữ in, những câu này:
"Hoạch tài bất phú"
"Tiền tài như phấn thổ"
"Nhơn nghĩa thắng thiên kim"
"Ðổ bác môn trung mạc khứ thân"
"Nghèo cho sạch rách cho thơm"
"Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn"
"Một câu nhịn chín câu lành"
Thầy viết mấy câu đó rồi thầy nghĩ họ đánh bài cười giỡn om sòm, nếu mình đi ngủ, chắc ngủ không được; thầy bèn lấy giấy viết một bức thơ cho người anh nhà bác là Hà Tấn Tài, ở Sài Gòn. Thầy viết như vầy:
"Kính anh chị.
Em kính gởi lời thưa cho anh Hai chị Hai hay rằng em xuống Trà Vinh trình diện với quan giám đốc Học chánh, ngài bổ em qua Tiểu Cần mà dạy ông Ðốc học trường sơ học Tiểu Cần cắt cho em dạy lớp nhứt.
Em đã khởi dạy từ hôm khai trường đến nay. Em ở đậu tại nhà một thầy giáo cũng dạy học một trường với em.
Em chậm viết thơ cho anh chị là vì mới khai trường, em phải lo sắp đặt nhiều việc, phần em mới đổi lại, bề ăn ở chưa yên. Vậy em xin anh chị tha cái lỗi bê trễ của em đó.
Ngày nay em được thành thân, được no cơm ấm áo, khỏi phải trôi sông lạc chợ như con nhà mồ côi khác. Ấy là nhờ anh chị lấy lòng từ thiện cứu vớt em trong lúc em chơi vơi một mình ngoài biển cả. Cái ơn tế độ của anh chị, đã làm cho em no ấm, mà còn lại giúp cho em học thành thân nữa, ơn ấy em ghi tạc trong trí, dẫu ngàn năm em cũng không quên đặng. Em tự quyết nếu kiếp này mà em không đền ơn đáp nghĩa cho anh chị đặng, thì em cũng nguyền kiếp sau làm thân trâu ngựa mà đền bồi.
Hôm nay em lìa anh chị, em thầm nghĩ cái công anh chị làm nên cho em đây, em phải hết lòng trọng cái công ấy mà giữ gìn cái thân danh của em. Em hứa chắc chắn với anh chị rằng kể từ ngày nay, là ngày em bước chơn vào đường đời, cho tới ngày em nhắm mắt từ biệt dương trần, em sẽ cứ ngó một đường chơn chánh mà đi hoài, em thề chẳng làm một việc gì hổ với lương tâm, em chẳng chơi thứ gì mà phạm đến danh dự. Em quyết trau tánh dồi lòng để đặng khỏi phụ cái công ơn của anh chị làm nên cho em.
Giấy vắn mà chuyện còn dài. Em xin viết sơ mấy hàng làm tin, và em chúc cho anh chị bình an, cầu cho cháu nhỏ mau lớn.
HÀ TẤN PHÁT
Cẩn ký"
Thầy Phát viết bức thư cho anh xong rồi, thầy ngồi suy nghĩ, nhớ chuyện cũ việc xưa, thầy bèn lấy giấy viết thêm một bức thư nữa mà gởi cho ông Lý Kỳ Phùng là thầy giáo dạy lớp nhứt trường tỉnh Vĩnh Long, cách năm năm trước có công dạy dỗ thầy học thi đậu vào trường sư phạm.
Thơ như vầy:
"Kính thầy.
Em lấy làm vui mừng mà báo tin cho thầy hay rằng quan trên đã cấp bằng cho em làm giáo sư, và bổ em xuống dạy trường sơ học Tiểu Cần.
Em đã bắt đầu dạy học kể từ ngày khai trường. Ông Ðốc học Tiểu Cần lại cắt phần em dạy lớp nhứt. Em được thành thân và mới tựu chức, em liền được trọng dụng, thiệt em vinh hạnh không biết chừng nào. Nhưng mà cái vai của em có lộn cái lo, em lo là vì em mang cái lốt giáo sư vào mình, em mới thấy rõ bực sư phạm có cái trách nhiệm nặng nề to tác. Em nghĩ mình làm một thầy giáo dạy học, chẳng những mình lo mở mang học thức, trau giồi trí não cho trẻ em mà thôi, mà mình còn phải sửa tánh tình, un đúc đức hạnh cho trẻ em nữa mới được. Giáo thì phải dục; nếu mình chuyên dạy cho trẻ em học cho giỏi, còn lễ nghĩa không cần chỉ bảo, dường ấy sợ e ngày sau trẻ em khôn lớn làm ông này ông kia, mà không biết làm người, thành ra cái mà mình dạy đây là cái họa to cho xã hội.
Em nghĩ như vậy, cho nên em ngần ngại hết sức. Tài học và đức hạnh của em có xứng với chức giáo sư của em chăng?
Em lại đây mấy ngày rày, em dòm thấy ông Ðốc học có ý thương em, còn các bạn đồng nghiệp có ý trọng em, ai cũng khuyên em về giáo dục, ai cũng dạy em về cách cư xử, nhưng mà dầu lời khuyên nào cũng chẳng bằng những lời thầy dạy dỗ chỉ bảo cho em ngày xưa. Những lời quý báu của thầy vẫn vẳng vẳng bên tai em hoài. Em nguyện em sẽ dùng những lời chơn thành, những lẽ chánh trực của thầy dạy em ngày xưa mà đem dạy cho trẻ em bây giờ, đặng ngày sau trẻ em thành nhơn, có đủ lễ nghĩa, ngỏ hầu khỏi gây tai họa cho xã hội. Em chắc thầy sẽ vui lòng mà được thấy em kế trí thầy.
Em chúc thầy cùng quý quyến được bình an và luôn dịp em xin tỏ lời cảm tạ thầy một lần nữa, về cái công ơn thầy dạy dỗ em, nên ngày nay em mới có học thức, biết lễ nghĩa chút đỉnh.
HÀ TẤN PHÁT
Cẩn ký"
Thầy Phát viết bài thơ xong rồi thầy tắt đèn đi ngủ, mấy thầy kêu hết sức mà thầy không chịu lại coi.
Thầy Phát mới dạy trong vài tuần lễ, mà cái lớp học của thầy đâu đó đều đúng đắn, ông Ðốc học không thế đút miệng vô chê chỗ nào được. Dưới gạch thì sạch trơn, không có bụi cát, không có giấy xé bỏ bậy. Trên vách thì treo đủ đồ khi cụ để dạy học, lại có treo những tấm bảng có biên mấy câu phương ngôn ngạn ngữ về phong hóa để cho học trò coi mỗi bữa để mà sửa mình. Sách vở để có thứ tự, bài học thầy ra thảy đều đúng phép, hễ tới giờ học thì trong lớp lặng trang, học trò ngồi chỉnh tề, chẳng có một trò nào dám cười giỡn hay là dám chạy bậy, coi ra có vẻ nghiêm nghị lạ lùng.
Hễ thầy có dịp nói chuyện với ông Ðốc học thì thầy dùng những lời cung kỉnh, đứng hay ngồi thầy đều giữ lễ luôn luôn. Còn đối với mấy thầy giáo khác thì thầy giữ cái thái độ mềm mỏng, song chẳng đua bợ, lại chẳng kiêu căng, mà cũng chẳng lơ lẳng.
Ban đêm và ngày nghỉ thì thầy lo kiếm bài mà dạy học, hoặc lo sửa bài cho học trò làm. Hễ có rảnh thì thầy lo đọc sách, đọc hoài không biết nhàm. Mỗi bữa, ăn cơm chiều rồi, thường thầy đi chơi chừng một giờ đồng hồ, mà đi chơi thầy không chịu ghé nhà ai, cứ đi lên đi xuống trên lộ mà hứng gió mát. Có người hỏi thầy vậy chớ đi chơi sao thầy không ghé nhà mấy thầy giáo, hoặc nhà Hương chức, mà lại cứ thơ thẩn một mình ngoài lộ hoài. Thầy trả lời rằng: "Tôi làm việc mệt trí mỗi xác, tối cần phải đi một hồi đặng giải cái mệt mỏi đó. Nếu tôi ghé nhà anh em ngồi mà nói chuyện, thì tôi càng thêm mệt mỏi nữa. Huống chi mỗi người hễ tối rồi thì cần phải nghĩ ngơi, hoặc mặc lo tính việc nhà. Nếu không có chuyện cần ích mà mình tới làm khách cho người ta, thì sợ e phải làm nhọc trí hoặc cực lòng người ta nữa".
Thầy lo làm phận sự thì đúng đắn, thầy giữ bề cư xử thì hẳn hòi, bởi vậy trong một tháng đầu không nghe ai dám chê thầy, nhưng mà cũng không nghe ai khen thầy một tiếng nào hết, chỉ có nghe một hai người xầm xì rằng: "Thầy giáo mới tuổi còn nhỏ mà bộ nghiêm dữ!"
Một buổi chiều, ăn cơm rồi, thầy Phát cũng đi hứng mát mà bữa nay thầy lại đi theo con đường Rạch Lọp. Bữa ấy nhằm mười bốn Annam, nên mặt trời lặn rồi, thì mặt trăng đã mọc lên tỏ rạng.
Thầy Phát ra khỏi châu thành đứng ngó mông. Cả đồng lúa đương nở, một màu xanh lặc lìa, lại gió thổi ngọn phất phơi dường như dợn sóng. Trên trời mặt trăng soi sáng, làm cho cảnh thêm vui, thêm mát vô cùng. Thầy Phát đứng ngó một hồi, trong lòng thầy thơ thới, rồi lại cảm xúc, nhớ những việc đã qua, lo nhưng chuyện sẽ tới, buồn tấm thâm côi cút, mừng chút phận ấm no. Thầy đương bàng hoàng thình lình có một người cỡi xe trong chợ đi ra, ngó thấy thầy thì liền nhảy xuống mà hỏi rằng: "Thầy làm giống gì mà đứng đó vậy thầy nhứt?"
Thầy Phát bước tới nhìn kỹ thì ra là thầy giáo Thủ, dạy lớp chót. Hai người chào mừng nhau rồi thầy Phát hỏi rằng:
- Thầy đi đâu đây?
- Tôi về nhà tôi.
- Nhà thầy ở gần hay xa? Tôi nghe nói thầy ở ngoài này mà chưa biết chỗ nào.
- Nhà tôi ở phía trước kia, còn chừng bốn năm trăm nữa mới tới. Ðó, chỗ cái đèn mình ngó thấy đó.
- Xa dữ há.
- Có xa gì đâu. Thường thường tôi đi xe máy chừng mười lăm phút.
- Tan học từ hồi chiều, mà tới bây giờ mới về hay sao?
- Tôi mắc ghé trong chợ chơi. Mời thầy đi thẳng ra nhà tôi chơi cho biết nhà.
- Xa quá, sợ về khuya lắm.
- Trời có trăng, mà sợ giống gì. Thầy không dám về thì tôi đưa về. Tôi về ăn cơm rồi còn trở vô chợ nữa.
Thầy Phát thầm nghĩ từ ngày mình lại Tiểu Cần mình chưa đi thăm thầy Thủ. Vậy mình cũng nên thừa dịp này mà đi thăm cho đủ lễ. Thầy chịu đi, rồi hai người thủng thẳng và đi và nói chuyện chơi.
Thầy giáo Thủ ở một cái nhà lá ba căn xông, đầu trên, phía mặt trời lặn, lại có cất một cái nhà cũng lợp lá song rộng lớn, một khúc để chứa lúa còn một lúc để nấu ăn. Trước nhà có một cái sân. Cái sân ấy chạy ra sát mí lộ vì chủ nhà muốn phân biệt nên có trồng một hàng cây bông bụp để làm hàng rào, lại có làm cửa ngõ, tối khép lại, đặng cho kẻ đi đường khỏi trà trộn vào sân.
Thầy giáo Thủ dắt khách về tới nhà, khi bước vô sân, thì có một cặp chó ở trong nhà chạy tuôn ra sủa om sòm. Thầy nạt một tiếng, cặp chó nín sủa, rồi lại ngoắt đuôi mừng. Bỗng nghe trong nhà có tiếng đờn bà nói rằng: "Dữ hôn! Tan học hồi bốn giờ rưỡi, mà bảy tám giờ mới về tới nhà. Quàn măn cơm nguội lạnh hết, ăn giống gì được".
Thầy Phát nghe tiếng nói, thầy ngó vô nhà thiệt quả thấy một người đờn bà đương nằn trên ván mà chơi với con nhỏ chừng vài tuổi, dựa bên có có để một cây đèn sáng hoắc.
Thầy Thủ dựng xe máy ngoài cửa và kêu vợ và nói rằng: "Mình a, có thầy giáo nhứt ra thăm đây. Biểu bầy trẻ nấu nước uống". Người đàn bà ấy lồm cồm ngồi dậy thì hai thầy bưóc vô nhà. Thím giáo tay bồng con, tay bưng đèn đem bỏ trên bàn, rồi ngó thầy Phát và cúi đầu chào rằng: "Hổm nay thầy bầy trẻ nói có một thầy mới đổi lại còn nhỏ mà giỏi lắm, ông Ðốc cắt dạy lớp nhứt. Té ra thầy đây há?"
Thầy Phát cúi đầu đáp lễ và cười và nói rằng: "Thưa phải; phải là phải tôi mới đổi lại, và ông Ðốc cắt tôi dạy lớp nhứt. Còn cái câu thím nói tôi giỏi đó, thì tôi không dám lãnh, bởi vì tôi tưởng có may lắm là tôi hằng mấy thầy giáo khác, chớ có gì đâu mà gọi rằng giỏi".
Thầy Thủ mời khách ngồi và cũng cười mà nói rằng: "Thầy khéo khiêm nhượng thì thôi! Nội trường này không phải thầy giỏi hơn hết hay sao? Ai cũng biết hết..."
Thím giáo tiếp mà nói rằng: "hổm nay trong chợ người ta đồn rùm, ai lại không biết. Thầy còn nhỏ, mà học giỏi; thiệt là quý quá!" Thiếm lại day vô buồng, kêu mà nòi rằng: "Ba a, mở tủ lấy gói thuốc đem ra đây em. Gói thuốc Job qua để ngăn trên đó".
Thầy Phát được khen rồi, thầy lấy làm ái ngại, nên ngồi bợ ngợ không biết chuyện gì mà nói. Thầy giáo Thủ lăng xăng, vặn đèn lên cho sáng, rồi quét bụi đóng trên bàn. Còn thím giáo bồng con vô buồng. Bỗng nghe trong buồng có tiếng nói chuyện rầm rì, rồi lại nghe tiếng chuông leng keng là mở tủ. Cách một lát có một cô gái trạc từng mười tám, mười chín tuổi, mặc một cái áo lụa trắng còn mới tinh, ở trong buồng bước ra, cúi đầu chào thầy Phát, để gói thuốc Job trước mặt rồi quảy quả trở vô. Thím giáo đi theo sau cô ấy thím liền nói rằng: "Con này là con em tôi đó đa thầy nhứt". Thầy Phát gặc đầu và chúm chím cười, chớ không biết lời chi mà đáp. Thầy ngồi một hồi rồi cáo từ mà về. Vợ chồng thầy Thủ ân cần cầm ở lại đặn làm vịt dọn cơm ăn. Thầy Phát nói rằng thầy đã ăn cơm rồi, không thể ăn nữa được. Thầy Thủ liệu thế khó mời ăn uống; thầy bèn nói rằng: "Thôi, như thầy ăn cơm rồi, thì thầy cũng ngồi chơi, đợi tôi ăn ba hột rồi tôi đưa thầy về; tôi còn trở vô chợ có chuyện riêng".
Thầy Phát nghe như vậy thầy mới chịu ở lại chơi mà chờ. Thầy Thủ cáo lỗi xuống nhà sau dùng cơm. Thầy Phát ngồi ở nhà trên một mình buồn, thầy bèn lấy một cuốn sách mở ra coi. Thình lình cô gái hồi nãy đó xách bình trà lên, đứng rót một tách mời thầy uống. Thầy chỉ nói có hai tiếng "cám ơn" rồi cứ coi sách. Thầy Thủ ăn cơm rồi, hai người đề huề dắt nhau trở vô chợ.
Chuyện thầy Phát đến nhà thăm thầy Thủ chỉ có bao nhiêu đó mà thôi, nhưng mà qua ngày sau, đến giờ chơi buổi chiều, thầy nhì Hạp lại vỗ vai thầy Phát mà hỏi rằng: "Nghe nói hồi hôm đon đi coi em vợ của M.Thủ, vậy mà đon bằng lòng hay không?"
Thầy Phát chưng hửng, nghe thầy Hạp mà nói rằng:
- Hồi hôm nhân dịp đi chơi tiện đường, tôi đi theo M.Thủ ra thẳng nhà ngoài thẩy mà thăm chơi cho biết nhà, chớ tôi có coi ai bao giờ. Sao thầy dám bày chuyện như vậy? Ai nói với thầy rằng tôi đi coi vợ?
- Từ sớm mơi tới giờ cả chợ, ai cũng nói như vậy, chớ phải tôi bày chuyện đâu.
- Họ đồn bậy, thầy tin làm chi.
- Mà hồi hôm đon có ra nhà M. Thủ hay không?
- Có. Tôi đi thăm thẩy.
- Có tích người ta mới dịch ra tuồng được. Ðon có đi, đon còn chối giống gì.
- Ði thăm anh em nghĩa là đi coi vợ hay sao?
- Mà em vợ M.Thủ có ra chào đon hay không?
- Có. Rồi sao?
- Có sao đâu. Bởi tại như vậy nên người ta mới nói đon coi vợ.
- Chuyện kỳ quá! Tôi đi thăm M.Thủ, chớ chẳng có ý gì khác. Ai có đồn bậy, xin thầy khắc nghĩa lại cho họ hiểu và khuyên họ đừng có đồn huyễn mà phạm danh giá con gái người ta.
Thầy Phát đi chơi, lại đi chơi phải nghĩa, mà thầy mang tiếng, bởi vậy thầy lấy làm bất bình, hết muốn tới nhà ai nữa.
Càch ít ngày, thầy Phát đương dạy học, lại tiếp được một cái thiệp của Hương sư Lầu mời đám giỗ. Ðến giờ chơi, thầy hỏi thăm, thì mới hay từ ông Ðốc cho đến mấy thầy ai cũng có thiệp mời hết thảy. Thầy nói rằng thầy chưa quen với Hương sư Lầu nhiều, nên thầy tỏ ý muốn viết thơ mà từ. Ông Ðốc nghe bèn nói rằng: "Thầy nhứt đừng có làm như vậy mà mích lòng người ta. Ở trong làng này, ông Hương sư Lầu tử tế lắm, tuy ổng kông có điền sản lớn nhưng mà ổng có quyền thế mạnh, tổng quận đều yêu ổng hết thảy. Nhà ổng có kỵ cơm, ổng trọng ty giáo huấn lắm, nên mới ổng mời đủ hết. Nếu thầy từ, dầu mà thầy không có ý khinh khi ổng đi nữa, sợ e ổng cũng nghi rôi ổng phiền. Vậy thầy phải vị tính ổng mà chớ đừng có từ."
Thầy Phát vưng lời, nên đến bữa đám giỗ thầy đi theo thầy Nguyên mà lại nhà Hương sư Lầu. Khi bước vô thì thầy thấy trong nhà khách khứa đông dày dày lại có một sòng bài thiên cửu đánh tại bàn và một sòng bài tứ sắc đánh trên ván. Chừng đỏ đèn thầy Cai tổng với quan Chủ quận lại mà mấy người đánh bài cũng cử tiếp chơi như thường, coi bộ không khiêng nể chi hết. Mấy thầy giáo, thầy ký, thầy dây thép cũng áp theo hai sòng bài ấy, người coi tứ sắc kẻ coi thiên cửu.
Chừng nhập tiệc, thì ông chủ nhà chỉ lo ân cần đãi cái bàn giữa, chỗ có quan Quận với thầy Cai, thầy Ba n ngồi, còn mấy bàn kia thì phận ai nấy lo, chen nhau mà ngồi không ai ngó ngàng tới. Tiệc rồi khách lại ráp đánh bài nữa. Có người rủ thầy Phát chơi, thầy từ mà nói rằng thầy không biết đánh thứ gì hết, thì coi bộ họ chưng hửng, không tin có thứ người không biết bài bạc.
Quan Quận còn ngồi đó mà khách đã xầm xì trải chiếu sửa soạn hốt me. Có người lại đem chuyện đỗ bác đấu kê ra mà nói tự do, không kiêng nể chi hết. Người thì thuật cái Mỏ Cày hồi hôm hốt lại Ô Chát ăn hai mươi ba ngàn; kẻ thì nói bữa trước ông chủ nào đó đá một độ gà chín ngàn rưỡi.
Ðến mười giờ khuya, quan Quận mới từ chủ nhà mà về. Thầy Phát nhân dịp ấy rủ thầy Nguyên về. Thầy Nguyên kề miệng nói nhỏ, biểu ở nán coi họ đánh me chơi. Thiệt quả một lát thì họ đánh me rần rần, khách chẳng nồi sòng này thì đeo theo sòng khác, chẳng có ai ngồi không, ông Ðốc học cùng thầy Cai thầy Ban cũng đánh tứ sắc.
Thầy Phát không vui, bèn bỏ thầy Nguyên ra về một mình. Ra đường thầy nghĩ thầm rằng: đám tiệc là vậy đó? Người ta trọng mình người ta mới là vậy đó! Mình vì tình người ta mà đi dự tiệc là vậy đó! Giả dối! Giả dối lắm!
Lật bật đã tới lễ sinh nhật,các trường học đều được nghĩ tám ngày. Thầy Phát tiếp được thơ của anh là Hà Tấn Tài, cho hay rằng nhơn lễ ấy anh xin phép dắt vợ con lên Ðà Lạt ở chơi qua tết Tây rồi mới về. Thầy tính lễ về thăm anh, mà được tin như vậy, nên nghĩ lâu mà thầy không về.
Mấy thầy và ít vị Hương chức còn trẻ tuổi rủ nhau hùn tiền mướn một chiếc ghe lớn, mua đồ ăn và rượu trà bỏ theo nghe, thả ra Mặc Bắc, đợi mười hai giờ khuya coi nhà thờ làm lễ kiệu ảnh, rồi ăn uống đờn địch chơi tới sáng sẽ trở về. Mấy thầy giáo đều có hùn tiền đặng dự cuộc chơi này. Thầy Phát đã có dự một tiệc hôm nọ tại nhà Hương sư Lầu, thấy lấy làm chán ngán, nên do dự không muốn hùn, mà bị anh em ép quá, cực chẳng đã phải chìu lòng mà ký tên.
Ăn cơm chiều rồi, ai nấy đều xuống ghe, cọng và mấy thầy và hương chức và thương gia hết thảy chừng mười lăm người. Ðồ ăn và rượu trà đem theo đựng đầy hai thùng, lại có một bọn đờn tài tử, năm sáu anh vác đờn kèn theo nữa. Ghe vừa lui khỏi bến thì Hương hào Phúc kêu người chèo lái mà dặn rằng: "Nè, ra tới nhà bà Hai Tồn anh ghé ghe lại đặng trước người ta thêm nữa, nghe hôn. Nhớ a anh, quên ắt anh bị đòn, nói trước cho mà biết".
Mấy anh đờn mỗi người cầm một cây đờn mà lên dây rồi hòa với nhau. Hướng đông trăng khởi mọc, trong rạch nước minh mông, ngọn gió bấc hiu hiu, tiếng đờn hòa rỉ rả; trông trăng nhìn nước, hứng gió, nghe đờn, người có máu phong lưu ai cũng bàn hoàn với cảnh. Nhưng mà cả thuyền, trừ thầy giáo Phát ngồi lặng thinh tưởng cảnh nghe đờn, còn bao nhiêu thì nói nói cười cười lấy sự trửng giỡn làm vui, chớ không phải lấy cảnh đất trời mà làm thích.
Một lát ghe ghé lại một cái bến, Hương hào Phúc nhảy lên bờ, rồi vô một cái nhà lá nhỏ. Cách chẳng bao lâu anh trở ra, sau lưng lại có ba cô mỹ nữ đi theo, một cô mặc áo trắng, một cô mặc áo tím, một cô mặc áo đen, cô nào cũng dồi phấn thoa son sắc lẻm. Khách dưới ghe có nhiều người vỗ tay chào mừng. Mấy cô theo Hương hào mà xuống ghe rồi thì ghe lui.
Một cô mỹ nữ ngả ngớn với mấy thầy, cô thì ngồi trong lòng người này, cô thì dựa bắp vế người kia, khi thì cô này ca ngâm, lúc thì cô nọ hút thuốc, rõ ràng một trận lả lơi không có lễ nghĩa, không có ngôi thứ chi hết. Kẻ đờn người hát, đầu này giỡn, đầu kia cười, thầy Phát ngồi ngẩn ngơ, thuở nay chưa từng nghe những tiếng thô tục, chưa từng thấy cái cảnh bất nhã dường ấy, nên thầy hổ thẹn không biết chừng nào.
Ban đầu, mỗi người đều mất lo chơi phận mình, nên không để ý đến người khác. Cách một hồi lâu, thầy Ký Huy dòm thấy thầy nhứt Phát ngồi ngoài xa, không can thiệp đến cuộc ngả ngớn của mấy cô mỹ nữ, thì thầy kêu mà nói rằng: "Thầy nhứt, vô đây mà! Mắc cỡ cái gì. Làm trai phải cứng cỏi, chớ sao ngồi chim bỉm như con gái giàu vậy? Vô đây".
Thầy Phát khoác tay lắc đầu, không chịu vô. Thầy Ký Huy bèn kêu cô áo tím mà nói rằng: "Cô Hai, cô ra mời thầy giáo nhứt vô đây chơi chớ. Thẩy giận cô không chào thẩy, nên nãy giờ ở ngoài đó đa. Cô phải ra xin lỗi rồi mời thầy vô".
Cô áo tím ngó thầy Phát mà cười, rồi bò ra ngoài, ngồi dựa bên thầy, tay choàng qua cổ thầy, mặt kề gần mặt thầy, thủng thẳng nói rằng: "Mình giận tôi hay sao: Thôi, hun một cái cho hết giận".
Thầy Phát mắc cỡ quá, không kiếm được một lời chi mà đáp, chỉ day mặt chỗ khác và gỡ tay cô nọ. Ai nấy cười rộ, làm cho thầy càng mắc cỡ hơn nữa. Thầy dây thép bèn nói rằng: "Cô phải hun thầy mà xin lỗi, chớ sao cô lại biểu thầy hun cô". Cô nọ nghe lời bèn ôm đầu thầy nhứt mà hun nghe một cái chụt. Cả ghe đều vỗ tay; Thầy Phát mắc cỡ quá nên xô cô nọ một cái rất mạnh, làm cho cô té nằm trên mình thầy nhì Hạp.
Thầy Ký Huy thấy bộ thầy Phát giận thì nói rằng:
- Thầy nhứt, cuộc này là cuộc mình bày ra đặng vui chơi. Anh em ai cũng vui hết thảy, sao thầy không vui mà hình như thầy giận vậy?
- Thầy thích chơi như vầy tự nhiên thầy vui. Tội không thích, tôi vui sao được.
- Thầy nói lạ quá! Người ta thường nói: "Nhứt chơi tiên, nhì giởn tiền". Chơi tiên là vui đệ nhứt, sao thầy lại không thích, đâu thầy cắt nghĩa cho tôi nghe thử coi?
- Tại ý tôi không thích, có chi đâu mà khắc nghĩa.
- Tôi không hiểu được. Thầy không thích sao thầy lại đi?
- Anh em rủ quá, nên tôi vị tình mà đi. Tôi nói thiệt, hồi tôi đi không dè chơi như vầy, chớ phải tôi biết trước thì tôi không đi.
- Bộ thầy sửa soạn cưới vợ hay sao, má thầy sợ mang tiếng?
- Không. Việc cưới vợ tôi chưa tính.
- Vậy chớ sao thầy làm như không chịu chơi cái gì hết? Thầy nhứt nè, thầy là anh em nên tôi phải tỏ thiệt cho thầy rõ. Ở đời người ta làm sao mình phải làm theo vậy, mới thuận cảnh, coi mới vui, chớ mình làm khác người ta thì khó coi lắm, mà lại trái nhơn tình. Thầy xét lại đó mà coi, đời này không phải là đời đạo đức, hay là lời nhơn nghĩa gì đâu. Ðời này là đời danh lợi, là đời kim tiền, từ lớn chí nhỏ, từ sang chí hèn, thảy đều tranh đua với nhau mà làm cho có tiền, không kể cách làm đó hiệp nhơn nghĩa hay là không hiệp. Hễ có tiền rồi lo mua cái danh, không cần xét cái danh ấy trong hay là đục. Bọn mình đây sanh nhằm cái đời như vậy, thì mình phải cư xử theo người đời ấy, chớ mình tập theo tánh tình người đời khác thì thành ra mình trái đời, mình có chơi với ai được. Thầy không hay, chớ thầy đổi lại mấy tháng này mà họ dị nghị thầy nhiều lắm. Nếu thầy không tin, thầy hỏi hết thảy anh em đây coi có phải vậy hay không.
- Tôi có nói động tới ai, tôi có làm mích lòng ai đâu mà họ dị nghị.
- Phải. Thầy không nói động tới ai, thầy không làm mích lòng ai, nhưng mà thầy cư xử theo người đời xưa quá, thiên hạ họ coi không hạp con mắt họ, nên họ đồn thầy "nghiêm", họ nói thầy là "người ở trên mây rớt xuống".
- Tôi xét việc nào phải thì tôi làm, việc nào không phải thì tôi tránh. Ai muốn đồn thế nào tùy ý họ; những lời khen chê của thiên hạ không làm tôi nóng hay là lạnh được.
- Vì tôi thương thầy lắm, nên tôi phải nói cạn lời. Ở đời thầy nói vậy sao được. Thầy không cần thiên hạ, ví như thiên hạ họ cũng không cần thầy tẩy chay thầy rồi thì thầy chơi với ai? Thầy nói theo sách quá như vậy không được đâu. Cái luân lý trong sách khác, cái luân lý ở đời khác. Ở đời mình phải theo thời. Tối thứ bảy anh em thường hay tụ hội đánh bài chơi. Thầy không chịu đánh, anh em không vui rồi. Bữa đám giỗ nhà Hương sư, thầy trốn về trước không chịu chơi với người ta, cái đó người ta cũng không vui nữa. Ðến bữa nay đây, là bữa chúng ta hiệp nhau mà bày cuộc đặng chơi với nhau mà thầy cũng dang dở, tôi chắc hết thảy anh em dưới ghe đây chẳng có ai mà chẳng buồn.
Ba cô mỹ nữ vỗ tay mà nói lớn rằng: "Thầy ký đít-cua hay quá!" Mấy thầy nãy giờ nín khe mà nghe thầy ký giảng du thầy nhứt về cách ở đời, thấy bộ thầy nhứt quạu, lại cũng không chắc bên nào phải, bên nào quấy, nên không dám xen vô mà cãi lẽ. Ðến chừng nghe ba cô mỹ nữ vỗ tay thì phần nhiều lại bắt chước vỗ tay theo, không hiểu ý họ cầu vui, hay là họ cho cái lý thuyết của thầy ký là chính đáng.
Thầy nhứt Phát đã bất bình cái cuộc chơi lả lơi, mà đến chừng nghe vỗ tay thầy chắc cả thuyền đều hiệp ý mà cho những lời khuyên vô đạo của thầy Ký Huy là phải, còn cho cái cử chỉ chánh trực của thầy là quấy nên thầy càng thêm tức giận, muốn biểu ghé ghe lại đặng thầy nhảy lên ruộng kiếm đường mà về. Nhưng thầy nghĩ lại, nếu làm như nậy thì khiếm nhã quá. Thầy giả lả gượng cười mà nói rằng: "Thầy ký lớn tuổi hơn tôi, thầy lịch duyệt dường đời hơn tôi, nên thầy chỉ bảo giùm cho tôi, thiệt tôi cảm tình thầy lắm. Nhưng mà tôi xin lỗi thầy, cho tôi cãi lại ít lời. Luân lý là luân lý, dầu ở đời nào, dầu ở nước nào cũng vậy, không có thế dời đổi được. Theo lời thầy nói hồi nãy, thì cái đời lễ nghĩa, cái đời đạo đức đã qua mất lâu rồi, cái thời hiện thời là cái đời danh lợi, là đời kim tiền. Mà thầy không có chơi cái đời đã qua đó là đời quấy, không khen cái đời hiện tại đây là đời phải, thế thì tôi chắc thầy cũng công nhận đời đạo đức là... tốt, còn đời danh lợi là xấu. Nếu thầy biết đời này không tốt, mà sao thầy còn dám xướng lên mà khuyên tôi phải tập tánh tình cư xử theo đời này? Có lẽ thầy cũng rõ biết, con người, dầu ở đời nào cũng vậy, hễ tới lúc đủ trí khôn thì sự phải với sự quấy chàng ràng trước mặt, chẳng khác nào người đi đường đi tới ngã ba, trong trí bối rối không biết phải đi ngả nào. Sự giáo dục là một phương chước đặt ra để chỉ đường phải cho thiên hạ đi, để chỉ nẻo quấy cho thiên hạ tránh. Anh em chúng ta đây là bọn có giáo dục ít nhiều, rủi chúng ta sanh nhằm đời danh lợi, thiên hạ đều kéo nhau đi vào đường quấy, bổn phận chúng ta phải lo kéo họ lại mà chỉ đường cho họ đi. Sao thầy lại lập cái thuyết xúi thiên hạ sanh đời danh lợi đi vào đường quấy hết thảy. Rõ ràng cái thuyết của thầy không chánh đáng, không thể làm cho tôi cảm phục được".
Thầy Ký Huy cười xòa mà đáp rằng: "Dưới bóng trăng thanh, kề vai mỹ nữ, mà thầy dạy anh em học luân lý thì không hiệp thời. Thôi để bữa nào chúng ta rảnh rồi chúng ta sẽ bình luận việc đó lại. Bây giờ để cho chơi vui, kẻo mất ngày giờ." Thầy nói dứt lời, liền ôm cô áo đen mà nựng.
Cuộc lẳn lơ tiếp theo nữa, ra cho tới Mặc Bắc, rồi bận trở về cũng vậy. Thầy nhứt Phát vẫn ngồi ngoài xa, song không ai dám xui chọc ghẹo đến thầy nữa.
Mấy lời của thầy Ký Huy nói bữa đi chơi ghe đó tuy không làm cho thầy nhứt Phát phục được, song làm cho thầy phải suy nghĩ rất nhiều. Trong mấy ngày sau hễ có giờ rảnh thì thầy nhứt Phát nhớ tới những gì người ta trách mình, không chịu bắt chước anh em mà đánh bài chơi, đi ăn giỗ, thấy người ta đánh bạc mà len lén bỏ về, không chịu hiệp ý với anh em mà say sưa trong đường hoa nguyệt. Thầy suy đi xét lại kỹ lưỡng, thì trong ba điều người ta trách thầy đó thầy chẳng có quấy điều nào hết; người ta chơi bậy thầy không chịu bắt chước, người ta trở lại ghét, chẳng khác nào kẻ gian giảo ghét người thẳng ngay, kẻ hung ác ghét người lương thiện chớ chẳng có chi lạ.
Thầy để ý coi chừng, thì thấy từ mấy thầy cho đến Hương chức mỗi ngày họ càng thêm lợt lạt với thầy, gặp nhau thì chào sơ sài cho đủ lễ rồi đi, chớ không nói chuyện, không rủ ren chơi bời nữa. Vì thầy đoán quyết thầy không có lỗi, nên dầu nhơn tình đối đãi với thầy như vậy mà thầy cứ nhắm đường ngay bước tới, chẳng có chút chi buồn. Có một người làm cho thầy phiền nhiều là thím giáo Nguyên, chủ nhà; thầy ở đậu đó. Nhà thím mỗi tuần đều có chứa bài tứ sắc hai ba đêm, còn ban ngày, nhằm giờ thầy dạy học ở nhà thím chứa hay là đánh thì không thể. Hồi thầy mới lại ở đậu thì thấy bộ thím vui vẻ, mà từ ngày thầy không chịu học đánh bài thì cách vui vẻ ấy thủng thẳng giảm bớt lần lần rồi lại hóa ra khinh thị.
Một đêm thứ bảy, thầy nhứt Phát đương ngồi sửa bài vở của học trò. Có vài người khách tựu lại đánh bài, họ vui miệng rủ thầy nhứt đánh. Thím giáo Nguyên liền nói rằng: "Thẩy tu mà rủ ren cái gì! Thẩy thấy mình đánh bài thẩy ghét lắm. Thẩy nói với người ta thẩy đương kiếm nhà ở riêng, chớ ở đậu nhà tôi là nhà bài bạc, ở lâu rồi nhiễm cái hư không tốt".
Thầy nhứt Phát nghe rõ ràng, thầy muốn trả lời, nhưng thầy nghĩ lại biết ý thím giáo Nguyên muốn đuổi thầy, bởi vậy thầy giả điếc làm lơ, cứ sửa bài, không nói chi hết.
Cách vài ngày sau, thầy mướn một căn phố, mua giường ghế ít món cần nhứt, rồi dọn nhà ở riêng một mình, mướn một người trai nấu ăn.
Bãt trường Tết, mấy thầy giáo được nghỉ một tháng. Thầy nhứt Phát tính giao nhà cho thằng nấu ăn coi đặng thầy về Sài Gòn mà thăm anh, chẳng dè đến ngày bãi trường, ông Ðốc học lại kêu thầy mà nói rằng con út của ông là Lê Thiện Chí, học tại Mỹ Tho năm nay coi bộ thiếu sức, học không bằng chúng bạn trong lớp, vậy nên ông cậy thầy nhơn dịp bãi trường này, hễ ăn tết rồi, thì thầy kềm dạy riêng giùm Thiện chí ít tuần lễ, đặng chừng khai trường khỏi thua sút chúng bạn nữa, công thầy dạy đó, ông sẽ đền bồi xứng ñáng cho. Thầy nhứt Phát không biết lấy cớ chi mà từ được, nên thầy phải hứa lời.
Bãi trường, thầy nhứt Phát về Sài Gòn liền. Thầy ở nhà anh là Hà Tấn Tài,đến Tết thầy xin phép anh chị dọn một cái bàn thờ phía chái trên rồi mua hoa quả mà cúng cha mẹ. Vì thầy đã có hứa lời với ông Ðốc, nên vừa hết Tết thầy trở xuống Tiểu Cần.
Thầy lại nhà thăm ông Ðốc, ông cậy thầy ráp dạy liền. Thầy dạy Thiện Chí hai bữa, coi bộ cần mẫn, mghiêm chỉnh lắm, ban ngày dạy luôn hai buổi, mà tối còn dạy tới chín giờ rưỡi. Cô Lê Thị Thiện Tú thấy thầy nhứt dạy kỹ lưỡng, cắt nghĩa rành rẽ, thì cô cũng nói với ông Ðốc, bà Ðốc mà cậy thầy hễ Thiện Chí mắc làm bài, thí thầy cắt nghĩa toán pháp giùm cho cô vì cô yếu sức về khoa đó lắm. Thầy nhứt chẳng nệ công, nên thầy dạy luôn hai chị em.
Một đêm nọ, thầy nhứt lại dạy, khi ông Ðốc, bà Ðốc mắc đi đánh bài trong nhà thầy Ban. Học đến chín giờ, trò Thiện Chí đói bụng nên đi ra chợ ăn mì. Thầy nhứt Phát mới dạy cô Thiện Tú học toán. Dạy một hồi, cô Thiện Tú vụt hỏi rằng:
- Thầy có tính cưới vợ chỗ nào chưa thầy nhứt?
- Việc vợ chồng, tôi chưa dám tính.
- Sao vậy?
- Tôi còn nhỏ tuổi, mà lại ăn lương còn ít lắm. Nếu tôi vội lập gia thất, một là tôi sợ không đủ trí mà làm một người chồng và một người cha, hai là tôi e không đủ tiền mà nuôi vợ con cho sung sướng được.
- Thầy năm nay mấy tuổi?
- Qua năm mới đây tôi hai mươi ba tuổi.
- Ðã hai mươi ba tuổi rồi, còn nhỏ gì nữa. Nếu thầy đợi già mới cưới vợ, sợ e thầy mắc cái cảnh nha già con muộn, làm sao cho đủ ngày giờ mà dạy dỗ con.
- Chừng năm ba năm nữa rồi cưới vợ cũng được, có gì đâu mà già.
- Bây giờ thầy ăn lương bao nhiêu?
- Bốn mươi mấy đồng.
- Ít thiệt há. Nè, mà thôi, thầy coi cô giáo nào đó thầy cưới, rồi lương của hai vợ chồng nhập lại thì tự nhiên ăn xài phủ phê chớ gì.
- Biết cô giáo nào ưng tôi, mà tôi cũng ưng nữa bây giờ? Vợ chồng phải lựa chọn cho đồng tâm hiệp ý, cho biết thương yêu nhau, chớ là phải có kể có tiền mà thôi đâu.
- Thầy nói phải lắm, nhưng mà trong cái gia đình mỗi tháng thiếu trước hụt sau cũng khổ lắm chớ. Tôi đây tôi vái học lấy cho được đip-lôm rồi tôi xin làm cô giáo. Hễ làm cô giáo thì lấy chồng thầy giáo, đặng vợ chồng có lương hết xài mới đủ.
Cô và nói và ngó thầy nhứt Phát, cặp mắt hữu tình. Thầy cũng ngó cô mà cười. Câu chuyện mới tới đó, kế trò Thiện Chí bước vô, làm phải dứt ngang thành ra có đầu mà không đuôi.
Ðêm đó thầy nhứt Phát về nhà nằm nhớ những lời của cô Thiện Tú hoài, mà cho tới mấy ngày mấy tuần sau cũng chẳng quên được. Thầy suy xét hoài, không hiểu cô này có ý chi với mình hay không mà cô khuyên mình chọn cô giáo mà cưới, rồi lại cô nói cô tính cô làm cô giáo. Nếu căn duyên của mình cũng được như vậy ấy cũng là cái may. Cô Thiện Tú là con nhà tử tế có đủ giáo dục, lại cũng có nhan sắc. Có lẽ cô có thể làm cho mình trọn đời có phước được; mà nếu mình được vợ như vậy thì mình cũng quyết làm cho cô trọn đời cô hạnh phúc luôn luôn.
Cái điều thầy tính đây là tính thầm trong trí mà thôi, chớ thầy chẳng hề dám nói cho ai biết, mà cũng chẳng dám ló mòi chi cho cô Thiện Tú hiểu.
Chừng khai trường, cô Thiện Tú lên Sài Gòn mà học tiếp, thầy nhứt Phát ở Tiểu Cần mà dạy như thường. Cách ít ngày thầy Tư Sanh lại nhà thầy nhứt Phát chơi, thình lình thầy vụt nói như vầy: "Thầy nhứt nè, tôi coi ý ông Ðốc yêu thầy lắm. Ông khen thầy hoài. Hồi hôm tôi lại nhà ổng tôi chơi. Hai ông bà ngồi nói chuyện với tôi, đều tỏ ý cho tôi biết rằng hễ cô Thiện Tú thi đậu đíp lôm rồi thì hai ông bà gả cho cho thầy. Thầy chịu hay khôn?"
Cái tâm sự của thầy nhứt Phát hổm nay thầy giấu giếm hết sức, tình cờ thầy Tư Sanh bươi ra, làm cho thầy bối rối trong lòng, không biết trả lời thế nào cho phải, túng quá thầy mới đáp rằng: "Phận tôi côi cút tôi đâu dám đèo bòng. Ông Ðốc thương mà nói như vậy thì tôi đội ơn ông lắm. Nhưng mà ý ông muốn vậy, song có biết cô Thiện Tú có chịu vậy hay không. Con gái đời này khó lắm, họ học giỏi rồi thì thiếu gì chỗ cao sang gấm ghé, cái chú giáo nghèo này có nghĩa lý gì".
Thầy Tư Sanh cười mà đáp rằng:
- Cô có giỏi lắm thì bất quá có đíp lôm như thầy chớ giỏi giống gì.
- Ðạo vợ chồng không phải đem sức giỏi dở mà sánh với nhau được. Tôi e là e cái thần kia chớ.
- Thầy nói tôi không hiểu.
- Ðờn bà con gái lòng dạ thường hẹp hòi, họ được một tí gì hơn người thì họ hay sanh kiêu hãnh. Tôi nói tôi sợ là sợ chỗ đó, thầy hiểu hay chưa?
- Hiểu rồi. Mà cô Thiện Tú là con nhà lễ nghĩa, tôi chắc dầu cô có đíp lôm cô cũng chẳng lấy cớ đó mà kiêu hãnh, khinh thị thiên hạ đâu.
- Nếu được vậy thì quý lắm.
Cái tin của thầy Tư Sanh đem tới đây làm cho thầy nhứt Phát càng thêm xao xuyến trong lòng nữa, gây cho thầy một cái hy vọng vừa khoăn khoái, vừa ngậm ngùi. Nhưng mà cái hy vọng ấy thầy vẫn giấu kín trong trí, thầm đợi một đôi năm nữa cô Thiện Tú học rồi sẽ hay.
Ngày qua tháng lại, thầy nhứt Phát dạy học đã gần mãn năm. Vì người ta ít yêu thầy và cũng vì thầy không chịu chơi như người ta, nên thầy có ngày giờ mà lo phận sự. Học trò trong lớp thầy, mấy trò nào biết cần cán thì học giỏi lắm, còn trò nào biếng nhác hoặc nghinh ngang, thì thầy trừng trị hẳn hòi.
Còn không đầy một tháng nữa thì tới ngày thi bằng cấp Sơ học. Thầy nhứt Phát tính dạy rút, nên thầy buộc học trò lớp thầy, mỗi ngày hễ tan học buổi chiều rồi thì phải ở lại, đặng thầy dạy học ôn các khóa cần yếu, cho tới năm giờ rưỡi rồi mới được về. Mấy trò ham học thảy đều vừa lòng, duy có một học trò cầm chừng bị bó buộc không được về sớm mà đi chơi, thì cằn rằn phiền trách.
Một buổi sớm mơi, thầy nhứt ở trong lớp đương cắt nghĩa bài cho học trò. Thình lình ông Ðốc học Tâm bước vô, lại có thầy Cai tổng Cao đi theo nữa. Cuộc cắt nghĩa bài bị ngăn trở, nên thầy nhứt Phát trong lòng không vui, song thầy cũng bước lại cúi đầu và bắt tay chào hai ông đủ lễ. Ông Ðốc Tâm làm mặt nghiêm chỉnh, đứng tay chống nạnh, mắt ngó vòng trong lớp, rồi kêu mà nói rằng: "Trò Hòa bước ra đây coi nào".
Trò Hòa là con của thầy Cai tổng Cao, mới mười sáu tuổi mà vóc vạc cao lớn, mập mạc như trai mười tám, mười chín tuổi, trò thủng thẳng bước lại đứng dựa nính đầu bàn lõ cặp mắt mà ngó, không xá ông Ðốc mà cũng chẳng chào cha. Ông Ðốc thị oai nói rằng: "Học trò, học vè gì mà vô phép vậy nà!". Trò Hòa bị rầy mới chịu chấp tay mà xá một cái, song xá bông lông không biết xá ai, laïi cũng không biết cúi đầu.
Ông Ðốc day lại mà hỏi thầy nhứt rằng: "Sao thầy không dạy học trò cho biết lễ phép vậy? Tiên học lễ hậu học văn. Dạy chữ mà cũng phải dạy lễ nữa mới được chớ".
Thầy nhứt đáp rằng: "Thưa ông, tôi có dạy đủ hết. Lễ phép tôi dạy hằng ngày. Trong lớp duy có trò Hòa này khó quá, trò cứng đầu cứng cổ, chẳng bao giờ chịu nghe lời tôi. Trò trốn học ở nhà hoài. Còn đi học thì chẳng có bữa nào trò thuộc bài. Tôi rầy, tôi phạt hết sức cũng vậy: mà tôi còn nghe trò nói lén với chúng bạn rằng: "Thầy giáo làm phách, tao không thèm học, ngày sau tao cũng sướng, tao cũng sang hơn thầy nữa".
Thầy Cai tổng tằng hắng một tiếng mà nói rằng:
- Thầy nhứt nói vậy tôi xin đỡ lời thầy. Thầy nói trong lớp duy có một mình con tôi khó ăn khó dạy, chớ chẳng có trò nào như vậy, té ra các trò kia là con thánh hiền hết thảy, còn con tôi là con du côn hay sao?
- Thưa thầy, tôi đâu dám nói vậy. Vì có lời ông Ðốc quở, nên tôi phải tỏ thiệt tánh tình của trò Hòa cho ông Ðốc nghe đó chớ. May bữa nay có thầy lại đây, tôi xin cho thầy biết rằng trò Hòa đi học mà chơi, chớ trò không cố chút nào hết. Xin thầy la giùm trò, chớ học như trò đó, thì thà là ở nhà đi chơi, còn có ích hơn là đi học.
- Thầy dạy học trò không nên thân, thì lỗi tại thầy, sao thầy lại mét với tôi? Thằng con tôi thủơ nay dễ ăn dễ dạy, năm ngoái ở lớp nhì nó học khá lắm. Tại sao năm nay thầy dạy mà rồi nó ra như vậy? Tôi biết rồi, thầy cố tình ghét riêng con của tôi, tại nó là con Cai tổng nên thầy ghét. Thầy ghét đến nỗi thầy bày mỗi buổi chiều dạy thêm một giờ, ai học cũng được hết, duy có con của tôi thầy không cho học.
Ông Ðốc xen vô mà hỏi thầy nhứt rằng: "Tại sao thầy dạy riêng mà thầy không cho trò Hòa học, nên trò về trò mét với thầy Cai vậy?"
Thầy nhứt cười mà đáp rằng: "Tôi không cho học bao giờ đâu? Tôi bày mỗi buổi chiều tôi dạy riêng thêm một giờ là cốt dọn ôn bài vở và kềm thúc ít ngày đặng học trò đi thi. Tôi dạy mỗi bữa rày, cả lớp đều ở lại học thêm hết thảy, duy có một mình trò Hòa hễ chiều tan học là trò bỏ đi về trước. Tôi lấy làm lạ, tôi hỏi trò thì trò nói rằng năm nay không được đi thi nên trò không thèm học trễ làm gì".
Ông Ðốc chận lại mà hỏi thầy nhứt:
- Ai nói trò Hòa không được đi thi?
- Thưa, tôi nói.
- Sao thầy nói như vậy? Tôi làm Ðốc học, quyền cho đi thi hay là không cho đều tự nơi tôi, sao thầy dám trộm quyền của tôi mà nhứt định như vậy. Thầy nói bất tử làm cho con nít thói chí nó học sao được.
- Thưa, cho học trò đi thi thì phải chọn lựa những trò đủ sức, thi chắc đậu, sẽ cho đi. Trường mình mới thi lần đầu, lại cần phải lựa cho gắt, đi mấy trò phải đậu đủ mấy trò mới được, chớ đi đông rồi rớt hết thì có ích gì.
- Chuyện đó về quyền của tôi, để ít bữa rồi tôi sẽ nhứt định. Mà dầu thế nào cũng phải cho trò Hòa đi thi.
Thầy nhứt Phát cười mà nói rằng: "Cái đó tự ý ông... Nhưng mà tôi dám đoán trước trò Hòa đi thi, thì trò rớt".
Thầy day lại mà hỏi trò Hòa rằng: "Trò Hòa, tôi không cho trò học thêm buổi chiều hồi nào, mà trò về mét với thầy Cai rằng tôi không cho trò học?"
Trò Hòa ú ớ rồi nói nhỏ nhỏ rằng: "Bữa hổm..." Thầy nhứt giận quá, thầy nạt rằng: "Hôm nào?" Thầy day lại hỏi hết học trò trong lớp coi có ai nghe thầy cấm không cho trò Hòa học thêm hay không. Cả lớp đều nói không nghe thầy cấm, mà có nhiều trò lại còn nói nghe trò Hòa nói chắc không được đi thi, nên không thèm học thêm uổng công.
Thầy nhứt Phát ngó thầy Cai tổng mà nói rằng: "Ðó, thấy hay không? Ðã làm biếng học mà còn kiếm chuyện nói láo nữa". Thầy lại day qua phía trò Hòa đứng mà nói rằng: "Trò Hòa, tội trò nói láo, tôi phạt trò hai tuần lễ, mỗi bữa học phải ở lại nữa giờ, sớm mơi cũng vậy, chiều cũng vậy, đặng cho trò tởn mà bỏ cái thói vu oan cho kẻ bề trên".
Thầy Cai tổng Cao có con không nên thân, đã không chịu học, lại còn nói gian cho thầy giáo, nhưng mà thầy không chịu nhận lỗi của con, nghe thầy giáo phạt con, thầy nổi nóng mà nói rằng: "Hòa, thôi trả sách cho ông Ðốc mà đi về. Về liền bây giờ đây. Về giữ trâu mà ăn, không học hành nữa mà làm gì".
Thầy Cai và nói và đi ra cửa. Ông Ðốc Tâm đi theo mà nói rằng: "Xin thầy đừng có nóng. M. Phát tuổi đáng con cháu, thầy phiền làm chi". Thầy Cai đáp rằng: "Con tôi có cần gì phải học trường này đâu. Tôi đem nó qua Trà Vinh học trường tỉnh, hay là đem nó lên học mấy trường tư trên Sài Gòn cũng được vậy mà. Thầy giáo nhứt làm phách, thầy khinh khi tôi quá. Ðể tôi lại quận tôi thưa cho thẩy con tôi".
Trò Hòa ôm sách vở đi ra cửa mà theo thầy Cai, đi ngang mặt thầy giáo nhứt, trò không thèm cúi đầu; thầy nhứt Phát giận đỏ mặt, nhưng mà thầy cười, rồi tiếp cắt nghĩa bài cho học trò như thường, dường như chẳng có chuyện chi hết.
Một lát, ông Ðốc trở lại kêu thầy nhứt Phát qua phòng giấy cho ông nói chuyện. Ông Ðốc bộ quạu lắm, ông kéo ghế mà ngồi rồi lật sổ mà coi, để thầy nhứt đứng chờ trân trân. Cách một hồi lâu, ông mới nói rằng: "Thầy bậy quá! Thầy làm cho thầy Cai phiền, bây giờ thẩy sanh chuyện đó, thầy thấy hay không?
Chiều nay tan học, thầy phải qua nhà thẩy mà xin lỗi."
Thầy nhứt Phát châu mày đáp rằng:
- Bẩm ông, tôi có lỗi gì mà xin. Thầy Cai tổng là người lớn, mà thẩy vô lễ với tôi, lẽ thì thẩy phải xin lỗi với tôi, chớ sao tôi lại xin lỗi với thẩy.
- Thầy không chịu dạy con thẩy, thẩy tới thẩy thưa với tôi. Thầy đã không nói tiếng chi cho mát ruột thẩy, mà trước mặt thẩy, thầy lại hành phạt con thẩy. Thầy làm như vậy là ý thầy muốn nhục thẩy. Thẩy là một vị Cai tổng, mà trước mặt học trò, thầy nhục thẩy như vậy, sao mà thầy gọi rằng không có lỗi.
- Ông nói như vậy thì hiếp tôi quá! Hồi nãy ông thấy rõ ràng, trò Hòa đã làm biếng học mà lại còn kiếm lời láo xược mà mét với cha mẹ đặng vu oan cho tôi. Nếu thầy Cai tổng là người biết phân biệt phải quấy, thì hồi nãy thẩy trừng trị con thẩy liền, hoặc biểu nó xin lỗi tôi mới phải. Thẩy lại binh con, nói nặng nhẹ tôi rồi biểu con về liền rõ ràng thẩy ỷ quyền ỷ thế coi bọn thầy giáo không ra gì hết. Tôi sợ là sợ người phải, sợ người biết điều kia, thẩy thưa đến đâu cũng được, tôi có lo gì đâu. Còn con thẩy muốn học thì tôi dạy, bằng không muốn học thì thôi, mất một tên học trò như vậy tôi không tiếc chút nào hết.
- Thầy đã quấy nát mà thầy còn nói hơi gây gổ quá vậy sao được. Tôi thường có nói với thầy, mình chẳng nên mích lòng người lớn. Mình chống cự với người ta thì người ta lại hại mình như chơi, chớ mình có làm giống gì người ta được. Thầy Cai ở đây thẩy thân thiết với quan Chủ quận lắm, mà thẩy lại quen với quan Giám đốc nữa. Thầy chọc thẩy đây, tôi sợ thẩy đi thưa cùng hết, rồi thầy bị quở, mà tôi cũng mang tiếng nữa chớ.
- Xin ông đừng lo. Thẩy thưa tôi thì tôi trả lời. Thẩy đã lỗi với tôi, mà tôi còn phải đi năn nỉ xin lỗi với thẩy thì còn gì là cái nhơn phẩm của tôi, còn cái gì danh giá của ty giáo huấn. Nếu thẩy thưa mà quan trên không xét cho kỹ, trở lại phạt tôi thì tôi cũng vui lòng.
- Thầy như em út, tôi thấy tôi thương, nên tôi chỉ đường phải nẻo quấy cho thầy biết. Nghe hay là không nghe tự ý thầy. Nếu có xảy ra việc gì, thầy đừng có trách tôi đa nghe. Thôi, thầy qua lớp mà dạy đi.
Buổi chiều, có một tên lính lại trường mời ông Ðốc với thầy giáo nhứt chừng tan học qua cho thầy quan Chủ quận nói chuyện. Ði dọc đường, ông Ðốc học nói rằng: "Thầy thấy chưa? Tôi nói hay lắm, thầy Cai đã thưa thầy rồi đó". Thầy Phát cười, nhưng mà mặt thầy có sắc lo.
Qua đến quận, quan Chủ quận hỏi ông Ðốc với thầy nhứt cái chuyện thầy nhứt làm bỉ mặt thầy Cai hồi sớm mơi và dạy phải cắt nghĩa cho thầy nghe. Ông Ðốc đáp rằng: "Việc đó không có gì. Tại hai đàng nóng hết nên sanh xích mích. Ðể thầy nhứt thuật lại cho quan lớn rõ đầu đuôi".
Thầy nhứt Phát đứng bẩm rõ ràng mọi điều, không thêm, không bớt, không bỏ xót chỗ nào hết. Chừng thầy bẩm xong thì quan Chủ quận mới nói rằng: "Thầy còn nhỏ tuổi, lại mới ra làm việc, mà coi bộ thầy không kể ai hết. Tôi khuyên thầy nên mềm mềm một chút, chớ nếu thầy cứng quá tôi sợ e phải gãy. Thôi thầy về đi".
Ðến tối, ông Ðốc cho mời thầy nhứt Phát lại nhà mà nói rằng: "Quan Chủ quận trách thầy lắm. Ngài nói thầy còn nhỏ mà thị đời quá, lại cha mẹ học trò than van cách thầy dạy; vậy thầy ráng mà giữ mình, đừng có để xảy ra việc chi đây rồi khó lắm".
Thầy nhứt Phát dám cãi lịnh ông Ðốc học, không chịu hạ mình mà xin lỗi, lại còn dám chỉ cái chỗ quấy của thầy Cai tổng ra nữa, thì đủ thấy thầy có liêm sỉ, có đởm lược, chớ không phải như bọn gan sứa miệng hùm. Nhưng mà lớp bị quan Chủ quận hăm, lớp bị ông Ðốc học dọa, nên thầy có sắc buồn lo chút đỉnh.
Bữa sau, nhằm thứ bảy, ăn cơm tối rồi, thầy nhứt Phát ngồi coi sách. Khi trời nóng nực, ngọn đèn lu lờ bụng đã buồn, trí lại lo, mà còn gặp cái hoàn cảnh trời nực đèn lu nữa, nên thầy coi sách mà không hiểu chi hết. Thầy bèn dẹp sách rồi bước ra đường, đi qua đi lại mà hứng mát. Chơn bước thủng thẳng, trí nghĩ gần xa, thầy nhớ cái chuyện thầy Cai tổng khinh bỉ thầy, nhớ những lời quan Chủ quận quở trách, thì thầy ấm ức trong lòng. Thầy muốn kiếm người thân thiết mà bày tỏ tâm sự, hả hơi chút ít cho giảm bớt nỗi phiền, mà bây giờ biết tỏ với ai?
Những người làm việc nhà nước như mấy thầy giáo thầy ký, ông Phán dây thép, thì ai cũng lợt lạt với thầy, nói cho họ nghe cũng không ít gì. Còn Hương chức thảy đều là người phục sự của thầy Cai tổng nói cho họ nghe bao giờ họ nói mình phải. Thầy tính viết thơ mà nói cho người anh ở Sài Gòn biết, rồi thầy nghĩ việc nhỏ mọn nói cho anh hay, sợ anh lo. Còn nếu viết thơ cho thầy giáo Phùng ở Vĩnh Long, thì lại e thầy không rõ căn nguyên rồi thầy trách mình nóng nảy.
Thầy nhứt Phát đang suy tới xét lui, thình lình thầy gặp thầy Hội đồng Bành Ðại Lợi, mặc đồ mát, ở phía chợ đi về. Thầy Hội đồng thấy thầy giáo thì đứng lại bắt tay chào rồi hỏi nho nhỏ rằng: "Tôi mới nghe nói ngày hôm qua thầy Cai tổng binh con, vô trường cự với thầy sao đó, rồi qua quận mà thưa làm cho quan Chủ quận kêu mà quở thầy, có vậy hay không?
Thầy nhứt gượng cười mà đáp rằng:
- Có. Ai nói với thầy mà thầy hay lẹ vậy?
- Ngoài chợ họ hay hết, ai cũng đồn rùm.
- Họ đồn làm sao? Họ cho tôi quấy hay là thầy Cai quấy?
- Có hai ba người nói chuyện với tôi hồi nãy thì ý họ cho thầy quấy. Họ nói thầy nhỏ mà không biết kiêng nể người lớn, nên mới sanh sự bị quở. Ðời này thiên hạ khốn nạn lắm thầy ơi! Ở trên thì cậy thân ỷ thế, ở dưới thì đua bợ nịnh tà, họ kể tiền bạc, họ trọng oai quyền, chớ có ai biết chi là phải quấy. Họ thấy thầy còn nhỏ, nên họ coi thầy không ra gì, chớ có chi lạ... Ở ngoài đường ngoài sá nói chuyện cũng bất tiện. Vậy tôi mời thầy đi qua nhà tôi nói chuyện chơi. Ði mà, bữa nay thứ bảy mà ngại gì.
Thầy nhứt Phát dụ dự. Thầy Hội đồng Lợi bèn nói tiếp rằng: "Hồi thầy đổi lại đây tới bây giờ, thầy chưa tới nhà tôi lần nào. Qua chơi một lần cho biết nhà. Tôi ở bên đầu cầu sắt đây. Ði mà, qua bển rồi thuật rõ đầu đuôi chuyện của thầy cho tôi nghe thử coi."
Thầy nhứt Phát ấm ức, tính kiếm người thân thiết mà tỏ tâm sự. Thầy gặp thầy Hội đồng Lợi, tuy thầy không quen cho lắm, nhưng mà thấy người tỏ dấu niềm nở, lại nghe người tỏ lời ái truất, muốn biết rõ tâm sự của mình, bởi vậy thầy không dụ dự nữa, theo thầy Hội đồng mà đi.
Thầy Hội đồng Bành Ðại Lợi vốn là con cháu khách, năm nay thầy lối năm mươi tuổi. Qua cầu rồi, đi chừng vài trăm thước thì tới nhà thầy. Thầy ở một cái nhà trệt ba căn hai chái, rộng lớn, cao ráo, nền đúc đá xanh, tường xây gạch thức, trước sân kiểng vật sum sê, ngoài ngõ rào sắt nghiêm chỉnh, có trâu bò mấy bầy, mà lại có ngựa cỡi đi coi ruộng nữa.
Bước vô nhà, thầy kêu con trai lớn tên là Hai Lộc chừng hai mươi lăm tuổi, mà biểu mở cửa giữa, đốt đèn măng sông. Thầy mời thầy giáo nhứt ngồi rồi nói rằng: "Thằng này là con trai lớn của tôi, nó có vợ, có con rồi. Tôi còn bốn đứa nữa: một đứa con gái gả lấy chồng về bên Bắc Trang, một thằng con trai học trên Sài Gòn, và hai đứa nhỏ, con gái mới bốn năm tuổi".
Cô Hội đồng ra chào thầy nhứt. Thầy Hội đồng dặn nho nhỏ, biểu làm gà nấu cháo ăn chơi.
Chừng đèn măng sông đốt sáng, thầy nhứt ngó trong nhà thì thấy bàn ghế tài vật món nào cũng xứng đáng.
Có một người đàn ông sồn sồn, thân thể ốm teo, bưng nước trà ra đãi khách, rồi đi vào bộ dán dựa chái là chỗ có để một mâm á phiện, quẹt hột quẹt, đốt đèn lên. Thầy Hội đồng cười mà nói với thầy nhứt rằng: "Tôi có bịnh hút á phiện, mỗi ngày tôi hút tới ba bốn đồng. Vậy tôi xin mời thầy đi ngay lại mâm hút rồi anh em mình nằm đàm đạo chơi".
Hai người dắt nhau lại mâm á phiện, trẻ ở trong nhà bưng trà theo. Thầy Hội đồng mời hết sức mà thầy nhứt không chịu nằm, thầy nói ngồi chơi cũng được. Người làm thuốc làm rồi điếu thuốc, thầy Hội đồng hỏi rằng: "Thầy muốn hút chơi hay không?" Thầy nhứt sợ cái bịnh ghiền lắm, bởi vậy thầy lắc đầu đưa tay mà nói lia lịa rằng: "Không! Tôi không dám đâu".
Thầy Hội đồng cười mà nói rằng: "Thiệt a, nếu không biết hút thì chẳng nên tập làm chi. Cái bịnh này khốn nạn lắm. Có tiền chẳng nói gì, chừng mình hết tiền, cái thân thiệt là đê tiện".
Thầy Hội đồng hút luôn một giọt đến năm sáu điếu coi bộ đã, rồi thầy mới nghồi dậy mà hỏi thầy nhứt về chuyện xảy ra ở trường học hôm qua và xin thầy nhứt thuật hết đầu đuôi cho mình nghe thử.
Thầy nhứt ngồi thuật chuyện rõ ràng mọi điều cũng như thầy thuật lại với quan Chủ quận nghe bữa trước.
Thầy Hội đồng nghe rồi nói rằng: "Nếu vậy thì thầy Cai có con hư, đã không biết trừng trị nó mà còn nghe lời nó rồi nói tầm vấy mích lòng thầy. Thầy Cai lỗi, chớ thầy có lỗi gì mà ông Ðốc ép thầy xin lỗi. Còn thiên hạ họ vô duyên quá! Vậy mà họ đồn bậy bạ, họ nói thầy nhỏ mà không kiêng nể người lớn nên bị quở chớ! Ối! Cuộc đời vậy đó, thầy không hơi nào mà buồn. Thầy còn nhỏ, tôi khuyên thầy ráng dằn lòng bền chí, bất luận là làm thế nào, cách nào miễn là được giàu, được sang, rồi dầu thầy làm ác họ cũng nói làm lành, dầu thẩy làm làm quấy họ cũng nói làm phải, chớ bây giờ dầu thầy hay mấy họ cũng chê thầy dở, dầu thầy phải mấy họ cũng cho là quấy."
Thầy nhứt Phát nghe mấy câu trách đời ấy như khêu gợi lòng uất ức của thầy, bởi vậy thầy thở dài rồi nói rằng: "Thầy nói tôi nghe thiệt phải lắm. Tôi đổi lại dạy học tại đây đã tám chín tháng rồi. Ðối với mọi người, dầu lớn hay nhỏ cũng vậy, tôi giữ lễ luôn luôn, chẳng hề mích lòng ai, mà chẳng hề nói động tới ai hết. Rất đổi là anh em bạn trong ty giáo huấn tôi còn cung kính người ta thay, có đâu tôi dám làm phách với người lớn. Về phận sự dạy học của tôi thì tôi giữ tròn, ông Ðốc chẳng hề đút miệng trách chỗ nào được. Còn về bề cư xử thì tôi cũng giữ kỹ lưỡng, chẳng hề khi nào tôi gần chỗ hư, hay là chơi vô ích, hay là làm nhơ nhuốc. Tôi ở vậy đó mà thiên hạ họ ghét tôi mới kỳ... Vì nãy giờ tôi thấy thầy có ý thương tôi, tôi nghe thầy nói lời công bình, vậy tôi mới dám tỏ hết công chuyện cho thầy nghe. Lúc tôi mới đổi lại, mấy thầy và Hương chức cứ theo rủ tôi đánh bài bạc. Tôi không biết đánh, tôi không chịu tập, nên tôi không thèm coi, họ rủ ren quyến dụ không được, rồi họ nói tôi làm phách. Ông Hương sư mời đám giỗ. Ăn rồi khách khứa bài bạc đủ thứ. Tôi không thích cuộc chơi như vậy, nếu tôi ở thì tôi ngồi trơ trơ một mình coi cũng kỳ, nên tôi bỏ ra về. Họ lại trách tôi là người bất cận nhơn tình. Tôi đến nhà thầy giáo Thủ tôi thăm, tôi không dè thầy có em vợ. Thẩy biểu em vợ ra chào tôi. Cách vài ngày người ta đồn rùm rằng tôi đi nói em vợ thầy giáo Thủ. Tôi không có ý đó, nên tôi phải đính chánh cái tin huyễn hoặc ấy. Thầy giáo Thủ lại trở lại giận tôi. Hôm lễ sanh nhựt, anh em bày hùn tiền mướn ghe đi du hồ. Tôi sợ người ta nói tôi kiêu, nên tôi mới hùn tiền như thiên hạ. Chẳng dè ghe kêu lui ra khỏi chợ một đỗi rồi ghé rước ba con điếm đem theo, trửng giỡn rầm rầm, coi tồi bại hết sức. Tôi không chịu xen vào cái cuộc chơi khiếm nhã như vậy, tôi ngồi dang ngoài xa, họ lại trách móc tôi làm bộ Tiên Phật, làm cho họ mất vui. Còn về cái phận sự của tôi thì tôi cần mẫn, mỗi việc đều ngay thẳng vuông tròn, hôm qua thầy Cai lại mắng tôi, biểu con về, không cho học nữa, rồi lại thưa kiện tôi, nói tôi không kiêng nể người lớn. Thầy nghĩ đó coi có đáng buồn hay không? Tôi biết mấy tháng nay người ta không ưa tôi, tôi không đi chơi đâu hết, cứ ở nhà đọc sách. Thế tình khó quá, không biết làm sao cho vừa lòng thiên hạ được!"
Thầy Hội đồng Lợi ngồi chăm chú mà nghe, chừng thầy nhứt nói dứt rồi, thầy mới nằm xuống hút một điếu, kéo ống nghe ro ro. Kéo hết điếu thuốc, thầy ngồi dậy phà khói và nói rằng: "Thầy không biết làm sao cho vừa lòng thiên hạ? Thầy phải đánh bài bạc như họ, phải hút á phiện với họ, phải cướp giựt gian lận như họ, thì tự nhiên họ ưa chớ có khó gì".
Thầy Hội đồng rót một chén nước tra mà uống rồi thầy chậm rãi nói tiếp rằng: "Chẳng giấu gì thầy, tôi đây cũng vậy, hồi đó người ta ghét tôi lung lắm. Tôi dại quá, tại tôi muốn cho người ta thương, tôi làm theo người ta, tôi để cho họ lột da tôi, bây giờ tôi mới nguy như vầy. Thầy là anh em, mà ở đây cũng không có ai lạ, vậy để tôi thuật sơ việc nhà của tôi cho thầy nghe. Ông già tôi qua đời, có để lại cho tôi năm mươi mẫu ruộng. Vợ chồng tôi lam lụ làm ăn, cần kiệm hết sức. Nói cho phải, nhờ Trời Phật phò hộ, nên làn ăn càng ngày càng khá, cho vay đặt nợ chỗ nào họ cũng trả lời vốn đủ hết. Từ năm 1920 trở lại sau nhờ giá lúa cao, lại nhờ trúng mùa luôn luôn, nên tôi làm giàu ngay, chớ không phải khá mà thôi. Tôi cất nhà cất cửa lại, mua ruộng mua đất thêm, lần lần tại Tiểu Cần đây tôi đứng bộ tới một trăm năm mươi mẫu ruộng ngoại hạng, mà tôi lại có mua bên Phước Long được một sở năm trăm mẫu nữa. Mấy năm trúng mùa, tôi góp lúa từ hai mươi tám tới ba chục ngàn giạ, chớ phải ít hay sao. Họ thấy tôi tiền bạc lúa thóc nhiều, họ tới rủ ren nhiều việc kỳ cục lắm. Tôi nghĩ phận tôi là con cháu khách, phần thì chữ quốc ngữ tôi biết cọt quẹt chớ không giỏi, quan trên thương cho làm chức Hương bộ mấy năm cũng vừa rồi, bởi vậy ai bàn việc gì tôi cũng không chịu, cứ thủ phận quê mùa làm ăn. Có người họ xúi tôi mua chức Ban biện, họ nói rằng có của cải mà không có chức phận thì thiên hạ khinh khi. Tôi có nói khinh khi mặc ai, phận tôi quê dốt, tôi không dám đèo bòng. Họ xúi giục không được, họ trở lại ghét tôi, cả làng không ai thèm lui tới nhà tôi nữa, cách họ làm dường như họ tẩy chay tôi vậy. Phận tôi không cần gì, cơm mình mình ăn, nhà mình mình ở, ai thương ghét mặc ai. Ngặt vì vợ tôi cứ theo cằn nhằn, bả nói ở đời người ta sao mình vậy coi mới được, chớ mình ỷ có tiền rồi không giao thiệp với ai hết, thì thiên hạ họ khi dể. Tôi thấy đờn bà muốn như vậy, tôi cũng chìu lòng. Nhơn dịp gả con gái tôi lấy chồng, tôi mới đặt một tiệc rất xứng đáng, mời hết Hương chức tân cựu và điền chủ, tôi lại chịu lòn năn nỉ mòi cho được quan Quận, thầy Cai và thầy Ban. Ba viên quan này chịu đi, thì Hương chức và điền chủ ai cũng đi hết thảy. Nhờ cái tiệc đó giả lả, nên kết tình thân thiết với anh em trong làng lại được. Từ đó về sau họ mới tới lui, họ mới hết ghét tôi nữa và tôi mới bắt đầu thọ hại!"
Thầy Hội đồng nằm xuống hút hai ba điếu nữa. Thầy nhứt Phát đương bị người ta ghét mà nghe thầy Hội đồng Lợi nói thẩy hồi trước cũng bị như mình, sau thẩy làm cho người ta thương mới bị hại, thì lấy làm lạ, nên ngồi trông thẩy nói tiếp coi chuyện ra thể nào.
Thầy Hội đồng ngồi dậy, vén bắp vế mà gãi, rồi cười mà nói: "Bây giờ tôi mới biết ở đời sự thương hay là ghét của thiên hạ không nghĩa lý gì. Thầy nghĩ đó mà coi, họ ưa tôi, họ báo tôi không biết bao nhiêu. Thầy biết chú Hương thân cầm cái tiệm ở trước nhà việc hay không? Ớ, cái chú đó lếu lắm. Chú làm thông tin cho nhựt trình, nhựt báo gì đó không biết, mà chú cứ qua nhà xúi tôi mua một năm. Tôi nghĩ một vài chục đồng bạc cũng không bao nhiêu, nên tôi vị tình mua giùm cho chú. Chú ăn quen tới lui chơi hoài, khi thì xin tiền gởi cầm giúp cho ai bị bão lụt ở đâu không biết, khi thì chú dắt khách ở đâu lạ hoắc tới nhà rủ hùn lập tiệm lập hãng, hoặc in sách in vở gì đó, khi thì chú đem nhựt trình đến đọc cho tôi nghe mấy cái bài người ta khen ngợi tôi, nói nhà tôi giàu mà ham làm việc công ích, biết thương người đồng chưởng, biết bồi đắp quê hương. Thiệt tôi có biết công ích, tôi có biết đồng chưởng, tôi có biết quê hương là giống gì đâu, mà sao nhựt trình họ khen bướng như vậy không hiểu. Mà đờn bà của tôi nghe thế bả chịu lắm, lại chú Hương thân Cầm cái văn nói của chú thiệt là hay, nên khi thì tôi đưa vài ba chục mà giúp, khi thì tôi đưa đôi ba trăm mà hùn, những tiền tốn hao như vậy đó mỗi năm tính cũng có tới năm bảy trăm chớ có ít đâu. Mà sự tốn hao đó cũng chưa bao nhiêu. Có cái trận này tôi mới tốn thiệt nặng. Ðể tôi nói cho thầy nghe coi phải họ thấy tôi có tiền họ bày chuyện mà xẻ tôi hay không. Một bữa nọ, thầy Cai tổng viết giấy sai tùng giả đem mà mời tôi. Tôi lật đật đi hầu. Thầy Cai mới nói rằng trong tổng sẽ mở cuộc tuyển cử Hội đồng địa hạt, nghe lại thì có một mình Hương chủ Thống ở làng Hiếu Tử ra tranh cử mà thôi. Vả thầy dọ ý cử tri các làng thì phần đông không chịu bỏ thăm cho Hương chủ Thống, họ nói thằng cha đó gắt gao độc ác, không đáng mặt đại biểu của dân, và họ ước ao cho tôi ra tranh cử thì họ bỏ thăm cho tôi hết thảy, vì họ biết tôi tuy giàu có mà sẳn có lòng lo công ích. Thầy Cai khuyên tôi phải ra mặt đặng cho vừa lòng Hương chức các làng, thầy làm đầu giúp đỡ một việc hết thảy, không có sao đâu mà ái ngại. Tôi tỏ thiệt với thầy Cai rằng tôi quê mùa dốt nát, không xứng đáng làm chức Hội đồng, nên tôi xin thầy chọn người khác. Thầy làm mặt giận, tôi sợ quá nên tôi xin với thầy để tôi về bàn tính việc nhà rồi tôi sẽ trả lời. Thầy ừ mà lại dặn tôi về biểu đờn bà của tôi qua hầu thẩy đặng thầy dạy việc. Tôi về nói chuyện lại cho vợ con hay. Ðờn bà của tôi rầy quá, bả nói thầy Cai thẩy thương thẩy muốn giúp tôi, sao tôi không chịu, làm bỉ mặt thẩy đây thẩy giận đố khỏi mang khốn. Bả liền che dù qua hầu thầy Cai. Thầy Cai nói với bả sao đó không biết, mà bả về bả cự với tôi, bả nói thầy Cai rầy quá nên bả chịu rồi, vậy phải lo ra tranh chức Hội đồng, đừng có từ chối gì hết. Bả lại nói thầy Cai hứa làm đơn và xin giấy tờ giùm cho, thầy cũng kiếm người trong mỗi làng đặng nói giùm với cử tri cho nữa. Thiệt quả, chiều có Biện tổng đem đơn xin ra mặt qua mà biểu ký tên và nói sáng bữa sau sẽ đi Trà Vinh mà xin sao lục án Tòa giùm. Cách vài ngày các Hương chức tới nhà tôi rần rần. Lớp thì lo đãi đằng, lớp thì chịu tiền xe, tốn hao hung quá. Gần tới ngày tuyển cử, họ nói Hương chủ Thống quyết ăn thua, nên ra tiền mua thăm hung quá, mỗi lá thăm giám mua tới hai chục, hăm lăm đồng. Vợ chồng tôi bàn tính với nhau, Hương chủ Thống không phải giàu hơn mình mà nó giám làm như vậy, lẽ nào mình lại nhịn thua nó. Tôi cũng phải mua thăm. Bữa cử, tôi hơn Hương chủ Thống được mười hai lá thăm, tôi đắc cử. Cha chả! Mà tốn hao nặng quá. Về đãi đằng, về mua thăm, về đền ơn nghĩa chỗ này, chỗ kia, cọng hết thảy non tám ngàn đồng!"
Thầy Hội đồng nói tới đó rồi thầy lắc đầu cười và hỏi thầy nhứt rằng:
- Thầy coi có phải tôi dại hay không?
- Có dại gì đâu, muốn có chức phận với người ta thì phải tốn tiền chớ sao. Ðời này ai cũng phải vậy.
- Làm Hội đồng địa hạt mỗi năm đi hội có vài lần, chớ có quyền hành gì đâu mà tổn hao lung quá.
- Phải. Trong cuộc tuyển cử mà bày mua bán thăm là một điều không tốt. Mà lại tranh giành với nhau, tự nhiên sanh cái tệ ấy, biết làm sao. Thôi có tốn hao chút đỉnh thầy mới được ăn trên ngồi trước, chớ ông Hương chủ gì đó ổng cũng hao tiền, mà ổng thất cử đó sao.
- Thầy đừng có nói chuyện ăn trên ngồi trước! Nói tới tôi còn buồn nữa. Tại cái ăn trên ngồi trước đó tôi mới nguy. Rồi cuộc tuyển cử, họ bày cho tôi đãi tiệc mà tạ ơn cử tri. Nhơn cái dịp đó, Hương chức ác làng ai cũng khoe có công giúp tôi hết thảy, ai cũng xưng là anh em thiết của tôi. Ðãi tiệc tốn hao chẳng nói gì. Ngặt vì từ đó về sau anh em quen biết đông quá, đầu này mời đám giỗ, đầu nọ mời đám cưới, đi riết rồi bày chơi bời bài bạc, hùn lập ngành thầu hốt mê, nhiều người mượn bạc tiền không chịu trả, có người lại cậy đứng giấy bảo lãnh nợ giùm nữa. Chẳng giấu chi, mấy năm nay đất tôi bên Phước Long bị thất mùa luôn luôn, phần lúa không có giá, nên tôi mắc nợ bộn mà không trả nổi. Trong số nợ đó, gần phân nửa là số tôi bảo lãnh cho người ta.
- Nợ lãnh là nợ của mình. Thầy bảo lãnh chi vậy?
- Thì thấy anh em năn nỉ quá, biết làm sao. Họ cần dùng tiền, họ tới năn nỉ mình bảo lãnh giùm cho họ vậy. Mình thấy họ có nhà có đất chắc chắn, thếᠮào họ cũng trả nổi, có sao đâu mà sợ. Ai dè có người thì bị thiếu nợ nhiều chỗ khác nữa, điền đất đã cầm cố cho chủ nợ trước rồi, nợ trả không nổi, chủ nợ trước thì hành phát mãi lấy hết đi. Còn có người vay rồi, lại lén bán đất mà trốn đi mất. Mình bảo lãnh, đỗ đục về mình phải chịu, chớ biết làm sao. Tôi nghĩ lại thiệt tôi dại lắm. Tại tôi muốn cho họ thương, nên tôi mới mang nợ mang nần, chứ nếu tôi giữ chức Hương bộ cựu, không cầu ai khen, dầu ai thương, ai ghét thây kệ, thì tôi sung sướng lắm. Mà thầy biết mấy năm nay tôi mắc nợ, trong nhà bẩn chật, rồi thiên hạ ở với tôi làm sao không? Họ coi tôi không ra gì hết. Ðó, như bên Hương sư Lầu đám giỗ họ có mời tôi đâu.
- Không có mời thầy hay sao?
- Không. Họ biết hai năm nay tôi thua nhiều, còn tiền bạc gì mà mời. Thầy thấy nhơn tình như vậy hay không? Thiên hạ xấu lắm thầy ơi! Ai cũng là "thằng điếm" hết thảy, bất luận là họ nói tiếng chi, hay họ làm việc chi, họ đều tính cho có lợi hết thảy. Tôi đã có kinh nghiệm rồi, nên tôi chỉ giùm cho thầy tránh. Thầy chẳng nên tin ai. Họ ghét thầy là vì họ lột da thầy không được nên họ mới ghét. Họ thương thầy là vì họ có lợi nên họ mới thương. Ấy vậy ở đời này mình cần lo giữ cái túi của mình trước hết đã, rồi sau sẽ nói chuyện thương ghét.
- Tôi mới bước chơn vào đường đời mấy tháng nay, mà tôi thấy nhiều việc tôi chán ngán rồi. Nay tôi nghe lời thầy nói chuyện nhơn tình nhiều chỗ đê tiện nữa thì tôi càng thêm buồn. Vậy thì cái nền luân lý của nước tôi đã suy sụp rồi còn gì!
Hai người đàm luận tới đó, kế con thầy Hội đồng lại mời đi ăn cháo. Hai người đồng một bịnh uất về thế tình nên coi bộ tâm đầu ý hiệp lắm.
Ăn cháo gà rồi, thầy nhứt Phát từ mà về. Thầy Hội đồng Lợi biểu bạn xách đèn lồng đưa thầy giáo và khi ra cửa, thầy đặn nói rằng: "Thầy có buồn, tôi qua bên này đàm đạo chơi nghe hôn thầy nhứt. Tôi với thầy coi bộ hiệp ý với nhau lắm..."