Năm này giống như những năm về trước, mà xem kỹ lại cũng không khác với mấy năm về sau đây.
Năm đó đến tiết tháng hai, ở vùng ôn đới người ta gọi là mùa xuân. Trong tiết ấy người ta nở nang sinh lực dưới bầu trời sáng lạng và thanh khí mát mẻ nhẹ nhàng. Người ta say sưa trước cảnh cây sum sê chồi lá, non sông hớn hở vui cười. Trong vườn bá hoa đua nở chào xuân; ngoài ngỏ vạn vật khoe tươi chờ khách.
Nam Việt ta nằm nhằm vùng nhiệt đới, bởi vậy qua tiết tháng hai thì thiếu cảnh xuân tốt tươi mát mẻ đó. Ban ngày, hễ mặt nhựt lên cao, thì chói chang nóng như đổ lửa làm cho cỏ cây khô héo, con người nực hầm. Trong chốn đồng áng, nhờ ngọn gió chướng đẩy đưa phá tan hơi nóng, người ta được hưởng mát mẻ ít nhiều, chớ ở tại thủ đô Sài Gòn hay ở vùng ngoại ô cũng vậy, ngồi trong nhà như ngồi giữa lò, đi ngoài đường như đi dưới ngọn lửa.
Phải sống với cảnh đời cực khổ mệt nhọc đó, bởi vậy thi sĩ cũng như lao công, cả thảy đều thích mặt trăng chớ không ưa mặt trời, nghĩ vì sáng lạng mà nóng hầm thì khổ quá, thôi thì thà là lu mờ mà khoẻ khoắn mà dễ chịu hơn.
Tuy vậy mà nắng nóng không đủ oai thế làm cho con người kiêng nể, khiếp sợ đâu. Nắng nóng mặc nắng, đi làm vẫn cứ đi.
Hôm ấy, vừa tảng sáng, trên đường quan lộ nằm ngang qua xóm Chí Hòa, người ta đi dập dìu, tốp bảy tốp ba, người ngồi xe, kẻ đi bộ nối nhau đổ xuống Sài Gòn đặng mưu lợi cầu danh, hoặc làm công làm thợ.
Sau một đêm nghỉ khoẻ, những người ở dọc theo đường nầy thảy đều thức dậy ra sân mà hưởng thêm chút thanh khí ban mai, để lấy sức cho đầy đủ mà chống chỏi với hơi nóng sắp tới, nó sẽ hừng hực lại từ giờ thìn đến giờ dậu.
Cũng như các người khác, thầy Hai Thanh, tuổi trên sáu mươi, tóc đã bạc trắng, răng đã rụng bộn, sớm mai nầy thầy đi mấy vòng trong sân rồi thầy bước thẳng ra lộ. Trước đứng hứng mát chơi, sau xem thiên hạ đi chợ. Thầy ngó xuống phía nhà ông Ba Chánh, là bạn cố giao của thầy, trước kia làm thầy thuốc mà sanh nhai, sau nầy con ông đã giàu, tuổi ông đã lớn nên ông húng hính, dưỡng nhàn, vui với bình trà trưa sớm. Thầy Hai Thanh thấy người ta giụm năm giụm bảy đứng ngó vô sân ông Ba Chánh. Cách một lát có một chiếc xe hơi từ phía Sài Gòn chạy lên bóp kèn rồi quẹo vô sân nữa.
Thừa trời còn mát, thầy Thanh thủng thẳng lần bước xuống phía đó coi nhà ông bạn có việc chi mà người ta tụ tập khác thường. Vừa tới đó thì thấy giữa sân có 2 chiếc xe hơi đậu song song, xe mới tinh và bóng láng, một chiếc hiệu “Cheverolet” mui kiếng và một chiếc hiệu “Renault-sport”. Phía sau lại còn thêm một chiếc xe nhỏ, hiệu “Citroen”, mui sập.
Lê Thành Cang, rể của ông Ba Chánh, chủ hãng xe hơi Việt Nam dưới Sài Gòn đương đứng dựa bên xe Renault mà nói chuyện với Bác vật Hoàng là anh vợ của Bác vật Lê Thành Nghiệp.
Bà chủ hãng Huyền, vợ của Lê Thành Cang, cùng với con trai là Lê Thành Nghiệp và dâu là cô Loan, em gái của Hoàng, đương coi cho người xách hành lý ra để lên chiếc xe Chevrolet.
Lại thêm sốp phơ với thợ máy lăng xăng chung quanh mấy chiếc xe, người lau chùi mấy tấm kiếng, người kiểm điểm lại vỏ ruột.
Ông Ba Chánh là cha đẻ của bà chủ hãng Huyền, ông mặc bộ đồ trắng bằng lụa, may rộng xúng xính, đứng trong hàng ba vuốt râu mà ngó con cháu sửa soạn cuộc du lịch của vợ chồng Bác vật Nghiệp mới thành hôn tháng trước. Ngó thẳng ra đường ông thấy thầy Hai Thanh lơn tơn xuống tới, ông bèn bước dồn ra sân mời thầy vào chơi.
Vợ chồng Cang và vợ chồng Nghiệp đều niềm nở chào thầy Thanh. Cang giới thiệu Hoàng là anh của Nghiệp.
Thầy Thanh vui vẻ nói:
- Tôi biết, tôi biết Bác vật. Hôm đám cưới tôi hân hạnh nói chuyện với Bác vật rồi. Bữa nay hai anh em về Cần Thơ hay đi đâu mà đem xe ra làm rầm rộ dữ vậy?
Hoàng nói:
- Thưa ông, vợ chồng Nghiệp tính lên Đà Lạt rồi du lịch miền Trung Việt cho biết đó biết đây. Cháu theo em lên Đà Lạt nghỉ ngơi ít ngày rồi sẽ trở về lo việc làm ăn.
Thầy Thanh hỏi:
- Đi tới hai xe hay sao?
Nghiệp đáp:
- Thưa đi hai xe. Cháu biểu anh Hoàng đi chung xe cháu, anh không chịu. Anh nói đi chung thì vợ chồng cháu mất thong thả. Mà cháu nghĩ anh đi xe riêng của anh cũng phải, bởi vì lên Đà Lạt chơi ít bữa rồi anh trở về, còn vợ chồng cháu còn đi chơi nữa. Vậy anh đi xe riêng của anh, đặng muốn về có xe sẵn mà về.
Thầy Thanh ngó hai chiếc xe mà nói:
- Hai xe tốt quá, mới tinh, xe như vậy đi đâu cũng được khỏi lo chi hết, đi ra Hà Nội cũng khoẻ ru.
Ông Ba Chánh nói:
- Vậy mà con rể tôi nó còn lo ngại. Nó phải cho đi theo Nghiệp một người sốp phơ quen đi đường núi với một người thợ máy rành nghề.
Thầy Thanh nói:
- Bác vật Nghiệp cầm tay bánh giỏi lắm mà. Phụ thêm một sốp phơ cũng đủ. Xe mới cần gì phải đem thợ máy theo.
Cang nói:
- Thưa thầy vợ cháu muốn như vậy, nên cháu làm cho vợ cháu an lòng. Lại anh thợ máy nầy giúp trong hãng cháu đã gần mười năm rồi, ảnh không có nghỉ. Vậy cháu thừa dịp Nghiệp tính đi chơi một tháng, cháu cho ảnh theo đặng ảnh nghỉ.
Thầy Thanh gục gặc đầu và nói:
- Chủ hãng mà biết xét công lao của thợ thuyền như vậy thì xứng đáng lắm. Chú khen cháu đa.
Cang day lại hỏi:
- Đồ đạc đem ra xe hết hay chưa?
Cô Loan bước tới mà đáp:
- Thưa ba, sắp đặt xong hết. Con có kiểm điểm kỹ rồi.
Cang nói:
- Vậy thôi đi cho sớm. Mặt trời sắp mọc rồi.
Hoàng mau mắn từ giã ông Ba Chánh, thầy Hai Thanh và vợ chồng Cang rồi leo lên xe Renault- sport mà cầm tay bánh để sốp phơ ngồi kế bên.
Hoàng kêu Nghiệp và nói:
- Ê! Anh Nghiệp, anh chạy trước nghe hôn. Lên Biên Hoà rồi anh chờ em lên đi một lượt.
Hoàng nói rồi rồ máy, xe từ từ ra lộ rồi dông (#1) mịt. Vợ chồng Nghiệp từ giả ông ngoại, thầy Thanh rồi lên xe Chevrolet. Sốp phơ lên cầm tay bánh thợ máy ngồi một bên.
Ông Ba Chánh và thầy Thanh chúc đôi trẻ đi chơi bình an và vui vẻ. Cô Huyền dặn con nếu có cần dùng tiền bạc hay vật chi thì đánh dây thép (#2) về đặng cô gởi hoặc sai người đem ra cho.
Cang căn dặn sốp phơ phải cẩn thận rồi nói Nghiệp:
- Thôi hai con đi đi. Cứ việc vui chơi. Ở nhà ba coi chừng thợ dọn dẹp nhà cửa chọ Chừng hai con về thì dọn ở nhà mới được.
Nói dứt lời Cang khoát tay, xe chậm chậm ra lộ rồi chạy tuốt. Cang day lại từ giả thầy hai Thanh đặng đi xuống hãng. Cang kêu vợ mà nói:
- Trưa nay tôi ở luôn dưới hãng. Xế mát tôi gởi xe về cho má nó xuống coi chừng thợ dậm sửa, sơn phết nhà Nghiệp dùm tôi. Phải dặn họ làm cho kỹ lưỡng hẳn hòi, không được dối trá, rồi chiều má nó đi luôn xuống hãng rước tôi về với.
Cang lên chiếc xe Citroen cầm tay bánh mà đi một mình. Ông Ba Chánh với cô Huyền mời thầy Thanh vô nhà nói chuyện chơi. Thầy Thanh do dự. Ông Ba Chánh nói:
- Vô nói chuyện uống trà chơi mà. Tôi mới mua được hộp trà thiệt ngon. Thầy vô uống thử coi.
Thầy Thanh đi theo ông Ba Chánh mà Vô nhà. Cô Huyền kêu người nhà nấu nước sôi cho mau đặng chế bình trà mới mà đãi khách.
Thầy Thanh thầm nghĩ thú giàu sang quyến rũ quá. Làm sao mà người ta khỏi sa đắm cho được!
Nhà ông Ba Chánh ở bây giờ đây không phải cái nhà ngói nhỏ, vách ván, tuy sạch sẽ mát mẽ, song chật hẹp của cha con ông ở cách 25 năm về trước. Bây giờ là một toà nhà nằm giữa một cuộc đất rộng lớn và cất theo kiểu tân thời, bởi vậy đứng xa thì thấy dạng đồ sộ hùng hào, lại gần thì thấy vẻ nguy nga đẹp đẽ.
Thợ Cang cưới cô Huyền rồi thì gia tư càng ngày càng thêm nở nang. Ban đầu Cang mướn có một căn nhà phố mở xưởng sữa xe hơi. Cuộc làm ăn lần lần thêm phát đạt; cái xưởng nhỏ lần lần nở ra lớn, phải thêm một căn, rồi thêm một căn nữa, rốt cuộc xưởng xe hoá ra một hãng to tát, vừa bán xe mới, vừa sửa xe cũ, vừa trữ đồ phụ tùng, thợ thầy giúp việc trong hãng kể đến số chục.
Cách 8 năm trước, Cang cho con là Nghiệp đi qua Pháp học rồi Cang mới lo với bề ăn ở cho gia đình. Nhơn dịp người ta bán miếng đất nằm giáp với đất của cha vợ, Cang liền ra tiền mà mua đặng mở cuộc ở ra cho rộng lớn. Đất mua rồi, Cang với mướn vẽ bản đồ đặng cất nhà. Phải phá cái nhà nhỏ của ông Ba Chánh mà cất lại một cái nhà lớn nằm chánh giữa vuông đất, bây giờ rộng bằng hai, nhờ đã mua thêm. Phía trước có chừa một cái sân lớn cho xe ra vô thuận tiện. Phía sau nhà chánh, thì cất thêm nhà tiệc với nhà tắm riêng, rồi mới tới nhà bếp. Bên mặt thì cất nhà để xe. Bên trái thì đào một cái giếng rồi chung quanh dọn đất để làm rẫy mà trồng rau cải.
Chung quanh cuộc đều có rào giậu chắc chắn; phía dựa lộ có xây cửa lớn để ban đêm đóng lại cho kín đáo. Tiếc vì chất đất không được phì nhiêu, nên ông Ba Chánh săn sóc rất dày công, mà vườn tược coi không sung. Dựa hai hàng rào hai bên có trồng nhãn xen lộn với vú sữa, mà cây không được sởn sơ, duy có hàng tầm vông(#3) trồng chận phía sau thì lá xanh um, cây mập mạp.
Kiểu vở của nhà lớn thật cất hạp với cách ăn ở nửa cũ của đời naỵ Chánh giữa để luông tuồng từ trước ra sau nhưng phân ra làm hai chặng, chặng ngoài dọn salông để tiếp khách, còn chặng trong thì làm phòng ăn khi có khách ăn cơm. Còn hai bên thì có vách ngăn ra làm 4 phòng riêng biệt. Phía trước bên tay mặt, là phòng để thờ cúng tổ tiên, bên tay trái là phòng riêng của ông Ba Chánh. Phía sau, bên tay mặt, là phòng ngủ của vợ chồng Cang, còn bên tay trái dọn làm phòng tiếp khách, mà cũng là phòng cho Nghiệp học xong trở về nhà. Nghiệp cưới vợ rồi thì mấy tuần sau cũng chiếm mà ở đỡ phòng đó.
Thuở nay hễ thầy Hai Thanh có lại chơi thì ông Ba Chánh thường mời thầy vào phòng riêng của ông mà đàm đạo, vì trong phòng chẳng những có giường sắt để ông ngủ, mà lại cũng có đi văng (#4) cho ông nằm xem sách, có ghế xích đu cho ông nằm đọc báo, có bàn cho ông ngồi uống trà, có tủ cho ông đựng quần áo, có kệ cho ông cất sách báo, có ghế để cho ông tiếp khách.
Nhưng trái với thường lệ, bữa nay ông lại mời thầy Hai ngồi tại sa lông (salon: bàn ghế phòng khách theo lối Pháp), ông nói trời nực ngồi ngoài cho có gió mát. Cô Huyền hối trẻ rửa chén xúc bình, rồi chính tay cô lấy hộp trà ngon ra mà để trà vô bình cho vừa, đặng chế nước nóng cho cha đãi bạn.
Thầy Hai Thanh nói:
- Vợ chồng Bác vật đi xe Huê Kỳ tốt quá. Bây giờ hiệu xe đó là quí nhứt ở xứ mình, bán mắc lắm.
Cô Huyền đắc chí nên cười mà đáp:
- Gần tới đám cưới ba nó mua cho nó đó. Nó xin chiếc xe như xe cậu Hoàng đặng nó cầm tay bánh cho tiện, ba nó không chịu. Ba nó nói với cậu Hoàng không có vợ, đi đâu cũng đi một mình, nên mua xe “sport” thì trúng điệu. Nó sắp cưới vợ. Phải mua xe mui kiếng đặng vợ chồng đi, coi mới được.
Thầy Thanh nói:
- Coi bộ mông xừ Cang cưng con lắm.
- Ối thôi! Đừng có nói, thầy hai. Nó muốn giống gì cũng được hết. Có điều nó không tỏ ý muốn, mà ba nó cũng khiêu gợi, dường như xúi cho con nó muốn mới kỳ chứ.
- Có một đứa con, lại con nên, không cưng sao được.
- Nhiều khi tôi cằn nhằn, tôi khuyên nên tập cho con tiện tặn chớ đừng có tập cho nó ăn xài lớn. Ba nó nói ba nó có một mình nó. Tiền của làm ra, rồi đây cũng để cho nó hưởng chớ ai vô đây mà ăn. Nó học thành tài rồi, thì phải cho nó hưởng sung sướng lần đi chớ, cứ bó buộc đợi chừng nào mình chết rồi nó mới được hưởng thì cả một khoảng đời nó không biết hạnh phúc là gì.
- Bác vật Nghiệp có biết rõ nguồn gốc hồi xưa hay không?
- Thưa không. Có ai nói đâu mà biết. Tôi với ông ngoại nó giấu biệt chuyện xưa. Ba nó cũng không nói tới. Từ ngày nó biết đi biết nói thì ba nó ẩm tưng tiu chiều chuộng nó như con ruột. Chừng nó đi học, cần phải có khai sanh, thì ba nó ra giữa tòa nhìn nhận nó là con, tòa có lên án hợp pháp, bởi vậy không bao giờ nó có tỏ ý nghi ngại điều chi hết.
- Thôi, vậy cho xong...
Ông Ba Chánh ngắt lời thầy Thanh mà nói:
- Phải nên giấu luôn cho xuôi chuyện. Cho thằng Nghiệp biết nguồn gốc của nó, nghĩ không ích chi, mà sợ e còn sanh chuyện lộn xộn trong gia đình.
Cô Huyền nói:
- Ai nói cho nó biết, chắc ba nó giận lắm. May mấy người hồi trước ở gần đây, bây giờ họ đã tản lạc hết. Biết gốc tích của thằng Nghiệp hiện bây giờ chỉ còn có thầy Hai với cha tôi và tôi. Mình cứ giấu luôn, thì làm sao nó biết được.
Thầy Thanh vừa muốn nói thì cô Huyền chặn mà nói trước.
- Để tôi nó cho thầy Hai nghe cái cách ba nó cưng nó. Ba nó nghe cậu Hoàng có mua một cái nhà trệt, trên đường Hàng Sao, để lên xuống có sẵn chỗ mà ở. Ba nó lật đật kiếm mua cho nó một cái nhà như cậu Hoàng. Tôi cản trở, tôi nói nhà mình rộng rãi thì để nó ở chung với mình, cần gì phải mua nhà riêng cho nó; đã vậy mà nó mới cưới vợ, vợ chồng nó nên ở chung đặng tôi coi chừng và dạy dỗ vợ nó. Ba nó không chịu nghe lời tôi. Ba nó chê tôi cứ giữ thói xưa. Cưới vợ cho con rồi bắt ở đặng làm dâu. Con nó có vợ rồi thì phải cho nó ở riêng đặng nó tập làm chủ nhà, làm chủ gia đình. Ở chung với mình nó phải chiều theo ý mình, nó không có quyền tự do chút nào hết ăn cơm nó phải theo giờ ăn của mình, đi chơi nó phải xin phép mình, mua sắm vật gì nó cũng phải dọ ý mình, đời sống như vậy thì mất tự do hết, đã vậy mà vợ chồng nó có bạn hữu riêng của chúng nó. Ở chung với mình chúng nó khó mà tiếp khách. Lại ở Chí Hoà xa xuôi quá, phải để nó ở dưới Sài Gòn cho vui. Tại như vậy nên ba nó mới mua cái nhà ở đường Bạc Hà. Đương mướn thợ dặm phá sơn phết cho gấp, đặng vợ chồng nó đi du lịch chừng trở về thì dọn xuống nhà mới ở riêng, thầy Hai thấy có ai mà cưng con quá như vậy hay không?
Ông Ba Chánh nói:
- Nghiệp học ở bên Pháp 8, 9 năm, nên ý nó giống người Pháp. Hễ có vợ rồi thì muốn xuất thân lập nghiệp không muốn tùng quyền cha mẹ nữa. Bởi vậy cha nó tính mua nhà cho nó ở riêng, coi bộ nó mừng. Tuy ở riêng mà ở gần thì không hại gì mấy . Con tới lui coi chừng bề ăn ở của vợ chồng nó cho thường, thì cũng như ở một nhà. Có một điều làm cho cha lo ngại là hôm nọ Nghiệp nghe cậu Hoàng tính làm nghề thầu khoáng nó tỏ ý muốn hùn với cậu Hoàng. Cái đó cha nghĩ không nên. Ba nó giỏi máy móc song thiếu học thức. Hãng lớn quá mà phải mướn người ngoài lo việc giao thiệp, coi sổ sách, viết thư từ, nghĩa là giao trách nhiệm quản lý cho người ta, thì làm sao mà tin được. Mấy tháng nay Nghiệp về ba nó giao trách nhiệm cho nó, ba nó coi xưởng mà thôi thì xong quá. Nó muốn làm thầu khoáng thì liều lắm. Nó có nói tới chuyện đó, con phải rầy nó, khuyên nó phải coi hãng với ba nó, hãng phát đạt quá, cứ làm với hoài thì giàu to, cần gì phải sang qua nghề khác.
Thầy Thanh nói:
- Kỹ sư cầu cống thì làm thầu khoáng là phải lắm. Song làm chủ hãng xe hơi cũng được quá, đổi nghề làm chị Vợ chồng Bác vật tính đi chơi bao lâu.
Cô Huyền đáp.
- Ba nó cho đi chơi một tháng.
- Theo phong tục người Pháp, con nhà giàu sang hễ cưới vợ rồi thì vợ chồng dắt nhau đi chơi, có ít lắm cũng nửa tháng. Mà tiệc cưới xong rồi người ta đi liền, chớ không phải để hơn cả tháng rồi mới đi như Bác vật vậy.
- Ý! Hôm cưới rồi nó đòi đi liền chớ, tại cậu Hoàng cầm nó ở lại chờ cậu góp lúa và chia gia tài cho xong rồi sẽ đi. Nô-te(#5) làm tờ tương phân mới rồi, cậu Hoàng với vợ chồng nó mới ký tên hôm kia, nên mới dắt nhau đi chơi được đó.
- Nghe nói cô Bác vật là con một nhà giàu lớn dưới Cần Thơ, ruộng đất nhiều lắm, không biết chia phần cô được bao nhiêu ruộng?
- Cái đó thật sự tôi không biết. Vợ chồng tôi không muốn hỏi vì sợ con dâu nó khị Nhưng hôm qua vợ chồng nó nói chuyện với nhau, tôi nghe nói chia gia tài làm hai phần bằng nhau, số ruộng không hiểu bao nhiêu, nhưng số huê lợi mỗi nãm được 23 ngàn thùng lúa. Nhà cửa vườn tược thì để hết cho cậu Hoàng, vì cậu là con trai, nên để cậu hưởng đặng lo cúng quải ông bà cha mẹ.
- Có hai anh em đó mà thôi sao?
- Có hai anh em đó. Cha mẹ khuất sớm, mà ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại cũng không còn ai hết.
- Không biết con ai đó vậy?
- Vợ chồng tôi có biết đâu. Hoàng với Nghiệp là bạn học cùng trường bên Pháp.
Hai người thi đậu chung một khoá, rồi về với nhau chung một tàu. Về được mấy ngày, Hoàng lên mời Nghiệp xuống nhà chơi. Nghiệp đi theo xuống tới Bình Thủy. Hoàng trình diện cô Loan và hỏi Nghiệp muốn thì Hoàng sẽ gả chọ Nghiệp ở chơi mấy bữa, nó dọ tánh nết cô nọ, rồi nó chịu. Chừng về nó thuật lại cho tôi với ba nó nghe và xin xuống nói mà cưới cô Loan cho nó. Tôi hỏi con ai, thì nó nói cháu ngoại ông chủ Phận ở Bình Thủy, còn cháu nội ông Hương sư Tảo ở Phong Điền. Cha cô chết hồi cô mới đẻ được vài tháng. Bên nội bên ngoại cũng không còn ai. Mẹ cô cũng mới mất sau đây. Bây giờ gả cô thì anh cả là cậu Hoàng, đứng gả. Tôi muốn đi xuống coi bề thế người ta ra thể nào mà nhứt là coi con dâu. Ba nó nói mắc đeo theo hãng xe, không rảnh đâu mà đi được. Thôi Nghiệp nó đành ai thì cưới cho nó, quyền chọn lựa là quyền của nó, mình xen vô làm chị Cách ít ngày hai anh em Hoàng lên ghé hãng mà kiếm Nghiệp, may bữa đó có tôi và ba nó ở đó. Nghiệp tiến dẫn Hoàng với Loan cho vợ chồng tôi biết. Tôi coi bộ cô nọ được lắm. Ba nó mời anh em Hoàng chiều lên nhà ăn cơm. Hoàng chịu. Trong bữa cơm tối đó, tôi dọ dẫm tánh nết cô Loan, tôi thấy được lắm, ba nó cũng chịu, rồi luôn dịp đó với nói với Hoàng định ngày cưới, gộp chung một lễ.
Thầy Thanh cười và nói:
- Đời nay cưới gả dễ quá phải hôn anh Bả Vậy mà cũng được dâu hiền rể quí, cần gì phải dày công kén chọn.
Ông Ba Chánh nói:
- Thật vậy. Đời xưa kén quá, mà nhiều khi gặp yêu gặp quỉ, chớ không phải người ta.
Cô Huyền nghe cha nói câu đắng cay như vậy, biết ý cha muốn ám chỉ duyên nợ cũ của cô, bởi vậy cô hết vui mà tỏ ý hổ thẹn.
Thầy Hai Thanh mắt ngó cô, miệng chúm chím cười; thầy suy nghĩ một chút rồi ngó cùng trong nhà không thấy mấy đứa ở, thầy bèn chẫm rãi nói:
- Có một chuyện ngộ ngộ, hổm nay tôi muốn nói cho anh Ba với cô Hai nghe chơi. Mà lại đây mấy lần, khi có Nghiệp hoặc mông xừ Cang ở nhà, khi thì cô Hai đi khỏi, nên tôi không nói. Chuyện này anh Ba nghe chắc cười bể bụng.
Ông Ba Chánh rót hai chén trà mời thầy Thanh uống và hỏi thầy muốn nói chuyện gì.
Thầy Thanh hỏi lại:
- Anh có biết cậu Võ Như Bình bây giờ làm việc gì ở xứ nào hay không? Cô Huyền liền nghiêm nét mặt và chăm chỉ ngó thầy Thanh.
Ông Ba chánh châu mày mà đáp:
- Không. Tôi không muốn biết. Mà giống người vô tình bạc nghĩa đó biết mà làm chị Họ chê nghèo hèn, họ theo giàu sang mà tận hưởng, thì để cho thỏa chí họ, coi họ có thể đem vàng bạc đĐợc bao nhiêu xuống mồ.
- Đem mốc xì! Còn sống nhăn mà lưng túc(#6), thì chừng chết không có tiền mướn dân khiêng đi chôn, tiền bạc đâu mà đem theo. Như Bình tên tốt quá! Tưởng là bình hoa, hay là bình trà, bình rượu gì, té ra bình bồng.
- Thầy ghét người ta rồi thầy chê đè. Cách vài ba năm nay, một bữa tôi xuống Sài Gòn thăm một ông bạn. Tôi có gặp một ông cai tổng dưới Cần Thơ lên ở nhà uống thuốc tại nhà bạn tôi. Tôi hỏi thăm chuyện dưới Cần Thõ, thì ông Cai Tổng nói Như Bình làm ông Huyện hay ông Phủ gì đó tôi quên, song giàu có sang trọng lắm mà.
- Phải. Làm ông Phủ, mà bây giờ thôi rồi. Nói hưu trí, song tôi không biết thật hưu trí hay là mất chức. Bộ chán nản dật dờ chẳng khác nào người chết chưa chôn.
- Có lẽ nào đến nỗi như vậy. Bình học giỏi lanh lợi tráo trở hay lắm mà.
- Ở đời đã đành phải có thiện chí, phải tập kiên nhẫn, quyết tiến thủ và có can đảm thì mới mong hoặc may được thành công. Mà anh Ba là nhà Nho tự nhiên anh biết: “muốn” là một việc còn “được” là một việc khác. Không nên quá tin tưởng hễ muốn thì được. Nên hay hư chắc chắn là tại số mạng, tại ông trời, bởi vậy nuôi thiện chí vượt lên địa vị giàu sang thì tốt, còn làm điều bất nhơn phạm nghĩa mong đạt đến mục đích đó, thì bậy lắm.
Cô Huyền muốn nghe rõ chuyện của Như Bình chớ không màng lý luận, nên cô chận hỏi:
- Ai học chuyện đó với thầy, mà thầy dám nói quả quyết như vậy?
- Tôi thấy tận con mắt tôi đây. Tôi gặp Bình; chính Bình nói chuyện với tôi chớ nào có phải ai học.
- Thầy gặp ở đâu, hồi nào?
- Hôm trước có dịp đi Bà Rịa thăm bà con. Tôi đi thẳng ra Vũng Tàu thưởng thức gió biển chơi vài bữa. Tình cờ một buổi chiều, tôi đi chơi phía bãi sau tôi gặp ông cậu đương ngồi trên viên đá, ngó mông ra biển, mặt mày buồn hiu. Ông cậu thấy tôi ông cậu muốn làm mặt lạ, không nhìn. Đối với tôi mà làm cao sao được. Tôi xốc lại tôi kêu bí danh, không vị tình, không kiêng nễ chút nào hết. Người như vậy dầu làm đến ông nào tôi cũng mặc kệ, tôi có đếm xỉa gì đâu. Nột quá ông cậu phải nhìn tôi. Ông cậu xin lỗi, viện lẽ lâu gặp nhau quá, nên ông cậu quên. Thật, ly biệt nhau từ ngày Nghiệp còn bú, đến nay đã 25 năm rồi. Sức ông cậu coi suy lắm, già, ốm, tóc điểm bạc hoa râm, răng đã rụng rộn bộn. Nhưng ngó thoáng qua thì tôi biết liền.
Cô Huyền cũng như ông Ba Chánh cứ ngồi im lìm mà ngó thầy Thanh, không biểu lộ thâm tâm, nên thầy không biết vui mà nghe, hay là ghét nên giận.
Thầy thanh nói tiếp:
- Tôi ghét, tôi khinh bỉ lắm. Ban đầu tôi muốn trút hết túi chữ nho trên đầu ông cậu cho đã nư giận. Nhưng tôi liền nghĩ lại giận mất khôn: nổi nóng không bằng giả vui vẻ để tìm hiểu coi lòng tham phú phụ bần đã giúp nâng cao ông cậu đến mực nào. Tôi lấy lời dịu ngọt, mềm mỏng, mà hỏi thăm trên đường làm quan ông cậu đã đi tới đâu, gây sự nghiệp đã được bao nhiêu, bề vợ con thế nào, lập gia trụ tại đâu. Thật tôi cũng châm chít chút đỉnh cho vui, chớ không nói đến giận, bởi vậy ông cậu lần lần đáp lời tôi hỏi, không giấu giếm chi hết. Nhờ vậy mà tôi được biết ông cậu làm việc lần lần được thăng tới chức Phủ. Nhưng vì có việc làm cho ông cậu thất chí, nên hồi năm ngoái ông cậu đã hưu trí non, không thèm làm quan nữa. Tôi hỏi ông cậu có ruộng vườn nhiều hay ít, thì ông cậu nói không có gì hết, không có ruộng đất mà cũng không có tiền bạc. Tôi hỏi không có gì hết thì sao sống, ông cậu nói ông cậu sống với số tiền hưu trí, sống một mình không có vợ, không có con thì không hao tốn chi lắm. Tôi ngạc nhiên, nên tôi hỏi vậy sao nghe nói cưới vợ Ở dưới Cần Thơ giàu lắm mà, vợ đó đã bỏ hay sao mà nói không có vợ. Ông cậu nói vợ chết, nói cụt ngủn, không chịu nói người vợ ấy giàu hay nghèo, ở với nhau có con hay không.
Tới đây cô Huyền mới chặn mà nói:
- Tôi có tới nhà, tôi có nói chuyện với người vợ đó mà. Nhà cửa tốt lắm, bộ tướng giàu sang. Có lẽ nhờ người ấy lắm chớ.
Thầy Thanh nói:
- Tôi không hiểu. Ông cậu nói vậy thì tôi hay vậy. Tôi không thèm cãi. Còn tôi hỏi bây giờ hưu trí rồi ông cậu lập gia trụ tại đâu. Ông cậu nói không có nhà cửa chỗ nào hết. Tới đâu vui thì ở chơi, chừng buồn thì đi chỗ khác. Ông cậu ngồi tại mé biển nói chuyện hơn một giờ, coi bộ buồn bực chán nản cực điểm . Tôi thấy vậy thật tôi bất nhẫn, nên không nỡ nhắc chuyện xưa mà xài ông cậu. Anh Ba biết tánh tôi nóng lắm chớ. Nếu tôi mà động lòng, thì anh Ba hiểu tình cảnh thế nào.
Ông Ba Chánh hỏi:
- Bình không hỏi thăm tới vợ con hồi trước hay sao?
- Không, ông cậu không nói tới cô Hai, mà cũng không nhắc tới anh, có lẽ hoặc hổ thẹn, hoặc sợ tôi xài. Nhưng ông cậu có hỏi thăm Nghiệp.
- Thầy có nói thật hay không?
- Nói chớ. Sợ gì mà phải giấu. Tôi nói thiệt ráo, nói cho ông cậu tức chơi. Tôi nói tại ông cậu chê nghèo mà bỏ cô Hai, nên ít tháng sau có một ông chủ hãng xe hơi dưới Sài Gòn cậy mai mối mà cưới cộ Ông ra giữa tòa nhìn Nghiệp là con, cho Nghiệp đi qua Pháp mà học. Nghiệp học giỏi thi đậu Bác vật, có bằng kỹ sư cầu cống. Bây giờ hãng xe lớn lắm. Nghiệp đã về mấy tháng nay, đương phụ với cha mà cai quản hãng nhà, không chịu làm quan.
- Bình nghe như vậy rồi có nói gì hay không?
- Không. Ngồi gục mặt thở ra, rồi ứa nước mắt, chớ không nói chi hết. Tôi liếc xem sắc diện, tôi biết ông cậu hối hận lắm. Có con mà đành bỏ rơi, để cho người khác họ rước họ nuôi, họ làm khai sanh, họ cho ăn học rồi thành con của họ. Bây giờ mình không giám ngó con mình, thật mắc cỡ quá, nên chết phức cho rồi.
- Đó là một bức tranh nhơn quả treo lên cho người đời xem chung.Thuở nay thường nhơn dùng cái thuyết “quả báo” mà hăm he kẻ quấy, thì không ai thèm sợ. Để ông Trời ra tay cho bài học thử coi thiên hạ có sợ mà tránh đường tội lỗi hay không.
- Nầy anh Ba, cô Hai đây lúc còn nhỏ cô thấu hiểu thế thái nhơn tình hơn anh em mình. Tôi nhớ khi cô bị chồng bỏ ở Cần Thơ cô bồng con trở về, cô nói người ta bỏ cô thì cô lấy chồng khác. Mà lần này cô không thèm lấy chồng trong đám người có học thức nữa, cô sẽ ưng một người thợ thuyền, chắc thợ thuyền biết lễ nghĩa liêm sỉ hơn. Cô nghĩ đúng quá. Cô ưng thợ Cang, nên bây giờ cô làm bà chủ hãng, giàu có sang trọng tột bực, chồng mến yêu quí trọng, con danh giá lẫy lừng. Tôi nghĩ nhà anh Ba thật là nhà phúc đức; mà tôi cũng khen cô Hai thật sáng suốt hơn mấy lão già nầy.
Cô Huyền mỉm cười mà nói nhỏ nhẹ:
- Thưa thầy, hồi đó em tức giận nên em nói cố mạng. Em gặp người chồng biết đường ngay lẽ phải, là phần may của em hoặc là nhờ âm đức của cha em, chớ em có giỏi gì đâu mà đoán trúng kẻ phải để trao thân gởi phận. Thưa thầy, em nghe chuyện thầy nói nãy giờ đó em không cảm động, không vui, mà cũng không buồn chút nào hết. đã phân rẽ nhau rồi thì mạnh ai đi đường nấy, ai làm sao thì làm. Thật, nghe người ta nguy khốn, em không nỡ vui mừng mà dầu nghe người ta cao sang chắc em cũng không tức giận.
Ông Ba Chánh nói:
- Cang thật ít học; mà muốn nói cho đúng, thì phải gọi nó là người không có học. Tuy vậy mà ở đời nó là người biết điều lắm, dầu đối với ai cũng vậy.
Thầy Thanh nói:
- Học cho nhiều mà học thế nào kia, chớ học với cái mục đích thấp hèn, học đặng cho vui mắt sướng miệng, học như vậy càng thêm hại, chớ có ích gì.
Thầy Thanh từ mà về. Cô Huyền đưa ra cửa và nói:
- Chuyện thầy Hai nói nãy giờ đó xin thầy đừng nói cho chồng em hoặc con em biết. Thầy nói cho cha em với em nghe thì đủ rồi.
Thầy Thanh chẩm hẩm đáp:
- Không, không! Tôi biết mà. Tôi nói riêng cho cô với anh Ba nghe mà thôi, chớ nói cho người khác biết làm chị Vợ chồng đương đầm ấm, cha con đang thương yêu, bươi đống tro tàn lên làm chi cho bay bụi mà làm ố đồ quí trong nhà.
Cô Huyền cười mà đáp :
- Cảm ơn thầy Hai.
Chú thích:
(3-) Một loại tre, hầu như đặt ruột, ngày xưa còn được dùng làm côn hay vũ khí tầm vông vạt nhọn
(4-) (divan), loại bàn thấp theo kiến trúc Pháp, rộng tương đương với bộ ván ngựa.
(5-) (notaire), chưởng khế
(6-) thiếu thốn
Buổi sớm mai, trong thủ đô Sài Gòn, cũng như trong vùng ngoại ô Bà Chiểu Ngã Năm, sự hoạt động của dân cư tạo thành một quang cảnh náo nhiệt cực điểm . Trên các nẻo đường người đi bộ dập dìu đông đảo, lại còn thêm xe hơi, xe ngựa, xe kéo, xe đạp, tốp qua tốp lại không ngớt. Vì vậy nên sự rủi ro đụng chạm xảy ra thường thường, dầu người ta đã có áp dụng nhiều phương pháp để ngăn ngừa tai họa, nhưng cũng không thể chấm dứt tai họa nổi.
Xe hơi của bác vật Nghiệp là hiệu xe mã lực nhiều, tốc lực mau, nhưng vì sốp phơ nhớ lời căn dặn của ông chủ lớn, nên chú ý cẩn thận, cứ từ từ mà chạy, giữ kỹ lệ luật đi đường, không thèm tranh giành mà qua mặt. Qua khỏi cầu Bình Lợi rồi, xe với bắt đầu chạy mau, nhưng sự mau đó chưa đúng với tốc độ của xe; trên khoảng đường thẳng ngay và trống trải thì chỉ chạy từ 70 tới 80 mà thôi còn gặp xe phải nép mà tránh, hoặc qua mấy xóm đông, hay tới khúc quanh quẹo, thì bớt xuống mà chạy 40 hay 50, có chỗ còn chậm hơn nữa.
Tuy vậy mà khi tới khúc quanh quanh Xuân Trừơng có một chiếc xe cam nhông ở phía Biên Hoà chạy xuống thình lình xông ra như chớp nháng mà chạy không bóp kèn, may anh sốp phơ của Nghiệp lanh mắt lẹ tay, ép sát vô lề nên khỏi đụng. Giữa lúc hai xe tránh nhau, gió phất nghe một cái vù, làm cho cô Loan giựt mình khủng khiếp, chụp tay chồng mà níu chặt cứng.
Nghiệp ngó vợ mà cười và hỏi:
- Em sợ hay sao?
- Em hết hồn tưởng đụng rồi chớ.
- Đừng sợ. Không có sao đâu. Anh Sáu Bình cầm tay bánh thì khỏi lọ Ảnh giỏi lắm, lại chạy xe kỹ lưỡng.
- Chắc ba cho ăn lương lớn.
- Lương lớn hơn hết. Anh Tý Cầu ở bên Vĩnh Hội, có nhà cửa đàng hoàng. Còn anh Sáu Bình ở một căn phố lá trên Phú Nhuận, chỗ ở không được sạch sẽ, lại nỗi bữa đi làm xa quá.
- Sao ảnh không mướn phố gần hãng mà ở?
- Ý! Ở Sài Gòn phố mắc quá, hạng thợ thuyền làm sao mướn nổi mà ở em. Qua thấy cái nhà ba mới mua cho vợ chồng mình đó có 4 dãy nhà bếp dài tới 4 căn, căn nào cũng rộng rãi, mát mẻ. Qua tính một căn để nấu ăn, một căn để cho nhà bếp ở, một căn để cho bồi. Còn dư một căn qua sẽ cho anh Sáu về ở với mình.
– Được lắm, song sợ ảnh có con đông, chật hẹp, ảnh ở không được chớ.
– Để qua hỏi ảnh coi.
Nghiệp kêu Sáu Bình mà hỏi:
- Anh Sáu, anh có mấy đứa con?
- Dạ vợ chồng tôi có một thằng con trai mà thôi.
- Được bao nhiêu tuổi?
- Thưa, 8 tuổi. Nó đã bắt đầu đi học từ khai trường năm ngoái.
- Được lắm. Ba tôi mới mua cho tôi một cái nhà trên đường Bạc Hà, anh biết hôn.
- Thưa biết, cách mấy bữa trước, tôi có đưa bà chủ lớn lên coi thợ dọn dẹp. Nhà rộng rãi tốt quá. Tôi có đi coi cùng hết.
- Đi chơi về đây tôi sẽ dọn về ở đó. Vợ chồng tôi muốn để một cãn dưới dãy nhà bếp cho anh dọn về đó mà ở, anh chịu hay không?
- Dạ, nếu ông bà thương, ông bà cho vợ chồng tôi ở thì khỏe lắm. Tôi mang ơn hết sức, có lẽ nào tôi không chịu. Được ở đó, tôi đi làm gần, mà vợ tôi còn kiếm công việc làm được nữa.
- Vậy thì xong. Để đi chơi về rồi sẽ bàn tính lại.
Câu chuyện chưa dứt thì xe đã tới tỉnh lỵ Biên Hòa. Thấy xe của Hoàng đậu gần trường học mà chờ, Sáu Bính liền tốp máy ngừng lại.
Hoàng mặc bộ đồ thể thao trông rất gọn gàng và mạnh mẽ, bước lại nói với sớp phơ(#7) Anh chạy chậm quá. Tôi lên đây chờ nãy giờ gần 15 phút.
- Dạ thưa ông chủ lớn dặn tôi đi vừa vừa đừng chạy mau, nên tôi không dám chạy.
- Trời ơi, cầm xe “Sport” mà đi theo tốc lực bốn năm chục một giờ đặng chờ anh lái thì mỏi mệt quá, tôi chịu sao nổi. Phải đi khá một chút chớ.
Nghiệp mở cửa leo xuống mà nói:
- Vợ em nhát quá, chạy mau nó sợ. Em thấy vậy em không dám xúi anh Sáu chạy. Vậy anh cứ đi trước, thủng thẳng xe em theo sau.
Hoàng cười mà nói:
- À! Có đàn bà điều khiển mà!
Cô Loan nói:
- Đi chơi, chớ có phải đi chuyện gắp đâu mà chạy mau. Đến chiều mình sẽ tới Đà Lạt cũng không hại chị Đi chậm để xem phong cảnh chơi. Hoàng đưa tay xem đồng hồ, rồi vừa lên xe vừa nói:
- Thôi, tôi chạy trước đạ Lên Dijring(#8) tôi chờ đặng ăn bữa trưa. Nghiệp gật đầu rồi cũng lên xe. Hai xe nối đuôi mà chạy.
Ra khỏi tỉnh lỵ đường bằng phẳng, lại ít xe, mà người đi cũng vắng bóng. Sáu Bính cho xe chạy mau hơn; nhưng một lát rồi xe Hoàng cũng mất dạng, không còn thấy chạy trước nữa.
Lúc đi ngang qua mấy vườn cao su nhỏ nhỏ, nằm dọc theo đường, thì cô Loan chỉ mà trầm trồ, cô khen cây trồng ngay hàng thẳng lối, cô khen chủ vườn săn sóc kỹ lưỡng, bởi vậy tuy là cơ nghiệp tạo ra để thủ lợi, chớ không phải để hưởng nhàn, song cảnh thú có vẽ phong lưu, có màu ẩn dật, vừa thanh cao, vừa bí mật thật khả kính, khả ái.
Chừng tới khoảng rừng, cô thấy có lúc cây nhỏ chen với cây to, nhánh lá sum sê rậm rợp, rồi có lúc cây cao đã đốn hết chỉ còn cây thấp lúp xúp mà thôi. Từ nhỏ chí lớn ở vùng đồng bằng, ruộng thì cấy lúa để xay gạo, vườn thì trồng cây để hái trái, cô chưa từng thấy rừng rậm non xanh, bởi vậy thấy rừng lớn mà không người thì cô ngại ngùng, nhứt là thấy núi non chớn chở ở xa xa thì cô hồi hộp.
Nghiệp cắt nghĩa cho vợ hiểu rừng đó là một nguồn lợi lớn của quốc gia, rồi luôn dịp giải bày lề luật về rừng cấm lập ra để bảo hộ cây cối đặng duy trì nguồn lợi ấy.
Nghiệp lại tiếp cắt nghĩa cho vợ hiểu tại sao mà có núi, rồi nói núi cũng không phải là vật vô ích. Núi làm lợi cho loài người về phương diện khác. Tại con người không đủ tài đủ lực mà khai thác, nên nó không giúp ích được mà thôi.
Cô Loan lấy làm vui sướng mà được nghe chồng giải bày những điều mới lạ thuở nay chưa có ai cắt nghĩa rõ ràng cho cô hiểu. Cô ngồi một bên chồng mà trong lòng phơi phới, tai nghe, miệng cười, say sưa mùi hạnh phúc, hớn hở nẻo tương lai, quyết hy sinh tất cả cho người bạn đời trăm năm đặng đền bồi cái công phò trì dìu dắt.
Lên tới đèo Blao, núi rừng càng thêm chớn chở phong cảnh càng thêm xinh đẹp, cô Loan càng thêm say sưa, say sưa với cảnh, mà cũng say sưa với tình đến nỗi cô nhắm mắt ngồi im lìm không nói chuyện được nữa.
Độ cao đã lên nhiều, nên khí trời bắt đầu mát lạnh. Nghiệp vội lấy cái áo choàng cho vợ.
Cô Loan thấy một tốp mọi cái (người thiểu số) mang gùi đi dựa bên đường đi chung với mọi đực. Cô chỉ cho Nghiệp coi rồi châu mày mà nói:
- Tội nghiệp quá! Ở chốn rừng núi, trần truồng, lạnh lẽo, ăn ở cực khổ vất vả, con người sống như vậy thì có vui sướng gì đâu!
- Họ quen rồi họ cũng sung sướng như mình vậy chớ. Tại mình tập quen cái thói ăn cao lương mỹ vị, ngủ nệm ấm gối êm, ở nhà cao cửa lớn, mình thấy họ như vậy mình tưởng là họ khổ. Người ta đã dụ dỗ họ hết sức, muốn dời họ ăn ở như mình. Họ không thèm. Họ yêu tự do của họ hơn là cuộc sống của mình. Nghĩ cho kỹ, tôi không dám chê bai họ.
- Anh ăn học ở xứ văn minh cực điểm . Anh đã chịu cho là văn minh un đúc trí não anh. Tại sao anh chán nản đến nỗi muốn ca ngợi cái thú dã man?
- Những danh từ văn minh với dã man là danh từ trống rỗng không có nghĩa gì hết. Biết sao là văn minh, biết sao là dã man, em? Người đời họ tưởng văn minh là khôn ngoan, dã man là dại dột. Họ lầm tọ Thói kêu là văn minh bày ra nhu cầu vô số, để làm cho thoã mãn những nhu cầu ấy, thì con người phải lao tâm cực xác không biết bao nhiêu mà kể cho xiết. Còn thói kêu là dã man không khiêu gợi nhu cầu gì hết, bởi vậy con người thong thả, khoẻ khoắn, khỏi lo, khỏi tính, không tranh hơn, không sợ thuạ Em nghĩ lại coi thói nào làm cho con người sung sướng?
Cô Loan mỉm cười chớ không trả lời.
Xe lên tới Dijring, thấy xe của Hoàng đương đậu trước nhà hàng, nên Sáu Bính cho xe ngừng tiếp theo đó.
Hoàng ở trong nhà hàng bước ra nói rằng:
- Trễ hơn nữa giờ. Chạy được vậy cũng là khá rồi đạ Tý Cầu nhảy xuống mở cửa xe. Vợ chồng Nghiệp bước ra, rồi đứng ngó tứ phía mà ngắm cảnh.
Nghiệp dòm đồng hồ rồi nói với Hoàng:
- Mới 10 giờ. Vợ tôi có mua đồ đem theo nhiều. Vậy mình tạm ở đây ăn uống, chơi, rồi chừng 2 giờ mình sẽ lên Đà Lạt.
- Được, được lắm. Mà còn sớm quá nên chưa đói. Vậy mình thả bộ theo đường đây đi một khúc chơi cho dãn cặp giò.
Nghiệp day lại hỏi vợ:
- Em mệt lắm hay không?
- Không, em khoẻ như thường.
Vợ chồng Nghiệp với Hoàng dắt nhau đi chơi, đi chậm đặng thưởng thức phong cảnh non xanh rừng thẳm. Cô Loan khoái lạc hơn hết. Cô nức nở khen cảnh đẹp như tranh vẽ, cô mến yêu non núi khiêu gợi chí thanh cao. Nghiệp thấy vợ có tâm hồn ham an tịnh thì thoa? chí vui lòng nên chúm chím cười. Dắt nhau đi hơn một giờ, xem phong cảnh núi rừng chớn chở, dạo khắp cả thị trấn cao nguyên, rồi lần lần trở lại xe đặng sắp đặt việc ăn uống.
Hoàng nói, Hoàng đã hỏi dọ rồi, nhà hàng có lave(#9), rượu chát(#10). Đồ ăn chỉ có “jambon”(#11), trứng gà với đồ hộp chớ không có thịt rừng. May có máy nước lạnh, nên có nước đá chút ít.
Cô Loan lên xe lấy bánh mì, thịt nguội, trái cây, rượu chát, rồi trao cho Sáu Bình với Tý Cầu đem vô nhà hàng. Cô muốn lấy thêm ba tê(#12), cá mòi, nhưng chồng không chọ Nghiệp nói nhà hàng có, thì mình dùng đồ nhà hàng cho chủ vui lòng mới tiếp khách.
Vô nhà hàng, Nghiệp biểu Sáu Bính kêu bồi nhắc hai cái bàn để khít lại, ngồi hết thảy đặng ăn chung với nhau cho vui.
Cả hai anh sốp phơ với thợ máy đều không chịu, họ xin để anh em họ Ở ngoài xe mà ăn cũng được. Vợ chồng Nghiệp không chọ Hoàng cũng không đồng ý, buộc phải ngồi chung với nhau mà ăn, vì trong cuộc đi chơi, mọi người đều phải chung vui, không nên phân giai cấp.
Trong lúc bồi đặt bàn sắp dĩa, Nghiệp với Hoàng coi dọn đồ ăn, thì cô Loan đi lại xem tủ kiếng của nhà hàng xin lấy ra cho cô hai chai la ve, vài hộp ba tê và vài hộp cá.
Cô nói cô có bánh mì với rượu chát ngon, nên khỏi muạ Ông chủ nhà hàng biết khách sang trọng, nhưng thấy biểu dọn cho sốp phơ ngồi chung mà ăn, thì ông có sắc ngạc nhiên.
Bàn dọn rồi, vợ chồng Nghiệp với Hoàng ngồi phía ngoài còn ba người kia ngồi phía trong; đồ ăn với rượu cả hai phía đều như nhau, chủ tớ đồng sung sướng vui cười, chủ vui có dịp hậu đãi kẽ cộng sự với mình, tớ vui vì cảm thấy người cao sang mà không khinh rẻ bực hèn hạ.
Nghiệp liếc thấy sốp phơ cũng như thợ máy, cả ba đều lộ ra vẻ cảm tình trên mặt, thì nói:
- Ba anh cứ việc ăn uống cho no, đừng ái ngại chi hết. Chúng tôi là bọn tân tiến, may được thấy xa nghe rộng, chúng tôi ăn ở theo cảnh đời mới không chịu bo bo ôm ấp thói cũ óc xưa, như mấy ông già hồi đời trước. Chúng tôi không chịu ẩn nhẫn, chán nãn cũ rũ. Những tánh đó làm cho con người nhu nhược, yếu đuối không thể sống nổi với cảnh đời cạnh tranh chiến đấu này. Trái lại chúng tôi thờ thiện chí với trí lực. Ở đời, dầu làm việc gì chúng tôi cũng nhắm sự thành công mà làm mục đích. Nhưng đuổi theo mụch đích đó, chẳng bao giờ chúng tôi chịu gian dối, dua bợ hay độc ác, để cho được thành công, chúng tôi tập chí thẳng ngay, cứng cỏi, kiên nhẫn cương quyết. Những điều ấy chẳng cần có học nhiều hay tài cao mới làm được. Mấy anh cũng như chúng tôi, hễ quyết chí thì làm nên, vì lợi khí tiến thủ ở trong tinh thần, chớ không phải ở chỗ học lực. Mấy anh đều biết ba tôi. Hồi còn trai trẻ ba tôi là một người thợ cũng như mấy anh, không học giỏi, cũng không có tài gì hơn. Ba tôi nhờ biết lập chí nên mới thành công. Mấy anh cũng có thể một ngày kia cũng lên địa vị chủ hãng như ba tôi vậy, biết chừng đâu.
Tý Cầu khiêm nhượng nói:
- Chúng tôi đâu dám bì với ông chủ lớn.
- Sao vậy?
- Ông hay lắm mà!
- Anh nói như vậy là tại anh chưa nuôi chí cương quyết, chưa tập tánh cứng cỏi. Anh phải hy vọng mà tiến hoài, tự nhiên một ngày kia anh sẽ thành chủ nhơn. Mấy anh nên biết ở bên Âu bên Mỹ có nhiều người hiện nay làm chủ xưởng đại công nghệ, giàu có bạc ức bạc tỷ, dùng nhơn công đến số muôn, hồi trước họ cũng ở trong đám thợ thuyền như mấy anh mà xuất thân, chớ nào phải nhờ phụ ấm hay là nhờ tài học. Bên Hoa Kỳ có mấy ông thợ thuyền, hoặc nông phu nhờ lập chí mà thành công, sau vượt lên tới Tổng Thống. Kìa như ông Ford, chủ hãng xe hơi đó, lúc khởi đầu ổng là một thợ thuyền như anh Tý đây, chớ nào phải ổng ở trường đại học hay trường công nghệ nào mà xuất thân đâu. Tôi nói thành công nhờ chí, chớ không phải nhờ học, nhứt là không phải nhờ may mắn hoặc cướp giựt. Hoàng muốn trưởng chí cho ba anh em, nên tiếp nói:
- Lời Nghiệp nói với anh em đó là nói ngay vào sự thật chớ không phải nói láo đâu. Mấy anh phải lập chí mới, phải nuôi tâm hồn mới đặng nâng đời sống lên cho cao, đặng tranh sự sanh tồn với thiên hạ cho đắc thế. Hiện nay đời sống của hạng bình dân trong nước mình còn vất vả quá. Phải tiến lên, tiến cho mạnh.
Nghiệp nói:
- Đi ra vùng ngoại ô Sài Gòn Chợ Lớn, tôi thấy bề ăn ở của anh em lao động thật là khốn khổ. Hồi sớm mơi ngồi trên xe tôi có bàn với vợ tôi. Chúng tôi tính cho anh Sáu Bính về ở tạm trong một căn nhà sau của tôi đặng ảnh đi làm cho gần và ở cho sạch sẽ một chút. Nhưng đó là một giải pháp tạm thời và một sự giúp đỡ cá nhơn chớ không phải một cách cải thiện đời dống cho toàn thể thợ thầy giúp công trong hãng. Tôi đã có trù định một giải pháp lớn lao hơn kìa. Tôi có bàn với ba má tôi. Ba má tôi chấp thuận nguyên tắc và quyết sẽ thực hành trong năm naỵ Hiện giờ thợ thầy trong hãng tôi gồm lối 30 người. Mà trong số đó chừng có mười người đã có nhà cửa tử tế rồi. Vậy còn vài chục người ở xa xuôi, hoặc chật hẹp lắm. Ba má tôi mới tính kiếm mua trên vùng Chí Hòa một vùng đất cao ráo rộng rãi, rồi cất chừng vài ba chục căn nhà ngói vách ván, để cho thầy thợ trong hãng ai không có nhà thì lên đó mà ở. Ở đó đi làm xạ Bởi vậy tôi tính mua một chiếc cam nhông(#13), đặc biệt để cho anh em dùng mà đi làm. Gần tới giờ làm thì tất cả lên xe cầm lái mà xuống hãng. Chừng mãn giờ thì lên xe mà về với nhau. Xăng nhớt vỏ ruột hãng chịu hết. Anh em chỉ gìn giữ máy móc và cầm lái mà đi. Có lễ anh em được nghỉ việc, thì được lấy xe ấy chở nhau đi Long Hải hoặc Vũng Tàu mà tắm biển. Anh em nghĩ coi làm như vậy thầy thợ trong hãng hoan nghinh hay không?
Tý Cầu ít nói mà nhờ có ly la ve tăng giùm nhiệt độ, nên anh nói lớn:
- Ông chủ lo lắng cho thầy thợ như vậy thì người ta cảm phục sát đất chớ không phải hoan nghinh suông mà thôi. Bọn thợ thuyền chúng tôi tuy thiếu học, song biết ơn nghĩa lắm. Được ông chủ hậu đãi thì ai cũng thí thân nỗ lực mà đền đáp, ráng làm cho hãng thạnh phát thêm đặng chung hưởng với nhau.
Hai anh sốp phơ cũng lên chữ(#14) nên vổ tay mà biểu đồng tình. Hoàng nói:
- Anh em tôi đi chơi đây, xin mấy anh em đừng tưởng chúng tôi gây dịp đặng phá của, lãng phí, như mấy công tử hình dạng bảnh bao mà đầu óc trống rỗng đó vậy. Không phải đâu. Chúng tôi đi chơi, song chúng tôi còn nhằm một mụch đích lợi ích, lợi ích cho chúng tôi thì đã đành, mà cũng lợi ích chung cho đồng bào, cho anh em cần lao. Thừa cuộc đi chơi du lịch, chúng tôi sẽ gia công quan sát những nguồn lợi của nước nhà, mà xưa nay hoặc vì vô ý, hoặc vì thiếu sức, nên chưa ai khai thác cho người cần lao có công việc làm, cho đồng bào chung hưởng nguồn lợi. Mang cái danh thanh niên tiên tiến, chúng tôi quyết làm cho xứng đáng cái danh ấy. Chẳng phải lo vinh thân phì gia, bốc lột kẻ quê, hiếp đáp kẻ yếu, trong nhà thì hống hách, ra ngoài thì sợ run, như hồi trước vậy nữa. Chúng tôi là đạo binh tiên phuông, lãnh nhiệm vụ ruồng đường mở nẻo, quyết nâng đỡ quốc gia dìu dắt đồng bào, cải thiện xã hội, dạy dỗ người quê dốt, binh vực người yếu ớt. Nói tóm lại, chúng tôi muốn làm sao cho nước Việt Nam giàu, cho dân Việt Nam mạnh, được ngang hàng với các dân tộc khác mà không hổ, không sợ.
Sáu Bình nói:
- Mấy ông học giỏi mà mấy ông làm như vậy, thì chúng tôi sẵn sàng tiếp ứng phía sau. Chúng tôi sẽ theo sát cánh mấy ông; chúng tôi sẽ hy sinh tất cả không do dự, không mến tiếc chi hết.
Bồi thấy ăn uống xong rồi, nên đem cà phê nóng ra mà rót cho mỗi người một tách.
Hoàng nói:
- À! Cà phê! Cà phê bổn xứ phải hôn? Tôi ưa cà phê lắm, uống một tách không đã. Anh bồi làm ơn lấy ly lớn rót cho tôi một ly mới được. Ê, Nghiệp, nghe nói ở Dijiring nầy người ta có lập vườn cà phệ Hồi nãy đi chơi mình thấy có mấy bụi ở trước nha hành chánh đó coi bộ tươi tốt quá. Để rồi anh em mình kiếm đất lập một vườn cà phê ở đây. Đó là một quyền lợi lớn. Mình trồng thử, như được mình sẽ mở sở ra cho lớn đặng sản xuất cà phê cho trong nước dùng, khỏi phải mua cà phê ngoại quốc nữa.
Nghiệp nói:
- Đất ở đây không bằng vùng Kontum. Lập vườn có lẽ nên ra đó mà làm, chắc thành công hơn.
Cô Loan nói:
- Em thích lập vườn lắm. Hai anh lập vườn cà phê đi. Em sẽ làm quản lý, em ở tại chỗ mà coi vườn cho.
Nghiệp ngó vợ mà nói:
- Ở giữa chốn rừng núi, buồn lắm, em chịu sao nổi?
- Anh tưởng em ham vui, ham coi hát, ham nhảy đầm như họ sao? Em ghét mấy thứ xa hoa đó lắm. Em muốn yên tịnh mà thôi.
- Được vậy thì tốt.
Hoàng thấy đồng hồ đã chỉ 2 giờ nên đứng dậy. Sốp phơ với thợ máy ra xe mà xem xét máy móc vỏ ruột. Cô Loan bước vô trong trả tiền ăn uống cho ông chủ nhà hàng và phát tiền thưởng cho bồi, rồi anh em mới từ giã ông chủ mà lên xe đặng đi Đà Lạt.
Xe Hoàng cũng vẫn chạy trước, nhưng bây giờ Hoàng giao cho sốp phơ cầm tay bánh mà chạy.
Chú thích:
(7-) (chauffeur,) người lái xe, tài xế
(8-) Di Linh
(9-) (la bière), bia
(10-) Rượu nho, rượu vang
(11-) thịt heo muối luộc chín
(12-) (pâté), bánh nhưn mặn
(13-) (camion), xe vận tải
(14-) ngà ngà say
Sau mùa đông lạnh lẽo, qua tiết tháng 2 tháng 3 nầy khí hậu điều hoà, nên phong cảnh Đà Lạt là phong cảnh thần tiên.
Trong thành, trăm hoa đua nở, phác họa đủ màu, chẳng khác nào những bức tranh đẹp đẽ do tay thợ vẽ vời mà trình bày khắp nơi. Trước sân trên cửa, dựa lộ, bên hồ, chỗ nào cũng thấy hoa, mà hoa nào cũng yêu kiều diễm lệ.
Trên mấy đồi thì cỏ xanh mướt, che phủ mặt đất, chỗ thấp cũng như chỗ cao. Có khi giữa tấm khảm xanh ấy dựng lên một vài cây thông già, sừng sững giữa trời, nhánh gồ ghề, lá thưa thớt, dường như thiên thần của tạo hoá đặt bày, để dòm ngó nhơn gian, hoặc để thử thách tuế nguyệt.
Trên triền núi, rừng thông chớn chở, che bớt hố thẳm, thêm oai đảnh cao. Nếu hỏi rừng nầy tạo ra từ đâu bao giờ và tạo ra để làm chi, thì khó mà trả lời được.
Còn ở xa xa thì non xanh lố xố chận bớt chơn trời, dãy dọc dãy ngang, đảnh cao đảnh thấp. Đứng trước quanh cảnh tốt tươi mà trù mà mật(#15) nầy, người đa cảm ắt phải ngậm ngùi, người hẹp hòi tự nhiên rộng rãi.
Cách vài mươi năm trước Mộng Liêm tiên sanh trở lại chốn nầy, cụ thấy tay người chen vô mà thay đổi quang cảnh thiên nhiên càng thêm vẽ đẹp, thì cụ cảm hứng nên ngâm:
“Năm mươi năm trở lại non nầy.
Cám cảnh Lâm Viên lắm đổi thay.
Bảy sắc hoa tiên thơm thoát tục.
Tư bề núi phật mát hằng ngày.
Vui vầy tùng lộc mùi cầu đạo.
Khéo léo lâu đài vẽ biến gì.
Thế giới lưu ly rày đã hiện.
Hỡi ai, ăn trái nhớ trồng cây”Cảm hứng cũng phải, vì thay đổi thật. Hồi đầu thế kỷ 20 nầy, Đà Lạt ẩn núp trong vùng hoang vu tịch mịch, núi non tán loạn, rừng rú bịt bùng, thú cầm sanh sống tự do, người mọi lại qua rải rác. Trong một khoảng ba bốn mươi năm, mà Đà Lạt hoá thành một thị trấn rực rỡ tốt tươi như sơn động bồng lai, như thế giới cực lạc, thế thì làm sao đến đây mà không có cảm hứng.
Hoàng cũng như vợ chồng Nghiệp thuở nay chưa lên Đà Lạt lần nào, bởi vậy vừa tới đây lộ ra vẽ ngạc nhiên, không dè tạo hoá sắp sẵn mà để dành cho nước Việt Nam một khoảnh thiên đàng yêu kiều đến thế. Hoàng và Nghiệp đã từng dạo xem nhiều danh sơn thắng cảnh bên Châu Âu, nên ngạc nhiên mà không trầm trồ thái quá. Duy có cô Loan, vì thân phận côi cút, không ai dắt đi chơi xa, nên thấy cảnh lạ, hoa nhiều thì cô náo nức trong lòng, cô ngồi không an, kêu Sáu Bính biểu chạy chậm chậm cho cô thưởng thức.
Nghiệp nói mình định ở chơi lâu, vậy chẳng thiếu chi ngày giờ cho mình ngoạn cảnh. để kiếm nhà hàng mà an nghĩ cho khoẻ, rồi Nghiệp sẽ đem vợ đi xem cùng hết, không bỏ sót một chỗ nào, chơi ở đây rồi còn đi nhiều chỗ khác nữa. Cô Loan nắm tay chồng mà siết chặt, miệng mở một nụ cười chan chứa tình yêu.
Gần 4 giờ chiều hai xe ngừng trước nhà hàng Lâm Viên, là nhà hàng lớn nhứt tại Đà Lạt. Vì Nghiệp đã có đánh dây thép trước mà mướn sẵn hai phòng, bởi vậy xe vừa ngừng thì hai người bồi chạy ra mà tiếp rước. Nghiệp xưng tên, thì bồi nó đã dọn sẵn hai phòng rồi, phòng hạng nhứt, số 10 và 12 khít nhau từng dưới đất, khỏi lên thang lầu.
Bồi chia nhau xách hành lý, Hoàng với vợ chồng Nghiệp đi vộ Người quản lý đứng tại cửa mà chào rất vui vẻ. Chỉ hai phòng cho khách rồi quản lý dạy bồi hễ đem đồ vô xong thì chỉ nhà xe cho sốp phơ biết chỗ mà cất xe.
Sáu Bính với Ba Thiên, sốp phơ xe Hoàng, đi theo bồi và coi cho biết phòng của chủ. Hai người nói:
- Ông chủ tính chiều nay đi chơi không?
Cô Loan rước mà đáp:
- Đi chớ, để rữa mặt thay đồ rồi đi.
Nghiệp cười và nói:
- Khoan! Chậm chậm một chút. Để ba anh kiếm nhà ngủ mướn sẵn một cái phòng đặng tối có chỗ mà ngủ với nhau đã.
Sáu Bình nói:
-Thưa, khỏi mướn phòng. Anh em tôi ngủ trên xe. Nghiệp suy nghĩ rồi nói:
- Ngủ trên xe bất tiện...
- Thưa, có bất tiện chi đâu. Tụi tôi quen rồi.
- Còn anh Tý Cầu nữa chi?
- Anh ngủ với tôi. Anh có tính với tôi rồi. Trong ga ra xe nhiều chiếc lộn xộn, không nên bỏ đi ngủ chỗ khác. Tới giờ ăn cơm tụi tôi lấy xe đi chợ mà ãn, rồi về đây ngủ, không nên rời xe.
-Ngủ trên xe ban đêm lạnh lắm, người ta nói lạnh 14 độ , có bữa xuống 12 độ lận.
- Chúng tôi biết nên có đem mền và đồ ấm theo. Ông chủ đừng lo.
-Mấy anh đói bụng chưa?
-Mới ăn dưới Dijring còn no quá.
-Vậy thôi lau quét xe cho sạch đặng bà đầm tôi(#16) sửa soạn rồi thả đi vòng chơi. Bà nóng nảy quá muốn đi liền đặng xem phong cảnh.
- Bà mới lên đây lần đầu nên bà muốn đi coi cho biết.
Cô Loan đương rửa mặt, cô day lại nói:
- Anh đừng có kêu tôi bằng bà nữa nghe hôn anh Sáu. Tôi còn nhỏ như em út. Anh kêu bằng cô thôi.
Sáu Bính dạ rồi qua phòng của Hoàng, có gắn số 12, mà rủ Ba Thiên đi lau xe cho sạch sẽ.
Hoàng với vợ chồng Nghiệp rửa mặt thay đổi áo quần, rồi cùng nhau đi lại phòng ăn mà giải khát. Hoàng với Nghiệp uống la ve còn cô Loan thì uống sữa tươi.
Loan uống riết cho hết ly sữa, rồi cứ cầm bóp dợm đứng dậy mấy lần, tỏ ý muốn đi chơi cho mau. Nghiệp muốn làm vui lòng vợ, nên khuyên Hoàng uống mau mau đặng đi.
Ra xe, Nghiệp kêu hai anh sốp phơ mà nói:
- Hai anh đã có lên đây nhiều lần, hai anh biết đường sá rành rẽ. Vậy hai anh chạy chậm chậm, đưa chúng tôi đi khắp trong châu thành đặng xem trước, coi châu thành bao lớn, địa thế ra sao, dân cư ít nhiều, nhà cửa tốt xấu. Trước hết đi chợ, rồi bắt đó đi lần ra ngoài, đi vòng cho giáp hết đừng bỏ xót đường nào. Nhưng cứ trong thành chớ đừng ra ngoài. Mình còn ở chơi nhiều ngày, để bữa khác mình sẽ đi xem mấy vùng ngoại ô, không cần gấp lắm.
Ba Thiên thú thật anh chưa đi giáp châu thành, Sáu Bính khoe mình thạo hết , nên lãnh đi trước dẫn đường.
Xe đi vòng chợ rồi lên dinh Thị trưởng, lại nha Quản Đạo. Cô Loan thấy phía tay trái có một cái hồ lớn, bờ hồ đơm bông rực rỡ đủ màu, cô biểu Sáu Bính quẹo qua đó cho cô xem, Nghiệp ngăn cản, khuyên sốp phơ cứ chạy theo lời mình đã dặn, chừng nào phải lại hồ thì sẽ lại, hoặc để đi giáp hết rồi sẽ trở về đó mà chơi.
Xe đi ngang nhà Huyện Mọi, qua phía nhà thương xem mấy rẫy trồng cải, trồng hoa, rồi trở lại nhà đèn đặng vô suối Cam Lỵ Sẵn đường Sáu Bính cho xe chạy luôn lên mộ của ngài Long Mỹ Quận công rồi quanh trở về viếng Y viện Pasteur, trường Nữ học “Couvent des Oiseaux” , nhà thờ, nhà Bưu điện, mấy nhà nghỉ hè của quan viên cao cấp. Bây giờ mới chạy dọc theo bờ hồ rồi chạy thẳng ra nhà ga xe lửa.
Sáu Bính ngừng trước nhà ga và nói là đã đi giáp châu thành hết rồi. Nghiệp coi đồng hồ chưa tới 6 giờ, bèn biểu chạy trở lại bờ hồ đặng ngồi xem hoa thưởng cảnh chơi.
Vợ chồng Nghiệp xuống xe lại bàn tính với Hoàng rồi biểu vợ lấy 300 đồng phát cho ba người tùy tùng, mỗi người 100 Đồng. Nghiệp nói:
- Ba anh lấy xe ra chợ mà ăn cơm đi. Chúng tôi ở đây chơi một lát rồi về nhà hàng. Còn có một khúc đường, không cần phải đi xe. Mấy anh ăn cơm rồi cứ về ngay nhà hàng mà nghỉ.
Buổi chiều trên bờ hồ nam thanh nữ tú dập dìu, người Pháp xen lộn người Việt, đàn bà nhiều hơn đàn ông, bởi vậy y phục có đủ màu tốp đi xuống tốp đi lên, đi dựa mấy bồn bông, đứng xa xa trông rất đẹp.
Ngó qua phía hồ bên kia thì một vùng cao nguyên rộng minh mông hiện ra trước mắt, trên ấy những đồi nhỏ nằm lúp xúp cho tới chơn núi Lâm Viên đồ sộ đứng phía trong. Người ta đương bắt đầu kiến trúc trường Trung học Yersin bên đó. Sinh viên được chốn thần tiên nầy mà dồi mày tâm chí, mở mang kiến thức thì có gì sung sướng bằng. Ngặt vì ở đây phẩm thực còn thiếu thốn, mà đường giao thông với Sài Gòn chưa thuận tiện, bởi vậy giá sinh hoạt phải mắc mỏ, bề ăn ở phải tốn hao nhiều. Muốn đào tạo nhơn tài mà lập trường lớn nơi nầy, thì cái ý định bất công đó nó thể hiện rõ ràng, vì lẽ con nhà nghèo hèn, dầu thông minh, dầu cần mẫn, cũng không thể mở rộng tri thức như con nhà giàu sang được.
Vợ chồng Nghiệp với Hoàng ở chơi tới tối mới trở về nhà hàng mà ăn cơm. Phòng ăn rộng rãi, nhưng đông khách nên ngồi giáp hết. Bàn nào cũng chuyện trò vui vẻ mà êm ấm, chớ không phải rần rạc và lộn xộn như trong mấy nhà hàng dưới Sài Gòn.
Quang cảnh nầy làm cho Nghiệp với Hoàng nhớ đời sống của mình hồi ở bên Pháp, rồi nhắc mấy chuyện éo le lại cho cô Loan nghe chơi, khiến cho cô hiểu rõ đại chí của anh và chồng, cả hai đều nhờ kiên nhẫn mẫn cán, quản đại, tiến thủ, nên học tới thành công mỹ mãn.
Ăn cơm rồi, Hoàng đi theo Nghiệp vào phòng Nghiệp mà đàm đạo. Hoàng ngồi hút thuốc phì phà mà suy nghĩ rồi nói:
- Anh em mình tính nhơn dịp đi chơi nầy mình quan sát nhơn sanh với địa lợi coi có thể khai cơ lập nghiệp, kinh dinh công nghệ, hoặc bành trướng nông trang được hay không. Tuy mới đến đây, song tôi đã nhìn thấy nhơn công không có, vận tải tốn nhiều chi phí, nên khó mà làm được việc chi lớn ngay bây giờ. Theo địa thế như vầy có thể làm việc gì? Trồng bông hoa rau cải, rồi chở xuống Sài Gòn mà bán? Nhơn công kém, tiền chở mắc, tổn phí nuốt số lời hết. Làm nhỏ nhỏ kiếm cơm ăn thì được, chớ làm lớn thì thất bại. Còn mấy việc nầy có thể làm được song phải dò dẫm và nghiên cứu trước: Hoặc khẩn đất vùng cao nguyên mà lập sở nuôi thú vật. Phải để ý đồng cỏ với suối nước. Hoặc khẩn đất để lập vườn trồng bông vải, hay là cà phê, hay là trà, hay là dâu tằm ăn. Phải xét kỹ chất đất. Hoặc khẩn rừng núi để: 1) lấy mũ cây thông rồi lập nhà máy nấu dầu térébenthine, dầu này là vật cần thiết của ngành công nghệ và ngành y dược; 2) đốn cây thông và lập nhà máy cưa ra ván mỏng, hay gỗ vuông, để bán ra ngoại quốc. Hoặc lập hội khai thác rồi mướn bác vật khoáng sản chuyên môn đi tìm mỏ dầu lửa, than đá, mỏ sắt, mỏ chì cùng các khoáng vật khác. Đó, tôi kể sơ qua mấy chỗ tôi nhận thấy như vậy đó Nghiệp nghĩ coi có phải hay không? Nghiệp vội vàng đáp:
- Đúng lắm. Đồng ý hoàn toàn. Hiện giờ ở vùng nầy mình chưa có hy vọng làm việc gì được. Để ở chơi vài tuần rồi vợ chồng tôi đi xuống miền duyên hải Trung Việt mà quan sát nữa coi.
- Tôi rất tiếc mà không đi theo được, vì cuối tháng nầy tôi phải có mặt tại Cần Thơ đặng sắp đặt cho tá điền làm tờ tá mướn ruộng. Năm nay công việc đó phải phiền phức, vì mọi người đều phải làm tờ lá mới. Phần đất nào của tôi thì làm tá tên tôi, còn phần nào của Loan thì làm tờ tá tên Loan. Phải làm cho rành rẽ.
- Anh biểu làm hết tên anh cũng được. Bề nào vợ tôi nó cũng nhờ anh góp giùm.
- Ê, ê! Tính như vậy sao được. Muốn bắt moa làm anh chủ điền
lù mù ở trong làng hay sao? Mùa nầy moa góp lúa, chớ qua mùa tới và luôn luôn mỗi năm, Loan phải coi cho mướn ruộng và thâu góp lúa tất cả. Việc đó phải giao cho đàn bà coi, đặng tụi mình khoẻ trí mà lo việc lớn chớ. Loan phải có một phần việc, đặng Loan lo chút đỉnh, chớ để Loan ăn rồi lại cứ nằm ngửa mà đọc tiểu thuyết hoặc thả riểu trên đường Catinat, hoặc họp bạn để nói hành thiên hạ hoài hay sao.
Cô Loan nói:
- Nếu anh bận việc thì em sẽ lãnh làm quản lý ruộng đất cho anh. Anh làm tờ tá cho rành đi, đặng em coi theo đó mà thâu góp. Hồi nhỏ em có giúp bà ngoại mà góp lúa, mấy năm sau đây má cũng phú thác cho em làm, má chỉ coi chừng vậy thôi.
Hoàng cười và nói:
- Ừ, vậy mới phải chớ! Chú Nghiệp nầy cưng vợ quá! Nầy, cưới vợ về, phải kiếm công việc cho nó làm, chớ cưng mà để vợ Ở không đi chơi, ấy là xúi cho vợ hư đa, nói cho mà biết.
Nghiệp rùng vai mà đáp:
- Anh nói cái giọng trưởng lão quá! Chưa có vợ mà dám lên mặt làm thầy thiên hạ về đạo làm chồng chớ.
- Moa làm chồng đúng lắm.
- Thì làm đi. Làm thử coi!
- Moa chưa muốn làm, chớ không phải sợ. Moa đợi chừng nào cho có một công việc làm ăn đàng hoàng rồi moa mới chịu cưới vợ, biết hôn? Toa đi chơi, toa ráng kiếm giùm cho moa một cuộc làm ăn đi.
- Để tôi xuống Cà Ná tôi coi ruộng muối của người Pháp họ làm có thạnh vượng hay là không, rồi tôi sẽ kiếm từ đó ra Phan Rang, Nha Trang, coi có chỗ nào làm ruộng muối được thì mình lập thế xin làm. Như không có, thì mình sẽ kiếm ở Miền Nam Việt, Bà Rịa, Ba Tri, Ba Động, Sóc Trăng, Bạc Liêu, hoặc ở Rạch Giá chắc là làm được. Nước Việt Nam nằm dọc theo mé biển trót hơn 2 ngàn cây số ngàn, thiếu gì chỗ mà chọn đất làm ruộng muối được. Thế mà nước không đủ muối cho dân dùng, nghĩ thiệt là kỳ cục. Ấy là tại bày hạn chế sản xuất, để cho hội nầy nhóm nọ họ nắm độc quyền mà bóp họng dân chúng chớ có chi đâu. Cho sản xuất thong thả đi, người ta làm ra muối nhiều, dân được hưởng giá rẻ, chánh phủ được lợi về thuế sản xuất và thuế xuất cảng, ai cũng có lợi hết. Về thuế sản xuất thì định thâu hoặc mỗi mẫu đất hoặc mỗi tấn muối. Thuế xuất cảng thì định thuế mỗi lần muối chở ra ngoại quốc. Thuở nay Nhựt Bổn cần mua muối của mình lắm. Mà có muối bán cho Cao Mên với Lào gần đây cũng đủ rồi.
- Ừ, ra vùng Nha Trang nhớ để ý đến vấn đề cá biển nữa, phải xem coi có thể tổ chức cuộc đánh cá tối tân để lập ra hãng làm nước mắm, làm cá khô, cá mặn, hoặc cá hộp hay không.
- Nhớ chớ. Vấn đề đó là vấn đề thuở nay tôi thích hơn hết. Tôi ưa công nghệ hơn nông nghiệp. Nhưng sanh trưởng trong vùng bình nguyên, từ nhỏ hễ bước chơn ra khỏi nhà thì thấy ruộng, tự nhiên tôi không khinh rẽ ngành nông, mà lại hay quan sát. Tôi nhớ tôi đọc được một tạp chí kinh tế, tôi thấy một ngýời Pháp có bằng địa chất học, viết một bài khảo cứu về địa chất học của vùng cao nguyên Nam Việt. Bài ấy nói rằng trong vùng này có một dải đất đỏ quí lắm. Dải đất ấy bề ngang cở chừng vài ba chục cây số ngàn, còn bề dài thì dài lắm. Nó nằm từ vùng Xuyên Mộc, trong tỉnh Bà Rịa, chạy lên tới vùng KonTum, đi ngang qua đất đỏ, An Lộc, Xuân Lộc, Bà Rá, Ban Mê Thuộc, Pleiku, Kon Tum. Trong dải đất đỏ, chất đất hợp với vườn tược ; trồng cao su, dừa khô, bông vải, cà phê, trà, gai, bất luận cây gì cũng thạnh mậu cả. Vậy nếu muốn lập vườn thì nên lập trong vùng đất đỏ, phần nhiều còn hoang vu, chưa ai khai khẩn. Mà trước khi khai thác, phải lo giải quyết vấn đề giao thông, phải làm sao cho thuận tiện sự qui tụ nhơn công, sự tiếp tế lương thực cho số nhơn công ấy và sự vận tải đồ sản xuất. Theo ý tôi thì Việt Nam cần phải mở đường xe lửa cho nhiều, ngành kinh tế mới dồi dào thịnh vượng được. Trước hết phải lập đường xe lửa trực tiếp Sài Gòn- Đà Lạt. đường nầy không dài lắm, vì đã có sẵn đường Sài Gòn-Xuân Lộc rồi. Phải có đường nầy thì rau cải, bông hoa ở Sài Gòn và giá sanh hoạt ở Đà Lạt mới hạ thấp được. Đồng thời phải lập đường xe lửa Sài Gòn - Kon Tum, chạy ngang qua hoặc Thủ Dầu một, hoặc Biên Hòa rồi thẳng lên Bà Rá, Ban Mê Thuộc, Pleiku, Kon Tum. Chúng ta đã có sẵn đường sắt chạy theo mé biển. Hễ lập thêm đường sắt xuyên vùng cao nguyên rồi thì nối cho hai đường giao tiếp với nhau. Đà Lạt có đường xuống mé biển rồi, bây giờ phải nối qua Ban Mê Thuột. Cũng nên nối Nha Trang với Ban Mê Thuột và Qui Nhơn với Kon Tum nữa, thì sự vận tải và giao thông mới tiện. Phải làm việc đó trước, thì tự phiên cuộc khai thác cao nguyên tự nhiên chạy theo liền, không cần lo cũng thành tựu.
Hoàng gặc đầu nói:
- Thật quả như vậy, bộ Loan buồn ngủ. Thôi để về cho vợ chồng nghỉ vì ngày nay ngồi xe mỏi mệt.
Qua bữa sau, Nghiệp với Hoàng bắt đầu đem cô Loan đi chơi, bữa nào cũng đi, sớm mơi đi xa, buổi chiều đi gần, bữa thì dạo chơi cảnh thanh tịnh hoặc thú u nhàn, bữa thì dọ xem cách làm ăn, bữa thì tìm kiếm mấy nguồn lợi mà người ta chưa để ý.
Ban ngày đi chơi, ban đêm thì hội nhau mà bàn luận, bàn những cuộc đổi thay sắp đến, luận những điều cần thiết phải làm, làm đặng giúp nước thêm phú cường, làm đặng dạy dân mau tiến hoá.
Cô Loan ít học nhưng nghe chồng với anh nói chuyện riết rồi cô cảm nhiễm nên tâm chí lần lần rộng, kiến thức lần lần sáng thêm, cô mới thấy thói thấp hèn của thiên hạ xưa nay, cứ bu nhau mà giành giựt cái lợi bất nghĩa, cái lợi cỏn con, không biết hiệp lực đặng xây đắp cái lợi cộng đồng của quốc gia, cái danh hiển hách của chủng tộc.
Chưa quá 10 ngày mà cả vùng Đà Lạt từ châu thành ra ngoại ô, không còn chỗ nào mà không có dấu chưn của Hoàng và vợ chồng Nghiệp.
Cô Loan đã được thưởng thức cái cảnh im lìm an tịnh ở suối Cam Ly, ở rừng Ái Tình (Bois des Amours ), ở Hồ Than Thở (Lac des Soupirs). Cô Loan đã được xem sức nước ở thác Gồ Gà, cách nuôi bò, nuôi dê để lấy sữa Đăng Kia, cách trồng bông hoa, trồng rau cải, trồng đậu, trồng cao su ở Arbre Bryoé, ở Dran, ở Bellevuẹ Cô đã được lên đồi Pointđe-Vue ngồi ngắm lại châu thành Đà Lạt, mà xem lâu đài đường sá sắp nằm có lớp có từng. Cô còn lên tới triền núi Lâm Viên, đứng xem quang cảnh tổng quát của cả vùng cao nguyên, xa kia núi chập chồng, trước mặt đồi nằm lúp xúp.
Cảnh cô Loan thích hơn hết là cảnh hai bên con đường gọi là Tour de Chassẹ Cô đã xin chồng đi vòng theo con đường nầy đến mấy lần, khi đi buổi mơi, khi đi buổi chiều. Lần nào đi được nửa đường cô cũng biểu xe ngừng lại rồi cùng chồng bước xuống đứng nhìn mấy vùng cỏ non, chỗ nắng thì vàng, chỗ mát thì xanh, chẳng khác nào một tấm gấm khổng lồ trải trên các đồi mà khoe dệt khéo. Lại rải rác vài cây thông già sừng sựng trên đồi mà coi chừng mấy bầy nai ăn cỏ, làm cho hiện ra bức tranh tùng lộc thiên nhiên.
Cô Loan khuyên chồng chụp hình cái cảnh thanh cao đẹp đẽ nầy đặng chừng về Sài gòn cô mướn rọi ra lớn để treo trên bàn viết mà nhìn cho khoẻ trí.
Chơi đúng 2 tuần lễ rồi Hoàng sửa soạn đặng trở về Cần Thơ tiếp xúc với tá điền cho họ quen biết mà tin cậy nhau, gây tình thân ái giữa nhà nông và chủ ruộng. Vợ chồng Nghiệp cũng sửa soạn xuống Nha Trang ở chơi ít ngày rồi sẽ trở về, đi lần lần từ chặng, đặng quan sát miền duyên hải phía Nam Trung Việt.
Một buổi sáng hai xe phân rẽ nhau, mỗi chiếc đi một ngã.
Hôm ba mươi Tết, sớm mơi, xe lửa Sài Gòn - Hà Nội ra tới Nha Trang, hành khách kẻ đi người về chen nhau rộn rực.
Trong đám người xuống xe đi lại cửa nhà ga mà ra, người ta thấy có một ông mặc áo đen dài, đầu đội nón nỉ, quần trắng, giầy đen, nơi cánh tay trái có máng một áo mưa, lại có kèm thêm một cây gậy. Một anh bồi khách sạn đi dựa bên, tay xách hoa ly, theo chỉ nẻo cho ông ra cửa.
Ông nầy ốm yếu, mặt thõn, nước da trắng, hai bên mép có râu le the, bộ già yếu, mà răng thì còn đủ, nên khó mà đoán tuổi của ông cho được. Mà bộ tướng đó không thể nào dưới 50 tuổi. Tướng thì thật là nghiêm trang song sắc mặt có vẻ buồn bực. Ai trông thấy cũng đoán ông là một viên chức ở Sài Gòn làm việc thâm niên mệt mỏi, nên nhơn dịp Tết ra đây ở nghỉ ít ngày mà hứng gió biển đặng bổ lấy sức lại.
Ra khỏi cửa ga rồi anh bồi mời ông lên xe kéo, để hoa ly của ông dựa chưn ông, biểu xa phu chạy lại nhà ngủ Thái Lai, rồi tay vịn xe mà chạy theo.
Vì Tết Ngươn Đán sắp đến, ai cũng lo về nhà mà hoà hiệp với gia đình, đến ông chủ khách sạn cũng đã về nhà riêng đặng rước ông bà, bởi vậy khách sạn Thái Lai vắng hoe, chỉ có hai anh bồi không nhà cửa, không vợ con, nên ở lại tiệm thay thế cho chủ với quyền tự do hành động. Hồi khuya hai anh em chia công việc với nhau, một anh ở nhà coi tiệm, một anh ra đón xe mà kiếm mối thử, nếu may có khách lạc loài thì tiếp rước rồi chia tiền phòng mà xài.
Anh ở nhà mới thức dậy, chưa kịp rửa mặt, bỗng thấy xe kéo ngừng trước tiệm với một ông khách đàng hoàng, thì mừng rỡ bước ra nghinh tiếp. Anh kia đã tự mình mời khách, không khứng để cho bạn đoạt công, nên với xách hoa ly và mời khách vào.
Ông khách bước xuống và mở bốp lấy bạc cắc trả tiền xe. Anh bồi ở nhà liền nói:
- Bẩm quan, một hào thôi. Ông khách chống gậy vô cửa.
Anh bồi theo hỏi:
- Bẩm quan ở Sài Gòn ra?
- Ừ, ở Sài Gòn ra.
- Bẩm quan, để dọn phòng nhứt cho quan nghỉ.
- Ừ, cho cái phòng mát mẽ và thanh tịnh.
- Bẩm, ở đây các phòng đều sạch sẽ mát mẽ lắm. Lại vào lúc Tết nên không có khách nào hết. Quan ở yên tịnh tự nhiên.
- Nếu vậy tôi ở có một mình hay sao?
- Vâng, êm ái lắm.
Ông khách nhích mép cười. Ông thấy anh bồi kia xách hoa ly đi thẳng lên thang lầu thì ông hỏi:
- Phòng ở trên lầu hay sao?
- Vâng.
- Tôi muốn ở từng dưới cho tiện.
- Bẩm quan, dưới đất không có phòng. Ở trên lầu có gió mát mẽ.
- Vậy thì ban đêm có một mình tôi ở trển?
- Bẩm quan, nếu quan muốn thì ban đêm trong hai anh em con sẽ có một ngủ từng trên đặng khi cần dùng thì quan gọi cho tiện.
- Ừ, có vậy thì được.
Ông khách lên lầu, thật thấy phòng sạch sẽ lại mát mẽ. Ông liền mở hoa ly lấy một bộ đồ mát bằng lụa trắng ra mà thay đặng nghỉ cho thong thả ,
Bồi hỏi ông có muốn ăn lót lòng hay không thì ông lắc đầu. Ông đưa một đồng bạc biểu mua một ly cà phê uống thì đủ. Một anh bồi vội vã đi liền. Còn một anh xách bầu nước đem vào để cho ông rửa mặt.
Ông khách hỏi:
- Ở đây làm sao ăn cơm?
- Bẩm quan, có tiệm cơm khách trú gần đây. Quan đặt nó nấu rồi mỗi buổi con bưng (#17) về cho quan ăn.
- Ngày Tết có bán luôn hay sao?
- Bẩm, bán luôn luôn, vì ngày Tết người ta chơi bời, nên khách ăn uống đông hơn ngày thường.
Rửa mặt, thay đồ, uống cà phê xong rồi, ông khách lại đứng dựa cửa sổ mà ngó xuống đường. Người đi chợ mua đồ ăn Tết, ai cũng hớn hở vui cười. Mà ông khách ngồi ngó một hồi rồi ông ủ mặt châu mày, bỏ đi lại giường nằm dàu dàu, dường như cảnh vui của thiên hạ là cảnh buồn của ông vậy.
Bồi đem lên một bình trà nóng để sẵn trong phòng. Ông dặn hễ gần tới giờ cơm, trưa hay chiều cũng vậy, cứ lên lấy tiền đi mua giùm đồ về cho ông ăn. Suốt ngày ông không ra khỏi phòng, nằm mỏi thì ngồi đọc sách, mà hễ đọc ít hàng thì ông ngước mắt ngó mông mà suy nghĩ.
Lối một lát, anh bồi ôm mền chiếu lên để ngoài cửa phòng ngó và thấy ông khách nằm buồn hiu, thì mơn trớn hỏi:
- Bẩm quan, ngày Tết quan nằm một mình chắc quan không vui. Nếu quan muốn có người nói chuyện chơi đặng giải buồn, thì con sẽ kiếm mà gọi lại đây.
Ông khách hiểu ý anh bồi muốn bày việc xằng xịu, thì ông trề môi lắc đầu mà đáp:
- Cảm ơn em. Tôi cần yên tĩnh nên không muốn chi hết.
- Ồ, quan muốn nghỉ cho yên. Chắc quan tính nghỉ hết Tết rồi về? Ông khách ngồi dậy nói:
- Tôi chưa nhứt định ở bao lâu, mà tôi cũng chưa biết ở Nha Trang được hay là phải đi tỉnh khác. Nầy em, bước vô đặng tôi hỏi thăm một chút. Em có biết ở chung quanh châu thành đây có ai cho mướn hoặc thuê nhà hay không? Tôi muốn kiếm mua một cái đặng ở nghỉ và dưỡng bịnh. Nhà nhỏ nhỏ, không cần lớn, nhà tranh cũng được, song phải có chung quanh để trồng rau cải chơi.
Anh bồi bước vô nói:
- Bẩm quan, có. Cách vài ba bữa rày có gặp anh Nguyễn Thuận, người bán rau cải, nhà ở phía sau châu thành đây, ảnh cậy con coi có ai mua nhà mua đất thì làm mối giùm cho ảnh bán, vì ảnh còn ông cha ở trong Ba Ngòi, năm nay ông cha già quá, nên biểu ảnh về trỏng mà ở với ông, phòng khi ông ương yếu có người chăm sóc ông. Con biết nhà anh, miếng đất thì lớn song tệ lắm.
- Không hại gì, miễn có cửa nẻo tử tế thì thôi. Tôi ở một mình nên cũng không cần nhà lớn.
- Cái nhà đó chỉ cất một căn rộng, vách đất, lợp tranh, cửa ván.
- Vậy thì được lắm. Ảnh có nói ảnh muốn bán giá bao nhiêu không?
- Bẩm không. Nhưng con sợ bán cả nhà và đất không dưới một ngàn đồng bạc.
- Giống gì mà mắc như vậy!
- Miếng đất lớn và tốt, ảnh trồng rau trồng cải bán mỗi ngày đến năm ba đồng bạc, chớ phải ít sao. Quan muốn mua, để mai con dắt quan vô coi, rồi trả giá với ảnh.
- Mai chánh ngày mùng một Tết mà đi coi nỗi gì. Để hết Tết đã chứ.
- Vâng. Để mai mốt con có gặp ảnh, con nói trước cho ảnh haỵ Hoặc con biểu ảnh ra mời quan vô chơi, đặng quan coi đất.
Anh bồi thật lòng sốt sắng. Mới mồng 3 thì anh đã dắt Nguyễn Thuận vào phòng viếng ông khách Sài Gòn mà nói chuyện mua bán đất. Nguyễn Thuận mời ông khách vô coi như bằng lòng rồi sẽ định giá cả.
Ông khách thay đồ đi với Nguyễn Thuận, lại biểu anh bồi đi theo. Lại trước cửa nhà ga xe lửa rồi quẹo phía tay mặt đi theo đường quan lộ số 1. Tới một hòn núi nhỏ, phía tay mặt trên chót núi có một cảnh chùa, thì tẻ vô một cái bơ mẫu nhỏ mà vô xóm ở phía sau hòn núi ấy. Xóm ấy gọi là xóm Cải, vì cả xóm chuyên nghề trồng rau cải, để cung cấp cho bạn hàng bán ngoài chợ Nha Trang.
Ông khách coi đất coi nhà thì ưng bụng lắm. Ông hỏi định bán bao nhiêu. Nguyễn Thuận nói bán luôn đất, nhà với các tài vật trong nhà là: ván, giường, bàn ghế, cuốc xuỗng, cùng chén bát, tất cả dứt giá 2 ngàn.
Ông khách chê mắc không chịu muạ Nguyễn Thuận bớt 200 còn 1.800, ông cũng lắc đầu.
Ông day qua nói chuyện mướn. Nguyễn Thuận suy nghĩ một hồi rồi nói nếu cho mướn thì nhà với đất chớ không có đồ đạc, mỗi năm định giá 500 đồng. Trả lên bớt trót giờ, rồi hai đàng mới thoa? thuận giá mướn nhà với đất mỗi năm là 300 đồng, phải chồng tiền trước ; còn đồ đạc thì ông khách chịu mua đứt với giá 100 đồng.
Bữa sau Nguyễn Thuận ra khách sạn làm tờ giao kèo, hai đàng ký tên xong rồi, ông khách mời đóng 400 đồng bạc, là tiền mua tài vật với tiền mướn một nãm. Nguyễn Thuận hẹn mùng 8 giao nhà. Ông khách cậy mướn giùm cho ông một người nấu cơm và giúp ông làm rẩy.
Sáng mùng 8 ông khách trả tiền mướn phòng ngủ, phát tiền nước cho hai anh rồi, cho riêng anh bồi làm mối mướn nhà đó 20 đồng, rồi kêu xe chở hoa ly lên nhà ở mướn.
Nguyễn Thuận trình diện tên Lung là người đã chịu giúp ở cho ông, rồi giao nhà mà đi về Ba Ngòi.
Ông khách vô xóm Cải ở đã gần hai tháng rồi mà không ai biết ông tên gì. Cả xóm cứ gọi là ông khách Sài Gòn. Ông không đi chơi mà cũng không ưa nói chuyện với ai.Tối ngày ông mặc quần vắn áo sơ mi, cứ lo vô phân chỗ nầy, ương hột chỗ kia, lui cui ngoài rẫy cải hoài. Đến bữa cơm trưa ông vô nhà nghỉ rồi xế mát ông tiếp làm rẫy nữa. Ban đêm ông đóng cửa sớm, trong nhà đốt đèn lu lu, không ai biết ông ngủ hay làm việc chi, không nghe tiếng nói chuyện. Có một bà già ở gần mỗi bữa bưng rau ra chợ bán. Ông biểu tên Lung gởi tiền mượn bà mua giùm thịt cá. Lâu lâu tên Lung mới đi chợ một lần, đi đặng mua gạo, nước mắm dầu lửa, cà phê, đường và sữa hộp.
Buổi sớm mơi nầy ông sai tên Lung đi chợ rồi ông đội nón ra trước cửa vun đất mà lấp gốc cho mấy liếp cải vừa mới tược vài ba lá. Có một người mặc âu phục đàng hoàng, đi ngang ngoài hàng rào, thấy ông lum khum thì dừng bước, mắt ngó ông trân trân. Ông vừa mới ngay lưng thì người ấy la lớn:
- Húy! Quan lớn thật mà! Sao bây giờ quan lớn ra ở đây?
Ông khách ngạc nhiên, ngó và hỏi:
- Ai đó, tôi không biết. Sao lại kêu tôi là quan lớn?
- Quan lớn quên tôi hay sao? Tôi là Xã Lương ở Cái Răng đây.
Người ấy đáp và bước vô rẫy cải.
Ông khách ngơ ngáo rồi hỏi:
- Xã Lương... Phải chú xã năm trước thâm công nho đến 30 ngàn rồi trốn đi mất đó hay không?
- Bẩm phải.
- Bây giờ ở đây hay sao?
- Bẩm không. Tôi ở xa lắm.Tôi vô đây mua đồ. Tại sao quan lớn ra ở đây?
- Ối! Việc đời nói không hết được, chú ơi! Mời chú bước vô nhà nói chuyện chơi.
Hai người nối nhau mà vô nhà. Ông chỉ ghế mời chú Xã Lương ngồi, rồi ông đi thẳng ra phía sau mà rửa tay.
Ông khách ở Sài Gòn nầy là ai, mà chú Xã Lương lại xưng hô “quan lớn”? Ông là ông Phủ Võ Như Bình, hồi trước làm chủ quận tại Cần Thơ.
Nên nói phứt cho người ta biết rằng Võ Như Bình nầy làm mưa làm gió tại Toà bố Cần Thơ trót 25 năm. Ban đầu đứng Thông ngôn, sau thăng tới chức Huyện rồi Phủ. Khi ông mới ra trường ông làm việc tại Sài Gòn, thì ông đã kết bạn trăm năm với một cô gái, con nhà lam lũ, sanh được một đứa con trai, nhưng vì vợ chồng không có hôn thú, lại sanh con ở trong làng nên cũng không có khai sanh rành rẽ. Chừng ông thi đậu, được bổ xuống Cần Thơ, ông không đem vợ con theo. Gặp cô Hai Hương, một goá phụ giàu lớn ở Bình Thủy, tuy đã có hai mặt con một trai một gái, song nhan sắc vẫn còn đẹp, nên phủi cả vợ con mà cưới cô Hương. Vì cô Hương ăn gia tài bên người chồng trước nhiều, sợ cải giá không được hưởng huê lợi nữa, nên ở với Bình mà cũng không lập hôn thú.
Trót 25 năm, nhờ thói sâu dân mọt nước, Bình xây dựng thêm một sự nghiệp rất lớn, mua được 400 mẫu ruộng tốt, nhưng vì sợ phạm luật lệ nên phải để cho cô Hương đứng bộ. Sau nầy cậy quyền ỷ thế Bình làm lộng quá, làng dân thán oán mới gây ra cuộc thưa kiện tưng bừng. Tuông bạc tiền ra như nước mà trám miệng mua lòng, nên khỏi bị lột chức, song phải bị đổi vô Hà Tiên. Bình lấy làm xấu hổ, nên xin hưu trí non, đặng trở về Cần Thơ mà tranh cử nghị viện quản hạt. Trước kia đã thất nhơn tâm quá rồi bây giờ làm sao mà mua chuộc lại được, bởi vậy mặc dầu tốn cho đến ba bốn muôn mà cũng phải lãnh họa thất bại rất đau đớn.
Bình với Hương đều hổ thẹn buồn rầu, nên cả hai đều nhuốm bịnh. Kế đó người con trai lớn của Hương qua Pháp học, vừa thi đậu bằng Bác vật nên trở về quê quán của ông chạ Bình thấy con ghẻ trổ mòi lãnh đạm với mình, nên giả chước đi hứng gió mà bước tránh, để cho mẹ con thong thả hòa hợp với nhau. Chẳng dè Hương bị bịnh ngặt, Bình được tin lật đật trở về, mà về tới nhà thì Hương đã chết, không kịp trối trăn chi hết.
Chôn cất xong rồi, Bình thất thế nên xin với hai con ghẻ chia cho mình 100 mẫu ruộng với 20 ngàn đồng bạc mà thôi, song con ghẻ quyết lấy lại tất cả sự sản của mẹ cha, chỉ chịu cho có bốn ngàn đồng bạc.
Bình tức giận, mà tranh giành không được, nên bỏ nhà ra đi trong túi chỉ có bảy tám trăm đồng bạc, trong hoa ly chỉ có áo quần với cuốn sổ chứng số tiền hưu trí. Ra Vũng Tàu mà tịnh dưỡng Bình gặp ông mai giúp cho mình cưới người vợ trước đó, ông nhắc lại chuyện cũ, Bình mới hay là người vợ trước cải giá, kết nghĩa vợ chồng với một ngừơi thợ máy.
Người thợ nầy ra giữa Toà xin khai sanh cho đứa con của mình rồi cho qua Pháp mà ăn học. Bây giờ người thợ máy đã thành ông chủ hãng bán xe hơi giàu có sang trọng, còn đứa con của Bình thành một vị Bác vật danh giá lẫy lừng ; tuy là quạ với tu hú, song tình nghĩa cha con đắm đuối mà mặn nồng; đương hiệp nhau mà cai quản hãng xe hơi, ở đô thành Nam Việt.
Đã thất chí, Bình đương chán nản, mà nghe nhắc chuyện xưa, Bình càng thêm hối hận vô cùng, buồn vì danh lợi tợ mây bay, hổ vì quả báo hiện trước mắt. Bình muốn xem tranh nhơn quả cho rõ ràng, muốn uống hối hận cho cạn ly, tới cặn cáu, nên trong ít ngày sau Bình trở về Sài Gòn, lén đi coi hãng xe hơi của con, rồi còn đi xem bề ăn ở của của người vợ trước kia mình đã phụ rảy. Bình lên tới Chí Hoà, chánh nhằm bữa con cưới vợ, vừa rước dâu về tới, khách khứa đầy nhà, hai họ chung vui hớn hở. Bình đứng ngoài lộ rình xem thấy mặt cha vợ với vợ con ngày trước, thì đau đớn như kim châm trong ruột mà còn thấy rõ nàng dâu chẳng phải ai xa lạ, ấy là con ghẻ của mình ở Cần Thơ, con gái của cô hai Hương.
Trí bối rối, mắt chói lòa(#18), Bình không thể đứng đó mà xem được nữa, nên quầy quã trở về khách lầu, nằm xếp ve.
Đến cái khoảng đời chí tan, đường lấp như vầy, người ta thường cậy cái chết giúp chấm dứt giùm nỗi đau khổ, nỗi tủi nhục. Bình từ nhỏ đã đào luyện một tâm hồn vong ơn bội nghĩa, nên không bao giờ nghĩ tới cái chết. Trái lại người như Bình sợ cái chết lắm, gặp hoàn cảnh nào cũng cứ quơ níu sự sống hoài, dầu sống với xấu hổ, sống với đau thương, sống với nghèo hèn, cũng ráng mà sống.
Nhưng, Bình nghĩ sống ở Sài Gòn hay trong lục tỉnh tự nhiên phải gặp người quen biết, rồi hổ thẹn trong lòng.
Bình tính nên đi cho xa, kiếm nơi hẻo lánh mà ẩn thân, ngặt một nỗi đi xa phải có sẵn một số tiền trộng trộng để hộ thân, bây giờ còn có vài trăm đồng bạc, làm sao mà đi được. Không lẽ trở về Bình Thuỷ mà xin tiền con ghẻ là bọn đoạt cả sự nghiệp của mình.
Bình nhớ lại ở Cần Thơ, còn nhiều điền chủ ngày trước thường chiều chuộng mình, nên tính về thăm mà cậy mỗi nhà giúp đở năm ba ngàn đặng chống chõi với thời vận. Té ra đi đến cả chục nhà mà chỉ kiếm được có 2 ngàn đồng bạc, tới đâu người ta cũng than túng, hứa để ra giêng góp lúa rồi người ta sẽ giúp thêm.
Nhờ có 2 ngàn đồng bạc đó Bình mới ra Nha Trang đây, tính kiếm một chỗ dung thân, mượn thú trồng tỉa mà sống âm thầm, xa con mắt người quen, xa bức tranh dĩ vãng. Vì ít tiền nên không mua nhà đất nổi, phải mướn ở đỡ cho qua ngày. Ở đó gần hai tháng rồi mà Bình không đi chơi, không tiếp khách, tối ngày cứ lui cui trồng cải đặng dụt tắt nổi ưu phiền, phui pha niềm hối hận. Nhưng ôm ấp ưu phiền hối hận hoài rồi cũng khó chịu, cần phải thở than cho nhẹ bớt nỗi lòng. Mà thở than với ai? Người lạ họ có biết tâm sự của mình đâu mà nói với họ, nói ra họ thêm cười mình, chớ họ có giải sầu cho mình được đâu mà nói. Cần phải nói đặng xả hơi mà không nói được nên bứt rứt.
Hôm nay gặp Xã Lương là người đã hiểu biết cái dĩ vãng rực rỡ của mình, Bình được một tí vui trong lòng, nên mời Xã Lương vào nhà đặng trút bớt bầu tâm bự hoặc may có hài lòng khoẻ trí chút nào không.
Rửa tay và thay quần áo rồi Bình trở ra lấy thuốc điếu(#19) mời Xã Lương hút. Nãy giờ Xã Lương ngồi ngó trước xem sau không hiểu tại sao Bình lại ra đây mà ở trong cái nhà bần hàn như vầy, nên vừa thấy Bình thì ra hỏi:
- Bẩm quan lớn, nhà của ai đây?
- Nhà của tôi, nhà tôi mướn.
- Sao quan lớn không ở ngoài nhà hàng, lại ở như vầy, buồn quá.
- Tôi ở đặng trồng rau trồng cải chơi.
- Ô, té ra quan lớn làm việc lâu năm mệt mỏi nên kiếm chỗ đặng giải trí, Quan lớn nghỉ được bao lâu?
- Tôi hưu trí rồi.
- Ủa! Hưu trí hồi nào?
- Năm sáu tháng nay.
- Tôi bỏ xứ mà đi đã ba năm rồi, nên không hay chi hết, Quan lớn còn trẻ tuổi, sao hưu trí sớm vậy?
- Việc của tôi lôi thôi lắm chú ơi! Để tôi nói cho chú nghe. Năm ngoái họ mưu sự xúi dân kiện tôi. Kiện không đủ bằng cớ gì hết, nhưng quan trên vị tình người cầm đầu nên đổi tôi vô Hà Tiên. Tôi giận tôi xin hưu trí.
- Bà lớn giàu có. Mà tôi nhớ năm trước quan lớn cũng mua riêng mấy trăm mẫu ruộng nữa. Quan lớn ở không ăn chơi mãn đời cũng không hết của, cần gì phải làm việc cho mệt trí.
- Ấy! Vậy mà bây giờ tôi sạch cái mình mới kỳ chớ.
- Có lý nào!
- Có chớ. Tôi vừa được hưu trí thì có cuộc tuyển cử Hội Đồng quản hạt. Tôi ra tranh cử quận Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Cử tri họ báo hại tôi, họ xoè tay lấy tiền của tôi mà vào phòng kín lại bỏ thăm tên người khác, làm tôi tốn hơn 40 mươi ngàn mà thất bại.
- Cử tri cứ chơi mửng đó(#20) hoài. Quan lớn tranh chức Hội đồng có ích lợi gì. Nằm rung đùi gãi vế chơi sướng hơn ngồi đưa tay lên bỏ tay xuống.
- Tại tôi giận, tôi muốn làm cho họ biết mặt. Mà chuyện xui xẻo còn kéo dài hơn nữa kìa. Thình lình thì vợ tôi chết.
- Huý! Bà lớn mất rồi?
- Thất cử Hội đồng không bao lâu, kế vợ tôi mất. Thằng con trai của vợ tôi bên Pháp nó về trước khi vợ tôi mất. Khi chôn vợ tôi rồi, nó hiệp với em gái nó mà đòi lại tất cả gia tài sự sản; 400 mẫu ruộng tôi mua để vợ tôi đứng tên bộ giùm đó, chúng nó cũng đoạt luôn.
- Ủa! Ruộng của quan lớn mua mà đoạt sao được. Phải kiện mà đòi lại chớ.
- Kiện không được. Tôi có hỏi Trạng sư rồi. Nếu viện lẽ tôi làm quan không được mua ruộng đất trong địa phận tôi cai trị, nên tôi mượn người bạn trãm năm đứng bộ thế cho tôi, thì con ghẻ tôi nó cãi mẹ nó có huê lợi mỗi năm đến 30 ngàn thùng lúa: hơn 20 năm nay huê lợi ấy chồng chất rất nhiều, bởi vậy mẹ nó lấy số đó mà mua ruộng, chớ tôi làm quan ăn lương mỗi tháng bao nhiêu mà có dư tiền mua nổi tới 400 mẫu ruộng.
- Phải rồi. Cái lý đó mạnh quá, mình khó vùng vẫy nổi. Quan lớn mua ruộng, ai cũng biết hết. Hai người con ghẻ của quan lớn đoạt như vậy coi không được. Ác quá!
- Tôi biết tôi thất thế nên tôi xin có 100 mẫu ruộng với vài chục ngàn để nuôi sống bản thân mãn đời tôi, chúng nó cũng không cho.
- Tham quá! Bây giờ quan lớn sống vất vả như vầy, thật tôi thấy ứa nước mắt. Tôi muốn quan lớn ở với tôi, khi đau ốm có tôi chăm nom thuốc men cơm cháo.
- Em ở đâu, em Xã?
- Dạ, ở gần trên Kon Tum lận.
- Kon Tum nằm về miệt nào?
- Đi xe lửa ra Qui Nhơn mới sang qua xe hơi lên An Khuê chừng vài chục cây số, chớ chưa tới KonTum.
- Sao mà ra tới ngoài đó lận?
- Thì năm tôi lỡ thua nhiều quá. Đứng bộ có 6 mẫu ruộng, mà thiếu nợ tứ tung thiếu trên 25 ngàn. Quan lớn nghĩ coi lâm vào cảnh đó, làm sao nào sống nổi.Tôi mới thộp 30 ngàn bạc công nho rồi. Tôi xin quan lớn đừng thối chí. Thất bại là bài học dạy mình thành công. Quan lớn thất bại mà quan lớn chưa già lắm. Quan lớn quên phứt cái đời cũ Để lo lập đời mới tìm hạnh phước khác mà hưởng, buồn rầu làm chi.
Thấy Như Bình lơ lửng ngồi thở dài, Xã Lương nói tiếp:
- Tôi muốn Quan lớn hiệp tác với tôi mà làm ăn lớn chơi. Tôi mắc kiếm đồ mua đặng chuyến xe sáng mai tôi về. Nếu Quan lớn không đi liền với tôi được, thì Quan lớn sắp đặt rồi lên sau. Cứ ra Qui Nhơn rồi lên xe đò mà đi theo đường mà tôi chỉ hồi nãy đó. Quan lớn lên chơi một lần cho biết, như Quan lớn không vừa ý thì chơi ít bữa rồi về.
Như Bình gặc đầu đáp:
- Để thủng thẳng rồi tôi sẽ tính.
Xã Lương từ giã mà đi.
Như Bình thay quần vắn rồi ra tưới rau.
Chú thích:
(17-) mang
(18-) chói làm lòa con mắt
(19-) thuốc lá
(20-) cách đó