Bà Cả Kim là địa chủ lớn ở Cần Thơ, bà có 2 con, con gái lớn là cô Phụng, có chồng là Hữu Nghĩa, con trai là Như Thạch, học sư phạm Hà Nội, ra trường rồi dạy ở Hà Nội. Xin chuyển về quê không được, Như Thạch bỏ việc, dẫn vợ là cô Nhung về quê. Thấy Nhung người Bắc, lại không được cưới hỏi đàng hoàng theo phong tục, bà Cả Kim khăng khăng không chấp nhận nàng dâu (mặc dầu Nhung là cô gái đức độ).
Mâu thuẫn ngày càng tăng giữa vợ chồng Như Thạch - bà Cả Kim - cô Phụng, chị Như Thạch, nên vợ chồng chàng từ bỏ tất cả trở lên Sài Gòn lập nghiệp. Tại đây Như Thạch đi dạy học, sống trong nghèo khổ và nuôi vợ đang mang thai. Sau khi cô Nhung sinh con thì cô bị bệnh rồi mất. Đứa con gái được đặt tên Thanh Nguyên. Không lâu sau, chính Như Thạch cũng qua đời do bênh lao. Lúc lâm trọng bệnh, Như Thạch viết lá thư kể rõ sự tình, mong bà Cả Kim tha thứ và đem cháu về nuôi, nhưng không thấy hồi âm, nên lúc hấp hối chàng đành gởi con gái Thanh Nguyên lại cho bạn đồng môn của mình là Tự Cường cùng tờ di ngôn và bảo Tự Cường cố giữ kín tung tích Thanh Nguyên, chờ khi cô 18 tuổi…
Thời gian trôi qua. Thanh Nguyên 18 tuổi và trở thành thiếu nữ xinh đẹp, được Tự Cường nuôi và giáo dục theo tư tưởng tiến bộ, tân thời. Lúc ấy Thanh Nguyên có bạn trai là Hữu Nhơn, hai người rất có cảm tình với nhau. Một lần nhân chuyến đi chơi, Hữu Nhơn ngõ lời cầu hôn. Thanh Nguyên đem chuyện bạn trai nói với cha nuôi là Tự Cường.
Chợt nhớ Thanh Nguyên đã 18 tuổi, Tự Cường cho con xem di chúc của Như Thạnh để lại. Bấy giờ Thanh Nguyên mới biết tung tích của mình. Một hôm Hữu Nhơn dẫn mẹ và bà (Cô Phụng và bà Cả Kim) lên coi mắt Thanh Nguyên để cưới làm vợ, tại đây họ đã tình cờ nhìn ra, Hữu Nhơn chính là anh bà con cô cậu ruột với Thanh Nguyên…
Cậu đã hiểu vì ngọn lửa ái tình nó đốt lòng cháu, nên cháu tự chuyên mà cưới vợ không chờ mạng lịnh của cha mẹ. Cháu lỡ phạm đến gia pháp, thì cháu đã lạy lục năn nỉ hết lời mà khẩn cầu má cháu tha lỗi cho cháu. Cháu thành tâm chịu lỗi, có trước mặt cậu nghe thấy rõ ràng.
Tiếc vì má cháu thưộc về lớp lớn, cố chấp những thành kiến cũ của gia đình xã hội thái quá, không muốn thấu hiểu tâm hồn chủ hướng của lớp nhỏ, nên má cháu đành đoạn tình mẫu tử, đành đuổi vợ chồng cháu ra khỏi nhà.
Cậu hiểu cái óc của lớp nhỏ, nên cậu đã không quở trách cháu mà cậu lại còn can gián giùm cho má cháu bớt giận.
Thái độ của cậu đối với vợ chồng cháu thiệt là đáng kính đáng phục, nó khắc ghi trong đầu vợ chồng cháu dầu trăm ngàn năm cũng chẳng phai chẳng lợt.
Hồi khuya hôm qua, lúc cháu đau lòng rơi lụy mà vác rương bước ra cửa ngõ, sắp lìa khỏi cái nhà của tổ phụ là chỗ ngày xưa cháu mở mắt lần đầu mà thấy đời là chỗ cháu đau đớn ôm cha cháu mà khóc khi cha cháu thở hơi cuối cùng, là chỗ chất chứa những kỷ niệm đầm ấm về đời thơ ngây của cháu, mà cũng là chỗ hiện nay đương ra vô châu mày một mẹ già mà vợ chồng cháu thương yêu kính trọng chẳng có chi bằng, thì vợ cháu có khuyên cháu nên ra nhà cậu mà trình cho cậu hay rồi sẽ di. Lúc ấy trí cháu bối rối, lòng cháu lạnh tanh, cháu chẳng còn biết quấy phải chẳng còn kể thân tộc, nên cháu lắc đầu rồi đi luôn, dường như cháu lật đật tránh xa cái luồng không khí nặng nề của đất Thới An vậy....
Sớm mai bà Cả Kim ngồi tại bộ ván cẩm lai lót dựa cửa sổ mà uống trà.
Con Tý, là đứa tớ gái của bà, hai tay cầm cây chổi cứ lum khum quét nhà, nó quét bụi bay ngang qua mấy ánh mặt trời dọi vô kẹt cửa coi như mấy lằn khói chứa trăm ngàn vi trùng nhảy múa tưng bừng.
Còn chú Hưng, là đứa tớ trai, mặc có cái quần ngắn, ở trần đưa lưng đen cháy, chú ở ngoài vườn chú tát nước dưới mương lên đám trầu trồng bên trái nhà mà tưới, tiếng nước dội lên lá trầu nghe ào ào.
Tuy tôi tớ trong nhà ra ngoài vườn làm nhộn nhịp như vậy, mà bà Cả tay bưng chén nước trà hớp mà uống, mắt ngó sững ra ngoài sân, bà không để ý đến con quét nhà với chú tưới trầu, mà bà cũng không thèm nói chuyện với Hữu Nhơn là cháu ngoại của bà, mới lên năm tuổi, đứng xẩn bẩn trước mặt bà mà dở ô trầu, xây bình vôi lộn xộn.
Trí bà đương vẩn vơ cõi ngoài, thình lình tên Hứa, là lính trạm của Sở Dây thép Ô Môn, ngừng xe máy ngoài cửa ngõ, dựng cái xe dựa cánh cửa, rồi xăm xăm đi vô sân. Bà thấy mà bà tưởng lính trạm đến nói chuyện chi đó với rể của bà, là xã trưởng Trần Hữu Nghĩa, bởi vậy bà cũng không để ý đến.
Tên Hứa bước lên thềm, tay ngả nón, tay móc túi, miệng nói: “Thưa bà, có dây thép gấp đánh lại cho bà đây”.
Bây giờ bà Cả mới định tâm lại mà hỏi:
- Dây thép của ai đó vậy?
- Thưa nghe ông Chủ sự nói dây thép của ông Đốc học đánh về cho bà.
- Ý, vậy hay sao! không biết nó đánh dây thép nói giống gì vậy kìa.
- Ông Đốc học đánh dây thép cho bà hay rằng ông về tới, chớ chẳng có việc chi quan hệ.
- À, vậy hả! Làm tôi tưởng có việc gì tôi hết hồn.
Tên Hứa liền để một cái bao giấy màu xanh trên ô trầu, trước mặt bà Cả.
Bà Cả hớn hở hỏi nữa:
- Mỗi lần có thơ hay dây thép tôi thường thấy trạm làng Thới An đi phát mà, sao bữa nay em lại đem dây thép?
-Thưa phải. Ở ngoài Rạch Gốc đây thuộc về làng, nên thơ từ thuộc về làng phát. Song ông Chủ sự thấy dây thép gấp, nếu để chờ tới trưa mà gởi theo trạm làng thì sợ trễ, nên ông sai tôi đem liền ra cho bà.
- Ông chủ sự dây thép tử tế quá. Em về nói qua cám ơn Chủ sự nghe.
- Dạ, thưa bà tôi về.
- Ừ, qua cũng cám ơn em lắm.
Tên Hứa vừa bước ra khỏi cửa, thì Hữu Nhơn thò tay lấy dây thép liền. Bà Cả lật đật giựt lại và nói: “Ý! đừng có lấy con. Dây thép của cậu ba con đánh về đó đa. Con vô buồng coi như cha con thức dậy rồi thì kêu ra đây coi giùm dây thép cho bà ngoại một chút. Đi đi con, dễ biểu rồi bà ngoại cưng”.
Hữu Nhơn nói giọng chùng chừng:
- Con đi kêu cha rồi ngoại cho con giống gì?
- Con muốn giống gì ngoại cũng cho hết.
- Ngoại biểu chị Tý bồng con vô chợ chơi nghe hôn.
- Ừ, chiều mát rồi ngoại cho đi.
Hữu Nhơn mừng nên đâm đầu chạy vô buồng.
Cô Phụng là con gái thứ hai của bà Cả, mẹ của Hữu Nhơn, ở nhà sau đi lên, đầu tóc láng nhuốt, vừa gặp con thì cản lại nói: “Đừng có chạy con, chạy té chết”. Hữu Nhơn cười rồi gỡ tay mẹ mà chạy vô buồng.
Cô Phụng ra trước thấy bà Cả ngồi có một mình thì hỏi:
- Nghe má nói chuyện với trên này, mà sao không có ai hết vậy?
- Ờ, có lính trạm của ông Chủ sự dây thép sai đem dây thép cho má, chớ có ai đâu.
- Dây thép gì?
- Dây thép của thằng Ba đánh nói nó về. Dây thép đây, con coi thằng Xã có thức dậy thì biểu nó coi thử coi thằng Ba nói về mà chừng nào về tới.
Bà lấy dây thép trao cho con. Cô Phụng cầm đi vô buồng một chút, thì Trần Hữu Nghĩa ra, vì ngủ mới dậy, nên mặt mài còn bí sị, bộ đồ hàng trắng bận trong mình nhàu nhè hết. Hữu Nghĩa đứng mở dây thép ra mà coi, vợ con đứng một bên. Chàng coi rồi nói rằng: “Cậu Ba nói cậu về tới Sài Gòn rồi, buổi sớm mai cậu sẽ tới nhà. Dây thép đánh tại Sài Gòn hồi 6 giờ chiều hôm qua. Vậy thì nội buổi sớm mai nầy cậu sẽ về tới”.
Bà Cả têm trầu mà ăn, bộ vui vẻ lắm. Bà nói: “Sớm mai, nó làm sao mà về tới được. Thường thấy họ đi Sài Gòn họ về xe đò, quá 12 giờ trưa họ về mới tới”.
Hữu Nghĩa nói: “Thưa phải, xe thơ 10 giờ rưỡi xuống mới tới Cần Thơ. Như cậu Ba về tới đó, cậu mướn xe Location mà về liền, không chờ xe đò, thì chừng 11 giờ cậu về tới nhà được”.
Bà Cả suy nghĩ rồi nói: “Vậy thì tới Sài Gòn nó mướn phứt một chiếc xe hơi nó về cho mau”.
Hữu Nghĩa trở vô trong mà rửa mặt.
Cô Phụng dắt con lại ngồi trên ván mà nói rằng:
- Má tưởng mướn xe hơi trên Sài Gòn mà về dưới Ô Môn rẻ lắm hay sao? Tốn ít nào cũng 25 tới 30 đồng bạc.
- Tốn bao nhiêu thì tốn chớ. Con Thình nó đi chợ rồi hay chưa?
- Chị đi chợ hồi tảng sáng, đâu có để tới bây giờ mà hỏi.
- Thôi, con tiếp đi vô chợ mua thêm thịt cá đặng nấu nướng cho nó về ăn. Để má sai bầy trẻ đi mời anh Chánh bái với cậu Hội đồng vô ăn cơm chơi mà mừng cháu. Nó ở ngoài Bắc Việt hơn một năm nay, nó ăn uống cực khổ, chắc nó thèm đồ trong mình lắm. Con bận áo mà đi chợ đi con. Con mua đồ thêm đặng cho con Thình nó bưng về luôn thể.
Cô Phụng trở vô buồng đặng thay đồ đi chợ, mà sắc mặt cô không vui.
Hữu Nghĩa rửa mặt rồi ra ngồi tại ghế giữa mà hút thuốc, Hữu Nhơn xẩn bẩn đứng một bên.
Bà Cả vô nhà trong biểu con Tý nấu nước sôi rồi bắt một con vịt tơ cho thiệt mập mà làm thịt. Bà lại kêu chú Hưng mà sai đi mời ông Chánh bái Thành là anh chú bác với ông Cả và mời thầy Hội đồng Quyền là anh em ruột của bà. Bà dặn chú Hưng: “Mầy đi mời thì nói lát nữa đây có cậu Ba Đốc học về tới, nên mời hai ông vô ăn cơm nói chuyện chơi. Nhớ nói cho rành như vậy”.
Bà Cả Kim góa chồng hơn mười năm rồi, bà làm chủ một sự nghiệp lớn của chồng để lại, mỗi năm huê lợi ruộng bà thâu góp trên 20 ngàn giạ lúa. Bà chỉ có 2 người con: Con gái lớn là Cô Phụng năm nay 28 tuổi, tuy có chồng song cũng ở chung với bà, con trai nhỏ là Lý Như Thạch, năm nay 24 tuổi, học trường Cao đẳng sư phạm ngoài Hà Nội, năm ngoái thi đậu rồi Nhà nước cấp bằng cho làm giáo sư tại Bắc Việt, bà thương nhớ con, lại nghĩ nhà giàu lớn, dầu con không làm việc cũng không đói rách mà lo, nên bà viết thơ biểu con xin đổi về Nam Việt, như xin đổi không được thì xin từ chức đặng về cưới vợ rồi ở nhà cai quản ruộng vườn. Như Thạch về đó là vì vưng lời mẹ, nên xin từ chức giáo sư mà về cho mẹ vui lòng.
Bà Cả tin con về thì bà hớn hở trong lòng, nên cứ đi lên đi xuống nhà sau hoài, bà ngồi không yên chỗ. Còn Hữu Nghĩa thì cứ giỡn với con như hàng ngày, không thấy chàng lộ sắc vui hay là buồn chút nào hết.
Ông Chánh bái Thành ở gần, nên được tin mời thì ông tới trước. Tuổi vừa quá 50, tóc đã bạc hoa râm, mà răng còn chắc, sức còn mạnh, ông mặc một cái áo xuyến đen dài, vai vắt khăn bàn lông, chơn mang giày hàm ếch. Ông vừa ngồi thì liền hỏi bà Cả:
- Thằng Ba nó về tới hồi nào?
- Nó chưa về tới. Nó đánh dây thép cho hay sớm mơi nầy nó tới mà chưa chắc giờ nào.
- Bất nhân dữ hôn! Vậy mà thằng Hưng nó nói ấp úng, tôi tưởng thằng Ba đã về tới rồi chớ.
- Chắc 11 hoặc 12 giờ nó về tới. Tôi sai đi mời anh lại trước đặng nói chuyện chơi.
- Lúa của thiếm nó đã thâu góp xong hết hay chưa?
- Thằng Xã nó coi thâu góp xong hết rồi.
- Năm nay trong rạch Ba Rích coi thất bộn, vậy mà sở ruộng của thiếm nó ở trong đó góp lúa mướn có đủ hay không.
- Sở đó nó góp thiếu chút đỉnh. Năm nay có sở đó góp thiếu, còn mấy sở ở Thái An, Phước Thới, Thới Thạch, Ô Môn, Định Môn, nó góp lúa đủ hết.
- Lúa ruộng của thiếm nó trên 20 ngàn giạ, lại năm nay lúa coi mòi có giá, nên dầu có góp thiếu chút đỉnh củng chẳng thiệt gì lắm.
Ông Chánh bái Thành thấy Hữu Nghĩa lại đứng rót nước trà trước mặt ông thì ông hỏi:
- Cháu giao mộc cho xã mới xong rồi?
- Thưa, xong rồi?.
- Nghe nói Hội tề muốn cử cháu làm chức hương thân mà cháu chạy phải hôn?
- Thưa phải, cháu làm xã trưởng tới 2 năm, mệt mỏi quá nên Cả Chủ cử cháu lên hương thân cháu chạy. Nhà đơn chiếc, trong, ngoài gì cũng một mình cháu. Cháu giúp việc làng 2 năm nghĩ cũng đủ rồi. Để cháu ở ngoài đặng thong thả mà lo việc nhà.
- Có thằng Ba nó về đây, thì nó chia lo với cháu, chắc cháu khỏe được một chút.
Bà Cả cười và đáp thế cho con rể:
- Thằng Ba từ nhỏ chí lớn nó mắc đi học, có biết tới việc ruộng đất gì đâu. Dầu nó có về ở nhà, bất quá nó coi sóc trong nhà còn việc cho mướn ruộng hay là góp lúa thì tôi cũng phải giao cho vợ chồng thằng Xã, chớ giao cho nó sao được.
- Nó học giỏi lại lớn rồi, có việc gì mà nó làm không được. Hồi mới tự nhiên nó bợ ngợ, mà làm chừng một hai năm thì nó quen chớ gì.
- Ý! Anh không biết tánh ý nó. Thằng kỳ cục lắm, hễ ai năn nỉ nó thì nó xiêu lòng liền. Giao cho nó đi góp lúa, chẳng khỏi tá điền họ giựt họ ăn hết.
- Thiếm nói chơi, chớ giựt sao được. Thằng Ba nó hay thương người ta, hễ thấy ai năn nỉ thì nó xiêu lòng, ấy là vì nó có lòng nhơn. Mà nó học giỏi, có phải nó khờ dại gì hay sao mà giựt của nó được.
- Nó có tánh hễ thấy nhà nghèo thì nó thương. Ở đời nầy mà đụng đâu thương đó, họ lột da chớ phải chơi sao.
Đang nói chuyện tới đó kế thầy Hội đồng Quyền bước vô. Thầy bận áo dài, mang giày tây, đội nón trắng, vóc cao lớn, mép có râu, nên tướng mạo coi mạnh mẽ lắm.
Bà Cả, ông Chánh bái với Hữu Nghĩa đều chào mừng. Thầy Hội đồng ngồi tại ghế giữa với ông Chánh bái rồi nói: “Chắc thằng Ba nó xin từ chức được rồi nên nó mới về đó”.
Bà Cả gật đầu mà đáp:
- Ừ, nó xin thôi được rồi hôm tháng trước lận mà. Hôm trước nó có gởi thơ cho tôi hay, nên tôi biểu thằng Xã mua mandat gởi cho nó 200 đồng bạc đặng nó về đó.
- Nó về tới Sài Gòn rồi nó đánh dây thép nói sớm mai nầy nó về tới nhà phải hôn?
- Ừ.
- Chắc nó mướn xe Location nó về.
- Không biết nó mướn xe mà về hay là nó đi xe đò. Tánh nó lôi thôi lắm, sợ nó hà tiện đi xe đò nó về trễ quá.
- Nếu đánh dây thép nói sớm mai về tới thì chắc không phải đi xe đò đâu. Thôi nó về thì chị lo cưới vợ phứt cho nó đặng nó coi sóc việc nhà cho chị.
- Để thủng thẳng mà kiếm chỗ cho xứng đáng chớ hối tốc quá sao được.
- Chị dắt nó đi coi con thầy Cai, như nó đành thì cưới liền cho nó đi.
- Nghe nói con thầy Cai nước da không được trắng sợ nó chê chớ.
- Ối! Cưới vợ mà cần gì đen trắng, nhơn nghĩa mới quí, chớ nước da mà quí gì. Nhà thầy Cai là nhà có đức, mà lại sang trọng nữa. Chị làm sui chỗ đó thì xứng đáng biết chừng nào.
Ông Chánh bái cười mà nói: “Nội đây bà con mình mà thôi, nên mình nói lén mà nghe: thầy Cai làm coi rầm rộ như vậy chớ không giàu. Tôi nghe nói ông Chủ Hinh bên Bò Hút ổng có hai đứa con gái, mà ổng giàu lớn lắm. Thiếm Cả hỏi tuổi rồi đi coi như được thì làm sui chỗ đó, sau thằng Ba nó mới nhờ nhiều”.
Thầy Hội đồng vuốt râu mép và trợn mắt ngó ông Chánh bái mà nói:
- Gia tài của chị Cả đây, thằng Ba nó ăn cả đời cũng không hết, cần gì phải kiếm vợ giàu. Nó chọn chỗ rân rát, có nhơn đức, thiên hạ tùng phục, thì tốt hơn.
- Mình giàu mà kiếm thế làm giàu thêm nữa thì càng quí, chớ có hại gì.
- Phải. Giàu thêm chừng nào càng quí chừng nấy. Nhưng mà phải biết nhơn nghĩa, phải được lòng dân tùng phục thì mới sang, chớ giàu nhiều mà thiên hạ khinh thị, thì giàu có ích chi đâu.
- Ối, đời nầy hễ có tiền nhiều thì quí, ai cũng phải kiêng nể hết thảy. Làm ông gì cũng không bằng “ông tiền”.
Bà Cả thấy hai người cãi với nhau bà bèn xen vô mà nói đặng hết cãi nữa: “Hai người nói nghe phải hết. Giàu thì quí mà sang cũng quí, bởi vậy hổm nay tôi tính muốn kiếm chỗ giàu mà cũng sang nữa đặng làm sui, mà tôi kiếm chưa ra. Để thủng thẳng tôi dọ hỏi thêm nữa coi”.
Thầy Hội đồng nói: “Nếu được như vậy thì quí biết chừng nào. Ngặt tôi sợ mình muốn đặng cả về chì về chài thì khó lắm chớ”.
Cô Phụng đi chợ về tới, vì đi ngoài nắng nên mặt đổ mồ hôi, má ửng đỏ au. Cô chào bác với cậu, rồi đi thẳng vô trong mà thay áo rửa mặt.
Thầy Hội đồng ngó theo cháu mà nói: “Chị Cả hà tiện quá, không dám mua một cái xe hơi để mà đi”.
Bà Cả đáp:
- Tôi ít hay đi, sắm xe hơi tốn hao chớ có ích gì.
- Tại không có xe nên chị không đi được. Nếu có sẵn xe, tự nhiên chị đi chơi chớ gì. Sắm một cái xe hơi để đi Cần Thơ, hoặc chiều chiều đi vô chợ Ô Môn mà chơi, tốn bao nhiêu đó mà sợ. Chị thấy hôn, tại không có xe nên con Hai đi chợ về coi nó mệt nhừ.
- Thôi, để thằng Thạch về rồi tôi sẽ mua một cái xe.
- Nhà chị phải có một cái xe hơi coi mới được. Họ mới có năm bảy ngàn giạ lúa mà họ còn sắm xe rần rần, huống chi là chị huê lợi trên 20 ngàn, mà không dám sắm. Phải sắm xe hơi đi làm sui mới dễ coi. Đời nầy họ ưa lòe loẹt bề ngoài, mình phải làm theo thiên hạ, mới khỏi họ khi.
- Sắm thì sắm chớ sao.
Hữu Nghĩa ngồi tại bàn viết, nãy giờ không nói chuyện, chừng nghe mẹ vợ chịu mua xe, thì chàng day lại mà nói: “Mấy năm nay con muốn thưa với má mua một cái xe để má đi chơi cho thong thả, mà con không dám nói. Má mua xe để đi Sài Gòn chơi với người ta, tốn hao gì lắm đâu mà lo. Sắm xe rồi con tập cầm tay bánh con đi với má khỏi mướn sớp-phơ.
Bà Cả cười mà đáp: “Để thằng Thạch về đây rồi sẽ hay”.
Ông Chánh bái hỏi bà Cả: “Thằng Ba nó thôi làm Đốc học, nó về nhà ở vậy mà thiếm có tính cho hai vợ chồng thằng Xã ra ở riêng, hay là cũng để ở chung nữa...?”
Bà Cả ngồi têm trầu, bà suy nghĩ một chút rồi mới đáp:
- Việc đó tôi chưa tính. Nhà rộng minh mông, nó ở chung hết cũng được.
- Thiếm nó có hai đứa con, để ở chung cũng được. Nhưng mà con một ngày một lớn, tôi tưởng cũng nên sắm nhà cửa cho mỗi đứa một ngôi riêng thì tốt hơn.
- Tôi có một miếng đất ngoài rạch Bà Sự, lại có một miếng nữa trong rạch Cái Tắc. Hai miếng đất đó tốt lắm, rộng lớn, cao ráo mà lại dựa lộ nữa. Như con nó muốn ra riêng và muốn ở miếng đất nào thì tôi cất nhà cho nó ở, có khó gì.
- Cuộc đất chỗ nhà đây cũng còn rộng, đốn bớt cây rồi cất thêm một cái nhà phía mặt trời lặn đây cũng được.
- Ý! Không được đâu. Cất thêm nữa rồi chật hẹp quá tôi chịu không nổi.
Cô Phụng ở trong bước ra nói: “Thằng Ba nó về, má cưới vợ cho nó rồi má cất nhà riêng cho nó ở. Con ở nhà nầy, chớ con không chịu đi ở chỗ nào khác”.
Thầy Hội đồng Quyền châu mày ngó cô Phụng mà nói:
- Nhà nầy là nhà tổ phụ để lại, thế nào sau cũng phải lập bàn thờ. Thằng Ba là trưởng nam, tự nhiên nó phải ở đây, chớ đi ở chỗ khác coi sao được.
- Cháu ở đây từ nhỏ chí lớn đã quen rồi, cháu không chịu đi ở chỗ khác.
- Cháu không chịu cũng không được. Con gái mà giành ở nhà thờ nỗi gì.
Cô Phụng nghe mấy lời ấy thì xụ mặt, lộ sắc bất bình, cô bước lại đứng trước mặt mẹ têm trầu mà ăn.
Bà Cả cười và nói: “Con nhỏ nầy nó có chịu rời tôi ra đâu. Không phải nó giành ở nhà thờ, tại nó không muốn xa tôi chớ”. Bà lại ngó cô Phụng và nói: “Con xuống bếp coi bầy trẻ nấu nướng riết đi, nghe hôn con. Chờ tới 11 giờ, như nó về chưa tới, thì cũng dọn cho bác và cậu con ăn trước, chớ nếu trễ quá sợ đói bụng”.
Cô Phụng đi xuống nhà bếp.
Thầy Hội đồng Quyền day qua ngó Hữu Nghĩa mà nói:
- Xã, cháu nghĩ lời cậu nói đó nhằm chánh lý hay không, vậy mà coi bộ vợ cháu nó phiền cậu chớ.
- Thưa, lời cậu nói đó đúng đắn lắm chớ, con gái mà ở nhà thờ sao được. Vợ cháu nó sợ xa má cháu nên nó cãi đó.
- Như sợ xa thì kiếm mua thêm một miếng đất gần đây mà ở. Như sợ ở nhà khác không tốt bằng nhà nầy thì thưa với chị Cả cất cho một cái nhà khác cũng đẹp như vậy, chớ thằng Ba là trưởng nam mà biểu nó đi chỗ khác mà ở thì trái đạo quá.
- Thưa, cậu nói phải lắm, như muốn ở gần thì có miếng đất của biện Hiệu sát một bên đây. Má cháu biểu biện Hiệu để miếng đất đó lại cho cháu đặng cất nhà cho vợ chồng cháu ở cũng được. Nếu biện Hiệu dục dặc bất quá mình trả giá mắc một chút.
- Ừ, làm như vậy thì xong quá.
Trong nhà đương nói chuyện bỗng nghe có tiếng xe ở phía trong chợ chạy ra. Ai nấy đều ngó chừng ngoài lộ. Cái xe hơi chạy chậm chậm rồi ngừng ngay cửa ngõ.
Thầy Hội đồng Quyền nói: “Thằng Ba nó về tới kia. Chắc nó mướn xe trên Sài Gòn về, nên nó mới tới đây sớm chớ gì”. Thầy vừa nói vừa bước ra cửa. Ông Chánh bái Thành với Hữu Nghĩa cũng ra đứng mà ngó. Bà Cả với cô Phụng cũng tiếp ra nữa, lại có Hữu Nhơn chạy theo níu áo bà ngoại.
Sớp-phơ mở cửa xe. Như Thạch bước ra, trong xe lại còn có một người đàn bà mặc áo xanh dương cũng sửa soạn bước ra. Như Thạch đợi người đàn bà xuống xe rồi, hai người mới kề vai nhau mà đi vô sân. Người đàn bà ấy hình dung tuấn tú, tướng đi dịu dàng, gương mặt sáng rỡ.
Chừng hai ngưòi vô gần tới thềm nhà thì thầy Hội đồng Quyền hỏi:
- Cháu mướn xe Location trên Sài Gòn cháu về hay sao, nên tới sớm dữ vậy?
Như Thạch đáp: “Thưa, anh huyện Khoan là bạn học của cháu hồi trước, ảnh cho xe nhà của ảnh đưa cháu về”.
Nãy giờ bà Cả đứng ngó cô bận áo xanh trân trân, chừng Như Thạch dắt cô ấy bước vô tới hàng ba nhà, chàng chưa kịp nói tiếng chi hết, thì bà hỏi rằng:
- Cô nầy là ai?
Như Thạch với cô nọ cúi đầu chào bà Cả, rồi Như Thạch đáp: “Thưa má, người nầy là vợ của con, tên Nhung, người Bắc Việt”.
Bà Cả biến sắc, mà những người đứng đó ai nấy cũng đều ngẩn ngơ hết thảy.
Bà Cả liền xây lưng trở vô, Như Thạch chỉ má nói nhỏ với cô Nhung: “Má đó”. Chàng lại day qua mấy người kia mà nói tiếp: “Còn đây là bác Hai, đây là cậu Năm, đây nữa là anh Hai với chị Hai mà qua thường nói với em đó”.
Cô Nhung chấp tay cúi đầu chào mỗi người, cô có cái dáng yểu điệu cái vóc thanh nhã lại thêm gò má ửng hồng hai môi như thoa son đỏ, chơn mày cong vòng lại nhỏ rứt, nhưng mà cô chào thì ai nấy đều làm lơ, không có một tiếng ừ hử chi hết, rồi lại thủng thẳng rút đi vô nhà.
Như Thạch thấy chú Hưng đứng xớ rớ trước sân thì kêu mà biểu ra xe vác cái rương và va ly đem vô nhà. Chàng lại kêu sơp-phơ vô rồi móc túi lấy ra hai tấm giấy bạc mà nói: “Xăng còn đủ về phải hôn? Thôi tôi cho anh 10 đồng bạc đây đặng anh qua chợ ăn cơm và về dọc đường trả tiền đò. Anh về thưa lại giùm với ông Huyện, bà Huyện rằng tôi cảm ơn hai ông bà lung lắm nghe”.
Sớp-phơ lấy tiền rồi xá mà ra xe.
Như Thạch dắt cô Nhung vô nhà, thấy mẹ ngồi tại bộ ván dựa cửa sổ thì bước lại nói rằng: ‘Thưa má, con cưới vợ mà con không thưa cho má hay trước thiệt con có lỗi với má nhiều lắm. Bây giờ má muốn hành phạt con nặng nề cách nào con cũng cúi đầu mà vưng chịu nhưng nếu mà má biết rõ tâm sự của hai con thì chắc má sẽ động lòng mà tha thứ. Để thủng thẳng rồi con sẽ thuật lại hết công chuyện của con cho má nghe”.
Bà Cả khoát tay mà đáp: “Thôi, thôi, đừng có nói gì hết tôi không muốn nghe đâu”.
Như Thạch tuy thấy mẹ giận, song chàng không ngã lòng cứ nói tiếp: “Thưa má, con có lỗi với má nên má giận, bởi vậy dầu má quở trách thế nào con cũng vưng chịu hết. Còn vợ con có lỗi thương con mà thôi, cái lỗi ấy cũng tại con mà ra, vậy con cúi xin má đừng giận lây tới nó mà tội nghiệp, má vui lòng để cho nó lạy má làm lễ ra mắt mẹ chồng”.
Bà Cả xây lưng giẫy giụa đưng đửng trên ván và la lớn rằng: “Tôi không phải mẹ chồng của ai hết. Thôi đi, thôi đi, đừng có nhiều chuyện. Tôi không biết mặt nào hết. Ông Cả ơi, sao ông không sống đặng ông thấy công chuyện nhà, ông chết sớm như vậy hử!”
Như Thạch đứng ngó cô Nhung, chàng lắc đầu rưng rưng nước mắt.
Cô Nhung đợi bà Cả êm rồi, cô mới nhỏ nhẹ nói rằng: “Thưa má, phận con là gái, mà con lấy chồng, con không chờ mạng lịnh cha mẹ chồng mang trầu cau đến cưới, thì tánh tình con coi hèn mạt lắm. Nhưng vì hoàn cảnh áp bức, má ở xa xôi không thế nào ra đến Hà Nội mà chủ trương lễ cưới, tại con yêu anh Như Thạch không thể nào con lìa ảnh được, nên con chẳng quản tiếng thị phi, con đánh bạo theo ảnh vào đây con lạy má xin má tha thứ cho con”. Cô Nhung nói chưa dứt lời thì cô đã ngồi bẹp dưới gạch cúi đầu mà lạy.
Bà Cả hứ một tiếng, rồi bà vội vàng đứng dậy mang giày ngoe ngoảy đi vô buồng.
Cô Nhung đứng dậy liếc mắt ngó chồng, tỏ ý muốn hỏi coi còn phải làm cách nào nữa đặng cô làm cho mẹ chồng hết giận.
Như Thạch bước lại chỗ ông Chánh bái và thầy Hội đồng ngồi và nói rằng: “Cháu xin bác với cậu làm ơn khuyên giải giùm cho má cháu hết giận. Việc vợ chồng cháu đã lỡ rồi, nếu má cháu kháng cự thì tội nghiệp cho vợ cháu”.
Ông Chánh bái hỏi:
- Cháu có vợ hồi nào ở đâu vậy? Sao cháu không cho thiếm Cả hay?
- Thưa bác, hai cháu vì đồng tâm đồng chí, thương yêu nhau, không thể rời nhau được, nên mới kết nghĩa vợ chồng gần được một năm rồi. Khi cháu cưới vợ, cháu không dám cho má cháu hay, là vì cháu sợ má cháu ngăn cản, rồi trọn đời phải chịu đau đớn về ái tình, bởi vậy cháu tính lén cưới rồi sẽ dắt về lạy mà thú tội.
- Cháu tính lếu quá! Muốn cưới vợ thì phải thưa cho cha mẹ hay trước chớ! Vợ của cháu là con của ai ở ngoải vậy?
- Thưa, vợ cháu là con của một ông Phán Sở Bưu điện ngoài Hà Nội, nó làm nữ giáo sư trong trường con gái.
- Chà! Làm “cô giáo” hay sao? Cháu làm Đốc học vợ cháu làm cô giáo thì phải quá. Ngặt mới hồi nãy đây, thiếm Cả bàn tính việc cưới vợ cho cháu. Tình cờ cháu về, cháu lại dắt vợ theo, cháu làm trái ngược với việc thiếm đương tính, bởi vậy thiếm giận quá, bây giờ biết làm sao khuyên giải cho được.
- Má cháu tính cưới vợ cho cháu. Mà bây giờ cháu đã có vợ sẵn rồi, thì má cháu khỏi thất công tính nữa chớ có hại gì đâu.
- Cháu nói như vậy sao được. Chớ chi cháu về trước một mình, thủng thẳng cháu òn ỷ mà thưa thiệt việc của cháu cho thiếm Cả hay. Thiếm có giận, thì bà con phụ vô mà năn nỉ thiếm, chừng thiếm hết giận rồi cháu sẽ đem vợ cháu về, thì tiện hơn.
- Thưa, hồi còn ở ngoài Bắc, thì vợ cháu cũng có tính như vậy, bởi vì tánh cháu ngay thật, cháu không chịu làm việc mờ ám dối trá, lại cháu thương vợ cháu lắm, cháu không thế gì mà bỏ vợ cháu ở ngoải được, nên cháu mới dắt về một lượt.
Nãy giờ thầy Hội đồng ngồi lóng tai mà nghe, bây giờ thầy mới nói: “Việc cháu làm đó thì trái với gia pháp thiệt. Nhưng mà đã lỡ rồi, thì chèo xuôi cho mát mái, giận giũi rầy rà thiên hạ chê cười chớ có ích gì. Thôi, cháu dắt con Ba vô nhà trong cho nó nghỉ, để thủng thẳng rồi cậu cắt nghĩa cho chị Cả nghe. Thằng Xã vô mời chị Cả ra đây cho cậu nói chuyện một chút, cháu”.
Như Thạch nghe lời cậu, bèn dắt vợ đi vô nhà sau.
Cách một lát, bà Cả ở trong buồng bước ra, bà xách một cái ghế để ngang mặt ông Chánh bái và thầy Hội đồng mà ngồi nói rằng: “Con cái đời nay nó vậy đó. Cho nó ăn học tốn hao bạc ngàn, rồi nó dắt thứ đồ gì ở đâu về nhà đặng làm xấu hổ cho tông môn. Tôi tức quá, nó đi đâu nó đi cho khuất con mắt tôi, chớ nó ở trong nhà, ra vô tôi thấy nó tôi giận chắc tôi phải đau”.
Thầy Hội đồng tằng hắng mà nói:
- Thôi, việc dĩ lỡ rồi chị giận hờn mà làm gì. Việc nhà để thủng thẳng mà tính. Chị làm tưng bừng đây thiên hạ họ đàm tiếu chớ có ích gì.
- Tôi không tính giống gì hết nếu nó muốn thuận thì nó phải đuổi con đó đi. Tôi không cầm trầu cau tôi cưới, thì tôi không nhìn nhận là dâu của tôi được, không ai được phép kêu tôi là mẹ chồng.
- Theo lời thằng Ba mới nói chuyện với hai anh em tôi đây thì con nọ cũng nhà tử tế, mà lại nó có học nữa.
- Tử tế, có học, mà sao lại theo trai.
- Theo lời nó nói, thì vợ chồng nó đồng tâm hiệp ý, thương yêu nhau lắm. Trong đạo vợ chồng có chi quý bằng thương yêu nhau.
- Kẻ Nam người Bắc mà thương yêu nỗi gì.
- Dầu Nam hay Bắc cũng là người Việt Nam hết thảy, một nòi một giống với nhau, kết vợ chồng có hại chi đâu. Vậy chớ có nhiều người đàn bà Việt Nam lấy Chà lấy Chệc, có nhiều trai Việt Nam lấy vợ đầm đó sao.
- Tôi không chịu, con của tôi thì nó phải để cho tôi lựa chọn tôi cưới vợ cho nó, chớ nó không được phép làm ngang như vậy.
- Theo lớp xưa thì phong tục gắt gao như vậy. Còn theo đời nầy mình phải rộng một chút, chớ bó buộc theo phong tục xưa quá sao được. Xin chị nghĩ lại mà coi, thằng Ba mồ côi cha sớm lắm. Chị là mẹ, chị thương nó, chị cho nó đi học, chớ chị không có thể dạy cho nó thông hiểu gia pháp của Việt Nam được. Từ nhỏ chí lớn nó ở nhà trường, nào phong hoá nào luân lý thì nó nhờ mấy cuốn sách nhờ mấy ông thầy dạy nó mà thôi. Mà sách hay là thầy cũng đều theo Tây hết thảy, tự nhiên nó phải cảm nhiễm theo phong hoá Âu Tây. Theo phong hoá Âu Tây thì về hôn nhân con trai con gái đều được tự do mà chọn bạn. Vì vậy nên tôi thấy thằng Ba nó làm trái gia pháp thì tôi buồn một chút nhưng mà tôi không nỡ trách nó.
- Nó học giống gì nó học, chớ nó là Việt Nam mà nó bỏ lễ nghĩa Việt Nam, nó làm theo Tây sao được. Tôi nhứt định không chịu, nó đem đi đâu nó đem, tôi không cho nó ở trong nhà tôi.
Như Thạch rón rén bước ra, rồi lại đứng một bên mẹ mà năn nỉ:
- Con lạy má, con xin má thương giùm phận con.
- Mầy đã không kể đến tao bây giờ mầy biểu tao thương nỗi gì. Thôi không còn mẹ con gì nữa mà nói.
- Thưa má, tình mẹ con nặng lắm, còn cái lỗi của con có một chút xíu, có lẽ nào má vì cái lỗi nhỏ mọn nầy mà má đành dứt cái tình nặng nề kia. Con xin má xét lại.
- Tao nhứt định như vậy. Nếu mầy muốn trọn đạo mẹ con, mầy phải đuổi con đó đi về xứ nó. Còn mầy đeo theo con đó thì tao không biết mẹ con gì nữa. Tao nói có trước mặt bác với cậu mầy, một người cũng như cha mầy, còn một người cũng như mẹ mầy, vậy mầy liệu lấy. Mầy muốn thế nào cũng được tao không ép.
Như Thạch đứng cúi mặt ngó dưới gạch, nước mắt chảy ròng ròng. Rất đau đớn trong lòng nên chàng thỏ thẻ nói: “Thưa má, má nói như vậy cũng như má biểu con cắt họng mà chết cho rồi. Má banh da xẻ thịt mà đẻ ra con, có lẽ nào con phụ má cho được. Còn vợ chồng con ăn ở với nhau, vợ của con nó đã có thai nghén được 3, 4 tháng rồi, con có lòng nào mà bỏ nó cho đành. Nếu má định như vậy thì con cùng đường rồi, duy có một ngả chết mới trọn đạo mẹ con, mà cũng trọn niềm vợ chồng”.
Ông Chánh bái với thầy Hội đồng nghe những lời ấy thì động lòng nên liếc mắt nhìn nhau, còn bà Cả thì bà ngồi trơ trơ, không nói nữa.
Thầy Hội đồng muốn thừa lúc chị đương cảm mà khuyên giải cho dễ, nên thầy vội vã nói rằng: “Thưa chị, trước khi thằng Ba về, chị bàn tính việc cưới vợ cho nó, thì tôi đã tỏ ý muốn kiếm một chỗ vừa giàu sang đặng chị làm sui cho xứng đáng. Bổn tâm của tôi như vậy đó, chớ không phải tôi không biết lo cho cháu. Tại phần số của nó về hào vợ con thì nó định lấy, chớ không nhờ cha mẹ, nên trời mới khiến như vậy. Mà nó làm bạn với con nầy, nó cưới đủ lễ, chớ không phải cặp xách gì. Lại con nầy cũng là con nhà tử tế và vợ chồng ăn ở cùng nhau đã có thai nghén rồi nữa. Vậy tôi xin chị vuốt giận mà hỉ xả cho cháu, đặng mẹ con thuận hòa vợ chồng xum hiệp. Chị giàu lớn, chị có một đứa con trai mà thôi lại con của chị nó ăn học đúng lắm, nó đủ sức gìn giữ gia tài của chị và phụng tự ông bà. Chị chẳng cần phải giàu thêm nữa làm chi, mà tính kiếm chỗ giàu đặng cưới vợ cho nó. Thôi, chị đừng có buồn. Bắc Nam cũng vậy, giàu nghèo cũng vậy, vợ chồng thương nhau là quí hơn hết”.
Bà Cả lắc đầu mà nói:
- Không thể nào tôi hết giận cho được.
- Nó trái ý chị một chút xíu, mà chị giận giống gì dữ vậy?
- Tánh tôi khó lắm. Hễ trái ý tôi thì tôi không bao giờ quên được.
- Không biết chừng nó làm trái ý chị, mà rồi may cho chị đa.
- May giống gì?
- Chị khỏi lo chọn lựa, chị khỏi làm đám hỏi, đám cưới, mà chị có dâu, lại không biết chừng dâu đó là “dâu ngọt”. Ấy là may chớ sao.
- Biết sao mà cậu dám chắc là dâu ngọt?
- Mà chị cũng chưa có thử, sao chị lại chê là dâu chua? Chị phải để nó ở ít ngày đặng chị coi tánh nết nó ra thế nào, như nó hư rồi chị sẽ quở trách chớ.
Ông Chánh bái thấy ý bà Cả dịu rồi, ông mới dám xen vô mà nói: “Lời của cậu Hội đồng nói phải lắm. Thiếm nó vuốt giận: việc đã lỡ rồi, nếu thiếm có rầy rà thì xào xáo trong gia đình không tốt. Bề nào thằng Ba cũng là con trưởng nam của thiếm. Vậy thiếm hãy thương nó”.
Bà Cả đứng dậy và đi lại ván ăn trầu và nói: “Con tôi sao lại không thương. Vì tôi thương nó lắm, nên nó làm việc xa xôi tôi không chịu được, tôi mới biểu nó từ chức mà về đặng mẹ con sum hiệp với nhau, cho tôi khỏi nhớ nó. Ai dè nó về, nó lại đem cái họa về đặng làm cho tôi buồn như vầy”.
Thầy Hội đồng cười và nói: “Được con dâu đẹp quá, rồi ít tháng nữa đây lại có cháu nội mà bồng mà chị cho là cái họa chớ. Ba, cháu biểu vợ cháu xuống bếp phụ với con Hai riết rồi dọn cơm ăn. Trưa rồi cậu đói bụng, mà chắc anh Chánh bái cũng không no gì. Thằng Xã coi có rượu quinquina lấy đem đây uống chơi, cháu”.
Như Thạch đi vô trong còn Hữu Nghĩa lại tủ rượu lấy ve quinquina và ly đem lại rót mời khách.
Thầy Hội đồng kiếm chuyện khác mà nói đặng bà Cả khuây lãng việc dâu con. Nhưng mà bà ngồi sắc mặt hầm hầm, không vui vẻ như hồi sớm mơi nữa.
Cơm dọn lên bàn, bà Cả mời khách ngồi lại, bà nói bà không đói, nên bà không ăn, bởi vậy ông Chánh bái, thầy Hội đồng ăn với Hữu Nghĩa và Như Thạch thôi.
Ăn cơm rồi khách mới từ giã về nghỉ trưa. Thầy Hội đồng kêu Như Thạch lại nói:
- Chiều mát vợ chồng cháu ra thăm cậu, nghe hôn. Dắt vợ cháu ra cho nó biết nhà.
- Dạ, để chiều rồi cháu sẽ đi thăm bà con.
- Hơn một năm rồi cháu mới về đây phải hôn?
- Dạ, 18 tháng.
- Dữ hôn! Cháu ra chơi, vườn của cậu bây giờ khác hơn hồi trước xa lắm. Quít đã có trái đều hết. Cau dừa cũng sung lắm, ra mà coi.
Như Thạch đưa khách ra tới lộ. Thầy Hội đồng nói nhỏ rằng: “Coi bộ chị Cả bớt giận rồi. Cháu cứ năn nỉ riết chắc êm. Không sao đâu mà sợ”.
Như Thạch cúi đầu chào cậu với bác rồi thủng thẳng trở vô nhà.
Bà Cả Kim có cái danh cự phú trong làng Thới An. Tuy bà góa bụa song nhà cửa nguy nga, dãy ngang, dãy dọc, lại trong nhà bà sắm những bàn ghế, tủ, ván thứ nào cũng mắc tiền, nên thứ nào coi cũng đẹp.
Đã vậy mà bà nhờ rể của bà, là Hữu Nghĩa có tánh sạch sẽ kỹ lưỡng ngày nào cũng coi cho bạn bè quét tước trong nhà, dọn dẹp ngoài sân, bởi vậy nhà đã nguy nga lại thêm có vẻ ngộ nghĩnh nữa. Nhưng từ hôm nay dường như có một bầu không khí nặng nề bao trùm từ ngoài sân vô tới trong nhà, nên ở ngoài coi mất vẻ vui, còn vô trong lại thêm mờ mịt nữa.
Như Thạch đưa khách rồi, chàng trở vô nhà thì không thấy mẹ ngồi ngoài nữa, chỉ có một mình Hữu Nghĩa đương sắp ghế lại cho ngay hàng. Chàng bước lại hỏi nho nhỏ: “Má đi đâu, anh Hai?”
Hữu Nghĩa chỉ tay vô buồng đáp: “Má đang nằm nghỉ trong buồng”.
Như Thạch le lưỡi, rồi nhón gót đi nhẹ xuống nhà sau. Chàng thấy chị đang nằm trên võng đưa con, còn vợ ngồi ghé đầu ván đằng chái không ai nói tới ai hết. Chàng bèn hỏi chị;
- Sao chị không biểu dọn cơm cho má ăn?
- Qua mới lên hỏi má thì má nói má không đói, má biểu đừng có dọn.
- Khổ quá! Má giận em đến nỗi má không chịu ăn cơm, bây giờ biết làm sao.
- Ai biết làm sao. Tại em làm cho má giận, thì em làm sao đó em làm.
- Bây giờ má còn đương giận, nếu em lên năn nỉ nữa, chắc má rầy. Chị Hai, chị làm ơn lên năn nỉ má giùm cho em.
- Ý! Ai dám. Qua xen vô rồi má giận luôn tới qua nữa a.
- Chị không thương em hay sao chị Hai?
- Sao lại không thương.
- Nếu chị thương thì chị phải hết lòng lo điều đình giùm cho vợ chồng em được an thân mới phải chớ.
- Em làm việc quá trời, qua biết làm sao điều đình cho được.
- Em biết má cưng chị lắm, chị nói giống gì má cũng nghe hết. Vậy em xin chị làm ơn khuyên giải má cho má đừng có giận nữa, thì vợ chồng em mới gần gũi với chị được.
Cô Nhung bước lại tiếp nói: “Thưa chị Hai, vì em thương chồng, nên em bỏ cha bỏ mẹ theo chồng vào đây. Từ rày dầu em sống hay thác em cũng nhờ cha mẹ chị em bên chồng. Chẳng những là xác thịt mà thôi, đến tâm hồn của em cũng thuộc về nhà họ Lý cả. Vậy em khẩn cầu chị thương giùm em, chị nói hộ cho má hết giận em, chị làm việc ấy là làm cái phước đức lớn lắm vậy”.
Cô Phụng chúm chím cười rồi day mặt chỗ khác, không trả lời.
Như Thạch hỏi vợ:
- Em ăn cơm chưa?
- Thưa, em không đói.
Như Thạch day lại hỏi chị:
- Chị Hai, sao chị không biểu bầy trẻ dọn cơm cho chị ăn, đặng vợ của em nó ăn với?
- Hồi nãy qua biểu cô lên nhà trên ăn, cô không chịu lên.
- Trời đất ơi, vợ của em sao chị kêu bằng cô. Mắc mỏ chi vậy chị Hai?
- Vậy chớ ai biết kêu bằng giống gì.
- Sao lại không biết. Còn chị biểu nó lên nhà trên ngồi ăn cơm, biểu cái gì kỳ cục vậy?
- Chớ ăn dưới nhà bếp coi sao được.
Như Thạch rùn vai cười, tỏ ý không vui.
Cô Nhung ngó chồng và nói: “Em xin anh đừng bận lòng lo cho em. Bao giờ má ăn cơm thì em mới dám ăn”.
Như Thạch châu mày bước ra hàng ba nhà bếp đi lên đi xuống coi bộ suy nghĩ lắm.
Cô Nhung lại đứng dựa cửa.
Cô Phụng cứ nằm trên võng đưa con, mắt nhắm lim dim.
Bạn bè người lo rửa chén, người đứng quét bếp, không ai nói chuyện chi hết, song một lát họ liếc mắt ngó cô Nhung rồi chúm chím cười, làm cô ngột ngạt khó chịu quá.
Như Thạch đi lên nhà trên một chút lại trở xuống kêu vợ biểu lấy cây dù đi thăm bà con. Cô Nhung muốn trình với chị đặng đi theo chồng, song thấy cô Phụng nhắm mắt nằm êm, chắc cô đã ngủ nên không dám nói. Lên nhà trên thì vắng hoe, Hữu Nghĩa nằm trên ván cũng ngủ nữa.
Vợ chồng Như Thạch đi rồi. Lập tức cô Phụng nhẹ nhẹ lén con đứng dậy và lên nhà trên. Cô bước vô buồng dở mùng kêu mẹ và nói: “Má ăn cơm, nghe hôn má. Hai đứa nó dắt nhau đi đâu mất rồi, má dậy rồi con biểu chị Thình nấu cơm nóng cho má ăn”.
Bà Cả dậy hỏi con:
- Nó dắt nhau đi đâu?
- Con nghe thằng Ba kêu con nọ biểu lấy dù đi thăm bà con với nó. Đi thăm ai đó không biết.
- Đã vậy còn không biết xấu lại dắt đi chưng cùng xóm cùng làng.
- Coi bộ thằng Ba nó mê lắm.
- Họ nói người Bắc có cái văn nói hay lắm, không mê sao được.
Bà Cả đi ra ngoài rót nước trà uống. Cô Phụng bước nhà bếp biểu chị Thình nấu một nồi cơm nhỏ đặng dọn lên cho bà ăn. Cô trở lên ngồi chung trên ván với mẹ rồi nói:
- Má, con nhỏ đó coi ngộ thiệt chớ má há?
- Ngộ với mầy, chớ ngộ với ai.
- Hứ má nói! Tại má giận nên má không thèm ngó kỹ chớ. Con nhỏ đó đi tướng tốt lắm. Mặt mày sáng rỡ, tay chơn dịu nhiễu, tiếng nói ngọt xớt.
- Thứ đồ đó tự nhiên nó phải sửa hình sửa dạng phải chuốt ngót lời nói, nó rũ quyến trai mới được chớ.
- Đâu để nó làm dâu rồi coi tài con gái Bắc ra sao cho biết.
- Làm dâu ai? Tao có chịu đâu mà làm dâu.
- Lỡ rồi, nếu má không chịu rồi làm sao?
- Làm sao nó làm, tao biết đâu.
- Con coi bộ cậu Năm ưa nó lắm.
- Tánh cậu Năm mầy cứ xuôi xuôi, ai làm sao nó cũng chịu hết thảy. Nó có học tây chút đỉnh rồi nó không kể phong hoá chi hết. Với tao có được như vậy đâu. Hồi nãy nó nói lùa theo quân đó, tao phát ghét.
- Thằng Ba nó cậy con năn nỉ giùm với má đặng má đừng ghét con đó nữa. Con không chịu. Nó dắt con đó đi, chắc nó ra năn nỉ với cậu Năm nói giùm chớ gì.
- Tao làm việc gì cũng tại ý tao, chớ tao có nghe lời ai đâu mà cậy nói giùm.
- Má làm gắt quá sợ nó nổ chớ.
- Nổ thì nổ chớ sợ giống gì.
Cô Phụng cười rồi cô đi xuống nhà bếp coi dọn cơm cho mẹ ăn.
Đến nửa chiều, có con của thầy Hội đồng Quyền vô thưa cho bà Cả hay rằng thầy Hội đồng cầm vợ chồng Như Thạch ở lại ăn cơm tối, nên xin trong nhà đừng đợi chờ. Bà Cả cười gằn và nói:
- Tao có chờ ai đâu mà dặ.
Cô Phụng ngó mẹ cười:
- Làm dâu mới một ngày coi đã dở hơn con gái trong nầy rồi đa! Làm dâu phải lo nồi cơm chĩnh mắm, chớ làm dâu gì muốn đi thì đi, không thưa trình cho ai hay hết, tới bữa cơm cũng không thèm về lo nữa.
- Hứ! Tao biểu mầy đừng có nói tới tiếng “làm dâu” mà. Tao không nhìn biết ai là dâu tao hết.
- Nói chuyện nghe chơi, chớ ai biểu má nhìn. Má là cha mẹ, việc cưới vợ cho con, má định thế nào là quyền tự nơi má, ai dám nói vô nói ra.
Tối một lát vợ chồng Như Thạch trở về. Bà Cả vừa thấy mới vô tới sân, tức khắc bà đi vô buồng tránh mặt. Cô Phụng cũng dắt con đi dỗ ngủ.
Hữu Nghĩa thấy Như Thạch bước vô liền hỏi:
- Cậu ăn cơm ngoài nhà cậu Hội đồng phải hôn?
- Phải, tôi đi thăm bà con, ra tới cậu Năm, cậu bắt ở lại ăn cơm, không cho về. Cậu Năm có sai thằng Thế vô trong nhà cho hay mà.
- Có.
- Ở nhà má có ra ăn cơm hay không?
- Có.
- Coi bộ má bớt giận tôi hay không?
- Coi cũng vậy. Vợ tôi có năn nỉ nói giùm, song má gạt ngang.
- Thiệt khổ hết sức.
Như Thạch biểu vợ mở va-ly lấy đồ mát cho chàng thay, rồi đi vòng vô mấy cái buồng, thấy mẹ với chị ai nằm theo phòng nấy, trong nhà không ai dọn dẹp một chỗ nào cho vợ chồng chàng ngủ. Chàng mới lấy một cái chổi lông, bổn thân đi quét bộ ván gần cái bàn viết đặng nằm nghỉ lưng. Cô Nhung thấy vậy bèn giành lấy cây chổi đi quét, đoạn cô mở rương lấy mền gối để tử tế trên ván cho chồng nằm.
Hữu Nghĩa muốn đóng cửa đi ngủ. Như Thạch nói: “Anh chừa cho tôi một cái cửa đặng tôi ra vô cho tiện. Anh có buồn ngủ thì ngủ trước đi. Tôi chưa ngủ đâu”.
Hữu Nghĩa đóng các cửa, song chừa cái cửa chỗ bàn viết, rồi chàng vô buồng ngủ.
Như Thạch vặn đèn lu lu rồi lại ván nằm, biểu vợ nằm một bên mà nghỉ. Cô Nhung lắc đầu, lại ngồi gần bên mình chồng rồi cầm quạt, quạt cho chồng. Kẻ nằm gác tay qua trán mắt lim dim, người ngồi lặng lẽ, tay quạt hơi cho chồng mát, không ai nói tới ai, nhưng mà, có lẽ lúc ấy trong trí mỗi người đều lăng xăng những đường kia nẻo nọ, bối rối với những cảnh vừa ngó thấy, lo lắng về mối tương lai mịt mù chưa biết sẽ ra thế nào. Môt lát hai người ngó nhau một cái, tuy bóng đèn lu mờ, song thấy rõ cái lần ngó đó chứa đầy những tình thương yêu những ý cương quyết dầu sóng gió thế nào cũng không đành rã được khối chung tình, dầu thảm khổ đến đâu cũng không làm tiêu được lời thệ ước.
Đồng hồ gõ một giờ rồi gõ hai giờ, mà cô Nhung cũng cứ ngồi quạt cho chồng. Như Thạch nắm tay vợ kéo xuống và biểu nằm nghỉ. Cô Nhung nhẹ nhẹ gỡ tay chồng nói nhỏ nhỏ: “Anh cứ nghỉ cho khỏe thôi, đừng lo cho em, có anh ở bên cạnh chẳng bao giờ em biết mệt”.
Như Thạch ngồi dậy rồi thủng thẳng đi ra ngoài sân. Vừng trăng khuyết hết phân nửa lửng đửng treo giữa trời dọi yếng dư xuống nên cây cỏ lờ mờ, làm cho cảnh vật đều có vẻ buồn bực. Đã vậy lại thêm đêm khuya vắng vẻ, tứ hướng im lìm, làm cho cái cảnh buồn ấy pha lộn cái vẻ huyền bí, khiến lòng người dễ sinh cảm động.
Như Thạch nhìn trăng ngắm cảnh, đương đứng bâng khuâng bỗng thấy cô Nhung cũng rón rén ra đứng một bên chàng, cái gương mặt hiền từ trung hậu của cô thuở nay bây giờ nó đổi ra gương mặt thảm sầu nhưng nghiêm trọng. Cô nắm tay chàng thủng thẳng dắt lần đi ra cửa ngõ, thấy có một cái băng bằng cây lót phía trong rào, dưới bóng hai cây mít nhành lá rậm rạp. Cô mời chàng ngồi lại đó cô ngồi một bên, tay vịn chàng, nghiêng mặt ngó và nói: “Đôi ta thương nhau, nên kết bạn trăm năm đặng chung bước trên đường đời, em tưởng sự quyết định của chúng ta là cái hạnh phúc to tát chẳng có gì sánh kịp. Chẳng dè dự định của em là mộng ảo, không giống với sự thật. Lòng em thương anh thì sung sướng cho em, song nó làm khổ não, nó gây họa cho anh. Vì em mà trong gia đình anh phải xào xáo rối loạn, vì em mà gây ra một mối ác cảm giữa má với anh. Em trông thấy em lấy làm hối hận lắm. Tuy nhiên niềm vợ chồng thì nặng, nhưng mà đạo mẫu tử cũng chẳng nên khinh. Em muốn thà đôi ta chịu đau đớn trong niềm chồng vợ, chớ không nên để phai lợt tình mẫu tử. Vậy em xin anh cho em tạm trở về Bắc, đặng cho anh khỏi lỗi với má anh, em trở vào Sở Giáo huấn dạy học lãnh lương để nuôi thân. Em đương có mang mểnh, chừng nào sanh con thì em nuôi, em sẽ nuôi tử tế, em sẽ dạy nó thờ anh. Vì dầu đất trời khiến đôi ta không được tái hiệp, em phải cô thân, độc lập trọn đời đi nữa, chút con ấy, là cái dấu tích ân ái trót một năm của chúng ta cũng đủ làm cho em sung sướng mà vui với sự sống đầy những hy vọng tái hiệp”.
Như Thạch lắc đầu, tay choàng ngang cổ, mắt ngó ngay mặt vợ, đoạn nghiêm nghị nói:
- Em đừng có nói chuyện ngông cuồng. Anh hứa làm chồng em, thì chẳng bao giờ anh lìa em được, duy có sự chết mới phân rẽ nhau thôi. Nếu anh để em về ngoài Bắc, còn anh ở lại trong Nam, thì anh thương nhớ em, chẳng bao lâu chắc anh phải chết, rồi sự em muốn làm vui lòng má đó đã không có ích cho má, lại còn hại tới anh nữa. Em hiểu chưa?
- Hiểu!...
- Anh khuyên em, nếu em thiệt thương anh, thì em hãy ráng chịu nhục nhã khổ não một lúc, hãy ráng làm cho má hết giận mình; đó là một phương chước hay nhứt.
- Vâng, anh dạy thế nào em cũng vâng hết, dầu anh biểu em chết em cũng vâng nữa. Miễn được gần anh, dầu em phải nhục nhã khổ cực đến thế nào em cũng chẳng nề hà.
- Hồi chiều cậu Hội đồng có hứa cậu sẽ tận tâm khuyên má đừng có giận hai đứa mình nữa. Vậy có lẽ lần lần việc nhà sẽ hết rối được.
- Em mong mỏi lắm anh ạ! Hôm nay mặt trăng tuy khuyết, mà đêm rằm tới đây nó sẽ tròn lại, nó tròn một cách khả ái quá anh ơi! Cái hạnh phúc của đời chúng ta hôm nay nó cũng khuyết như mặt trăng kia, sau nầy nó có được tròn lại như mặt trăng chăng?
Như Thạch nghe mấy lời tha thiết ấy thì cảm động nên ngồi im một chút rồi trợn mắt quả quyết rằng: “Nó sẽ đầy lại. Nó sẽ tròn lại, qua nhứt định làm cho nó sẽ tròn như mặt trăng vậy. Em tin qua không?”
Cô Nhung ngó chồng rất hữu tình và nói nhỏ nhỏ: “Em tin, em vẫn tin anh luôn”.
Như Thạch liền ôm mặt vợ vào lòng; vợ chồng đương dan díu dưới bóng trăng, bỗng có dạng cô Phụng đứng lấp ló trong cửa dòm ra, rồi cô đi mất. Như Thạch không để ý đến.
Cách một lát, thấy đèn trong nhà vặn sáng lên, rồi lại thấy bà Cả bước ra cửa đứng trên thềm.
Vợ chồng Như Thạch vùng đứng dậy. Chừng hai người sắp bước chân lên thềm, thì bà Cả la lớn rằng: “Con nầy, tao nói cho mầy biết nhà tao hẳn hòi, chớ không phải cái thói ** ****, mà mầy dám tới đây làm trò trên bộc trong dâu. Hèn chi thằng Thạch nó mê mầy thì phải lắm. Đồ khốn nạn, mầy phải đi ra khỏi nhà tao, ra liền bây giờ, không cho mầy ở một phút nào hết”.
Như Thạch cứ kéo vợ lên tới hàng ba, chàng quì gối chấp tay lạy mẹ và nói:
- Con xin má vuốt giận, đừng mắng chửi vợ con tội nghiệp. Nó có cái lỗi thương chồng chớ chẳng lỗi chi hết. Má muốn đánh chửi con bao nhiêu cũng được, xin má đừng nói động tới nó rất oan cho nó.
- Còn mầy nữa! Cha chả! Mầy binh hả? Nếu vậy thì mầy coi con khốn nầy trọng hơn tao rồi! Đi, mầy cũng đi cho khỏi nhà tao. Tao không biết mẹ con nào nữa.
- Tội nghiệp con lắm má ơi! Vợ chồng con thương yêu nhau lắm, má nỡ nào phân rẽ cho đành.
- Tao biểu đừng có kêu tao bằng má đa. Đồ hư, mê sa ** **** như mầy, thì là yêu quỉ, chớ không phải con tao.
- Vợ của con nó đã có thai nghén ba bốn tháng rồi má à.
- Ố! Tao có màng đâu. Đồ đó sanh con đẻ cháu cũng nhục cho tông môn tao, chớ có ích gì. Mầy coi nó lớn hơn tao thì dắt nhau đi phứt cho rồi, tao không cho vô nhà tao nữa, đi đi... Thằng Hưng đâu, Hưng à! Mầy vác rương của quân nầy mà quăng ra ngoài lộ cho tao. Làm cho mau đặng nó đi, kẻo gai con mắt tao lắm.
Bây giờ cô Nhung ngồi dưới gạch, cô mới thỏ thẻ nói:
- Con lạy má xin thương con...
- Nín, tao không cần ai lạy tao hết.
- Từ ngày con lấy chồng thì con đã thuộc về họ Lý, sống con làm vợ họ Lý, mà thác con làm ma họ Lý. Bề nào con cũng ở đây chớ biết đi đâu.
- Cha chả! Bây giờ tính liều mạng với tao hả. Tao biểu mầy đi! Nếu mầy còn nói ráng, tao la làng rồi hương chức bắt đóng trăn càng thêm mang xấu đa. Đi cho mau đi đi...
Bà Cả vừa nói vừa cúi xuống đưa hai tay xô cô Nhung té lăn cù dưới thềm gạch.
Như Thạch lật đật nhảy xuống ôm vợ đỡ đứng dậy, rồi nói rằng: “Vợ chồng con đã năn nỉ cạn lời, mà má không động lòng, má cứ đuổi vợ con hoài. Thôi, má đuổi thì vợ chồng con đi hết, chớ không thể nào con bỏ vợ con được”.
Cô Nhung lật đật đưa tay bụm miệng chồng mà nói:
- Anh! Anh không nên to lời bất hiếu với má. Má đuổi em, thì em đi, em lạy anh đừng đi theo em rồi làm phiền lòng má.
- Từ sớm mơi tới bây giờ, anh nói nhiều lần rằng anh không thể lìa em được. Nay má quyết đuổi em, tức thì má cũng không muốn anh ở trong nhà nầy nữa, thế thì anh ở sao được.
Như Thạch thấy chú Hưng đứng xớ rớ gần đó bèn kêu biểu vô nhà vác rương và va ly đem giùm qua chợ Ô Môn. Chàng lại thấy bà Cả xây lưng trở vô nhà thì chàng vội vã nói: “Vợ chồng con cầu chúc cho má ở nhà mạnh giỏi. Con chắc một ngày kia má sẽ nhìn nhận cho vợ chồng con có lỗi, song lỗi ấy chưa đáng cho má dứt tình mẫu tử như vậy, rồi má sẽ tự hối về sự má hà khắc con dâu”.
Chú Hưng vác rương và va ly đem ra, lại còn ôm quần áo mền gối của Như Thạch ra nữa. Như Thạch ở ngoài sân thay đồ y phục, biểu vợ thâu xếp mền gối, quần áo, bỏ vào rương rồi cậy chú Hưng vác đi.
Ra khỏi cửa ngõ cô Nhung nói với chồng :
- Cậu Hội đồng thương vợ chồng mình quá. Anh nghĩ thử coi có nên ra trình cho cậu hay và tạ ơn cậu rồi mình sẽ đi.
- Thôi, còn quyến luyến chỗ nầy mà làm chi. Để lên tới Sài Gòn rồi anh sẽ viết thư tạ ơn cậu cũng được.
- Vâng.
Đến sáng chú Hưng mới trở về. Cô Phụng thấy chú bước vô thì hỏi:
- Mượn chú vác rương đi đâu vậy?
- Thưa, chắc là đi Sài Gòn. Vác vô tới chợ Ô Môn, cậu Ba biểu tôi đem để trên xe hơi đò đi Cần Thơ, rồi tôi ở đó coi chừng. Hai ông bà dắt nhau đi lên đi xuống nói chuyện, chừng xe gần chạy mới lên xe.
- Xe chạy chưa?
- Chạy rồi tôi mới về đây.
Mặt trời mọc một lát, thầy Hội đồng Quyền lơn tơn vô nhà chị. Thầy vừa ngồi yên thì hỏi Hữu Nghĩa: “Thằng Ba còn ngủ sao mậy Xã?”
Bà Cả rước đáp rằng: “Tôi đuổi nó đi hết rồi’.
Thầy Hội đồng chưng hửng, thầy day qua hỏi chị:
- Đi hồi nào?
- Đi hồi khuya.
- Chị lếu quá! Chị đuổi hết hai vợ chồng nó hay sao?
- Đuổi hết.
- Chị gắt gao quá lẽ.
- Không phải gắt. Nhà tôi giàu có, tôi không có tiền đặng cưới vợ cho con hay sao, nên con nó làm như vậy.
- Theo quan niệm về phong hoá đời nay, thằng Thạch nó làm như vậy, có quấy đâu chị. Tại chị thủ cựu quá, nên chị tưởng nó hư chớ.
- Tôi không biết xưa nay gì hết. Con thì phải chờ lịnh cha mẹ cưới gả tôi mới chịu.
Thầy Hội đồng thấy vợ chồng Hữu Nghĩa đi qua đi lại thì châu mày hỏi: “Sao chị Cả đuổi hai vợ chồng nó đi, thằng Xã không biểu đứa nào chạy ra cho cậu hay?”
Cô Phụng rước đáp liền:
- Tại cậu không có dặn, ai dám cho hay.
- Dặn giống gì? Cậu biết rồi, cháu không thương thằng Thạch nên cháu muốn má cháu đuổi nó đi cho rảnh. Xấu lắm! Xấu lắm!
- Đâu có!
- Hứ...
Thầy Hội đồng vội vàng đứng dậy từ bà Cả ra về, không thèm nói tới vợ chồng Hữu Nghĩa.
Ông Huyện Khoan làm quan tại Sài Gòn, ông ở một cái nhà bánh ếch nơi đầu đường Mayer, nhà tuy nhỏ song có nhà bếp, nhà xe kèm hai bên, lại trước nhà có vài cây xoài lớn che làn mát mẻ, chính giữa sân có xây bồn trồng nhiều thứ bông. Ông còn trẻ, mới bước chân vào hoạn lộ, mà được một ngôi nhà đẹp đẽ như vậy, là vì năm trước ông cưới vợ, rồi cha mẹ vợ của ông muốn cho bề ăn ở của con rể xứng với địa vị thượng lưu nên mua cái nhà ấy để cho ông ở.
Gần 12 giờ trưa, xe hơi xuống sở làm rước ông về, xe vô sân vừa ngừng, thì ông mở cửa nhảy xuống gọn gàng, rồi xăm xăm đi riết vô nhà. Ông thấy bà ngồi một mình tại phòng khách, đương xem nhựt trình thì ông bước vô, hai tay ôm mặt bà mà nựng.
Bà Huyện tuổi vừa mới đôi mươi, vóc lớn, môi dày, trán thấp, bà buông nhựt trình đứng dậy, xô chồng nhẹ nhẹ và nói: “Làm giống gì kỳ cục vậy nà”.
Ông cười hịt hạt, rồi cất nón đi vô buồng thay đồ. Bà bước ra cửa sau, kêu bồi bếp biểu dọn cơm, bà nói tiếng rộn ràng, lại đứng tay chống nạnh, nên coi oai nghiêm lắm.
Cơm dọn rồi thì ông thay đồ cũng rồi, nên vợ chồng ngồi lại bàn ăn, một tên ngồi khoanh tay đứng sau lưng bà mà chờ lịnh.
Ông vui vẻ hỏi bà:
- Hồi sớm mơi mình có xuống Bến Thành không?
- Có. Tôi có đi một lát.
- Đi chơi vui hôn?
- Sớm mơi thiên hạ lo mua bán, chớ có gì mà vui.
- Tối nay mình muốn đi đâu chơi đặng tôi dắt đi?
- Vậy chớ mình không đi hội nữa hay sao?
- Không, mình muốn đi Thủ Đức chơi, hay là muốn đi coi hát bóng?
- Để tối rồi sẽ hay. Tôi muốn đi Chợ Lớn kiếm đồ mua.
- Muốn đi Chợ Lớn thì đi.
Bỗng ông Huyện dòm ra cửa thì thấy có hai cái xe kéo chạy vô sân. Ông nói lớn:
- Ủa! Vợ chồng anh Đốc Thạch mới mượn xe về Ô Môn hôm qua, sao bữa nay lại trở lên kia kìa?
- Thiệt quả Như Thạch với cô Nhung bước vô cửa. Cô Nhung chắp tay xá và nói: Em chào quan, em chào bà .
Ông Huyện hỏi: Sao mau lên như vậy?"
Như Thạch cười đáp: Ừ, trở lên". Chàng kêu xa phu bảo vác rương với va-ly đem vô để trước hàng ba rồi móc túi lấy bạc cắc mà trả tiền xe.
Bà Huyện nói: Gặp bữa tôi xin mời hai ông bà ngồi lại ăn cơm luôn thể. Vợ chồng tôi mới ăn đây .
Cô Nhung vui vẻ đáp:
- Mời bà với quan ăn. Vợ chồng em đã dùng cơm rồi.
- Ăn ở đâu?
- Xe ghé chỗ gì đó nghỉ lâu. Hành khách ai cũng xơi cơm. Vợ chồng tôi vừa đói bụng, nên cũng làm như họ cho vui.
- A! Ghé Cai Lậy phải hôn?
- Thưa phải, Cai Lậy ạ.
- Té ra đi xe đò hay sao?
- Vâng, đi xe đò.
- Hèn chi lên trưa dữ. Thôi, hai ông bà ăn cơm rồi thì ngồi đó uống nước. Bồi, lau vài cái tách rồi rót nước trà bưng ra đây.
Như Thạch cứ đi qua lại, chớ không ngồi.
Ông Huyện thấy vậy mới hỏi:
- Mà sao toa mới về hôm qua, rồi bữa nay lại trở lên? Có việc gì hay sao?
- Ôi! Việc nhà của moa rối lắm toa ôi! Để thủng thẳng rồi moa sẽ thuật hết cho toa nghe.
- Moa chắc toa bị bà già tán toa rồi chớ gì. Phải như vậy hay không?
- Toa đoán trúng lắm, bà già rầy quá.
- Mấy bà già gắt lắm. "Bất cáo nhi thú kỳ tội chi trọng", mấy bả có chịu đâu. Hôm qua toa dắt madame đi về Ô Môn, moa muốn cản mà moa không dám. Chớ chi toa về trước một mình, toa òn ỷ cho êm, rồi toa sẽ đem madame về sau, có lẽ khỏi bị rầy.
- Cái đời của moa dầu làm việc gì cũng vậy, lấy lòng thành thật làm gốc. Mưu sự giả dối moa làm không được.
- Ở đời có kinh mà cũng có quyền. Mình phải tùy thời mà làm, thì mới nên việc chớ. Bà già rầy thì toa phải ráng mà chịu, sao lại bỏ đi?
Moa đã ráng hết sức rồi ráng không nổi nữa, nên moa phải đi đây. Mới đút đầu vô nhà, vợ moa lạy mà làm lễ ra mắt. Bà già giẫy dựng đứng, la om sòm. Moa năn nỉ hết sức mà cũng không hết giận. Hồi khuya nầy lại đánh chửi xô đuổi vợ moa nữa, từ rày sắp lên không biết moa là con. Bà già moa không thương thì moa đi, chớ ở làm gì.
- Toa bậy quá. Giận nên nói vậy, chớ mẹ con sao lại không thương. Bà già mắng chửi toa phải nhịn, toa chịu lỳ ở đó mới phải. Giận hoài hay sao? Bất quá bà già giận năm mười bữa, nguôi ngoai rồi thôi, chớ không lẽ giận trọn đời.
- Toa làm Huyện moa làm giáo sư, mà toa trở lại toa dạy moa về tâm lý thì trái đời quá. Moa vẫn biết tánh ý bà già moa, bởi vậy trước khi về moa đă sắp đặt cách hành động thế nào cho xuôi thuận chớ moa làm con, lại lấy theo cái thành kiến gia đình thì moa có lỗi thiệt, ấy vậy có lẽ nào moa không chịu nhục. Ngại vi bà già gắt quá đánh đuổi không cho vô nhà thì làm sao mà ở được. Nếu toa ngồi cái địa vị của moa, thì toa mới biết giảng tâm lý.
Vợ chồng ông Huyện ăn cơm rồi, bèn mời khách ra salon ngồi uống nước. Ông
Huyện hỏi Như Thạch Toa không ở dưới Ô Môn được, bây giờ toa tính đi đâu?”
Như Thạch châu mày ngẫm nghĩ một hồi rồi thở dài mà đáp: Moa đương bối rối quá, nên chưa biết đi đâu... Tôi xin hai ông bà làm ơn cho vợ chồng tôi ở đậu đây ít bữa rồi tôi sẽ tính .
Ông Huyện ngó vợ. Bà Huyện cười mà đáp: Anh Đốc đương bối rối việc nhà. Anh chị muốn ở đây bao lâu, vợ chồng tôi cũng vui lòng mà tiếp đãi. Tôi lo có một điều là nhà không được rộng rãi cho lắm, sợ anh chị bực bội bất tiện chớ .
Ông Huyện tiếp mà nói: - “Toa lên đây thì ở đây chớ đi đâu. Chật hẹp cũng ở đỡ với nhau ít bữa rồi sẽ tính. Toa đã từ chức rồi mà toa lại nghịch với bà già nữa, bây giờ toa phải lo tổ chức cái đời tương lai của toa, việc đó là một việc khó”.
Cô Nhung nói:
- Từ hồi sớm mai cho tới bây giờ em theo năn nỉ với anh Đốc, em xin anh trở ra Bắc. Em làm Nữ giáo sư, em được phép nghỉ sáu tháng chớ em không có từ chức. Về Bắc em xin vào Sở Giáo huấn mà dạy học lại, em làm để nuôi sự sống của vợ chồng em được, em tính như vậy mà anh Đốc không chịu. Em xin quan với bà làm ơn nói hộ đặng anh Đốc xiêu lòng mà trở ra Bắc với em.
- Madame tính nghe phải quá, sao toa không chịu nghe. Toa về ở dưới Ô Môn không được, thì toa còn có một đường đi, là trở ra Bắc, chớ toa ở Sài Gòn làm cái gì. Ra Bắc rồi toa làm đơn xin phục chức đặng làm việc đỡ mà nuốt sự sống.
Như Thạch lắc đầu đáp rằng:
- Moa nghĩ trở ra ngoài Bắc không tiện. Hôm trước moa xin nghỉ một năm. Quan trên không cho. Moa giận moa làm đơn từ chức. Thì Quan trên đòi moa quở trách, nói nếu từ chức sau đừng có xin trở vô nữa. Moa giận moa nói moa không màng cái lớp giáo sư, cởi bỏ được thì moa mừng lắm, moa không thèm mang lại đâu mà sợ. Đã có cái ác cảm trước như vậy, bây giờ còn mặt mũi nào xin phục chức lại.
- Ở đời lắm lúc mình phải chịu lòn một chút cho được việc của mình có hại gì.
- Sao lại không hại? Hại lắm chứ. Ai cũng có cái nhơn phẩm riêng, nếu mình để mất nhơn phầm của mình, thì còn gì mà làm người cho được. Thà moa chịu chết đói chớ không bao giờ moa chịu lòn cúi.
- Có lòn cúi gì đâu. Mình chịu khó năn nỉ một chút cho người ta vui lòng người ta giúp mình nên việc, có gì đâu mà sợ xấu hổ.
- Cám ơn mấy lời toa khuyên. Tiếc vì moa không quen năn nỉ, nên moa không thể làm theo lời toa khuyên đó được.
- Toa cứ ôm ấp mấy cái thói hủ lậu, nên toa nói hơi nghe cũ xì. Đời nầy là đời vật chất có ai còn những “cử chỉ cao thượng”, những “tánh tình chánh trực”. Những đồ ấy là đồ trái mùa không hợp với thời thế nữa, nên người ta đã đem bỏ dẹp hết ngoài xó hè. Cái căn cứ để hành vi của người đời nay chỉ có một tiếng “được”, mà thôi. Toa phải ở theo đời, chớ toa ở theo sách, moa chắc toa không “được” gì hết.
- Cám ơn toa vạch giùm con mắt cho moa đặng moa thấy thế thái. Nhưng mà thấy thì thấy, thấy thế tình cũng như đi coi hát thấy hề giễu trên sân khấu, moa thấy đặng cười chơi vậy thôi, chớ moa không thể xen vô đó mà làm như vậy được.
- Tánh ý toa kỳ quá, hèn chi bà già toa rầy toa chịu không được toa bỏ toa đi. Bây giờ toa không chịu trở ra Bắc, vậy toa ở đây toa làm việc gì, toa nói cho moa nghe thử coi.
- Năm moa được cấp bằng làm giáo sư ngoài Bắc moa muốn bỏ không thèm đi. Moa có ghé trường Tư thục Vân Thế ở Tân Định mà hỏi thử ông Cai Trường coi chịu cho moa dạy hay không. Ông lấy làm vui lòng cho moa dạy. Vậy để sáng mai moa xuống trường moa hỏi lại, nếu bây giờ đối với moa còn cái hảo ý ấy, thì moa sẽ đi dạy học để lấy tiền lương mà nuôi vợ moa.
Bà Huyện cười mà nói:
- Anh Đốc tính như vậy tôi coi không tiện. Dạy trường tư anh lãnh mỗi tháng có năm bảy chục đồng bạc, mà lại không có danh vọng gì hết. Anh học giỏi mà bác dưới nhà lại giàu lớn, anh đi làm như vậy coi sao được.
- Tôi xin phép trả lời theo mỗi ý của chị. Lương nhiều hay là ít không quan hệ gì, như nhiều thì xài nhiều như ít thì xài ít, nhiều ít gì cũng được, miễn đời được sung sướng, trí được thong thả thì thôi. Còn danh vọng... Danh vọng là gì? Có phải được ngồi ở cái địa vị giàu sang, bầy thù phụng theo ngợi khen đó mà gọi là danh vọng hay không? Theo tôi tưởng thì chí mình cao, lòng trong sạch không bợ đỡ trên, không khinh ở dưới, biết xét mình biết coi đời, không cầu ai trọng, vì cái trọng của kẻ ngu không quí gì, không màng ai chê vì cái chê của kẻ dại không mấy hại, làm người được như vậy thì đủ rồi, cần gì thứ danh vọng giả, nó đã không làm cao cho giá trị của mình, mà nó còn làm giảm cái chí hướng của mình nữa.
- Anh nói giống gì thì nói, mà bác dưới nhà mỗi năm thâu lúa huê lợi trên hai chục ngàn giạ lúa, bây giờ anh phải xuất thân đi làm mướn thì tức quá.
- Chị nói lời ấy tôi kính phục chị lắm. Tôi ái ngại một chút, là ái ngại chỗ đó. Mà nếu xét cho kỹ, thì cũng không nên buồn. Tuy cha mẹ mình giàu, song tài sản là tài sản của cha mẹ, chớ không phải của mình làm ra, bởi vậy dầu mình không được hưởng, mình cũng không nên phiền trách. Ví như cha mẹ mình nghèo thì mình lấy gì mà trông mong.
- Mà cha mẹ giàu thì con hưởng nhờ chớ. Nếu tôi gặp cảnh như anh, chắc tôi không làm như anh vậy đâu.
- Chớ chị làm sao? .
- Nếu bà giận mà đuổi thì tôi đến nhà bà con tôi ở đậu, hay là mướn phố tôi ở riêng, song cũng ở gần đó. Mình ở đó mình kiếm thế làm ăn. Trong làng trong xóm ai cũng biết mình là con nhà giàu, bề nào ngày sau mình cũng có gia tài, bời vậy mlnh cậy họ giúp vốn cho mình làm ăn thì chắc ai cũng sẵn lòng hết thảy. Mình nương náu một ít lâu nguôi ngoai, bà già hết giận, rồi mình trở về nhà. Nếu mình phiền, mình bỏ nhà mà đi thì gia tài của cha mẹ, chị em mình họ hưởng cũng uổng lắm chớ.
Như Thạch ngồi ngẫm nghĩ không nói nữa.
Cô Nhung thấy vậy cô mới nói với bà Huyện:
- Vợ chồng em buồn là buồn về sự má em giận, chớ gia tài vợ chồng em không sá gì.
- Sao mà không sá? Có của sẵn, khỏi làm cực khổ, ấy là cái phước riêng của mình. Mình được phước thì mình hưởng, sao mà chê. Gia tài lớn quá, chớ phải ít ỏi gì sao.
Ông Huyện đứng dậy vỗ vai Như Thạch mà nói:
- Madame nói phải lắm. Toa phiền bà già, toa bỏ nhà mà đi, thì hại cho quyền lợi của toa nhiều.
- Moa lo là lo về tình nghĩa, chớ quyền lợi có nghĩa lý gì đâu mà toa nói quyền lợi.
- Ở đời phải coi quyền lợi trọng hơn hết mới được. Tình nghĩa hay là giống gì nữa cũng đều đứng sau hết.
- Lý thuyết kim tiền.
- Phải, sanh nhằm cái đời người ta xem trọng con bò vàng, thì mình phải theo cái lý thuyết kim tiền chớ sao.
- Chớ chi toa làm giáo sư thì có ích cho dân chúng nhiều lắm, bởi vì toa lấy cái lý thuyết đó toa dạy, thì chắc học trò của toa ngày sau giàu hết.
- Moa làm quan, moa dạy dân cũng được vậy.
- Ý! Được đâu. Toa làm quan nếu toa thi hành cái thuyết đó, moa sợ dân nghèo hết chớ.
Ai nấy đều cười rộ, ông Huyện cũng cười.
Ông Huyện ngồi lại rồi nói tiếp:
- Thôi đừng có giễu cợt nữa. Phải tính việc của toa lại cho kỹ coi phải làm thế nào bây giờ. Theo ý moa thì toa nên làm như vầy: toa phải đưa madame về ngoài Bắc mà ở tạm... -
- Moa đã nói moa không thể trở ra Bắc được.
- Toa đưa madame về Bắc rồi toa trở vô liền.
- Không được. Moa không thể rời vợ moa được.
- Thôi thì toa kiếm chỗ trong nầy mà để cho madame ở yên, rồi toa trở về Ô Môn mà ở với bà già.
- Toa muốn nói cái gì vậy?
- Theo ý moa thì thế nào toa cũng phải thuận với bà già mới được, chớ nếu toa nghịch thì hại cho toa lắm. Toa cho madame về Bắc, hoặc toa gởi ở đâu đó rồi toa trở về một mình mà ở với bà già. Toa nói dối rằng toa sợ bà già buồn rầu nên toa đã bỏ madame rồi. Bà già nghe như vậy chắc bà hết giận, rồi trở thương toa lại. Toa là trưởng nam, được bà già thương thì tự nhiên toa có quyền trong nhà, có quyền rồi mới có tiền mà nuôi madame chớ. Toa ở đó, lâu lâu toa kiếm chuyện mà đi chơi, rồi toa tới lui với madame cũng được vậy. Làm thế ấy thì toa trọn đạo với mẹ, mà cũng trọn nghĩa với vợ nữa.
- Giả dối! Đạo nghĩa như vậy là đạo nghĩa giả dối, sao toa lại bày cho moa?
Ông Huyện rùn vai mà nói: “Làm như vậy thì hay quá, mà toa không chịu thì thôi, chớ moa biết tính thế nào nữa được. Thôi, toa thay đồ nghỉ trưa một chút, rồi thủng thẳng sẽ tính lại. Hai ông bà ở cái phòng phía trước đó. Cái phòng đó rất mát mẻ”.
Vợ chồng ông Huyện vô buồng phía sau mà nghỉ.
Vợ chồng Như Thạch qua cái phòng phía trước.
Tối, ăn cơm rồi vợ chồng ông Huyện mời khách đi Chợ Lớn chơi. Như Thạch nói: “Cám ơn, hai ông bà cho phép vợ chồng tôi ở nhà đặng sắp đồ trong rương lại và viết thơ về nhà”.
Xe hơi đi rồi, vợ chồng Như Thạch mới dắt nhau ra trước sân đi qua đi lại mà hứng mát. Đi một hồi Như Thạch mới hỏi vợ.
- Em có ăn năn chút nào không?
- Ăn năn thế nào?
- Ăn năn về sự đôi ta phối hiệp đó.
- Ồ! Sao anh hỏi thế? Sao mà ăn năn? Em được gần anh thì bao giờ em cũng sung sướng lắm ạ.
- Hồi anh cưới em, thì anh chắc anh sẽ đem hạnh phúc mà dưng cho em hưởng trọn đời, anh sẽ làm cho em vui vẻ sung sướng luôn luôn. Anh không dè hôm nay xảy ra việc bối rối trong gia đình khiến cho vợ chồng ta phải vất vả như vầy, bởi vậy anh sợ em buồn quá.
- Không ạ. Em có buồn là buồn vì thấy má giận anh mà thôi, chớ làm vợ anh mà thân em phải khổ cực đến thế nào em cũng không buồn.
- Theo công việc em đã thấy đó, thì rõ ràng từ nay cái đời của anh là đời vất vả không gia đình, không thân tộc. Anh muốn biết coi em thấy như vậy em có giựt mình mà hối hận chút nào hay không.
- Anh thương yêu em thì đủ cho em sung sướng lắm rồi. Nếu cái đời của vợ chồng ta mà phải bị vất vả nghèo nàn thì cái sung sướng ấy càng thắm nồng nàn, em vui lắm, chớ sao lại hối hận.
- Cám ơn em. Mấy lời em nói đó làm cho anh phấn chí mà đương đầu với mọi sự khó khăn của chúng ta trong lúc nầy. Em nghe vợ chồng ông Huyện nói chuyện hồi trưa, thì em đã thấy trí lý của vợ chồng ông không hạp với trí ý của anh chút nào hết. Anh không muốn ở đây lâu vì ở đây lâu sợ cái lẽ rồi sanh mích lòng. Vậy sáng mai anh sẽ đi kiếm chỗ mà dạy học liền. Hễ có chỗ làm thì mình mướn phố dọn ở riêng cho thong thả.
- Vâng. Ở yên chỗ rồi, em cũng sẽ kiếm công việc em làm đặng em giúp anh.
- Thôi em có thai nghén mệt nhọc, phải lo dưỡng sức, không nên làm việc, một mình anh làm có lẽ cũng đủ tiền nuôi nhau sống được. Em vô nhà mở rương sắp đồ đạc cho tử tế, để anh viết một bức thơ mà cáo lỗi với cậu Năm.
- Em sắp nhắc anh chuyện ấy. Anh viết thơ, anh chẳng nên tỏ ý phiền má, bởi vì làm con chẳng nên phiền cha mẹ, dầu cha mẹ không thương cũng vậy.
- Anh có phiền đâu.
Vợ chồng dắt nhau trở vô nhà, vợ lo mở rương sắp áo quần, còn chồng ngồi lại bàn viết mà viết thơ.
Chừng Như Thạch viết thơ rồi thì vợ sắp đồ cũng rồi, chàng kêu vợ lại ngồi một Bên rồi đọc thơ lại cho vợ nghe, đọc thư vầy:
Thưa cậu
Khi cậu tiếp được thơ nầy thì chắc cậu đã hay biết công việc của cháu rồi, cháu phải bỏ mẹ lìa nhà mà đi, chẳng phải ý cháu muốn như vậy. Ấy là tại má cháu đánh đuổi không cho cháu ở.
Cậu đã hiểu vì ngọn lửa ái tình nó đốt lòng cháu, nên cháu tự chuyên mà cưới vợ không chờ mạng lịnh của cha mẹ. Cháu lỡ phạm đến gia pháp, thì cháu đã lạy lục năn nỉ hết lời mà khẩn cầu má cháu tha lỗi cho cháu. Cháu thành tâm chịu lỗi, có trước mặt cậu nghe thấy rõ ràng.
Tiếc vì má cháu thưộc về lớp lớn, cố chấp những thành kiến cũ của gia đình xã hội thái quá, không muốn thấu hiểu tâm hồn chủ hướng của lớp nhỏ, nên má cháu đành đoạn tình mẫu tử, đành đuổi vợ chồng cháu ra khỏi nhà.
Cậu hiểu cái óc của lớp nhỏ, nên cậu đã không quở trách cháu mà cậu lại còn can gián giùm cho má cháu bớt giận.
Thái độ của cậu đối với vợ chồng cháu thiệt là đáng kính đáng phục, nó khắc ghi trong đầu vợ chồng cháu dầu trăm ngàn năm cũng chẳng phai chẳng lợt.
Hồi khuya hôm qua, lúc cháu đau lòng rơi lụy mà vác rương bước ra cửa ngõ, sắp lìa khỏi cái nhà của tổ phụ là chỗ ngày xưa cháu mở mắt lần đầu mà thấy đời là chỗ cháu đau đớn ôm cha cháu mà khóc khi cha cháu thở hơi cuối cùng, là chỗ chất chứa những kỷ niệm đầm ấm về đời thơ ngây của cháu, mà cũng là chỗ hiện nay đương ra vô châu mày một mẹ già mà vợ chồng cháu thương yêu kính trọng chẳng có chi bằng, thì vợ cháu có khuyên cháu nên ra nhà cậu mà trình cho cậu hay rồi sẽ di. Lúc ấy trí cháu bối rối, lòng cháu lạnh tanh, cháu chẳng còn biết quấy phải chẳng còn kể thân tộc, nên cháu lắc đầu rồi đi luôn, dường như cháu lật đật tránh xa cái luồng không khí nặng nề của đất Thới An vậy.
Nay trí cháu bình tĩnh nên cháu vội vã viết bức thơ nầy mà cáo lỗi với cậu và xin cậu tin chắc rằng bắt đầu từ nay thân cháu bơ vơ vất vả, phận cháu trở ra một đứa vô gia dình, vô thân tộc mà chẳng bao giờ cháu quên được cái đời cháu vẫn còn một bà mẹ banh da xẻ thịt đẻ cháu ra, vẫn còn một người chị thuở nay cháu vẫn hết lòng yêu mến, vẫn còn một ông cậu thấu hiểu tâm hồn cháu nên biết thương cháu.
Thưa cậu, từ nay cháu bước chân vào một cảnh đời mới, tuy còn lờ mờ song cõi thế rộng rãi. Cháu chưa biết được cảnh đời ấy vui hay buồn hay hay dở thế nào, nhưng mà cháu vẫn hăng hái mà bước tới, không ngần ngại một chút nào hết. Ví dầu cảnh đời ấy chứa dầy những khe sâu hố hiểm. Ví dầu cháu với người bạn đồng tâm đồng chí của cháu nắm tay nhau đi trong cảnh đời ấy mà phải sụp té từng bước, phải đuối sức dọc dường, thì cháu cũng cam tâm vâng chịu chẳng dám phiền trách ai hết.
Cháu bạo gan dám trái thế tục, dám phạm gia pháp, ấy là vì cháu muốn tìm hạnh phúc phi thường cao thượng, khác hơn các hạnh phúc của các bạn đồng thời, nếu rủi hạnh phúc ấy là cái bóng không có hình, hoặc đổi ra hoạn họa, thì tức cười mà thôi, tức cười cái óc lãng mạn của cháu không hạp với ý người, mà cũng không thuận với lòng trời.
Hai cháu đồng cúi đầu chào cậu và kinh gởi lại má cháu mỗi đứa hai lạy mà xin má cháu quên cái tội bất hiếu của con và dâu”.
LÝ NHƯ THẠCH
Bái thơ.
Như Thạch đọc thơ lại, rồi hỏi vợ có câu nào không vừa ý vợ chăng.
Cô Nhung cười và đáp: “Anh tỏ cho cậu Hội đồng biết tâm hồn của chúng ta một cách rõ rệt như thế, mà nhứt là trong thơ anh chẳng có viết câu nào phiền má, thì em vừa lòng lắm. Anh cứ bỏ vào bì rồi sáng mai em dán tem em gởi cho”.
Vợ chồng ông Huyện đi Chợ Lớn về, chủ khách đàm luận chơi một chút rồi từ nhau mà nghỉ.