Môn phái Vovinam Việt Võ Đạo do Cố Võ sư Nguyễn Lộc sáng tạo tại Hà Nội, Việt Nam. Ông sinh ngày 24-5-1912 (nhằm mồng tám, tháng tư, năm Nhâm Tý), nguyên quán ở làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây), trưởng nam của cụ ông Nguyễn Đình Xuyến và cụ bà Nguyễn Thị Hòa.
Từ thuở nhỏ, Ông Nguyễn Lộc đã say mê luyện võ và vật dân tộc. Trưởng thành trong thảm cảnh đất nước bị thực dân Pháp chiếm đóng, ông có ước vọng dùng võ thuật để góp phần xây dựng một thế hệ thanh niên có tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, khỏe mạnh và khả năng tự vệ. Thế nên, ngoài việc trau dồi văn hóa, ông còn nghiên cứu nhiều môn võ khác nhằm hình thành môn võ mới phù hợp với thể tạng của người Việt Nam (mảnh khảnh nhưng nhanh lẹ, dẻo dai) và đặt tên là Vovinam.
Sau khi công trình nghiên cứu hoàn thành vào mùa thu năm 1938, ông huấn luyện thử nghiệm cho một số thân hữu… Ngót một năm sau, ông đưa lớp môn sinh nầy ra mắt quần chúng tại Nhà Hát Lớn Hà Nội.
Cuộc biểu diễn thành công rực rở và lớp tập Vovinam công khai đầu tiên khai giảng tại Trường Sư Phạm Hà Nội vào mùa xuân 1940. Từ đó, nhiều lớp võ liên tục được mở ra ở Hà Nội và vài tỉnh lân cận như Nam Định, Sơn Tây, Thanh Hóa ….
Chương trình huấn luyện thời kỳ nầy chia thành 3 cấp (sơ, trung, cao đẳng) chú trọng cả 3 nội dung (võ thuật, võ lực, võ đạo), nhưng không mấy ai học quá 3 năm, một phần vì thời cuộc, một phần vì bận học hành, mưu sinh …
Từ thập niên 50, Vovinam được phổ biến tại Sài Gòn, Gia Định, Biên Hòa, Đà Lạt. Nhưng công việc mới khởi đầu và còn đầy khó khăn thì Ông Nguyễn Lộc qua đời vào ngày 29-4-1960 (nhằm mồng bốn, tháng tư, năm Canh Tý, hưởng dương 49 tuổi) tại Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh (t/p HCM), sau khi trao nhiệm vụ Chưởng môn lại cho môn đệ trưởng tràng là Võ sư Lê Sáng.
Hiện di cốt Cố Võ sư Nguyễn Lộc đang được bảo quản tại số 31 đường Sư Vạn Hạnh, quận 10, t/p HCM.
Các giai đoạn phát triển
GIAI ĐOẠN 1938 – 1963
Ông Nguyễn Lộc trưởng thành trong thảm cảnh quê hương Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ hơn nửa thế kỷ. Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ đang bị chi phối bởi 2 khuynh hướng: “một bên là hy sinh dấn thân vào con đường cách mạng cứu nước; còn 1 bên là buông mình theo lớp vỏ văn minh hào nhoáng của phương Tây mà những thú vui sa đọa, những phong trào thể thao của lớp thượng lưu trưởng giả được thực dân Pháp khuyến khích để ru ngủ các tầng lớp thanh niên”. Là một thanh niên, ông Nguyễn Lộc vô cùng đau lòng trước thực trạng quê hương. Tất nhiên, ông không bằng lòng và lên án gắt gao dã tâm của bọn thực dân thống trị và tay sai. Theo ông, một trong những yếu tố đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đến thành công là phải xây dựng cho người thanh niên một lòng yêu nước sâu sắc, một tinh thần tự hào dân tộc, một ý chí cách mạng, ý chí quật cường và nghị lực quả cảm; tất cả những đều đó phải được chứa đựng trong một thân thể khỏe mạnh, đanh thép, sức lực dẻo dai, chịu đựng được mọi gian khổ, có khả năng tự vệ và chiến đấu. Vì thế, ông có ước vọng góp phần nung đúc và cống hiến cho tổ quốc những người con yêu có đạo đức, ý chí quyết thắng, đủ năng lực và sức khỏe để vượt thắng sự hèn yếu, bạc nhược về tâm hồn và thể xác hầu vương đến một lối sống tốt đẹp hơn: “Sống, giúp người khác sống và sống vì người khác”.
Mang hoài bảo ấy, ngoài việc tu dưỡng đạo đức, trao dồi học vấn, ông còn giành thời gian sưu tầm, nghiên cứu nhiều môn võ khác. Ngày đêm ông thường bầu bạn với nhiều loại sách báo khác nhau từ Triết học, Văn học, Sử học… đến cả Y học, Cơ thể học. Tất cả những ý tưởng quan trọng về võ học và những vấn đề liên quan đều được ông ký chú, phân loại cụ thể. Khu vực bờ đê sông Hồng từ bến Phà Đen đến Viện Bác cổ, nhà Hát Lớn đều có dấu chân ông chạy nhảy, đi quyền, múa côn … từ lúc mặt trời chưa tỉnh giấc. Ngoài ra, ông còn đến tham quan các võ đường, dự khán những trận tỉ thí võ đài hoặc mạn đàm cùng một số võ sư thời danh hầu tìm hiểu thêm các đòn thế hay, đẹp, hiệu quả của các môn võ Trung Quốc, Nhật, Xiêm, Quyền Anh … Qua đó, ông nhận thấy môn nào cũng có ưu điểm. Có môn thiên về cương, kỹ thuật cứng và mạnh; có môn thiên về nhu, kỹ thuật linh hoạt, khéo léo, uyển chuyển, ít dùng sức. Riêng các môn võ Việt Nam rất độc đáo, không theo cương hay nhu nhất định mà biến hóa, linh động tùy theo thể tạng của mỗi người, mỗi địa phương. Do sáng tạo từ lâu đời, võ Việt Nam cũng có một số kỹ thuật không còn phù hợp với thời đại mới nhưng ông cũng nhận thấy rằng các kỹ thuật đó vẫn phát triển được những tố chất của cơ thể như thăng bằng, chính xác, khéo léo, … mà con người ở thời đại nào cũng cần. Vấn đề cốt lỏi là thông qua những bài bản xưa, đào xâu tình nghĩa, tìm ra phương pháp huấn luyện mới, đáp ứng được tính khoa học, hiện đại, phù hợp với nếp nghĩ và sinh hoạt văn hóa thời đại mới mà vẫn giữ được tính dân tộc. Từ việc nhận ra thực chất của những kỹ thuật, bài võ đi đến việc nhận rõ giá trị đặc thù của từng môn võ, đồng thời đối chiếu với đặc điểm tâm lý và thể tạng của người Việt Nam; ông nhận thấy cần phải xây dựng một môn võ mang tính dân tộc, khoa học và hiện đại để giúp thanh niên có một phương pháp rèn luyện sức khỏe, tự vệ và chiến đấu mang danh dân tộc vì trong mọi cuộc chiến đấu, vấn đề tinh thần và danh dự là hai yếu tố quan trọng góp phần quyết định sự thành bại.
Với các luận cứ đó, ông Nguyễn Lộc đã lấy môn vật và võ dân tộc Việt Nam làm nồng cốt, khai thác mọi tinh hoa võ thuật đã có trên thế giới để sáng tạo thành một môn phái riêng đặt tên là VOVINAM (từ quốc tế hóa của cụm từ võ thuật và võ đạo Việt Nam). Khoảng mùa thu năm 1938, khi việc nghiên cứu hoàn thành, ông mang ra huấn luyện thể nghiệm cho một số thân hữu cùng lứa tuổi. Trong thời gian này, Vovinam lại được ông tiếp tục sửa chữa, bổ sung về lý luận lẫn kỹ thuật. Ngót một năm sau, ông đem lớp môn sinh đầu tiên công khai ra mắt quần chúng tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc biểu diễn thu hút đông đảo người xem và thành công rực rỡ. Để thuận lợi trong việc truyền bá và phát triển “người con tinh thần” của mình, sau đó ông nhận lời mời các bác sĩ Đặng Vũ Hỷ – Hội trưởng Hội thân hữu Thể thao – tổ chức các lớp dạy Vovinam dành cho thanh niên. Lớp võ công khai đầu tiên khai giảng vào mùa xuân năm 1940 tại trường Sư phạm (ùcole Normale) Hà Nội. Sau đó, nhiều lớp võ liên tục được mở ra. Nhớ lại những sự việc có ý nghĩa sâu sắc, các môn đệ ở thời kỳ 1938 – 1940 thường kể lại tấm gương “uy vũ bất năng khuất” của vị Sáng tổ môn phái. Trong buổi biểu diễn vào mùa thu 1940, có một viên chức cấp cao của thực dân Pháp là Trung tá Maurice Ducoroy (Tổng ủy viên Thể dục, Thể thao và Thanh niên Đông Dương) chủ tọa; vì hắn ta là biểu tượng cho bọn thực dân thống trị ngồi trên khán đài nên ông Nguyễn Lộc không cho các môn sinh “Nghiêm Lễ” (lối chào của Vovinam) khán giả như thường lệ mà đưa môn sinh vào hậu trường nghiêng mình làm lễ trước bàn thờ tổ quốc đã được lập sẵn. Giữa cuộc biểu diễn, ông Đặng Vũ Hỷ mời ông lên khán đài để Ducoroy tặng huy chương. Biết không thể chối từ, ông đành phải lên nhận, nhưng khi rời “khán đài danh dự”, ông điềm nhiên gỡ huy chương bỏ vào túi và ung dung điều khiển cuộc biểu diễn. Hành đông trên không những làm bẽ mặt chức quyền thực dân mà còn gây xúc động sâu xa về lòng yêu nước và ý thức dân tộc trong giới thanh niên và nhất là các môn sinh Vovinam. Trong khoảng gần 15 năm (1940 – 1954), Vovinam đã được quảng bá rộng rải ở Hà Nội và lan dần sang các tỉnh Sơn Tây, Nam Định, Thanh Hóa … và cả tỉnh Gò Công ở phía Nam. Vào thời kỳ này, tuy chương trình huấn luyện có phân thành 3 cấp: sơ đẳng, trung đẳng và cao đẳng nhưng không mấy ai học quá 3 năm vì thời cuộc, vì nhu cầu ứng phó cấp thiết, vì đôi lúc thực dân Pháp cấm cản, trừ đội ngũ cốt cán tập luyện bí mật. Các lớp võ công khai thường chỉ kéo dài 3 tháng với những đòn cận chiến đơn giản 10 động tác thể dục; luyện tấn, mép tay, bắp tay rắn chắc; bay người, rạp xuống, trườn bằng khủy tay và đầu gối; các lối nhào lộn, tập té ngã; các thế phản đòn cơ bản, các thế khóa gỡ, 4 bài song luyện, 21 đòn chân không dạy riêng lẽ mà ghép trong các bài song luyện; các thế tự vệ chống kiếm, gậy (côn), mã tấu. Khi tập cũng như biểu diễn, các môn sinh đều mặc quần đùi, mình trần.
Năm 1945, ông Nguyễn Lộc lập gia đình cùng cô Nguyễn Thị Minh (con của cụ ông Nguyễn Ngọc Hoán và cụ bà Bùi Thị Ngọ) và có 9 người con (3 trai). Với vóc dáng dong dỏng cao, mắt sáng, trán rộng, gương mặt trầm tư, giọng nói ấm áp chân tình, nụ cười hiền hòa cởi mở, tuy là một võ sư nổi tiếng nhưng trong con người ông vẫn tuôn chảy một dòng máu nghệ sĩ. Bên bình trà nóng, bao thuốc lá, ông mãi mê ngồi đàm luận thơ văn, hội họa, nghệ thuật nhiếp ảnh … suốt buổi hoặc trọn đêm với bạn bè, môn đệ. Thân mật, hòa đồng, giản dị, ông thích và cho phép các môn đệ gọi mình bằng hai tiếng “Anh Lộc” thân tình; đây là điều hiếm thấy trong giới võ lâm. Những học trò sống cạnh ông đều hưởng những tình cảm đôn hậu và sự châm lo chu đáo. Tuy vậy, khi bắt tay vào công việc, học tập, ông Nguyễn Lộc lại rất nghiêm túc, cẩn trọng, luôn đặt yêu cầu đối với bản thân mình và các cộng sự. Giao lưu rộng rãi, tính tình hào hiệp, con thiếu sữa vẫn mang gạo tiền giúp đỡ bạn bè đang gặïp cơn bĩ cực, vì thế ông đã thu hút được người chung quanh quý trọng.
Năm 1954, ông vào miền Nam mở lớp võ tại đường Thủ Khoa Huân (Sài Gòn) và cử các môn đệ dạy Vovinam ở quận Thủ Đức (tỉnh Gia Định), thành phố Đà Lạt … Trong lúc công việc mới bắt dầu và còn đầy khó khăn thì ông lại qua đời vào ngày mùng 4 tháng 4 năm Canh Tý (29/4/1960) sau khi trao nhiệm vụ Chưởng môn lại cho Lê Sáng – người môn đệ trưởng tràng đã gắn bó cùng ông từ năm 1940. Hiện di cốt ông đang được bảo quản tại CLB Vovinam – Việt Võ Đạo, số 31 đường Sư Vạn Hạnh, quận 10, TP.Hồ Chí Minh.
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, nhân có võ sư Phạm Lợi (môn Judo) tham gia cuộc đảo chính của Nguyễn Chánh Thi, chế độ Ngô Đình Diệm đã hạn chế các võ phái đang hoạt động. Tuy nhiên, một số lớp Vovinam vẫn âm thầm tập luyện tại các trường trung học Chân Phước Liêm, Saint Thomas … ở Sài Gòn.
GIAI ĐOẠN 1964 – 1975
Đến ngày 01/11/1963, nhóm Dương Văn Minh hạ bệ Ngô Đình Diệm. Cùng với các võ phái khác, Vovinam bắt đầu công khai hoạt động lại từ đầu năm 1964. Vào thời điểm này, chiếc áo thun ba lổ (may – ô) và quần đùi mà võ sinh đã mặc trong thời kỳ 1954 – 1963 được thay thế bằng bộ võ phục màu xanh da trời như hiện nay. Sau khi võ đường đầu tiên (tính từ 1964) ra đời tại số 61 đường Vĩnh Viễn, quận 10, (Sài Gòn), võ sư Chưởng môn Lê Sáng, võ sư Trần Huy Phong (1938 – 1997), võ sư Nguyễn Văn Thư và một số thành viên khác đã họp để soạn thảo Quy lệ môn phái, vạch ra phương hướng củng cố và phát triển môn phái. Dựa vào tư tưởng, kỹ thuật và bài bản của cố võ sư Nguyễn Lộc truyền lại, võ sư Lê Sáng và một vài võ sư cao cấp đã bổ sung, xác lập một chương trình giảng huấn võ đạo, huấn luyện võ lực, võ thuật theo từng cấp với thời gian học tập, chế độ thi cử và hệ thống đẳng cấp, màu đai rõ ràng: xanh (sơ đẳng, có 3 cấp), vàng (trung đẳng, có 3 cấp), đỏ (cao đẳng, có 7 cấp) và trắng (thượng đẳng, dàng riêng cho võ sư Chưởng môn). Hệ thống kỹ thuật cũng dần dần có thêm các đòn thế, bài bản mới như: 30 thế liên hoàn chiến đấu, 28 thế vật căn bản và 3 bài Song đấu vật, Song luyện dao găm, Thập tự quyền, Long hổ quyền, Xà quyền, Lão mai, Ngọc trản, Hạc quyền, Việt võ đạo quyền, Tinh hoa lưỡng nghi kiếm pháp, Tứ tượng côn pháp, Nhật nguyệt đại đao, Thái cực đơn đao, Bát quái song đao, Mộc bản, Thương lê pháp, Song đấu búa rìu, Song đấu mã tấu. Cũng từ năm này, Lễ viếng mộ và Lễ tưởng niệm cố võ sư Sáng tổ đều được tổ chức trọng thể hàng năm. Bằng sự hoạt động năng nổ, sáng tạo và hy sinh cho lý tưởng môn phái của võ sư Chưởng môn Lê Sáng và các võ sư, HLV, Vovinam đã thu hút đuợc sự chú ý của nhiều giới và các võ đường khác dần dần xuất hiện như võ đường Trần Hưng Đạo, Hoa Lư … Năm 1966, Vovinam được đưa vào nhà trường mà công đầu là của võ sư Phùng Mạnh Hoàng (1938 – 1967). Nhiều trường công lập và tư thục lớn tại Sài Gòn lúc bấy giờ như Pétrus – Ký (nay là Lê Hồng Phong), Gia Long (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), Chu VĂn An, Cao Thắng, Hưng Đạo, Don Bosco, Phan Sào Nam, Đức Trí, Taberd, Quốc Việt … do các võ sư Lê Công Danh, Trần Văn Bé, Trần Văn Trung, Nguyễn Văn Thông phụ trách, đều có lớp tập chính khóa và ngoại khóa góp phần tạo nên một phong trào rèn luyện sức khỏe sôi nỗi và rộng lớn. Công tác nghiên cứu, biên soạn hệ thống lý luận, kiến thức Vovinam – Việt Võ Đạo cũng được quan tâm. Nhiều sách, đặc san của môn phái đã dược xuất bản trong giai đoạn này. Năm 1968, võ đường 61 Vĩnh Viễn dời đến 31 Trần Hoàng Quân (nay là 31 Sư Vạn Hạnh, quận 10, TP. Hồ Chí Minh) và là trung tâm điều hành tất cả mọi hoạt động của môn phái Vovinam – Việt Võ Đạo.
Sau mấy năm phấn đấu vượt qua nhiều thử thách và đạt nhiều thành quả tốt đẹp, Vovinam được một số ban ngành mời giảng dạy. Tiếp theo, hàng loạt các võ sư, HLV được tung đi các tỉnh, thành phố ở miền Nam để xây dựng và phát triển phong trào như Trịnh Ngọc Minh (Nha Trang), Trần Tấn Vũ (Phú Yên), Ngô Kim Tuyền (Bình Dương), Nguyễn Văn Chiếu (Cam Ranh rồi Bình Định Quy Nhơn), Nguyễn Văn Nhàn, Nguyễn Văn Sen (Cần Thơ), Trần Văn Mỹ (Hậu Nghĩa), Dương Minh Nhơn (Kiên Giang), Nguyễn Tôn Khoa (An Giang), Nguyễn Văn Vang (Vĩnh Long), Nguyễn Văn Ít (Mỹ Tho) … Hằng năm, vào dịp Lễ tượng niệm cố võ sư Sáng tổ, các trưởng đơn vị đều tập trung về Sài Gòn dự lễ, cũng như tập huấn, thi cử, tạo thành một truyền thống đoàn kết, thân ái tốt đẹp. Võ sư Chưởng môn Lê Sáng và một số võ sư cao cấp cũng thường xuyên đi thăm hỏi, chấm thi ở các nơi để hỗ trợ, động viên và kiểm tra phong trào. Bên cạnh việc giáo dục đạo đức và huấn luyện võ thuật cho môn sinh, Vovinam – Việt Võ Đạo còn tham gia một vài công việc xã hội như cứu trợ đồng bào bị lũ lụt, thiên tai. Có thể nói, đây là giai đoạn Vovinam – Việt Võ Đạo trưởng thành về nhiều mặt, các võ đường mọc lên hầu hết các tỉnh phía Nam và theo chân các du học sinh như Trần Nguyên Đạo, Trần Đại Chiêu, Dương Quan Việt, Hà Chí Thành … bắt đầu xâm nhập vào một số nước ở Châu âu như Pháp, Ý, Đức, Thụy Sĩ … vào những năm đầu thập niên 70. Và cái cột mốc đầu tiên trong sự phát triển của Vovinam – Việt Võ Đạo ra quốc tế (1973) là do công của giáo sư Phan Hoàng.
GIAI ĐOẠN 1976 – 2000
Khoảng gần một năm sau ngày thống nhất đất nước, một số võ sư, HLV Vovinam – Việt Võ Đạo đã tập hợp và ôn luyện tại Quận 8 (TP. Hồ Chí Minh) do võ sư Nguyễn Văn Chiếu phụ trách; sau đó đi biểu diễn ở sân vận động quận này và một vài nơi khác như ở Quận 3, Huyện Bình Chánh … ngày 15/12/1978, được sự chấp thuận của Sở Thể dục Thể thao TP. Hồ Chí Minh và UBND Quận 8, lớp Vovinam – Việt Võ Đạo chính thức khai giảng tại tụ điểm Hồ bơi Hòa Bình (đường Chánh Hưng – Quận 8) do võ sư Nguyễn Văn Chiếu huấn luyện, mở đầu cho quá trình khôi phục lại phong trào trong thành phố. Từ thời điểm này đến đầu những năm 80, các võ sư ở một số tỉnh, thành khác như Nguyễn Hữu Hạnh (Cần Thơ), Nguyễn Bá Thuận (Nha Trang), Đinh Văn Hà (Bình Định), Nguyễn Công Hóa (Lâm Đồng) … cũng xin phép ngành TDTT địa phương mở các lớp huấn luyện.
Tháng 6 năm 1980, Vovinam – Việt Võ Đạo dược mời tham dự đợt Hội thao võ thuật do Viện Khoa học Giáo dục và trường Cao đẳng Sư phạm TDTT Trung ương 2 tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh. Năm 1985, võ sư Nguyễn Văn Chiếu được mời huấn luyện cho lớp nghiên cứu võ thuật phía Nam (khóa tập trung 4 tháng) của Cục Cảnh Vệ Bộ Nội Vụ tổ chức. Một sự kiện quan trọng trong thập niên 80 là Hội Việt Võ Đạo TP. Hồ Chí Minh được thành lập vào năm 1989 và ít nhiều có ảnh hưởng đến công tác chuyên môn, nhân sự lẫn sự quan tâm của các tỉnh, thành khác đối với bộ môn. Trước sự hồi phục của phong trào, Vovinam – Việt Võ Đạo đã được Tổng cục TDTT (nay là Uỷ ban TDTT) đưa vào chương trình Hội diễn kỹ thuật khu vực 3 vào năm 1990. Đến tháng 9 năm này, 4 võ sư: Nguyễn Văn Chiếu, Nguyễn Anh Dũng, Lê Thanh Liêm, Tô Mạnh Hòa đã sang biểu diễn tại Bélarus và võ sư Nguyễn Anh Dũng được cử ở lại huấn luyện. Nhằm tạo điều kiện cho Vovinam – Việt Võ Đạo phát triển, Tổng cục TDTT đã cho tổ chức giải vô địch toàn quốc lần thứ I (từ ngày 04 đến ngày 06-12-1992), quy tụ 178 VĐV của nhiều tỉnh, thành về tranh tài ở 2 nội dung : Hội diễn kỹ thuật và thi đấu đối kháng tại TP. HCM.
Để thống nhất công việc quản lý và chỉ đạo chuyên môn, từ tháng 4/1994, Tổng cục TDTT đã quyết định thành lập Ban Điều Hành lâm thời Vovinam – Việt Võ Đạo Việt Nam. Tiếp đó, chuyến biểu diễn thành công vang dội của Vovinam – Việt Võ Đạo Việt Nam tại Lễ hội Văn hóa – Thể thao truyền thống thế giới lần thứ 2 tổ chức ở Thái Lan vào tháng 12 năm 1996 và việc võ sư Nguyễn Văn Chiếu được mời sang huấn luyện tại Tây Ban Nha (tháng 4 năm 1997) trong nửa tháng đã thu hút thêm sự chú ý của những người yêu thích võ thuật dân tộc. Đến giải vô địch toàn quốc lần thứ 6 (từ 27 đến 30/12/1997), với 215 VĐV thuộc 12 tỉnh, thành và 2 ngành (Quân Đội và Thể thao Đại học) tham dự, Vovinam – Việt Võ Đạo đã bắt đầu được khẳng định trong sự việc thể thao của nước nhà qua việc Uỷ ban TDTT phong cấp cho VĐV đạt huy chương. Gần đây, một lớp tập huấn Hướng dẫn viên dành cho các tỉnh phía Bắc được tiến hành tại thị xã Sầm Sơn (Thanh Hóa) từ 15 đến 25/6/1998, với 32 học viên tham dự. Và giải vô địch toàn quốc lần thứ 7 đã quy tụ khoảng 300 võ sĩ của 16 tỉnh, thành và ngành. Đặc biệt, nhân dịp chào mừng 300 năm Sài Gòn – TP. HCM và kỷ niệm 60 năm thành lập môn phái (có phát hành huy hiệu lưu niệm), cuộc Hội diễn Vovinam – Việt Võ Đạo lần thứ I đã diễn ra vào ngày 20/7/1998 tại nhà thi đấu Phan Đình Phùng, Q3, TP.HCM với sự góp mặt của 4 quốc gia : Việt Nam, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, lần 2 (Pháp, Tây Ban Nha, Rumani, Ý), lần 3 (Ba Lan, Đức, Rumani, Pháp 2 đoàn), lớp tập huấn Vovinam Việt Võ Đạo 9 tỉnh phía Bắc, thi đấu Vovinam trong Hội khỏe Phù Đổng TPHCM năm học 1999 – 2000, Đại Hội TDTT TPHCM 2001 và toàn quốc 2002 đã mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp trong việc củng cố và phát triển phong trào Vovinam Việt Võ Đạo.
Nhìn chung, sau hơn 20 năm trải qua không ít gập ghềnh, được sự quan tâm của nhành TDTT các cấp, sự cố vấn, hỗ trợ của võ sư Chưởng môn Lê Sáng và tấm lòng tận tụy hy sinh của tất cả các võ sư, HLV; tính đến nay Vovinam – Việt Võ Đạo đã có khoảng 25.000 môn sinh đang thường xuyên luyện tập tại hầu hết các tỉnh phía Nam và một số tỉnh ở phía Bắc như Quảng Bình, Quảng Trị, Thanh hóa, Hà Nội, Hòa Bình, Lai Châu, Hà tây, Yên Bái, Lạng Sơn, Phú Thọ. Các hoạt động của môn phái tại Việt Nam đang đi dần vào nề nếp, hầu hết các tỉnh, thành đều thành lập Hội, chất lượng chuyên môn có phần tăng tiến.
Trên bình diện quốc tế, Vovinam – Việt Võ đạo đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới như Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Ý, Tây Ban Nha, Mỹ, Ma Rốc, Úc, Canada, Bélarus, Uraina, Rumani, Ba Lan, Algerie, Tunysie. Hằng năm, một vài quốc gia như Pháp, Ý, Thụy Sĩ, đều có tổ chức Cúp Vovinam – Việt Võ Đạo quốc tế với sự hiệân diện của VĐV các nước lân cận. Mới đây, cúp Vovinam – Việt Võ Đạo quốc tế Tây Ban Nha lần thứ I đã được tổ chức tại TP. Tenerife vào ngày 20/11/1998, các nước Việt Nam, Pháp, Ý, Đức và Tây Ban Nha đã cử 54 võ sĩ tham dự cuộc tranh tài này. Song song đó, Vovinam – Việt Võ Đạo còn được mời biểu diễn tại Võ hội quốc tế Bercy (Pháp). Nhiều đoàn môn sinh nước ngoài đã về đất tổ để viếng cố võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc và chào võ sư Chưởng môn Lê Sáng cũng như tập huấn kỹ thuật, thi thăng cấp, tham gia biểu diễn tại TP. Hồ Chí Minh, Nha Trang, Cần Thơ, Hà Nội…
Sáu mươi năm đã trôi qua, từ một môn phái nhỏ bé manh nha tại Hà Nội trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, đến nay Vovinam – Việt Võ Đạo đang lớn mạnh và mở rộng đến nhiều nơi. Đó là cả một quá trình đồng lao cộng khổ, chung vai đấu cật của biết bao thế hệ võ sư, HLV, môn sinh theo những bước chân mở đường của Cố Võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc.
Sáu mươi năm dù chỉ là một chặng đường rất ngắn ngủi so với lịch sử xã hội nhưng Vovinam – Việt Võ Đạo đã có những đóng góp nhất định vào phong trào TDTT của đất nước và thế giới. Tuy nhiên, để Vovinam – Việt võ đạo có những bước tiến nhanh, mạnh và vững chắc hầu có thể sớm sánh vai cùng các môn võ quốc tế khác, môn phái cần nghiêm túc nhìn lại các thiếu sót của mình. Về đại thể, tất cả các võ sư, HLV các môn sinh phải đoàn kết, thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động nhằm góp phần đào tạo những thanh thiếu niên có lòng yêu nước sâu sắc, có tri thức, sức khỏe, đức dũng, lòng nhân, tinh thần hào hiệp và nếp sống văn minh, lành mạnh. Trong quá trình thể thao hóa môn võ, nên mạnh dạn cải cách, thống nhất chương trình huấn luyện, hoàn chỉnh lý luận hệ thống kỹ thuật và in thành sách, sửa đổi luật thi đấu, chấn chỉnh kỷ cương, xây dựng phong cách làm việc khoa học, hiện đại, đào tạo đội ngũ HLV, trọng tài vững mạnh … Đó là những yếu tố căn bản để tiến đến việc thành lập Liên đoàn quốc gia và Liên đoàn quốc tế tại đất tổ trong một tương lai gần.
Sáu mươi năm, từng võ sư, HLV, môn sinh Vovinam – Việt Võ Đạo có quyền tự hào về thành quả mà môn phái đã giành được nhưng cũng phải tự soi rọi lại các ưu, khuyết điểm của bản thân để tiếp tục tu dưỡng đạo đức, rèn luyện chuyên môn, không ngừng khiêm tốn học hỏi để nâng cao kiến thức về mọi mặt, yêu thương, giúp đỡ, thân ái cùng đồng môn nhưng mạnh dạn đấu tranh với những sai trái hầu đưa môn phái vững vàng bước vào thế kỷ 21 cũng như thực hiện ngày một tốt hơn lời chỉ dạy của Cố Võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc: phục vụ dân tộc và nhân loại.