Truyện kỳ ảo - tu đạo - tâm linh Tam giới liệt truyện
Nguyễn Văn Hiến
CHƯƠNG 1: MÙA ĐÔNG Ở OZIL
1. Ozil vào đông, vương quốc chìm trong làn hơi lạnh trườn xuống từ rặng núi Utal phủ đầy màu trắng tuyết; từ đỉnh trời xa, nơi những đám mây màu trắng trôi dạt lửng lơ, vòng ôm mấy ngọn núi cao còn say mềm trong giấc ngủ dài chưa vội tỉnh. Dưới chân đồi, những bông hoa loe kèn nở sớm phơi một màu lơ đỏ, phất phơ trong cơn gió trời vừa rớt xuống. Một lặng vắng kéo dài trên khắp dãy Utal từ hoàng hôn cho đến khi giọng người thợ rừng nghêu ngao hát bài dân ca, tay cầm rựa, chân nhanh nhảu đi trên con đường mòn nhỏ quen thuộc, dần leo lên ngọn đồi cây vào buổi bình minh nắng nhạt.
Trong mênh mông của dặm đường
Nào có hay cuộc đời ai dài ngắn
Phù du của đời người
Sao sánh bằng chân lý vĩnh hằng
Tiếng hát trầm trãi trầm lên Utal. Rặng núi dài hàng trăm dặm, bao quanh một thung lũng phì nhiêu, tạo thành một vùng đất cách biệt với thế giới bên ngoài. Hàng ngàn năm trước, trong truyền thuyết còn kể lại: vị trưởng lão Ozak Ik Tuk đã dẫn tổ tiên người Ozil vượt qua đại dương, xuyên chuyến hải trình dài đăng đẳng, ròng rã ba năm bộ hành mới đến được miền Utal để định cư. Những người Ozil được chọn lựa lần đó đã rời bỏ quê hương theo lời tiên tri của của vị thần linh tối cao dự đoán: sẽ có những sa đoạ tinh thần làm giống nòi Ozil suy thoái. Ngày tam giới sẽ gặp nạn vì lòng tham, thói dục vọng, sự thù hận và những đố kỵ nặng nề. Khi đó, người Ozil sẽ ra đi và biết mình trở lại thế gian nhận nhiệm vụ giúp đời thêm một lần nữa.
Lời tiên tri huyền bí được chạm khắc lại trước cổng chính bằng những hoa văn, những hoạ tiết trên những bức phù điêu ở đền Palik. Chín hình miêu tả từ thời khai thiên lập địa, thời hỗn mang, đến những dự báo tương lai chỉ có những bậc lão sư cai quản đền mới có thể giải thích được. Chín hình là chín vì tinh tú, còn gọi là Cửu Diệu Tinh Quân [1], đại diện cho chín vị thần lần lượt thay nhau cai quản tam giới trong từng chu kỳ có thời gian dài ngắn khác nhau.
Câu chuyện đó còn được lưu giữ tại Utal, giữ trong lòng người Ozil hàng ngàn năm qua.
Theo truyền thuyết xưa cũ, đền Palik được dựng trên ngọn đồi hướng tây Utal từ thời tổ tiên người Ozil vừa mới đến. Chính điện và thiền đường khoét sâu vào núi, mặt hướng về phương đông để luôn nhận được thứ ánh sáng tinh khiết nhất của vị thần Thái Dương Surya. Vào mỗi ngày, khi ánh nắng còn khuất lấp dưới chân đồi, mây tuyết vờn trên cao, các vị tu sĩ cởi trần ngồi trên những tản đá, khép mắt, cột suy nghĩ, trụ tâm để lắng nghe những chuyển động của buổi giao thời giữa đêm và ngày. Những rung dời trầm lặng của thiên nhiên được truyền đến tai trong một cái tâm lặng tỉnh, trong một đường chỉ dài nối đến nhận thức. Bài học trụ tâm vào cây cỏ và lắng nghe những rung động của sự vật được người Ozil thực hành từ lúc bập bẹ nói, tập mãi cho đến khi cảm nhận được suy nghĩ của người khác. Họ biết, mỗi người rung động theo mỗi chu kỳ riêng của nghiệp quả, theo sự xoay chuyển của các vì tinh tú đang lay động trên bầu trời xa xôi kia. Và mỗi sự rung động trong cái vòng tròn nghiệp quả không dứt đó đôi khi không tương thích nhau, va chạm nhau. Nên chỉ có cách lắng nghe và chấp nhận cái rung động riêng lẽ của người khác thì Ozil mới mãi bền vững trong cái thanh tịnh được gầy dựng hàng ngàn năm qua. Vì lẽ đó người Ozil trường chay, sống đơn giản, gần gũi với thiên nhiên. Họ không hiểu hận thù, chẳng biết căm ghét. Mộc mạc như đoá tuyết liên nhô ra từ kẻ đá, nở trắng trong màn tuyết phủ nhạt.
Ở Ozil có tuyết liên, một tạo vật cực hiếm trong ba thế giới, được thần Ozak Ik Tuk lấy giống từ cõi trời về gieo cấy. Tuyết liên bám rễ đất, lớn lên bằng tuyết, trưởng thành nhờ ánh nắng của mặt trời và trổ hoa bằng khí trời Utal. Loài hoa đó một năm nở một lần vào mùa đông. Hương thơm dìu dịu. Toả khắp xung quanh. Chỉ cần thiền định bên tuyết liên, mùi hương thanh tịnh của nó sẽ thấm vào người, làm tâm trí yên lặng, kéo thần thức của hành giả đi vào giấc mơ, chạm vào cõi thiên với các quầng mây sáng và trạng thái rung động tràn hĩ lạc.
Người Ozil coi tuyết liên là một bảo vật và có một lễ hội vào mùa hoa đơm nở.
Khi mùa đông kéo đến. Dưới chân núi, những lùm cây dại ngập ngụa trong tuyết, những vạt rừng rụi lá trơ sững bên triền dốc. Trên nhành cây hoang, vài con chim Putuk xếp cánh đậu, xoè chiếc đuôi dài bảy màu, nghiêng đầu, cất giọt hót những tràng âm thăng cao, ngầm báo cho cư dân Ozil biết mùa lễ hội tuyết liên đang kéo đến.
Lễ hội tuyết liên bắt đầu từ sáng sớm, khi ánh mặt trời còn mờ mịt dưới dốc, còn nhạt sáng sau ngọn đồi trúc có lá cành nặng trầm tuyết đọng. Trên đỉnh Utal, từng hồi chuông U Minh được đánh lên rền rung, âm vang, vọng xuống mặt hồ Peluk đông cứng một gom tụ thanh tịnh dài, trải lên những cánh tuyết liên xoè nở một lắng đọng linh thiêng. Dọc mảnh sân đá nhẵn, nhiều người đến dự hội từ tờ mờ sáng đang cuối quỳ trước bức tượng cẩm thạch hình thần Ozak ngồi trên toà sen, tay bắt ấn thí nguyện đặt giữa hồ. Những tín đồ thành kính hai tay đặt chéo lên vai, cuối đầu lạy, mong cầu một bình an của nội tâm, ước nguyện một hoà hợp chung cho cả gia đình. Xung quanh tượng, những bông tuyết liên nhô lên từ khe đá, khẻ rung rinh trong cơn gió vờn nhẹ tới.
Trên con đường độc nhất lên đền Palik, những phiến đá tam cấp ướt nhẫy trải xuống dưới chân đồi theo vòng cung lượn lượn. Từ dưới kia, một dòng người Ozil ngoài khoác áo lông cừu, đầu đội nón đan kết từ đuôi chim Putuk rụng, tay xách hoa quả chậm rải bước dần lên những bậc đá, rồng rắn leo lên đền Palik dự ngày lễ hội tuyết liên Ik Tuk truyền thống.
2. Mặt trời vừa nhú lên trong nền rực đỏ dưới chân núi.
Tất cả tín đồ đã tề tựu đông đủ ở lễ đường. Họ ngồi kiết già trên những tấm thảm đan kết lại từ các mảnh vải chín màu. Trong lối vào lễ đường, dọc hai bên vách đá, những bức tranh vẽ diễn hoạt sự kiện về vua Bàn Cổ Manu, về sáu vị nối ngôi kế tiếp nhau trông nom loài người trong bảy mươi mốt năm Mahayugas [2] cho mỗi nhiệm kỳ. Trên những mãng màu kết đọng đó, trong những đường nét nhạt đậm bật lên qua ánh lửa bừng phả ra từ hai dãy đèn dầu chạy dài; mấy hình ảnh khắc vẽ trên vách đá gợi mở, khơi dòng một huyền thoại cổ xưa về vua Bàn Cổ Manu hiển hiện sinh động như thác rơi suối chảy.
Manu trong một lần ra dòng sông Mây Trôi dạo mát, ngài chậm rãi bước đi dưới hàng cây xanh rung rì trong cơn gió lay vờn qua kẻ lá. Dừng bước trước một bãi bồi, đứng nhìn dòng nước đang chảy không ngừng ra biển cả, ngài nhớ đến dãy núi băng ngàn năm vĩnh cửu trên thượng nguồn, nghĩ đến cái luân chuyển không ngừng của tạo vật.
“Thượng nhân! Xin hãy cứu tôi!”
Manu khẻ giật mình, cuối tìm nơi vọng ra tiếng nói. Ngài nhìn thấy một con cá vàng mắc cạn trên một vũng nước lầy, nó quẫy đuôi, giọng van nài:
“Thượng nhân! Xin cứu tôi! Xin ngài hãy rõ lòng từ bi đem tôi về nuôi trong một cái bể”.
Chạy tìm một chiếc nồi gốm cũ bị vứt bỏ, Manu múc chút nước trong từ dòng Mây Trôi rúc rích chảy lòn qua kẻ đá và đem cá vàng về hoàng cung.
Cá vàng lớn rất nhanh. Bảy ngày nó lớn hơn cái bể vàng. Manu đặt nó vào giếng. Bảy ngày cá vàng lớn hơn giếng. Manu đặt nó vào một cái hồ. Bảy ngày cá vàng lớn hơn hồ nước. Manu cho người đem cá ra Sông Mây. Bảy ngày sau cá lớn hơn Sông Mây. Manu sai người chở cá vàng ra biển lớn.
“Hỡi cá vàng kia! Đây là đại dương sóng trùng, là biển rộng mông mênh, là nơi dành cho ngươi vẫy vùng thoả chí. Hãy trở về nơi chốn của người!”.
Nghe lời tiễn của Manu, cá vàng trồi lên mặt nước. Một đợt sóng vung cao khỏi đầu người, trong phút chốc nó hoá thành một hình người màu xanh, đuôi cá, cưỡi trên một con sư tử trời cánh trắng bay lơ lững trên nền trời.
“Này Manu! Ta chính là Thuỷ Diệu Tinh Quân Budha, thần trông coi biển cả. Ta vì lòng từ bi của ngươi dành cho loài người mà thị hiện. Ta vì lòng từ bi của ngươi dành cho loài người mà cho biết một thiên cơ: Trong vòng bảy ngày tới nhân loại sẽ gặp hoạ đại hồng thuỷ trong bốn mươi chín ngày. Làng mạc bị nhấn chìm, đất đai hoá bùn non, cây cối tàn thối rữa, động vật chịu chết trôi… Hãy về đóng một chiếc thuyền lớn và cứu loài người khỏi tai ương này”.
Nói rồi Thuỷ Diệu Tinh Quân tan biến sau làn mây trắng hạ xuống từ bầu trời cao thẳm xa.
Manu trở về, sai người ngày đêm lên rừng đốn cây xẻ gỗ, đóng một chiếc thuyền lớn đặt trên núi Mây Vờn.
Bảy ngày sau. Mây đen kín trời. Mưa đổ như thác. Biển dâng trùng trùng. Cuồng phong quần đảo.
Manu dùng thuyền đậu trên núi Mây Vờn cứu được một phần nhân loại. Từ đó, ngài được gọi là Đức Bàn Cổ Manu, người trị vì đầu tiên của loài người.
3. Buổi lễ tuyết liên sắp bắt đầu.
Sự yên lặng ngưng tụ trong trang trọng của lễ đường bị khuấy đảo lên từ tràng âm trầm vọng của hai người nhạc công mặc trang phục toàn đỏ đương thổi hai chiếc kèn đồng dài hình dấu hỏi. Tu tu tu. Từng hồi âm lượn bay, vọng vào vách đá, dội ra, dập dồn vào tai báo hiệu cho biết buổi lễ chính thức được mở màn. Sau hồi kèn dài, hai nhạc công khác cầm trống dhyangro bước ra từ sau tấm rèm, vừa đi vừa gõ. Từng âm khác biệt bừng ra từ hai mặt trống, một trầm một bỗng, một âm một dương như hai mặt trong thế giới nhị nguyên của âm thanh, của xao động, của lay chạm thay nhau xen lấp lên tiếng kèn thổi dài. Khi chuỗi tiếng trống dhyangro vừa dứt một đoản khúc trong bài tấu, hai nhạc công khác bước ra, mỗi người cầm một bộ chũm choẹ đồng tingsha nối nhau bằng sợi dây da. Hai bàn tay nhịp đều, hai cái chạm vừa đụng tới, nhả ra những dốc âm cao leng keng, thảy lên bài tấu một chênh dài vun vút như đứng trên ngọn Utal cao xa nhất nhìn xuống thung lũng, nhìn xuống dưới rừng cây rập rờn một màu xanh trùng điệp. Và buổi hoà tấu nối tiếp bằng tiếng lèng xèng từ chiếc kiền truỳ ghanta, tiếng leng reng từ chiếc chuông kim cương chữ vajra rung lắc lên trong bàn tay của hai người nhạc công cùng đều bước chân. Màn trình diễn nhạc cụ chấm dứt sau sự xuất hiện của người đánh nhạc cuối cùng với hai chiếc trống damaru nhỏ, trong đôi bàn tay lắc đều lắc đều.
Ozak vĩ đại của chúng ta
Lướt qua đại dương rền rĩ sóng
Đi lên những thảo nguyên và đồi núi
Mở Ozil ra từ lòng bàn tay Thiên Đế
Đặt chân lý trường cữu xuống Utal
Bài hoà tấu “Ozak vượt biển” trỗi lên trong tiếng bỗng trầm của bộ nhạc cụ. Giữa cái nền lay động của âm thanh, hai vị tu sĩ trong màu áo choàng trắng, hai tay giữ bức tượng thần Ozak, từng bước từng bước đi ra, kính cẩn đặt tượng lên bệ thờ cao. Hai thiếu nữ đi sau, một tay giữ giỏ, một tay vung rãi những cánh hoa nhiều màu lên không trung. Tán hoa trải rộng hình cây nấm, mùi hương phất phảng len lỏi trong nền gió đông đặc đứng. Màn rước tượng kết thúc. Một hoạt kịch hoạ nền trên bài tấu “Ozak vượt biển” tiếp diễn trong tiếng nhạc lễ rộn ràng. Ozak xuất hiện. Ozak dẫn đường. Ozak ra đi. Quá khứ lịch sử đang trở về và hiển hiện sôi động trong vở kịch hoàn hảo.
Hơn một ngàn năm trước, khi Ozak Ik Tuk còn là một hiền giả khổ hạnh ở vương quốc Kim Cương.
Quốc vương Mệnh Khách cưới thêm nàng Phong Hoa xin đẹp trong bộ tộc điểu nhân làm vợ. Ông đặt nàng Phong Hoa làm phi, nàng Phong Nguyệt làm hoàng hậu.
Một lần quốc vương Mệnh Khách mời vị thiên nhân có biệt danh Bất Khổ vào cung nhận thọ thực. Dùng cơm xong. Muốn đáp lại lòng khoản đãi của nhà vua, Bất Động hỏi hai người vợ của vua có ước muốn gì thì ông sẽ giúp cho.
“Ta muốn có một đứa con trai uy dũng như nhà vua”. Không chút ngập ngừng, hoàng hậu Phong Nguyệt bày tỏ ước muốn với vị tiên nhân.
“Ta muốn có một trăm đứa con trai dũng mãnh như Mệnh Khách và một đứa con gái xin đẹp như Phong Hoa”.
Bất Khổ nghe xong nguyện vọng của Phong Nguyệt và Phong Hoa, bật cười lớn, nói: “hai vị sẽ được như ý nguyện”, rồi bỏ đi.
Một tháng sau cả hai nàng Phong Hoa và Phong Nguyệt cùng có thai.
Một năm sau hoàng hậu Phong Nguyệt sinh ra một người con trai đặt tên là Diệp Tố.
Hai năm sau Phong Hoa sinh ra một trăm lẽ một cái trứng. Chờ mãi trứng không nở, nàng tuyệt vọng định đem vứt đi thì Bất Khổ hiện ra nói: “vạn vật đều có trật tự của nó, không có gì là vô ích”.
Một năm sau. Trứng đầu tiên nở ra một người con trai, nhà vua đặt tên nó là Vĩnh Hảo Thứ Nhất; trứng thứ hai đặt tên là Vĩnh Hảo Thứ Nhì; cho đến Vĩnh Hảo Thứ Một Trăm. Trứng cuối cùng nở ra một người con gái, vương phi đặt tên nó là Bách Hoa.
Vua Mệnh Khách đặt tên cho một trăm người con bắt đầu bằng chữ Vĩnh Hão hầu mong có sự may mắn cho cả vương quốc Kim Cương. Nhưng đêm ấy, sau lúc một trăm lẽ một đứa con của Phong Hoa chào đời cùng cất tiếng khóc. Những âm sầu thảm phát ra từ hoàng cung làm chấn động cả vương quốc Kim Cương, thú rừng chạy tán loạn, lưu tinh hiện ra trên bầu trời hướng đông, sau vầng mây chói đỏ rồi sa xuống.
“Một trăm lẽ một đứa con của Phong Hoa chính là điểm gỡ của vương quốc Kim Cương”. Vị quốc sư nói với nhà vua.
“Ta phải làm sao đây?”. Khuôn mặt chứa đầy những ưu sầu không giải toả, Mệnh Khách hỏi quốc sư.
“Vì lợi ích của quốc gia, vì sự tồn tại của bộ tộc, xin ngài hãy đem một trăm lẽ một kẻ điểu nhân kia giết đi để tế thần”.
Nghe xong lời của quốc sư, Mệnh Khách càng băng khoăn hơn, chưa bao giờ cuộc đời ông đứng trước những lựa chọn khó khăn đến thế. Những vết nhăn trên gương mặt vua từng giờ từng giờ sâu trũng xuống, những sợi tóc bạc dần bạc dần trên mái đầu lớm chớm. Chết một trăm lẽ một người đổi lấy hàng vạn dân? Vương Quốc. Dòng tộc. Những đứa con.
Sau một đêm dài thức suy nghĩ, Mệnh Khách ra lệnh chuẩn bị giàn hoả.
Phong Hoa nghe tin con mình sắp bị đem thiêu sống thì khóc ngất. Hoàng hậu Phong Nguyệt tìm đến nhà vua, nàng khuyên:
“Trước, tạo hoá sinh thành lấy từ bi làm gốc; sau, vạn vật có chổ của vạn vật, chúng sinh có nơi của chúng sinh. Vạn hồi luân chuyển, thành bại vô thường. Quân vương há vì chút lợi ích riêng mà làm tổn hại đến các con”.
Nhà vua ngậm ngùi nhìn hoàng hậu.
“Sự việc đã ra cớ sự này. Nay để yên lòng dân, xin ngài hãy đem bọn nó bỏ vào rừng sâu, mọi việc còn lại phải xem tạo hoá của chúng”.
Mệnh Khách bớt sầu tư, cầm tay Phong Nguyệt, thầm cảm ơn lời sẽ chia của hoàng hậu.
Thời gian nối thời gian, chẳng mấy lâu mà đã hai mươi năm. Vua Mệnh Khách qua đời, truyền ngôi lại cho hoàng tử Diệp Tố.
Một trăm lẽ một đứa con của Phong Hoa sau khi bị nhà vua cho đem bỏ vào rừng sâu được Điểu tộc cứu vớt. Chúng lớn lên, trong lòng không nguôi mối hận bị đuổi khỏi vương quốc Kim Cương ngày nào. Vĩnh Hảo Thứ Nhất được Điểu tộc tôn lên làm vua.
Sau khi nghe tin vua Mệnh Khách qua đời, biết Kim Cương quốc suy yếu, Điểu tộc phát động chiến tranh chống lại nhà vua Diệp Tố. Kim Cương quốc kháng cự mãnh liệt. Cuộc chiến dài ba năm, không phân thắng bại. Người chết vô số, thây chất thành núi, máu chảy thành sông. Trời đất thảm sầu. Thiên Đế ra tay can thiệp.
Thiền giả Ozak Ik Tuk đang tịnh tu trong hang núi. Trong cơn xuất thần, ông nhìn thấy Thiên Đế hiện ra trước mặt và nói:
“Này hiền giả! Ngươi là một prajapati [3] tái sinh! Hãy đi thực thi sứ mệnh của mình. Kim Cương quốc sắp diệt vong, chúng sinh sẽ còn đại nạn lớn không tránh khỏi. Hãy dẫn dắt những người còn lại vượt qua biển lớn, đến một vùng đất gọi là Utal để bảo tồn. Một ngàn năm sau hậu nhân của họ sẽ trở lại giúp đời.”
Thiền giả Ozak nghe xong giật mình, xả thiền, rời hang núi. Trong đêm tối, ông và năm người bạn gọi các trưởng làng vận động người dân âm thầm theo mình rời khỏi Kim Cương quốc.
Chẳng lâu sau Diệp Tố thua trận, Điểu tộc chiếm lấy Kim Cương quốc, đặt tên nước lại là Kim Cương Điểu.
4. Màn hoạt kịch kết thúc.
Lễ đường chìm lặng trong bất động cho đến khi vị trưởng lão Ozak thứ năm mươi hai, người cai quản đền Palik, râu tóc bạc phơ, nét mặt đong đầy hỉ lạc bước ra trong chiếc áo tu choàng trắng. Các tín đồ xếp tay trong thế ấn hiệp chưởng chào mừng trưởng lão, mời ngài an toạ. Trưởng lão khoát tay ngồi xuống, mặt đối diện với các tín đồ, giọng ôn tồn:
“Này các tín hữu! Này những người con của Đấng Ozak! Này những sức mạnh ẩn tàng trên dãy Utal hùng vĩ! Mùa này tuyết liên lại nở ngát hương trong hơi lạnh của mùa đông ngưng đọng. Trong lòng bàn tay của Thiên Đế, dưới chân của Đấng Ozak, trên mảnh đất Utal, nơi những người Ozil còn bám trụ. Chúng con một lần nữa nguyện vì chúng sinh lầm lạc trong bể khổ mà trở lại, nguyện một lần nữa vì tình thương của Đấng Ozak mà hành động. Hỡi Ozak vĩ đại vĩnh hằng!”
Trưởng lão chấm dứt lời nguyện, hai tay xoè ngữa ra, mắt nhắm nghiền trong nền nhạc vang rộng. Rồi ông cuối lưng, rạp mình lạy. Bên dưới các tín đồ đồng thanh xưng tụng “Hỡi Ozak vĩ đại vĩnh hằng” ba lần, rồi cuối người xuống, cùng lạy.
-----------
Chú thích:
[1] Cửu Diệu Tinh Quân gồm chín vị thần đại diện cho chín hành tinh:
Bức thứ nhất thần Thái Dương Surya, thân thể và mái tóc có cùng màu vàng. Phù điêu miêu tả người trong cảnh rong ruổi qua những tầng mây, trên chiếc xe kéo bằng bảy con ngựa trời.
Bức thứ hai là Nguyệt thần Chandra đang lướt đi trong bầu trời đêm sáng trăng, trong màn sương mỏng giăng mờ, trong cổ xe màu đỏ kéo bằng con linh dương.
Bức thứ ba là Vân Hán Tinh Quân Mangala cưỡi con lừa đực màu trắng, thân hình màu đỏ và bốn tay. Một tay cầm đinh ba, một tay cầm hoa sen và hai tay trong tư thế bắt ấn.
Bức thứ tư là Thuỷ Diệu Tinh Quân Budha cưỡi trên con sư tử trời có cánh, thân hình màu xanh nước biển, một tay nắm hoa sen, một tay cầm gậy như ý.
Bức thứ năm là Mộc Đức Tinh Quân Brihaspati ngồi trên một hoa sen, một tay nắm xâu chuổi, một tay cầm gậy như ý.
Bức thứ sáu là Thái Bạch Kim tinh Shukra màu trắng ngồi trên một hoa sen, một tay nắm xâu chuỗi, một tay cầm gậy như ý.
Bức thứ bảy là Thổ Tú Tinh Quân Shani cưỡi trên một con quạ đen, một tay cầm tên, một tay giữ cây cung, một tay nắm đinh ba và một tay bắt ấn.
Bức thứ tám là La Hầu Rahu có thân rồng đầu người, đi trên cổ xe kéo bằng tám con ngựa ô.
Bức thứ chín là Kế Đô Ketu có thân cá đầu người, một tay cầm đao, một tay giữ cờ, một tay nắm chiếc khiêng vàng.
[2] Một Mahayuga bằng 4.320.000 năm;
[3] Prajapati: Một nhóm các vị thần thuộc về sinh sản và bảo vệ;
1.Nắng chiều dần rụi dưới chân núi tuyết sững đọng, buông trả bầu trời ngậm mây một màn đen nhạt nhoè tối.
Dưới triền đồi Núi Trắng, hồ Manas Sarovar [1] tròn như hình mặt trời chứa dòng cam lồ linh thiêng có sức mạnh tẩy uế những vẫn đục của thân tâm trải mềm xuống một long lanh trong vắt. Dòng nước hứng ra từ những giọt nước mắt của thần Brahma rớt đọng, phẳng lặng như chiếc gương soi mây trời lãng đãng. Bao quanh hồ, dọc bãi cỏ xanh trải mềm như tấm thảm, vài bóng chim Putuk lững thững đi trong màn tối lững lờ kéo những căn nhà gỗ hình nấm chìm xám mờ theo bóng núi.
Gần hồ Manas Sarovar, một cây Kalpavriksha [2] thân đỏ xoè những cành to dang rộng như bàn tay người che phủ cả một góc sân. Những chiếc lá màu vàng nổi vân in hình sáu chữ của bài ca chân ngôn về Đức Mẹ phản phất mùi hương hoa quế, đem lại một lắng đọng của Trí Huệ cho những ai chạm vào, những ai ngồi gần bên nó lặng im lắng nghe cái rung động trường dài của thiên nhiên vừa bật khởi.
Utal lẩn vào đêm, lẫn vào lễ đốt lửa thiêng Dhuni. Trong bầu trời đêm trong vắt những ánh sao trời lay động lung linh trên nền mây thẳm xanh, vài người đương lặng lẽ xếp những thanh cũi to, khéo léo sắp đặt chúng xoay quanh một cái lò đá tròn lớn chuẩn bị cho đêm lễ Dhuni.
Từ các ngã đường Ozil, nhiều bóng người, những bước chân nối nhau đổ xuống khoảnh sân dưới thung lũng hồ Manas Sarovar. Họ dần đến, lần lượt xếp thành những vòng tròn, cặm cụi ngồi bao quanh lò đá, chờ đợi.
Một hồi tù vang lên. Từ phía sau, trưởng lão Ozak thứ năm mươi hai trong áo choàng trắng, tay cầm ngọn đuốc rẽ dòng người bước vào. Ánh lửa đỏ hồng nhuộm lên khuôn mặt tiên phong đạo cốt một vẻ uy nghi thần thái. Ông bước đến gần lò. Chân đi trong một điệu bộ gần như múa. Miệng niệm chú lâm râm. Tay thủ ấn quyết. Tay cầm ngọn đuốc đặt dưới những thanh cũi lớn, đốt bừng phả lên một vùng sáng bập bùng trong tiếng nhạc, trong lời hát của “Bài ca lửa tam muội” hợp cùng tiếng tù vừa trỗi lên. Rồi trưởng lão đi vòng quanh đống lửa ba bận, biểu thị cho vòng tròn luân hồi luẩn quẩn không dứt trong tam giới sẽ bị đốt cháy trong ngọn lửa tam muội Kundalini [3] thần thánh.
Lửa tam muội phả bừng
Đốt cháy phàm nhân ngã
Trả lại mỗi cuộc đời
Một bình yên chân ngã
Giữa lúc “Bài ca lửa tam muội” dứt một trường đoạn, những người dự lễ đứng dậy, mỗi người lần lượt vứt bỏ một mảnh vải vào chiếc lò đương cháy đỏ. Họ muốn đốt cháy quá khứ, muốn vứt bỏ những lỗi lầm trong năm qua mà mình phạm phải. Và ngày mai, khi ánh mặt trời hửng sáng dưới chân núi, một cuộc đời mới sẽ đến với người Ozil trong cái nhận thức vừa được tẩy rửa trong ánh tam muội, qua dòng nước cam lồ trong vắt của dòng nước Manas Sarovar bình lặng.
Buổi lễ đốt lửa tàn trên nền trời xanh cao lấp ló những vì sao màu đỏ. Nhiều lưu tinh hiện ra từ chòm sao Bắc Đẩu, rực sáng và rơi xuống đỉnh Utal trong một xao động lạ lùng.
2.Những người dự lễ đã về hết, trưởng lão Ozak thứ năm mươi hai còn phân vân ngồi nán lại bên chiếc lò dầy hơi ấm toả ra những hòn than còn cháy đỏ. Ông nhìn lên bầu trời, những chòm sao lắc lư trong vũ trụ dội về những tiên cơ khiến ông khỏi chạnh lòng, ngậm ngùi trong ánh mắt.
Trưởng lão lặng im lấy một hòn than, cuối xuống vẽ một hình Navagrahas [4], với Mặt trời làm trung tâm, xung quanh tám hành tinh: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ và Mặt trăng xoay tròn trong một ảo vũ trụ. Xong, ông ngồi suy tư soi xét.
“Lưu tinh hiện ra từ chòm Bắc Đầu liệu có thiên cơ gì, thưa thầy?”. Sau một hồi lặng im nhìn thầy, vị đại đệ tử Khách Vũ Ba đứng kế bên thắc mắc hỏi trưởng lão.
“Đây là Samhita [5], một môn trong bảy bộ chiêm tinh bí truyền có từ thời Bàn Cổ Manu. Hàng ngàn năm sau đời vua Bàn Cổ, chiêm tinh học được truyền xuống thế gian, nhân loại vì thế mà tránh được nhiều tai kiếp. Nhưng dần dà lòng người sa đoạ, sử dụng chiêm tinh vào mục đích bất hảo nên chiêm tinh chính gốc không còn linh nghiệm và biệt tích ở nhân gian. Đến nay, chỉ số ít những người cam nguyện từ bỏ những dục vọng của một phàm nhân mới có thể hiểu được quy luật xoay chuyển của các hành tinh và tác động của những nguồn năng lượng tàng ẩn trong vũ trụ đến tam giới.”
“Con nên biết, khi mỗi con người khi được sinh ra, trong hơi thở đầu tiên, linh hồn và thể xác của y đã kết nối với 84.000 điểm linh quang của vũ trụ, nơi trung chuyển năng lượng giữa bảy hành tinh và con người. Giống như một trò múa rối, y bị giật dây từ tính cách và nghiệp quả của chính mình được cất giấu trong tàng thức qua vạn kiếp luân hồi.”
“Năng lượng của vũ trụ trong từng chu kỳ riêng của thất tinh sẽ đánh thức tiềm thức, dẫn dắt y tái ngộ với những cá nhân có quan mối quan hệ ràng ruộc với y qua cách đối đãi: yêu thương, mến mộ, thù hận… từ nhiều kiếp trước. Đến đời sống này, nó được mang theo lẫn trong tính cách được chui rèn hay bị ô nhiễm của xã hội, y sẽ tiếp cận và đối xử với họ qua những mối quan hệ mới, qua cách tiếp cận mới.”
“Như thể hai người thù oán nhau từ kiếp trước, sang kiếp này họ vẫn tiếp tục cừu hận nhau một cách vô cớ mà không biết tại sao mình hành động như vậy. Lỗi lầm nhỏ nhặt sẽ được thổi phồng qua những cơn giận dữ và món nợ ân oán sẽ tiếp tục đeo mang sang kiếp tới nếu một trong hai người không học được cách buông bỏ”.
Khách Vũ Ba hỏi lại: “Thưa thầy, làm sao biết được nghiệp quả?”.
“Nghiệp quả, hiểu đơn giản nhất chính là những suy nghĩ và hành động về những mối quan hệ, về vật chất, về danh vọng… không ngừng nảy nở trong đầu của một phàm nhân. Như một vòng tròn quay mãi không dứt, suy nghĩ vẫn tồn tại trong tâm tưởng dù y thức, ngủ, hoặc chết đi… Hễ khi nào một người còn suy nghĩ, còn hành động thì ắt hẵn y sẽ còn chuốc lấy ân nghiệp và oán nghiệp.”
“Các vị thánh nhân ý thức được điều đó và các ngài đã không ngừng chú tâm thiền định để đạt đến trạng thái của Vô Ngã, một giai đoạn tâm trí an định đến mức không còn một suy nghĩ nào bị khuấy động trong tư tưởng”.
Khách Vũ Ba cuối đầu, giọng chân thành: “Con sẽ nghi nhớ những lời thầy dạy”.
Trưởng lão lại đứng lên nhìn về những vì sao trên bầu trời xa.
“Con nên biết vũ trụ có những chu kỳ lớn nhỏ khác nhau vận hành theo quy luật thành trụ hoại không của tạo hoá. Một ngày có đêm và sáng. Một tuần Vasara [6] có bảy ngày. Một năm có mười hai tháng. Một Samvatsaras [7] có sáu mươi năm. Và các chu kỳ lớn khác như Satya Yuga, Treta Yuga, Dvapara Yuga và Kali [8] kéo dài đến hàng tỷ năm đời người.”
“Có sinh tất có diệt. Như hiện nay, đây là thời kỳ cuối của Satya Yuga [9], chủng nhân sắp có thay đổi lớn trong vòng một trăm năm tới.”
Khách Vũ Ba hơi bồn chồn, thắc mắc hỏi: “Thưa thầy, vậy tam giới sẽ có những thay đổi gì?”
“Con thấy thấy không?”. Trưởng lão chỉ tay lên bầu trời, nơi chòm Tula [10] sáng mờ hình móng vuốt con bò cạp. “Vận hội của tam giới đang tụ vào chòm Tula kia! Hoả tinh đến gần Thổ tinh thì sẽ có chiến tranh và chết chóc xảy hiện. Đáng tiếc Kim tinh lại ở quá xa, dầu truyền nhân của Thất tinh Bắc Đẩu Rishi Sage [11] có giáng xuống trần thế thì hi vọng hoa bình của tam giới vẫn mong manh như sợi chỉ mành treo chuông phất phơ trong cuồng phong gió tạc.”
Đôi mắt Khách Vũ Ba hơi sáng lên một hi vọng, anh ta hỏi dồn: “Thất tinh Rishi Sage đã giáng xuống cõi người rồi phải không, thưa thầy?”.
“Có lẽ là họ đang trưởng thành ở cõi người”.
Cả hai thầy trò cùng lặng im nhìn lên bầu trời, trong lòng khắp khởi một hy vọng bình yên sẽ đến như lòng từ bi vốn có từ nguyên thuỷ tạo hoá.
3.Trời đêm sắp tàn.
Trăng non treo chênh vênh trong màn hơi lạnh vờn đuổi trên đỉnh núi Utal, trong bầu trời khuya khép lại một im lặng dài dưới thung lũng Ozil.
Những ngọn đèn trong chánh điện leo lét sáng, rọi lên tám bức tượng hộ pháp một giao hoà sáng tối, tô vẽ thêm cái thâm u huyền bí thần thánh hiện ra trên khuôn mặt vị trưởng lão ngồi kiết già trước bức tranh Mandala đầy sắc màu in trên vách đá phẳng lì.
Khách Vũ Ba ngồi đối diện trưởng lão, vẻ mặt non trẻ chứa đầy những ưu tư hơi cuối xuống trong tư thế thành kính. Anh thoáng nghĩ, sư phụ truyền mình đến chánh đường trong đêm khuya như thế chắc hẵn có chuyện quan trọng sắp giao phó.
“Thầy sắp có việc giao cho con thực hiện”. Trưởng lão lên tiếng.
“Đệ tử xin nghe và cam nguyện sẽ hoàn thành theo ý nguyện của thầy”. Khách Vũ Ba chấp tay xá đáp lễ.
“Từ lúc tổ tiên người Ozil vượt biển xa xôi và đặt chân lên dãi Utal linh thiêng này, những trưởng lão nối tiếp của đền Palik đã thay nhau gìn giữ lời tiên tri cuả thần Ozak như một nhiệm vụ không thể thoái thác. Hàng ngàn năm qua, sự bình lặng vốn có của nhân thế sắp bị xoay chuyển theo nghiệp vận hoạt diệt không thể chối cãi được của tạo hoá.”
“Dầu biết vạn vật có sinh hẵn có diệt nhưng lòng từ bi của các vì thánh nhân ẩn tàng trong tam giới sẽ sắp đặt cho thiện tính trường tồn trong chu kỳ kế tiếp.”
“Nhưng con nên biết thế giới không hề có sự đối lập của thiện tính và ác tính, nó chỉ là một sự vọng tưởng của phàm ngã. Tam độc tham sân si tích chứa càng nhiều trong thế giới này thì sự hoại diệt càng nhanh chóng đến.”
Giọng trưởng lão trầm lắng như một chuỗi diệu âm trãi mềm trên vầng mây ngũ sắc.
Khách Vũ Ba hơi phân vân hỏi thầy: “Thưa thầy, vậy vọng tưởng là gì?”
“Ngày hôm qua con thấy điều gì là hạnh phúc nhất?”. Trưởng lão ôn tồn hỏi.
“Con mong ngày lễ tuyết liên đến sớm”. Khách Vũ Ba trả lời thầy.
“Còn ngày hôm nay con mong mõi vào chuyện gì?”.
“Con mong sớm xong ngày lễ để bớt đi những mệt mõi rã rời”.
Trưởng lão khẻ mĩm cười, nhìn lên bức tượng các vị hộ pháp: “Tâm tư của một phàm nhân không tĩnh lặng như tượng đá, nó luôn xao động như mặt biển khơi không ngừng vỗ sóng, dầu trong lúc con đang thức tỉnh, dầu trong lúc con đang chìm thiếp đi trong giấc ngủ của đêm dài. Như hôm qua con có một ước muốn, hôm nay con lại có thêm một ước muốn nữa và ngày mai con có thêm một ước muốn khác. Khi con nghĩ rằng bản thân mình sẽ thoả mãn khi dựa vào một điều nào đó có được do tìm kiếm được ở bên ngoài nội tâm thì đó là sự vọng tưởng”.
“Một kẻ nghèo khó vọng tưởng tiền bạc sẽ đem lại cho y hạnh phúc. Một kẻ thấp kém vọng tưởng danh vọng sẽ đem lại cho y sự thành công… Nhưng bản chất cuộc đời mỗi người chịu sự chi phối ràn rịt của nghiệp quả, sẽ có rất nhiều thèm khát không thể được đáp ứng nếu y không có một nghiệp lực tốt đẹp được tích tụ từ quá khứ”.
“Bởi không hiểu rõ ràng về nghiệp quả, người ta dễ đổ lỗi sự thất bại của mình do hoàn cảnh, do những tác động bất minh từ người khác. Thù hận và đố kỵ vì thế mà nảy sinh. Nhân giới sẽ mãi chìm trong đấu tranh hỗn loạn bởi rất nhiều sinh linh không thấu triệt được quy luật vận hành của thế giới”.
“Thưa thầy, có phải thế giới được thành hình từ vọng tưởng?”. Khách Vũ Ba hỏi thầy.
“Con có biết, hàng tỷ năm trước, trong thời kỳ đầu của đại tỳ kiếp Satya Yuga. Chúng nhân hãy còn là những cư dân bán thiên luân hồi xuống từ cõi trời do hết phước báu. Chủng nhân ấy không có giới tính, sống thọ hàng ngàn năm, thân hình long lanh trong ánh hào quang ngũ sắc. Họ di chuyển nhanh bằng ánh sáng, sống bằng dưỡng khí, bay đi trong hư không, có được một đời sống rất thanh tịnh”.
“Rồi một số chúng nhân cảm khởi lên lòng nhàm chán cái thế giới của hình, họ thèm muốn tìm kiếm thứ lạc thú khác tồn tại ở cõi ta-bà. Một ngày, chúng nhân đó nhìn thấy những màu đất đẹp đẽ, thơm lạ dưới cõi ta-bà và có ý muốn dùng thử thứ địa tố đó. Họ lấy thử ít đất đặt lên đầu lưỡi, không ngờ vị ngon lan toả, tan hoà vào cơ thể. Thời gian trôi qua, do ái dục chế ngự họ luyến tiếc dùng mãi thứ đất ấy và mất đi ánh hào quang cơ thể, thân xác biến dị đi rất nhiều”.
“Nhiều chúng nhân cùng dùng thứ đất đó nhưng do căn cơ nghiệp quả từng tích tụ mà họ có màu da khác biệt, người sáng láng kẻ thô ráp. Từ đó, trong lòng họ vọng khởi lên cái bản ngã, xem trọng mình, khinh thường người khác. Thế giới vì sanh ngã đó mà biến động, vị đất dần biến mất khỏi cõi ta-bà”.
“Khi loại đất thơm ngon kia trở nên khan hiếm thì lòng tà ác, tranh giành khởi sinh trong lòng chủng nhân.”
“Chủng nhân đó từng ngày từng ngày sa đoạ hơn và lần lượt những thực vật như cây bồ đào, lúa Sali trắng không có vỏ trấu… thay nhau biến mất và nảy mọc. Loại lúa Sali khi đó không cần đến người trồng, hương thơm ngát ngoài đồng. Buổi sáng hái xuống đem nấu, chiều về hạt ấy đã có lại trên cành.”
“Nếu như địa tố và bồ đào là loại tịnh thực thì gạo Sali là thực phẩm cần phải tiêu hoá. Từ đó, cơ thể chủng nhân ấy lại biến đổi, họ có cơ quan tiêu hoá bài tiết và phân biệt nam nữ.”
“Khi chủng nhân đó có giới tính họ khởi sinh sắc dục. Sắc dục sinh luyến ái. Luyến ái sinh gần gũi. Khi gần gủi họ thèm khát tìm kiếm xúc dục. Thèm khát xúc dục làm nảy sinh hoả dục. Hoả dục phát sinh giao hợp. Từ đó, họ muốn cất nhà cửa, quan hệ vợ chồng nảy sinh.”
“Khi có gia đình, chủng nhân ấy trở nên lười biếng. Họ ra ngoài đồng hái thật nhiều gạo Sali đem về nhà tích trữ. Lòng tham sở hữu làm gạo Sali không tự nhiên mọc nữa, chúng nhân bàn nhau phân chia đất đai rồi đem giống Sali trồng trên mảnh đất của riêng mình. Tuỳ vào nghiệp vận mà mùa màng thất thường, gạo Sali thoái hoá thành ra có vỏ trấu”.
“Những người có nghiệp xấu lần lượt luân hồi xuống cõi ta-bà, vì thế mà nghèo giàu, trộm cắp, dối trá, chỉ trích nảy sinh. Từ đó, lòng thù hận lại sinh khởi ở trong lòng chủng nhân đó. Tuỳ vào dục vọng mà cơ thể họ biến đổi thành những hình dạng cơ thể khác nhau, thành ra thế giới bắt đầu có các chủng loài dị biệt như: điểu tộc, thuỷ tộc, long tộc…”.
--------
CHÚ THÍCH:
[1] Manas Sarovar: Hồ nước linh thiêng nằm ở Kailash (Himalayas), trung tâm của thế giới theo thần thoại Ấn Độ và Tây Tạng; nơi bà Maya, mẹ Đức Phật, trong giấc mơ đã đến tắm và thấy một con voi bay xuống từ đỉnh núi đâm vào bà. Các nhà chêm tinh dự đoán bà sẽ sinh ra một vĩ nhân;
[2] Kalpavriksha: Loại cây linh thiên mọc ở cõi trời theo quan niệm của Hindu giáo;
[3] Kundalini: Tam muội chân hoả;
[4] Navagrahas: Gồm chín hành tinh Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, Mặt trăng, Mặt trời và hai hư tinh La Hầu và Kế Đô;
[5] Samhita: Một môn chiêm tinh chuyên dự đoán về chính trị, thiên tai, đời sống của người Ấn Độ.
[6] Vasara: Một tuần lễ trong lịch Ấn Độ;
[7] Samvatsaras: Một chu kỳ dài 60 năm trong Âm lịch Ấn Độ;
[8] Satya Yuga, Treta Yuga, Dvapara Yuga và Kali: Bốn chu kỳ thành trụ hoại không trong một ngày của thần Brahma (dài khoảng 4.1 đến 8.2 tỷ năm). Trong khi cuộc đời của thần Brahma dài khoảng 31 đến 40 tỷ năm.
[9] Tula: chòm Thiên Xứng;
[10] Chòm sao này còn được gọi là: Đại Hùng Tinh, Gấu Lớn, Bắc Đẩu, Seven Rishis, Ursa Major;
[11] Trong văn hoá Trung Quốc, Thất Đẩu tinh quân gồm:
Bắc đẩu đệ nhất Dương Minh Tham lang tinh quân
Bắc đẩu đệ nhị Âm Yinh Cự môn tinh quân
Bắc đẩu đệ tam Chân Nhân Lộc tồn tinh quân
Bắc đẩu đệ tứ Huyền Minh Văn khúc tinh quân
Bắc đẩu đệ ngũ Đan Nguyên Liêm trinh tinh quân
Bắc đẩu đệ lục Bắc Cực Vũ khúc tinh quân
Bắc đẩu đệ thất Thiên Quan Phá quân tinh quân
1.Trời rớt cong trũng xuống cánh rừng Du-Duyệt, mây thả mây trôi thành một sương lãng đãng quyện lướt bên vách núi dựng đứng chiều.
Khiêm-Tề leo lên mỏm đá, đôi mắt trượt nhô sau vạt lá rừng cao cố tìm kiếm dấu tích của bóng nắng chừng trốn khuất sau màn xanh thẳm đục. Trời sắp lên sao. Màn đêm sẽ tới. Ban chiều, anh mãi mê chạy theo dấu tích một con hưu vàng tuyệt quý đã không chú ý đến thời gian, đến khi nó nhanh chân trốn biệt trong khu rừng sương khói thì anh mới nhận ra mình đã đi quá xa. Qua ngọn núi này sẽ đến hồ quỷ khóc Sarasvati [1], một nơi theo truyền thuyết không dành cho người thường như ánh bén mảng tới. Lo lắng thoảng đến, Khiêm-Tề ước đoán: từ đây về làng khá xa và anh sẽ đi trong màn đêm muộn trễ dầy những ánh trời sao mơn rung trên lớp nhành lá rừng cao khuất lắp.
Khiêm-Tề xếp lại cung tên, cột ba con gà rừng đeo lên vai. Một lần nữa anh nhìn lên bầu trời nhắm định một hướng đi nhanh nhất để thoát khỏi cánh rừng này. Mon men theo vách núi xanh rêu, vén từng luồng dây rừng quyện đan như tổ nhện. Đi một quãng thật lâu. Khiêm-Tề nhìn thấy con suối nhỏ hồi ban chiều mình đã vượt qua. Dòng nước trong mát lách tách chảy mở kéo một cơn khát bật cháy ở cổ họng. Khiêm-Tề lần bước xuống suối, cuối vốc một bụm nước đầy lên tay và ngữa cổ uống. Một thoáng thư thả tràn đọng qua đôi mắt. Khiêm-Tề bâng khuân nhìn cánh rừng, trong màn đêm nhạt tối vừa lay thả, một ánh lửa đỏ được thắp lên trong căn nhà cách không xa con suối làm anh chú ý. Chắc là có người ở bên kia, anh thoáng nghĩ và quyết định đi về hướng ánh sáng không màng do dự.
Trước mắt anh, sau những vòng dây leo quấn bám hai bên dãy hàng rào, sau những màu bông trỗ vàng đỏ khẻ đong đưa gió. Căn nhà lợp bằng lá rừng dựng bên cây cổ thụ già thắp lên một hi vọng loé. Khiêm-Tề bước tới. Bên góc cửa, dưới ánh đèn lửa leo lét sáng mờ, một lão ông râu trắng mặc áo bố đương ngồi thong thả trong cái nền tĩnh mịch của rừng sâu đọng lắng. Khiêm-Tề chầm chậm đi trong tiếng lá khô sột soạt gãy kêu bên ngoài khoảnh sân lặng vắng. Một thanh âm. Một tiếng động khẻ khàng rớt bên ngoài cũng đủ làm cho lão ông chú ý ngoái nhìn ra. Ông thấy Khiêm-Tề đang phân vân đứng ngó mình trong ánh mắt muốn nhờ vã.
“Cháu thợ săn đi lạc rừng à?”. Ông lão chống gậy bước ra ngoài, ân cần hỏi.
“Thưa, tôi đuổi theo con thú nên bị lạc. Trời đã tối, đường về nhà quá xa nên xin hỏi ông có thể cho tôi được trú tạm ở đây một đêm”. Lão ông không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, mau mắn gật đầu đồng ý, dẫn bước Khiêm-Tề vào nhà, mời anh ngồi bên chiếc bàn gỗ nhỏ và ân cần hỏi: “Chắc là cháu chưa ăn uống gì phải không?”
“Dạ! Cám ơn lão ông! Từ sáng đến giờ cháu chỉ mãi mê săn thú…”. Dù cảm thấy rất đói nhưng Khiêm-Tề tỏ ra ái ngại trước sự quan tâm của lão ông. “Đây! Cháu có ba con gà rừng vừa săn được, lão ông hãy để cháu ra sau bếp nướng lên là có một bữa no rồi”.
Ông lão xua tay, “không cần!... không cần! Nhà lão vẫn còn chút măng và thịt heo đủ cho cháu dùng cho bữa tối. Cả nhà chúng ta đều đã ăn xong cả rồi”. Trấn an Khiêm-Tề xong, ông lão lớn tiếng gọi vợ và chốc sau một bà lão lò dò từ sau nhà bước ra.
Khiêm-Tề đứng lên chào, thấy mái tóc bà lão bạc như mây trên đỉnh núi tiên Utal hay dạt trôi xuống cánh rừng Du-Duyệt vào mỗi mùa thu, như màng sương trắng toả bên góc núi vừa chiều nay anh vô tình khám phá. Khiêm-Tề ngẫm nghĩ, những người ở chốn hoang sơ thanh vắng này chắc hẵn là những bậc bán tiên tu luyện, xa phàm lánh tục, an cư trong thế chẳng vướng luỵ bụi trần chắc trong nhiều năm lắm.
“Cháu cứ an tâm nghỉ ngơi ở đây, sáng mai hãy xuống núi”. Bà lão bước đến, ân cần nắm lấy bàn tay Khiêm-Tề và nói.
“Dạ, xin cám ơn lão bà đã thương xót cho”. Khiêm-Tề cuối đầu đáp lễ.
“Cháu ngồi đây đợi bà lấy thức ăn mang ra”. Bà lão lần bước ra nhà sau, chiếc bóng thoáng đọng mềm lên vách lá. Lão ông khẻ nhìn Khiêm-Tề hỏi: “Cháu trai tên gì? Nhà ở đâu?”.
“Dạ, cháu tên là Khiêm-Tề, nhà ở ngoại thành Cưu-Lưu”.
Ông lão khẻ cười, đôi mắt sáng lóng lánh: “Cháu không phải là người đầu tiên lạc bước đến đây. Dăm ba tháng nhà lão lại có người thợ săn đến xin tạm trú.”
Khiêm-Tề thầm cảm phục lòng tốt cưu mang của những con người sống ở nơi hoang dã này, anh muốn rạn hỏi hoàn cảnh của gia đình ông lão nhưng lại thoáng chút e ngại.
“Xin mời anh dùng bữa ăn đạm bạc của nhà chúng tôi”.
Khiêm-Tề nghe tiếng nói ngọt ngào xướng bên tai, giật mình thoáng nghĩ chẳng lẽ bà lão lại có đến hai giọng nói. Anh nhìn sang, một bối rối ùa dập tới. Trước mắt Khiêm-Tề không phải lão bà mà là một ảnh hình của cô gái áo trắng với mái tóc dài mịn như những sợi tơ long lanh trong ánh đèn nhạt sáng. Trên đôi môi thẳm màu, làn da đỏ đương lay động một sức sống riêng như âm gió lùa vi vu vào vách núi, như tiếng suối lách chảy róc rách qua từng hòn đá cuội nhẵn mòn. Khiêm-Tề nhận ra, từng nét từng nét trên con người kia: mái tóc, mùi hương, giọng nói, ánh mắt, làn da, đôi môi… là mỗi thực thể sống động rất riêng mà anh không thể nào khơi ra được từ trong trí tưởng tượng của mình để hình dung tả.
“Anh ăn đi kẻo nguội!”. Cô gái gợn bẽn lẽn nhìn Khiêm-Tề, nhắc lại.
Khiêm-Tề giật mình, hít một hơi sâu, gắng lòng trấn tĩnh. Anh gật đầu cảm ơn cô gái và cuối xuống dùng bữa trong cái nuốt nghẹn, trong cái nhịp tim không ngừng hồ hởi giẫy đập sau lớp áo.
2. Nắng trời tươi non trên nền cao hửng sáng.
Khiêm-Tề dần bước đến cổng rào. Thoáng đứng ngập ngừng. Rồi anh quay lại, bịn rịn nhìn cô gái, “cám ơn sự giúp đỡ của gia đình em, Vu-Bạch”.
“Lần sau có lỡ bước, anh cứ ghé nhà em mà trú tạm”. Vu-Bạch tươi cười, vẫy vẫy đôi tay mềm ra dấu tạm biệt Khiêm-Tề.
“Anh sẽ sớm trở lại thăm em”.
Khiêm-Tề quay đi, lòng bâng khuân một nỗi niềm khó tưởng. Trên từng bước chân trở về ngoại thành Cưu-Lưu, hình ảnh Vu-Bạch với từng nụ cười, từng ánh mắt... không ngừng ẩn hiện xao động trong dòng suy tưởng của chàng thợ săn lỡ bước.
3. Trưa trời đổ nắng chói chang nóng như muốn nấu chảy tan hết những hòn đá mòn nhẵn lót trên thân đường ngoẵng dài, muốn đốt bỏng rát cả đôi lòng bàn chân của khách bộ hành nào cố tình dẫm lên, rảo bước.
Đã mười mấy ngày dài, Khách-Vũ-Ba ròng rã rời đi khỏi rặng Utal không dám ngoái nhìn lại, giấu lưu luyến trong cái màn tưởng tượng vùng núi quê hương từng bước từng bước xa dần ở sau lưng, dài mất hút. Hai mươi năm quen sống trên rặng Utal bình lặng, Khách-Vũ-Ba không muốn rời khỏi miền đất thân thuộc đó chút nào. Nhưng với nhiệm vụ nặng nề mà trưởng lão đã tin cậy giao phó, Khách-Vũ-Ba không còn cách nào khác có thể để thoái thác chối từ. Và anh, lần đầu tiên rời Utal với nhiều lo lắng chất chồng. Trong mối e ngại nồng đó, Khách-Vũ-Ba luôn thầm cầu nguyện sự linh anh của thần Ozak và các vị trưởng lão đời trước sẽ tương trợ anh sớm hoàn thành sứ mệnh.
Khách-Vũ-Ba chầm chậm bước dưới nắng trời mây tản. Từ khá lâu hồi sáng sớm, anh đi một quãng thật dài, thấm đầy mõi mệt. Dường như không còn sức để bước tới nữa, Khách-Vũ-Ba chọn một gốc cây đa lớn ven đường, ngồi xuống. Trong từng hồi lá khẻ rung lay, trong cái lặng im của tư tưởng, anh thực hành bài tập prana [2], lưu thanh khí xuống đan điền, chuyển từng trược khí ra bên ngoài theo hơi thở.
Một lặng im kéo dài thật lâu giữa trời trưa nắng đổ.
Từ góc đằng xa, một chiếc xe ngựa màu đỏ thong thả chạy tới. Người phu xe đầu đội nón xanh, mặc chiếc áo vải thô màu trắng, tay giữ cương, mắt chăm chú hướng nhìn về phía trước. Hai cô gái ngồi sau: một áo xanh, một áo đỏ bâng quơ nhìn từng lớp cảnh vật lần lượt lướt ngang qua tầm mắt.
Tiểu-Hàm đang trên đường trở về quê chịu tang mẹ. Từ Cưu-Lưu, nghe tin mẹ bệnh nặng nàng tức tốc trở về, nhưng vừa mới đi một đoạn đường ngắn nàng lại đón hung tin rằng mẹ vừa mới mất. Dưới hàng mi rũ cong, đọng mềm lệ ướt, đôi mắt nàng ngậm ngùi một lưu luyến của tình thân, một lùi lũi đơn côi của sanh ly tử biệt. Nhìn Tiểu-Hàm buồn bã, Du-Tử ngồi kế bên không ngừng vỗ về động viên em gái.
Chiếc xe ngựa chạy qua chổ Khách-Vũ-Ba ngồi chừng hai mươi bước chân thì dừng lại. Hai cô gái bước xuống xe, Tiểu-Hàm cầm bình nước, Du-Tử xách một túi bánh bước đến chổ gốc đa. Tiểu-Hàm nghe nói nếu thực tâm bố thí cho một tu sĩ sẽ đem đến phước báu cho người đã khuất và khi nhìn thấy Khách-Vũ-Ba ngồi trầm lặng dưới gốc cây như một thầy tu, nàng đã kêu cho xe dừng lại.
“Chắc ngài đã đói và khát! Chúng tôi có một chút nước và ít bánh xinh được dâng lên”. Tiểu-Hàm lên tiếng.
Khách-Vũ-Ba từ từ mở mắt, ngước nhìn lên thấy hai cô gái, anh bối rối cuối xuống lấy chiếc chén bát từ trong túi ra dâng lên. Tiểu-Hàm mở nắp chiếc bình mang theo, rót một chén đầy nước trên tay Khách-Vũ-Ba; Du-Tử cuối xuống đặt túi bánh trước mặt anh.
“Cầu mong hai vị được như ý cát tường”. Khách-Vũ-Ba xá tay đáp lễ.
“Thưa! Người chết như mẹ tôi liệu có về cõi an lạc?”. Tiểu-Hàm thành kính hỏi Khách-Vũ-Ba.
“Tuỳ vào nghiệp quả của từng người mà nơi đến sẽ khác nhau. Tôi mong rằng mẹ của người sẽ về nơi an lạc”. Khách-Vũ-Ba đáp lời.
Hai cô gái xá tay đáp lễ, quay bước trở về xe.
Tiếng vó ngựa gõ giòn lên đường đá nhẵn.
Khách-Vũ-Ba ngồi lặng im. Giữa thinh không, anh nghe tiếng lọc cọc rời đi, bỏ rớt vọng một rung động lạ lùng mà anh chưa từng biết tới.
4. Khách-Vũ-Ba tay cầm gậy trúc, từng bước lặng lẽ thẳng đi về phía trước. Con đường từ ngoại thành về trấn Cưu-Lưu nằm cạnh sông Thu-Thuỷ trầm mặt một dòng nước hiền lặng của mùa thu. Trên chiếc bè chuối, một thiếu phụ, một đứa bé trai và một con đê đang lướt đi nhấp nhô sang bờ bên kia sông. Cây sào tre trên tay người đàn bà tung tẩy từng nhịp, chạm xuống, khuấy động dòng nước, bật ra một sức đẩy chập chùng trong ánh nắng vàng rải lao xao trên mặt nước. Thằng nhỏ lấy tay che nắng, đứng trên bè nhìn Khách-Vũ-Ba tươi cười, với nó, dường như một tu sĩ ẩn dật đi lang thang trên đường cái của ngoại thành yên tĩnh này ắt hẵn là một sự là lùng hiếm thấy.
Cạnh bờ sông, mấy bóng chim hồng hạc cổ cao lêu nghêu, xoè màu lông đỏ như ánh bình minh ló dạng sớm, lững thửng đi trên bãi cỏ nhạt vàng úa lá, lấp lé nước. Khách-Vũ-Ba nhìn lên, tiếng một con đại bàng xé tan yên tĩnh trời dường như đang hân hoan chào đón anh. Bóng nó vừa vụt bay lên từ ngôi đền đền gạch đỏ hoang phế chơ vơ ngả bóng tháp buồn xao xao xuống mặt sông gần đó.
Khách-Vũ-Ba lần bước đến ngôi đền, bàn tay anh run run chạm khô vào dãy bờ tường loang lỗ thời gian tàn rữa, bám đầy những vám bụi mờ đọng. Một xúc cảm nuối tiếc ùa đọng đến. Nhìn ngôi đền hàng ngàn năm tuổi, anh thầm nghĩ, có lẽ thời gian trôi qua đã làm người ta quên đi những tín ngưỡn cổ xưa để thay thế những điều mới mẽ? Hoặc họ đã có một chốn thờ phượng mới để thay thế ngôi đền cũ nát lặng lẽ này.
Khách-Vũ-Ba bước vào trong, trước mặt anh, hình tượng đá thần Thái Dương Surya ngồi trên cổ xe một bánh, thần Arunadeva ngồi trước nắm cương điều khiển bảy con ngựa trời [3] đương trong thế cưỡi mây lướt vòng quanh núi Meru. Dưới chân tượng, trên mặt một phiến đá lớn chạm khắc hình mười hai vị thần Adityas [4], trong mười hai tư thế đại diện cho mặt trời đi qua mười hai cung hoàng đạo, tạo ra mười hai dãy rung động năng lượng khác biệt ảnh hưởng đến dục giới.
Trong quyển bí thư cổ điển mà Khách-Vũ-Ba từng đọc có ghi:
“Thần Mặt trời Surya rong ruỗi trên cổ xe chạy vòng quanh núi Meru [5] dài 95.100.000 yojanas [6]. Ngài bắt đầu đi từ phía đông của vương quốc Devadhani, vùng đất của thần Indra [7]; rồi đến phía nam Samyamani, nơi ở của thần Yamaraja; rồi đến phía tây Nimlocani, vương quốc của thần Varuna; cuối cùng đến phía bắc Vibhavari, chổ của thần Mặt trăng.
Mặt trăng, Mặt trời và các vì sao quay quanh núi Meru. Khi thần Surya đi qua mười hai chòm sao, ngài sẽ trao cho các Adityas mỗi người một nhiệm vụ để cai quản dục giới.
Thần Ansh trông nom về nợ nần; Aryaman biểu tượng cho sự thanh nhã và trang trọng; Bhaag chuyên về di sản thừa kế; Daksh phụ trách nghi thức và lễ lạc; Dhatri sáng tạo trong nghành nghề thủ công mỹ nghệ; Mitra biểu hiện cho tình thân hữu nghị; Pushan là sự thịnh vượng; Savitra có sức mạnh của ngôn ngữ; Vivasvan đại diện cho công lý của nhân thế; Varun chủ trương của nghiệp vận trong dục giới; và Vaman là kẻ vận hành luật trời.”
Cảm thán trước cảnh tượng hoang phế, Khách-Vũ-Ba rảo bước tìm vài nhánh cây kết lại thành chổi, cần mẫn quét dọn ngôi đền. Anh vừa làm vừa đọc một bài chân ngôn:
Vua Mặt trời rực đỏ
Một tinh khiết của ánh sáng
Một con mắt của thế giới
Một chân ngã bất diệt
Dạo quanh vòng Meru
5. Rời khỏi ngôi đền Mặt trời đổ nát, Khách-Vũ-Ba tiếp tục đi đến một ngã ba đường. Anh không biết ngã nào sẽ rẽ về nội thành Cưu-Lưu nên đứng lại phân vân nghĩ ngợi.
Một chút sau Khách-Vũ-Ba nhìn thấy một người đàn ông quần áo rách rưới, tóc tai rũ rượi đang lững thững đi về hướng anh đứng. Anh tiến đến hỏi hắn:
“Anh có thể cho tôi biết đường nào đi về thành Cưu-Lưu hay không?”.
Người đàn ông không trả lời, ngó anh bằng mắt ngây dại, cười hềnh hệch rồi bỏ đi trong cái dáng liu xiu và hát:
Nàng sinh từ mây núi
Từ dòng sữa trăng mật
Lộng lẫy một vì sao
Mặc áo thiên hà đỏ
Khách-Vũ-Ba thấy làm lạ, một người đàn ông điên dại làm sao có thể hát được một bài ca nói về một người đàn bà với giọng điệu đó được chứ? Hay là có điều gì bí mật đang ẩn tàng ở chốn này chăng? Liệu nó có phải là điều mà anh đang tìm kiếm? Khách-Vũ-Ba ngó mặt trời đậu trên ngọn cây cổ thụ cao, chiều đang sắp đến. Anh quyết định chọn con đường người đàn ông điên kia vừa đến để tiếp bước hành trình.
-----------------
CHÚ THÍCH:
[1] Sarasvati: Theo thần thoại Ấn Độ, Sarasvati là một con sông thiêng bắt nguồn từ dãy Himalaya, có dòng chảy ngầm dưới sa mạc. Dòng sông này là một nơi dành cho loài ma quỷ đến tắm rửa để tẩy sửa tội lỗi của mình.
Trong Ấn Độ giáo, Saraswati còn là tên gọi của nữ thần học thuật, âm nhạc và các môn nghệ thuật khác.
[2] Prana: Một phương pháp yoga của người Ấn Độ
[3] Bảy con ngựa trời của thần Surya có tên là: Gayatri , Brhati , Usnik , Jagati , Tristup , Anustup và Pankti;
[4] Adityas: Mười hai vị thần thuộc nhóm Thần mặt trời, con của hiền triết Kashyap và nữ thần Aditi;
[5] Meru: Núi Tu-di. Theo thần thoại Ấn Độ giáo, núi Tu-di là trung tâm của tam giới. Mặt trời, mặt trăng và các vì sao quay chung quanh núi Tu-di;
[6] Tương đương 760.800.000 dặm;
[7] Indra: Thần Indra là thiên đế, vua của chư thiên và các vị thần.