Trong mối tương quan liên hệ giữa con người, sự tương quan giữa vợ chồng là quan trọng nhất. Cho nên hôn nhân là một biến cố hết sức quan trọng cho đời sống của một con người. Chúng ta hãy thử nghĩ về đời sống của một con người. Thời gian ở hoàn toàn với cha mẹ lúc thơ ấu chỉ là sáu năm đầu. Tiếp theo đứa trẻ đi học và chia sẻ đời sống với các thầy giáo, giáo sư trong khoảng 12 năm. Thời gian chia sẻ với bạn bè khoảng một vài năm. Chỉ có vợ chồng là chung sống liên hệ với nhau suốt đời. Vợ chồng ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, vui buồn có nhau, chia sẻ và cùng mang trách nhiệm nuôi dưỡng con cái. Vợ chồng tuy hai thân mà như một.
Thời đại ngày nay, giới trẻ quá nhiều tự do, đi tới hôn nhân một cách bừa bãi vội vàng, hậu quả có quá nhiều ly dị, nhất là tại các nước Âu Mỹ. Những đứa trẻ thiếu tình thương của cha mẹ vì ly dị, lớn lên dễ bị thương tổn về tinh thần và tâm lý…
Cuốn sách “Hạnh phúc lứa đôi” ( A Happy Married Life) của Hoà thượng Tiến sĩ K. Sri Dhammananda, một học giả uyên bác, trình bày phương cách thực tiễn và khoa học cho những ai, nhất là giới trẻ muốn đạt hạnh phúc lứa đôi.
Tự biết khả năng thấp kém, nhưng với tấm lòng nhiệt thành, chúng tôi cố gắng dịch ra Việt ngữ, hy vọng mang lại lợi ích cho các bạn trẻ và cho những ai muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình và đóng góp một phần nhỏ vào Kho Tàng Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam.
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ chư tôn đức đã khích lệ và góp nhiều ý kiến bổ ích. Đặc biệt chúng tôi xin cảm tạ các đạo hữu Qúach Nhất Danh, Nguyễn thị Thuý Sương, Quách thị Thuỳ Linh, Quách Nhứt Trí, Lý thị Đài Trang, Quách Nhất Thống, Nguyễn Thành Tài, Nguyễn thị Thuý Phượng, Nguyễn Bảo Châu, Nguyễn Bảo Quốc, Thanh Hoàng, Huỳnh thu Trang, Quảng Hải, Ngô Thanh Hùng, Nguyễn Nam Hải, Bạch Yến, Thiện Lực, Nguyễn Hữu Nhung, Viên Minh Phạm đình Khoát, Thiện Bửu, Quảng Lâm, Châu Ngọc Tòng, Minh Hỷ Phan Duyệt, Nguyễn Đình Dũng, Lê Văn Phụng, Đặng Kim Sa, và Minh Giác Nguyễn Học Tài đã góp phần công đức trong việc ấn hành dịch phẩm này.
Chúng tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên ngôi Tam Bảo và cầu nguyện hồng ân Tam bảo thuỳ từ gia hộ Quý vị cùng Bửu quyến thân tâm thường an lạc và hạnh phúc.
Sau cùng chúng tôi kính mong Chư tôn Thiền Đức, pháp hữu ân nhân, các bậc thức giả cao minh, vui lòng bổ chính cho những sai lầm thiếu xót để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.
Phật lịch 2539, Xuân Bính Tý, Ngày 19-02-1996
Tỳ Kheo Thích Tâm Quang
Từ ngàn xưa, con người đã bận tâm lo lắng trong việc tìm hạnh phúc của đời sống, từ lúc nằm nôi cho đến lúc xuống mồ. Họ làm việc và tranh đấu tích cực để đạt hạnh phúc, nhưng thường không biết rõ hạnh phúc là gì vì không hiểu bản chất của đời sống. Mặc dù các tôn giáo đều chỉ dạy, khuyên răn và chỉ đường cho môn đồ thực hành hầu đạt được hạnh phúc trong đời sống; nhưng thường các lời khuyên bảo và chỉ dẫn này không được lưu ý tới vì tham dục, ganh ghét và ảo tưởng. Một số đông đã thất vọng và đau khổ, hy vọng cầu nguyện để tìm hạnh phúc trong hiện tại và tương lai. Trong khi một số khác, dù vui hưởng hạnh phúc tràn trề trên thế gian, vẫn chưa thoả mãn và ham muốn được hạnh phúc trường cữu trên thiên đàng sau khi từ giã cõi đời. Với một người bình thường hay một thiếu niên, rất là khó phân biệt được giữa hạnh phúc và lạc thú. Với họ, cái gì có lạc thú tức có hạnh phúc, và đạt hạnh phúc tức đạt được lạc thú.
Thông thường, chúng ta coi những ngày thơ ấu là thời gian hạnh phúc. Thực ra, khi còn nhỏ, chúng ta không hiểu hạnh phúc là gì. Được sự che chở của cha mẹ, chúng ta trải qua những ngày sung sướng liên tục, và đầy lạc thú. Khi đến tuổi trưởng thành, đầu óc và thân thể chúng ta thay đổi khiến chúng ta nhận thấy sự hiện hữu của người khác phái và chúng ta bắt đầu thấy họ hấp dẫn và có những cảm xúc xáo trộn. Rồi vì tò mò, chúng ta đọc sách và thảo luận để tìm hiểu sự thật của cuộc đời. Chẳng bao lâu chúng ta trưởng thành - thời kỳ chủ yếu của cuộc đời – chúng ta tìm người bạn đường vừa ý, và những sự tiếp xúc này đã trắc nghiệm đức tính chúng ta đã có từ lúc thiếu thời. Tình yêu, nhục dục, và hôn nhân trở thành những vấn đề quan trọng, quyết định phẩm chất cuộc sống lứa đôi mà chúng ta tiến tới.
Giới trẻ ngày nay bị ảnh hưởng văn minh “Tây phương” qua đường lối truyền thông đại chúng như sách vở, tạp chí, truyền hình, băng nhạc, và phim ảnh, nên đã hiểu sai lạc về tình yêu, nhục dục và hôn nhân. Đức hạnh và giá trị của thời cổ “Đông phương” lần lần suy thoái trước các ảnh hưởng này. Trong thế hệ trẻ ngày nay, không còn thấy những đức tính và giá trị nói trên của thế hệ già thực hành và áp dụng. Ảnh hưởng Tây phương chịu trách nhiệm về tình trạng này không, hay nên trách móc cha mẹ vì đã không theo dõi, kiểm soát con cái để chúng làm bậy. Sách này nói đến các chương trình truyền hình và phim ảnh không thể hiện đúng đường lối suy nghĩ và cách cư xử của người Tây phương đứng đắn, và có một số các cặp vợ chồng đoan chính, đạo hạnh, và “bảo thủ” như bất cứ cặp vợ chồng “Đông phương” nào káhc đã im lặng trước vấn đề tình yêu, nhục dục và hôn nhân. Nếu giới trẻ muốn chạy theo Tây phương , thì hãy bắt chước khối “đa số thầm lặng”, họ chẳng khác gì với những người láng giềng tử tế sống ngay bên cạnh chúng ta.
Đời sống hiện đại đầy dẫy những lo lắng và căng thẳng, và những lo lắng, căng thẳng đó đã gây khó khăn trong nhiều cuộc hôn nhân. Nếu phân tách kỹ lưỡng để tìm nguồn gốc về các khó khăn xã hội, như tiền dâm hậu thú, vị thành niên mang thai, hôn nhân không hạnh phúc, ly dị, ngược đãi con cái, đánh đập vợ, chúng ta thấy rằng nguyên nhân của nó là ích kỷ, thiếu kiên nhẫn, thiếu độ lượng, và thiếu thông cảm. Trong kinh Thi Ca La Việt, đức Phật khuyên làm sao giữ được an lạc và hoà thuận giữa vợ và chồng trong gia đình để sống có hạnh phúc. Trách nhiệm của bậc cha mẹ với con cái và bổn phận của con cái với cha mẹ được đề cập đến rõ ràng trong kinh ấy như những lời chỉ đạo rất hữu ích để đạt hạnh phúc gia đình.
Trong sách này, Hoà thượng, tác giả, nhấn mạnh đến một điểm quan trọng : Hôn nhân là một sự hợp tác của hai cá nhân và sự hợp tác này trở nên giàu có và tiến bộ khi nhân phẩm người hùn hạp gia tăng. Trong viễn cảnh của người Phật tử, hôn nhân có nghĩa là hiểu nhau, và kính trọng niềm tin và sự riêng tư của nhau. Bây giờ là lúc thích hợp nhất để xuất bản sách này cho các Phật tử, đặc biệt là cho giới trẻ để biết rõ những vấn đề quan trọng của cuộc đời như tình yêu, nhục dục,và hôn nhân. Sự hiểu biết này không những giúp họ sống cuộc đời vợ chồng vui vẻ mà còn được bình an và toại nguyện.
Thay mặt Hội Truyền Bá Giáo Lý Phật Đà (Buddha), tôi bày tỏ lời biết ơn chân thành và cảm kích của tôi với tất cả các hội viên đã nhiệt tình giúp đỡ trong việc phát hành cuốn sách này.
Tan Teik Beng
JSM, SMS, KMN, PKT
Phó Chủ Tịch, Hội Truyền Giáo Phật Đà Mã Lai Á
Theo quan điểm của người Phật tử, hôn nhân cũng chẳng phải thánh thiện hay phàm tục. Phật giáo không coi hôn nhân là một bổn phận của đạo lý hay một điều thiêng liêng được ban hành từ thiên đường. Kẻ châm biếm nói rằng nếu có người tin là hôn nhân được hoạch định từ thiên đường, thì cũng có kẻ khác lại cho rằng hôn nhân được đăng ký tại địa ngục! Trên căn bản, hôn nhân là bổn phận không bắt buộc của cá nhân và xã hội. Phái nam và phái nữ hoàn toàn tự do lập gia đình hay sống độc thân. Điều này không có nghĩa là Phật giáo chống hôn nhân. Chẳng ai trên đời này nói hôn nhân là xấu, và cũng chẳng có tôn giáo nào chống lại hôn nhân cả.
Trên thực tế, tất cả mọi chúng sanh hiện hữu là do kết quả của dục tình. Vì con người, thể chế hôn nhân được đặt ra để xã hội bảo đảm sự trường cửu của loài người và đoan chắc việc săn sóc các trẻ em. Điều này do một luận cứ cho rằng trẻ con ra đời là do lạc thú của dục tình, nên đôi bên phải có trách nhiệm với chúng cho đến khi chúng khôn lớn và hôn nhân được đặt ra để bảo đảm việc tôn trọng và thi hành trách nhiệm này.
Xã hội phát triển là do những tương quan hổ tương mật thiết và phụ thuộc giữa mỗi người. Mối quan hệ là một lời cam kết nhiệt thành để yểm trợ và che chở cho những người khác sống trong cộng đồng. Hôn nhân đóng một phần quan trọng trong cái mạng lưới yểm trợ và che chở đó. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp phải từ từ lớn mạnh do hiểu biết, chứ không phải do thử thách, do lòng chung thuỷ thật sự chứ không phải do nhu nhược. Thể chế hôn nhân cũng tạo căn bản tốt đẹp cho việc phát triển văn hoá và sự liên kết vui vẻ giữa hai cá nhân cùng chung sống để hết cô đơn và sợ hãi. Trong hôn nhân, vợ chồng đem lại sức mạnh tinh thần và can đảm cho nhau, và mỗi người nên hiểu biết và công nhận giá trị của nhau trong việc săn sóc gia đình. Chồng hay vợ không ai làm chủ ai, người này giúp đỡ người kia bởi vì hôn nhân là một sự hợp tác bình đẳng, rộng lượng, bình an và thành khẩn.
Trong Phật giáo ta có thể tìm thấy những lời khuyên cần thiết giúp chúng ta có một đời sống lứa đôi hạnh phúc. Ta không nên lơ là lời dạy của Đức Phật nếu chúng ta thực tình muốn có một đời sống vợ chồng hạnh phúc. Trong những bài thuyết giảng, đức Phật dạy những điều khuyên bảo cho các cặp vợ chồng và cho những ai muốn tìm hiểu hôn nhân. Ngài nói : “Nếu một người con trai tìm được một người vợ thích hợp và hiểu biết, và một người con gái tìm được một người chồng thích hợp và hiểu biết, quả thật cả hai người đều may mắn.”
Có nhiều loại tình yêu, như tình yêu của người mẹ, của anh em, tình dục, tình cảm, xác thịt, ích kỷ ,vị tha, và đại đồng.
Nếu người ta chỉ phát triển tình yêu xác thịt hay vị kỷ của mình đối với nhau, loại tình yêu ấy không thể bền vững. Trong một tình yêu chân thật, ta không nên đòi mà chỉ nên cho.
Khi sắc đẹp, hình hài, và tuổi thanh xuân đã tàn phai, một người chồng chỉ chú trọng đến sắc đẹp vật chất bên ngoài sẽ muốn có một người trẻ đẹp khác. Tình yêu này là tình yêu của loài thú, của dâm dục. Nếu một người quả thật biểu lộ tình yêu đúng nghĩa của một con người với con người, người đó không chú ý vào sắc đẹp bên ngoài và sự hấp dẫn lôi cuống bề ngoài của người hôn phối và tình yêu đó phải biểu lộ từ trong tâm trí chứ không phải ở bên ngoài mà thôi. Cũng như vậy, một người vợ nghe lời dạy của đức Phật không bao giờ chểnh mảng đối với người chồng dù người chồng trở nên già yếu, nghèo khổ hay bệnh hoạn.
“Tôi cảm thấy sợ hãi thấy các cô gái tân thời thích yêu như Juliet nhưng lại có đến cả tá Romeo. Họ thích mạo hiểm….Gái tân thời ăn mặc không phải là để che thân, để chống nắng mưa gió, mà là để lôi cuốn sự chú ý của người khác. Họ thay đổi bản chất bằng cách tô điểm lạ lùng” (Gandhi).
Nhục dục
Nhục dục chính nó không phải là tội lỗi, nhưng lòng ham muốn nhục dục nhất định làm xáo trộn đầu óc, cản trở sự phát triển tinh thần.
Trong hoàn cảnh lý tưởng, nhục dục là đỉnh cao vật chất trong một sự giao tiếp để thoả mãn tình cảm sâu xa của cả hai người hôn phối khi cho và hưởng đồng đều.
Cách thức miêu tả tình yêu bởi nhóm thương mại qua truyền thông đại chúng trong cái mà chúng ta gọi là văn hoá “Tây phương” không phải là tình yêu “chân chính”. Khi một con vật muốn xác thịt, nó làm tình, nhưng sau đó, nó quên đi. Với loài thú, xác thịt chỉ là một hành động của bản năng để sinh tồn. Nhưng con người lại còn có nhiều điều khác nữa trong quan niệm ái ân. Bổn phận và trách nhiệm là những chất liệu quan trọng để duy trì đoàn kết, thuận hoà, và hiểu biết trong mối giao tiếp giữa con người.
Nhục dục không phải là chất liệu quan trọng nhất của hạnh phúc vợ chồng. Những kẻ làm nô lệ cho xác thịt làm tan vỡ tình yêu và nhân đạo trong hôn nhân. Ngoài ra, một phụ nữ không nên coi mình là đối tượng khiêu dâm của phái nam. Người đó không cần phải tô điểm để vừa lòng người đàn ông, dù cho người đó là chồng. Nếu muốn là người bình đẳng với chồng, người phụ nữ phải ăn mặc làm sao để nâng cao phẩm giá, và không là một biểu tượng của nhục dục. Hôn nhân chỉ để thoả mãn cho sự thèm khát xác thịt không phải là một hôn nhân. Đó chỉ là thú vui trần tục. (Gandhi)
Tình yêu đương nhiên là một sản phẩm của tình dục, nhưng ngược lại nhục dục là để bày tỏ tình yêu. Trong đời sống hạnh phúc lý tưởng của đôi vợ chồng, tình yêu và nhục dục không rời nhau.
Lời đức Phật giải thích
Chúng ta nghiên cứu lời dạy của đức Phật về những cảm nghĩ của người nam và người nữ đối với nhau. Ngài nói Ngài chưa hề nhìn thấy một điều gì trên thế gian này lôi cuốn người đàn ông bằng khuôn mặt của người đàn bà. Cũng vậy, cái mà hấp dẫn nhất với phụ nữ là khuôn mặt người đàn ông. Trên đây là bản tính tự nhiên của nam nữ cho nhau lạc thú trần gian. Họ không thể tìm được hạnh phúc như vậy ở một đối tượng nào khác. Khi suy nghĩ kỹ càng, chúng ta thấy trong tất cả mọi thứ đem lại lạc thú, không có một thứ nào có thể thoả mãn năm giác quan cùng một lúc ngoài hình ảnh của người đàn ông và người đàn bà.
Người Hy lạp biết điều đó khi họ nói rằng người đàn ông và đàn bà nguyên thuỷ chỉ có một. Họ bị chia ra thành hai phần, và vì sự phân chia này nên người nam và người nữ không ngừng tìm cách để hợp lại với nhau.
Lạc thú
Bản tính tự nhiên của thanh niên say mê các thú vui trần tục, và những thú vui này có cái tốt, có cái xấu. Những cái tốt như thú vui về âm nhạc, thi văn, khiêu vũ, thức ăn ngon, phục sức, và những ham muốn tương tự không hại gì đến cơ thể. Những thú vui này chỉ làm chúng ta xao lãng không nhìn ra cái phù du của thiên nhiên và cái bấp bênh của cuộc sống khiến chúng ta không nhận được thực chất của bản ngã.
Năng khiếu và giác quan của thanh niên rất nhậy bén, rất lanh lợi trong việc thoả mãn năm giác quan. Hầu hết mỗi ngày, các chàng trai này tìm đủ mọi cách để đạt được nhiều lạc thú. Do cái bản chất tự nhiên của cuộc sống, con người không bao giờ thoả mãn với các thú vui mà mình đã có và kết quả là sự tham dục đó chỉ tạo thêm nhiều khao khát và lo âu.
Nghĩ kỹ về điều này chúng ta thấy rằng cuộc sống chỉ là một giấc mộng. Cuối cùng, chúng ta đạt được gì khi lưu luyến cõi đời ? Chỉ nhiều thêm lo âu, chán nản và thất vọng. Chúng ta cũng có những phút vui ngắn ngủi, nhưng cuối cùng, chúng ta phải tìm ra mục đích thực sự của cuộc đời.
Khi chúng ta không còn khao khát tình dục và không cần đến sự thoải mái sinh lý với người khác, hôn nhân sẽ trở nên không cần thiết. Đau khổ và khoái lạc đều bắt nguồn từ tham dục, luyến ái và xúc cảm. Nếu chúng ta tìm cách chế ngự tình cảm một cách không thực tế, chúng ta sẽ làm xáo trộn thể xác và tâm hồn của chúng ta. Cho nên chúng ta phải biết cách điều khiển và chế ngự tình dục của con người. Nhờ hiểu biết, không lạm dụng, và đặt tình dục đúng chỗ, chúng ta sẽ chế ngự được những ham muốn của chúng ta.
John J. Robinson trong quyển sách “Of Suchness” có những lời khuyên về tình yêu, nhục dục, và đời sống lứa đôi như sau, “ Hãy thận trọng và khôn ngoan dè dặt; kết hôn dễ dàng hơn sống độc thân. Nếu bạn có ý trung nhân tốt, thiên đàng đấy, nhưng nếu là người xấu, bạn sẽ phải sống 24 giờ một ngày trong địa ngục. Thật là một điều cay đắng nhất trên đời. Đời sống thật lạ lùng. Tuy nhiên khi bạn có một cuộc sống chính đáng, tự trong lòng bạn đã biết điều đó. Đời sống không phải chỉ là sự ngông cuồng trong chốc lát. Những mãnh lực của nhục dục thúc đẩy người trai trẻ đâm đầu vào các hành động mù quáng và không còn biết phải trái. Đúng vậy, khi chúng ta uống rượu và bốc đồng, một con lọ lem trong quán rượu mờ tối cũng đẹp như thần Vệ Nữ khiến ta không cưỡng lại được. Tình yêu trên nhục dục là căn bản sinh vật học giữa nam nữ; tình yêu và nhục dục quấn bện và trộn lẫn lộn vào với nhau.”
Những khó khăn
Hầu như mỗi ngày chúng ta nghe thấy người ta phàn nàn về hôn nhân. Ít khi chúng ta được nghe những chuyện hôn nhân có hạnh phúc. Giới trẻ đọc tiểu thuyết trữ tình và xem những phim ảnh lãng mạn cho rằng hôn nhân đẹp như một luống hoa hồng. Điều đáng buồn là hôn nhân không dịu ngọt như người ta nghĩ. Hôn nhân và những khó khăn liên quan với nhau; và ta phải nhớ khi chúng ta lập gia đình, chúng ta phải đương đầu với khó khăn và trách nhiệm mà từ trước tới nay ta không bao giờ nghĩ tới.
Người ta thường nghĩ rằng bổn phận chúng ta là lập gia đình và hôn nhân là một biến chuyển trọng đại trong đời sống. Tuy nhiên, để cuộc hôn nhân được tốt đẹp, đôi lứa phải giảm bớt xung khắc để sống hoà thuận với nhau. Những khó khăn trong hôn nhân đã khiến một nhà châm biếm nói rằng : “cuộc sống lứa đôi êm ái là một cuộc hôn nhân giữa một người vợ mù và anh chồng điếc; người vợ mù không thấy lỗi của chồng, và người chồng điếc không nghe tiếng mè nheo của người vợ”.
Chia sẻ và tin cẩn
Một trong những nguyên nhân chính về các khó khăn trong hôn nhân là sự nghi ngờ và thiếu tin tưởng. Hôn nhân là hạnh phúc nhưng nhiều người đã biến nó thành tại hoạ chỉ vì thiếu hiểu biết.
Hai vợ chồng phải hết lòng tin cậy nhau và không nên dấu những bí mật riêng tư. Những bí mật riêng tư tạo nghi ngờ, nghi ngờ dẫn đến ghen, ghen phát sanh nóng giận, nóng giận tạo thù địch, tù địch đưa đến kết quả ly thân, tự tử và chém giết lẫn nhau.
Nếu một cặp vợ chồng cùng nhau chia sẻ nỗi buồn vui trong đời sống hằng ngày, họ sẽ an ủi lẫn nhau để giảm bớt các buồn đau. Vì vậy, vợ chồng không chỉ mong có niềm vui mà thôi. Có rất nhiều buồn phiền và đau khổ mà vợ chồng phải đương đầu. Họ phải có ý chí mạnh mẽ để làm nhẹ gánh nặng và bớt những hiểu lầm. Cùng nhau thảo luận những vấn đề khó khăn sẽ đem lại lòng tin tưởng để sống với nhau trong tinh thần hiểu biết hơn.
Vợ chồng cần đến sự an ủi lẫn nhau khi gặp khó khăn trở ngại. Cảm nghĩ bất an và không thoải mái sẽ biến đi, và đời sống sẽ có ý nghĩa hơn, hạnh phúc và thú vị hơn nếu một trong hai người muốn chia sẻ gánh nặng cho nhau.
Mù quáng vì cảm xúc
Khi hai người yêu nhau, họ thường phô trương những cái tốt đẹp nhất về bản chất và cá tính của họ, để cốt gây một ấn tượng đẹp đẽ. Người ta nói tình yêu là mù quáng, và khi người ta yêu thì quên hẳn cái bản chất đen tối của mỗi người.
Thông thường, vì quá yêu nhau, mỗi người đều đề cao những tính tốt của mình, và họ chấp nhận nhau trên giá trị bề ngoài. Một người tình không dám tiết lộ cái mặt trái đen tối của mình vì sợ mất nhau. Họ che dấu mọi khuyết điểm để khỏi mất cơ hội chiếm đoạt nhau. Bất cứ nhược điểm nào cũng được che đậy dưới thảm, để không làm trở ngại đến việc chiếm đoạt nhau. Kẻ đang yêu nhau bất cần đến những lỗi lầm người yêu, nghĩ rằng những lỗi này sẽ được sửa chữa sau khi cưới, hoặc họ vẫn có thể chung sống với những lỗi ấy, vì “tình yêu sẽ chiến thắng tất cả”.
Tuy nhiên, sau khi cưới, tâm trạng lãng mạn lúc đầu qua đi, tính nết của mỗi người lộ chân tướng. Rồi hai bên đều chán chường, và cái màn che đậy những cảm nghĩ nội tâm được vén lên phơi bày bản chất thực sự của hai người. Tiếp theo là mộng vỡ.
Nhu cầu vật chất
Tình yêu không thể tồn tại chỉ bằng không khí mát mẻ và ánh sáng mặt trời. Thế giới ngày nay là một thế giới vật chất; và để đáp ứng các nhu cầu vật chất, cần phải có kế hoạch tài chánh và ngân quỷ đúng mức. Nếu không, chẳng gia đình nào sống được thoải mái. Tình trạng này xác nhận câu ngụ ngôn “khi cái nghèo đến gõ cửa, tình yêu bay qua cửa sổ”. Điều này không có nghĩa là cứ phải có tiền mới tạo được hôn nhân. Tuy nhiên, nếu một người có những nhu cầu cần thiết cho đời sống nhờ một nghề nghiệp vững chãi và có kế hoạch thận trọng trong hôn nhân, những điều lo lắng không cần thiết sẽ bị loại bỏ.
Có thể ngăn ngừa những khổ cực của nghèo túng nếu đôi bên hoàn toàn hiểu nhau. Đôi bên phải hiểu rõ giá trị của sự vui lòng. Cả hai đều phải giải quyết những khó khăn như những khó khăn chung, và cùng nhau chia sẻ tất cả những “thăng trầm” với một tinh thần thành khẩn trong một cuộc sống thuận hoà lâu dài.
Lời khuyên trước khi cưới
Kinh Anguttara Nikaya ghi chú một số các lời khuyên của đức Phật dạy cho các thiếu nữ trước khi thành hôn. Hiểu được những khó khăn khi về làm dâu nhà chồng, người con dâu phải kính trọng cha mẹ chồng, và hầu hạ cha mẹ chồng cũng như cha mẹ mình. Người con dâu cũng phải quý mến và kính trọng họ hàng và bạn bè bên chồng để tạo một bầu không khí thích hợp và vui vẻ trong ngôi nhà mới.
Người con gái trước khi về nhà chồng được khuyên bảo phải tìm hiểu bản chất, một số hoạt động, cá tính và tính tình của người chồng để có thể hợp tác giúp đỡ chồng ở ngôi nhà mới. Họ phải lễ độ, tử tế, theo dõi lợi tức của chồng để chi tiêu đúng mức. Lời khuyên của đức Phật tuy đã trên 25 thế kỷ nhưng vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.