Nếu bị đánh trúng mà não tủy không bị phá, tức là chỉ sinh chứng đau đầu, chóng mặt, đổ lửa, ói mửa, hoặc đi đứng khó khăn...v...v... thì có thể dùng phương thuốc này chữa trị :
Xuyên khung 2 chỉ
Đương quy 2 chỉ
Xích thược 8 phân
Thăng ma 8 phân
Phòng phong 8 phân
Hồng hoa 4 phân
Nhũ hương (khử dầu) 4 phân
Trần bì 5 phân
Cam thảo 2 phân
Cộng làm 2 tể, cho rượu và nước lạnh mỗi thứ nữa chén, sắc lấy nữa chén. Uống lúc thuốc còn nóng.
2. Hai huyệt Thái âm và Thái dương (còn gọi là Thượng Mệnh Môn):
Khi bị đánh trúng dể sinh ứ máu, để lâu sẽ sinh biến chứng rất nguy hiểm. Dùng toa thuốc sau đây để chữa trị :
Đương quy 1 chỉ rưởi
Hồng hoa 5 phân
Hoàng thị 5 phân
Bạch chỉ 5 phân
Thăng ma 5 phân
Quật hồng 5 phân
Kinh giới 8 phân
Nhục quế 8 phân
Xuyên khung 8 phân
Cam thảo 2 phân
Dùng rượu trắng (càng lâu năm càng tốt) pha với nước tiểu trẻ em, mỗi thứ một chén, sắc lên còn một chén và uống. Hốt 7 thang, uống liên tục 7 ngày.
3. Hai huyệt Hồng Đường (còn gọi là Tả Hửu Tàng Huyết Huyệt):
Bị đánh trúng nặng có thể gây trọng thương mà chết. Nhẹ thì gây gối loạn thị giác, tổn hại đến gan và mật. (vì thuộc Thái Âm, Thái Dương kinh và thông vào gan, mật). Dùng cả hai thang thuốc sau đây:
a. Ngũ hổ tán:
Đại hoàng 8 phân
Mao trúc, Tiết hỏi 5 phân
Tùng trạch thán 5 phân
Kim chuyên 1 chỉ
Sao lên rồi tán nhỏ, sau đó pha với rượu trắng mà uống mỗi ngày một lần (rượu càng lâu năm, công hiệu càng mạnh).
b. Sau 6 tiếng đồng hồ thì uống thang thứ nhì:
Linh tiên 1 chỉ
Quế chi 1 chỉ
Xuyên khung 1 chỉ
Xuyên đoạn 1 chỉ
Đào nhơn 1 chỉ
Trần bì 8 phân
Cam thảo 3 phân"
Đương quy 1 chỉ rưởi
Đổ 3 chén nước vào sắc còn một chén, uống lúc thuốc còn nóng.
4. Huyệt Mệnh mạch tức là Tả Ưng Song Huyệt (còn gọi là Tả Thượng Huyết Hải):
Thuộc kinh túc dương minh vị, chủ Can kinh (gan) và thông với tim qua tĩnh mạch. Đây là một yếu huyệt quan trọng (Thượng Huyết Hải = biển máu trên) nên khi bị trọng thương sẽ đau đớn vô cùng, gây khó thở, nhức đầu...v...v...(Nặng hơn thì chết). Tạm thời hãy uống thang thuốc sau đây liên tục trong 7 ngày:
Quy vỹ 1 chỉ rưởi
Tử thảo 1 chỉ rưởi
Tô mộc 1 chỉ rưởi
Hồng hoa 1 chỉ rưởi
Nhục quế 1 chỉ rưởi
Trần bì 1 chỉ rưởi
Chỉ xác 1 chỉ rưởi
Thạch hộc 5 phân
Cam Thảo 5 phân
Làm thành tể uống mỗi ngày 3 tể. Dùng rượu trắng lâu năm pha với nước tiểu trẻ em mà uống với thuốc.
5. Huyệt Mạch tông, tức Hữu Ưng Song Huyệt (còn gọi là Hữu Thượng Huyết Hải):
Thuộc kinh túc dương minh vị, làm chủ khí thuộc Phế kinh (Phổi), khi bị trọng thương khiến tổn hại thần kinh vùng ngực và tĩnh mạch, gây rối loạn tim...v...v... Để lâu ngày (3 ngày sau khi bị thương) sẽ gây biến chứng rất nghiệm trọng và rất khó chữa trị. Dùng thang thuốc sau đây uống ngay sau khi bị thương:
Quy vỹ 1 chỉ
Đào nhơn 1 chỉ
Xuyên đoạn 1 chỉ
Ký nô 1 chỉ
Hồng hoa 1 chỉ
Chỉ xác 2 phân
Cam thảo 2 phân
Cốt toái bổ 5 phân
Ngẫu tiết 5 phân
Sơn Dương huyết 3 phân
Đổ một chén nước, một chén rượu trắng, sắc còn một chén rồi uống liên tục 7 ngày (Chú ý: Sơn Dương Huyết để riêng ra đừng sắc chung, chỉ sắc các vị thuốc kia, sau khi sắc xong rồi mới uống chung với Sơn Dương Huyết)