Tình Thương Mạnh Hơn Bão Tuyết - Patricia . St . John
Tên truyện : Tình Thương Mạnh Hơn Bão Tuyết
Tác giả : Patricia . St . John
Nguồn : dactrung
Lời giới thiệu
Một câu chuyện rất cảm động được diễn ra trong khung cảnh đồi núi tuyết phủ quanh năm của xứ Thụy Sĩ. Nhân vật chính là hai đứa trẻ, Duyên và con An. Duyên vô ý làm bé Danh, em của con An rơi xuống triền núi và bị gãy chân. Con An oán ghét Duyên và không bỏ lỡ một cơ hội nào để trả thù, mặc dù Duyên luôn luôn tìm hết cách để đền bù tội lỗi của nó. May mắn được học biết về tình thương ở trong Thánh Kinh, Duyên đã thắng hơn sự sợ hãi, mệt nhọc. Nó phấn đấu vất vả với bão tuyết, một mình vượt một khoảng đường xa bằng giày trượt tuyết, giữa đêm khuya, để tìm một vị danh y chữa tật què chân cho bé Danh. Duyên suýt chết trong đêm đó, nhưng cuộc mạo hiểm của nó có kết quả. Chân bé Danh được chữa lành, nó đi lại được như thường. Con An tha thứ và thương mến Duyên. Mọi người đều vui vẻ đón mừng một mùa Xuân mới. Câu chuyện trên đây được tả vẽ cách rất linh động và ý nhị. Lời văn vừa dí dỏm vừa cảm động. Người lớn cũng như các em trẻ, mọi người đều thích thú khi đọc quyển sách này.
Truyện được tác giả P. St. John viết năm 1952, do Phòng Sách Tin Lành - 14, Hồng Bàng, Saigon 5 - ấn hành năm 1973
Bé Danh nằm ngửa trên giường, giữa hai lần chăn êm nệm ấm. Tuy còn nhỏ, nhưng nó vẫn ý thức được cái con người quan trọng của nó lúc nầy. Nó muốn đòi hỏi gì là lập tức mọi người sẽ chìu ý nó ngay. Vì chưa bao giờ được sống như vậy trước kia nên bữa nay nó muốn tận hưởng những giờ phút sung sướng nầy.
Mọi người trong gia đình xúm xít chung quanh nó. Ba nó đứng ở chân giường, mắt nhìn nó, còn miệng thì kể cho nó nghe những chuyện vui mà nó ưa thích nhất; chị An ngồi một bên cạnh nó, tay cầm một thẻ kẹo chô-cô-la; con mèo Mướp nằm cuộn tròn trên ngực nó ngáy khò khò; còn bà nội nó ngồi ở phía bên kia, một tay cầm lọ mứt anh đào, tay kia cầm cái muỗng, mỗi lần nó đòi là bà nội lại đút cho nó một muỗng mứt đầy. Nếu chân nó không bị đau, nó đã nghĩ nó đang ở thiên đàng. Nhưng đàng này chân nó đau quá, đau ôi là đau!
"Ba à", bé Danh kêu ba nó không biết lần này là lần thứ mười mấy, "ba có chắc, có thật chắc là con Mướp không bị thương không?"
"Chắc lắm mà", ba bé Danh đáp. "Nó uống một lèo hết cả một dĩa sữa, rồi vểnh đuôi chạy vụt lên lầu. Chỉ có những con mèo mạnh khoẻ mới có thể ăn uống chạy nhảy như vậy!"
"Ba à", bé Danh lại hỏi nữa; miệng há lớn như con chim con để đón nhận thêm một muỗng mứt anh đào, "chính Duyên đã ném con mèo mướp qua vách đá đấy. Như vậy có phải là Duyên độc ác lắm không ba?"
"Phải, phải," ba bé Danh đáp, "mà nhất định nó sẽ bị trừng phạt." Tuy nói vậy, nhưng thật tình ông Bình không nghĩ tới Duyên mấy; lúc ấy lòng ông đang vui sướng vì thấy bé Danh còn sống sót. Chỉ có An là nghĩ nhiều nhất tới Duyên thôi.
An ngồi lẳng lặng bên cạnh em, tay cầm thẻ kẹo chô-cô-la. Nó nhủ thầm trong lòng, "mình chẳng cần phải vội vàng, nhưng nhất định mình sẽ không bao giờ tha thứ cho nó. Một ngày kia, mình sẽ cho nó một mẻ, sẽ làm cho nó một cái gì cho thật ghê gớm. Nhất định mình không bao giờ tha thứ cho nó, nhất định vậy."
"Chị An nè," bé Danh gọi, "chị đưa em thẻ kẹo chô-cô-la đây, em ăn rồi em sẽ đi nghủ. Nhưng chị phải ở đây với em kia, chị nhé, vì chân em đau quá mà."
"Được, được, chị sẽ ở lại đây với cưng cho tới lúc nào cưng ngủ say." An vừa nói vừa đưa em thẻ kẹo chô-cô-la.
Ba và bà nội hôn bé Danh rồi déo ra khỏi phòng. An vòng tay ôm lấy cổ em.
Bé Danh bảo chị, "chị hát cho em nghe đi". Hát cái bài "Bàn tay Cha hãy ban phước cho con trong giấc ngủ ấy." Đây là lời cầu nguyện buổi tối của Danh mà bà nội đã dạy cho nó lời cầu nguyện xin Đức Chúa Cha trên trời hãy tha thứ mọi tội lỗi, và hãy giang cánh Ngài che chở con nít trong đêm tối. An vẫn thường hát bài nầy, nhưng tối nay nó lại không muốn hát. Nó biết nó không thể hát được cái bài nói về tha thứ tội lỗi nầy trong lúc lòng nó chứa đầy căm thù với Duyên. Trong óc nó, chỉ có một ý nghĩa là: phải trả thù.
Nó bảo bé Danh, thôi, đừng hát bài ấy cưng ạ! Để chị hát cho cưng nghe bài về cây cầu Avignon. Còn nếu cưng muốn thì cưng hát lấy một mình bài kia đi."
Danh phụng phịu không bằng lòng. Nó muốn đặc biệt đêm nay chị An phải chìu theo ý muốn nó.
"Em không thích bài hát về cây cầu Avignon đâu", Danh nhỏng nhẽo. "Em thích bài" Bàn Tay Cha"cơ."
"Thôi được, " An khẽ thở dài. "Nếu em muốn thì chị hát cho em nghe vậy." An bắt đầu hát, giọng hơi buồn. Những câu đầu của bài hát đại ý như sau:
Xin bàn tay Cha
Hãy ban phước cho con trong giấc ngủ
Xin cho con được ngủ dưới cánh tay che chở của Cha.
Xin Cha hãy dùng ân điển
Xóa bỏ mọi tội lỗi cho con
Và xin nhờ Thánh Linh Cha
Cho con thành ngoan ngoản, vâng lời.
Điệu hát trầm trầm êm dịu nên. An chưa hát hết bài, Danh đã ngủ thiếp, que kẹo chô-cô-la buông rơi trên gối. An nhẹ nhẹ rút tay ra rồi lại khóc nữa, vì nó đã mỏi quá rồi, và thật là đỡ khổ biết bao. Tuy nhiên, đấy không phải chỉ là những giọt nước mắt sung sướng, vì chúng ta không thể nào thực sự vui sướng khi chúng ta còn mang nặng trong lòng căm thù người khác.
An thở nhẹ rồi đứng dậy đi xuống dưới nhà. Ba nó đã đi ra ngoài để vắt sữa bò; đây là lần đầu tiên ba nó vắt sữa bò trễ như vậy, nên các chị bò tức giận giậm chơn và rống lên ầm ầm. Nội nó thì đang sửa soạn bữa ăn, vì nội nó và ba nó chả có miếng gì vào bụng từ sáng tới giờ. Tất cả tim óc mọi người đều hướng về Danh, nên chẳng còn nghĩ tới chuyện gì khác.
An nói, "nó ngủ rồi," rồi ngồi xuống thẩn thờ nhìn vào bếp lò.
Nội nó cất lời, "Ông Bác sĩ chắc sắp tới rồi đấy. Chúng ta lại phải đánh thức nó dậy. Nghĩ thật tội nghiệp! Nhưng thôi, cứ để nó ngủ tí nào hay tí nấy."
Sau giây phút im lặng, An đột nhiên ngẩng đầu lên nói, "Nội à, phải trừng phạt Duyên mới được! Phải làm gì cho nó bây giờ? Con nghĩ chưa ra cách nào làm cho nó thật điêu đứng để xứng đáng với việc làm độc ác của nó."
Nội nín thinh không trả lời. Một lát sau, nội mới nói: "An à, có khi nào cháu nghĩ tới điều này không: khi chúng ta làm điều gì sai quấy, thì tự nhiên hình phạt sẽ tới, khỏi cần ai xen vào?"
Quả tình An chưa bao giờ nghĩ tới điều đó cả.
Nội nói tiếp: " Cháu hãy nghĩ tới nỗi hãi hùng của Duyên khi nó nom thấy bé Danh té xuống dưới khe. Cháu cũng hãy nghĩ tới lòng hối hận của và đau khổ dầy vò nó đêm nay, nỗi tủi nhục và sợ người khác biết chuyện nó làm... Khi thấy cháu sẽ nghĩ rằng có lẽ nó đã bị trừng phạt đủ điều rồi, và chúng ta nên tha thứ và giúp đỡ cho nó sửa chữa lại."
Những lời của nội nó như gió thoảng qua tai nó. Nó chỉ để ý có mỗi một câu mà thôi. "Cháu hãy nghĩ tới nỗi sợ hãi của nó khi nó nghĩ rằng người khác rồi đây sẽ biết hết chuyện nó làm..." Chà hay quá! Nội nó đã giúp cho nó một ý kiến hay quá. Rồi đây nó sẽ đi nói tung cho tất cả mọi người biết. Đi tới đâu nó cũng sẽ kể lại chuyện Duyên độc ác như thế nào. An sẽ kể chuyện ấy ở trong làng và ở nhà trường, cho tới khi tất cả mọi người đều ghét bỏ Duyên về tánh độc ác của nó.
Có tiếng người hấp tấp gõ cửa. An giật mình ngẩng nhìn ra ngoài. Chị lớn của Duyên, tên chị Mai, xô cửa bước vào. Chị ta vừa ở thị trấn bên kia núi là nơi chị làm việc về nhà. Dọc đường chị gặp đoàn người đang cáng bé Danh từ ngoài đồng về nên chị chạy vội xuống Bưu điện trong làng để kêu điện thoại cho vị bác sĩ ở cách đấy những tám ki-lô-mét.
"Bác sĩ Ban không đến được đâu," chị Mai hổn hển báo tin. "Ông ta đã đi thăm một bệnh nhân ở làng khác và không chắc về kịp nhà đêm nay đâu. Chuyến xe lửa chót đã chạy mất rồi. Họ bảo phải dùng xe ngựa chở bé Danh tới bệnh viện sáng sớm mai để cho ông ta khám bệnh cho nó ở đấy."
Nội tỏ lời cám ơn chị Mai rồi tiếp, "Chị chịu khó đi hộ chúng tôi việc ấy, thật tử tế quá." Nói xong, nội quay xuống bếp, còn chị Mai vẫn nấn ná ở lại, mặt lộ vẻ tò mò.
Chị hạ thấp giọng hỏi An, "Tai nạn xảy ra làm sao vậy em ? Sao mà má chị cứ nín lặng và có vẻ bối rối vậy ?"
"Tai nạn xảy ra tại trên núi ấy, " An vắn tắt đáp. "Duyên quăng con mướp của bé Danh qua bên kia bờ khe. Bé Danh tìm cách cứu con vật. Thế mà Duyên cũng chẳng làm gì ngăn cản nó. Em chẳng biết nó có xô thêm bé Danh nữa không. Em sợ bé Danh gãy chân mất. Nó nằm trên đống đá hằng tiếng đồng hồ mà Duyên cũng chẳng báo cho ai hay biết cả."
Mặt Mai tái mét vì kinh hoàng. Thực tình mình không có ưa Duyên mấy, dù nó là em của chị. Nếu chị yêu thương nó, có lẽ nó đã khá hơn, không đến nỗi hư hỏng như vậy. Trẻ con mà không được yêu thương thường ít khi có cảm tình với người khác.
"Để tôi về cho nó một trận, " Mai giận dữ nói và chạy vụt ra khỏi nhà, An mỉm cười khoan khoái. Gây cho gia đình Duyên ghét bỏ nó chính là điều mà An mong muốn. Nó cảm thấy công việc trả thù của nó đã bắt đầu.
Lúc nầy chẳng có việc gì làm hơn, nên sau khi ăn cơm xong, An lặng lẽ lê bước lên phòng ngủ. Người nó mệt nhọc, lòng nó nặng chĩu. Nó đốt một cây đèn cầy lên rồi đứng ngắm nhìn bé Danh qua hai màng lệ. Bé Danh nằm ngủ trên giường, hai tay giang ra, mớ tóc ẩm ướt sỏa về đàng sau. Nét mặt bình thản êm đềm thường ngày của nó không còn nữa. Trong giấc ngủ, thỉnh thoảng nó lại chau mày và chốc chốc lại cụ cựa đầu, miệng lẩm bẩm những lời không ai nghe rõ.
An leo qua cửa sổ vào giường nằm. Tuy mệt, nó vẫn không ngủ được. Nó cảm thấy cô đơn quá... nên khi nghe thấy tiếng bước chậm chạp của nội nó trên cầu thang, lòng nó mừng rỡ. Nội nó bước vào phòng. Ít khi nội nó lên lầu vì mỗi lần lên như vậy là bệnh phong thấp làm chân nội nó đau đớn.
"Nội!" An khóc nức lên, hai tay giang rộng để đón nội.
Nội nó lặng thinh một lát, và ngồi xuống bên giường, khẽ vỗ về An cho đến khi nó nín khóc.
"Cháu hãy nghe đây," Nội nó bắt đầu nói, "lúc bé Danh còn nhỏ tí, chúng ta đã dẫn nó đến nhà thờ và lấy đức tin dâng nó vào tay Cứu Chúa. Ngày nào trong giờ cầu nguyện, chúng ta cũng xin Cứu Chúa che chở cho nó được an lành trong tay Ngài. Ngay khi nó té, Chúa cũng không bỏ rơi nó. Tay Ngài vẫn ở dưới nó để che chở nó. Dù cho nó có bị chết trong tai nạn đó thì nó cũng được đưa thẳng lên thiên đàng. Vậy, chúng ta hãy lau khô nước mắt và vững tin nơi Đấng Cứu Chúa che chở bé Danh và mang lại những điều tốt lành nhất cho nó."
"Thế tại sao Thượng Đế lại để Duyên làm hại nó như vậy?" An hỏi. "Nội à, cháu ghét Duyên quá, cháu chỉ muốn giết chết nó thôi."
"Như vậy thì đâu cháu có cầu nguyện cho bé Danh được," Nội nó bình tĩnh đáp. "Thượng Đế là Tình Yêu Thương, và khi chúng ta cầu nguyện là chúng ta tiến gần lại tình yêu thương. Tất cả hận thù của chúng ta phải tan biến đi như tuyết tan chảy dưới ánh nắng ấm áp của mùa Xuân. Cháu hãy dâng phó Duyên cho Chúa đi. Ngài báo trả cả điều thiện lẫn điều ác, và cháu nên nhớ rằng Ngài cũng yêu thương Duyên như Ngài yêu thương bé Danh vậy."
Nội hôn An rồi đứng dậy đi ra khỏi phòng. Nằm lại trên giường, An nghĩ tới những lời Nội nói. Câu sau cùng của Nội nó thấy khó tin quá. Có thể nào Thượng Đế lại cũng có thể yêu thương Duyên độc ác, xấu xa, đần độn, như Ngài yêu thưong bé Danh kháu khỉnh, hiền lành kia. Nhưng phần đầu câu chuyện của Nội, nó biết là đúng, và vì thế nó thấy bối rối trong lòng. Nó không thể nào thực sự cầu nguyện cho bé Danh mà vẫn tiếp tục nghĩ cách hại Duyên. Hai việc ấy không thể nào đi đôi với nhau được; nó muốn cầu nguyện cho bé Danh, nhưng nếu làm vậy lòng hận thù của nó có lẽ tan biến mất, và đó là một điều nó không thích xảy ra chút nào, ít ra trước khi nó xong việc trả thù đã. Thôi thì trong khi chờ đợi, nó hãy để nội nó cầu nguyện, còn nó thì nó tiếp tục mưu tính cách trả thù.
Khi Duyên thức giậy sáng hôm sau, nó không nhớ ngay được mọi việc đã xảy ra, tại sao đầu nó đau và mắt nó nhức xót. Thế rồi, như trong một trận cuồng phong, mọi hình ảnh dồn dập trở lại ký ức nó, và nó còn nhớ thêm được một điều quan trọng khác. Hôm nay nó phải đi học và phải giáp mặt những đứa trẻ khác trong trường.
Không chừng bé Danh đã chết hồi đêm và mọi người rồi ra sẽ biết là do lỗi tại nó.
Nó không muốn đến trường nữa, nó muốn lẩn trốn suốt ngày hôm nay. Kể ra cũng chẳng khó khăn gì. Nó chỉ việc chạy lên rừng thông rồi ở ẩn cho đến chiều tối hãy về, và sẽ chẳng có ai biết được. Má nó sẽ nghĩ nó đi học ở trường. Còn ở trường thì chẳng có ai để ý đến sự có mặt hay vắng mặt của nó. Nó ở xa tít trên thung lũng, ngoài ra cũng chẳng có ai buồn bận tâm đến nó. Dĩ nhiên rồi đây sẽ có người tìm ra sự thật, nhưng đấy là chuyện về sau, còn hôm nay mới là quan trọng hoặc giả bé Danh sẽ khá hơn; nhưng muốn thế nào thì thế, hôm nay nó hãy lẩn trốn đi đã.
Duyên chờ dậy và xuống dưới nhà. Chị Mai đang ở trong nhà bếp. Chị đã ăn bánh và uống cà phê xong và đang sửa soạn đi đến sở làm. Vừa nhìn thấy bóng Duyên bước vào, chị ngoảnh mặt bỏ đi liền, nhưng, Duyên cũng chẳng để ý nhìn chị. Nó lặng lẽ đi qua nhà bếp và tiến về phía chuồng bò để giúp má nó vắt sữa buổi sớm.
Nó bước vào, không nói một lời. Má nó ngó theo nó, mặt lộ rõ vẻ bối rối. Nó ngồi lên cái ghế đẩu cạnh lò lửa, lặng lẽ bữa điểm tâm. Xong bữa, nó đứng dậy cài cúc áo, hôn má nó để từ giã và bỏ ra đi vẫn không thốt ra một lời.
Má nó đứng lên nhìn theo nó đi đến tận khúc đường quẹo rồi giơ tay vẩy chào nó. Duyên vẩy chào lại, rồi đứng đợi ở góc đường khuất cho tới khi nó biết chắc má nó đã đi rồi. Lúc ấy nó mới quay lưng ra sức chạy tuốt lên đồi.
Nó chạy thật nhanh, nên chỉ thoáng chốc đã lọt vào trong bóng mát của khu rừng thông viền quanh trái núi. Tới đây thì nó không còn lo ai bắt gặp nữa, vì trời hãy còn sớm ( ở Thụy Sĩ mãi 7 giờ 20, trường học mới bắt đầu), nó liền ngồi xuống và bắt đầu suy nghĩ.
Cảnh rừng thông tuyệt đẹp. Các cây thông tràn đầy nhựa sáp và hương thơm trong tuyết xuân ấm áp. Nhựa thông theo thân cây chảy xuống thành từng hàng dài, và một mùi thơm ấm dịu thoang thảng bốc lên từ mặt đất. Ánh mặt trời lọt qua cành cây kẽ lá lấp lánh một màu tươi vui. Rừng thông đầy vẻ êm ả và mát dịu đã đem lại trong lòng Duyên một tia hy vọng, như thể một tia nắng ấm đã lọt qua kẽ lá và xuyên qua nỗi đau khổ nó chứa chấp trong tim.
Nó không biết sẽ phải làm gì cho qua hết ngày hôm nay. Nó không đem theo thức ăn, vì từ trước tới nay, nhà trường vẫn dọn bữa cho nó trong phòng ăn của nhà trường . Tuy nhiên, cái cảm giác hy vọng lạ lùng mới nẩy nở trong lòng nó đã khiến nó thấy hiu hiu buồn ngủ, và bởi vì nó đã trải qua một đêm trằn trọc mất ngủ, nó mới ngả lưng trên thảm cỏ khuất sau bụi dâu rừng và chẳng mấy chốc, đã ngủ thiếp đi.
Duyên nằm ngủ, mái tóc rối bời dưới ngọn gió xuân ấm áp. Thỉnh thoảng lại có những tia nắng mặt trời lạc lỏng lốm đốm lướt qua mình nó. Trên ngọn cây, mấy chú sóc tí hon cãi nhau chí chóe và tấn công nhau tới tấp bằng những nhánh thông xanh thẫm. Trong hốc đá, ngọn suối chảy nghe réo rắt như tiếp đàn reo vui. Duyên ngủ mãi cho tới khi mặt trời đã lên cao trên đỉnh đầu và đám học sinh trong trường làng đã kéo nhau ra xếp hàng để đi tới phòng ăn. Lúc ấy nó mới tỉnh dậy và cảm thấy bụng đói cồn cào.
Nhưng trong rừng nầy chẳng có thức gì ăn được cả. Nó liền đứng dậy đi lang thang lên cao mãi trên đỉnh đồi. Vừa đi nó vừa nghĩ thầm, chẳng biết trong những căn nhà gỗ ở cao tít trên kia có trại chủ nào sẵn lòng tử tế mà ban cho nó một ly sữa không. Trong lúc mãi nghĩ ngợi, nó cho tay vào túi sờ thấy con dao nhíp và lấy con dao ra.
Giờ nó đã tới phía bên kia của cánh rừng. Các cây giẻ gai mọc lẫn lộn trong đám cây thông, và đồi cỏ sừng sững dựng đứng trước mặt nó. Các cây giẻ gai đang đua nhau đâm chồi nẩy lá và chẳng bao lâu sẽ lại sum suê khiến cánh rừng nom giống như một đại giáo đường màu xanh tươi in đậm trên nền trời xanh biếc.
Duyên lại ngồi xuống trên một thân cây gỗ để nghỉ chân. Tẩn mẩn, nó nhặt một miếng gỗ, nhưng chỉ để chơi cho qua thì giờ chứ chưa bao giờ nó có ý định làm một cái gì đứng đắn. Nhưng lúc này, vì chẳng có việc gì làm, nó quyết định đẻo gọt miếng gỗ thành hình một con Sơn Dương, tức giống dê núi vẫn sống trên các bờ vực cao. Nó bắt đầu đẽo gọt rất thong thả, cắt bỏ đi những chỗ gỗ thừa.
Thong bàn tay khéo léo của Duyên, miếng gỗ lần lần thành hình, và Duyên thấy một khoái cảm kỳ lạ xâm chiếm tâm hồn. Lần đầu tiên nó quên hẳn nỗi khổ sở nó phải chịu và để hết tinh thần vào công việc nó đang làm. Trong óc nó, nó hình dung con Sơn dương, và những ngón tay của nó hoạt động theo sự điều khiển của trí tưởng- nầy là cái đầu và cặp sừng cong cong tuyệt đẹp, với cái mũi hênh hếch như đang phập phòng đánh hơi, rồi đến một cái tai vểnh lên như đang nghe ngóng tiếng tù và của đám thợ săn, rồi là bốn cẳng, chân dài thuôn thuôn, và một thân mình hơi co lại như đang chuẩn bị để phóng đi.
Duyên cầm khúc gỗ đã thành hình, duỗi tay ra xa để tiện bề ngắm nghía. Thật tình mà nói,tác phẩm điêu khắc của nó chưa phải là hoàn hảo, nhưng chỉ cần nhìn sơ qua, người ta cũng biết ngay một cách không lầm là hình con sơn dương. Chỉ có nó là nó không biết rõ giá trị tác phẩm của nó mà thôi. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên kể từ khi xảy ra tai nạn bé Danh bị gảy chân, nó cảm thấy trong lòng có phần nào thơ thới vui sướng. Nó đã tìm thấy công việc làm hợp với khả năng của nó; dầu ngu độn như nó, nó vẫn có thể đẽo gọt, tạc, khắc trên gỗ, và từ nay nó sẽ không còn buồn khi phải sống lẻ loi cô độc một mình nữa. Khi nào những đứa trẻ khác không thèm chơi với nó, nó sẽ tìm tới một góc rừng hẻo lánh êm lặng để ngắm những cảnh vật thiên nhiên đẹp đẽ và để tạc khắc lên gỗ. Trong khi mải mê tạc khắc, nó sẽ quên đi mọi sự buồn phiền, và đây là điều nó mong muốn hơn hết. Dầu có chuyện gì xảy ra, nó vẫn có thể lánh tới một nơi khuất nẻo và có cách khuây khỏa nỗi lòng.
Duyên leo lên sườn dốc và đứng từ trên cao nó nhìn qua cánh rừng xuống thung lũng bên dưới. Mặt trời đang chuyển dần về dãy núi phía tây, và ở xa tít bên dưới, nó nhìn thấy những chấm đen nhỏ đang chạy tản về mọi ngã: đó là đám trẻ em vừa ra khỏi trường. Chỉ còn mười lăm phút nữa thôi, nó có thể về nhà được rồi.
Chậm chạp, thong thả, nó nhảy từng bước một xuống núi, xuyên qua rừng thông vì nó không được phép về nhà sớm quá. Lúc này mặt trời đã ngã về phía bên kia thung lũng. Rừng thông mát dịu và âm u với đầy tiếng rì rầm nho nhỏ. Duyên cho tay vào túi, nhón tay nắm chặt lấy thân mình tròn trịa của con Sơn dương bằng gỗ. Một cảm giác thỏa mãn dâng lên trong lòng nó.
Bâng khuâng, nó tự hỏi không biết khi về nhà nó sẽ nghe thấy chuyện gì đây. Không chừng bé Danh đã chết rồi; nhưng nó vội vàng xua đuổi ngay ý nghĩ ấy, vì nó sợ… Nhưng cũng có thể bé Danh chỉ bị thương nặng thôi, và khi nghĩ đến đây, tự nhiên trong óc Duyên nổi lên hình ảnh khuôn mặt tái xanh tái xám của bé Danh nằm trên thảm cỏ.
Ước gì nó có thể làm được việc gì để chuộc lại tội lỗi này. Nhưng trong óc nó chẳng nghĩ ra được việc gì cả.
Nó rón rén ngượng nghịu bước vào nhà. Má nó đứng bên bể nước lo lắng nhìn nó. Bà chờ đợi nó cất tiếng nói trước, nhưng mãi không thấy nó nói gì, bà không còn nén nỗi lòng tò mò mới hỏi nó, "Thế nào? Con đi học ngày hôm nay ra sao?"
"Má, như thường, má ạ," Duyên đáp.
"Má vừa xuống nhà ông Bình để hỏi thăm," má nó nói tiếp "Con An và ông Bình đã dùng xe ngựa chở bé Danh đi bác sĩ rồi. Có lẽ mãi đến khuya nay họ mới trở về nhà được. Bà nội con An tử tế lắm con à. Họ đều là những người tốt cả, nên má chắc họ sẽ tha thứ cho con và không trị tội con đâu."
Duyên nín thinh không trả lời. Nó biết Nội bé Danh có thể tha thứ cho nó, nhưng còn con An chắc sẽ không bao giờ tha thứ cho nó đâu.
"Thế thầy giáo con ở trường có biết chuyện ấy không? " má nó lại cất tiếng hỏi tiếp sau một phút nín lặng.
"Có ạ" Duyên đáp.
"Thế thầy ấy có nói gì không?"
"Thưa không!"
Má Duyên lộ vẻ ngạc nhiên. Cả ngày hôm nay bà đã khổ sở lo lắng không biết con trai bà phải chịu những hình phạt gì ở trường, nhưng nay cứ theo lời con bà nói thì chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Duyên lại còn có bộ tươi tỉnh hơn lúc sáng ngày.
"Con đi kiếm chút sữa đây, má à," Duyên vừa nó vừa bỏ đi về phía chuồng bò. Nó thở dài một hơi nhẹ nhõm. Chuồng bò là một nơi ẩn náu của nó. Ở đấy nó khỏi phải nghe những câu hỏi cật vấn của má nó, và những con bò cũng chẳng nghĩ xấu về nó. Nó bắt tay vào việc rất mau lẹ, rồi nghiêng cái thùng đựng sữa, nó ghé miệng uống thẳng một hơi chất sữa âm ấm béo ngậy. Nó cảm thấy trong người khỏe khoắn hơn, vì từ sáng tới giờ nó chẳng có tí cơm cháo gì vào bụng.
Tối nay nó sẽ để chừa ra một ít thức ăn. Ngày mai nó sẽ quay trở lại rừng thông để ẩn núp thêm một ngày nữa. Ngày nào nó cũng sẽ làm như vậy kỳ cho tới lúc nó bị khám phá ra và chắc cũng còn lâu mới bị, vì nó ở xa tít trên thung lũng.
Nó kéo dài công việc vắt sữa cho thật lâu, rồi mới xách thùng sữa nhảy cà tưng trở về nhà ở. Nó về tới cửa vừa đúng lúc chị nó cũng vừa về tới, mặt đỏ tía tai, hơi thở hổn hển. Vừa nhìn thấy mặt nó, chị nó đã mắng luôn, "khốn kiếp kia! Sao mày lại trốn học như vậy hả! Nó làm gì suốt ngày ở nhà thế, má? Đáng lẽ má phải tống cổ nó đi học mới phải!"
"Mày nói gì lạ vậy, Mai?" Má Duyên bực tức quay phắt lại hỏi. "Nó vẫn đi học đấy chứ! Nó vừa ở trường về đây này! Thôi, mày lo công việc của mày đi, đừng có hành hạ nó nữa!"
"Má bảo nó đi học thực ư?" Mai lớn tiếng hỏi. "Hừ, nếu nó vừa ở ngoài về thì má thử hỏi xem nó ở đâu về. Con tình cờ gặp ông giáo của nó lúc con ở sở làm về. Ông ấy đang nhổ cỏ trong vườn rau. Nhìn thấy con đi qua, ông ấy gọi với con và hỏi Duyên đâu mà không thấy nó đi học ngày hôm nay. Hay nó đâu? Con có đáp, "Nó có đau yếu gì đâu! Để ngày mai tôi lôi nó đến trường!" "Giờ Duyên nghe tao bảo đây. Tao chẳng biết mày bỏ học trốn đi đâu chơi suốt ngày hôm nay. Nhưng mày nhớ nhé, ngày mai tao sẽ đích thân lôi cổ mày đến trường."
"Không ngờ mày lại nói dối tao như vậy, Duyên kia!" bà tức giận la lớn. "Mày thật hư đốn quá mất rồi. Tao không biết phải tính với mày sao đây. Thôi để thầy giáo sửa trị mày." Phần lo âu thái quá, phần bị chính con trai bà lừa dối, bà úp mặt vào vạt áo khóc nức nở.
Duyên lẳng lặng ngồi xuống bên lò lửa trong điệu thiểu não. Hình như mọi người mọi vật đều chống đối lại nó. Nguồn hy vọng duy nhất của nó là ẩn náu trong rừng thông cũng đã bị tước đoạt mất, ngày mai nó sẽ phải đi học và sẽ phải giáp mặt con An. Nếu nó đi học ngày hôm nay thì đâu nó có gặp con An.
Nó nhặt lên một miếng gỗ lớn và bắt đầu dùng dao nhíp đẽo gọt. Một lần nữa những ngón tay của nó mò mẫm sờ tìm con Sơn dương bằng gỗ nó để trong túi áo.
Cái chân đau của bé Danh phải mất lâu lắm mới lành lại được. Đã nhiều lần ông bác sĩ băng qua núi để tới thăm bệnh cho nó. Đã nhiều lần ông cũng lộ vẻ trầm ngâm bối rối. Thế rồi, khi hoa dại bắt đầu trổ bông đầy đồng và nhà nông bàn đến chuyện đưa bò lên núi cao ăn cỏ, bé Danh trở lại bệnh viện để tháo gỡ cái chân băng bột. Đến lúc ấy, ông bác sĩ mới báo cho ba nó biết cái tin chẳng lành là từ nay trở đi, bé Danh không thể đi lại như người thường được nữa. Cái chân đau của nó ngắn hơn chân bên kia nên nó sẽ phải đi khập khiễng.
Ông Bình cảm thấy buồn rã rượi trong lòng. Ông tới nhà người thợ mộc để nhờ làm cho bé Danh một cặp nặng bé nhỏ xinh xinh. Rồi ông lại mang theo một đôi giầy của bé Danh tới nhà người thợ giầy để nhờ làm lại một đế giầy cao hơn đế bên kia chừng bốn phân tây.
Cả người thợ mộc lẫn người thợ giầy đều rất buồn khi hay tin chẳng lành ấy. Để làm cho bé Danh tươi lên, người thợ mộc chạm trổ những đầu con gấu nhỏ trên cái tay cầm của cặp nạng, còn người thợ giầy thì nhét đầy kẹo chô-cô-la vào trong đôi giầy đã sửa xong trước khi giao chúng về cố chủ, và cả hai trường hợp những cố gắng của họ đã có kết quả tốt đẹp.
Trái ngược với cảnh dân làng xúm xít quanh bé Danh và làm đủ mọi thứ để an ủi vỗ về nó, mọi người trong làng lẫn tránh Duyên và tìm đủ mọi cách để phô bày lòng họ khinh miệt nó.
Mấy ngày đầu, Duyên bị hành hạ đủ điều. Thầy giáo công khai nói trước cả lớp về việc nó làm, coi như mội thí dụ điển hình về hạng người khiếp nhược mà lại hay hống hách bắt nạt kẻ yếu thế hơn mình. Các học sinh khác sua đuổi không cho nó chơi trong sân trường và ném bùn vào nó. Nhưng chẳng bao lâu, chúng nó bỏ cái trò hình phạt ấy, chỉ thản nhiên chơi với nhau mà không thèm để ý tới nó.
Duyên xưa nay không được mọi người ưa thích, vì tính nó dễ cáu kỉnh, lại vụng về, xấu xí, nhưng nó vẫn được tham dự các trò chơi với các bạn khác. Nay thì nó phải sống lẻ loi trơ trọi một mình, vì không ai muốn chơi với nó nữa. Khi các học sinh chọn người để chơi, luôn luôn nó bị chọn sau cùng. Trong lớp có một cái bàn thừa, có một chỗ ngồi; tự nhiên Duyên phải ngồi một mình ở đó, vì chẳng ai muốn ngồi chung với nó cả.
Ngay cả đám con nít cũng xa lánh nó, vì má chúng đã căn dặn chúng không được lôi thôi gì với nó. "Ấy nó hung ác dữ tợn lắm. Coi chừng kẻo nó làm hại các con như nó đã từng làm hại bé Danh con ông Bình vậy," và các bà mẹ dặn đám con nít cẩn thận như vậy nên mỗi khi ai gặp nó tới gần là đám con nít bỏ chạy. Chúng coi Duyên chẳng khác gì một thứ ngáo ộp, một ông ba bị vậy.
Ở các tiệm trong làng, người bán hàng giao hàng cho nó qua quay hàng mà chẳng nói một lời; người bán sữa chẳng bao giờ trò chuyện với nó; còn bà chủ tiệm bán thực phẩm thì chẳng bao giờ dúi kẹo vào tay nó như bà vẫn thường làm với mọi đứa trẻ khác. Mọi người trong làng chẳng ai nặng lời với nó bao giờ, họ chỉ làm ngơ không thèm chú ý đến nó thôi.
Vì quá rụt rè e lệ, Duyên chẳng bao giờ tìm cách thu phục cảm tình của mọi người. Nó tự để buông trôi vào trong cái thế giới cô đơn của riêng nó. Nó đi học cũng như đi về, lúc nào cũng thui thủi một mình. Nó một mình đi đến mua hàng ở căn tiệm, và thui thủi chơi một mình trong sân chơi ồn ào náo nhiệt. Không phải vì bọn trẻ kia không muốn có nó chơi chung, vì trẻ con mau quên và dễ tha thứ; đó là chỉ vì lòng hổ thẹn khiến nó không dám nhập cuộc mà thôi. Nó cứ tưởng chừng như nhìn thấy vẻ oán ghét nó trên mặt bọn trẻ, và nó cho rằng chúng đang nghĩ tới bé Danh với cái chân què phải đi phập khiễng. Dần dần nó đâm ra sợ tất cả mọi người, sợ từ ông lão đưa sữa già nua cho tới đứa bé ít tuổi nhất trong trường. Nó sợ sệt cái vẻ khinh bỉ và oán ghét mà nó đọc thấy trên mặt mọi người.
Vì chính nó, nó không thể nào quên nghĩ tới bé Danh què. Hình ảnh bé Danh luôn luôn ám ảnh trí óc nó. Nó tha thiết muốn hỏi con An xem ông bác sĩ đã nói gì. Nhưng con An có bao giờ thèm ngó tới nó hay nói chuyện với nó kể từ khi tai nạn xảy đến cho bé Danh. Còn nó thì nó đâu có dám ngỏ lời trước với con An.
Ở nhà má nó thấy nó lầm lì hơn trước, nhưng cũng làm việc chăm hơn trước, vì nó chợt nhận thấy rằng chỉ có chúi đầu vào công việc nó, mới có thể quên được cuộc sống trơ trọi mà thôi. Từ khi khám phá được ra điều ấy, nó thôi bỏ cái lười biếng cũ và tối ngày vùi đầu vào công việc trong trại. Má nó thật tình khen ngợi nó, còn chị nó đối xử với nó cũng tử tế hơn, vì chị Mai vốn cũng là một cô gái chăm làm. Cái tính lười biếng của nó đã từng làm chị nó phải hết sức bực mình và nó.
Tuy nhiên, Duyên chỉ tìm thấy sự vui thỏa hoàn toàn ở có một chổ mà thôi: ấy là ở trong rừng.
Ở đây cây cối vây kín nó, cách biệt nó với cái thế giới mà nó biết chẳng có ai ưa thích nó. Mỗi khi nó có thì giờ rỗi rãnh, nó lại tìm đến trốn tránh nơi này, ngồi tựa lưng vào một thân cây hay một phiến đá, nó khắc những hình nho nhỏ trên gỗ và trong khi mải mê làm việc nó tạm quên đi hết mọi phiền muộn trên đời.
Cảnh vật đẹp đẽ và không khí êm ả của rừng thông trong lúc mùa hạ mới trở về đã đem lại phấn khởi cho nó. Trên cành thông, những nhánh non như được đánh bóng láng, và lá giẻ gai mềm dịu mang một màu xanh biếc như tơ. Ngồi dưới tàn cây, Duyên có cảm giác ánh mặt trời lọt qua lá cây đang hôn trên mái tóc và làn da tay của nó đang khi nó làm việc.
Cao tít trên bìa rừng, có một căn nhà gỗ nhỏ, chủ nhân là một ông già sống cô độc một mình. Ông ta về ẩn dật ở đó từ lâu, và làm bạn với ông chỉ có một con dê, một con mèo và một đàn gà. Ông quả là một ông già kỳ dị. Ở trong làng ai nấy đều sợ hãi ông, và mỗi khi ông xuống núi mua sắm, trẻ con đều chạy vào nhà đóng kín cửa lại. Mọi người kêu ông là Ông Già Trên Núi. Có người bảo ông ta keo kiệt lắm, nhưng người khác lại bảo ông trốn tránh luật pháp, và có người còn nói ông ta điên khùng và nham hiểm lắm. Ai muốn nói gì thì nói, nhưng có điều chắc chắn là chưa ai bước vào trong nhà ông ở cả, và cũng chưa hề ai đi qua con đường ấy vào lúc tối trời.
Một hôm nhân ngày nghỉ, Duyên đi lang thang xa hơn thường lệ, và cũng như thường lệ nó ngồi xuống một chỗ để hết tâm trí vào công việc chạm khắc gỗ. Lần này đề tài của nó là một con sóc đang dùng hai chân ôm giữ một trái hồ đào. Đang mải mê làm, nó bỗng linh cảm thấy có hơi thở đằng sau lưng nó. Nó liền quay phắt lại và nhìn thấy ông già trên núi đang đứng nhìn qua bờ vai nó.
Nom ông ta, quả là đáng kinh hãi thật. Chòm râu rậm rạp và xoắn tít vào nhau của ông, che kín một khoảng ngực rộng. Chiếc mũi quặm khoẳm của ông khiến người ta nghĩ ngay đến hình ảnh một con chim ó dữ tợn. Nhưng trong khi Duyên giật mình nhìn thẳng vào mắt ông, nó nhận thấy trong đôi mắt sáng láng có chứa đựng vẻ hiền từ và khoan dung, nên nó quyết định thôi không chạy trốn nữa. Vả lại, nỗi cô đơn mà nó đã phải chịu đựng từ bấy lâu nay đã khiến nó bớt sợ hãi đi nhiều. Ông già này có vẻ kỳ dị, và không chừng ông ta độc ác nữa, nhưng dù sao, ông ta cũng không biết gì về việc làm quá khứ của nó.
Mạnh dạn, Duyên nói: "Chào ông," rồi đứng yên lặng chờ đợi xem ông ta hành động ra sao.
Ông già chìa một bàn tay xương xẩu ra để nhặt con sóc bằng gỗ lên. Ông xoay đi xoay lại ngắm nghía chán chê rồi mới cất giọng ồ ồ nói.
"Cháu còn nhỏ tuổi mà đã khắc được như vậy là khá lắm. Ai dạy cháu vậy?"
"Thưa ông, chẳng có ai dạy cháu cả. Cháu tự khắc lấy đấy."
"Như vậy thì cháu là một thiên tài rồi. Cháu đáng được hưởng những dụng cụ điêu khắc lắm. Chỉ cần học thêm ít nhiều nữa là cháu có thể kiếm sống được rồi. Con sóc cháu khắc đây nom sống động lắm."
"Thưa ông, cháu chẳng có đồ nghề nào, mà cũng chẳng có tiền để mua sắm đồ nghề nữa."
Không nói ra lời, ông già chỉ ngoắc tay ra hiệu, và Duyên giống như một người đang sống trong mộng, từ từ đứng lên đi theo ông già qua khỏi khu rừng âm u. Hai người, một già một trẻ, lẳng lặng đi ngược lên ven núi cho tới khi đến căn nhà gỗ nhỏ là nơi ông già đang sống.
Căn nhà thật nhỏ bé, chật hẹp. Ngoài cái chuồng gỗ để nuôi gà, không còn một căn nào khác nữa. Con dê thì ở ngay trong bếp cùng với ông già, kể cả con mèo vàng đang ngồi liếm lông sưởi ấm ngoài ánh nắng. Phòng ngủ cũng dùng luôn làm phòng chứa cỏ khô, và ông già ngủ ngay trên những chiếc bao bố đặt trên đám cỏ khô dùng làm thức ăn cho con dê vào mùa đông.
Nhà bếp và phòng khách thật tồi tàn, nhưng bầy biện hết sức kỳ cục. Duyên nhận thấy có cái lò, cái thùng đựng sữa vắt và cái ghế đẩu, cái máng đựng cỏ cho súc vật ăn, cái bàn, một cái ghế dựa và một cái máy ép phó-mát. Nhưng khắp bốn phía chung quanh tường, cao khỏi tầm với của con dê, có những chiếc kệ trên bầy lủng củng những hình điêu khắc bằng gỗ, có hình nom rất đẹp, có hình thật thô, nhưng tất cả đều chứng tỏ là công trình của một nghệ sĩ có thiên tài.
Duyên nhận thấy có những hình con gấu, con bò, con Sơn-dương, con dê, con chó xù và con sóc. Có cả hình người, đàn ông và đàn bà, hình mấy chú lùn và hình trẻ em đang nhảy múa. Có những chiếc hộp, nắp hộp chạm khắc hình những bông hoa núi; và những cái đĩa ăn, vành đĩa chạm trổ những vòng hoa, nhưng đẹp hơn hết thảy là chiếc tàu Nô-ê với những hình thú vật xinh xinh đang tranh nhau nhảy xuống tàu. Mắt Duyên như dán vào chiếc tàu này; nó nhìn ngắm mãi, nhình ngắm mãi không thôi.
"Đấy chỉ là một thú tiêu khiển của ta," ông già nói. "Chúng bầu bạn với ta trong những chiều đông tháng giá. Này, cậu bé, nếu cậu chịu khó thỉnh thoảng đến thăm ta, ta sẽ dạy cho cậu cách sử dụng những đồ nghề điêu khắc."
Duyên háo hức ngẩng đầu nhìn lên. Cặp mắt sáng ngời, khuôn mặt rạng rỡ, nom nó không còn có vẻ gì xấu xí nữa.
"Thưa ông", nó ngập ngừng hỏi, "có phải ông bảo rồi đây con có thể tự kiếm ăn được không?"
"Phải" ông già đáp. "Ta có một người bạn chuyên bán những đồ điêu khắc bằng gổ với giá khá lắm. Ông ta đã bán hộ ta nhiều hình bằng gỗ nhưng có một số hình ta ưa thích nên giữ lại. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi ông ta sẽ bán hộ con những hình đẹp đẽ nhất con làm ra vì chẳng bao lâu nữa, con sẽ khắc chạm đẹp hơn nhiều với những đồ nghề của ta thay vì con dao của con."
Duyên vẫn còn ngẩng đầu lên chăm chú nhìn ông già. Lòng nó hát lên điệu nhạc biết ơn, vì nó thấy ông già hình như lo cho nó và quan tâm đến nó. Ít ra cũng phải có một người nào không làm nó sợ hãi và nghĩ tốt về nó chứ. Nó tự nhiên giơ tay nắm chặt lấy bàn tay ông già.
"Ô, cảm ơn ông," nó tha thiết nói. "Ông đối với con tốt quá!"
"Suỵt" ông già đáp. "Ta sống trơ trọi nơi nay, chẳng có ai làm bạn bè. Chúng ta có thể cùng nhau khắc gỗ."
"Cháu cũng vậy", Duyên đáp. "Cháu cũng trơ trọi chẳng có ai làm bạn bè."
Trong khi Duyên lội bộ băng rừng để về nhà, óc nó nẩy ra bao ý nghĩ, những chỉ có một ý nghĩ quan trọng hơn hết thảy. Nó sẽ làm cho bé Danh một chiếc tàu Nô-ê giống như chiếc tàu ông già đã làm, với hàng chục giống thú vật nhỏ-sư tử nầy, thỏ nầy, voi nầy, lạc đà và bò sữa nầy, và cả hình ông bà Nô-ê nữa. Khi nào nó làm xong, nó sẽ đi đến tận nhà ông Bình để tặng cho bé Danh kỷ vật ấy hầu chuộc lại lỗi xưa. Nhất định không ai có thể tặng bé Danh một vật đẹp hơn thế! Sau đó, có lẽ - có lẽ mọi người sẽ để cho nó được làm bạn lại với bé Danh như cũ.
Chỉ mới nghĩ đến đây, tim nó đã đập rộn ràng trong lồng ngực. Trong suốt hai tiếng đồng hồ vừa qua, nó đã hoàn toàn vui thỏa, và niềm vui thỏa ấy tồn tại mãi trong suốt tháng đường nó băng qua rừng, cho tới lúc nó không còn nhìn thấy cây cối, và xóm làng hiện ra bên dưới. Ngày mai nó sẽ phải trở lại trường học. Ngày mai nó sẽ lại cảm thấy cô độc và hãi hùng. Nhưng hôm nay nó đã kiếm được một người bạn tốt.
Sau đây, cứ mỗi tuần ba lần, sau khi tan học, Duyên lại phóng qua rừng thông tới ngồi trên bực cửa nhà ông già trên núi để cặm cụi gọt đẽo chiếc tàu Nô-ê. Được sử dụng những đồ nghề chuyên nghiệp có lưỡi sắc bén, Duyên thấy hứng thú vô cùng. Thật khác hẳn con dao lưỡi cùn của nó một trời một vực.
Ông già sửng sốt trước tài khéo của Duyên. Nhân số trong gia đình Nô-ê mỗi lúc một nhiều thêm. Mỗi lần lên núi với ông già, Duyên lại nghĩ ra một con vật mới để chạm khắc, và đoàn thú vật cứ mỗi lúc một dài thườn thượt.
Vào khoảng thời gian nầy còn có một hứng khởi khác cho Duyên. Có một vị thanh tra đến trường và mở ra một cuộc thi thủ công cho các học sinh. Về phía nữ, các cô tranh nhau đoạt các giải về chạm khắc gỗ. Nhiều cậu đã quen đẽo gọt gỗ trong những giờ rỗi rảnh, và có mấy cậu tỏ ra có khả năng sẽ trở thành khéo tay.
"Nhưng chẳng ai khéo được hơn ta", Duyên tự nhủ thầm trong lúc nó lủi thủi lê bước vào nhà. "Ta sẽ đoạt giải, rồi đây họ sẽ thấy rằng ta không phải hoàn toàn bất tài vô dụng, dù cho ta có học hành kém cỏi và dù chẳng ai thèm chơi với ta."
Ngày hôm ấy Duyên hứng khởi cất tiếng ca vang trên đường trở về nhà. Nó thấy nó đang bước lên lãnh giải trước sự ngạc nhiên sửng sốt của cử tọa và toàn thể học sinh trong trường. Có lẽ sau đấy mọi người sẽ có cảm tình với nó hơn.
Nó sẽ tạc một con ngựa đang phi, lông bờm phất phơ trước gió, lông đuôi vẩy dài và hai lỗ mũi phập phòng. Duyên vốn yêu thích ngựa, ông già trên núi đã tạc một con ngựa như vậy và Duyên đã ngắm nghía tác phẩm ấy mãi không chán mắt. Chiếc tàu Nô-ê đã chẳng còn bao lâu nữa sẽ xong, và sau đấy nó có thể bắt đầu tạc con ngựa được rồi.
Nó chạy thẳng một mạch lên nhà ông già trên núi để báo cho ông biết tin mừng. Ông rất hài lòng, và ông cũng tin chắc thế nào nó cũng đoạt giải.
"Nhưng tại sao cháu lại định tạc con ngựa?" ông già hỏi. "Cháu có thể đem dự thi chiếc tàu Nô-ê của cháu. Ta thấy chiếc tàu ấy cũng đẹp lắm rồi đối với một đứa trẻ vào tuổi cháu."
Duyên lắc đầu. Giọng cương quyết, nó nói, "cháu làm chiếc tàu ấy là để tặng người khác."
"Một tặng phẩm ư? Cho ai vậy cháu? Cho một đứa em của cháu ư?"
"Vâng, cho một đứa bé bị tật giơ chân không đi được."
"Thế ư? Tại sao em ấy bị tật vậy?"
"Nó té xuống dưới khe."
"Thật tội nghiệp! Nhưng sao nó bị té vậy?"
Duyên nín thinh một lúc không đáp. Óc nó bắt đầu nghĩ ngợi. Nó thấy ông già là bạn tốt của nó, và đối với nó tử tế qua nên nó nghĩ không nên che dấu sự thật nữa. Nó ngẫng nhìn lên và mạnh dạn nói:
"Vì lỗi tại cháu mà nó té. Cháu ném con mèo của nó xuống dưới khe. Nó leo xuống để cứu con mèo và bị té."
Vừa nói dứt lời nó hối ngay. Đáng lẽ nó không nên nói rõ chuyện ấy ra. Giờ ông già sẽ ghét bỏ nó và sẽ xua đuổi nó như nó đã từng bị mọi người khác xua đuổi.
Nhưng ông già không làm vậy, ông chỉ dịu dàng nói:
"Có phải vì vậy mà cháu bảo rằng cháu không có bạn không?"
"Vâng, đúng vậy!"
"Và cháu đang tính tặng chiếc tàu kia để chuộc lỗi với đứa nhỏ?"
"Vâng ạ."
"Cháu làm như vậy là tốt lắm! Muốn lấy lại tình yêu thương của ai không phải là một công việc làm dễ dàng. Nhưng cháu đừng nên nản chí. Những người kiên tâm trì chí trong việc thâu hái tình yêu thương, tìm thấy nhiều hạnh phúc hơn là khi đã thâu hái được rồi."
"Cháu thật tình không hiểu ông muốn nói gì," Duyên suy tư đáp.
"Ý ta muốn nói rằng nếu cháu đem đặt hết tình yêu thương vào việc làm của mình để dành cho kẻ không phải là bạn cháu, thường khi cháu sẽ bị thất vọng và nản chí, nhưng nếu cháu bền gan tiếp tục cháu sẽ tìm thấy hạnh phúc trong tình yêu thương kẻ khác, dù cho cháu có được yêu lại hay không. Có lẽ cháu cho là kỳ lạ khi thấy ta là một kẻ sống cô độc nơi đây, không yêu thương ai, mà lại đi nói về chuyện yêu thương, nhưng ta vững tin những điều ấy."
Tối hôm ấy Duyên làm xong chiếc tàu Nô-ê; mặt đỏ bừng, tim đập mạnh, nó tiến về hướng nhà ông Bình để trao tặng chiếc tàu trên đường đi trở về nhà.
Khi tới gần nhà ông Bình, nó tự nhiên đâm rụt rè hoảng sợ núp sau một thân cây. Không biết nó sẽ phải bắt đầu câu nói như thế nào? Làm sao phá tan được bầu không khí yên lặng? Nếu nó gặp được bé Danh một mình thì dễ dàng quá, nhưng con An có bao giờ xa lìa em nó ngoài những giờ học ở nhà trường đâu.
Chắc chắn mọi người sẽ tha lỗi cho nó khi họ nhìn thấy chiếc tàu Nô-ê! Nếu mọi người chịu vui lòng tha thứ lỗi cho nó và ban cho nó một cơ hội, nó sẽ tình nguyện đem dâng hiến phần còn lại của đời nó vào việc chuộc lỗi. Vừa hy vọng, vừa hồi hộp sợ hãi, nó bước ra khỏi chỗ nấp sau thân cây và tiến về phía nhà ông Bình.
Giường bé Danh đã được mang vào nhà, còn con An ngồi một mình ngoài hiên đang vá lại khuy áo cho ba nó. Duyên thu hết can đảm bước lên bực thềm chìa chiếc tàu Nô-ê ra.
"Tôi có cái này để tặng bé Danh," nó chỉ nói được đến đây rồi thôi, tiếng nói như mắc nghẹn trong cổ họng. Hai mắt chăm chăm nhìn xuống đất, nó đứng lặng chờ đợi.
Con An giật lấy chiếc tàu Nô-ê khỏi tay Duyên. Mặt nó tái nhạt vì tức giận.
"Mày dám vác mặt lại đây hả!" con An quát lớn. "Mày dám tặng quà cho bé Danh nữa hả! Cút ngay, đừng có bao giờ vác mặt lại đây nữa!"
Vừa nói, nó vừa thẳng cánh quăng chiếc tàu Nô-ê vào đống củi ở phía dưới. Tất cả những con vật nhỏ bé xinh xinh bắn tung ra khắp phía, trên đóng củi.
Duyên đứng trân trân nhìn con An. Một lúc sau, nó quay đi, lảo đảo bước xuống bực thềm. Thế là bao công trình, bao cố gắng của nó tan thành mây khói. Nó sẽ không bao giờ được tha thứ cả, thật là cả một thời gian dài phí phạm vô ích.
Lúc ấy lời nói của ông già trên núi chợt vang lên trong óc nó giống như một tia nắng nhỏ dọi chiếu vào trái tim đang đau xót giận hờn của nó.
"Những người kiên tâm trì chí trong việc thâu hái tình yêu thương thường tìm thấy nhiều hạnh phúc hơn là khi đã thâu hái được rồi."
Phải, có lẽ ông già nói đúng. Nó đã chẳng thâu hái được gì cả, nhưng ít ra nó đã được hưởng niềm vui sướng trong khi làm chiếc tàu Nô-ê và trong khi nghĩ đến nỗi vui của bé Danh. Có lẽ, nếu nó cứ kiên tâm và tiếp tục đặt tình yêu thương của nó vào công việc làm, một ngày kia sẽ có người vui lòng chấp nhận quà tặng của nó và yêu thương nó nữa.
Nó không biết chắc… nhưng nhất định nó sẽ không thất vọng vội.
Cho tới khi mùa cắt cỏ bắt đầu ở những cánh đồng quanh nhà, Duyên có rất nhiều thì giờ rỗi rảnh sau buổi học ở trường. Trong thời gian nầy, hầu như ngày nào nó cũng tìm lên núi để bầu bạn với ông già.
Nó đã tạc gần xong con ngựa gỗ. Đối với một đứa trẻ bằng tuổi nó thì đây quả là một tác phẩm nghệ thuật đáng giá. Con ngựa hình dáng lớn hơn là nó dự định lúc trước. Bờm ngựa tung bay trước gió, còn bốn vó như lướt trên mặt đất. Khi nhìn ngắm con ngựa, người ta nghĩ ngay đến một cái gì tượng trưng cho tốc lực và vẻ mềm mại uyển chuyển. Duyên đã mất nhiều công phu thì giờ vào con ngựa này. Nó đi quan sát mọi con ngựa trong khu vực quanh nhà để có thể ghi lại được chính xác mỗi đường gân thớ thịt.
Nó vẫn còn dư nhiều thì giờ, vì mãi đến hết ngày nghỉ làm mùa cỏ khô, nhà trường mới tổ chức cuộc chấm và phát giải thưởng. Tuy vậy, học sinh trong trường cũng đã bắt đầu bàn tán và phỏng đoán xem ai trúng giải.
Hầu hết nam sinh ủng hộ Mẫn, con trai ông già đưa sữa. Mẫn tạc hai con gấu đang leo lên một cây cột. Nó làm việc hăng lắm, và tác phẩm của nó cũng khá; tuy nhiên, theo Duyên nghĩ, người ta dễ dàng nhầm hai con gấu của nó với hai con chó hoặc với bất cứ con vật nào khác. Duyên nghĩ thầm vậy trong khi đứng nhìn ngắm tác phẩm của Mẫn, nhưng những đứa trẻ khác thì ca tụng rầm rầm.
"Con ngựa của ta thì không ai có thể nhầm lẫn được," Duyên nghĩ: "Nó là một con ngựa, và chỉ làm một con ngựa không hơn không kém." Nhưng ai nghĩ đến chuyện Duyên có thể đoạt giải, vì ngoài thầy giáo ra không ai biết nó đã đăng tên dự thi. Tính nó cả thẹn nên không dám kể lễ với mọi người; ngoài ra nó cũng còn sợ cái vẻ mặt khinh khỉnh và phớt tỉnh của các bạn nó nữa. Nhưng giờ đây, đứng nhìn hai con gấu của Mẫn, nó biết chắc là nó sẽ thắng. Không ai đoạt giải nầy của nó được. Nó hình dung thấy nó đang bước lên lãnh giải; mọi cặp mắt đều hướng về nó, ngạc nhiên và thán phục. Sau đây mọi người sẽ chú ý và muốn xem con ngựa của nó - và có lẽ nó sẽ được mọi người dành cho nhiều cảm tình hơn. Nghĩ đến nó mặt đỏ bừng.
Về các tác phẩm thi của nữ sinh, có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Chị Măng làm đăng-ten rất đẹp, vì nhà chị có cửa tiệm làm đăng-ten, và chị đã tập làm đăng-ten từ khi mới năm tuổi. Má chị Lan là thợ may nên chị đã được dạy dỗ trong nghề từ khi còn nhỏ. Còn An thì là một cô bé có tài đan lát. Nội nó đã dạy nó đan những khi nó không phải đi học. Nó ngồi trên chiếc ghế đầu nhỏ, vừa trông chừng bé Danh vừa lẹ làng điều khiển mũi kim đan. Nội nó ngồi gần đó trong chiếc ghế bành, sẵn sàng chỉ bảo thêm mỗi khi cần thiết.
Tác phẩm mà An đưa dự thi là một chiếc áo len màu xanh thẩm nó đang cho bé Danh mặc vào những ngày Chúa nhật và ngày lễ. Quanh cổ áo và eo áo có đan những bông hoa núi màu sắc tươi sáng, rực rỡ. Nó chưa đan xong hẳn chiếc áo, nhưng đã là một tác phẩm đầy hứa hẹn, ai nấy đã trầm trồ khen ngợi khi thấy nó ngồi đan trong sân.
Các bạn nó nói, "Tao chắc giải nhất về tay mày rồi đấy, An ạ!" Rồi chúng tiếp, "Mọi người đều bảo làm cái áo như kiểu mày còn khó hơn làm đăng ten như kiểu con Măng nhiều."
Chính An cũng tràn trề hy vọng. Nó cần phải đoạt giải này quá. Vì có thế nó mới bù lại được những điểm kém về toán học. Hơn nữa, nếu nó đoạt giải, nội nó, ba nó và bé Danh sẽ hãnh diện sung sướng biết bao.
Tuy nhiên, không giống như Duyên, con An có rất ít thì giờ, vì ngoài giờ học ở trường ra nó luôn luôn bận rộn. Nay ngày nghỉ để cắt cỏ đã bắt đầu, tất cả trẻ con phải làm việc cùng với người lớn ở ngoài đồng từ sáng sớm đến tối mịt.
Vào mùa cắt cỏ, nhiều gia đình thường phải dàn xếp với nhau cho công việc được ổn thỏa. Một ông láng giềng đã có con trai lớn giúp đỡ công việc trong trại thì lên cánh đồng cỏ trên núi để chăm nom giùm đàn bò của ông Bình, còn chính ông Bình thì đi xuống cắt cỏ ở sườn đồi của mình. Sau khi cắt xong, ông vẫn sang cắt hộ cỏ trên đất của bà Mầu, vì bà Mầu là góa phụ, mà Duyên thì chưa đủ sức để sử dụng lưỡi hái.
Ở sườn đồi dốc đứng này không có máy kéo và máy xén, chỉ có những lưỡi hái cong cong xén cỏ soàn soạt ngoài đồng. Mỗi lần lưỡi hái đưa đi là có một số hoa đồng cỏ dại bị cắt xén đến tận gốc. Đi sau người đàn ông cầm lưỡi hái là đàn bà và trẻ con cầm bồ cào tí hon, vì không ai-ngoại trừ những đứa nhỏ quá chưa đi đứng vững-là không phải phụ giúp vào việc cắt cỏ để làm cỏ khô.
Ông Bình và con An ra sức làm việc. Họ có một khoảng đồng cỏ rộng lớn nơi sườn đồi, và họ không đủ tiền để mướn nhân công. Hai cha con thức giấc lúc trời mới rạng đông, trong khi khí hậu mát mẻ của sương sớm còn vương đọng trên hoa, và gà trong thung lũng vừa bắt đầu lên tiếng gáy. Lúc trời đã sáng rõ, nội và bé Danh mới theo họ ra đồng-Nội thì làm một cách khó khăn chậm chạp, còn bé Danh thì chẳng làm gì cả, vì nó không thể sử dụng cái bồ cào cùng một lúc với cái mạng gỗ. Nó chống nạng nhảy từng bước trong chỗ cỏ mới cắt, hoặc vùi mình trong đám cỏ đã đánh thành đống. Khi đã chơi chán và mệt, nó nằm ngửa trong ánh nắng ấm áp và ngủ thiếp đi theo nhịp điệu của lưỡi hái.
Ông Bình cắt cỏ ở vườn nhà ông trước hết, rồi mới tạt sang cắt cỏ trong vườn của bà Mầu. Việc cào cỏ lại thành đống, ông giao cho những người trong gia đình ông làm. Năm nay bà Mầu có chiều hơi thắc mắc, chỉ sợ vì thù hận mà ông không chịu sang cắt cỏ hộ nhà mình. Nhưng bà lo ngại điều ấy là thừa. Mội buổi sớm mai, thức giấc dậy, đứng nơi cửa sổ, bà nhìn thấy ông đang chăm chú làm việc. Cái lưng bóng nhẫy của ông đu đưa theo nhịp của lưỡi hái.
"Duyên ơi, mau lên", bà Mầu kêu, "Ông Bình đang cắt cỏ ở ngoài vườn rồi đấy-chạy mau ra và phụ ông chất đống lại đi."
Duyên vội chạy ra đồng. Nó ngượng nghịu chào ông Bình, hai mắt nhìn gián xuống đất. Nó thật chẳng làm việc với ông Bình, vì nó đã làm điều trái quấy đối với ông. Nó cố sức tránh xa ông, còn ông Bình thì đang bận việc cũng chẳng thiết gì chuyện trò. Vả lại, cắt cỏ hộ cho người láng giềng là một việc, còn nói chuyện với bé đã làm gãy chân con ông lại là một việc khác hẳn.
Vào giữa trưa, con An mang thức ăn đến cho ba nó, gói trong một khăn tay. Nó làm ngơ không để ý đến Duyên, còn Duyên khi nhìn thấy nó đi tới vội lủi ngay vào nhà.
Phải mất ba ngày, ông Bình mới cắt hết cỏ trong vườn nhà ba Mầu. Ngày thứ ba lại là một ngày nghỉ chót. Duyên, má nó và chị nó đang bận rộn quét dọn ngoài đồng trước khi Duyên phải trở lại trường học. Cả ba người đều ở hết ngoài đồng khi con An mang cơm tới cho ba nó như thường lệ. Nó cũng vội vã vì ngày hôm sau học sinh trong trường đã phải đem nộp các món đồ thủ công dự thi rồi, mà nó vẫn chưa xong hoàn toàn chiếc áo.
"Không biết mình có giật được giải ấy không?" An tự hỏi thầm. "Mình muốn lắm-nhưng dù cho không được đi nữa, bé Danh cũng vẫn có thêm một cái áo đẹp để mặc."
Đồng cỏ ở phía sau nhà Duyên. Trên đường về, An phải đi qua cửa trước nhà Duyên. Bữa ấy trời nóng nực, An thấy khác nước. Cái cửa dẫn từ hàng hiên vào nhà bếp vẫn để ngỏ như đang mời chào nó bước vào.
"Mình hãy vào đây uống một ly nước ở vòi máy đã." An vừa nói thầm vừa bước lên bực thềm. Việc nó làm không có gì lạ cả. Trước khi tai nạn xảy ra, nó vẫn vô ra bếp nhà bà Mầu như ở nhà nó vậy.
Nó leo hết bực hàng hiên bỗng đứng sửng lại trố mắt nhìn.
Ngay sát bên cạnh bao lơn có một cái bàn nhỏ, trên mặt bàn có những dụng cụ chạm khắc gỗ và những mảnh gỗ vương vãi. Giữa đám mảnh gỗ có hình một con ngựa đang phi, lông bờm buông về đàng sau, bốn vó như lướt trên mặt đất.
An đứng sửng ngó con ngựa mất đến năm sáu phút. Óc nó không ngừng làm việc. Đây nhất định là món đồ dự thi của Duyên rồi. nhỏ gớm thật! Nó chẳng hề nói cho ai biết việc nó dự thi, mà cũng chẳng cho ai biết nó có tài chạm gỗ.
Con ngựa gần như tuyệt hảo! Đến như con An đang ganh ghét với Duyên là thế mà vẫn phải nhận con ngựa là đẹp. Nếu như nó đem món đồ này đi dự thi, chắc nó đoạt giải mất. Chẳng còn ai tranh lại được với nó.
Sau khi nó đoạt giải, mọi người sẽ bắt đầu thán phục tài nó, và không chừng nhờ đó nó sẽ được mọi người thương mến. Có khi người ta còn quên cả cái việc nó đã làm bé Danh bị què nữa.
"Nếu Duyên đoạt giải, tất nó sẽ vui sướng như mở cờ trong bụng. Nó sẽ vênh vang bước lên lãnh giải trước một đám đông cử tọa. Chỉ nghĩ đến cảnh Duyên vênh vang vui sướng cũng đủ làm cho con An tức không chịu được. Tại sao nó lại được phép vui sướng? Không, không, nhất định nó không được phép vui sướng trở lại. Cơ hội may mắn đã tới, con An không thể chần chừ được nữa.
Cái bàn kê ngay sát lan-can hàng hiên. Một trận gió thổi tới làm tung bay những mảnh gỗ nhỏ nhẹ. Nếu là một trận gió lớn hơn, con ngựa gỗ chắc sẽ bị thổi lộn nhào; sẽ không một ai ngờ vực gì hết khi họ thấy con ngựa gỗ bị rơi gẫy và giẫm nát trong đám bùn đất dưới kia.
Nghĩ đến đây, An liền đưa tay hất cho con ngựa gỗ rơi xuống. Nó đụng vào đá với một tiếng rắc khô khan. An nhảy vội xuống bực thềm, dùng chân dẫm mạnh lên nó-phải, ai chẳng có thể vô tình dẫm lên một vật bị gió thổi từ cao rớt xuống.
Thế là con ngựa của Duyên bị gãy ra từng mãnh nằm lẫn lộn trong đám đất đá. Xong việc, con An thong thả bước về nhà.
Tuy nhiên, không hiểu sao trời tự nhiên mất đi ánh sáng, và cảnh vật nom không còn vẻ tươi đẹp như lúc trước nữa. An bâng khuân không hiểu tại sao, vì lúc ấy không hề có một áng mây che khuất mặt trời.
Một lát sau An đã về gần tới nhà nó ở. Lúc nó rẽ chỗ đường quẹo thì bé Danh nhìn thấy vui mừng reo lớn. Nó vừa gặp một chuyện lạ, và thú vị quá. Nếu là một đứa trẻ bình thường, tất nó đã chạy vù ra để khoe chị nó rồi. Nhưng đàng này, nó là một đứa bé què chân nên nó chỉ có thể chống nạng khập khiểng leo lên đồi.
"Chi An à," nó gọi lớn, cặp mắt long lanh. "Em chắc trong đóng củi có bà tiên chị à! Em làm một cái nhà nhỏ sau đống củi và em bắt gặp một con voi bé tí ti, có cả một cái vòi dài. Em kiếm nữa và em lại thấy một con lạc đà có bướu, một con thỏ tai dài. Em thấy cả bò, dê, cọp và một con hươu có cái cổ dài thật là dài. Chị An nè, đến đây em cho xem. Chị ơi đẹp quá. Chắc các bà tiên đã để chúng sau đống củi, phải không chị?"
"Tao không biết," con An đáp, giọng cáu kỉnh. Bé Danh ngạc nhiên ngẩng lên nhìn chị. Hình như chị nó chẳng hài lòng chút nào với cái tin này. Riêng đối với nó thì kể từ ngày nó gặp con Mướp trong chiếc vớ của nó dịp lễ Giáng sinh, đây là một điều vui mừng nhất xảy đến cho nó.
Tuy nhiên, để khi chị nó nhìn thấy những con vật kia, chắc chị nó sẽ hài lòng, chị nó chưa biết chúng xinh đẹp biết bao. Nó khập khiểng cố bước theo chị nó, vì lúc ấy con An bỗng đi nhanh khác hẳn những ngày thường có nó đi theo bên cạnh.
Nó kéo chị nó tới chỗ đống củi, rồi cúi xuống lôi từ trong một hốc củi ra một đoàn tượng thú vật bằng gỗ mà nó đã bày ngay ngắn trên một miếng củi phẳng. Nó hồi hộp nhìn chị nó, chờ đợi. Và khi thấy chị nó không để lộ ra một vẻ ngạc nhiên hay vui thích nào trên nét mặt, nó hoàn toàn thất vọng.
"Tao đoán có đứa trẻ nào vứt chúng ở đây," con An gằng giọng nói. "Mà việc gì mày phải làm ồn như vậy; chúng có gì là đẹp đẽ đâu. Tuổi mày cũng đã lớn rồi, không còn phải tuổi tin những chuyện thần tiên nữa."
Dứt lời, con An quày quả bước lên bực thang. Nó thấy bực mình ngay với chính nó. Nó đã làm buồn lòng bé Danh, phá tan niềm vui sướng của em nó. Sao nó có thể đối xử nói năng với em nó như vậy? Thật nó thấy bực mình với nó quá!
Tuy nhiên, trong sâu thẳm đáy lòng nó, nó biết rõ tại sao nó đã hành động như vậy. Nó đã làm một việc dối trá, đê hèn, và ngay ý nghĩ ấy dày vò tâm can nó. Tất cả niềm vui và ánh sáng hình như đã ra khỏi cuộc đời nó và chỉ để lại bóng tối nặng nề.
Giờ nó không còn thế nào xua đuổi hoặc sửa chữa được nữa. Nó chạy vội lên lầu, xô cửa vào phòng ngủ và nằm vật xuống giường khóc nức nở.