A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Convert: muacauvong
Chuyển ngữ: cún con say sữa
Tình trạng: Full
Tổng số chương: 153 chương + 1 phiên ngoại
Giới thiệu đơn giản
Cha mẹ A Mạch xuyên qua quá khứ, chỉ có duy nhất một người con gái là A Mạch. A Mạch có mối quan hệ gắn bó mật thiết với người con nuôi của cha mẹ. Đáng tiếc, chỉ trong một đêm mà tan cửa nát nhà……
“Một năm nọ, trong một ngày hè ấm áp, nàng cùng hắn ở dưới gốc hòe, cùng mặc sức tưởng tượng về tương lai: có non xanh, có nước biếc, có một thị trấn nho nhỏ, có chàng – có thiếp……
Ai có thể đoán được chỉ vài năm sau, hắn đã trở thành một danh tướng, danh chấn tứ quốc, vinh hạnh được công chúa yêu thương……
Mà cũng đâu có ai ngờ được nàng tòng quân lưu lạc, trưởng thành trong sương gió, trở thành một vị “Chiến thần” được người đời tôn kính, ngưỡng mộ……
Rồi một ngày nào đó, gặp lại nhau trên chiến trường, bọn họ nên làm như thế nào đây?
*******************
Mưa gió quay cuồng, máu nhuộm tịch dương, trống trận vang trời; mơ một ngày quay trở về cố hương, lệ thấm đẫm ánh trăng, đừng cười ta say.
Huynh đệ nghĩa nặng, nữ nhân tình trường, chúng ta là ngọn thương vươn cao đón gió.
Mưa bụi Giang Nam, khói báo động nơi đại mạc (1), dùng sinh mệnh của ta đổi lấy hạnh phúc trường tồn vĩnh viễn của giang sơn.
Ân oán khắc sâu, yêu hận khó giải, dùng sinh mệnh của ta có thể xóa bỏ được hay không?
Chúng ta ưỡn ngực, ngẩng cao đầu.
*********************
Cuốn sách này thuật lại hết thảy câu chuyện về một người con gái giả nam trang tòng quân đánh giặc, về chiến tranh, về triều đình, về tướng quân, về hoàng tử……
Cuốn sách này ngoại trừ nữ chính, tuyệt đại bộ phận nhân vật còn lại đều là nam nhân, trong đó có vô số loại nam nhân, tốt có, bại hoại có, chỉ có điều tất cả đều là người thực tế, không ai vì một người con gái mà phải sống, phải chết. Trong lòng họ, mãi mãi không có gì trọng yếu bằng giang sơn, danh lợi so với tình yêu vĩnh viễn có sức mê hoặc lớn hơn……
Có bạn hỏi chẳng lẽ trong câu chuyện này không có tình yêu sao? Đương nhiên là có, nhưng chẳng lẽ cứ phải sống chết bên nhau thì mới gọi là tình yêu?
_________________
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ NHẤT: Phong vân khởi dã mạch sạ phiêu hương
(Gió thổi mây bay khiến hương lúa mạch nơi đồng nội bắt đầu bay đi)
...:::...
Chương 1: A Mạch
Kêu oan, cũng cần phải có kỹ xảo…
A Mạch[1] sinh ra vào tháng năm, đúng thời điểm vụ lúa mạch năm ấy mất mùa. Mẹ A Mạch mới từ quỷ môn quan lắc lư trở về, suy yếu trợn mắt nằm ở trên giường, sắc mặt vẫn tái nhợt, hướng cha A Mạch ôn nhu nói: “Mình mau đặt tên cho con đi!”
[1]. A Mạch: mạch nghĩa là lúa mạch; cái tên này cũng giống như tên Lúa của Việt Nam.
Cha A Mạch nhẹ nhàng ôm A Mạch trong tay, hết nhìn trái lại nhìn phải, thật là khó xử, đột nhiên trong đầu chợt lóe lên một tia sáng, kinh hỉ nói lớn: “Mạch Đâu[2] ! Gọi là Mạch Đâu đi!”
[2]. Mạch Đâu: là phiên âm của Mc Dull, tên một chú lợn trong một sản phẩm phim hoạt hình nổi tiếng của Hồng Kông. Cha mẹ A Mạch xuyên không, có lẽ có liên quan đến đại dịch cúm heo nổi tiếng cũng ở Hồng Kông, A Mạch lại sinh vào năm Hợi (heo), cho nên cha A Mạch mới nghĩ ra cái tên này. Chú ấy đây:
“Mạch Đâu?” Mẹ A Mạch kinh ngạc nhìn chồng, nhất thời không thể phản ứng được gì.
Nét kinh hỉ trên mặt cha A Mạch vẫn không giảm, đem A Mạch nhẹ nhàng đặt lên giường, đứng dậy kích động khoa tay múa chân nói: “Mình đã quên rồi sao? Chính là đại dịch cúm heo ở Hồng Kông năm đó, ha ha, ta họ Mạch, năm nay lại là năm heo, không gọi là Mạch Đâu thì thật đáng tiếc nha! Ha ha.”
Còn cười chưa xong thì một vật thể bay không xác định đã nhằm thẳng mặt cha A Mạch mà bay tới, dính luôn ở trên mặt.
Mẹ A Mạch mắng to: “Anh mới là đồ Mc Dull!”
Cha A Mạch ngượng ngùng kéo cái tã trên mặt xuống, vẻ mặt chột dạ nhìn mẹ A Mạch, nhỏ giọng hỏi: “Vậy mình muốn đặt tên con là gì?”
Mẹ A Mạch ngẩn ra, gọi là gì bây giờ? Nàng biết thì còn hỏi chồng làm gì? Lúc mang thai thì cả hai vợ chồng đều âu yếm xoa bụng gọi là cục cưng, nhưng nay sinh con ra rồi, chẳng lẽ gọi là Mạch Cục Cưng?
Hai vợ chồng còn đang trầm mặc, thì chợt nghe tiếng Ngưu Nhị ở thôn trên gọi to ngoài sân: “Mạch chưởng quầy, lúa mạch nhà ông, ta đem hết vào trong viện a, năm nay thu hoạch hạt lúa chắc mẩy, mạch tuệ[3] đều rất lớn, rất lớn!”
[3]. Mạch Tuệ: tuệ nghĩa là bông lúa, mạch tuệ nghĩa là bông lúa mạch.
Mạch tuệ? Hai vợ chồng như thể tâm linh tương thông, không hẹn mà cùng gật đầu lia lịa, vì thế, đại danh của A Mạch là Mạch Tuệ!
Về sau A Mạch nghĩ lại, nếu lúc ấy Ngưu Nhị không kêu là mạch tuệ mà kêu là đông qua[4] , phải chăng tên của nàng sẽ không phải là Mạch Tuệ nữa mà sẽ là Mạch Đông Qua[5] ? Khi được năm tuổi, nàng đem này nghi vấn này ra hỏi mẹ nàng, lúc ấy đang đứng bán rượu, mẹ A Mạch xoa xoa tay lên tạp dề, sau đó cười ngượng ngùng, nói: “Cái con nhỏ này, làm sao mẹ lại có thể đặt tên con là Đông Qua được? Tên là Mạch Tuệ rất hay mà! Mỗi lần đọc lên lại thấy quê cha đất tổ giàu có cỡ nào! Cha mẹ phải suy nghĩ rất lâu mới nghĩ được một cái tên đầy ý nghĩa như thế đặt cho con đấy!”
[4]. Qua: dưa, chỉ các loại quả có thân dây leo nói chung như bầu, bí, mướp, dưa chuột, su su…
[5]. Đông Qua: bí đao.
A Mạch tất nhiên là không tin, nàng vô cùng hy vọng cha mẹ sẽ sinh thêm một tiểu muội muội hoặc tiểu đệ đệ, lúc đó nàng muốn xem cha mẹ mình có thể nghĩ ra được cái dạng tên gì.
Nương tử Trần gia bán đậu hũ ở nhà bên cạnh, từ bụng lớn hóa bụng nhỏ, rồi lại từ bụng nhỏ hóa bụng lớn, sau đó những đứa nhỏ Trần gia lần lượt được sinh ra rồi lớn lên, mà bụng của mẹ A Mạch vẫn không có biến chuyển gì. A Mạch thường xuyên xem xét bụng mẫu thân đến ngẩn người, mong ngóng cái bụng này cũng có thể lớn lên một chút. Đến một ngày nọ cũng bị mẫu thân phát hiện ra, liền hỏi: “A Mạch, con nhìn gì thế?”
A Mạch nói: “Mẹ à, sao trong bụng mẹ không có tiểu đệ đệ?”
Lần này, mẹ A Mạch không trả lời, chỉ mỉm cười xoa xoa đầu của nàng.
Đêm đó, trong lúc A Mạch đang mơ mơ màng màng, chợt nghe thấy tiếng thì thầm từ phòng của cha mẹ bên cạnh truyền đến.
Mẹ A Mạch nói: “Mình sinh thêm một đứa đi, A Mạch chỉ có một mình rất cô độc, ngay cả chị em bầu bạn cũng không có.”
Thanh âm cha A Mạch tuy nhỏ nhưng rất kiên định: “Không được, nơi này thiếu thầy thiếu thuốc, nếu lại sinh khó như lần trước thì phải làm sao bây giờ? Vạn nhất có điều gì không hay xảy ra cho mình, mình bảo ta phải làm sao mà sống được ở cái thế giới này?”
Sau một lúc lâu, mẹ A Mạch mới kín đáo thở dài, nói: “Vợ chồng mình còn có đôi có lứa mà nương tựa lẫn nhau. Nhưng còn A Mạch? Sau này chúng ta đều chết đi, thì A Mạch phải làm sao? Chẳng lẽ gả nó cho một nam nhân ở cái thế giới này sao?”
Cha A Mạch không nói gì, chỉ gắt gao ôm mẹ A Mạch, suy nghĩ nửa ngày mới an ủi nói: “Nếu không chúng ta nhận nuôi thêm một đứa bé trai nữa vậy, cùng A Mạch nuôi lớn, như vậy sau này cũng có thể chiếu cố cho A Mạch, mình xem như vậy có được không?”
……
Đương nhiên, đây là chuyện của mười mấy năm về trước.
Hiện tại, A Mạch đang ngồi trong một quán trà bên đường ở sát chân núi, cố sức cắn một miếng lương khô, sau đó lại ngẩng đầu lên lớn tiếng gọi: “Tiểu nhị, thêm một bình trà!”
Bên cạnh truyền đến tiếng quan quân cưỡi ngựa phóng qua, bụi đất trên đường bị gió cuốn mù mịt.
“Ôi dào, gần đây thường thấy quan quân chạy qua, không phải là lại có chiến tranh ở phương Bắc đấy chứ?” Ông chủ quán trà thấp giọng thở dài.
A Mạch lấy tay che bát nước trà lại, híp mắt nhìn người cưỡi ngựa đã biến thành một điểm nho nhỏ màu đen biến mất ở xa xa. Phương Bắc có chiến tranh sao? Đánh thì cứ đánh đi, chẳng quan hệ gì tới nàng! Dù sao nàng cũng đi về hướng Nam.
Từ quán trà này đi về hướng Nam chính là một tòa thành nhỏ. Lúc A Mạch đến cửa (thành) Bắc, mặt trời vừa qua khỏi đỉnh đầu, nàng ngửa đầu nhìn nhìn tòa thành bị ánh mặt trời chiếu rọi, hiện rõ hai chữ: Hán Bảo, chỉ cảm thấy trong bụng vừa đói vừa khát, đang không ngừng kêu réo ọc ạch, đành đưa tay thắt chặt lại lưng quần.
Cái bánh kia đúng là không chống đỡ được với cơn đói, sớm biết thế này sẽ không uống nhiều nước trà như vậy!
A Mạch cúi thấp đầu đi vào trong thành, còn chưa vào được bên trong thì đã bị một tên lính gác lôi xuống, dò xét A Mạch, quát hỏi: “Từ đâu đến?”
“Từ phương Bắc.” A Mạch thành thật trả lời.
“Muốn đi đâu?”
“Đến phía Nam.”
Tên đầu mục tựa hồ cũng thấy A Mạch trả lời có chút không thích hợp, nhưng lại nhất thời không biết không đúng ở chỗ nào, một tên lính liền chạy lại, nhỏ giọng nói: “Đầu mục, vừa thấy tiểu tử này đã thấy không ổn rồi, vóc người cao như vậy, lại trắng nõn như đàn bà, có khi là thám tử phương Bắc!”
Tiểu đầu mục đưa ánh mắt cao thấp đánh giá A Mạch, càng nhìn lại càng cảm thấy tiểu tử này kỳ quái, vóc dáng cao gầy, hơn nữa búi tóc lại ngắn như vậy, làm sao mà ra dáng nam nhân cho được, rõ ràng chính là người dị tộc!
Kỳ thật A Mạch không được tính là quá cao, chỉ bảy thước[6] là cùng, chiều cao này ở thời đại của cha mẹ nàng nhiều lắm thì tính là cao gầy, nhưng ở thời đại này, đừng nói so với các nữ nhân đã là hạc trong bầy gà, mà ngay cả so với nam nhân cũng được xem như là hơi cao.
A Mạch thấy mình cao hơn cả nửa số binh sĩ ở đây, trong lòng thầm cảm thán: mẹ nói thật đúng. Con người ở thời đại này chế độ dinh dưỡng thật kém, ngay cả mục đầu này cũng chỉ tầm sáu thước, so với cha mình thì vẫn còn kém xa.
Tiểu đầu mục đi vòng qua A Mạch một vòng, đột nhiên lớn tiếng quát: “Đến đây! Đem thằng nhãi này trói lại cho ta!”
Mấy tên lính như hổ, như sói lập tức vậy quanh A Mạch, A Mạch chưa kịp phản ứng gì đã bị trói gô lại, nàng cúi đầu nhìn dây thừng trên người, dở khóc dở cười, vội vàng nói: “Các vị quân gia, hiểu lầm rồi, hiểu lầm rồi, ta là lương dân a, sao có khả năng thành thám tử được? Không tin ngài đem ta thả ra, ta lấy giấy thông hành cho quân gia xem!”
Nhưng những tên lính này đâu chịu nghe A Mạch giải thích, liền đẩy nàng hướng vào trong thành, đi đến nửa đường, vừa lúc gặp vài quân sĩ khác đang vây quanh một viên tướng trẻ tuổi tiến lại gần, binh sĩ áp giải A Mạch cuống quít đi lên, hướng viên tướng trẻ tuổi hành lễ nói: “Đại nhân, mới bắt được một thám tử phương Bắc!”
A Mạch vội la lớn: “Oan uổng quá, tiểu dân oan uổng, tiểu dân là thương nhn đi về phía Nam, trên người có giấy thông hành của phủ Định Châu a!”
Thanh âm nhất định phải lớn mà có chứa âm rung, khuôn mặt nhất định phải chân thành mà giàu biểu cảm, tốt nhất là phủ phục trên mặt đất thể hiện sự trung thành của mình, đây là chuyện mà mẹ A Mạch đã từng dạy nàng, khi kêu oan phải đặc biệt chú ý. A Mạch rất là chú ý những điểm này, nhưng lại thấy bộ dạng phủ phục xuống đất thật giống chó ăn phân, cho nên A Mạch lựa chọn tư thế đứng để kêu oan.
Quả nhiên, tầm mắt của viên tướng trẻ tuổi kia đã bị A Mạch thu hút, A Mạch thấy viên tướng kia nhìn về phía mình, vội cuống quít nói liên thanh: “Tướng quân minh xét! Tiểu dân thật là oan uổng!”
Viên tướng trẻ tuổi kia bất quá chỉ là một giáo úy nho nhỏ, nghe A Mạch liên thanh gọi hắn là tướng quân, trên mặt đã có chút dịu đi, bất quá không để ý tới A Mạch, chỉ hỏi binh sĩ áp giải vài câu, liền phân phó đưa A Mạch đến đại lao trước rồi nói sau.
A Mạch thầm kêu không hay rồi, vừa mới tới đây đã bị tống ngay vào đại lao chịu tai ương, đâu biết rằng chính mình đang dạo chơi trước cửa Quỷ Môn Quan. Trong lúc bối cảnh giữa Nam Hạ cùng Bắc Mạc đang hết sức căng thẳng, chỉ cần bị nghi là thám tử thì ngay cả thẩm tra cũng không cần, đều là chém cho xong việc, nên nàng bị đưa vào đây xem như là mất mạng.
Vô luận là ở triều đại nào, thức ăn trong đại lao đều rất thiếu thốn.
A Mạch bắt đầu hoài niệm cái bánh khô khốc ở ngoài thành Hán Bảo, vừa ăn vừa chiêu với nước trà mới có thể đưa xuống đến dạ dày, có thể nghe được trong bụng phát ra tiếng than dài. Đương nhiên, hiện tại bụng của nàng cũng đang lên tiếng, âm thanh kêu réo từ trong bụng truyền ra có chút buồn bã, khi lọt vào lỗ tai, nghe mà không thể nào thấy thoải mái nổi, A Mạch chỉ đành nắm thật chặt lưng quần.
Đương nhiên bắt đầu từ bây giờ thức ăn sẽ cực kỳ khó nuốt, nhưng nàng mặc kệ, cứ phải ăn no đã, tốt xấu gì cũng duy trì được nhu cầu tổi thiểu nhất của bản thân. Cũng không biết vì sao, từ hai ngày trước đột nhiên không thấy phát đồ ăn nữa, chỉ có chút nước, mà phải cầu nửa ngày mới được một ít. A Mạch mơ hồ cảm thấy có điều gì đó không thích hợp, quả nhiên, đeo gông ngồi đại lao đến ngày thứ mười một, sai dịch dẫn một tên đầu lĩnh hung thần ác sát tiến vào, sau khi sai dịch mở cửa, tên đầu lĩnh không nói hai lời, trước hết chém bay đầu một phạm nhân, giơ cao thanh đao đẫm máu quát: “Thát tử Bắc Mạc đã đến, kẻ nào không muốn chết liền theo ta ra ngoài thủ thành, phàm ra sức giết địch đều có thể tha tội! Ai đi?”
Đại lao yên lặng như tờ, một lát sau, A Mạch là người đầu tiên giơ tay kêu lớn: “Ta đi! Vì nước giết giặc!”
Thật nực cười! Trước đó, ai không đi sẽ bị bọn họ chém chết tại đại lao, nếu đi không chừng còn có đường sống! Khi A Mạch vung tay hô lớn: “Vì nước giết giặc”. Lập tức cân não của những phạm nhân nhân bắt đầu chuyển động, cũng cuống quít giơ tay hô lớn: “Vì nước giết giặc!” Trong lúc nhất thời, tình cảm của quần chúng trong đại lao trở nên phấn chấn, nhiệt tình ái quốc tăng vọt chưa từng có, không giống như một đám trộm cướp tạp nham, cặn bã, giờ này rõ ràng đã trở thành một đám nam nhi nhiệt huyết bừng bừng!
Viên đầu lĩnh rất vừa lòng, cấp cho các phạm nhân mỗi người một cây gậy gỗ, rồi đưa bọn họ vượt qua tường thành.
…… Mạch soái thuở hàn vi, khi ngao du ngang qua thành Hán Bảo, bị vu là gian tế Bắc Mạc, đúng lúc Thiệu Nghĩa mang quân đi tuần ngang qua, nghe thấy Mạch soái la hét: “Oan uổng quá!”, Thiệu Nghĩa đưa mắt nhìn lại, thấy một thân hình cao gầy, búi tóc ngắn, khuôn mặt rất đẹp, như thể của phụ nữ, nhưng lại không dám nhìn thẳng, đàn ông như thế thường là gian tế!
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ NHẤT: Phong vân khởi dã mạch sạ phiêu hương
(Gió thổi mây bay khiến hương lúa mạch nơi đồng nội bắt đầu bay đi)
...:::...
Chương 2: Thủ Thành
Chiến tranh là bàn tay đùa giỡn của một đại nhân vật, vừa ra tay là đã xuất hiện sự chết chóc, hắn bàn tán chê cười chuyện nhân gian công thành chiếm đất. Chiến trường, là một tiểu nhân vật nhỏ bé trước mặt quỷ Tu La[1] , khi quỷ Tu La giơ tay chém xuống, trong phút chốc, tất cả đều hôi phi yên diệt [2] .
[1]. Tu La: tên một con quỷ hiếu chiến theo quan điểm của Phật giáo
[2]. Hôi phi yên diệt: hôi nghĩa là tro, phi: bay, yên: khói, diệt: dập tắt. Câu này nghĩa là tan thành tro bụi.
Nam nông lịch Thịnh Nguyên năm thứ hai, lịch Bắc Mạc là năm thứ bảy, Nam Hạ cùng Bắc Mạc cùng ngồi trên bàn đàm phán, trước là giương thương múa kiếm, khí thế ngất trời. Hán tử phương Bắc miệng lưỡi kém linh hoạt, nói qua nói lại một hồi, rốt cục thì cán cân thắng lợi liền nghiêng dần về phương Nam. Những kẻ trong đoàn đàm phán của Bắc Mạc dần dần trở nên trầm mặc. Nhưng đoàn đàm phán Nam Hạ còn chưa kịp chúc mừng thắng lợi đang nằm trong tầm tay thì đã nhận được một tin động trời, không khác gì bị sét đánh trúng khiến hồn bay phách lạc.
Đầu tháng tám, Bắc Mạc đột nhiên phát động hai mươi vạn binh mã, chia làm hai hướng tấn công vào biên giới phía Bắc của Nam Hạ, chỉ trong thoáng chốc mà phong vân[3] biến sắc.
[3]. Phong vân: gió mây.
Người dân Bắc Mạc vốn có tác phong nhanh nhẹn, dũng mãnh, so với tài hùng biện của người Nam Hạ mà nói, bọn họ càng thích động thủ, thuộc loại nhân vật thích hành động, tín điều mà họ hướng tới chính là: Nói không lại ngươi, ta liền đánh ngươi nha!
Có người từng lấy qua một ví dụ, nói là trên đường nếu có hai người đều bị nước hắt trúng, người nào mà cả canh giờ cũng không thấy động thủ thì đó chính là người Nam Hạ, còn người nào chưa nói xong hai câu liền ra tay thì chẳng cần hỏi cũng biết đó là người Bắc Mạc.
Đương nhiên, ví dụ này cũng có chút khoa trương.
Sứ thần Nam Hạ đột nhiên hiểu được, đầu tiên là choáng váng, sau đó là một nỗi ảo não đánh thẳng vào gáy, trời ạ, thế nào mà lại quên mất thói quen của thát tử Bắc Mạc? Khó trách đoàn sứ thần Bắc Mạc gần như không nói tiếng nào, nguyên lai bọn họ sớm đã có quyết định này rồi!
Danh tướng Bắc Mạc Chu Chí Nhẫn lĩnh mười vạn quân tiến theo hướng đông, thần không biết, quỷ không hay, vòng qua phía sau chân núi Yến Thứ khẩn cấp tấn công Lâm Đồng, vượt gấp sông Tử Nha, thừa dịp đêm xuống hạ trấn Tân Dã phía đông Nam Hạ, đến xế chiều, đoàn quân đã thẳng tiến đến thành Thái Hưng. Mười vạn đại quân đi theo tây lộ do tướng quân tuổi trẻ tài cao Thường Ngọc Thanh suất lĩnh, nhưng lại lặng lẽ men theo Tây hồ, qua thảo nguyên biên giới Đông quốc, Lương Châu, Mậu Thành, Tiểu Cát Thành hướng thẳng về phía đông, cơ hồ không gặp phải bất kì sự kháng cự nào, tiến thẳng về phía tây thành Thái Hưng.
Mà lúc này, ba mươi vạn biên quân[4] Nam Hạ còn ngồi xổm, tĩnh lặng canh giữ ở biên giới phía Bắc, phân chia gianh giới cùng đại quân Bắc Mạc canh giữ lẫn nhau, tướng sĩ Nam Hạ giữ biên cũng có chút hồ đồ, rõ ràng mấy chục vạn đại quân Bắc Mạc còn đang ngồi xổm đối diện cùng chính mình canh giữ lẫn nhau, thế nào mà lại có hai mươi vạn đại quân chạy đến tấn công mặt sau Nam Hạ? Chẳng lẽ hai mươi vạn đại quân Bắc Mạc sau lưng kia từ đất đá mà hóa thành sao?
[4]. Biên quân: quân đội canh giữ vùng biên giới.
Trong lúc nhất thời, phần lớn thành trấn Nam Hạ đều lần lượt báo nguy.
Theo hai đường tấn công của đại quân Bắc Mạc, người sáng suốt liếc mắt một cái liền nhìn ra cả hai lộ đại quân này đều hướng mũi xà mâu thẳng về một nơi, đó là thành Thái Hưng, vì thế trên bản đồ, điểm biểu thị thành Thái Hưng bị tướng lĩnh các quốc gia vẽ đi vẽ lại, từng chút, từng chút mà hoàn toàn thay đổi.
Thành Thái Hưng, là một thành quan trọng phía Bắc bộ của Đại Hạ quốc, dân cư hơn hai mươi vạn, mặt hướng về phía sông Bình Nguyên, sau lưng có sông Uyển, vì binh gia gi tranh từ trước, mà mất hết Giang Bắc.
Ngày hai mươi sáu tháng tám, đại quân đông lộ Bắc Mạc đã đến ngoại thành Thái Hưng, ngày hai mươi bảy vây thành, ngồi đợi Thường Ngọc Thanh suất lĩnh mười vạn đại quân theo tây lộ đến.
Lúc này, đại quân tây lộ Bắc Mạc vừa vặn đuổi tới phía trước thành Hán Bảo, cách thành Thái Hưng tám mươi dặm.
Hán Bảo là một thành nhỏ, không phải là điểm trọng yếu về mặt quân sự, cho nên cũng không quá coi trọng công tác bố trí, canh phòng, tường thành thấp, không có chiến hào cũng không có sông đào bảo vệ, nên cũng chẳng dùng cầu treo, liền cửa thành cũng chỉ có một cái vọng gác trụi lủi, ngoài thành mấy trượng thật ra có mấy công sự, nhìn thưa thớt, trơ chọi rất đáng thương, không cần đoán cũng biết là dựng lên trong lúc vội vã, cơ bản cũng chẳng ngăn được cái gì.
Một câu tổng kết lại là: tường thành này thật quá đơn sơ! So với tường viện của chủ nhà giàu ở Bắc bộ cũng chỉ cao hơn một chút, dày hơn một chút, dài hơn một chút, trên trạm gác có nhiều người hơn một chút.
Binh lính giữ thành khoảng một ngàn người, trong thành dân cư từ đứa trẻ oa oa mới cất tiếng khóc chào đời đến ông già tám mươi tuổi, tất tần tật nam phụ lão ấu cộng cả lại, bất quá cũng chỉ được chừng hai vạn người, chẳng đủ nhét kẽ răng cho đại quân Bắc Mạc, khó trách ngay cả phạm nhân trong đại lao cũng đều bị đưa ra giữ thành.
Khi A Mạch bị đưa vượt qua tường thành, thành Hán Bảo đã sớm bị đại quân Bắc Mạc vây chặt như nêm cối, từ trên tường thành nhìn xuống chỉ thấy một mảnh đen nhánh. A Mạch sau khi thăm dò xong, lập tức đổ mồ hôi lạnh, chạy vội tới mái chắn sau tường, nằm thấp xuống, thành này còn có thể giữ được sao? Có thể bảo vệ được thì khác gì gặp quỷ giữa ban ngày!
Thiết kỵ Bắc Mạc tới trước thành Hán Bảo, vạn kỵ binh ở trước trận triển khai dàn hàng ngang, tuy rằng đối với việc công thành không có tác dụng gì, nhưng xem như biểu dương lực lượng, trước làm chấn động lá gan của quan binh Nam Hạ, sau thủ tiêu ý định bỏ thành mà chạy trong đầu bọn họ, cho nên, các huynh đệ, chúng ta vẫn là hạ quyết tâm giữ thành!
Có mấy kỵ mã Bắc Mạc phía sau trận tiền phi lên, giơ lá cờ phất qua phất lại mấy cái, đội kỵ binh liền giục ngựa lên trước trận tuyến, chia thành hai cánh thối lui, lộ ra đội quân cầm khiên trong tay, xe công thành, thang, khí giới chờ công thành chậm rãi đẩy về phía trước, tiếng kèn xông trận vang lên, tiếng lưỡi mác bốn phía vung lên, đại quân Bắc Mạc giống như thủy triều đen cuồn cuộn thẳng tiến, như một cơn sóng lớn, chỉ cần đổ ập xuống là có thể san bằng một thành Hán Bảo nho nhỏ.
“Bắn tên! Bắn tên! Bắn chết lũ thát tử!” Trên tường thành, tướng lãnh Nam Hạ vung roi trong tay, lớn tiếng quát.
Trên người A Mạch cũng đã trúng mấy roi, cuống quít trên mặt đất khẩn trương giương cung hướng dưới thành bắn vọt tới. Nàng làm sao biết bắn tên như thế nào đâu, bất quá học bộ dạng người bên cạnh cũng giương cung bắn ra, ngay cả ngắm đích cũng không có, chỉ nhắm mắt lại buông tay, nhưng khí lực thật ra không nhỏ, mũi tên lại hướng bên dưới bay xuống, chợt nghe phía dưới truyền đến một tiếng hét thảm, một gã Bắc Mạc công thành mới leo được một nửa đã gặp hạn mà trúng tên rơi xuống.
Tên lính Nam Hạ bên cạnh hướng A Mạch kêu một tiếng “rất tốt”, không biết sờ soạn ở đâu ra một cái mũ giáp ném cho A Mạch, vừa hướng xuống dưới thành bắn tên, vừa hô: “Huynh đệ, bắn hay lắm, đội cái này vào, cẩn thận tên của thát tử, dùng sức bắn lũ súc sinh.”
A Mạch nhìn mũ giáp trong tay còn mang theo vết máu thì giật mình, cắn răng một cái liền đội lên trên đầu, tên bay không có mắt, nàng cũng không muốn chết tại đây trên cái tường thành này, tuy rằng xem hoàn cảnh trước mắt thì cơ may có thể sống sót mà rời đi thật sự là quá nhỏ.
Hai tên lính Nam Hạ bên cạnh dùng sức đâm mũi giáo xuống dưới, liền thấy tên lính Bắc Mạc trên tường thành đã bị lộn một vòng rơi xuống, tiếng kêu thảm thiết sắc nhọn đâm vào tai A Mạch, khiến nàng nghe được mà hết hồn, người bên cạnh ngay vừa trầm trồ khen ngợi nàng sau đó lại hét “A” một tiếng thảm thiết, đã bị mũi tên của binh lính Bắc Mạc bắn trúng, đâm xuyên qua ngực, máu tươi từ trong miệng trào ra, phun tung toé lên tường thành, thành một mảng đỏ rực. A Mạch cả kinh đến nỗi cung tên trong tay đều rơi cả xuống đất, chỉ lo ôm đầu ngồi xuống, bên tai tiếng kêu thảm thiết vẫn không ngừng vang lên, A Mạch trên người lại trúng mấy roi, viên tiểu giáo vung roi nổi giận mắng: “Mẹ nó, còn không mau trốn đi, bọn thát tử mà lên đến đây thì ai cũng đừng hòng sống được!”
Ngoài cửa thành cách đó không xa, trên một sườn dốc nho nhỏ, Bắc Mạc tây lộ tướng quân Thường Ngọc Thanh ngồi trên chiến mã, khuôn mặt lạnh lùng, khóe miệng hơi mím lại, giống như ẩn chứa một tia cười lạnh, vẻ mặt chuyên chú nhìn cảnh công thành cách đó không xa. Mấy chục kỵ mã thân mặc giáp đen đứng phía sau hắn, chiến trường thì ồn ào, nhưng ở đây lại duy trì sự im lặng kinh người, ngay cả thủ hạ chiến mã đều giống nhau, lạnh lùng mà lạnh nhạt.
Thường Ngọc Thanh chợt nâng cánh tay dùng roi ngựa chỉ về một chỗ trên tường thành, cười nói với phó tướng Khương Thành Dực đứng bên cạnh: “Ha ha, Thành Dực, ngươi xem cái tên Nam Hạ mọi rợ kia, ngay cả cung tên cũng cầm không xong, ha ha, người như vậy lại dám lên trên tường thành thủ thành, có thể thấy được Nam Hạ thật sự là không có người.”
Khương Thành Dực theo hướng đó nhìn lại, một lát sau cũng không khỏi mỉm cười, nơi đó trên tường thành có một tên lính Nam Hạ bắn tên rất bừa bãi, sau khi bắn lung tung được một mũi lại vội vàng ngồi xổm xuống tránh sau tường, qua một hồi thăm dò lại bắn thêm một mũi, mười mũi tên thì có đến tám mũi hướng đến tường thành, hai mũi tên còn lại khó khăn lắm mới bắn ra được, cũng là không hề có mục tiêu.
Sau khi Khương Thành Dực bật cười liền quay đầu lại nhìn Thường Ngọc Thanh khuyên nhủ: “Tướng quân, nơi này gần tường thành quá, tên lạc nhiều lắm, vì an toàn, thỉnh tướng quân đến sau trận quan sát cuộc chiến đi.”
Thường Ngọc Thanh chậm rãi lắc lắc đầu, khóe môi chỗ đột nhiên mỉm cười, nói: “Lấy cung tên đến đây.”
Thân vệ binh bên cạnh vội vàng đem trường cung sau lưng, hai tay dâng lên, Thường Ngọc Thanh tiếp lấy, cài tên lên dây cung, kéo căng hết cỡ, híp mắt lại, nhắm thẳng đầu người nọ, ngón tay buông lỏng, chỉ nghe “viu” một tiếng, mũi tên nhọn thoát khỏi dây cung, mang theo sức mạnh phá vỡ không gian, phát ra tiếng rít lợi hại, hướng về phía tên lính Nam Hạ nhát gan trên tường thành xé gió bay đi……
A Mạch nơi này cũng vừa vặn đứng dậy, dây cung chưa kịp buông ra, liền cảm thấy đỉnh đầu như bị búa tạ lôi mạnh một cái, quán tính mạnh mẽ mang theo nàng bay vèo ra sau, thân thể của nàng nặng nề rơi xuống, trong khoảng thời gian ngắn, A Mạch chỉ cảm thấy trước mắt cả một bầy ngôi sao bay loạn, trong tai ngoài âm thanh ù ù ra thì chẳng nghe được cái gì khác. Quá nửa ngày nàng mới chậm chạm tỉnh lại, bỏ mũ giáp trên đầu xuống, hoảng sợ phát hiện một mũi tên dài xuyên ngang đỉnh mũ giáp, đem toàn bộ đỉnh mũ giáp cùng tua rua trang trí tất cả đều chặt đứt tận gốc.
Tiểu binh trên tường thành kia, cho dù không té xỉu thì cũng phải sợ tới mức đái cả ra quần đi, Thường Ngọc Thanh vừa lòng nở nụ cười, đem trường cung tiện tay ném cho thân vệ binh bên cạnh, lúc này chàng như thế nào cũng sẽ không nghĩ đến, là vài năm sau, chàng sẽ hối hận vì mũi tên này đã bắn hơi cao một chút, nếu lúc ấy chỉ cần xuống thấp chừng hai tấc, thì sẽ tốt biết bao nhiêu.
Quân lính Bắc Mạc đã leo được lên tường thành, vung đại đao bổ về phía thủ binh Nam Hạ, lưỡi đao cắm phật vào trong cơ thể phát ra âm thanh nặng nề, người bị chém trợn trừng hai mắt, ngoại trừ nỗi hoảng sợ còn có một tia không cam lòng. Tên lính vừa vung đao chém còn chưa kịp hoan hô thì khoang bụng đã bị một ngọn thương dài không biết từ đâu lao đến đâm thủng, máu theo đầu thương chảy ra, hắn cúi đầu, mắt thấy máu đỏ theo đầu thương rút ra, nội tạng lòi cả ra ngoài.
Đầu thu trời quang mây tạnh, dưới thành Hán Bảo lại là một màn mưa máu mịt mùng, máu thịt vương đầy một mảnh…
“Cửa thành đã mở, đi thôi, cũng chiều rồi, cái gì cũng cản không nổi đâu!” Thường Ngọc Thanh cười nói, hai chân nhẹ nhàng kẹp bụng ngựa: “Tối nay trú đêm lại trong thành Hán Bảo, nói với các huynh đệ, tối nay không phải bàn luận quân kỷ.”
“Tướng quân!” Khương Thành Dực vội vàng phóng ngựa theo ngăn trở nói: “Nguyên soái có lệnh, không thể đồ thành[5] !”
[5]. Đồ thành: chỉ hành động chém giết cướp phá của quân lính sau khi chiếm được thành.
Thường Ngọc Thanh sớm đã có chút không kiên nhẫn với người phó tướng trẻ tuổi thành thạo bên người, nghe hắn lại đem mệnh lệnh của vị nguyên soái kia ra, trong lòng có chút tức giận, kéo dây cương dừng lại vài bước, liếc mắt một cái theo sát Khương Thành Dực, cười mà như không cười hỏi: “Khương phó tướng, cái tai nào của ngươi nghe được bản tướng quân nói là đồ thành?”
Khương Thành Dực nghẹn giọng, nói không ra lời, Thường Ngọc Thanh quả thật không nói rõ là đồ thành, nhưng câu nói vừa rồi của anh ta thì cùng đồ thành có cái gì khác nhau? Trước khi xuất chinh, nguyên soái cố ý công đạo rằng chỉ cần bọn họ công thành thị uy, không được phép đồ thành.
“Tướng quân…” Khương Thành Dực vươn cổ định khuyên nữa, lại bị Thường Ngọc Thanh hừ lạnh một tiếng trong cổ họng, Khương Thành Dực đành phải trầm mặc lui xuống, Thường Ngọc Thanh cười lạnh một tiếng nói: “Truyền lệnh xuống, tướng sĩ tham gia công thành thì được vào thành, không phải giữ quân kỷ, còn lại ở ngoài thành bày trận trú doanh.” Nói xong vung roi một cái, không đợi Khương Thành Dực nói chuyện liền phóng ngựa mà đi, phía sau đội thân vệ binh cũng vội vàng đi theo.
Thường Ngọc Thanh phóng ngựa lao ra khỏi đại quân Bắc Mạc, tiến thẳng đến cửa thành, bên kia cửa thành vừa bị xe công thành của quân Bắc Mạc phá vỡ, binh lính song phương đang xoắn lại cùng một chỗ, Thường Ngọc Thanh giơ thương vọt lên, gặp binh lính Nam Hạ một tên giết một tên, chỉ một lát đã hạ mười người. Khương Thành Dực nhìn anh ta quật khởi, cũng không tiếp tục ngăn cản, lại sợ trong lúc hỗn chiến chủ tướng có điều sơ xuất, đành vung trường đao cùng thân vệ binh bảo hộ bên cạnh Thường Ngọc Thanh, một hàng mấy chục kỵ mã cứ thế xông vào, sát nhập với đại quân Bắc Mạc tiến vào trong thành Hán Bảo.
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ NHẤT: Phong vân khởi dã mạch sạ phiêu hương
(Gió thổi mây bay khiến hương lúa mạch nơi đồng nội bắt đầu bay đi)
...:::...
Chương 3: Phá thành
Ngày 28 tháng 8 Nam nông lịch Thịnh Nguyên năm thứ hai, thành Hán Bảo bị phá, thủ thành Lưu Cạnh tự sát trên tường thành, vợ là Trần thị cùng hai con gái ở trong phủ treo cổ tự sát, con trai độc nhất mất tích.
Màn đêm buông xuống, nhưng bên trong thành Hán Bảo không hề yên tĩnh. Ánh lửa bập bùng khắp nơi, tiếng cười mắng của binh lính Bắc Mạc, tiếng dân chúng Nam Hạ la khóc, tiếng thét chói tai, các loại âm thanh cùng vang lên hỗn loạn, hoặc không cam lòng, hoặc hèn nhát, hoặc phóng túng, tất cả như có một bàn tay dày xéo vô hình, mỗi nơi mỗi chỗ đều tựa hồ có thể nghe thấy, treo trong trời đêm, ẩn ẩn run rẩy……
Trên trời, ánh trăng cũng không đành lòng nhìn xuống, đành gắt gao nhắm mắt lại.
Bóng đêm tối đen như mực.
So với sự huyên náo hỗn độn trong thành Hán Bảo, đại doanh Bắc Mạc đóng ở ngoài thành ngược lại có chút yên tĩnh. Trong đại nội quân trướng, ánh nến vẫn sáng, bên trong có khoảng năm sáu tướng lĩnh Bắc Mạc vây quanh trước cái bàn vuông, thấp giọng thảo luận vấn đề gì đó. Đứng đầu là một tướng quân thanh niên hờ hững không nói gì, chỉ cúi đầu xem bản đồ trên bàn, ánh nến nhảy múa, chiếu một bóng người thon dài sinh động ngả dài lên doanh trướng. Ngoài trướng đột nhiên truyền đến tiếng bước chân dồn dập, một viên tướng thân mặc áo giáp tiến vào, trầm giọng bẩm báo: “Tướng quân, tám vạn kỵ binh đã chuẩn bị xong, tức khắc có thể xuất phát, thỉnh tướng quân ra quân lệnh.”
Viên tướng trẻ tuổi ngẩng đầu lên, hơi hơi cắn khóe miệng, mặc dù có ý cười, lại vẫn không dấu được sát khí trên mặt, dĩ nhiên đó chính là Bắc Mạc chủ tướng Thường Ngọc Thanh.
Thường Ngọc Thanh mày kiếm khẽ nhếch lên, tầm mắt sắc bén đảo qua một lượt trên người các vị tướng xung quanh, lạnh giọng hỏi: “Vừa rồi nghe đều hiểu được chứ?”
Chư tướng cùng đồng thanh đồng ý, chỉ có phó tướng Khương Thành Dực có chút chần chờ, hắn do dự một lát rồi vẫn nói: “Tướng quân, mạt tướng…”
Thường Ngọc Thanh không đợi Khương Thành Dực nói hết, chỉ cười mà như không cười hỏi: “Làm sao vậy? Thành Dực cho rằng ta an bài có gì không ổn chăng?”
“Mạt tướng không dám,” Khương Thành Dực nói, nhìn nhìn sắc mặt của Thường Ngọc Thanh, vẫn là kính cẩn nói ra:“Mạt tướng chính là muốn đi theo ở bên cạnh tả hữu tướng quân, hơn nữa trước khi đi, nguyên soái cũng đã phân phó mạt tướng nhất thiết phải bảo đảm an toàn cho tướng quân.”
Thường Ngọc Thanh sớm biết nguyên soái cho Khương Thành Dực làm phó tướng vì muốn quản thúc mình, dọc đường đi nghe hắn lải nhải ở bên tai, trong lòng sớm đã thấy phiền toái không chịu nổi, khó khăn chịu đựng được đến lần này, hắn làm sao còn có thể để cho Khương Thành Dực tiếp tục ở lại bên mình được nữa, vì thế nhân cơ hội này đã sớm sửa lại kế hoạch, để cho Khương Thành Dực độc lĩnh một cánh quân, cách Thường Ngọc Thanh hắn càng xa càng tốt. Hiện lại nghe thấy Khương Thành Dực lại vẫn giữ luận điệu cũ, Thường Ngọc Thanh trong lòng thật ra rất tức giận, nhưng cũng không biểu lộ ra đến mặt, chỉ cười nói: “Thành Dực yên tâm, lần này ta sẽ không tự mình ra trận chém giết, không cần ngươi phải ở bên người hộ vệ, huống chi ngươi là phó tướng của tây lộ quân, cũng không phải đội trưởng đội thân bin của ta, sao có thể đem tinh lực đều đặt hết ở việc này được? Việc ngày mai quan hệ trọng đại, càng cần người thận trọng như ngươi đặc biệt xử lý, nhất thiết không thể để xảy ra điều gì sơ xuất!”
Khương Thành Dực còn muốn nói tiếp, đã thấy Thường Ngọc Thanh sắc mặt lạnh đi, buộc phải đem những lời vừa dâng lên đến miệng nuốt trở lại, đành nói: “Tuân lệnh!” Sau đó liền đi theo các viên tướng khác lĩnh mệnh lệnh ra khỏi doanh trướng, Thường Ngọc Thanh lúc này mới khẽ cười một tiếng, để cho thân binh khoác áo choàng, rồi ôm mũ trụ đi ra ngoài.
Ngoài trướng, thân binh đã sớm đem chiến mã và khiên của Thường Ngọc Thanh lại, Thường Ngọc Thanh tung người lên ngựa, ánh lửa chiếu lên khôi giáp của hắn bắn ra hào quang lưu ly lạnh như băng rồi hắt lên mặt, làm cho khuôn mặt tuấn lãnh của hắn tăng thêm ba phần hàn ý. “Thành Dực tướng quân”. Thường Ngọc Thanh gọi, Khương Thành Dực lập tức tiến đến, phủ phục dưới chân, bên tai nghe thấy giọng cười nhẹ: “Toàn bộ mười vạn binh mã bản tướng đều giao cả cho ngươi, nhớ rõ phải nhanh chóng thay mặt bản tướng đưa đại quân đến ngoài thành Thái Hưng nghe chưa!” Nói xong liền cười to hai tiếng, không đợi phản ứng của Khương Thành Dực, liền dẫn đội cận vệ phóng ngựa chạy như bay mà đi.
Ban đêm, Bắc Mạc chủ tướng Thường Ngọc Thanh lĩnh tám vạn kỵ binh biến mất trong bóng đêm dày đặc, mà “Mười vạn đại quân” Bắc Mạc vẫn nghỉ đêm trong doanh trướng ngoài thành Hán Bảo, chờ sẽ đi tới thành Thái Hưng hợp quân cùng với đại quân đông lộ Bắc Mạc.
Trong thành Hán Bảo, một vạn tướng sĩ Bắc Mạc tham gia công thành ban ngày vẫn còn đang phóng túng…
Nương tựa vào tường thành phía Tây là một gian nhà thấp bé, cùng với một cái sân nhỏ hẹp. Mấy ngõ nhỏ quanh co đều xuyên qua đây giống như là một mạng nhện bị tàn phá. Ngôi nhà nhỏ này lười biếng đứng trên mặt đất như chống đỡ không nổi cái khung xương của mình.
Mười mấy tên lính Bắc Mạc giơ đuốc hùng hùng hổ hổ theo ngõ nhỏ đi qua, bọn họ hiển nhiên đối với thu hoạch của mình thực không hài lòng.
“Lão đại, cửa ngôi nhà này bốn phía đều mở toang, xem ra người đã sớm chạy hết rồi, ta có đi vào nữa hay không?”
“Đi vào cái rắm!” Đầu lĩnh Bắc Mạc mắng: “Đi đã bao nhiêu nhà rồi? Mụ nội nó, chẳng có cái gì đáng giá cả, đừng nói đến nữ nhân, ngay cả cái lông cũng chẳng tìm thấy được, coi như chúng ta không may, như thế nào đã chạy vội tới chỗ này!”
Thành Hán Bảo này chia làm hai khu vực, đông thành là phủ nha cùng phú hộ ở, tây thành là nơi những hộ bình dân sinh sống, mà nơi giáp với tường thành phía tây này là nơi ở của tầng lớp dân chúng cùng khổ nhất. Ngày thường không lo nổi ba bữa cơm thì trong nhà lấy đâu ra vàng bạc châu báu mà tích trữ. Mấy tên lính Bắc Mạc hướng tới nơi này để cướp bóc, thật đúng là đến nhầm chỗ, khó trách liên tục hơn mười hộ cũng chưa cướp được cái gì, đến cuối cùng ngay cả nhấc chân phá cửa cũng không buồn làm.
Một tên lính Bắc Mạc giơ đuốc chỉ về phía đông thành bên kia hô: “Lão đại, ngươi xem bên kia rất náo nhiệt, hay là chúng ta cũng qua bên đó đi!”
Tên đầu mục kia rõ ràng cũng động tâm, ngẩng đầu nhìn về phía đông thành, không gian bên ấy có chút ánh đỏ sậm, lại nhìn lũ huynh đệ, vung tay lên nói: “Đi, các huynh đệ, muốn đi thì đi cho nhanh, bằng không chậm trễ thì ngay cả nước canh cũng chẳng đến lượt huynh đệ chúng ta!”
Mọi người đều lên tiếng đáp ứng, rồi hướng về phía đông thành chạy đi. Ánh lửa theo tiếng bước chân hỗn độn dần dần đi xa, tất cả lại chìm trong bóng tối. Ngay tại bên trong cánh cửa mở rộng, A Mạch phải mất nửa ngày tim mới đập chậm lại, dỏng tai nghe ngóng một hồi, rồi mới thật cẩn thận từ trong góc tường chất đầy những vật tạp nham bò ra, cố không lau những vết tro bụi trên mặt, chỉ ngồi phịch xuống rồi thở phào một hơi.
Binh pháp có câu: Hư tức là thực, thực tức là hư. Nếu không phải chính mình cố tình mở rộng cửa ngôi nhà, lại đem đồ vật bên trong xô loạn lên, khó bảo đảm được đám lính Bắc Mạc kia sẽ không tiến vào lục soát, lúc đó thì cái mạng nhỏ của mình còn có thể giữ được sao?
A Mạch không nghĩ tới chính mình có thể sống mà từ trên tường thành nhảy xuống dưới. Đầu tiên là đội lại cái mũ có dính mũi tên trên đỉnh mà trước đó đã dọa nàng sợ vỡ cả mật kia lên đầu, sau đó là giả chết, khổ sở chịu đựng được đến khi trời tối mới đi ra, lại thừa dịp bóng đêm trốn trong xóm nghèo này, tính ra lại vừa mới tránh được một kiếp, thời gian không đến một ngày ngắn ngủn, nàng đã đảo qua quỷ môn quan đến mấy lần.
Nằm ngửa mặt trên đất, A Mạch nhìn bầu trời đêm vẫn đầy những ngôi sao lấp lánh như trước, không khỏi cảm thán trong lòng, sinh lực của nàng đúng là không phải ương ngạch một cách bình thường a! Mẫu thân đã từng nói, nếu muốn có sinh lực cường đại, vậy thì phải chịu được những nỗi khổ mà người khác không thể chịu được, chuyện này cùng với những nỗi gian truân khác nàng đều có thể chịu đựng được, thì nàng còn sợ cái gì nữa? Có lẽ, nàng căn bản không cần lo lắng cho chính sinh mệnh của mình, nếu ông trời muốn thu nhận nàng, thì đã sớm nên thu nhận từ bốn năm trước. Nếu như bốn năm trước, ngay cả ông trời cũng không tiếp đãi nàng, thì sẽ không bao giờ có cái gì lấy được sinh mạng của nàng.
A Mạch khóe miệng khẽ nhếch lên, lộ ra một nụ cười bất đắc dĩ, ôi chao, cảm giác đói khát lại tới nữa rồi, còn tưởng rằng cơn đói đã qua đi thì sẽ không biết đói nữa chứ. A Mạch thở dài, đứng lên hướng vào trong phòng sờ soạn, không biết chủ nhân nơi này còn lưu lại chút đồ ăn nào không, cho dù không có chút thịt, thì chắc cũng phải còn chút xương chứ? A Mạch trong đầu nghĩ lung tung, rón ra rón rén sờ soạn trong phòng, người nghèo khổ chẳng phân biệt được cái gì là phòng bếp hay phòng ngủ, phần lớn là ngủ ở gian trong, gian ngoài nấu cơm, nếu có ăn cơm thì cũng là ăn ở nhà chính. Sờ soạng nửa ngày, A Mạch mới chạm đến được nửa cái bánh bột ngô ở trong nồi. A Mạch trong lòng vui vẻ, thầm nghĩ ông trời quả nhiên là không định bỏ ta chết đói, cũng không buồn xem cái bánh còn có thể ăn được nữa hay không, cứ thế đưa lên miệng cắn một miếng. Bánh bột ngô vừa đưa đến miệng, động tác của A Mạch lập tức cứng lại, thẳng tắp nhìn đống củi bên cạnh bếp.
Đống củi kia đang run run!
Một cái đầu người nho nhỏ nhô lên qua đống củi, lộ ra một khuôn mặt đen nhẻm, chẳng phân biệt được gì, chỉ có một đôi con ngươi sáng trong đang nhìn A Mạch chằm chằm không chớp.
Lưng A Mạch như có một cơn gió lạnh buốt luồn vào, tóc gáy lập tức đều dựng đứng cả lên. A Mạch rất muốn hô to một tiếng “Quỷ!” Sau đó sẽ chạy bán sống bán chết ra ngoài, nhưng nàng đã bị dọa cho sợ đến cực điểm, tứ chi không còn tuân theo sự khống chế của đầu óc, phản ứng kia ở trong đầu nàng loáng một cái liền biến mất, nàng thứ nhất là không thét chói tai, thứ hai là không chạy trốn, mà chỉ kinh ngạc đưa nửa cái bánh bột ngô ra, hỏi: “Ngươi… ăn không?”
Mọi người nói, người dọa người, hù chết người, kỳ thật, người dọa quỷ, cũng có thể hù chết quỷ.
Con “Quỷ” kia đột nhiên bị hành động ngoài dự đoán của A Mạch dọa, sau một hồi sửng sốt đột nhiên há to miệng, lộ ra một hàm răng trắng bóc đối lập với diện mạo đen đúa, hét lên: “A…!!!”
Nói thì chậm mà xảy ra thì nhanh, ngay khi tiếng “A” vừa mới thành hình còn chưa kịp ra khỏi miệng, A Mạch đã đem cái bánh bột ngô nhét vào miệng “Quỷ”, vì thế tiếng “A” lập tức chuyển thành tiếng “Ô ô”. Thanh âm mềm mại như thế nhất định là “Nữ quỷ”!
A Mạch một tay bịt chặt miệng “Nữ quỷ”, một tay đè bả vai của nàng xuống, thấp giọng quát: “Kêu la cái gì? Định gọi lính Bắc Mạc tới mới cam tâm à?”
Lời này vừa nói ra, “Nữ quỷ” kia lập tức ngừng giãy dụa, trong mắt đầy lệ nhìn A Mạch một cách tội nghiệp.
A Mạch thấp giọng nói: “Ta cũng là người Nam Hạ, vì trốn thát tử Bắc Mạc nên mới đến nơi này ẩn nấp, bọn họ hiện tại đang ở bên ngoài cách đó không xa, nếu để bọn chúng phát hiện thì chúng ta ai cũng không sống được! Ngươi đừng lên tiếng, ta sẽ buông tay.”
“Nữ quỷ” kia gật gật đầu, A Mạch thử thăm dò buông lỏng tay ra một chút, quả nhiên “Nữ quỷ” kia không tiếp tục kêu nữa, lúc đó mới hoàn toàn buông tay ra, đặt mông ngồi xuống dưới đất, thở hắt ra. Nàng hiện tại không sợ người cũng không sợ quỷ, chỉ sợ gây ra động tĩnh gì sẽ khiến bọn lính Bắc Mạc quay trở lại.
A Mạch trì hoãn nửa ngày mới khiến cho tim đập bình thường, lập tức lại cảm thấy cơn đói khát ập tới, quay đầu nhìn “Nữ quỷ”, liếc mắt một cái, đem miếng bánh bột ngô ở trong miệng “Nữ quỷ” lôi ra, lấy tay vỗ vỗ lại thổi thổi hai cái, cũng không để ý tới ánh mắt kinh hãi của “Nữ quỷ” kia, ngoạm xuống hai, ba miếng liền đem hết nửa cái bánh bột ngô nhét vào trong miệng, dùng sức nuốt xuống.
Bánh bột ngô vốn rất khô, hơn nữa A Mạch suốt cả một ngày đến một giọt nước còn chưa được uống, nên một miếng vừa nuốt xuống liền nghẹn thắt ở cổ. Nàng vỗ thật mạnh lên ngực mình, nhưng không có hiệu quả gì, mắt thấy sẽ nghẹn đến ngạt thở, A Mạch trong lòng có chút bi ai, trải qua bao nhiêu cửa ải, không thể ngờ được cuối cùng sẽ chết vì một miếng bánh bột ngô. Nếu ở thế giới bên kia cha mẹ mà biết được, phải chăng bọn họ sẽ cười mình đến chết mất?
A Mạch tòng quân
Tác giả: Tiên Chanh
Chuyển ngữ: cún con say sữa
...:::...
CUỐN THỨ NHẤT: Phong vân khởi dã mạch sạ phiêu hương
(Gió thổi mây bay khiến hương lúa mạch nơi đồng nội bắt đầu bay đi)
...:::...
Chương 4: Thiệu Nghĩa
“Khụ — khụ –” A Mạch bên này hết vuốt cổ lại đấm ngực, “Nữ quỷ” bên kia hết trợn mắt lại há hốc mồm mà nhìn. Trong giây lát, cuống quít chui ra khỏi đống củi, luống cuống tay chân múc một bầu nước đem lại, rồi nâng A Mạch dậy, vội vã đổ nước vào miệng nàng, một tay vỗ thật mạnh vào lưng A Mạch.
Đến khi hết nửa bầu nước, miếng bánh trong họng A Mạch mới trôi xuống, nàng bị nghẹn đau tức hết cả ngực, trên mặt nước mắt ngắn, nước mắt dài đã sớm chảy xuống.
“Cám ơn ngươi.” A Mạch nói nghèn nghẹt trong cổ họng, giọng nàng vốn đã hơi trầm, vừa rồi lại bị miếng bánh bột ngô vốn bột chưa được xay kỹ làm tổn thương yết hầu, khiến cho thanh âm của nàng càng thêm khàn khàn.
“Nữ quỷ” kia vừa rồi nhất thời trong tình thế cấp bách, không nghĩ tới cái gì là nam nữ thụ thụ bất thân, nay nhìn đến A Mạch đã không việc gì, lúc này mới nhớ tới tư thế của bản thân cùng với nam tử trẻ tuổi trước mặt quá mức thân mật, lập tức xấu hổ đến đỏ bừng cả mặt, cuống quít buông A Mạch ra, lui về phía sau hai bước, cúi đầu không dám nhìn A Mạch.
A Mạch từ khi mười lăm tuổi đã bắt đầu mặc nam trang. Cho đến bây thần kinh so với dây thừng, phẩm chất cũng đã sớm không còn sai biệt lắm, làm sao không đoán ra được tâm tư của tiểu cô nương này? Còn tưởng rằng nàng sợ mình, liền dùng ống tay áo lau lau mặt, hướng về phía tiểu cô nương hắc hắc cười hai tiếng.
Nàng không cười còn tốt, nàng cười xong, tiểu cô nương lại tiếp tục lui về phía sau hai bước.
Xem tiểu cô nương kia đã bị mình dọa thành như vậy, A Mạch chẳng biết nên làm thế nào, lại nhếch miệng cười cười. Hai người đều trở nên trầm mặc, tiểu cô nương kia thấy A Mạch cũng không có hành vi nào vô lễ, lá gan mới lớn thêm một chút, nghe thấy bụng A Mạch đã đói đến mức réo ầm ĩ, tiểu cô nương lẳng lặng đứng dậy quay trở lại góc bếp, sờ soạng một hồi, rồi đưa cho A Mạch một túi nhỏ nằng nặng.
A Mạch chần chờ nhận lấy, vừa mở ra, nhìn vào bên trong, không khỏi vừa mừng vừa sợ, bên trong là năm chiếc bánh bao thơm nức. Nàng có chút không dám tin, hỏi lại: “Cho ta?”
Tiểu cô nương gật gật đầu, sợ A Mạch lại nghẹn giống như vừa rồi, liền đi lấy một bầu nước đem lại đưa cho A Mạch. A Mạch ngượng ngùng cười cười, cúi đầu nhìn mấy chiếc bánh bao trắng như tuyết, có chút luyến tiếc, không biết đã bao lâu rồi nàng chưa được nếm qua một chiếc bánh bao trắng nõn như thế này. Hiện tại hương vị ngọt ngào ấy lại thổi đến, nước bọt trong miệng lập tức trào ra. Nàng ngẩng đầu liếc mắt nhìn tiểu cô nương một cái, không nói nhiều hơn một lời cảm tạ, liền cúi đầu xuống ăn ngấu nghiến như hổ như sói. Đến khi cái bánh bao thứ ba chui vào trong bụng, động tác của A Mạch mới chậm lại, cầm cái bánh thứ tư trong tay, đang định đưa lên miệng, đột nhiên nhớ ra người ta cho mình tất cả cũng chỉ có năm cái bánh bao, sao mình đều có thể ăn hết được, nghĩ vậy lại lưu luyến đem cái bánh thả lại trong bao quần áo gói kỹ lại, cúi đầu nói: “Cám ơn”.
Ngoài cửa có ánh sáng rọi vào, chiếu trên người có chút loang lổ, A Mạch lúc này mới cẩn thận đánh giá vị tiểu cô nương kia. Chỉ thấy nàng dáng người tinh tế, nhiều lắm cũng chỉ khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, trên mặt dường như dính nhọ nồi, đen như mực nhìn không rõ lắm, chỉ thấy một đôi mắt hắc bạch phân minh, ánh mắt thật là linh động.
Tiểu cô nương mà A Mạch đang vụng trộm ước đoán này tên là Từ Tú Nhi. Trong nhà chỉ có hai phụ tử sống nương tựa lẫn nh. Hai ngày trước, phụ thân nàng bị quan phủ buộc đi thủ thành, cho tới bây giờ vẫn chưa thấy trở về. Về sau khi lính Bắc Mạc công thành, hàng xóm bốn bề đều đã chạy tan tác. Từ Tú Nhi vốn cũng định đào tẩu theo, nhưng lại sợ phụ thân trở về tìm không thấy mình, nên cũng không dám bỏ nhà đi. Bên ngoài, quân lính Bắc Mạc ra sức đánh giết đốt phá, Từ Tú Nhi trốn ở trong bếp đã sớm bị dọa cho sợ đến mềm nhũn cả người. Khi A Mạch sờ soạn trong nhà bếp, nàng còn tưởng là ác nhân, sợ tới mức cả người phát run, suýt nữa thì phát khóc. Giờ thấy A Mạch một chút cũng không có ý xâm phạm mình, hơn nữa ngôn ngữ có chút ôn nhu giữ lễ, mặc dù cảm thấy cùng một nam tử xa lạ ở chung trong phòng tối thực không ổn, nhưng lại có chút vững tâm trở lại, chứ không giống như vừa rồi chỉ có một mình phấp phỏng, sợ hãi.
Bên ngoài truyền đến tiếng binh lính Bắc Mạc hò hét từ xa vọng lại, Từ Tú Nhi trong lòng sợ hãi, không tự chủ được nhích lại gần A Mạch. A Mạch thấy nàng nhu nhược đáng thương, liền nhẹ giọng an ủi: “Đừng sợ, nơi đó cách chỗ này còn xa, ở đây chỉ là một gian phòng rách nát, phỏng chừng bọn họ sẽ không đến đâu.”
Vừa dứt lời chợt nghe thấy bên ngoài có tiếng người kêu lớn: “Ở bên kia, mau đuổi theo!” Ngay sau đó là tiếng hò hét càng ngày càng đến gần, dường như hướng về căn nhà này.
A Mạch trong lòng cả kinh, kéo Từ Tú Nhi chạy vào trong viện, định nấp trở lại chỗ ẩn thân vừa rồi, thân ảnh vừa vặn mới ra đến cửa phòng liền ngây ngốc ở đó, ngoài ngõ nhỏ sớm đã là ánh lửa lập lòe, hơn mười tên lính Bắc Mạc đuổi theo một viên tướng Nam Hạ ôm theo một đứa trẻ mới sinh đã đến cửa ngôi nhà.
Đến nhanh vậy sao! Hiện tại muốn trốn đã không còn kịp nữa rồi.
Trong ánh lửa chiếu rọi, A Mạch cảm thấy nam nhân bị đuổi giết kia có chút quen mắt, nhìn kỹ lại, hóa ra chính là tên giáo úy mà mình đã gặp khi mới đến thành Hán Bảo.
Đường Thiệu Nghĩa một tay bế đứa trẻ, một tay múa kiếm, vừa đánh vừa lui, vì chỉ né tránh nên thập phần bất tiện, tình thế đã là cực kỳ nguy hiểm. Khóe mắt của hắn bắt gặp A Mạch đang ngây ngốc đứng ở cửa, liền dùng sức đánh văng một tên lính Bắc Mạc ra, xoay người tung cái bọc vào lòng A Mạch, lớn tiếng quát: “Vào nhà!”
Thân thể A Mạch rung lên, trong lòng đã xuất hiện một đứa trẻ khóc oa oa. Trong lúc bối rối không kịp nghĩ nhiều, liền túm lấy Từ Tú Nhi lui về phòng trong, gắt gao đóng cửa lại. Đường Thiệu Nghĩa trong tay không còn trẻ con làm vướng bận, kiếm khí lập tức chói lòa, trong nháy mắt đã chém chết hai, ba tên lính Bắc Mạc. Đám lính Bắc Mạc bức bách khiến cho kiếm phong của Đường Thiệu Nghĩa không thấu được đến trước cửa. Không biết ai đó hô một tiếng “Phóng hỏa!”, lập tức có mấy cây đuốc ném vào trong phòng, Đường Thiệu Nghĩa vung kiếm đánh rơi mấy cây, nhưng vẫn còn một cây đuốc rơi trúng vào cửa sổ.
Cửa sổ dán giấy liền nhanh chóng bắt lửa, ngọn lửa lập tức quấn lấy song cửa sổ, khói đặc tỏa vào trong phòng. A Mạch trong lòng không ngừng kêu khổ, xem tình hình hiện tại, lũ lính Bắc Mạc hiển nhiên không muốn bắt sống, giờ mà chạy ra nhất định sẽ bị loạn đao chém chết, nhưng nếu không chạy thì ngọn lửa cũng sẽ thiêu cháy căn phòng này, cho dù không thành “Vịt nướng” thì cũng bị khói hun chết. A Mạch cúi đầu, nhìn đứa nhỏ trong lòng đã khóc không thành tiếng, cắn răng một cái đưa đứa nhỏ cho Từ Tú Nhi, rồi xoay người nhảy vọt vào làn khói đặc cuồn cuộn trong buồng trong, một lát sau quay lại, trong tay đã cầm một chiếc chăn bông cũ nát. A Mạch không giải thích nhiều với Từ Tú Nhi, vọt tới vại nước rồi nhúng chiếc chăn bông vào đó cho đẫm nước, rồi quay đầu hướng về phía Từ Tú Nhi hô: “Lại đây! Nhanh lên!”
Từ Tú Nhi cuống quít ôm đứa nhỏ chạy lại, A Mạch đem cái chăn ướt đẫm trùm lên ba người, thầm nghĩ kéo dài được chừng nào tốt chừng ấy! Hy vọng nam nhân bên ngoài kia đủ lợi hại có thể xử lý hết sạch lũ lính Bắc Mạc, bằng không thì chính mình cũng thật sự biến thành vịt nướng. Lại thấy Từ Tú Nhi bên cạnh thân thể không ngừng run rẩy, A Mạch vội đón lấy đứa nhỏ, cười cười, nói: “Đừng sợ! Nhà này bốn vách tường đều trống không, cũng chưa chắc đã bén lửa được, một hồi sẽ tự tắt thôi!”
Chịu đựng được một lúc, hai người chỉ cảm thấy bốn phía nhiệt độ càng ngày càng cao, không khí cũng càng ngày càng ít đi, A Mạch thầm nghĩ lúc này thật đúng là xong rồi, nếu phải chết cháy ở trong này, không bằng ra bên ngoài chịu một đao còn thống khoái hơn, liền hướng về phía Từ Tú Nhi hô: “Đi, chúng ta lao ra đi!”
Từ Tú Nhi lắc lắc đầu, khóc nói: “Chân ta đã nhũn ra rồi, không động đậy nổi nữa.”
A Mạch miệng mắng hai câu, đội chăn lên đỉnh đầu, một tay bế đứa nhỏ, một tay kéo Từ Tú Nhi hướng ra cửa, mới vừa đi được hai bước, cánh cửa đã bị người bên ngoài phá bung ra, cái chăn trên đỉnh đầu chăn lập tức bị kéo xuống, Đường Thiệu Nghĩa toàn thân là máu đứng ở trước mắt, trong ánh lửa càng giống như quỷ Tu La dưới địa ngục. Hắn đoạt lấy đứa nhỏ trong lòng A Mạch, liếc mắt nhìn A Mạch cùng Từ Tú Nhi một cái, đem Từ Tú Nhi xốc lên vai, xoay người phóng đi. A Mạch thấy hắn không nhìn ngó gì đến mình, cũng không buồn mắng hắn vong ân phụ nghĩa, theo hắn chạy ra khỏi phòng.
Ba người vừa vọt ra tới sân, chỉ nghe thấy âm thanh rầm rầm phía sau, ngôi nhà đã bị lửa thiêu cháy, đổ sụp xuống.
A Mạch đặt mông ngồi phịch xuống đất, nhìn ánh lửa ngút trời đến ngẩn cả người, trong lòng sợ hãi, nếu chậm một chút nữa thôi thì chỉ sợ bản thân mình đã táng mệnh trong biển lửa. Từ Tú Nhi bị Đường Thiệu Nghĩa thả xuống, cũng hoảng sợ xụi lơ trên mặt đất, một lúc sau nàng mới nhìn rõ bốn phía đều là thi thể của binh lính Bắc Mạc nằm la liệt, sợ tới mức hét lên một tiếng, nhào vào trong lòng A Mạch. A Mạch vốn định đứng dậy, mông vừa rời đất không đến hai thước[1] đã bị Từ Tú Nhi nhào đến, mông lại rơi bịch xuống đau điếng khiến A Mạch nhe răng há miệng hít hà một hơi dài. Nhìn thấy Từ Tú Nhi còn ở trong lòng mình la thét chói tai, rơi vào đường cùng đành phải cứng rắn bịt kín miệng nàng lại, thấp giọng an ủi nửa ngày mới làm cho Từ Tú Nhi an tĩnh.
[1]. Hai thước: 1 thước chừng 20cm, 2 thước khoảng 40cm.
Đứa nhỏ trong lòng Đường Thiệu Nghĩa vẫn khóc lớn, không biết là bị sặc khói hay là chịu hoảng sợ quá lớn. Trong lòng Từ Tú Nhi bắt đầu trào dâng lên bản năng nguyên thủy của loài người – tình mẫu tử, nên không đành lòng để đứa nhỏ khóc lên khóc xuống, đi đến bên cạnh Đường Thiệu Nghĩa nhẹ giọng nói: “Quân gia, để ta bế đứa nhỏ đi, cứ khóc mãi như vậy không tốt.”
Đường Thiệu Nghĩa đang bị tiếng khóc của đứa nhỏ này làm cho choáng váng cả đầu óc, nghe vậy liền đưa cho Từ Tú Nhi. Nói đến cũng lạ, khi đứa nhỏ kia được Từ Tú Nhi ôm vào lòng quả nhiên liền nín khóc, chỉ tròn mắt nhìn Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi vừa mừng vừa sợ, nhịn không được quay đầu về phía A Mạch nói: “Ngươi xem, đứa nhỏ này rất đáng yêu nha!”
A Mạch cũng thấy kỳ quái, đứng dậy đến bên Từ Tú Nhi nhìn đứa nhỏ, thấy nó bất quá chỉ là một hài tử mũm mĩm chừng tám, chín tháng, trên người quần tã được làm từ chất liệu tinh tế, vừa thấy liền biết không phải con nhà bình thường. A Mạch quay đầu liếc mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa một cái, thấy hắn có chút đăm chiêu nhìn về phía bên này, giật mình, nương người đến gần đứa nhỏ, ghé vào bên người Từ Tú Nhi thấp giọng nói: “Đem đứa nhỏ trả lại cho hắn, chúng ta nhanh chóng rời khỏi nơi này thôi.”
Từ Tú Nhi sửng sốt, mê hoặc nhìn về phía A Mạch, mặc dù không biết A Mạch vì sao lại làm vậy, nhưng trải qua nửa đêm ở chung, trong lòng sớm đã cực kỳ tín nhiệm A Mạch, hiện tại nghe A Mạch nói như vậy, chính là thoáng ngẩn người, rồi cũng không hỏi nhiều, liền đưa đứa nhỏ trả về cho Đường Thiệu Nghĩa: “Quân gia, đứa nhỏ này trả lại cho ngài.”
Không ngờ Đường Thiệu Nghĩa không đón lấy mà mày kiếm cau lại, lạnh giọng nói: “Người Bắc Mạc rất nhanh sẽ tìm đến, nơi này không thể ở lâu được.” Nói xong đi đến cởi quân phục trên thi thể mấy tên lính Bắc Mạc, ném một bộ cho Từ Tú Nhi, ra lệnh: “Chạy ra đằng kia mặc vào, nhanh lên!”
A Mạch thấy quả nhiên không ngoài dự liệu của chính mình, người này thấy đứa nhỏ ở trong lòng Từ Tú Nhi thì nín khóc, liền muốn để Từ Tú Nhi ôm đứa nhỏ thay hắn, vừa rồi có nhiều lính Bắc Mạc đuổi giết hắn như vậy, chỉ sợ Từ Tú Nhi theo hắn ra ngoàicó tới tám chín phần mười là không hay ho. Bình thường A Mạch sẽ không nhàn rỗi mà quản những việc như thế này. Nhưng hôm nay, Từ Tú Nhi từng cứu mình một mạng, nàng thật sự không thể trơ mắt nhìn nàng ấy theo nam nhân này ra ngoài mà chịu chết, chỉ phải cố lấy dũng khí gượng cười nói: “Vị tướng quân này, tiểu muội tử của ta không có công phu gì, theo tướng quân ra ngoài chỉ sợ sẽ liên lụy đến tướng quân. Ta thấy ngài vẫn là nên thừa dịp quân lính Bắc Mạc còn chưa đuổi tới đây mà nhanh ôm đứa nhỏ chạy đi thôi, chúng ta quyết sẽ không nói lộ ra ngài đi về hướng nào.”
Từ Tú Nhi cũng nói: “Đúng vậy, tướng quân, ta không thể đi theo ngài, ta còn phải ở chỗ này chờ cha ta trở về, cha ta cũng là quân nhân đi thủ thành.”