Hễ họ bắt đầu lớn tiếng là bà tôi bắt Rita ngồi xuống giường và cao giọng đọc cuốn Squadron (*) cho nó nghe. “Không phải tôi đã ngăn cản cô rồi sao?” - cha tôi gầm lên. “Ông im đi và đừng có xía vào việc của người khác!” - tiếng mẹ tôi rít the thé. “...
Bóng đen đột ngột hiện ra ngay trên đầu tôi...” - giọng bà tôi run run. Em gái tôi lắng nghe cuộc cãi cọ ở phòng bên với vẻ mặt ngái ngủ, bà tôi vẫn tiếp tục bằng giọng thản nhiên giả tạo. Bên kia tường, mẹ tôi ném chén trà xuống sàn nhà, nước trà nóng sủi bọt bò qua khe cửa ùa vào phòng chúng tôi. Rita co hai chân lên. Dạo trước, hễ cha mẹ tôi bắt đầu la hét, để tỏ thái độ bà tôi lấy bông bịt hai lỗ tai. Còn tôi (nhỏ tuổi cỡ bằng Rita) liếc nhìn bà với vẻ ác cảm trong lúc hoài công chờ đợi bà can thiệp, cất tiếng nói uy thế của người lớn tuổi, để rồi sau đó tôi hiểu ra rằng bà tôi không hề có câu nói mầu nhiệm nào cả, bà chỉ làm ra bộ đang nắm một quyền lực mà hễ động chuyện bà có thể đem ra dọa người khác, và rằng trên thực tế bà cũng bất lực như tôi với Rita...
Nhưng thời gian gần đây bà tôi đã quên bẵng chuyện nhét bông bởi vì xuất hiện mối lo khác quan trọng hơn: không để cho Rita thiếp đi và bị những tiếng cãi cọ qua lại kéo nó trượt dài vào cơn hôn mê, cứ như thần mộng Morpheus thì thào vào tai Rita hòng át những tiếng gào thét bên kia tường và làm đông cứng hai hàng lông mi dài của nó.
Có lẽ trước đây Rita cũng từng rơi vào những giấc ngủ lịm do tác động từ những cuộc cãi cọ dữ dội của cha mẹ tôi, thế nhưng chúng tôi chỉ chú ý tới chuyện này sau vụ chiếc bàn ủi cha tôi mua từ Matxcơva về làm quà và em gái tôi đem nó tặng Galinka, để kiếm chác uy tín với lũ trẻ sống trong khu nhà chúng tôi ở. Không ai ngoài tôi biết con bé Galinka nọ là thế nào đối với Rita, còn cha mẹ tôi thậm chí không hề ngờ rằng có tồn tại một đứa con gái như thế. Tôi cho rằng cả về sau này nữa, không ai có quyền lực tuyệt đối với Rita như Galinka, một con bé mà hết thảy những kẻ nhỏ nhen trong cái thành phố nơi chúng tôi mới chuyển nhà tới đều nể vì, bởi nó luôn vui vẻ, mưu mẹo, chạy nhanh hơn mọi người, nhảy cao hơn mọi người và nói chung mọi việc nó động tay tới đều mỹ mãn hơn những người khác.
Khá lâu sau khi dọn tới đây chúng tôi vẫn cảm thấy cô độc, nhưng rồi Rita thích ứng nhanh hơn tôi. Nó bộc lộ ý chí và sự kiên trì nhằm hòa nhập vào không gian sống mới, chinh phục những người cũ. Rita hi vọng tạo cho mình một gia đình khác, đầm ấm hơn, đan một cái tổ nhỏ ở đâu đó dưới gốc nấm, chậu cát, bởi lẽ những vụ cãi cọ trong gia đình như những trận cuồng phong thỉnh thoảng lại quét qua ngôi nhà của chúng tôi, thổi sạch chút hơi ấm còn sót lại và khiến cho sự sống không thể lớn lên ở đó.
Chả mấy chốc, bạn bè của Rita bắt đầu đứng dưới sân kêu réo nó. Rita bước ra bancông với dáng điệu tựa nữ hoàng bước ra gặp thần dân của mình, kiêu hãnh nhủ thầm rằng không có mặt nó sẽ chẳng có cuộc chơi nào thành. Không phải lúc nào những lời cầu xin dai dẳng và quị lụy mong cha tôi cho phép Rita xuống sân chơi cũng thành công vì ông chúa ghét tiêu phí thời gian vô ích. Tuy vậy, học sách của Galinka, Rita luôn bước ra bậc cửa với vẻ mặt thản nhiên, làm như nó ra chậm là vì bận việc riêng, mải bận dạy con mèo chìa chân ra bắt tay khách.
Tôi không đủ sức làm những trò ranh ma đó. Vốn thẳng tính giống cha, khi ông từ chối cho tôi xuống phố chơi tôi chỉ biết đáp lại bằng những tiếng nức nở nghẹn ngào. Trả lời câu hỏi của ông rằng tôi thích xem phim gì, tôi thật thà gọi tên Fantomas nổi loạn, mặc dù lúc đó rõ như ban ngày là tôi phải nhắc tới Vương quốc của những chiếc gương cong - một phim có mục đích giáo dục đối với những đứa trẻ như tôi. Tuy vậy, tôi vẫn luôn khinh bỉ con em gái đa mưu và dối trá cuối cùng cũng bị ông bố chất phác của tôi cho một trận ra trò, nhờ một chiếc bàn ủi...
Rita đem nó tặng cho Galinka. Tặng, đơn giản là tặng thế thôi, làm như em tôi có toàn quyền sử dụng chiếc bàn ủi theo ý nó; tặng với vẻ mặt hệt như sắp tới nó có thể dâng cho Galinka cả ngôi nhà của chúng tôi, còn cái bàn ủi có gắn bóng đèn đỏ trên tay cầm chỉ là món vặt vãnh, chẳng đáng một lời cảm ơn. Không hề ngờ vực điều gì, Galinka cầm lấy chiếc bàn ủi trong lúc Rita đưa tiễn nó bằng ánh mắt tuyệt vọng vì Rita biết (và không thể không biết) rằng cha tôi sẽ không tha cho nó khi ông hay chuyện này. Galinka chơi với chiếc bàn ủi một chốc rồi ngay trong buổi chiều tối đó nó đã quên bẵng món đồ, còn Rita không tài nào chợp mắt được. Nó lăn qua lăn lại và ho khục khặc, cố nghĩ ra căn bệnh nào đó có thể giúp nó trì hoãn giờ trừng phạt, còn ban ngày nó không dám chường mặt trước mắt cha tôi.
Tôi ở trường về tới nhà và thấy ngay rằng Rita đang ở chính tâm của trận động đất, treo trên đầu nó là ngọn núi đá lừng lững - cha tôi đang trong cơn giận dữ cùng cực. Ông đang tra vấn: chiếc bàn ủi cha cất công mang từ thủ đô về nay ở đâu. Trong những lúc như thế, cha tôi thường dùng ngôi thứ ba để tự xưng, làm như ông đã tách khỏi cơn giận dữ của chính ông và tự cho mình là quan tòa đứng giữa cô bé hư hỏng, lơ đễnh và người cha chu đáo. Rita đứng đó, cổ thụt sâu vào hai vai, và mặc dù chưa ai động tới nó một ngón tay, giọng nói như sấm rền của cha tôi vẫn làm Rita run bắn. Và thế là tôi quyết định cứu vớt nó...
Nói thật, lúc đó tôi không nghĩ tới chuyện cứu Rita. Thói tính toán ranh ma của nó khiến tôi phát ói, hơn nữa tôi chợt nhớ tới lời giáo huấn của ông thầy giáo dạy môn lịch sử còn trẻ nhưng được chúng tôi rất khoái. Một lần nọ, thầy lẳng lặng tới sau bàn học của tôi đúng lúc tôi đang tuồn cho cô bạn ngồi bên mẩu giấy ghi những mốc thời gian đáng nhớ trong cuộc khởi nghĩa Pugachev và quát tướng vào tai tôi: “Thân ai nấy lo”.
Nhưng đột nhiên tôi lại muốn ở vào vị trí của Rita, thử nghiệm để biết xem trong những trường hợp như vậy liệu con người ta có thể bộc lộ sự can đảm. Tôi bước lên phía trước và líu lưỡi nói như mọi đứa trẻ con trong tình thế tương tự:
- Ba, ba tha lỗi cho con. Hôm qua, con đang cùng Rita chơi chiếc bàn ủi thì Zina Zimina tới hỏi xem bài tập đại số cho về nhà gồm những gì vì bạn ấy bị bệnh phải nghỉ học. Bạn ấy hỏi: “Ôi, ở đâu ra mà các cậu có chiếc bàn ủi đẹp thế?”. Rita trả lời: “Bàn ủi này ba mình đem từ Matxcơva về đấy”. Zina lại nói: “Ôi, thế mình có thể mượn nó đem về cho ba mình xem, để ba mình cũng đem từ Matxcơva về cho mình một cái có gắn bóng đèn đỏ hệt như cái của các cậu?”. Con biết rằng không được đưa đồ nhà mình cho người khác khi chưa xin phép ba, nhưng bà và mẹ chẳng ai có nhà, còn ba đang ở trong phòng làm việc và không muốn bị quấy rầy...”.
Tôi nói liền một hơi, nghe có vẻ ngây thơ, tuy nhiên sau đó khi suy xét kỹ lại lời lẽ của mình tôi nhận ra rằng tôi không sơ suất tí gì, hệt như là có ai đó rất khôn ngoan đã mách nước cho tôi. Mọi chi tiết đều được tính toán kỹ: nào là nhắc tới Zina, con gái của ông sếp nơi cha tôi làm việc (cả nhà tôi ghét ông ta), nào là nói bóng gió tới bệnh tật của con bé, nào là toan tính rằng cha tôi sẽ ngần ngại, không muốn làm phiền sếp chỉ vì một chuyện cỏn con. Những lời nói tán dương khéo léo dành cho cha tôi sẽ thổi bay cơn giận dữ của ông và làm cho lỗ tai ông trở nên “mềm” hơn.
Ngay lập tức, bằng kinh nghiệm bản thân, tôi hiểu ra rằng sự lừa dối công hiệu biết chừng nào vì gương mặt cha tôi giãn ra, bàn tay to tướng của ông đặt nhẹ lên đầu Rita. Cơn bão lặng dần... Không chần chừ dù chỉ một phút, tôi chuồn ra khỏi nhà và lao tới chỗ Galinka. Tôi hiểu: sẽ là một sự sỉ nhục khủng khiếp đối với Rita nếu tôi đòi lại món quà Rita tặng Galinka nhưng tôi không còn lựa chọn nào khác.
Galinka không có nhà. Tôi lúng búng nói với mẹ Galinka về chiếc bàn ủi. Xem ra vẻ mặt tôi có sức thuyết phục hơn lời nói bởi vì không buồn nghe tôi nói hết, mẹ Galinka chỉ cho tôi thùng đồ chơi. Tôi rúc đầu vào thùng lục lọi và tìm thấy chiếc bàn ủi ở tận đáy thùng. Quên cả cảm ơn, tôi vội chạy xuống cầu thang, vừa đi vừa lấy khăn tay chùi chiếc bàn ủi, leo lên tầng gác chúng tôi ở và trình nó cho cha tôi. “Được rồi, được rồi” - cha tôi lơ đễnh đáp và tiếp tục gõ máy đánh chữ.
Đối với cha tôi, chuyện chiếc bàn ủi chỉ là một sự cố nhỏ mang tính giáo dục.
Ông không bao giờ ngờ rằng chiếc bàn ủi nhỏ nhưng lại có tác động như bánh xe lu bằng sắt đã cán bẹp cuộc đời của Rita, vắt kiệt lòng can đảm và sự cẩn trọng nơi cô em gái tôi, và rằng cho dù số phận của em tôi có xoay vần tới đâu chăng nữa vẫn có thể nhận ra dấu ấn của chiếc bàn ủi, để rồi trong những năm tháng tiếp theo dù tôi đã tiếp thu được thói khôn ngoan thường tình của Rita, tôi vẫn không thể giúp gì được cho nó.
Trưng vẻ mặt hờ hững, ra bộ chuyện tôi qua mặt cha tôi chẳng đáng gì, tôi bước vào phòng và thấy Rita đang ngồi trên giường gật gù. Tôi ngồi xuống cạnh nó thì thào: “Ổn rồi, bàn ủi đây này”. Nhưng người Rita vẫn lắc lư, hai mắt nhắm nghiền. Tôi bèn nói: “Nghe này, Galinka sẽ chẳng nhớ tới chiếc bàn ủi đâu. Nó không có nhà”.
Hấp háy hai con mắt, Rita kéo tuột tấm khăn phủ trên chiếc gối, nằm dài lên đống chăn nệm ngủ một mạch tới chiều. Nó ngủ say tới nỗi mọi người phải dựng nó dậy để đánh răng tối. Qua ngày hôm sau, cha tôi cho phép Rita xuống phố chơi nhưng nó im lặng lắc đầu. Từ dưới sân, bọn trẻ con réo vọng lên “Rita, ra đi nào!”, nhưng cô em gái tôi không bước chân ra tới bancông. Rita chuyển sang đi dạo cùng cha tôi trong công viên, nó bám cha tôi như bị dính keo, thế nhưng khi cha mẹ tôi bắt đầu cãi nhau, Rita đột nhiên rơi vào hôn mê.
Ngẫu nhiên bà tôi phát hiện ra chuyện này và đâm ra sợ rằng không khéo cháu gái của bà sẽ có một lúc nào đó thiếp đi vĩnh viễn. Vì thế, vào cái ngày mẹ tôi đập tách trà xuống sàn nhà, cô em gái tôi bắt đầu gật gù mơ màng, bà tôi gập vội cuốn Squadron đang đọc dở lại và hai bà cháu tôi dìu Rita ra cầu thang. Chúng tôi bỏ lại sau lưng cuộc khẩu chiến: tôi trượt theo tay vịn, bà tôi một tay dắt Rita, tay kia cầm gậy dò dẫm từng bậc cầu thang. Ra tới phố, xử sự hệt như những người khách lịch sự vừa vô tình bắt gặp gia chủ đang cãi nhau, bà cháu tôi bắt sang những chuyện khác.
Thành phố trẻ trung của chúng tôi trải rộng đôi vai lực lưỡng trên những ngọn đồi Jigulyeski. Nó còn mới tinh, rắn chắc như một hạt hồ đào. Bà tôi vừa cúi xuống ngửi một bụi hồng bên hàng rào đang tỏa hương ngào ngạt, vừa nói với vẻ thoáng buồn rằng trong một thành phố trẻ chỉ những người trẻ mới hạnh phúc.
Trong thành phố có nhiều cỏ cây, hoa trồng trong những bồn tròn hoặc chữ nhật. Giống như người, hoa cũng tụ thành từng khu vực. Giới trưởng giả và những người tiên phong xây dựng thành phố sống ở khu trung tâm, nơi tọa lạc của quảng trường lớn nhất thành phố được trang điểm bằng những luống hồng thuần chủng. Dọc theo phố chính những bông thược dược màu đỏ boọcđô và những bông cúc trắng vàng cánh kép vui vẻ lắc lư tán hoa trước gió, những chậu hoa cúc đơn chạy dài theo các phố khác, hoa layơn được trồng trên những ô hẹp trên các bậc thềm, khu ngoại ô thoang thoảng mùi đinh hương và vô số những loài hoa dại khác.
Co chân nhảy qua bồn cỏ trước mặt chúng tôi, ông giáo trẻ dạy sử tinh nghịch của tôi chào cả ba bà cháu bằng một cái gật đầu chung và vui vẻ hỏi: “Mấy bà cháu đi chơi à?”. “Đâu có, đâu có...” - bà tôi lịch sự phản đối, còn tôi nói to đuổi theo ông giáo: “Đi chơi chứ còn đi đâu nữa!” và quay sang bà, tôi cay cú nói trỏng: “Giá mình với Ritka có được ông bố như thế!”. Quả tình tôi đang dọ dẫm tìm những đường ranh trong xử sự với bà sau khi hiểu ra rằng bà chỉ biết mỗi việc lấy bông bịt tai, còn để bênh vực các cháu... bà chẳng khác gì chiếc sáo rỗng. Nếu bà không tính sổ tôi về câu nhận xét vừa rồi về ông giáo thì có nghĩa là bà đã yếu thế, tôi tha hồ làm xiếc trước mặt bà.
Bà tôi không thể mãi im lặng - mặc dù tôi cho rằng làm như thế sẽ hay hơn - mà không nhận xét gì, thế nên bà tôi chuyển sự chú ý sang khía cạnh khác. “Không phải Ritka mà là Rita” - bà tôi chỉnh lại.
Tiếp theo, chúng tôi đi ngang qua một nhóm các bé gái đang ríu rít với nhau bằng giọng trẻ con thánh thót mà cha tôi rất thích. Tóc chúng cột bằng những chiếc nơ to tướng vải lanh bóng loáng dưới ánh nắng mặt trời, đầu gối đầy những vết sẹo trầy xước thường thấy ở trẻ con. Đến khi bước chân Rita trở nên nặng nề và loạng choạng, chúng tôi ngồi xuống một chiếc ghế dài trong công viên. Bà tôi lại lẩm bẩm: “Là người trẻ tuổi trong một thành phố trẻ như thế này thật là tuyệt...”, riêng tôi chỉ cười khẩy khinh miệt, bởi tôi ghét thành phố này và nghĩ rằng nếu tôi thoát được ra khỏi nơi đây không gì có thể lôi kéo tôi quay trở lại. Suốt đời tôi sẽ nhớ tới thành phố này như nhớ tới một cơn mộng mị khó chịu.
(...Vậy thì tại sao bây giờ thành phố này vẫn luôn vẫy gọi tôi đến với nó? Ai trong hai chúng tôi là kẻ không thể thiếu được? Vượt qua khoảng cách, thành phố vẫn tới với tôi bằng hình ảnh của những con phố, từng vườn hoa riêng lẻ, những mái vòm hình chóp, nhưng để mà làm gì khi tất cả những thứ đó từng được xếp đặt theo một trật tự khác, khiến tôi bây giờ đâm ra ngỡ ngàng tới độ không kiếm nổi đường tới hiệu thuốc...
Cũng có lúc, bạn xuyên qua màn sương mù để đi theo con đường quen thuộc nhưng rốt cuộc bạn không thể tới được tòa soạn báo Ngọn Cờ từng đăng những bài thơ rất buồn cười của bà tôi. Tôi nằm mơ thấy hai bancông ngôi nhà của chúng tôi: phía dưới một cái là nơi các đám cưới hay tụ tập hát hò, dưới cái còn lại - những đám tang chậm rãi diễu qua.
Trong giấc mơ chúng đổi chỗ cho nhau. Tôi nhìn xuống và ngạc nhiên: dàn nhạc đám ma đứng trong bồn cát trẻ em chơi, chân cẳng các nhạc công xoạc ra như họ đang đứng trên mặt băng, rồi đột nhiên một nốt nhạc nhảy lóc chóc như chim sẻ ngay trên đỉnh cột lưới tennis. Cũng có khi cả thành phố co rút lại, mọi thứ chui tụt vào một chi tiết - kiôt bán cà rem cạnh rạp hát. Ngồi bên tôi là những người tôi muốn thết đãi cà rem nhưng không một lần nào tôi thành công: tôi mò tìm tiền lẻ trong túi áo mãi cho tới khi chính tôi bị trôi tuột vào cõi tối tăm đó. Sau đó tôi thấy mình buồn bã đứng trong bưu điện để gửi một ít tiền cho Rita, còn bà thì tôi không gửi gì, bởi vì trong mơ cũng như khi tỉnh tôi nhớ rõ rằng ở cái xứ mà bà tôi hiện đang sống, tiền là thứ không có thật...)
Chúng tôi ngồi đối diện với rạp chiếu phim, mấy ngón tay táy máy vò nát những bông hoa mõm chó. Bỗng bà tôi thốt lên:
- Tin mới! Kiôt cà rem mở cửa! Cả trăm năm nay bà chưa được ăn cà rem!
Em gái tôi tươi tỉnh lại. Chúng tôi sán lại gần kiôt và đứng ngay trước lỗ cửa nhỏ: đúng vậy, cà rem được chứa trong những chiếc thùng trữ lạnh, một chị bán hàng đang cầm kéo cắt bao đựng cọc ly làm từ bánh quế giòn tan. Bà tôi gác cây gậy chống tựa vào tường kiôt, vỗ khắp các túi nhưng cũng như mọi lần ví tiền đã nằm lại ở nhà. Cả hai, tức bà và Rita, nhìn tôi hi vọng. Tôi đưa mắt ngó sang bên, ráng giữ cho mớ tiền lẻ trong túi khỏi kêu leng keng. Những đồng tiền của tôi cũng đang nín thở. Bà bảo:
- Bà sẽ trả lại cháu khi về tới nhà.
Nhưng tôi không còn tin bà nữa. Bà tôi không thích trả nợ. Có khi tôi mua kẹo cho bà và Rita bằng tiền tiết kiệm được ở trường, nhưng sau đó bà bảo rằng bà đã đưa hết tiền lương hưu của bà cho mẹ, tệ hơn bà còn tỏ vẻ ngạc nhiên, nói oang oang để cha tôi nghe được rằng “cháu cần tiền làm gì?”. Nhưng tôi đang tích tiền cho một món rất cần. Ngày nào tôi cũng chạy ra cửa hàng xem người ta đã mua hết chưa.
Rita giật tay áo tôi nhưng tôi ngoảnh mặt đi. Lý do không phải ở món đồ lâu nay tôi tích tiền để mua. Tôi đứng đó và suy nghĩ: tất cả các người cứ tùy thích mà sống! Ai là người giúp đỡ tôi khi cha tôi cú đầu tôi? Không ai bênh vực tôi mà còn coi việc ông bắt tôi phải gánh một cái lỗi vô cớ là hoàn toàn thích đáng.
Các người biến hết đi! Đã nhiều lần nước mắt tôi trào ra ướt đầm, Rita ngủ yên lành, còn bà tôi thì ca cẩm: “Hôm nay cháu đã đóng thêm một cái đinh nữa vào quan tài cha cháu!”. Riêng mẹ chỉ lặng lẽ đem cho tôi đang nằm trên giường một chiếc khăn mặt ướt. Mỗi người sống trong cái hốc của mình, nếu muốn sống - hãy học lấy cách xoay xở, ông giáo trẻ dạy sử của tôi nói có vẻ như đùa nhưng tôi biết rằng tôi đang nhìn suốt tới tâm can mọi người. Nhưng ông giáo không đùa, ông ta nghĩ như vậy, ông ta tin rằng thân ai nấy lo. Mỗi người tự kiếm cách tùy theo khả năng, chẳng có việc gì để phải nhìn tôi bằng con mắt oán trách!
Tôi quay lại phía hai bà cháu Rita để giải thích tại sao tôi không thể rời xa những đồng tiền của mình và bỗng nhiên tôi đâm ra ngạc nhiên về sự giống nhau bất ngờ giữa họ... Cả hai đều nhìn tôi với vẻ mặt như nhau, bằng đôi mắt trẻ con to tròn không hề gợn chút ranh mãnh mà chỉ có ham muốn được nhấm nháp cà rem. Họ nhìn tôi và tựa hồ đang liếm môi chực sẵn. Bất giác tay tôi dúi sâu những đồng tiền của tôi - cùng với cái khôn ngoan thường tình vừa học được - xuống tận đáy túi để chúng không thể ngẫu nhiên rớt ra, không thể bỏ tôi mà đi.
--------
(*) Squadron: tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Thomas Mayne Reid