Lục chỉ cầm ma - Nguồn Nhạn Môn Quan (Trọn Bộ 49 chương)
Lục Chỉ Cầm Ma
Tác giả: Nghê Khuông
Dịch Thuật: Vô Danh
Mạnh Thường Quân: Đoàn Ngọc & Lam Đại Ngọc
Đả tự: Các cao thủ Nhạn Môn Quan
Nguồn: nhanmonquan.com
Chương 1
Chuyện Đâu Lại Quá Lạ Lùng
Quái Khách Tìm Đến Quần Hùng Hãi Kinh
Đả tự: Babothanlong
Nguồn: nhanmonquan.com
Vần Thơ Thay Tựa Cầm Ca Chủ nhân hữu tửu hoan kim tịch,
Thỉnh tấu minh cầm Quảng Lăng khách.
Nguyệt chiếu thành đầu ô bán phi,
Sương thê vạn mộc phong nhập y.
Đồng lư hoa chúc, chúc tăng huy,
Tiên đàn Lục Thủy hậu Sở Phi.
Nhất thanh dĩ động vật giai tịnh,
Tứ tọa vô ngôn tinh dục hy.
Thanh Hoài phụng sứ thiên dư lý,
Cảm cáo vân sơn tùng thử thủy
(Lý Kỳ) Tạm dịch: Đêm nay bày rượu đãi đằng,
Chủ mời ông khách Quảng Lăng tấu đàn.
Trăng soi ô thước bàng hoàng,
Sương vương nhành lá, gió ngàn hắt hiu.
Nến vui, trầm tỏa phiêu diêu,
Trước đàn Lục Thủy, lại dìu Sở Phi.
Tiếng đàn vừa trỗi tức thì,
Bốn bề phẳng lặng, sao kia cũng mờ!
Thanh Hoài hoạn lộ thờ ơ,
Từ nay đã quyết nương nhờ núi mây!
(Phương Thảo)
Gió to đang lộng, một ngọn đại kỳ không ngớt giũ nghe rèn rẹt.
Đấy là một ngọn cờ màu lam, bên trên thêu một con hổ xinh xắn và hết sức khéo léo, nhìn qua chẳng khác nào một con hổ sống đang vươn mình như muốn vồ tới trước. Bên dưới con hổ ấy, lại có thêu bốn chữ to Thiên Hổ Tiêu Cục.
Lá cờ to ấy được cắm trên nóc nhà Thiên Hổ Tiêu Cục cao vòi vọi.
Có thể nói Thiên Hổ Tiêu Cục là một tiêu cục to nhất trong năm tỉnh ở phía nam. Hàng hóa mà tiêu cục này nhận áp tải mỗi chuyến có giá trị đến mấy vạn lượng bạc. Nhưng từ xưa đến nay, chưa hề xảy ra một chuyện chi đáng tiếc cả.
Sở dĩ có như vậy, chẳng phải số nhân vật trong phe hắc đạo không biết động lòng tham trước những của quý báu ấy, mà chính vì họ biết vị chủ nhân của Thiên Hổ Tiêu Cục, tức Thiên Hổ Lữ Đằng Không và người vợ của ông ta là Tây Môn Nhất Nương, đều chẳng phải hạng người dễ trêu chọc.
Thiên Hổ Lữ Đằng Không là một nhân vật tài ba lỗi lạc, một đệ tử tại gia ưu tú của phái Nga My, cả về hai mặt nội ngoại công đều cao cường tuyệt đỉnh. Những nhân vật võ lâm thông thường khác, đến lúc tuổi già như ông ta, hầu hết đều tìm đến sơn lâm để quy ẩn, an nhàn trong cuộc sống thoát ly trần tục. Nhưng riêng Lữ Đằng Không thì trái hẳn, vẫn một mực lưu lại trong giới giang hồ, mở Thiên Hổ Tiêu Cục tại thành Nam Xương.
Lữ Đằng Không đối nhân xử thế tỏ ra rất có nghĩa khí, nhưng cá tánh của lão ta có một chỗ nhược, ấy là lúc nào cũng tham lam tiền tài. Tuy nhiên, có thể nói đấy là cái bịnh chung của người đời, vì ngay Khổng Phu Tử cũng đã từng nói: "Sự giàu có nếu có thể tìm đến được, thì dù cho một người làm nghề dạy học như tôi cũng không chối từ!" (Phú nhược khả cầu, tuy chấp tiền chi sĩ, ngô diệt vi chi! ) Với danh vọng của Thiên Hổ Lữ Đằng Không, từ trước đến nay dù tiêu cục của ông ta cần phải áp tải một số hàng hóa giá trị đến muôn ngàn lạng bạc đi nữa, ông ta vẫn chẳng cần phải đích thân bước ra điều khiển. Trái lại, ông ta chỉ cần phái một tiêu sư thay mặt ông ta lo việc chỉ huy, đồng thời cắm trước đoàn xe lá cờ Thiên Hổ Tiêu Cục là mọi việc sẽ được kết quả mỹ mãn, chẳng hề xảy ra chuyện chi bao giờ.
Vì tất cả những nhân vật hắc đạo, dù cho dám đối kháng thẳng với Lữ Đằng Không, dám đối kháng với vô số cao thủ tại gia, cùng các tăng nhân của phái Nga My đi nữa, thì e rằng cũng không làm sao đối kháng nổi với Tây Môn Nhất Nương cùng quần hùng của phái Điểm Thương. Bởi lẽ Tây Môn Nhất Nương tuy cư ngụ tại thành Nam Xương, nhưng kỳ thực bà ta là sư tỷ của vị Chưởng môn phái Điểm Thương ở Vân Nam, tức Lăng Tiêu Nhạn Khuất Lục Kỳ.
Vị Chưởng môn phái Điểm Thương là người sở trường về kiếm pháp. Thanh trường kiếm của ông ta xuất quỷ nhập thần, không ai là không kiêng sợ. Do đó, tên tuổi của ông ta trong võ lâm thật ra không kém sút chi so với Lữ Đằng Không cả.
Bởi thế, đời sống của Lữ Đằng Không ngoại trừ việc tiếp tục là rèn luyện dùi mài võ công, còn thì suốt tháng năm chỉ ở trong nhà vui chơi với con, hoặc giao du cùng với bạn bè để luận đàm về những giai thoại xảy ra trong giới giang hồ mà thôi! Lữ Đằng Không đến năm năm mươi mốt tuổi, thì bà vợ là Tây Môn Nhất Nương mới hạ sanh đứa con trai lấy tên là Lữ Lân.
Năm nay Lữ Lân vừa đúng mười hai tuổi. Ngay từ lúc Lữ Lân hãy còn nhỏ, thì vợ chồng của Lữ Đằng Không đã sưu tập cất sẵn những linh dược tiên thảo, uống vào có lợi cho người rèn luyện võ công, để cho Lữ Lân dùng. Vì hai vợ chồng ông ta quyết tâm sẽ đào tạo Lữ Lân trở thành một con người võ công cái thế sau này.
Do đó, đến năm Lữ Lân vừa lên tám, thì hai vợ chồng của Lữ Đằng Không đã bắt đầu truyền dạy võ công cho cậu ta. Bởi thế, Lữ Lân tuy tuổi hãy còn nhỏ, nhưng về mặt võ học cũng đã có một trình độ khá cao cường. Đồng thời, võ học của cậu ta lại tập trung được sở trường của hai môn phái Nga My và Điểm Thương, nên nhân vật giang hồ ai ai cũng ngợi khen, và cho rằng tương lai của Lữ Lân chắc chắn sẽ trở thành bậc anh tài xuất chúng trong võ lâm sau này.
Hôm ấy, trời thu cao vút và trong veo, không hề thấy một áng mây, khí hậu mát mẻ làm ai cũng cảm thấy sảng khoái trong người. Trên nóc nhà Phiêu Hổ Tiêu Cuộc, lá cờ to đang bay phất phơ theo chiều gió lộng. Những tên phu xe đang ngồi trước thềm cùng nói chuyện kháo, bất thần nghe có tiếng mấy người hỏi to lên rằng:
- Chẳng hay Lữ Tổng tiêu đầu có ở nhà không? Bọn phu xe giật mình đưa mắt nhìn lên, thì trông thấy có bốn gã đàn ông ăn mặc theo lối gia đinh, nhưng y phục tươm tất sạch sẽ, chứng tỏ họ là gia nhân của một gia đình giàu có trong vùng.
Bởi thế, vị tiêu đầu có trách nhiệm tiếp tân trong tiêu cục không dám chểnh mãng, vội vàng lên tiếng hỏi:
- Ông ấy hiện đang có mặt ở nhà, song chẳng hay quý quản gia có điều chi chỉ dạy? Bốn gã đàn ông ăn mặc theo lối gia đinh ấy không đáp lời chi cả, trái lại, cùng nhanh nhẹn quay lưng bỏ đi tuốt ngay.
Vị tiêu đầu trông thấy thế thì không khỏi ngơ ngác, chẳng hiểu đối phương có thái độ như vậy là vì đâu. Nhưng cũng liền ngay sau đó, vị tiêu đầu trông thấy có một người đàn ông khác, ăn mặc sang trọng, vừa nhìn qua thì đã có thể đoán biết đấy là một vị quản gia của một gia đình giàu có, đang đưa chân bước thẳng đến nơi. Trong tay của người đàn ông ấy có bưng một cái hộp bằng gấm, và lên tiếng nói:
- Xin ông vui lòng bẩm lại cho Tổng tiêu đầu biết là tại hạ muốn xin ra mắt.
Làm nghề tải hàng mà trông thấy có khách hàng tìm đến, thì không ai lại dám tỏ thái độ vô lễ bao giờ. Nhưng vị tiêu sư ấy vừa rồi đã bị bốn tên gia đinh kỳ quái kia làm cho trong lòng không khỏi bực bội. Hơn nữa, giờ đây y lại nhìn thấy trên chiếc mũ của vị quản gia này có khảm một miếng ngọc xanh lóng lánh, trông giống miếng ngọc khảm trên mũ của bốn tên gia đinh vừa rồi, nên không khỏi có thái độ bực tức lây. Bởi thế, y liền cất giọng gắt gỏng nói:
- Có phải ông mang vật quý báu chi đến, để nhờ tiêu cục chúng tôi áp tải hay không? Ông trao cho tôi là được rồi! Đây là vật chi thế và định áp tải đi đâu...? Sao ông không nói mau cho tôi được biết? Trong khi người tiêu sư ấy cất tiếng hỏi dồn, thì gã đàn ông có dáng điệu giống như người quản gia ấy vẫn giữ nét tươi cười. Y chờ cho vị tiêu sư nói dứt lời, mới thong thả nói rằng:
- Việc này thật ra tôi không dám tự động, vì đây chính là việc của chủ nhân tôi sai bảo.
Vừa rồi, vị chủ nhân của tôi có dặn, là phải trao đến tận tay của Lữ Tổng tiêu đầu, vậy xin phiền ông vào trong bẩm lại cho, thì thực tôi cảm tạ vô cùng.
Vị tiêu sư ấy vốn có ý muốn to tiếng cãi vã cho hả cơn tức giận, nhưng vì trông thấy thái độ của người khách hàng vẫn một mực hòa nhã, nên y cũng phải đè nén sự tức bực trở xuống. Và y bèn đưa đôi mắt nhìn từ đầu đến chân người khách hàng một lượt để dò xét, rồi lên tiếng nói:
- Tôi sẽ vào trong bẩm lại cho Tổng tiêu đầu biết đây, vậy ông hãy ngồi chờ đợi trong giây lát.
Người quản gia đáp:
- Vị chủ nhân của tôi là người họ Tề, vậy ông vào bẩm cùng Lữ Tổng tiêu đầu, nói tôi là người của nhà họ Tề phái đến là được rồi.
Vị tiêu sư ấy cau mày nghĩ ngợi, vì y đã làm nghề áp tải hàng tại thành này từ lâu, phàm những gia đình giàu có mang hàng đến gởi áp tải, y đều được biết khá nhiều. Thế nhưng y moi óc nghĩ ngợi mãi, mà vẫn không biết có một gia đình họ Tề nào cả. Trong khi đó, y lại thấy từ cách ăn mặc cho đến cử chỉ của người quản gia đang đứng trước mặt, rõ ràng là người ở trong một gia đình giàu sang, chứ chẳng phải tầm thường, nên không khỏi boăn khoăn nghĩ ngợi mãi để cố tìm ra lai lịch của đối phương. Nhưng cuối cùng y vẫn không làm sao hiểu chi được thêm về người quản gia này cả, nên bất đắc dĩ phải quay lưng đi thẳng vào trong.
Người đàn ông ăn mặc theo lối quản gia ấy, bèn để yên chiếc hộp gỗ bạc gấm lên mặt bàn, rồi đưa mắt nhìn thẳng tấm bảng hiệu Thiên Hổ Tiêu Cục treo trên cao, trong lòng bất giác cười thầm.
Chẳng mấy chốc sau, Thiên Hổ Lữ Đằng Không đã theo chân vị tiêu sư vừa rồi, từ trong bước ra. Đấy là một lão già da dẻ hồng hào, tóc râu bạc trắng, đôi chân bước đi vững vàng, thái độ oai vệ uy nghi, khiến ai nhìn vào cũng phải kiêng sợ.
Thiên Hổ Lữ Đằng Không vừa bước đến nơi, thì gã đàn ông ăn mặc theo lối quản gia ấy, liền nhanh nhẹn cúi mình thi lễ nói:
- Thưa Lữ Tổng tiêu đầu, tiểu nhân là Tề Phúc xin ra mắt.
Lữ Đằng Không khoát tay áo rộng qua một lượt, gây thành một luồng kình lực mạnh mẽ đỡ lấy Tề Phúc, không cho y thi lễ. Nhưng Tề Phúc đã ngầm vận dụng chân lực hất tới, để đỡ thẳng vào luồng kình lực từ tay áo rộng của Lữ Đằng Không vừa cuốn ra. Song chẳng ngờ chính y vì đã dùng sức mạnh để đối kháng với luồng kình lực đó, mà đôi chân đã loạng choạng suýt nữa đã té lăn quay ra đất.
Lữ Đằng Không trông thấy thế bèn mỉm cười nói:
- Thì ra quý quản gia cũng là người am hiểu tuyệt nghệ. Chẳng hay hôm nay quý quản gia đến đây là có chuyện chi cần lão phu tương trợ, vậy xin cứ thẳng thắn nói ra.
Sắc mặt của Tề Phúc không khỏi bừng đỏ, đáp rằng:
- Chiếc hộp gấm này là món hàng mà gia chủ của tiểu nhân muốn đưa đến, để nhờ Tổng tiêu đầu áp tải tới phủ riêng của Ngô Giang đại hiệp, tức Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn ở Tô Châu phủ. Và chủ nhân của tiểu nhân hứa sẽ thù lao trọng hậu.
Lữ Đằng Không cất tiếng cười, nói:
- Đã từ lâu lão phu chẳng hề đích thân bước ra chỉ huy việc áp tải hàng bao giờ. Do đó, có lẽ hôm nay không thể phá lệ trước lời yêu cầu của quý chủ nhân được.
Tề Phúc lộ vẻ luống cuống nói:
- Gia chủ của tiểu nhân có dặn, là nhất định phải nhờ cho được Lữ Tổng tiêu đầu áp tải chiếc hộp gấm này và nếu là người khác thì không thể được! Lữ Đằng Không đưa tay vuốt râu mỉm cười nói:
- Với lá cờ Thiên Hổ của hiệu chúng tôi, dù cho đi khắp thiên hạ vẫn được an toàn, chẳng có điều chi bất trắc xảy ra cả. Phương chi, món hàng này lại áp tải đến phủ riêng của Hàn đại hiệp, thì thử hỏi coi có ai lại dám ra tay mạo hiểm để cướp đoạt? Do đó, sự lo lắng của quý chủ nhân không khỏi quá thừa chăng? Tề Phúc tươi cười nói:
- Lữ Tổng tiêu đầu nói phải lắm! Dứt lời, gã đàn ông ấy bèn quay mặt nhìn ra cửa, đưa hai bàn tay lên vỗ kêu thành ba tiếng. Tức thì, bốn tên gia đinh vừa rồi đã tìm đến để hỏi thăm về Lữ Tổng tiêu đầu, liền nhanh nhẹn nối gót nhau bước thẳng vào.
Lúc ấy, trên tay của mỗi người đều có bưng một chiếc mâm sơn son thếp vàng to, bên trên dùng một vuông lụa xanh phủ kín. Tề Phúc bèn nhanh nhẹn bước tới, thò tay đỡ những vuông lụa xanh đậy trên từng chiếc mâm ra, và Lữ Đằng Không cùng số tiêu đầu đứng chung quanh đều không khỏi giật mình sửng sốt! Thì ra trong chiếc mâm sơn son thếp vàng thứ nhất đựng một viên ngọc Thấu Thủy Lục, hiếm có trong đời, chiếu sáng lóng lánh, đặt gọn giữa những tấm giấy màu xanh lam xinh đẹp.
Và trong chiếc mâm thứ hai đựng một viên dạ minh châu to bằng hạt trái nhãn. Trong chiếc mâm thứ ba là một con sư tử chạm trổ khéo léo bằng chuỗi đỏ. Thứ chuỗi ấy là một loại chuỗi Hỏa Tề hiếm có trong đời, chạm trổ tinh vi đến độ có thể nhìn rõ được từng sợi lông bờm trên đầu của nó.
Cuối cùng, trong mâm thứ tư là một con rồng vàng năm móng, thắt bằng những sợi tơ bằng hoàng kim. Về số vàng để tạo nên con rồng ấy chẳng qua chỉ hơn nửa cân mà thôi.
Nhưng về mỹ thuật thì quả đấy là một công trình hiếm có trong đời. Vì ngay đến một người thợ khéo léo nhất ở kinh đô, nếu khởi công thắt cho hoàn thành một con rồng như thế, ít nhất cũng phải trải qua đến tám năm trường. Đôi mắt của con rồng đó được cẩn hai hạt kim cương to, lúc nào cũng chiếu sáng lập lòe, hoa cả mắt mọi người chung quanh! Lữ Đằng Không trong giai đoạn tuổi già, đã trở thành một con người giàu có, tài sản rất nhiều. Ông ta đã từng bỏ tiền ra mua những món đồ cổ quý báu với một giá thật đắt để chưng bày trong nhà. Hơn nữa, ông ta lại là người rất thạo về đồ cổ nên đã mua được rất nhiều vật quý báu. Tuy nhiên, với bốn bảo vật đang bày trong mâm, bưng trên tay bốn tên gia đinh đang đứng trước mặt ông ta, thì chẳng có món nào không phải là vật quý báu vô giá, và chính ông ta từ xưa đến nay, cũng chưa hề được trông thấy lần nào! Bởi thế, trong nhất thời, ông ta không khỏi tròn xoe đôi mắt, há hốc đôi môi, nói chẳng nên lời. Qua một lúc lâu sau, ông ta mới ấp úng nói rằng:
- Quý... quản gia, những bảo vật này mang đến để làm gì? Tề Phúc bèn cúi người thi lễ nói:
- Gia chủ của tiểu nhân biết Lữ Tổng tiêu đầu chẳng xem hoàng kim hay bạc nén vào đâu cả. Do đó, mới bỏ ra một số tiền kết xù, tìm đến tây thành Nam Hải, để mua cho được bốn bảo vật này về. Nếu hôm nay Lữ Tổng tiêu đầu bằng lòng hứa, đích thân áp tải giúp chiếc hộp gấm này, thì bốn món bảo vật ấy dùng để gọi là thù lao, hầu tỏ ít nhiều sự cảm tạ và lòng thành kính! Thiên Hổ Lữ Đằng Không nghe qua không khỏi thầm kinh hãi, lên tiếng hỏi:
- Nếu bốn món bảo vật này dùng để thù lao cho lão phu, thì món hàng cần áp tải đưa đến tận tay Hàn đại hiệp ấy là vật chi? Câu hỏi ấy là câu hỏi tất nhiên mà ai ở vào trường hợp ấy cũng phải lên tiếng hỏi như thế cả. Vì bốn món bảo vật mà đối phương mang đến để thù lao cho lão ta rõ ràng là bốn bảo vật hiếm trên đời. Như vậy, món hàng cần nhờ lão ta áp tải, tất nhiên phải là một bảo vật quý báu hơn cả bốn bảo vật đang bày trước mặt ấy nữa! Thế nhưng thử hỏi trên đời này, còn có vật chi lại quý báu hơn bốn bảo vật ấy được? Tề Phúc nghe qua câu hỏi ấy, bèn lên tiếng đáp:
- Nếu Lữ Tổng tiêu đầu bằng lòng hứa sẽ đích thân chỉ huy áp tải món hàng này, thì tiểu nhân còn có vài lời để trình bày thêm! Lữ Đằng Không đưa mắt nhìn đăm đăm vào bốn bảo vật bày trong mâm một lúc khá lâu, đồng thời thò tay nhấc lên rồi lại để xuống, sắc mặt tỏ ra vô cùng vui thích, nên liền lên tiếng nói:
- Được! Lão phu hứa với ông, là sẽ đích thân áp tải món hàng này! Nhưng trong chiếc hộp gấm kia đang đựng vật chi thế? Tề Phúc cúi mình thi lễ nói:
- Thưa Lữ Tổng tiêu đầu, xin ông hãy bỏ lỗi cho về chỗ vô lễ của tiểu nhân. Gia chủ của tiểu nhân đã có lời dặn là chiếc hộp gấm này phải được đậy kín trao đến tận tay Hàn đại hiệp, tuyệt đối không thể giở ra xem. Do đó, ngay đến tiểu nhân đây cũng hoàn toàn chẳng biết bên trong hộp gấm ấy đang đựng vật gì! Qua lời nói ấy của Tề Phúc, có thể bảo là hoàn toàn trái ngược với thông lệ của những tiêu cục. Vì phàm bất luận hàng hóa chi đưa đến tiêu cục nhờ áp tải, đều phải cho tiêu cục mở ra xem cho tận tường. Họ tuyệt nhiên không khi nào mà lại chịu nhận một món hàng mà họ không biết đấy là hàng chi.
Bởi thế, Lữ Đằng Không bèn lên tiếng nói:
- Nếu vậy thì lão phu xin từ khước việc nhận áp tải chiếc hộp ấy mà thôi! Tề Phúc vội vàng nói:
- Thưa Lữ Tổng tiêu đầu, gia chủ tiểu nhân có bảo, là bốn món lễ vật này, e rằng đi khắp trong thiên hạ cũng không làm sao tìm cho ra! Câu nói đó đã đánh trúng vào lòng tham của Lữ Đằng Không, nên khiến lão ta trở nên trầm ngâm, không nói thêm chi nữa! Tề Phúc lại nói tiếp rằng:
- Chiếc hộp gấm này hiện giờ đã được niêm phong kỹ lưỡng, vậy chỉ cần Lữ Tổng tiêu đầu hứa là không mở ra, và áp tải thẳng đến cho người nhận là hoàn toàn vô sự! Lữ Đằng Không nói:
- Lão phu là một con người như thế nào mà có thể xem trộm chuyện riêng của người khác? Tề Phúc vội vàng nói:
- Phải! Tiểu nhân đã nói lỡ lời, thật là đáng chết! Lữ Đằng Không ngửa mặt nhìn lên nói:
- Quý quản gia, chẳng hay gia chủ của quý quản gia là ai thế? Tề Phúc đáp:
- Vì tiểu nhân không được tệ gia chủ cho phép, nên chẳng dám nói bừa bãi.
Lữ Đằng Không hừ lên một tiếng, rồi bất thần thò tay chụp tới, gây thành một luồng kình phong mạnh mẽ, nhắm chụp thẳng vào cổ tay của Tề Phúc nhanh như gió hốt! Tề Phúc vội vàng thối lui ra sau một bước, rùn thấp đôi chân, nhanh nhẹn thu cánh tay về để tránh, nên đã kịp thời tránh khỏi thế chụp bất ngờ ấy của Lữ Đằng Không. Kế đó y bèn lên tiếng nói:
- Thưa, Lữ Tổng tiêu đầu...! Trong khi ấy, Lữ Đằng Không không khỏi thầm giật mình, vì ông ta không ngờ là Tề Phúc có thể tránh khỏi thế chụp bất thần của mình. Hơn nữa, thân pháp của Tề Phúc vừa sử dụng lại chính là thân pháp của phái Hoa Sơn. Đồng thời, qua cách sử dụng thân pháp ấy, chứng tỏ Tề Phúc là một cao thủ của phái này. Thế chẳng hiểu tại sao y lại cam tâm cúi mình đi làm gia nhân cho người ta như thế? Nên biết, trong võ lâm môn phái rất nhiều, và võ công họ lúc nào cũng được truyền dạy từ đời này sang đời kia, mỗi môn phái đều có sự riêng biệt độc đáo của mình cả. Tuy nhiên, những môn phái nổi tiếng trong võ lâm, có môn nhân đông đảo cũng như võ học trác tuyệt thật sự cũng chỉ có các môn phái Nga My, Thiếu Lâm, Thanh Thành, Võ Đang, Hoa Sơn, Ngũ Đài, Điểm Thương và Thê Hà mà thôi. Các môn phái ấy dựa vào địa phương của mình để mệnh danh cho môn phái.
Ngoài ra, lại còn một số môn phái đã dựa vào võ công độc đáo của mình để mệnh danh cho môn phái, và cũng tương đối có tiếng tăm như Bát Quái, Thái Cực, Phi Yến... Riêng các tà phái cũng hết sức đông đảo, không ai kể ra cho xiết.
Nhưng phái Hoa Sơn nếu so với các môn phái khác có tiếng hiện giờ, thì đấy là một môn phái quy tụ được đông môn nhân nhất, kể cả số người xuất gia và tại gia của phái Nga My vẫn không bì kịp.
Cũng chính vì Hoa Sơn là một môn phái đông người, nên bên trong không khỏi có phần phức tạp, kẻ giỏi người dở, chen lộn lẫn nhau. Và cũng chính vì lẽ ấy nên thanh danh của phái Hoa Sơn không được tốt đẹp gì lắm trên chốn giang hồ.
Nhưng tất cả mọi người đối với vị Tổ sư của phái Hoa Sơn là Liệt Hỏa Tổ Sư, và mười hai vị Đường chủ dưới tay của Liệt Hỏa Tổ Sư đều không khỏi tỏ ra tôn kính.
Giờ đây Lữ Đằng Không đã bất thần ra tay chụp về phía Tề Phúc, và y đã có thể kịp thời tránh khỏi thế chụp bất thần ấy của đối phương, hơn nữa y lại sử dụng một thân pháp bí truyền của phái Hoa Sơn, gọi là Súc Cốt Pháp, nên Lữ Đằng Không đã thầm đoán ra được lai lịch của hắn ta, tin chắc rằng Tề Phúc là một trong mười hai vị Đường chủ của phái Hoa Sơn.
Do đó, lão ta mỉm cười nói:
- Thì ra ông chính là người của Liệt Hỏa Tổ Sư sai đến! Vì mười hai vị Đường chủ của phái Hoa Sơn đều là người có địa vị rất cao trong võ lâm, nên chắc chắn không khi nào chịu hạ mình làm quản gia cho người ta cả. Do đó, Lữ Đằng Không đoán biết việc này chính là do Liệt Hỏa Tổ Sư sắp đặt ra cả, không còn điều chi đáng ngờ vực cả.
Tề Phúc sau khi kịp thời nhảy lùi ra sau, trên sắc mặt đã lộ vẻ tức giận, nhưng y nhanh nhẹn giữ ngay thái độ bình tĩnh nói:
- Lữ Tổng tiêu đầu quả là người có nhãn quang sắc bén, chỉ cần nhìn thoáng qua là đã biết tiểu nhân có học qua vài đường võ của phái Hoa Sơn. Song, chẳng phải tiểu nhân là người của phái Hoa Sơn đâu, gia chủ của tiểu nhân họ Tề, không phải là Liệt Hỏa Tổ Sư đâu.
Lữ Đằng Không nghe thế không khỏi sửng sờ. Vì theo sự nhận xét của lão ta thì Súc Cốt Pháp là thân pháp bí truyền của phái Hoa Sơn, và đồng thời cũng là một trong ba môn võ công lớn của phái này. Do đó, nếu chẳng phải là một nhân vật có địa vị cao trong môn phái thì không khi nào lại được truyền dạy cho cả. Vậy, chắc chắn Tề Phúc phải là một nhân vật của phái Hoa Sơn. Thế nhưng y lại lên tiếng phủ nhận, chứng tỏ việc này quả thật lạ lùng.
Theo sự nhận xét của Lữ Đằng Không thì đây là một âm mưu rất bất lợi cho lão ta, nên bèn cất giọng nói:
- Này, quý quản gia...
Lữ Đằng Không vốn có ý khước từ không chịu nhận áp tải món hàng của đối phương, nhưng khi ông ta nói chưa dứt câu, thì bốn tên gia đinh đang bưng mâm trước mặt, không rõ vô tình hay hữu ý, đồng loạt đưa chân xê dịch thân người một bước, khiến bốn món bảo vật đang đựng giữa những chiếc mâm sơn son thếp vàng kia không ngớt chiếu sáng lập lòe, làm cho Lữ Đằng Không hoa cả mắt, và hoang mang cả tâm thần.
Lữ Đằng Không thật chẳng thể nào đè nén được sự ham muốn trước bốn món bảo vật ấy, nên lão ta dừng câu nói lại một lát, rồi đổi giọng nói tiếp rằng:
- Từ đây đi đến Tô Châu phủ chẳng qua bảy tám ngày đường, trong khi đó quý quản gia là người có võ công cao cường, chứng tỏ quý chủ nhân phải là một nhân vật phi thường.
Vậy, vì lẽ gì quý quản gia lại không tự mang chiếc hộp gấm này đưa đến tận tay Hàn đại hiệp? Chả lẽ quý chủ nhân đã đoán biết được là trên đường có kẻ nào đó gây điều khó khăn chi chăng? Tề Phúc cất tiếng than dài đáp:
- Lữ Tổng tiêu đầu quả là người hết sức sáng suốt. Trong chuyến đi Tô Châu này, thật sự có ít nhiều chuyện rắc rối. Tuy nhiên, gia chủ của tiểu nhân chẳng phải là người sợ những chuyện rắc rối ấy, mà kỳ thực là không muốn gặp kẻ gây sự mà thôi. Chính vì thế mới có ý định tìm đến để nhờ cậy nơi Lữ Tổng tiêu đầu, đưa chiếc hộp gấm này đến tận tay Hàn đại hiệp được dễ dàng hơn.
Lữ Đằng Không suy nghĩ một lát, xét thấy uy danh của mình trong võ lâm chẳng phải tầm thường, vậy thử hỏi còn ai dám đón đường giựt hàng hóa? Hơn nữa, dù cho có kẻ nào mạo hiểm hành động như vậy, thì thanh Tử Kim Đao của mình nào có phải dễ dàng đối phó đâu? Vì nghĩ thế, nên ông ta tự tin trong chuyến áp tải này chắc chắn thành công một trăm phần trăm, nên liền lên tiếng nói:
- Được! Quý quản gia hãy để chiếc hộp ấy lại đây! Và nội trong sáng sớm ngày mai, già này sẽ lên đường ngay.
Tề Phúc cúi người xá sâu xuống đất nói:
- Tiểu nhân ngày hôm nay hoàn thành được sứ mạng của gia chủ giao phó, thực hoàn toàn nhờ ở lòng chiếu cố của Lữ Tổng tiêu đầu! Dứt lời, y bèn khoát tay ra hiệu, tức thì bốn tên gia đinh liền để yên bốn chiếc mâm sơn son thếp vàng lên mặt bàn một cách thận trọng, rồi cùng Tề Phúc quay lưng bước thẳng ra ngoài.
Lữ Đằng Không chờ cho số người của Tề Phúc bước ra khỏi cửa, mới hạ giọng gọi một vị tiêu đầu đứng gần đấy nói:
- Này, Tần tiêu đầu, ông hãy bước ra bám sát theo năm người ấy, và tuyệt đối không được để họ phát giác ra sự theo dõi của mình, để tìm hiểu lai lịch của họ ra sao.
Vị tiêu đầu ấy bình thường là một con người lanh lợi, nên Lữ Đằng Không mới dám ủy thác cho ông ta làm một việc trọng đại như thế này. Bởi thế, Tần tiêu đầu cất tiếng vâng lệnh, rồi nhanh nhẹn bước ra khỏi cửa ngay.
Lữ Đằng Không đưa mắt nhìn theo Tần tiêu đầu, thấy ông ta đã đi mất hút, bèn quay người đến trước chiếc bàn có để bốn món bảo vật. Ông ta cầm lên xem qua từng món một, rồi để xuống. Nhưng chẳng mấy chốc sau ông ta lại cầm lên săm soi thật kỹ. Sắc mặt ông ta tỏ ra vô cùng yêu thích bốn món bảo vật này, nên cứ cầm lên để xuống không ngớt tay.
Qua một lúc sau, lão ta mới dời bốn món bảo vật ấy vào chung một mâm rồi bưng lên.
Đồng thời, ông ta cũng bưng cả chiếc hộp gấm mà Tề Phúc vừa trao đến khi nãy, rồi bước chân vào nội đường.
Khi ông ta đã đi cuối một dãy hành lang và bắt đầu tiến đến một khung cửa hình bán nguyệt, thì trông thấy một lão bà gầy cao, đang đưa chân bước thẳng về ông ta.
Thì ra lão bà ấy là vợ của Lữ Đằng Không, Tây Môn Nhất Nương. Bà ta có khuôn mặt dài như mặt ngựa, đôi mày xếch cao và rậm đen, nhìn qua thực là đáng sợ. Dù là người xa lạ, nhưng chỉ cần nhìn đến sắc mặt của bà ta cũng đoán được bà ta là người có tính tình nóng nảy và hung tợn.
Lữ Đằng Không vừa trông thấy Tây Môn Nhất Nương bèn lên tiếng nói:
- Phu nhân, tôi đang định tìm phu nhân đây, còn Lân nhi đâu rồi? Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn bốn món bảo vật để trong mâm mà Lữ Đằng Không còn cầm trên tay, thì không khỏi thầm kinh hãi.
Tây Môn Nhất Nương là một người xuất thân từ một gia đình hào phú ở vùng Vân Nam. Trước kia, tổ tiên bà ta là người giữ nhiệm vụ Chưởng khố cho quốc vương nước Đại Lý.
Về sau, nước Đại Lý bị diệt vong và quốc khố của nước này cũng bị mất cả đi, nhưng chẳng ai được biết là đã mất bằng cách nào. Song, trong thực tế chính là vị tổ tiên ấy của Tây Môn Nhất Nương đã chiếm đoạt làm của riêng. Như vậy thử hỏi một người mà tài sản gồm thu cả quốc khố của một quốc vương, thì sự giàu có đến mực nào? Chính vì thế nên Tây Môn Nhất Nương là người rất kiêu kỳ, bình thường đối với những món châu báu mà Lữ Đằng Không mua về để chơi, bà ta thật sự chẳng hề xem vào mắt. Thế nhưng giờ đây vừa nhìn qua bốn món bảo vật ấy, bà ta không khỏi giật bắn người, buột miệng hỏi rằng:
- Này ông, bốn món bảo vật ấy ông tìm từ đâu về thế? Lữ Đằng Không trông thấy vợ mình cũng tỏ ra tán thưởng bốn món bảo vật đựng trong mâm, nên đoán biết đấy là những vật quý báu vào bậc nhất trên đời này, trong lòng lại càng thêm đắc ý. Do đó, lão ta bèn tươi cười kể lại việc Tề Phúc đã tìm đến, nhờ ông ta áp tải chiếc hộp gấm. Sau cùng, ông ta lại nói tiếp rằng:
- Từ đây đi đến Tô Châu phủ chẳng qua bảy tám ngày đường. Hơn nữa, người nhận món hàng áp tải này lại chính là Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn, vậy theo tôi thì chắc chắn dọc đường chẳng có chuyện đáng ngại xảy ra đâu! Sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương lộ vẻ đăm chiêu, cau mày một lúc thật lâu rồi nói:
- Theo ý tôi, việc này chẳng phải dễ dàng như ông nghĩ đâu! Nếu việc này dễ dàng, gã họ Tề ấy tại sao lại bằng lòng trả thù lao như vậy? Do đó, tôi chỉ e là vì bốn món bảo vật này, mà ông sẽ mang biết bao nhiêu tai họa vào thân đấy thôi! Lữ Đằng Không cất tiếng cười ha hả nói:
- Phu nhân nói thế thì không khỏi quá dè dặt! Nếu chẳng phải người ta chỉ định tôi phải đích thân áp tải món hàng này mới chịu trả cho một số thù lao trọng hậu, thì tôi chỉ cần cho cắm một lá cờ của Thiên Hổ Tiêu Cục trước đầu xe, là có thể sai thủ hạ mang đi khắp trong thiên hạ mà chẳng hề xảy ra chuyện gì! Tây Môn Nhất Nương thò một cánh tay ra, nói:
- Ông hãy cho tôi xem qua chiếc hộp ấy! Lữ Đằng Không trao chiếc hộp đến tận tay Tây Môn Nhất Nương, và khi bà ta cầm lên thì cảm thấy không nặng nề chi cho lắm. Bà ta quan sát kỹ khắp bốn bên chiếc hộp, thấy nó không có điều chi khác lạ, duy có điều là trên nắp chiếc hộp được dùng giấy phong kín lại mà thôi. Trên tấm giấy phong kín chiếc hộp, ngoại trừ có đề ngày tháng ra, còn thì chẳng thấy chữ chi khác hơn nữa.
Tây Môn Nhất Nương trở chiếc hộp qua lại xem kỹ một lúc, và dù với kinh nghiệm và sự lịch duyệt của bà ta trong võ lâm, bà ta vẫn không thể nào tìm hiểu được đấy là một chiếc hộp đựng thứ gì? Sau đó, hai vợ chồng của Lữ Đằng Không vừa nói chuyện, vừa đưa chân bước thẳng vào nội đường, và chẳng mấy chốc là họ đã tiến tới một gian hoa sảnh nhỏ.
Tây Môn Nhất Nương bèn để yên chiếc hộp gấm xuống bàn, rồi nghiêm nghị nói:
- Này ông, theo tôi thì đây có lẽ chính là một âm mưu to lớn, vậy chi bằng chúng ta nên mở chiếc hộp này ra xem qua, thử coi bên trong đựng thứ chi cho biết? Lữ Đằng Không lộ sắc sửng sốt đáp:
- Phu nhân, nếu làm thế e có điều bất tiện chăng? Tây Môn Nhất Nương hứ một tiếng, nói:
- Trong đời này đâu có ai lại mang hàng đến gởi, mà không cho tiêu cục xem bên trong đựng thứ chi bao giờ? Lữ Đằng Không nói:
- Tuy đứng về lý mà nói, đây quả là một việc trái với thông lệ của tiêu cục. Nhưng theo ý tôi thì rất có thể bên trong chiếc hộp này đựng một quyển võ lâm bí kíp, hoặc một thứ linh dược tiên thảo chi đó, không tiện để người ngoài biết được, vì sợ một cuộc tranh chấp đổ máu, nên vị chủ nhân mới giữ bí mật như thế mà thôi! Tây Môn Nhất Nương trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Lời nói của ông cũng có lý, nhưng nếu ông muốn giữ chữ tín, không bằng lòng mở chiếc hộp này ra xem, thì trong chuyến đi Tô Châu phủ, có thể cho tôi cùng đi không? Lữ Đằng Không hết sức vui mừng nói:
- Nếu có phu nhân cùng đi, thì tôi dám quả quyết là chuyến áp tải này chẳng hề xảy ra điều chi đáng tiếc! Ông ta dừng lại trong giây lát, rồi nói tiếp rằng:
- Nếu cả hai chúng ta cùng đi thì bỏ Lân nhi ở nhà một mình, chẳng ra thiếu người chăm sóc hay sao? Tây Môn Nhất Nương bèn nói:
- Tại sao chúng ta không đem nó cùng đi? Với tuổi của nó cũng phải tập lần việc dấn bước giang hồ là được rồi! Lữ Đằng Không nói:
- Lời của phu nhân nói phải lắm! Nói đến đây, ông ta bèn quay người ra phía cửa, to tiếng nói:
- Lân nhi! Lân nhi! Tiếng gọi vừa dứt thì đã nghe tiếng chân người từ đàng xa bước đến. Chẳng mấy chốc sau, đã thấy một cậu bé độ mười hai, mười ba tuổi mặt mày sáng láng tiến tới trước khung cửa, rồi đứng yên lại, nói:
- Ba, má gọi con có chuyện chi thế? Cậu bé ấy chính là Lữ Lân, con trai của vợ chồng Lữ Đằng Không. Tuy Lữ Đằng Không là người rất tham lam tiền bạc, nhưng đối với đứa con trai duy nhất của mình, thì còn tỏ ra yêu quý hơn cả tính mạng của mình nữa. Do đó, lão ta vội vàng đứng lên, kéo Lữ Lân vào lòng nói:
- Lân nhi, vào ngày mai này cha và má sẽ đi đến Tô Châu phủ một chuyến, và có ý định mang con cùng đi, vậy con có bằng lòng không? Lữ Lân nghe thế, bèn vỗ tay vui vẻ nói:
- Hay lắm! Con rất thích đi đây đi đó để chơi cho biết! Tây Môn Nhất Nương cười nói:
- Lân nhi, bộ con tưởng ra đi chỉ là để vui chơi không thôi sao? Không biết trong chuyến đi này chúng ta lại gặp phải những kẻ đối địch rất nguy hiểm đó! Đôi mắt đen láy của Lữ Lân xoay qua một lượt nói:
- Con đâu lại sợ chứ? Nếu gặp phải kẻ địch thì đánh nhau.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe con trai đáp thế, bất giác phá lên cười to. Vì hai vợ chồng Lữ Đằng Không lúc nào cũng mong muốn Lữ Lân sẽ trở nên một con người đầy đủ nghị lực và lòng can đảm. Do đó, họ nhìn qua thái độ của đứa con trai, cả hai đều lấy làm vui thích.
Đột nhiên, từ phía ngoài trước cửa hiệu bất thần có tiếng người la ó inh ỏi vọng đến, lại nghe văng vẳng có kẻ nói to rằng:
- Tìm Tổng tiêu đầu ra đây mau!
- Hãy lo cứu nguy cho nạn nhân trước đã!
- Ngươi có mắt hay không? Thương thế của ông ta còn mong cứu sống được hay sao? Chỉ trong chốc lát sau, trong khắp tiêu cục tiếng người ồn ào huyên náo, và những tiếng ồn ấy dường như đang tiến dần về phía gian hoa sảnh nhỏ của vợ chồng Lữ Đằng Không.
Bởi thế, Lữ Đằng Không không khỏi giật mình, chẳng biết chuyện chi đã xảy ra. Lão ta chống một bàn tay lên mặt bàn, rồi đứng phắt dậy. Sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương cũng ít nhiều biến đổi. Bà ta nắm chặt lấy tay của Lữ Lân, không để cậu bé bước ra ngoài.
Chẳng mấy chốc sau, ở phía ngoài cửa đã có người kêu to rằng:
- Có Tổng tiêu đầu trong ấy không? Lữ Đằng Không bèn lên tiếng hỏi:
- Có chuyện chi thế? Tức thì, sau một tiếng ầm, cánh cửa phòng đã bị xô hất tung ra, rồi lại thấy có độ mười bảy, mười tám người từ bên ngoài tràn vào. Số người ấy đều là những người giúp việc cho tiêu cục cả.
Trong đám đông ấy, có hai vị tiêu sư lớn tuổi. Trên khắp thân người của hai lão ta đã dính be bét máu tươi, vì hai lão ta đang đỡ một người thứ ba, toàn thân nhuộm máu đỏ, hối hả bước đến trước mặt Lữ Đằng Không.
Còn người đang được hai vị tiêu sư lớn tuổi ấy đỡ vào, quả đúng là một con người máu, vì khắp từ mớ tóc trên đầu đến đôi giày dưới chân của y đều đang ướt đẫm máu tươi.
Lữ Đằng Không nhìn qua tình trạng ấy, không khỏi thầm kinh hãi, quát rằng:
- Mọi người chớ nên ồn ào quá! Liền đó, tiếng hò reo liền im hẳn. Lữ Đằng Không đưa mắt nhìn thẳng vào con người máu ấy, thì lại càng kinh hoàng hơn, buột miệng hỏi:
- Ủa! Đây chẳng phải là Tần tiêu đầu hay sao? Không sai tí nào cả, con người máu ấy chính là Tần tiêu đầu, một người vừa được Lữ Đằng Không phái đi để tìm hiểu lai lịch của Tề Phúc và bốn tên gia đinh đáng nghi ngờ kia.
Câu hỏi của Lữ Đằng Không vừa dứt, trong đám đông đã có người lên tiếng đáp rằng:
- Đúng thế! Chính là Tần tiêu đầu! Lữ Đằng Không vội vàng đưa chân bước tới trước, thò tay đỡ lấy Tần tiêu đầu. Lão ta đưa mắt nhìn kỹ thì thấy trong khắp châu thân của nạn nhân có mười mấy vết thương to, máu tươi chảy ra đầm đìa, tính mạng mỏng manh như chỉ mành treo chuông. Chỉ cần nhìn qua thương thế của Tần tiêu đầu thì Lữ Đằng Không đã đoán biết nạn nhân không còn làm thế nào đi đứng được nữa! Trong khi đó, Tây Môn Nhất Nương đã nhận xét được điểm đó, nên gằn giọng hỏi:
- Ai đã đưa ông ấy trở về đây? Một tên phu xe liền lên tiếng đáp:
- Vừa rồi, có một cỗ xe ngựa trang hoàng hết sức sang trọng, chạy đến trước cửa tiêu cục thì ném thẳng Tần tiêu đầu vào cửa hiệu chúng tôi, khiến ông ấy bắt từ trên cao rơi phịch xuống thềm nhà. Lúc đó, chúng tôi quá cuống quýt, nên cỗ xe ngựa đã chạy đi đâu mất biệt.
Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn về phía Lữ Đằng Không một lượt, rồi bước thẳng tới trước nhanh nhẹn vung thẳng ngón tay trỏ ra, búng nhẹ vào Bách Hội huyệt của Tần tiêu đầu. Bách Hội huyệt chính là nơi tập trung tất cả kỳ kinh bát mạch trong châu thân con người. Nên dù lúc ấy Tần tiêu đầu đang bị hôn mê, nhưng sau khi Bách Hội huyệt được Tây Môn Nhất Nương búng nhẹ thì đã bừng tỉnh trở lại.
Tây Môn Nhất Nương quát rằng:
- Tần tiêu đầu, ai đã hại ông thế? Hãy mau nói rõ để chúng tôi trả thù cho ông! Tần tiêu đầu cố gắng ngước mặt nhìn lên, rồi cất giọng yếu đuối nói:
- Lữ... Tổng tiêu đầu! Tôi may mắn đã làm tròn nhiệm vụ! Tổng tiêu đầu... tuyệt đối không thể... không thể...! Tần tiêu đầu chỉ nói đến đây, bỗng nhiên im hẳn và gục đầu trở xuống, không còn cử động nữa! Lữ Đằng Không vội vàng hỏi to rằng:
- Không thể cái chi? Nhưng lúc ấy Tần tiêu đầu đã hoàn toàn im lặng, không còn nói thêm chi được nữa! Số người hiện diện chung quanh không ai bảo ai, đồng thanh cất tiếng than dài. Vì từ trước đến nay tại Thiên Hổ Tiêu Cục quả chẳng hề có xảy ra một chuyện rùng rợn và hy hữu như thế này bao giờ cả.
Lữ Đằng Không trấn tĩnh lại tinh thần, lên tiếng nói:
- Bọn các ngươi hãy lui ra ngoài mau! Số người hiện diện nghe thế nhanh nhẹn tuân mệnh bước đi tức khắc. Bọn họ trở ra nhà trước, túm năm dụm ba để thì thầm bàn tán với nhau. Kẻ đoán thế này, người đoán thế khác và không ai có thể đi đến kết luận ra sao cả.
Lữ Đằng Không chờ cho số thủ hạ đã lui ra ngoài, thì mới để yên xác chết của Tần tiêu đầu ngay ngắn trên đất. Đồng thời, lão ta nhanh nhẹn xé một vạt áo dài, chùi sạch vết máu trên mặt của nạn nhân để xem qua. Lão ta lại không khỏi kinh hoàng thất sắc.
Thì ra sắc mặt của Tần tiêu đầu lộ vẻ kinh khiếp chưa từng thấy, do đó trông thật vô cùng rùng rợn! Chỉ cần nhìn qua sắc kinh hoàng ấy của nạn nhân, đã có thể đoán biết là trước khi chết, hoặc trước khi hôn mê vì trọng thương, nạn nhân đã mục kích chuyện chi vô cùng đáng sợ.
Đồng thời, cũng rất có thể vì mục kích chuyện ấy nên nạn nhân phải ngất lịm đi. Do đó, đối phương mới mặc tình gây thương tích cho nạn nhân như thế! Đến bây giờ Lữ Đằng Không mới tự biết là chuyện rắc rối dính líu đến mình chẳng những hết sức trầm trọng, mà còn ly kỳ khó hiểu, chưa từng thấy trong võ lâm nữa! Ông ta đưa mắt chăm chú nhìn kỹ sắc mặt của Tần tiêu đầu một lúc lâu, mới đứng thẳng người lên nói:
- Phu nhân, chẳng hiểu đây là một chuyện gì? Chẳng hay phu nhân có sự xét đoán như thế nào không? Lúc ấy sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương cũng đang đăm chiêu, trông vô cùng xấu xí.
Nhưng sắc mặt của bà ta không phải đang sợ hãi, mà chính là đang tức giận. Do đó, khi nghe qua câu hỏi của Lữ Đằng Không, bà ta bèn lên tiếng đáp rằng:
- Trước khi lâm chung, chẳng rõ tại sao Tần tiêu đầu lại bảo mình may mắn hoàn thành nhiệm vụ? Không hiểu vừa rồi ông có sai y đi làm chuyện chi chăng? Lữ Đằng Không gật đầu nói:
- Vừa rồi, sau khi Tề Phúc và bốn tên gia đinh đã bước ra khỏi cửa, tôi có sai bám sát theo bọn họ để tìm hiểu xem họ là ai.
Tây Môn Nhất Nương nói:
- Nếu thế thì có thể ông ta đã tìm hiểu được lai lịch của đối phương rồi. Nhưng chỉ đáng tiếc là ông ta chưa nói kịp rõ ra, thì đã bị tắt hơi chết đi. Do đó, e rằng lai lịch của số người ấy kể từ nay sẽ trở thành một câu đố nan giải, không còn ai tìm hiểu được nữa.
Lúc ấy, Lữ Lân vẫn dựa người vào lòng Tây Môn Nhất Nương, im lặng đưa mắt nhìn, không nói tiếng chi cả. Tuy nhiên, trên sắc mặt của cậu ta không lộ vẻ chi sợ hãi. Sau khi nghe mẹ nói dứt lời, cậu ta bất thần lên tiếng hỏi:
- Thưa má, những người má vừa nói là ai thế? Chẳng hay tại sao Tần tiêu đầu bị sát hại mà chúng ta không lo trả thù cho ông ấy? Tây Môn Nhất Nương gượng cười, rồi đưa tay vỗ đầu Lữ Lân nói:
- Tuổi con hãy còn nhỏ, vậy chớ nên tìm hiểu những chuyện không đâu làm gì! Đôi tròng mắt của Lữ Lân xoay qua một lượt, tựa hồ cậu ta đang muốn nói chi, nhưng cuối cùng lại im lặng không nói gì cả. Trong khi đó, cậu ta bỗng khẽ gật đầu, dường như trong lòng đã có một sự quyết định chi rồi, nên quay về Tây Môn Nhất Nương nói:
- Thưa má, con nhìn thấy xác chết thì sợ lắm, vậy hãy để con bước ra ngoài một chốc.
Tây Môn Nhất Nương nghe thế cũng không nghi ngờ, nên lên tiếng nói:
- Con chớ nên đi bừa bãi đấy nhé! Lữ Lân lên tiếng vâng lời, rồi nhanh nhẹn bước chân ra khỏi gian hoa sảnh.
Vợ chồng của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương kể từ ngày hạ sinh được Lữ Lân thì yêu quý cậu ta còn hơn cả châu ngọc. Đại phàm những bậc cha mẹ, vì quá yêu con thơ, nên vẫn thường xem con mình lúc nào cũng còn nhỏ dại. Lữ Lân tuy mới mười hai tuổi đầu nhưng đã là một cậu bé có rèn luyện qua võ công. Do đó, trình độ võ học cũng đã có căn bản. Hơn nữa, cậu ta lại là một đứa bé rất can đảm, tuyệt nhiên chẳng phải là một đứa trẻ thơ dại như vợ chồng Lữ Đằng Không lo ngại. Do đó, thật sự thì cậu ta chẳng phải sợ xác chết của Tần tiêu đầu mà bước ra khỏi gian phòng. Trái lại, đấy chỉ là một lý do khôn khéo để cậu ta rời đi mà thôi.
Vừa bước ra khỏi gian hoa sảnh, cậu ta bèn nhanh nhẹn chạy trở về gian phòng riêng của mình, nhún mạnh đôi chân nhảy cao lên bức tường, gỡ lấy thanh đao bằng thép Miến Điện do Lữ Đằng Không đã rèn cho cậu ta dùng. Thanh đao ấy có hình dáng giống hệt thanh Tử Kim Đao của Lữ Đằng Không đang dùng, duy có điều khác là nó ngắn hơn thanh đao của Lữ Đằng Không độ một thước mộc mà thôi! Lữ Lân siết lấy thanh đao vào lòng bàn tay, rồi hối hả bước nhanh ra phía trước. Cậu ta trông thấy số người làm công trong tiêu cục đang túm năm chụm ba, kẻ nói vầy người nói khác, cùng bàn bạc chuyện vừa xảy ra. Do đó, Lữ Lân liền men đến gần để lắng tai nghe.
Đám người chung quanh vì đang tập trung vào câu chuyện, nên chẳng ai phát giác sự có mặt của cậu ta cả.
Lữ Lân đứng yên nghe một lúc thì đã biết phần lớn nguyên nhân của sự việc vừa xảy ra Chương nãy. Hơn nữa, từ sự đối thoại của mọi người chung quanh, cậu ta cũng biết được cỗ xe ngựa trang hoàng sang trọng vừa rồi, sau khi đã ném Tần tiêu đầu vào hiệu liền nhắm ngay hướng tây chạy bay đi. Lữ Lân im lặng không nói chi cả, đeo gọn thanh đao thép vào sườn, quay lưng bước thẳng ra khỏi tiêu cục, nhắm hướng tây dõng dạc bước tới, chẳng hề do dự chi cả! Trong lòng cậu ta đã có một quyết định là phải tìm hiểu cho kỳ được lai lịch của đám người ấy, đồng thời phải truy đuổi theo cỗ xe ngựa bí mật kia.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương tuyệt đối không làm sao biết được là Lữ Lân chỉ mới chừng tuổi ấy đầu, mà lại to gan dám làm một chuyện như thế. Và hai vợ chồng lão vẫn đinh ninh Lữ Lân thật sự sợ xác chết nên bước ra khỏi phòng để chơi đùa mà thôi.
Do đó, sau khi Lữ Lân bước ra khỏi phòng thì Lữ Đằng Không liền vung chưởng quét ra, gây thành một luồng chưởng lực đóng kín cửa phòng lại, quay người về phía Tây Môn Nhất Nương nói:
- Phu nhân, nếu bảo là Tần tiêu đầu đã tìm ra chân tướng của số người bí mật kia thì thật là hữu lý. Nhưng tại sao trước khi ông ta tắt thở, lại nói liên tiếp mấy tiếng "không thể...
không thể" như thế là nghĩa lý gì? Tây Môn Nhất Nương cất tiếng khẽ than dài nói:
- Đấy quả là một chuyện khó hiểu. Nhưng theo sự nhận xét của tôi, có lẽ ông ấy bảo chúng mình không nên nhận lời áp tải món hàng ấy, và cũng chớ nên đi đến Tô Châu phủ? Lữ Đằng Không sửng sờ trong giây lát nói:
- Tại sao thế? Tây Môn Nhất Nương nói:
- Nếu hỏi tại sao thì thật ra chỉ có một mình Tần tiêu đầu có thể trả lời mà thôi. Nhưng đáng tiếc là ông ấy đã chết rồi. Này ông, việc này đã thế, tôi nhất định phải mở chiếc hộp gấm ấy ra xem mới được.
Lữ Đằng Không tỏ ra đắn đo trong giây lát, nói:
- Tần tiêu đầu vì theo dõi hành tung của Tề Phúc mà chết thảm, vậy chẳng cần ai nói, ta cũng có thể đoán biết được gã Tề Phúc ấy chẳng phải là một con người tốt...
Lữ Đằng Không vừa mới nói đến đây, thì Tây Môn Nhất Nương ngắt lời hỏi:
- Vừa rồi ông bảo rằng gã Tề Phúc biết sử dụng Súc Cốt Pháp của phái Hoa Sơn, hắn ta là một con người có hình dáng ra sao? Lữ Đằng Không nói:
- Biết hình dáng của hắn ta, thì hỏi có ích lợi gì? Phái Hoa Sơn môn hạ đông đảo, vậy chúng ta biết hắn đâu mà tìm? Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:
- Ông đã thế nào rồi? Trong phái Hoa Sơn, ngoại trừ Liệt Hỏa Tổ Sư và mười hai vị Đường chủ dưới tay ông ấy, thử hỏi còn còn có người thứ mười bốn biết Súc Cốt Pháp nữa hay sao? Trước đây, tôi đã từng theo vị sư tôn của phái Điểm Thương đến bái kiến Liệt Hỏa Tổ Sư tại Hoa Sơn. Trong dịp đó, mười hai vị Đường chủ đều hiện diện, vậy nếu tả đúng hình dạng của đối phương ra, có thể tôi còn nhớ được.
Lữ Đằng Không hỏi:
- Việc ấy cách đây bao lâu rồi? Tây Môn Nhất Nương đáp:
- Cách đây độ ba mươi năm rồi! Lữ Đằng Không nói:
- Nếu thế thì không xong, vì gã Tề Phúc ấy năm nay chỉ độ ba bốn mươi tuổi mà thôi! Sắc mặt của Tây Môn Nhất Nương tràn đầy vẻ ngờ vực. Qua một lúc thật lâu, bà vẫn im lặng không nói chi cả. Đột nhiên, bà ta thò tay ra lấy chiếc hộp gỗ bọc gấm đang để cạnh đấy lên...
Nhưng Lữ Đằng Không đã cất tiếng nói:
- Phu nhân, theo ý tôi thì chúng ta không nên động đến chiếc hộp ấy là hơn. Vì vừa rồi tôi đã hứa với Tề Phúc là để y nguyên sự niêm phong của chủ nhân, đưa đến tận Tô Châu phủ kia! Tây Môn Nhất Nương hừ một tiếng lạnh lùng nói:
- Này ông, người ta bày sẵn cạm bẫy, thế mà ông vẫn ngoan ngoãn đi vào cạm bẫy đó hay sao? Vừa nói Tây Môn Nhất Nương vừa thò tay lấy một chung trà, rồi tưới ướt cả nắp chiếc hộp gỗ. Do đó, chẳng mấy chốc sau thì mảnh giấy niêm phong đã bị ướt đẫm.
Chờ đợi cho nước ngấm đều, Tây Môn Nhất Nương bèn đưa tay gỡ miếng giấy niêm phong một cách thận trọng. Bà ta tuy là người tính tình nóng nảy hung tợn, nhưng trong việc làm này vẫn tỏ ra vô cùng tế nhị. Nhờ thế, chẳng mấy chốc sau, tấm giấy niêm phong đã được bà ta gỡ ra nguyên lành, chẳng hề rách đi một tí nào cả. Sau đó lại đưa tay gỡ chiếc móc hộp, rồi lại giở tung nắp hộp ra...
Hai vợ chồng Lữ Đằng Không thò đầu nhìn vào bên trong chiếc hộp. Cả hai tràn đầy sắc kinh ngạc. Thì ra, bên trong chiếc hộp bọc gấm ấy hoàn toàn trống trơn, chẳng hề có đựng thứ gì cả! Vị chủ nhân của chiếc hộp này bằng lòng bỏ ra một món thù lao kếch sù, đồng thời chỉ định cho Phi Hổ Lữ Đằng Không phải đích thân áp tải một chiếc hộp trống không, thì thực là một chuyện vô cùng quái dị! Chuyện này nếu bảo là một trò đùa thì quả đúng chẳng sai. Nhưng cũng chính vì việc này mà Tần tiêu đầu chết một cách thảm thiết, vậy làm thế nào để bảo đây là một trò đùa được? Tây Môn Nhất Nương vội vàng đậy kín nắp hộp lại, rồi mới dán kỹ tấm giấy niêm phong vào y nguyên như cũ, để yên chiếc hộp bọc gấm ấy trở lại trên bàn.
Cả hai vợ chồng Lữ Đằng Không sửng sờ một lúc thật lâu, chẳng ai lên tiếng nói chi cả.
Tâm trạng của Lữ Đằng Không đang rối như tơ vò, lên tiếng hỏi:
- Phu nhân, nếu thế thì chúng ta có nên đi đến Tô Châu phủ hay không? Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:
- Lẽ tất nhiên phải đi, vì nếu chúng ta không đi thì lại bị người ta xem thường! Lữ Đằng Không gượng cười nói:
- Nếu vượt qua một đoạn đường xa xôi ngàn dặm để mang đến một chiếc hộp không cho Kim Tiên Chấn Càn Khôn như vậy, và khi mọi việc được đồn đãi ra ngoài, e rằng sẽ trở thành một câu chuyện đại khôi hài chưa từng có trong võ lâm mất! Tây Môn Nhất Nương nói:
- Tuy chiếc hộp ấy trống không, nhưng biết đâu chừng bên trong lại có điều bí mật chi? Đồng thời, cũng không biết chừng Kim Tiên Chấn Càn Khôn nhìn qua là có thể biết được rõ mọi việc. Vậy, chúng ta chỉ cần thận trọng trên đường đi là được rồi! Lữ Đằng Không suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Lời nói của phu nhân phải lắm, song trong chuyến đi này, chẳng những đường xá xa xôi, mà lại còn có thể gặp kẻ đại địch, mọi việc diễn biến không sao lường trước được. Do đó, lẽ tất nhiên chúng ta phải đối phó với kẻ thù, trong khi đó Lân nhi lại tuổi nhỏ, vậy chi bằng không nên mang nó theo là hay hơn.
Tây Môn Nhất Nương nói:
- Nếu chẳng mang nó cùng đi, mà gặp trường hợp chúng ta bị kẻ địch sát hại, hóa ra không làm sao trối trăn lại được một lời nào với nó hay sao?
-oOo-
Chương 2
Chân Giả Thực Quả Khó Lường
Hầm Sâu Xác Trẻ Chưa Tường Ác Nhân
Đả tự: Babothanlong
Nguồn: nhanmonquan.com
Lữ Đằng Không nghe qua lời nói của Tây Môn Nhất Nương thì không khỏi sửng sốt, vì từ trước tới nay ông ta biết tính của vợ mình rất là tự phụ.
Đồng thời giữa hai vợ chồng cũng đã từng liên kết đối phó với vô số kẻ địch hung tợn gian ác, nhưng chưa từng nghe Tây Môn Nhất Nương trước khi giao tranh với kẻ thù, lại nói lên những lời nói đầy vẻ chán ngán, ngã lòng như thế bao giờ. Bởi thế, ông ta không khỏi sửng sờ một lúc lâu, mới lên tiếng nói:
- Phu nhân, theo sự tiên đoán của phu nhân, thì trong chuyến đi này chúng ta sẽ gặp những kẻ thù như thế nào? Tây Môn Nhất Nương nghĩ ngợi trong giây lát, đáp:
- Việc này thật rất khó nói, vì trải qua nhiều năm trong võ lâm lúc nào cũng yên tĩnh, nên hầu hết các đại gian đại ác đều tìm nơi quy ẩn, chẳng hề xuất đầu lộ diện nữa. Nếu chiếc hộp này có tương quan đến một việc trọng đại sắp xảy ra, thì chắc chắn sẽ có rất nhiều tên ma đầu ẩn tích lại xuất hiện trong giới giang hồ, không làm sao phán đoán trước được. Do đó, tốt nhất chúng ta nên nhận xét để tìm hiểu vị chủ nhân của gã Tề Phúc ấy là ai, có lẽ sẽ hữu ích hơn.
Lữ Đằng Không chắp hai tay ra sau lưng, đưa chân đi tới đi lui trong phòng, rồi lại cúi mắt nhìn vào xác chết của Tần tiêu đầu. Lão ta trông thấy sắc diện khủng khiếp vẫn còn in rõ trên mặt nạn nhân, trong lòng hết sức lấy làm lạ, không hiểu trước khi chết, Tần tiêu đầu gặp phải một chuyện rùng rợn chi? Nhưng cùng lúc ấy, ông ta bỗng trông thấy hai bàn tay của Tần tiêu đầu đang nắm cứng ngắt, và có một vật gì lạ chi đó ló ra ngoài kẻ tay. Bởi thế ông ta liền vội vàng lên tiếng nói:
- Phu nhân, hãy bước đến xem trong kẽ tay của Tần tiêu đầu đang nắm cứng vật chi kia? Tây Môn Nhất Nương cũng lấy làm lạ nói:
- Tần tiêu đầu là người rất lanh lợi, vậy có thể trước khi bị trọng thương, ông ấy đã giật được một vật chi đó vào tay rồi đấy! Tức thì hai người cúi xuống, dùng sức mạnh gỡ bàn tay của Tần tiêu đầu ra, và trông thấy nạn nhân đang nắm cứng một mảnh lụa màu đỏ giữa lòng bàn tay.
Vợ chồng của Lữ Đằng Không vội vàng mở miếng lụa đỏ ấy ra xem, thì trông thấy rõ ràng đây là một vạt áo. Do đó, Lữ Đằng Không cất giọng ngạc nhiên nói:
- Ủa! Gã Tề Phúc và bốn tên gia đinh vừa rồi chẳng có ai mặc đồ màu đỏ kia mà! Tây Môn Nhất Nương nói:
- Nếu thế thì việc này lại càng thêm phức tạp hơn, chúng ta tuy đang ở tại thành Nam Xương, thế nhưng hoàn toàn không biết được là hiện nay đã có kỳ nhân xuất hiện trong thành. Mọi việc hiện đang diễn biến ngày càng thêm ly kỳ khó hiểu. Nhưng chúng ta cũng không nên bận tâm làm gì. Trong đêm nay, chúng ta nên thu xếp mọi việc, rồi sáng sớm ngày mai sẽ lên đường thôi! Sau đó, Lữ Đằng Không cẩn thận bưng mâm bảo vật và chiếc hộp gấm, cùng Tây Môn Nhất Nương bước ra khỏi gian hoa sảnh nhỏ. Cả hai cùng đi thẳng đến trước một hòn non bộ, giữa một vườn hoa ở phía sau.
Hòn non bộ ấy được đặt tại một góc vườn hoa, sát cạnh bên vòng tường rào, nên ít ai để ý đến. Trên những tảng đá xây thành hòn non bộ ấy, đều phủ rêu xanh, nên ai nhìn qua cũng cho đấy là một hòn non bộ, nhằm tô điểm cho đẹp khu vườn, cũng như trăm ngàn hòn non bộ khác, chứ chẳng có điều chi kỳ lạ.
Song, chỉ riêng có Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương là được biết hòn non bộ ấy là nơi quan trọng vô cùng đối với tiêu cục của họ.
Khi hai người bước đến sát bên cạnh hòn non bộ, thì liền rảo mắt nhìn khắp mọi nơi một lượt. Họ trông thấy cả khu vườn hoa rộng rãi không hề có một bóng người, nên yên lòng cúi khom thân mình, chui thẳng vào một cái sơn động tại hòn non bộ ấy.
Họ khom người đi tới độ hai trượng, sau khi đã đi qua ba khúc quanh, thì đã có thể đứng thẳng người lên được.
Bên trong sơn động của hòn non bộ ấy hết sức âm u đen tối, dù cho bóng mặt trời có thể xuyên qua vài kẽ đá trên nóc soi thẳng vào trong, nhưng đâu đâu cũng âm u lờ mờ, chẳng thấy rõ được mọi vật chung quanh. Hơn nữa, bên trong sơn động đó lại hết sức ẩm thấp, nên đâu đâu cũng có mùi meo móc, ngửi vào rất khó chịu.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương khi vừa mới đứng thẳng người lên, Tây Môn Nhất Nương bỗng buột miệng úy một tiếng nói:
- Này ông, mấy hôm gần đây, ông có đến nơi này lần nào không? Lữ Đằng Không đáp:
- Không có! Kể từ khi chúng mình vào cách trước đây bốn hôm cho đến nay, tôi chẳng hề vào đây lần nào nữa.
Tây Môn Nhất Nương hừ một tiếng nói:
- Quả chuyện lạ lùng cứ nối tiếp nhau xảy đến, mà chúng ta chẳng hề hay biết chi cả.
Tại đây rõ ràng đã bị kẻ lạ phát giác được và chắc chắn kẻ ấy có đặt chân đến nơi này rồi! Lữ Đằng Không nghe thế, không khỏi giật bắn người, vội vàng lên tiếng hỏi:
- Căn cứ vào đâu mà phu nhân nói thế? Tây Môn Nhất Nương đưa tay lên, chỉ thẳng vào bức vách đá trong sơn động, nói:
- Ông xem kia, ở đấy rõ ràng có một dấu bàn tay. Chúng ta cùng đến hôm trước, và hoàn toàn chẳng hề trông thấy dấu bàn tay ấy.
Lữ Đằng Không nhanh nhẹn ngước mặt nhìn lên, thì quả nhiên trông thấy trên vách đá phủ đầy rêu xanh, hiện rõ ràng một dấu bàn tay, và nơi đó lớp rong xanh đều bị rơi sạch, chứng tỏ kẻ nào đó khi ấn bàn tay vào vách đá đã dùng một sức mạnh phi thường.
Lữ Đằng Không cất giọng kinh hoàng nói:
- Quả đã có người vào đây, vậy chúng ta nên vào trong xem qua, coi có mất mát vật chi hay không? Thì ra, bên trong hòn non bộ này, Lữ Đằng Không đã mướn thợ xây cất một gian phòng bí mật bằng đá. Trong gian phòng đá ấy, lão ta đã cất giấu tất cả những báu vật mà lão sưu tầm được trong mấy năm gần đây. Hôm nay, sở dĩ hai vợ chồng của Lữ Đằng Không cùng đi vào nơi này chính là để cất bốn món báu vật mà ông ta vừa nhận được.
Riêng gian phòng bí mật này, ngoài hai vợ chồng Lữ Đằng Không, còn thì chỉ có hai người thợ xây cất trước đây ở vùng Tây Vực là được biết mà thôi. Tuyệt nhiên, chẳng còn có một kẻ thứ tư nào biết cả. Vì tuy Lữ Lân là con trai của vợ chồng Lữ Đằng Không, nhưng vì tuổi của cậu ta hãy còn bé, nên chưa được cha mẹ cho biết điều bí mật ấy.
Giờ đây, tại cửa gian phòng đá cất giấu bảo vật của ông ta lại xuất hiện một dấu bàn tay lạ, thì thử hỏi ông chẳng kinh hoàng thất sắc sao được? Tây Môn Nhất Nương lại cất tiếng hừ một lượt nói:
- Ông lúc nào cũng lo lắng đến ba cái đồ bỏ ấy. Ông có xem kỹ dấu bàn tay kia rồi chưa? Tây Môn Nhất Nương là người xuất thân từ gia đình giàu có, nên ngay lúc còn bé thơ, bà ta đã lấy ngọc ngà châu báu đi làm đồ chơi rồi. Do đó, bình thường bà ta tỏ ra rất chướng mắt trước thái độ tỏ ra quá say mê những báu vật mới sưu tập được của Lữ Đằng Không.
Tuy nhiên, lúc bình thường vì tình nghĩa vợ chồng quá khắng khít, nên bà ta không khi nào trách móc vì thái độ ấy của Lữ Đằng Không cả. Nhưng giờ đây mọi việc rắc rối đang xảy đến khiến bà ta không khỏi có điều bực mình nên đã bộc lộ thái độ bất mãn với cử chỉ ấy của chồng.
Lữ Đằng Không nghe câu hỏi ấy của Tây Môn Nhất Nương thì vội vàng ngửa mặt nhìn thẳng vào cái dấu tay in rõ trên vách đá, và lão ta đã nhận ra một điểm quái dị nữa.
Thì ra cái dấu tay in trên vách đá kia, ngoài năm ngón to, lại còn có một ngón thứ sáu bé nhỏ, mọc từ cạnh ngón tay cái ra.
Lữ Đằng Không là một con người suốt đời lặn lội trong võ lâm, kiến thức và kinh nghiệm rất dồi dào. Do đó, khi ông ta đã thấy rõ điều quái dị ấy trên dấu bàn tay nọ, liền kêu thất thanh lên rằng:
- Chả lẽ lại chính là Lục Chỉ Tiên Sinh hay sao? Tây Môn Nhất Nương nói:
- E rằng là ông ấy thôi! Lữ Đằng Không cảm thấy hết sức lạ lùng nói:
- Lục Chỉ Tiên Sinh tuy là người có tánh không nhất định, nhưng từ trước đến nay lúc nào ông ta cũng ở yên tại Tiên Nhân Phong trong ngọn núi Võ Di, tuyệt đối không khi nào dấn bước giang hồ. Trước đây mấy năm, ông ta có rêu rao là đi tìm để thu dạy một tên đệ tử, nên mới thấy xuất hiện trong võ lâm. Nhưng thời gian đó trước sau chẳng quá một năm, mọi người ai ai cũng nghe đến đại danh của ông ta. Do đó, cả giới giang hồ chẳng ai dám trêu chọc đến ông ta. Tuy nhiên, suốt thời gian ấy, ông ta chẳng hề gây sự với ai bao giờ vì cá tánh của ông ta là người rất đạm bạc, chẳng hề có lòng tham lam. Trong đời ông ta, ngoại trừ thú sưu tập đàn cổ ra thì chẳng còn thú chi khác nữa. Do đó, ông ta đâu lại đến đây để dòm ngó những món bảo vật của mình? Tây Môn Nhất Nương nghe Lữ Đằng Không nói tới nói lui, rồi cuối cùng cũng nhắc đến bảo vật thì không khỏi tức giận, lên tiếng nói:
- Này ông, bộ ông tưởng trong đời này, ai cũng như ông hết sao? Bộ người ta đều xem những món đồ bỏ ấy quan trọng như tính mạng sao? Nếu thật sự Lục Chỉ Tiên Sinh có xâm nhập vào nơi này, chắc chắn ông ta đã mở cửa gian phòng đá ấy rồi, vậy tại sao không mau vào xem qua cho biết? Lữ Đằng Không bị vợ lên tiếng trách móc về chỗ lúc nào mình cũng tỏ ra quý tài sản còn hơn cả mạng sống, thì trong lòng không khỏi thẹn thầm, cười gượng đáp:
- Phu nhân, dù cho Lục Chỉ Tiên Sinh có đến nơi này, thì tôi tin rằng ông ta cũng không cách nào mở được cửa gian phòng đá của mình.
Lời nói ấy của Lữ Đằng Không thật ra chẳng phải là khoác lác. Vì trong khi xây cất gian phòng đá bí mật ấy, Lữ Đằng Không ra lệnh cho hai người thợ ở Tây Vực, cố moi óc nghĩ ngợi để kiến tạo cho ông ta một cánh cửa có nút điều khiển bí mật, mà trên đời này rất có ít người có thể mở ra được. Hai người thợ khéo léo ấy đã thực hiện đúng như ý muốn của ông, xây một cánh cửa hoàn toàn bí mật.
Những nút điều khiển để mở những gian phòng bí mật ấy gồm có đến bảy nút khác nhau. Bảy nút ấy cũng đều làm bằng đá, hiện giờ chúng cũng phủ đầy rêu xanh. Nếu không để ý tìm tòi thì chắc chắn không ai mở ra được. Muốn mở cánh cửa gian phòng đá bí mật ấy của Lữ Đằng Không, cùng lúc phải ấn cả hai nút thứ nhất và thứ bảy xuống, rồi sau đó lại cùng một lúc ấn hai nút thứ hai và thứ sáu, sau đó lại ấn hai nút thứ ba và thứ năm, và cuối cùng là mới ấn đến nút thứ tư. Được vậy thì cánh cửa đá kia mới tự động mở ra.
Trái lại, nếu thứ tự như vừa nói bị sử dụng sai, chẳng những cánh cửa phòng không mở, mà còn có rất nhiều loại ám khí tự động bắn ra.
Tuy nhiên, tất cả những việc đó đều không có chi đáng ngại. Điểm đáng ngại nhất là tất cả những nút điều khiển nói trên đều được đặt dính liền dưới một tảng đá khổng lồ, nặng hàng ngàn cân. Do đó, nếu chỉ lực của một người không thể đè xuống mạnh đến mấy trăm cân, thì những chiếc nút ấy hoàn toàn không nhúc nhích.
Lữ Đằng Không khi nào muốn vào gian phòng đá bí mật để xem những bảo vật quý báu thì phải đi cùng với vợ của mình, mặc dù Tây Môn Nhất Nương chẳng hề thích chi những món bảo vật ấy.
Lữ Đằng Không tuy là người võ học cao cường tuyệt đỉnh, chỉ lực mạnh mẽ phi thường, nhưng vẫn không thể nào cùng một lúc ấn nổi đến hai chiếc nút bí mật kia, khiến cánh cửa gian phòng mở ra được! Một người dù võ công cao cường đến đâu thì chỉ lực vẫn có giới hạn. Do đó, Lữ Đằng Không mặc dù có thể sử dụng chỉ lực mạnh mẽ đến bảy tám trăm cân cũng thấy không đủ sức! Chính vì thế nên Lữ Đằng Không bảo dù Lục Chỉ Tiên Sinh có tìm đến đây thì cũng không thể nào xâm nhập được gian phòng bí mật này. Đó là lời nói rất hữu lý, không phải khoác lác.
Sau đó, hai vợ chồng của Lữ Đằng Không bèn cúi mình vận dụng chân lực ra ngón tay trỏ trên bàn tay phải, rồi cùng ấn vào những chiếc nút bí mật đúng theo thứ tự, khiến cánh cửa nặng nề kia chuyển động nghe kèn kẹt. Cả bức vách đá to kia liền di động sang một bên, chừa trống một khung cửa rộng rãi để vào phòng.
Lữ Đằng Không cầm lấy viên minh châu vừa nhận được vào tay, rồi đi thẳng vào trong gian phòng đá ấy. Gian phòng đá vốn tối đen như mực, nhưng nhờ có ánh sáng của viên dạ minh châu nên có thể trông thấy rõ được cảnh vật chung quanh.
Nơi ấy chỉ là một gian phòng được xây toàn bằng đá xanh rắn chắc, mỗi cạnh không hơn một trượng. Ở đây có rất nhiều trường kỷ bằng gỗ tử đàn, chạm trổ tinh vi. Bên trên những chiếc ghế ấy bày vô số những loại châu báu giá đáng ngàn vàng.
Bình nhật, Lữ Đằng Không cứ khi rảnh rang, thì bước vào gian phòng đá ấy thưởng ngoạn những bảo vật của mình và tỏ ra vô cùng thích thú. Mỗi khi đến đây, ông ta lưu luyến mãi trong phòng, có mấy tiếng đồng hồ không chịu rời đi. Tây Môn Nhất Nương thì ở bên ngoài chờ đợi ông ta.
Do đó, lắm lúc Tây Môn Nhất Nương phải lên tiếng hối thúc đến hai ba lần, Lữ Đằng Không mới bước ra.
Chính vì vậy, nên tất cả những bảo vật được cất giữ bên trong gian phòng đá gồm có bao nhiêu, vật nào để ở đâu, Lữ Đằng Không đều thuộc nằm lòng. Khi bước chân vào, ông ta rảo mắt nhìn qua một lượt, thì trong thấy số bảo vật ấy không mất đi một món nào. Do đó, ông ta hết sức vui mừng, quay đầu nhìn ra phía ngoài nói:
- Phu nhân, tôi nói có sai đâu nào! Dù cho Lục Chỉ Tiên Sinh có phát giác được nơi đây, vẫn nhất định không thể nào bước vào được gian phòng đá bí mật này được kia mà! Tây Môn Nhất Nương từ bên ngoài hạ giọng nói:
- Ông mau cất kỹ bốn món bảo vật ấy đi, chớ nên để mất thời giờ nữa! Lữ Đằng Không nhìn qua tất cả bảo vật mà suốt đời ông ta đã sưu tầm được, bỗng cảm thấy cao hứng vô cùng.
Tuy ngày hôm nay đã xảy ra bao chuyện rắc rối, nhưng đối với Lữ Đằng Không, những chuyện ấy không làm cho ông ta sợ hãi. Do đó, lão ta bèn đưa tay vuốt nhẹ hàm râu, sắc mặt tươi như hoa, thò tay dời tất cả những món bảo vật đó, chừa trống hai chiếc trường kỷ, rồi mới lấy bốn món bảo vật vừa nhận được bày lên ngay ngắn.
Khi xong đâu đấy, ông ta lùi ra sau mấy bước, rồi mới đứng yên ngắm nghía, ra chiều đắc ý lắm.
Khi làm xong được một việc chi, thói thường người ta vẫn thích lùi ra xa để thưởng ngoạn công trình của mình. Lữ Đằng Không cũng không thoát ra khỏi thông lệ đó. Ông ta sau khi đã lui mấy bước, bèn đưa mắt nhìn thẳng về phía hai chiếc trường kỷ, có để bốn món bảo vật quý nhất trên đời. Ông ta thấy hạt dạ minh châu đang chiếu sáng ngời, hạt ngọc Thấu Thủy Lục đang lập lòe màu xanh biếc, con sư tử bằng chuỗi đỏ đang chói rực như lửa, thì không khỏi lấy làm khoái trá...
Nhưng cùng lúc đó, ông ta đã thấy một bóng người đang đứng sững ở dưới gầm ghế trường kỷ.
Chiếc ghế mà ông ta dùng để bày bảo vật ở trong gian phòng là thứ trường kỷ thường dùng ở trong phòng khách nơi những nhà phú hộ. Người ta thường dùng nó để bình bông hoặc những đồ trang trí quý giá. Do đó, đấy là những chiếc trường kỷ cao không khỏi ngực.
Giờ đây Lữ Đằng Không lại trông thấy rõ bóng người ấy đang đứng sững dưới gầm trường kỷ.
Ông hết sức kinh hoàng, tròn xoe đôi mắt, đứng trơ người một lúc mới lên tiếng kêu to rằng:
- Phu nhân hãy mau vào xem đây này! Tây Môn Nhất Nương đang đứng bên ngoài gian phòng, đang suy nghĩ những chuyện quái dị xảy ra liên tiếp trong ngày hôm nay. Bà cảm thấy những việc ấy chắc chắn là rủi nhiều may ít, nên trong lòng hết sức boăn khoăn lo lắng. Bất thần bà ta nghe giọng kêu kinh hoàng của chồng nổi lên, nên không khỏi giật mình, nhanh nhẹn lướt thẳng vào gian phòng đá hỏi:
- Chuyện chi thế? Lữ Đằng Không đưa tay chỉ thẳng vào chiếc gầm trường kỷ, nói:
- Bà xem kia! Tây Môn NNhất Nương đưa mắt nhìn theo hướng tay chỉ của Lữ Đằng Không, thì kinh hoàng đến buột miệng kêu lên thành tiếng rằng:
- Lân nhi! Cùng một lúc với tiếng kêu ấy, bà ta đã siết chặt lấy cánh tay của Lữ Đằng Không. Tuy Lữ Đằng Không là người nội lực hết sức thâm hậu, nhưng bị hai bàn tay của Tây Môn Nhất Nương siết mạnh, vẫn không khỏi cảm thấy đau nhói.
Song vì lúc ấy ông ta đã nghe tiếng kêu kinh hoàng của Tây Môn Nhất Nương, thì đâu còn biết đến sự đau đớn của mình nữa.
Đó đó, ông ta cũng thất thanh kêu lên rằng:
- Lân nhi! Lữ Đằng Không mới chợt nhớ lại vừa rồi, Lữ Lân đã bước ra khỏi gian hoa sảnh nhỏ, cậu ta mặc chiếc quần màu xanh lục, chiếc áo ngắn màu thiên thanh. Giờ đây, lão ta thấy bóng người kia cũng thân hình bé nhỏ, và cũng mặc bộ y phục giống hệt con mình! Lữ Đằng Không vừa nghĩ đến đứa con trai yêu quý duy nhất của mình lại xuất hiện ly kỳ tại gian phòng đá này, trong lòng kinh hoàng không tả xiết. Ông ta hối hả tràn ngay tới trước một bước, nhưng không kịp bước tới được một bước nào nữa. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu óc, ông ta không khỏi cảm thấy ớn lạnh từ đầu đến chân. Do đó, cả người ông ta trở thành giá buốt như một tảng băng, đôi chân cứng đờ không còn di động được nữa! Lúc đầu, khi vừa nhìn thấy bóng người ấy, ông ta không hề tưởng tượng được đó là Lữ Lân. Lữ Lân có thân hình khá cao, bình nhật cậu ta đứng ngang cằm của Lữ Đằng Không.
Trong khi đó, chiếc trường kỷ đặt trong gian phòng cao không khỏi ngực ông ta, hơn nữa, cái bóng đen đang đứng sừng sững bên dưới lại đứng thẳng người, chứng tỏ bóng đen ấy thấp hơn Lữ Lân một cái đầu.
Do vậy, khi Lữ Đằng Không tràn người bước tới một bước, bất giác lại đặt câu hỏi: Thế còn chiếc đầu của bóng đen ấy đâu rồi? Từ xa nhìn đến, ông ta trông thấy bóng người ấy đang đứng sừng sững, chẳng hề thấy chiếc đầu của bóng đen ấy đâu cả. Nếu bóng đen ấy hãy còn một chiếc đầu trên cổ, thì chắc chắn khi đứng thẳng người lên như vậy, chiếc đầu phải ló cao lên mặt trường kỹ mới phải.
Thế nhưng trên mặt trường kỷ chỉ có vỏn vẹn mấy bảo vật, viên dạ minh châu đang tỏa ánh sáng như ban ngày, nào còn trông thấy vật chi khác hơn nữa? Chính vì vậy, nên có thể đoán biết bóng đen ấy chính là một cái xác người đã bị cắt mất đầu, sát đến tận vai.
Khi Lữ Đằng Không nghĩ đến đây, rồi lại nghĩ bóng đen ấy chính là đứa con trai yêu quý của mình, thì thử hỏi ông ta không cảm thấy hồn phi phách tán sao được? Giữa lúc ông ta còn đang đứng sửng sờ, thì bất thần nghe Tây Môn Nhất Nương kêu thét lên một tiếng hãi hùng, rồi vung đơn chưởng quét thẳng vào khoảng không, nhắm ngay chiếc trường kỹ ấy giáng xuống.
Cùng một lúc đó, cả thân người của Tây Môn Nhât Nương cũng đã phi thân bay thẳng đến khoảng không, nhằm phía trước mặt lướt nhanh tới như gió cuốn! Luồng chưởng phong của Tây Môn Nhất Nương vừa quét qua, thì tiếng ngã đổ ầm ầm nối tiếp vang lên không ngớt bên tai. Thế là bảy, tám chiếc trường kỷ đang đặt trong phòng đều bị đánh nát tan, khiến số bảo vật đang để trên bàn đổ bừa bãi xuống khắp mặt đất.
Đồng thời, có nhiều món bị chưởng phong hất bay thẳng vào vách đá, bể tan tành thành từng mảnh vụn.
Tây Môn Nhất Nương vừa tràn tới nơi, thì đã nhanh nhẹn thò tay chụp vào cái bóng đen đang đứng sừng sững ở đấy, và bà ta đã nắm gọn vào tay chiếc bóng đen ấy rồi. Khi bà ta đưa mắt nhìn kỹ thì thấy rõ ràng đấy là một xác chết không đầu, tay chân bé nhỏ. Rõ ràng đấy là một xác chết của một cậu bé.
Hơn nữa, xác chết ấy lại mặc đúng y phục của Lữ Lân và trên tay cũng đeo một chiếc vòng bằng ngọc mà Lữ Lân đã đeo từ thuở nhỏ đến giờ.
Chiếc vòng bằng ngọc đó đã được hai vợ chồng của Lữ Đằng Không đeo vào tay Lữ Lân nhân ngày sinh nhật cậu ta lên ba, và từ đó đến nay, chẳng hề cởi ra. Trong vòng chín năm qua, chân tay của Lữ Lân đã lớn dần, nên hiện giờ chiếc vòng ấy không còn cởi ra được nữa.
Nhìn qua những tín vật đó, Tây Môn Nhất Nương bất giác thấy lòng đau như dao cắt, xót xa như bị muối xát vào tim, không làm sao có thể hình dung sự đớn đau đó. Bà ta đứng sửng sờ một lúc thật lâu, bất thần ụa lên một tiếng thật to, hộc ra một ngụm máu tươi đỏ ối.
Tiếp đó, bà ta lại gầm lên một tiếng hãi hùng, rồi vung tay ném xác chết về phía Lữ Đằng Không, phá lên cười to như điên dại. Tiếng cười của bà ta nghe vô cùng kinh khiếp, đồng thời lên tiếng nói:
- Đây, người ta biết ông thích sưu tập bảo vật, nên mới tắm gội đứa con trai của ông sạch sẽ, đưa đến cho ông đấy! Cái xác chết được Tây Môn Nhất Nương ném ra liền bay vèo về phía Lữ Đằng Không nhanh như gió hốt. Lữ Đằng Không tuy vô cùng đau đớn nhưng trước một biến cố như thế, thường là người đàn ông giữ được sự bình tĩnh hơn người đàn bà. Do đó, ông ta bèn nhanh nhẹn vung tay lên chụp lấy xác chết, rồi đưa mắt nhìn kỹ nơi vết thương. Quả nhiên, ông ta thấy xác chết được rửa sạch sẽ, chẳng hề dính một vết máu! Lữ Đằng Không cảm thấy ruột đau như bị xé, nhưng vẫn cố gắng an ủi rằng:
- Phu nhân chớ nên quá bi thương, vì xác chết này không có thủ cấp, thì làm thế nào dám quả quyết rằng đó là Lân nhi được? Tây Môn Nhất Nương phá lên cười to ghê rợn, nói:
- Nếu không phải là Lân nhi thì còn ai nữa? Ông hãy xem chiếc vòng ngọc đeo trong tay nó kìa! Lữ Đằng Không vội vàng đưa mắt nhìn vào cổ tay xác chết, thấy chiếc vòng ngọc mà Lân nhi thường đeo hằng ngày, tia hy vọng cuối cùng trong đầu ông ta cũng biến mất.
Nhưng ngay lúc ấy, ông ta lại lóe lên một ý nghĩ, lên tiếng nói:
- Phu nhân, trước ngực của Lân nhi có một nốt ruồi son, chúng ta hãy xem kỹ đã! Vừa nói, ông ta vừa đưa tay lên xé toạc lớp áo trước ngực của xác chết, khi nhìn kỹ vào nơi ấy, thì thấy lớp da tại đó đã bị lắc mất.
Lữ Đằng Không là một tay anh hùng khét tiếng từ bấy lâu nay, nhưng khi nhìn qua thảm trạng trước mắt, thì đôi tay cũng không khỏi rủ riệt. Do đó, qua một tiếng phịch, xác chết trên tay ông ta bị đánh rơi xuống mặt đất lúc nào không biết. Xác chết ấy đã đè lên vô số châu báu đang đổ trên. Những món châu báu vô cùng quý giá trên, bình nhật Lữ Đằng Không chăm nom săn sóc và vô cùng yêu thích. Nhưng giờ đây dưới mắt ông ta thực chẳng khác chi là rơm rác.
Đứa con trai duy nhất đã bị kẻ thù sát hại rồi! Lữ Đằng Không cảm thấy tâm can của mình như bị xé nát, cất tiếng gào than nhưng không thể nào thành tiếng. Mặc dù lúc ấy ông ta đã khóc lên rất thảm thiết, nhưng nước mắt cũng không hề trào ra.
Ông đứng thừ người như một pho tượng đá, chẳng mấy chốc lại phá lên cười to ha hả.
Nhưng tiếng cười của ông ta nghe rất khác thường và bi thảm.
Tiếng cười to của Lữ Đằng Không làm cho cả gian phòng đá rung chuyển. Giờ đây, một lão anh hùng khét tiếng trong giới giang hồ mà tất cả các nhân vật võ lâm đều phải kiêng sợ, tự nhiên trở thành một con người tầm thường, y như những con người tầm thường khác. Lão ta khóc sướt mướt, thái độ hoàn toàn mếm yếu, y hệt như một người cha bị mất con khác trong đời! Lữ Đằng Không cười khan suốt một khoảng thời gian độ dùng xong một chén trà. Cuối cùng, tiếng cười bi thương ghê rợn của ông ta đã được một chuỗi ho khô khan cắt đứt.
Trong cơn ho dai dẳng, ông ta cảm thấy có người đang đưa chân bước nhẹ sát bên cạnh mình, rồi lại cảm thấy có một bàn tay vỗ nhẹ vào vai, nói:
- Này ông, chớ nên đau khổ nữa. Hiện giờ Lân nhi đã bị kẻ thù sát hại rồi. Hơn nữa, chắc chắn kẻ thù ấy chẳng phải tầm thường. Vậy chúng ta cần phải bảo vệ sức khỏe để lo trả thù cho nó! Lữ Đằng Không quay mặt nhìn lại thì trông thấy sắc mặt đau đớn không thể tả của người vợ già. Nhưng ẩn trong sự đau đớn ấy lại thoáng hiện nét can trường đến quả quyết.
Do đó, ông ta bèn lẩm bẩm, lặp đi lặp lại câu nói của Tây Môn Nhất Nương, rồi cất giọng buồn não hỏi:
- Lân nhi thật sự đã bị hại rồi hay sao? Chả lẽ bà bảo Lân nhi còn sống trên dương trần này nữa? Đây... đây nào phải là Lân nhi...
Tây Môn Nhất Nương thong thả khẽ gật đầu nói:
- Tuy xác chết này đã mất đi thủ cấp, cũng như lúc đầu tôi đã khẳng định đây là xác chết của Lân nhi. Nhưng giờ đây khi xem kỹ lại, thì hãy còn có điều đáng nghi ngờ lắm! Lữ Đằng Không vội vàng hỏi:
- Chỗ đáng nghi ngờ là đâu? Tây Môn Nhất Nương đưa tay chỉ thẳng vào lồng ngực của xác chết nói:
- Ông xem trên lồng ngực của xác chết, nơi mà đáng lý Lân nhi có một nốt ruồi son, hiện đã bị đối phương lắc mất rồi. Như vậy chứng tỏ kẻ thù của chúng ta muốn chúng ta tin xác chết này là của Lân nhi. Do đó, tôi dám tin rằng là Lân nhi hãy còn sống ở trên đời. Đây là xác chết của một kẻ khác.
Lữ Đằng Không uể oải lắc đầu qua một lượt nói:
- Dụng tâm của kẻ thù thật vô cùng sâu độc! Đối phương có ý định cho chúng ta nuôi mầm hy vọng là Lân nhi hãy còn sống ở trên đời này. Nên biết, nếu một người hoàn toàn bị tuyệt vọng thì sẽ vô cùng đau khổ, nhưng rồi thời gian sẽ xoa dịu đi! Trái lại, nếu kẻ ấy cứ nuôi mãi một tia hy vọng, tia hy vọng ấy không thể thành sự thật được, tất sẽ bị đau khổ giày vò suốt cả đời! Lời nói ấy của Lữ Đằng Không quả đã nói lên tiếng lòng của một lão già đang hết sức khổ đau.
Ông ta nói vừa dứt lời, bất thần vung tay đấm thẳng vào bức vách đá, vang lên hai tiếng ầm, ầm", khiến cả gian phòng đều rung rinh không ngớt.
Tây Môn Nhất Nương trầm ngâm trong một lúc khá lâu, rồi mới đưa vạt áo lên chùi máu nơi khóe miệng, cất giọng vô cùng bình tĩnh nói:
- Ngày hôm nay chúng ta đã gặp phải một việc bất hạnh có một không hai trên đời.
Nhưng dù thế nào chúng ta cũng phải giữ bí mật tuyệt đối, không thể để lộ ra bên ngoài.
Xác chết này chúng ta nên tạm thời để yên trong gian phòng đá này, tất cả mọi việc chúng ta nên tiến hành theo bình thường. Có làm được như thế, chúng ta mới tìm ra được kẻ thù là ai? Lữ Đằng Không gầm lên rằng:
- Ngoại trừ Lục Chỉ Tiên Sinh thì còn là ai nữa? Chẳng lẽ hai vợ chồng ta vẫn phải đi đến Tô Châu phủ hay sao? Tây Môn Nhất Nương nói:
- Lẽ tất nhiên! Lữ Đằng Không thét to:
- Tôi không đi! Tôi cần phải đi đến Võ Di Sơn, san bằng ngọn Tiên Nhân Phong thành bình địa.
Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:
- Nếu chỉ có một mình Lục Chỉ Tiên Sinh, ông thử nghĩ tôi lại dại gì mà không đến Tiên Nhân Phong trong vùng Võ Di Sơn ngay.
Lữ Đằng Không tức giận hỏi:
- Thế còn ai nữa? Tây Môn Nhất Nương đáp:
- Trong bình sinh, Lục Chỉ Tiên Sinh đã cùng kết giao rất thân mật với Bích Ngọc Sinh, Thiết Đạc Thượng Nhân và Trúc Lâm Thất Tiên. Nếu chúng ta hành động quá lộ liễu, thì mười người ấy sẽ liên hợp lại, hai vợ chồng chúng ta làm sao đối phó nổi? Lữ Đằng Không sửng sờ trong giây lát, rồi vỗ mạnh đôi tay kêu to lên một tiếng rằng:
- Bích Ngọc Sinh? Có phải người trước đây ngoài mười năm, từng xâm nhập đại náo phái Ngũ Đài, và chẳng may sa vào Trường Đao Đoản Đao Trận của phái ấy, suýt nữa đã bị mất mạng, nhưng cuối cùng chạy thoát ra được đấy không? Tây Môn Nhất Nương nói:
- Đúng thế! Tại sao ông lại hỏi đến lão ta thế? Tuy võ công của lão ta vô cùng quái dị và cao tuyệt, cũng như trong võ lâm không ai biết đến lai lịch của lão ta. Nhưng căn cứ vào sự thất bại ê chề của lão ta ở phái Ngũ Đài, đủ biết lão ta không phải là một nhân vật khó đối phó. Nếu đem lão so sánh với số người của Thiết Đạc Thượng Nhân, có lẽ hãy còn kém sút hơn một bậc.
Lữ Đằng Không vội vàng nói:
- Chẳng phải tôi băn khoăn ở chỗ võ công của lão ta cao hay thấp, mà chính vì bà nhắc đến hắn khiến tôi nhớ lại Tề Phúc và bốn tên gia đinh khi nãy, trên mũ đều có khảm một miếng ngọc màu xanh cả! Tây Môn Nhất Nương ngơ ngác một lúc nói:
- Lão ấy có tánh yêu thích châu ngọc còn hơn cả mạng sống của mình. Chính vì vậy nên lão ta bỏ tánh danh chân thực không dùng nữa, mà lấy Bích Ngọc Sinh, đồng thời có biệt hiệu khác là Ngọc Si, vậy chả lẽ họ thực của lão ta là họ Tề sao? Lữ Đằng Không nói:
- Chúng ta chẳng cần tìm hiểu chuyện ấy làm gì? Giờ đây, theo ý bà, thì mối thù của Lân nhi chúng ta trả bằng cách nào? Đôi mày rậm của Tây Môn Nhất Nương dựng đứng lên, cất tiếng cười khanh khách nói:
- Bọn chúng tuy tên nào tên nấy đều có tuyệt nghệ, nhưng thử hỏi tất cả các cao thủ của hai phái Nga My và Điểm Thương chả lẽ vô dụng cả hay sao? Nghe thế, Lữ Đằng Không không khỏi giật mình nói:
- Ý của phu nhân có phải là chúng mình sẽ đi mời các cao thủ trong hai môn phái cùng kéo đến báo thù cho Lân nhi hay không? Tây Môn Nhất Nương đáp:
- Lẽ tất nhiên! Nhưng trước khi chúng ta hành động, tuyệt đối không được để cho người chung quanh biết được. Chúng ta nên mang chiếc hộp không này trao đến tận tay Hàn Tốn trước đã. Sau đó, ông cấp tốc đi đến phái Nga My, còn tôi đi đến ngay phái Điểm Thương để mời và hẹn ngày giờ với họ, tập hợp tại chân núi Võ Di Sơn. Trong phái Nga My của ông, kể cả tăng nhân và các cao thủ tại gia đông đảo vô số, song vị tất họ đều nhận lời mời. Tuy nhiên, chỉ cần mười cao thủ bằng lòng giúp chúng ta cũng là đủ lắm rồi! Riêng hai vị Chưởng môn thì chúng ta chớ nên cho hay, kẻo lại kinh động đến họ.
Lữ Đằng Không biết làm như vậy thì rất có thể đối phương sẽ hay tin được. Trong khi đó, tuy Lục Chỉ Tiên Sinh và Bích Ngọc Sinh đều là người đi đứng trong giang hồ một thân trơ trọi, không vây cánh đông đảo. Song, Thiết Đạc Thượng Nhân là người có quan hệ sâu xa với phái Thanh Thành, đó là một điều rất đáng ngại. Riêng về Trúc Lâm Thất Tiên, là số người lúc nào cũng hợp tác chặt chẽ với nhau, và trong bảy người họ lại có liên hệ với phái Hoa Sơn và phái Thê Hà, do đó, bọn họ chẳng phải là số người bị lẻ loi cô độc.
Chính vì vậy, nếu tiến hành mọi việc theo lời của Tây Môn Nhất Nương, tất sẽ đưa đến một cuộc xô xát đẫm máu chưa từng có trong võ lâm.
Và cuộc chém giết ấy kết cục như thế nào thì chắc ai cũng đoán ra được. Cả hai bên sẽ đều bị thương vong như nhau.
Lữ Đằng Không tuy nhận xét được hậu quả tai hại ấy, song khi nghĩ đến đứa con trai của mình bị sát hại, chịu chết một cách vô cùng thảm khốc, thì không khỏi có ý nghĩ liều lĩnh, bèn gật đầu nói:
- Như vậy là được lắm! Sau đó, hai vợ chồng bèn bước ra khỏi gian phòng đá, đóng kín cánh cửa bí mật lại. Lữ Đằng Không thò tay sờ lại chiếc hộp gỗ bọc gấm đang cất kỹ trong áo, thấy nó vẫn còn nguyên, nên cả hai mới cùng bước ra khỏi hòn non bộ, vẻ mặt điềm nhiên như chẳng hề có chuyện chi xảy ra cả.
Vườn hoa này tọa lạc tại phía sau gian nhà ở của Lữ Đằng Không, nên thường ngày số người trong tiêu cục nếu không có lệnh gọi thì không khi nào dám hẻo lánh đến. Do đó, việc hai vợ chồng Lữ Đằng Không vào hòn non bộ thật lâu mà vẫn không một ai hay biết được.
Lữ Đằng Không trở về đến phòng riêng mà trong lòng vẫn cảm thấy nặng nề đau đớn.
Hơn nữa, ông ta lại cảm thấy vô cùng quái dị. Ông ta tin chắc rằng trên đời này không ai có thể biết được gian phòng bí mật ấy của ông ta cả.
Ông ta xét thấy người biết được gian phòng đá bí mật ấy, ngoại trừ hai người thợ ở vùng Tây Vực ra thì chẳng còn kẻ thứ ba. Như vậy, chả lẽ hai người thợ ấy đã tiết lộ mọi sự bí mật hay sao? Nhưng Lữ Đằng Không nhận thấy rằng, lúc mình đi mời hai người thợ ấy đến xây cất gian phòng bí mật này thì hành tung lúc nào cũng được giữ kín, số người xung quang chẳng ai biết được cả. Thế mà chẳng hiểu do đâu Lục Chỉ Tiên Sinh lại phát giác được gian phòng đá bí mật của mình? Sau đó, Lữ Đằng Không đã một mình đi đến thư phòng, trong lòng lão ta vẫn tràn đầy lửa hận. Lão ta ngồi yên xuống nghế, sửng sờ như một pho tượng đá.
Riêng Tây Môn Nhất Nương thì bình tĩnh hơn, bà ta cố đè nén sự đau đớn và tức giận, thản nhiên bước ra trước tiêu cục. Bà ta muốn tìm hiểu nơi số phu xe đẩy xe của tiêu cục, để thu thập một vài tin tức cần thiết, hầu phán đoán và truy tìm ra tung tích kẻ thù.
Khi Tây Môn Nhất Nương vừa xuất hiện thì có mấy vị tiêu đầu liền bước tới vây quanh, kẻ hỏi này, người hỏi nọ.
Tây Môn Nhất Nương bình tĩnh trả lời chiếu lệ với họ mấy câu, để họ không có lòng nghi ngờ. Nhưng ngay lúc ấy bỗng nghe có người lên tiếng:
- Tây Môn nữ hiệp vừa rồi có phải bà đã bảo tiểu chủ nhân đi ra đường chơi hay không? Tây Môn Nhất Nương nghe thế thì không khỏi giật mình, ngước mắt nhìn lên, trông thấy người hỏi câu hỏi ấy là một người phu đẩy xe đã lớn tuổi. Do đó, bà ta vội vàng hỏi lại;
- Ông đã gặp nó bao giờ thế? Người ấy nghiêng đầu nghĩ ngợi trong giây lát rồi đáp:
- Độ nửa giờ trước đây! Tây Môn Nhất Nương cảm thấy lạnh buốt cả tâm can. Vừa rồi bà ta tuy thấy xác chết trong gian phòng đá ấy mặc y phục của Lữ Lân, trên tay lại có đeo chiếc vòng bằng ngọc nữa.
Nhưng vì trước lồng ngực, nơi có nốt ruồi son bị lắc đi mất, nên bà ta vẫn nghi ngờ xác chết ấy là của một người khác.
Giờ đây, khi nghe qua lời nói của người phu đẩy xe, bà ta không khỏi mất bình tĩnh, hối hả truy hỏi về thời gian mà lão già ấy đã gặp Lữ Lân. Nếu lão già nọ vừa gặp Lữ Lân trên đường, thì chắc chắn là nó còn sống ở trên dương trần.
Thế nhưng qua câu xác nhận về thời gian của lão già, tia hy vọng mỏng manh và cuối cùng trong lòng bà ta bị tắt hẳn. Lão già ấy đã gặp Lữ Lân cách đây nửa giờ, chứng tỏ đấy là thời gian mà Lữ Lân từ trong gian hoa sảnh nhỏ bước ra.
Tuy nhiên, Tây Môn Nhất Nương vẫn còn nuôi hy vọng, lên tiếng hỏi:
- Ông gặp nó tại đâu thế? Lão già đẩy xe lên tiếng đáp:
- Tại hạ gặp cậu ấy trên một con đường ở giữa thành phía tây. Lúc đó, cậu ấy đeo lủng lẳng một ngọn đao thép bên sườn, đi hối hả ra cửa thành. Do đó, tại hạ nắm tay kéo cậu ấy lại, và hỏi cậu ấy định đi đâu? Nhưng tại hạ đã bị cậu ấy quật ngã, lăn quay ra đất..
Tây Môn Nhất Nương nóng ruột, ngắt lời hỏi tiếp:
- Lúc đó nó có bảo là đi đâu không? Lão già phu xe đáp:
- Không! Sau khi tại hạ bị quật ngã ra đất, thì chỉ còn thấy cậu ấy dõng dạc đưa chân nhắm hướng tây bước tới mà thôi.
Tây Môn Nhất Nương hừ lên một tiếng, nhưng im lặng chẳng nói thêm chi nữa. Lúc đó, trong lòng bà ta đang thầm tính về thời gian đã xảy ra mọi chuyện vừa rồi. Bà ta thấy Lữ Lân bước ra khỏi tiêu cục, đi về hướng tây, rất có thể là lúc cậu ta vừa mới rời khỏi gian hoa sảnh ấy. Sau khi cậu ta vừa mới ra đi, người trong tiêu cục hãy còn gặp mặt cậu ta. Như vậy là khoảng thời gian từ khi hai vợ chồng của bà ta cùng ngồi nói chuyện bên trong gian hoa sảnh, đến lúc vào hang đá tại hòn non bộ ở phía sau vườn, chỉ độ dùng xong hai chén trà nóng mà thôi.
Trong khoảng thời gian đó, kẻ thù sát hại Lữ Lân, rồi lại mang xác chết đặt yên vào trong gian phòng đá bí mật ấy. Như vậy cũng đủ thấy số người của Lục Chỉ Tiên Sinh trong những ngày gần đây, võ công tiến bộ vượt bực, không ai có thể tưởng tượng nổi.
Lúc bấy giờ Tây Môn Nhất Nương chỉ muốn tuốt lấy thanh trường kiếm siết chặt vào tay, nhắm hướng tây truy đuổi theo kẻ thù. Nhưng khi suy nghĩ lại, thấy năng lực của mình thật sự không làm thế nào đối địch nổi với bao nhiêu cao thủ ấy, nên đành cố đè nén sự tức giận trở xuống, lên tiếng nói:
- Vừa rồi tôi đã bảo nó đi về phía ấy trước, tìm nơi chờ đợi chúng tôi. Vì vào sáng ngày mai này, chúng tôi phải đi đến Tô Châu phủ. Do đó, mọi việc trong tiêu cục, các ông nên chăm sóc cho kỹ lưỡng, chớ để xảy ra điều chi đáng tiếc.
Số người hiện diện nghe qua, cảm thấy lời nói của Tây Môn Nhất Nương có điều rất đáng ngờ. Tại sao lại sai một cậu bé còn nhỏ tuổi như vậy đi một mình trước là nghĩa lý gì? Song, bọn họ thấy lời nói xuất phát từ cửa miệng của Tây Môn Nhất Nương thì đâu lại giả dối bao giờ? Bởi thế cả bọn đồng thanh cất tiếng vâng lệnh một lượt.
Sau đó, Tây Môn Nhất Nương bèn trở lại hậu đường, cùng bàn bạc với Lữ Đằng Không về kế hoạch đối phó với kẻ thù. Và hai người đã thức trắng đêm, không hề chợp mắt.
Sáng sớm hôm sau, Tây Môn Nhất Nương đeo song kiếm vào sườn, còn Lữ Đằng Không giắt thanh Tử Kim Đao lên vai, cùng rời khỏi tiêu cục.
Lúc bấy giờ, vợ chồng của Lữ Đằng Không đinh ninh kẻ thù đã sát hại Lữ Lân chính là số người của Lục Chỉ Tiên Sinh. Nhưng vì muốn bảo mật để việc trả thù được tiến hành thuận lợi, nên thái độ họ vẫn điềm nhiên, không hề lộ ý định của mình.
Suốt đêm qua, hai vợ chồng Lữ Đằng Không không ngớt nghe ngóng chờ đợi, nhưng Lữ Lân vẫn bặt tăm không thấy trở về. Do đó, hai vợ chồng ông ta lại càng đau đớn hơn. Suốt một đêm dài hai vợ chồng ngồi đối diện với nhau, mà không nghe ai nhắc đến tiếng hai tiếng "Lân nhi" cả.
Trong lòng của hai người đinh ninh xác chết trẻ thơ trong gian phòng đá chính là đứa con trai yêu quý của mình, tức Lữ Lân, chớ không còn điều chi ngờ vực nữa! Tuy nhiên, trong lòng họ vẫn còn một điểm đáng nghi ngờ là chẳng hiểu tại sao, giữa Lục Chỉ Tiên Sinh, Bích Ngọc Sinh, Thiết Đạc Thượng Nhân và Trúc Lâm Thất Tiên đối với hai vợ chồng họ vốn chẳng hề có mối oán cừu chi cả, vậy vì lẽ gì số người ấy lại hạ độc thủ đối với con của hai vợ chồng ông ta như vậy? Suốt một đêm bàn bạc với nhau, hai vợ chồng đều có cảm giác là bốn món bảo vật vô cùng quý báu do Tề Phúc mang đến để làm những món quà thù lao cho chuyến đi Tô Châu ấy, có lẽ hoàn toàn không dính dấp chi đến cái chết của Lữ Lân cả.
Sở dĩ hai vợ chồng của Lữ Đằng Không có ý nghĩ như vậy, vì họ không biết Lữ Lân rời khỏi tiêu cục với mục đích truy đuổi theo cỗ xe ngựa sang trọng vừa xuất hiện trước tiêu cục của họ. Chính cỗ xe ngựa sang trọng đó đã mang Tần tiêu đầu, một người nhận mệnh lệnh của Lữ Đằng Không ra đi để theo dõi lai lịch của Tề Phúc, đang bị trọng thương gần chết ném vào tiêu cục.
Nếu vợ chồng Lữ Đằng Không biết được mục đích ra đi của Lữ Lân, có lẽ bọn họ đã nhắm thẳng vào phái Hoa Sơn để gây sự rồi. Hơn nữa, tất họ sẽ gấp rút tiến hành điều tra lai lịch và tính danh của Tề Phúc, không hành động như mọi dự định hiện nay.
Hai vợ chồng Lữ Đằng Không giục ngựa phi nhanh tới trước, và lúc cửa thành Nam Xương vừa mở ra, cả hai liền nhắm hướng đông bắc phi ngựa lướt tới như bay.
Khi bóng mặt trời lên cao tới đỉnh đầu thì vợ chồng họ đã đi trên một trăm dặm. Khi ấy, họ nhìn thấy phía trước mặt đường núi khúc khuỷu gồ ghề, chung quanh cây rừng rậm rạp, vắng vẻ, chẳng hề trông thấy một bóng người, nên liền đưa mắt nhìn nhau. Cả hai đều thầm cảnh giác, để đối phó với mọi việc bất trắc có thể xảy ra.
Hai người lại tiếp tục đi về phía trước độ mấy mươi dặm đường nữa. Giữa lúc họ định xuống ngựa để nghỉ ngơi, ăn uống, bất thần nghe từ trong cánh rừng sát bên vệ đường, có tiếng đàn cổ đánh lên tình tang, rất vui tai.
Nghe tiếng đàn ấy, cả hai sắc mặt tràn đầy căm tức. Cả hai không ai bảo ai, nhanh nhẹn gò cương cho ngựa đứng lại.
Tây Môn Nhất Nương hạ giọng nói rằng:
- Tiếng đàn ấy rất có thể là của Lục Chỉ Tiên Sinh. Nếu lão ta có bước ra, chúng mình tuyệt nhiên chẳng thể tỏ thái độ khác lạ, mà nên chờ xem cử chỉ của lão ta, rồi mới định đoạt cách đối phó sau.
Câu nói vừa dứt thì tiếng đàn nghe lại càng gần hơn. Cuối cùng, họ lại nghe tiếng vó ngựa nện trên mặt đường lốc cốc. Đồng thời chẳng mấy chốc sau, hai vợ chồng Lữ Đằng Không đã thấy từ trên con đường mòn nhỏ trong cánh rừng cạnh đấy, có một con lừa đen tuyền từ đầu đến chân, đang thong thả chạy ra.
Trên lưng con lừa ấy, đang ngồi một lão già mặc áo dài màu vàng, trước mặt có để một cây đàn cổ, và đôi tay không ngớt khảy nhẹ trên dây đàn, tựa hồ chẳng chú ý chi đến sự hiện diện của hai vợ chồng họ đâu cả.
Lữ Đằng Không thấy mặt kẻ thù, sắc mặt liền đỏ gay như lửa, cơ hồ không còn đè nén được sự tức giận đang cháy ngùn ngụt trong lòng. Những sợi râu dưới cằm của lão ta dựng đứng lên như những sợi lông nhím, thần sắc uy nghi trông thật đáng sợ. Song lão già đang ngồi trên lưng lừa vẫn một mực cứ gầm đầu lo đánh đàn. Trên hai bàn tay của lão ta, rõ ràng có hai ngón nhỏ, mọc từ cạnh ngón tay cái ra. Đấy quả là Lục Chỉ Tiên Sinh! Tây Môn Nhất Nương liếc thấy Lữ Đằng Không đang tràn đầy sắc căm tức, tựa hồ không thể đè nén được, trong khi thái độ của đối phương vẫn bình tĩnh. Bà ta không khỏi cuống quýt, vì ý định của bà ta là không muốn làm cho kẻ thù hiểu được dự định của mình, để có thể sắp xếp, tóm bọn họ cùng một lúc.
Bà ta bèn nhanh nhẹn thúc nhẹ vào người của Lữ Đằng Không nói:
- Thôi, chúng ta hãy mau đi lên! Nhưng tiếng nói của bà ta đã làm cho Lục Chỉ Tiên Sinh giật mình. Lão ta đưa mắt nhìn kỹ về phía Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không một lượt nói:
- Ủa! Nhị vị đây có phải là đôi vợ chồng họ Lữ ở Thiên Hổ Tiêu Cục không? Tại hạ đang định đi đến thành Nam Xương để thăm nhị vị đây, thế mà chẳng ngờ lại may mắn được gặp giữa đường, thực là quý hóa thay! Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:
- Quả là quý hóa lắm! Lục Chỉ Tiên Sinh nghe qua giọng nói của Tây Môn Nhất Nương thì không khỏi sửng sốt, không hiểu đấy là có ý nghĩa chi? Do đó, lão ta bèn quay mặt vào cánh rừng, kêu to lên rằng:
- Thiết Đạc Thượng Nhân, có hai vợ chồng lão chủ nhân họ Lữ đây rồi. Chúng ta khỏi phải mất nhiều thời gian đến thành Nam Xương nữa! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương không khỏi thầm kêu lên trong lòng: "Hay lắm! Chả lẽ bọn ngươi tập trung ở cả nơi này hay sao?" Liền đó, họ nghe từ trong cánh rừng, một giọng nói vang lên như tiếng hồng chung, vọng đến rằng:
- Lục Chỉ Tiên Sinh, tiếng đàn của ông đã phá phách đôi tai của tôi, khiến tôi không được nghỉ ngơi yên ổn trong giây phút nào cả. Thế mà giờ đây, tiếng đàn vừa dứt, ông lại kêu réo ầm ĩ làm chi thế? Lục Chỉ Tiên Sinh cất tiếng cười ha hả nói:
- Đàn khảy tai trâu, thì trâu nào biết thưởng thức? Do đó, cũng chẳng trách ông tại sao lại chê tiếng đàn của tôi là ồn ào! Trong khi đôi bên còn đang đối đáp nhau, từ trong cánh rừng đã có bóng người dõng dạc cất bước đi tới. Bóng người ấy có thân hình hết sức cao lớn, mình mặc y phục màu đen, trông chẳng khác chi một ngôi thiết tháp, mắt beo đầu cọp, râu ria chơm chởm, trên lưng có một vật chi gồ cao, song xem kỹ thì không phải lưng gù, mà rất giống một gói hành lý.
Khi người ấy bước ra đến nơi thì dừng chân đứng giữa đường nói:
- Hai vị ấy là vợ chồng lão chủ nhân họ Lữ chăng? Tại hạ nghe danh từ lâu, song chưa có duyên được gặp mặt lần nào cả! Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không vừa trông thấy người ấy xuất hiện, thì biết đây là người rèn về ngoại công đã đến trình độ tuyệt đỉnh, sức mạnh phi thường, tức Thiết Đạc Thượng Nhân. Vật gồ cao mà lão ta mang ở sau lưng chính là chiếc Thiết Đạc (chuông sắt), nặng có hàng sáu trăm cân. Thế mà lão ta dùng nó để làm binh khí, và sử dụng như một món binh khí bình thường. Tây Môn Nhất Nương trông thấy hai người này đều điềm tĩnh như chẳng có chuyện chi cả, thì trong lòng lại càng tức giận hơn. Song bà ta chẳng để lộ thái độ cho đối phương biết, thản nhiên lên tiếng nói:
- Vị này có lẽ là Thiết Đạc Thượng Nhân chăng? Nhưng chẳng rõ nhị vị muốn gặp chúng tôi để có việc chi chỉ giáo? Thiết Đạc Thượng Nhân vừa đưa chân bước tới mấy bước, mỗi bước lão ta dài có ngoài nửa trượng, vừa lên tiếng nói:
- Chính vì câu chuyện đứa con trai của nhị vị! Tây Môn Nhất Nương không ngờ rằng, vừa rồi đối phương tỏ ra điềm nhiên như chẳng hề biết chuyện chi xảy ra, thế mà giờ đây lại bất thần đề cập thẳng đến việc của Lữ Lân, nên đang nghĩ ngợi tìm câu trả lời. Nhưng Lữ Đằng Không vì quá tức giận, không còn đè nén được nữa, lão gầm to lên rằng:
- Con trai tôi thế nào? Nó chỉ mới chừng ấy tuổi, thế tại sao các ông...? Câu nói của Lữ Đằng Không vừa đến đây, Tây Môn Nhất Nương đã kịp thời vung tay vỗ mạnh vào vai ông ta, khiến ông ta giật mình, dừng ngay câu nói dở dang ấy lại.
Trong khi đó, Lục Chỉ Tiên Sinh và Thiết Đạc Thượng Nhân đều lộ sắc kinh ngạc. Lục Chỉ Tiên Sinh lên tiếng hỏi:
- Chẳng hay vì lẽ chi mà Lữ Tổng tiêu đầu thịnh nộ như thế? Lữ Đằng Không hừ một tiếng qua giọng mũi, nhưng Tây Môn Nhất Nương đã nhanh nhẹn cướp lời rằng:
- Không rõ các ông muốn tìm đứa con trai tôi là có chuyện gì? Lục Chỉ Tiên Sinh mỉm cười nói:
- Từ trước đến nay, tại hạ vẫn ở yên tại Tiên Nhân Phong trong Võ Di Sơn. Tài nghệ của mình cố lẽ nhiên không làm sao sánh kịp với các cao nhân trong hai phái Nga My và Điểm Thương. Tuy nhiên, tại hạ trước nay vẫn không có lòng tự phụ, nên nửa năm gần đây, có xuống núi một lần để tìm môn đồ kế nghiệp. Nhưng chẳng ngờ trong thiên hạ, người có tư chất lại quá hiếm Chương, nên trong chuyến đi ấy hoàn toàn chẳng có kết quả. Nhưng trước đây độ một tháng, tại hạ bất ngờ nghe Thiết Đạc Thượng Nhân và một số bằng hữu khác có đề cập đến lệnh lang Lữ Lân. Tuy tuổi mới vừa mười hai, song nội công tỏ ra rất cơ bản, hơn nữa, tư chất ấy lại vô cùng tốt. Chính vì lẽ ấy nên tại hạ mới mạo muội tìm đến đây, mong thu lệnh lang làm môn đồ, và chỉ cần lệnh lang theo tại hạ về Võ Di Sơn độ năm năm, tại hạ sẽ mang hết sở học ra truyền dạy cho.
-oOo-
Chương 3
Đường Dài Lại Lắm Chông Gai
Khách Điếm Tạm Trú Gặp Hai Yêu Tà
Đả tự: LieuTrai
Nguồn: nhanmonquan.com
Trong võ lâm, việc sư phụ tìm môn đồ, cũng như việc môn đồ chọn lựa sư phụ là những chuyện rất thông thường, chẳng có chi là lạ lùng cả.
Hơn nữa, dù cho cha mẹ có là một bậc cao nhân, võ công tuyệt kỹ thì việc con cái họ đi tìm một vị sư phụ đức trọng tài cao để học hỏi thêm cũng là một chuyện rất thường có.
Với danh vọng cũng như võ công của Lục Chỉ Tiên Sinh, việc ngỏ ý muốn thu Lữ Lân làm môn đồ, thì thật ra cũng chẳng phải là việc mất mặt đối với hai vợ chồng Lữ Đằng Không. Đồng thời, chắc chắn lão ta cũng không đến nỗi đào luyện Lữ Lân thành một con người hư hỏng. Do đó, nếu Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương chưa phát giác được một xác chết trẻ thơ không đầu bên trong gian phòng đá bí mật của họ, và chưa thấy bàn tay sáu ngón in trên bức vách đá cạnh ấy, thì chắc chắn hai người sẽ xuống ngựa nghênh đón, tỏ ra hoan nghênh ý kiến của Lục Chỉ Tiên Sinh ngay.
Nhưng giờ đây mọi việc diễn biến lại xảy ra như thế này, nên cả hai vợ chồng đều không khỏi có ý nghĩ: "Phải rồi, giữa ta và bọn họ vốn không có oán thù chi, nhưng chắc chắn là do Lân nhi đã tạo ra kẻ cường địch này. Có lẽ vì bọn họ muốn thu Lân nhi làm môn đồ, nhưng Lân nhi đã tỏ ra phản đối, do đó, bọn họ mới giết chết cho hả cơn tức giận." Lữ Đằng Không chỉ nghĩ đến điều đó, song riêng Tây Môn Nhất Nương thì nghĩ xa hơn.
Bà ta cho rằng, sở dĩ kẻ thù của mình còn mang giọng lưỡi ấy là để phỉnh gạt mình, chính là muốn thăm dò xem mình có phát giác được xác chết của Lân nhi bên trong gian phòng đá bí mật ấy hay chưa? Nếu thế thì mình nên giấu mất việc đó, hầu chờ đợi thời cơ khi có đủ điều kiện, sẽ mang món nợ máu ấy ra thanh toán.
Do đó, Tây Môn Nhất Nương bèn cất tiếng sâu hiểm nói:
- Nếu Lục Chỉ Tiên Sinh bằng lòng nâng đỡ cho đứa con trai của chúng tôi thì thật rất lấy làm cảm tạ. Nhưng hai vợ chồng tôi chỉ e là nó kém thông minh lại ngang bướng, khó bề dạy dỗ thành tài đó mà thôi! Lục Chỉ Tiên Sinh cất tiếng cười ha hả, nói:
- Lữ phu nhân hà tất phải khách sáo như thế! Tây Môn Nhất Nương đáp:
- Hiện giờ, chúng tôi còn đang bận chuyện cấp bách, cần phải đến Tô Châu ngay. Một hôm nào khác, chúng tôi sẽ mang con trai chúng tôi đến Tiên Nhân Phong tại Võ Di Sơn trao cho tiên sinh dạy dỗ. Tiên sinh và những bằng hữu khác vui lòng chờ đợi vợ chồng chúng tôi tại Tiên Nhân Phong có được chăng? Lục Chỉ Tiên Sinh trầm ngâm trong giây lát, nói:
- Cũng được, nếu thế chúng tôi xin cáo từ vậy! Dứt lời, lão ta lại cúi gầm đầu lo đánh đàn trong khi bốn vó con lừa lại chậm chạp nện lốc cốc trên mặt đường. Riêng Thiết Đạc Thượng Nhân cũng rảo bước đi theo sát bên cạnh con lừa ấy. Chẳng mấy chốc sau bọn họ đã đi xuyên qua quan lộ, rồi lẩn khuất vào trong cánh rừng rậm cạnh đấy.
Tây Môn Nhất Nương chờ cho hai đối phương đi khuất dạng, mới cất giọng hầm hầm nói:
- Đợi một tháng sau, ta sẽ cho các ngươi chết không đất vùi thây đó! Lữ Đằng Không nói:
- Phu nhân, xem thái độ của bọn họ tựa hồ không hề biết chi cả! Tây Môn Nhất Nương cất giọng gay gắt nói:
- Rõ ràng đấy là do bọn họ đã hạ độc thủ, vậy tại sao lại không biết chứ? Sở dĩ bọn họ giả vờ như thế, lẽ tất nhiên là có mục đích chi mà chúng ta chưa rõ mà thôi.
Lữ Đằng Không vốn muốn lên tiếng nói: "Về cách đối nhân xử thế của Lục Chỉ Tiên Sinh ra sao, thì mình chưa được biết. Nhưng riêng về Thiết Đạc Thượng Nhân, rõ ràng là một người có tánh tình ngay thẳng, như vậy e rằng là họ chẳng phải giả vờ." Nhưng ông ta biết nếu mình nói lên lời ấy, chắc chắn sẽ bị vợ phản đối ngay, nên im lặng không nói chi cả. Sau đó, hai người bèn mở lương khô ra dùng qua loa, rồi lại hối hả lên đường. Khi trời ngã bóng hoàng hôn, cả hai đã thấy thấp thoáng trước mặt có một thị trấn lớn, khói nấu cơm chiều bay uyển chuyển, từ dưới đất bốc lên trời cao.
Giữa lúc hai người định cho ngựa đi chậm lại, hầu để người chung quanh không nghi ngờ và để ý tới mình, kẻo lại sinh ra lắm điều rắc rối. Bất thần ở phía sau nghe một chuỗi cười khanh khách lạnh buốt như giá băng. Cả hai đều nhanh nhẹn quay đầu nhìn lại, thì trông thấy ba gã đàn ông gầy đét, đang sử dụng khinh công chạy bay tới, đôi chân không hề chấm đất. Chỉ trong chớp mắt sau là cả ba đã vượt qua khỏi đầu ngựa của hai vợ chồng họ. Lúc ấy, cả ba bỗng quay đầu lại, nhìn thẳng vào hai vợ chồng Lữ Đằng Không một lượt.
Ba gã đàn ông cao gầy ấy lướt đi nhanh như gió, chứng tỏ bọn họ là những người có trình độ khinh công cao siêu tuyệt đỉnh. Vừa rồi, Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không quay đầu nhìn lại và đã trông thấy điểm đó, nên lúc nào cũng lưu tâm theo dõi mọi cử chỉ của ba gã ta.
Do đó, khi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trông thấy ba đối phương quay mặt nhìn thẳng vào phía mình, liền chú ý quan sát họ kỹ hơn. Nhờ thế hai người trông thấy ba đối phương đều có đôi mắt chiếu sáng lập lòe. Nhưng cả ba bỗng lại quay đầu nhìn về phía trước rồi tiếp tục lướt thẳng tới nhanh như gió hốt.
Thế là, chỉ trong chớp mắt sau, cả ba đã lẩn khuất giữa đám người đi đường và xe ngựa qua lại, không còn trông thấy đâu nữa.
Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng cười khanh khách. Đang định quay về Lữ Đằng Không định nói chi, bất thần lại nghe phía sau lưng có người lớn tiếng nói rằng:
- Làm ơn tránh đường! Làm ơn tránh đường! Nơi đây đã gần một thị trấn lớn, nên quan lộ rộng thênh thang, mặc dù người đi dập dìu, xe ngựa tấp nập, song vẫn có thể lưu thông dễ dàng, chẳng cần phải gọi người chung quanh tránh đường cả. Bởi thế khi Tây Môn Nhất Nương vừa nghe tiếng kêu ấy ở phía sau lưng mình thì không khỏi tức giận, bà quay mặt lại nhìn, thì thấy đó là một gã đàn ông to béo, trên vai đang gánh đá nặng nề.
Gã đàn ông ấy đi xiêu qua xiêu lại, sàng ngang như một con vịt. Hơn nữa, mặc dù hai bên đường còn rộng rãi, thế mà hắn ta vẫn cố bám sát theo mông con ngựa của Tây Môn Nhất Nương để kêu tránh đường.
Tây Môn Nhất Nương là người kiến thức rộng rãi, nên vừa nhìn qua gánh đá nặng nề mà gã đàn ông to béo ấy đang gánh trên vai ít nhất cũng có đến bốn trăm cân, thì tiên đoán hắn ta chẳng phải là một con người tầm thường. Hơn nữa, qua thái độ của hắn ta, Tây Môn Nhất Nương cũng biết chắc là hắn ta đang cố tình muốn gây rối với mình.
Tây Môn Nhất Nương đã đoán biết được, là trong chuyến áp tải chiếc hộp gỗ này đến Tô Châu phủ chắc chắn sẽ gặp rất nhiều cao thủ đón đường gây sự. Bà ta sở dĩ muốn cùng đi chung với Lữ Đằng Không mục đích cũng là để gặp gỡ những cao thủ ấy một lần cho biết.
Nhưng vì trước khi hai vợ chồng lên đường thì lại có một biến cố đau thương xảy đến.
Do đó, hiện giờ bà ta chỉ muốn làm thế nào áp tải chiếc hộp gỗ này đến Tô Châu phủ cho sớm, hầu được rảnh rang, đi tìm Lục Chỉ Tiên Sinh và số người của Thiết Đạc Thượng Nhân rửa sạch mối thù hận mà thôi. Do đó, bà ta hoàn toàn không còn ý định gây sự đánh nhau với những cao thủ đang theo dõi để mưu đồ cướp chiếc hộp gấm.
Chính vì lẽ ấy, nên mặc dù lúc bấy giờ Tây Môn Nhất Nương biết gã đàn ông to béo ấy muốn gây sự với mình, nhưng vẫn không cố chấp. Bà ta vội vàng giật mạnh cương ngựa, khiến con tuấn mã lách tránh về phía trong ba thước, nhường đường cho đối phương ngay.
Bởi thế gã đàn ông to béo ấy bèn gánh đá nặng nề lướt qua khe trống giữa hai vợ chồng bà ta, rồi tiếp tục đi nhanh về phía trước. Nhưng lúc hắn ta đi ngang Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không thì lại không ngớt ngó sang trái quay sang phải để nhìn kỹ hai người. Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế bèn đưa mắt ra hiệu cho Lữ Đằng Không hãy cố dằn cơn tức giận, chớ gây sự làm gì. Do đó, Lữ Đằng Không cũng chỉ lạnh lùng đưa mắt nhận xét thật kỹ gã đàn ông to béo ấy mà thôi.
Khi ông ta trông thấy ở sau gáy của đối phương có một cục bướu to bằng nắm tay, màu đỏ hồng, trong lòng chợt nhớ ra một người nên không khỏi giật mình sửng sốt.
Giữa lúc ấy, gã đàn ông to béo ấy bỗng rảo bước lướt đi nhanh hơn. Chớ xem hắn ta to béo thục thịch mà lầm. Mặc dù hắn ta đang gánh một gánh đá hết sức nặng, song vẫn có thể lướt đi nhanh như bay, quả không ai có thể tưởng tượng được.
Do đó, chỉ trong chốc lát sau là hắn ta đã vượt qua rất nhiều xe ngựa đang đi trên đường, rồi lướt thẳng vào thị trấn mất dạng.
Lữ Đằng Không giật cương ngựa cùng sánh vai với Tây Môn Nhất Nương thong thả đi tới. Lão ta lên tiếng nói:
- Phu nhân, gã đàn ông to béo kia có phải chính là vị Chưởng môn của phái Thái Cực, tên gọi Phán Tiên Từ Lưu Bản, mà trong giới giang hồ đã đồn đãi ấy không? Tây Môn Nhất Nương khẽ gật đầu nói:
- Đúng thế! Ba gã đàn ông ấy vừa rồi rất giống Thái Sơn Tam Tàn. Ông chẳng trông thấy bên sườn họ đều có đeo một món binh khí kỳ hình dị tướng đó sao? Lữ Đằng Không như chợt nhớ ra nói:
- Phải rồi! Đấy đúng là Tam Tài Phiên của Hắc Thần Quân ở Thái Sơn đã truyền cho! Đôi mày rậm của Tây Môn Nhất Nương cau chặt lại nói:
- Chuyện này thật vô cùng quái dị! Thái Sơn Tam Tàn bấy lâu nay đã ỷ lại sư phụ của mình là Hắc Thần Quân, gây ra bao nhiêu tội ác ở vùng Sơn Đông và Hà Bắc, khiến cho ngay đến nhân vật trong phe hắc đạo khi gặp họ cũng phải điên đầu. Do đó, bọn họ tìm đến đây để dòm ngó chiếc hộp này mưu toan cướp đoạt, cũng chẳng có chi là lạ. Song tại sao ngay như vị Chưởng môn phái Thái Cực là người thuộc về phe chính phái, thế thì vì lẽ gì cũng tìm đến đây để gây sự với mình? Lữ Đằng Không tức giận cười nhạt nói:
- Để mặc cho bọn chúng muốn làm gì thì làm, dù cho chúng ta có bị hại dưới tay bọn chúng đi nữa, thử hỏi khi bọn chúng đoạt được chiếc hộp gỗ không này, chúng có dùng vào chuyện chi được? Tây Môn Nhất Nương cũng có nghĩ điều đó, song bà ta lúc nào cũng tế nhị và sâu sắc hơn Lữ Đằng Không rất nhiều, nên liền hạ giọng nói nhỏ rằng:
- Ông chớ nên nói to như thế! Tối nay chúng ta cần phải xem lại kỹ lưỡng chiếc hộp gỗ đó, không biết chừng đấy là một chiếc hộp hai lớp, và chính giữa còn cất giấu một vật bí mật chi chăng. Nếu chẳng phải thế thì tại sao Tề Phúc lại bằng lòng thù lao trọng hậu như thế? Hơn nữa, những cao thủ trong hai phe chính tà, như Từ Lưu Bản và Thái Sơn Tam Tàn lại cùng một lúc chú ý theo dõi hành tung của chúng ta như thế? Trong khi hai vợ chồng đang nói chuyện, bất thần nghe ở phía sau có tiếng khóc to đầy ai oán vọng đến bên tai.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều là người võ công cao cường tuyệt đỉnh, nếu họ bằng lòng đứng ra tổ chức môn phái, chắc chắn họ rất xứng đáng là một bậc tôn sư.
Thế nhưng tiếng khóc ai oán ấy lọt vào tai hai người thì cả hai không khỏi cảm thấy giật mình Chương hộp.
Bởi thế, cả hai nhanh nhẹn trấn tĩnh tâm thần, rồi quay đầu nhìn lại phía sau. Họ trông thấy có hai gã đàn ông mình mặc áo đại tang bằng vải gai, trong tay một người cầm gậy tang, và một người khác cầm ngọn phướn chiêu hồn. Đồng thời, trên cổ của hai người ấy lại có đeo một xâu giấy tiền vàng bạc, không ngớt tung bay theo chiều gió. Cả hai đưa đôi chân lảo đảo, vừa bước tới, vừa gào khóc hết sức thảm thiết.
Lối ăn mặc của hai người ấy chẳng những vô cùng quái dị, mà sắc mặt của họ lại trông tái nhợt, chẳng hề giống một con người đang sống trên dương trần.
Do đó, người đi đường đã đổ dồn đôi mắt nhìn chòng chọc về phía họ. Nhưng cả hai tựa hồ chẳng hề để ý đến việc ấy, vẫn một mực gào khóc không ngớt. Đồng thời, đôi chân loạng choạng của họ vẫn tiếp tục bước tới trước, khi đâm sang phải, lúc sang trái, chẳng xem ngựa xe đang đi trên đường vào đâu cả.
Chính vì vậy, nên trên đường cái quan chẳng mấy chốc là náo loạn cả lên, tiếng ngựa hí vang trời, khách bộ hành đổ dồn về một bên để né tránh.
Tây Môn Nhất Nương mỉm một nụ cười lạnh lùng, nhưng lại đưa mắt nhìn đi nơi khác, chẳng hề chú ý đến đối phương.
Trong lúc ấy, hai gã đàn ông mặc áo đại tang đó, bất thần nhắm về phía một con ngựa ô to lớn, đang đi cạnh đấy xông thẳng tới, khiến con ngựa kinh hoàng hí lên một tiếng dài, rồi đứng thẳng đôi chân sau, khiến một người đàn ông to lớn có dáng điệu giống như một vị tiêu sư đang ngồi trên lưng ngựa suýt nữa đã té phịch xuống đất.
Người đàn ông ấy hết sức tức giận, to tiếng mắng rằng:
- Hai gã láo xược và vô dụng kia! Dù cha các ngươi có chết đi nữa, cũng không nên gây náo loạn như thế này! Hai gã đàn ông mặc áo đại tang ấy, liền ngước mắt nhìn về phía người đàn ông ngồi trên lưng ngựa, trong khi miệng vẫn một mực gào khóc thực to. Tiếng khóc của họ nghe ồ ề như tiếng đồng la bể, thực hết sức ồn tai. Và bỗng cả hai lại cất giọng mếu máo, đồng thanh nói:
- Ở nhà chúng tôi quả cha chúng tôi đã chết, do đó, chúng tôi mới lỡ đụng vào ông, vậy ông chớ nên trách cho! Hai gã ta vừa nói nhưng vẫn đưa chân tiếp tục bước nhanh về phía trước. Tuy mới nhìn qua thì thấy họ ngã xiêu vẹo nhưng kỳ thực thì thân pháp của họ rất có chương thứ. Do đó, chỉ trong chớp mắt sau là cả hai đã vượt khỏi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương.
Nhưng khi họ vừa đi ngang qua hai người thì quay lại nhìn mặt về phía Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương mỉm cười, trông vô cùng xấu xí. Sau khi cười xong, cả hai lại tiếp tục lướt nhanh về phía trước.
Tây Môn Nhất Nương thầm mắng rằng: "Hay lắm, tất cả bọn yêu nghiệt đều tập trung về đây cả rồi!" Giữa lúc bà ta còn đang nghĩ ngợi, bất thần nghe ở phía sau lưng có tiếng ngựa hí dài, đi đôi với một tiếng gào thảm thiết. Do đó, bà ta bèn nhanh nhẹn quay đầu nhìn lại, thấy khách bộ hành ở phía ấy đang rối loạn cả lên, vì con ngựa ô mà hai gã đàn ông mặc áo đại tang vừa chạm đến mình khi nãy, té lăn quay ra đất, miệng sùi bọt trắng, nằm yên không còn nhúc nhích nữa.
Riêng gã đàn ông to lớn, có dáng điệu như một tiêu sư nọ thì cũng đang lăn lộn cạnh đấy, miệng không ngớt kêu "Ối chao! Ối chao!" Và chẳng mấy chốc sau hắn ta cũng nằm yên, sắc mặt tái xanh như chàm, chứng tỏ đã tắt thở chết tốt rồi.
Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không đều là người dấn bước giang hồ nhiều năm, nên vừa nghe qua tiếng gào khóc của hai gã đàn ông nọ, cũng như nhìn qua cách ăn mặc của chúng thì đoán biết được lai lịch của bọn chúng là ai rồi. Do đó, khi thấy người đàn ông ngồi trên mình con ngựa ô miệng mắng chửi hai hắn ta, thì đoán biết hậu quả sẽ vô cùng tai hại.
Nhưng Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không vẫn không ngờ được, là mọi việc lại diễn biến quá nhanh chóng như thế, đồng thời, khi hai người đưa mắt nhìn kỹ vào khuôn mặt của gã đàn ông bất hạnh kia, thì đều không khỏi giật mình sửng sốt.
Thì ra, sắc diện của gã đàn ông ấy khi tắt hơi chết đi, trông có vẻ vô cùng đau đớn, mà cũng tựa hồ đã gặp phải một chuyện chi khủng khiếp phi thường.
Do đó, Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không nhớ lại sắc mặt của Tần tiêu đầu sau khi đã chết. Họ thấy rất giống sắc mặt của gã đàn ông kia nên đều giật mình, không ngớt băn khoăn nghĩ ngợi.
Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không không ai bảo ai đều quay mặt nhìn về phía hai gã đàn ông mặc áo đại tang vừa bỏ đi, nhưng không còn thấy hình dáng của họ đâu nữa.
Lữ Đằng Không hạ giọng nói nhỏ rằng:
- Phu nhân, Quỷ Thánh Thạnh Linh ở Bắc Mang Sơn đã sai hai đứa con yêu quý của lão ta đến đây, vậy e rằng chính lão ta cũng sẽ xuất hiện ngay bây giờ.
Tây Môn Nhất Nương khẽ gật đầu nói:
- Chúng ta vừa trải qua lộ trình chưa đầy hai trăm dặm, thế mà đã gặp biết bao nhiêu cao thủ hai phái chính tà, gồm có Thái Sơn Tam Tàn, Hắc Thần Quân, Phán Tiên Từ Lưu Bản, và cha con Quỷ Thánh Thạnh Linh ở Bắc Mang Sơn. Như vậy, tôi tin rằng tất còn có kẻ theo dõi chúng mình, tất nhiên sẽ có nhiều trò vui mắt lắm! Lữ Đằng Không nghĩ một lúc rồi nói:
- Xem cử chỉ của bọn chúng, tựa hồ như bọn chúng biết đêm nay vợ chồng mình sẽ đến ngụ trong thị trấn này. Vậy chi bằng chúng ta nên đi vòng để tránh thị trấn đi, rồi tiếp tục lên đường bất kể đêm tối, hầu đánh lạc hướng chúng thì vẫn hay hơn.
Cá tính của Tây Môn Nhất Nương không lúc nào chịu thua đối phương, nhưng giờ đây vì bà đang bận tâm đến việc phục thù cho đứa con thơ yêu dấu, không muốn gây sự đánh nhau với người chung quanh, nên mới lên tiếng đáp:
- Ý kiến đó hay lắm! Thế là Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đi đến gần thị trấn, liền giật cương ngựa cho rẽ sang một con đường nhỏ, đi vòng để tránh thị trấn ấy.
Kế đó, bọn họ lại tiếp tục lên đường bất kể đêm khuya, và đã vượt qua một trăm dặm đường.
Đến bình minh ngày hôm sau, mặc dù Lữ Đằng không và Tây Môn Nhất Nương không cảm thấy mệt mỏi cho lắm, song hai con ngựa đã tỏ ra kiệt lực, không còn đủ sức tiếp tục đi nữa.
Trong đêm vừa qua, hai vợ chồng Lữ Đằng Không đã đi vội tới Thẩm Dương Hồ và đến địa giới An Huy.
Lữ Đằng Không là người đã dấn bước giang hồ ba mươi năm, hơn nữa, vì làm nghề tiêu cục, nên khắp cả trời nam đất bắc, đâu đâu ông ta cũng có đặt chân đến. Do đó, ông ta biết chỉ cần tiếp tục đi về phía trước mấy dặm đường nữa là đến Kỳ Môn trấn rồi.
Kỳ Môn trấn tuy là một thị trấn tuy không to lắm, nhưng vì nơi ấy là một địa phương chuyên sản xuất trà đỏ, nổi tiếng khắp trong thiên hạ, nên những người lái buôn lúc nào cũng tới lui tấp nập.
Hai vợ chồng Lữ Đằng Không cũng bàn bạc với nhau định lấy ngày làm đêm, nên quyết định đến Kỳ Môn trấn để mướn phòng ngủ trọ.
Do đó, cả hai cùng giục ngựa nhắm ngay thị trấn phóng nhanh tới. Lúc vừa đến thị trấn, họ đã trông thấy có hai gã đàn ông ăn mặc theo lối tiểu nhị ở khách điếm, trong tay có xách lồng đèn. Cả hai chiếc lồng đèn dường như mới được thổi tắt. Chỉ cần nhìn qua dáng điệu mệt mỏi của hai gã đàn ông ấy thì ai cũng có thể đoán biết được là một đêm qua bọn họ đã thức trắng đêm để chờ đón một người nào đó.
Khi hai tên tiểu nhị vừa nhìn thấy Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương phi ngựa chạy tới thì liền nhanh nhẹn bước tới nghênh đón, lên tiếng hỏi:
- Nhị vị có phải là Lữ đại gia và Lữ phu nhân đó không? Lữ Đằng Không không khỏi giật mình nói:
- Đúng thế, tại sao ngươi biết được? Hai tên tiểu nhị vẫn giữ sắc tươi cười nói:
- Lữ đại gia là người diện mạo uy nghi khác thường, chỉ cần nhìn qua đã đoán biết được ngay. Chúng tôi phụng mệnh đứng đây chờ nhị vị đã suốt một đêm dài. Hiện giờ, tại khách điếm đã dọn sẵn hai gian phòng sạch sẽ, để mời Lữ đại gia đến đấy để yên nghỉ.
Lữ Đằng Không cảm thấy hết sức lạ lùng. Trong khi đó, Tây Môn Nhất Nương cũng có một cảm giác như vậy, nên gằn giọng hỏi:
- Ai đã bảo cho các ngươi biết là hai vợ chồng ta sẽ đến nơi này? Tên tiểu nhị ấy tươi cười đáp:
- Vị đại gia ấy có dặn con là tuyệt đối không thể nói cho ai biết tính danh và dung mạo của ông ta. Trong dịp đó, con có hỏi là nếu Lữ đại gia và Lữ phu nhân không bằng lòng đến tửu điếm ở thì sao, thì được vị đại gia ấy bảo: "Ngươi chớ nên e ngại điều đó, vì Lữ đại gia và Lữ phu nhân đều là bậc anh hùng cái thế, chả lẽ họ lại tỏ ra rụt rè hay khiếp sợ như một kẻ hèn nhát hay sao?" Vậy xin nhị vị hãy vui lòng theo con đến tửu điếm, vì chúng con đã chuẩn bị đâu vào đó cả rồi! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn nhau một lượt. Họ tự biết nếu đi theo hai tên tiểu nhị này về khách điếm, e rằng sẽ xảy ra nhiều điều rắc rối cho mình.
Nhưng qua lời nói rào trước đón sau của nhân vật không chịu để lộ tên họ ấy, nếu hai vợ chồng lão ta không tỏ ra có can đảm cùng đến đó thì chẳng hóa ra sau này nếu quần hùng biết được, thì sẽ chê cười cho hay sao? Họ nghĩ rằng, ở giữa một thị trấn náo nhiệt, hơn nữa, lại giữa thanh thiên bạch nhật như vầy chắc là không có chuyện chi to tát xảy ra. Do đó, cả hai bèn gật đầu nói:
- Được! Vậy các ngươi hãy dẫn đường cho chúng ta đi nào! Hai tên tiểu nhị nghe thế tỏ ra hết sức vui mừng. Chúng chia nhau mỗi tên dẫn một con ngựa cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, rồi cùng rảo bước đi về phía trước.
Lúc ấy, trời vẫn chưa sáng tỏ, nên trên đường đi hãy còn vắng vẻ, ít người qua lại. Hai tên tiểu nhị dẫn Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đi qua một con đường lớn, rồi lại tẻ sang một khúc quanh, thì đã thấy một gian khách điếm đồ sộ trước mặt. Một tên tiểu nhị bèn lên tiếng nói:
- Đến kia rồi! Đấy chính là tửu điếm của chúng con! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vội vàng nhảy xuống khỏi lưng ngựa, đưa chân bước theo hai tên tiểu nhị đi thẳng vào bên trong. Ngay lúc ấy, lại có một số người khác bước ra nghênh đón họ, chứng tỏ những người trong gian khách điếm này đều được biết rõ lai lịch của họ từ trước.
Khi bước vào đến sảnh đường của gian khách điếm, họ lại tiếp tục vượt qua khu thiên tỉnh lộ thiên, thì Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương được tên tiểu nhị đưa đến hai gian phòng rộng rãi ở hướng nam. Hắn đưa tay xô cửa phòng và nói:
- Xin nhị vị hãy bước vào, nếu có điều chi dạy bảo, xin nhị vị cứ gọi chúng con, vì từ tiền phòng cho đến tất cả chi phí lặt vặt, vị đại gia ấy cũng đã thanh toán cả rồi! Lữ Đằng Không hừ một tiếng, khoát tay nói:
- Chẳng có việc chi cả, vậy ngươi hãy lui đi, và nếu ta không gọi, chẳng được xông càn vào.
Vừa nói, hai vợ chồng Lữ Đằng Không cũng vừa bước thẳng vào phòng. Lữ Đằng Không khóa chặt cánh cửa phòng lại, đưa mắt nhìn quanh khắp bốn bên, thấy đây là một gian phòng bày trí rất thanh nhã, tại góc phía đông có để một chiếc giường to, ngay giữa phòng có để một bộ bàn ghế bằng gỗ tử đàn, trên mặt đá cẩm thạch, trông vô cùng xinh xắn.
Lữ Đằng Không sau khi quan sát qua, lại đi quanh gian phòng xem xét tỉ mỉ từng nơi một. Trong khi đó, Tây Môn Nhất Nương cũng phi thân lao thoắt ra ngoài cửa sổ, để nhìn xem chung quanh thực kỹ, song chẳng hề trông thấy có điều chi khác lạ cả. Hai vợ chồng Lữ Đằng Không đều không khỏi băn khoăn nghĩ ngợi, đoán chẳng ra nhân vật giấu tên ấy là ai, và y hành động như vậy là có dụng ý gì? Sau đó, hai vợ chồng của Lữ Đằng Không bèn cùng bước đến ghế ngồi yên xuống, và Lữ Đằng Không thò tay vào áo lấy chiếc hộp gỗ bọc gấm ấy ra. Tây Môn Nhất Nương bèn thấm nước gỡ miếng giấy niêm phong, rồi lại quan sát bên trong rất tỉ mỉ. Kế đó, bà ta lại co tay khỏ nhẹ vào thân hộp, để xem chiếc hộp ấy có phải được đóng hai lớp không? Hai vợ chồng Lữ Đằng Không đã xem xét kỹ lưỡng chiếc hộp bọc gấm đến nửa tiếng đồng hồ, nhưng hoàn toàn không nhận thấy có điều chi khác lạ, mà chỉ thấy nó y như bao nhiêu chiếc hộp thông thường khác mà thôi. Nhất là phía bên trong của chiếc hộp, Tây Môn Nhất Nương đã cố tìm xem có một dấu vết khả nghi nào chăng, nhưng vẫn tuyệt nhiên không thấy gì cả.
Nhưng nếu bảo chiếc hộp ấy không có điều chi khả nghi, cũng như không có điều bí ẩn nào, thì tại sao hai vợ chồng ông ta vừa lên đường, đã có bao nhiêu nhân vật giang hồ theo dõi? Hai vợ chồng Lữ Đằng Không nghĩ ngợi càng lâu thì càng hoang mang không hiểu ra sao cả. Cuối cùng, Lữ Đằng Không bèn cất kỹ chiếc hộp trở vào áo, và đang định lên tiếng gọi bọn tiểu nhị dọn cơm lên cho mình dùng, bất thần nghe tiếng gõ cửa, rồi có tiếng nói vọng vào rằng:
- Lữ đại gia, rượu thịt đã mang đến rồi đây! Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bất giác lại đưa mắt nhìn nhau, và không khỏi có ý nghĩ là nhân vật bí mật nào đó, quả là một người vô cùng chu đáo. Lữ Đằng Không bèn lên tiếng đáp:
- Cứ tự tiện mang vào! Tức thì, cánh cửa phòng được xô rộng ra, và đã thấy viên quản lý cùng đi với hai tiểu nhị, khiêng một mâm thức ăn to bước vào. Đấy quả là một bữa cơm thịnh soạn. Bọn tiểu nhị dọn rượu thịt lên bàn, và bày ra ba cái chén cùng ba đôi đũa.
Bởi thế, Tây Môn Nhất Nương không khỏi lấy làm lạ, nói:
- Còn có ai cùng dùng cơm nữa hay sao? Tên tiểu nhị kính cẩn đáp:
- Thưa vâng, còn có vị đại gia đã ra lệnh cho chúng con đón tiếp nhị vị ấy, và chỉ trong chốc lát đây, đại gia đó sẽ đến ngay.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe thế, trong lòng không khỏi hết sức băn khoăn. Hơn nữa, họ lại sợ rượu thịt có bỏ thuốc độc, nên vẫn ngồi yên, không dám cầm đũa dùng trước.
Viên quản lý và hai tên tiểu nhị vừa lui ra chẳng bao lâu, thì hai vợ chồng Lữ Đằng Không đã nghe từ bên ngoài có tiếng cười nói vọng đến rằng:
- Lữ Tổng tiêu đầu, Lữ phu nhân, vãn bối là Đoan Mộc Hồng xin bái kiến! Câu nói vừa dứt, cánh cửa phòng bỗng kêu lên kèn kẹt, và tự động mở toang ra, mặc dù lúc ấy trời không gió. Kế đó, lại trông thấy có một người đang cúi mình thi lễ, xá sâu tới đất.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, vì thấy hành động của con người bí mật ấy, tỏ ra kỳ quặc khó hiểu, nên trong lòng sẵn có ý thù địch. Do đó, cả hai không hề đáp lễ, mà chỉ cất giọng lạnh lùng nói:
- Bằng hữu chẳng cần phải quá thủ lễ! Khi người ấy ngửa mặt nhìn lên, thì Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều sửng sốt...
Thì ra, người ấy tuổi thực trẻ, chỉ mới vừa mười sáu, mười bảy mà thôi, mình mặc một bộ y phục màu xanh theo lối nho sinh, có thêu nhiều nhành trúc xinh xắn. Trên khuôn mặt sáng rỡ như ngọc của người ấy, có đôi mày cao xếch thực dài, đôi mắt sáng ngời như sao, chiếc mũi dọc dừa xinh xắn, đôi môi đỏ hồng thực tươi, dáng điệu hào hoa phong nhã, trông thực vô cùng cao sang.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trông thấy đối phương lại chính là một thư sinh trẻ tuổi, thuộc hàng hiếm có trong đời, thì những ý nghĩ thù địch trong lòng cũng tiêu tan đi quá nửa. Do đó, Tây Môn Nhất Nương bèn dịu giọng nói:
- Tôn giá cho người đón chúng tôi đến đây, chẳng hay có việc làm quý hóa chi? Vậy, mong tôn giá vui lòng nói rõ ra cho? Người thư sinh trẻ tuổi, tự xưng là Đoan Mộc Hồng ấy, bỗng đỏ bừng sắc mặt, nói:
- Thưa, nhị vị tiền bối, có lẽ nhị vị không khỏi thầm khiển trách về chỗ hành động thiếu quang minh của tại hạ chăng? Đấy thật ra chỉ là một hành động bất đắc dĩ, vậy xin nhị vị tha thứ cho! Vừa nói, chàng thư sinh ấy vừa đi đến trước bàn, rồi thò tay nâng bầu rượu lên, rót đầy hai ly trước mặt Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương.
Nhưng Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vẫn ngồi yên, không bưng ly rượu lên uống. Bởi thế, người thư sinh trẻ tuổi ấy bèn mỉm cười, nói:
- Tại hạ tuy hành sự có chỗ quái dị khó hiểu, nhưng tuyệt đối không khi nào lại bỏ chất độc vào rượu để ám hại ai cả, vậy xin nhị vị hãy yên lòng.
Nói đoạn, người thư sinh trẻ tuổi ấy đỡ bầu rượu, rót cho mình một ly đầy, rồi ngửa cổ uống cạn ngay.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vẫn ngồi yên như cũ, không bưng ly rượu lên uống.
Qua một lúc sau, Lữ Đằng Không bèn lên tiếng nói:
- Hà tất phải nói lôi thôi dài dòng, tôn giá có điều yêu cầu chi, xin cứ nói thẳng thắn ra là hơn.
Đoan Mộc Hồng để ly rượu trở xuống bàn, cất tiếng than dài một lượt, nói:
- Trong chuyến áp tải hàng này, nhị vị đích thân bước ra đảm trách, vậy có lẽ món hàng ấy là một vật vô cùng quan trọng chăng? Lữ Đằng Không cất giọng lạnh lùng, nói:
- Đúng thế! Đoan Mộc Hồng nói:
- Ngày hôm nay tại hạ đến đây, cũng chính vì món hàng nhị vị đang áp tải! Lữ Đằng Không đang định to tiếng gây sự với đối phương, nhưng Tây Môn Nhất Nương bỗng như có một ý nghĩ chi, bèn lên tiếng nói trước rằng:
- Nếu thế, chắc tôn giá được biết vật mà mình đang cần đến là vật chi chứ? Đoan Mộc Hồng đáp:
- Đây là lẽ tất nhiên. Nhưng nhị vị hiện giờ chưa được biết, tại hạ cũng không tiện nói ra. Xin nhị vị hãy tin, là tại hạ đến đây hoàn toàn có hảo ý, vậy nếu nhị vị bằng lòng trao món vật ấy cho tại hạ, thì nhị vị cứ tự nhiên mà đi lo công việc riêng của mình, chẳng ai cản trở chi cả! Tây Môn Nhất Nương vốn có ý đặt câu hỏi, để dọ dẫm xem trong chiếc hộp gỗ bọc gấm ấy là vật chi. Nhưng giờ đây nghe đối phương không bằng lòng nói rõ ra, trong lòng bà ta không khỏi tức giận, nói:
- Đối với chúng tôi, có lẽ không có điều chi khó khăn, nhưng chỉ e là ba người đồng hành với chúng tôi, lại không bằng lòng mà thôi! Đoan Mộc Hồng cất tiếng to cười ha hả, nói:
- Ba người bạn khó tánh ấy, có phải là hai thanh trường kiếm bên sườn của Lữ phu nhân, và thanh Tử Kim Đao trên lưng của Lữ tiêu đầu kia chăng? Riêng tại hạ đây cũng có sự chuẩn bị từ trước rồi.
Nói dứt lời, người thư sinh ấy bèn kéo vạt áo dài ra, lấy một vật chi có màu bạc sáng lóng lánh, để yên xuống mặt bàn.
Tây Môn Nhất Nương đưa mắt nhìn kỹ vật ấy, thì thấy đấy chính là một ngọn roi liên hoàn gồm chín khúc, màu bạc lóng lánh to cỡ đầu ngón tay, dài chừng sáu thước, bốn cạnh bén ngót như đao kiếm.
Lữ Đằng Không thấy Đoan Mộc Hồng lấy binh khí ra, bất giác cất tiếng cười ha hả, nói:
- Tiểu huynh đệ, có phải định dùng võ lực để cướp hàng chăng? Đoan Mộc Hồng nói:
- Nếu nhị vị không vui lòng tặng cho, thì tại hạ bất đắc dĩ phải ra tay cướp hàng đó! Từ tuổi tác cho đến giọng nói của Đoan Mộc Hồng, đều chứng tỏ cậu ta là một con cừu non, mới tập tành dấn bước giang hồ mà thôi. Trong khi đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, đều là cao thủ tên tuổi vang lừng trong cả võ lâm, vậy thử hỏi khi nào lại bằng lòng ra tay đánh nhau với một chàng thiếu niên miệng còn hôi sữa? Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, chẳng những không cảm thấy tức giận, mà trái lại còn tức cười nữa là khác, bèn lên tiếng nói:
- Tiểu huynh đệ, nếu thật sự muốn ra tay cướp hàng, thì tốt nhất nên gấp rút phi ngựa trở về, gọi cả các vị phụ huynh và sư trưởng cùng đến đây. Chúng tôi sẵn sàng ở yên tại nơi này chờ đợi, vậy tiểu huynh đệ nên đi ngay đi! Sắc mặt của Đoan Mộc Hồng lại bừng đỏ, nói:
- Có phải Lữ Tổng tiêu đầu cho là tại hạ không đủ sức đánh nhau một trận chăng? Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều phá lên cười to ha hả, và họ lấy tiếng cười ấy để thay thế cho câu trả lời của mình.
Nhưng nào ngờ tiếng cười chưa dứt, bỗng nghe từ bên ngoài gian sảnh đường của ngôi khách điếm, có tiếng gào khóc inh ỏi vọng vào.
Đoan Mộc Hồng nghe qua thì sắc mặt liền biến hẳn, nhanh nhẹn đứng phắt dậy siết chặt ngọn roi liên hoàn màu bạc vào tay. Đồng thời, cùng một lúc đó, cũng đã thấy trước cửa phòng có bóng người chập chờn, rồi lại thấy rõ hai gã đàn ông mặc áo đại tang bằng gai, tức hai gã con trai của Quỷ Thánh Thạnh Linh, mà người trong giới giang hồ gọi là Mang Sơn Song Quỷ, danh hiệu là Câu Hồn Sứ Thạnh Tài và Sách Mệnh Sứ Thạnh Phủ, đã đứng sừng sững tại đấy rồi.
Sắc mặt của Đoan Mộc Hồng tràn đầy vẻ giận dữ, quát rằng:
- Hai người đến đây để làm gì? Thạnh Tài nghe hỏi thế, bèn cất giọng mếu máo nói:
- Hễ ai có mặt là được chia phần! Đoan Mộc Hồng giận dữ, nói:
- Việc này do ta xếp đặt và tiếp xúc trước tiên, vậy nếu các ngươi muốn chia phần, chả lẽ lại không kể đến chi thông lệ trong giới giang hồ hay sao? Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nghe đôi bên đối đáp nhau, xem mình như một con dê non bị họ bắt sống rồi, nên không khỏi lỡ khóc lỡ cười.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều nghĩ rằng: "Tuy Quỷ Thánh Thạnh Linh ở Bắc Mang Sơn, là người võ công cao tuyệt, có thể liệt vào hàng đệ nhất cao thủ trong võ lâm, nhưng chắc chắn không thể nào cao cường hơn được vợ chồng của ông ta. Hơn nữa, mặc dù Quỷ Thánh Thạnh Linh đã rèn luyện được mấy môn võ học quái dị của tà phái, và lại có mấy món ám khí rất lợi hại, song vợ chồng ông ta vẫn không hề khiếp sợ trước những thứ đó. " Riêng chàng thư sinh trẻ tuổi Đoan Mộc Hồng, thì vợ chồng Lữ Đằng Không tuy không hiểu rõ lai lịch ra sao, nhưng thấy rằng, dù cho đối phương có học võ công ngay từ trong bụng mẹ đi nữa, thì với tuổi mười lăm mười sáu ấy, tài nghệ chắc chắn vẫn không đáng họ để vào mắt.
Chính vì nghĩ như vậy, nên Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều không khỏi tức cười thầm, nhanh nhẹn cùng đứng lên, lui xa độ một trượng, rồi mới cùng ngồi yên trở xuống ghế để xem đôi bên sắp sửa đánh nhau.
Lúc ấy, Sách Mệnh Sứ Thạnh Phủ cất giọng ngạo nghễ nói:
- Chính ngươi mới là kẻ không biết tôn trọng đạo nghĩa trong giới giang hồ, vì kẻ nào trông thấy được, tất nhiên kẻ ấy phải được chia phần, vậy ngươi có hiểu chưa? Đoan Mộc Hồng nạt rằng:
- Chia cho ngươi cái...
Chàng thư sinh ấy chỉ nói được ba tiếng, sắc mặt bỗng bừng đỏ, rồi im lặng không nói chi thêm nữa.
Lữ Đằng Không là một tay giang hồ lão luyện, nên nhìn qua thái độ ấy của Đoan Mộc Hồng, thì không khỏi sửng sốt. Vì lão ta biết Đoan Mộc Hồng định nói "Chia cho ngươi cái con khỉ mốc!" nhưng hai tiếng "khỉ mốc" quá thô lỗ, nên chàng ta không thể nói ra được. Như vậy, chẳng lẽ đối phương lại là gái giả trai hay sao? Lúc ấy, Mang Sơn Song Quỷ đồng thanh cất giọng cười khanh khách, nói:
- Nếu ngươi không bằng lòng chia phần, cũng chẳng sao, vì anh em ta sẽ nuốt trọn vậy! Câu nói vừa dứt, thì cả hai lại cất tiếng gào khóc đinh tai.
Tiếng huyên náo trong gian phòng đã làm cho mọi người chung quanh đều giật mình.
Do đó, bọn tiểu nhị ùn ùn kéo đến trước cửa phòng, thì Thạnh Tài đã vung ngọn Chiêu Hồn Phướn quét thẳng về phía ấy một lượt, khiến ba bốn tên tiểu nhị đồng loạt ngã lăn quay ra đất, gào la thảm thiết, rồi chết tốt ngay tức khắc.
Bởi thế, số người còn lại đều kinh hoàng thất sắc, ùn ùn bỏ chạy tán loạn, nào còn dám đến xem nữa? Hai anh em Mang Sơn Song Quỷ lại cất tiếng khóc to, khiến cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cũng không khỏi cảm thấy tâm trạng vô cùng Chương hộp, bất an.
Thì ra, sự gào khóc của họ, chính là một môn võ công tà phái vô cùng lợi hại, tuy có khác với môn võ công Hô Thần Khiếp Quỷ, nhưng thật ra cả hai cùng có một công dụng như nhau. Hai anh em hắn ta vì chưa có sự trui rèn thực cao sâu, trái lại, nếu là Quỷ Thánh Thạnh Linh đích thân sử dụng môn võ công đó, chắc chắn càng đáng sợ hơn gấp bao nhiêu lần.
Đoan Mộc Hồng thấy thế, bèn khẽ cau đôi mày, nói:
- Nếu bọn các ngươi muốn dựa vào tài nghệ quỷ quái ấy, để mong thủ thắng ta thì chẳng phải là nằm mộng hay sao? Thạnh Tài vừa gào khóc nghe thực vô cùng rùng rợn, vừa múa máy chân tay nhảy lên như điên cuồng. Trong khi đó, ngọn Chiêu Hồn Phướn trong tay hắn ta, cũng không ngớt quét ra vun vút! Ngọn Chiêu Hồn Phướn ấy dài độ bốn thước, rộng độ một thước, may bằng một thứ vải gai, và bên trên vẽ chằng chịt vô số hình ma quái, trông thực vô cùng khủng khiếp.
Thế nhưng khi ngọn Chiêu Hồn Phướn ấy được vung lên dù tuyệt nhiên không hề nghe có tiếng gió rít, song kình lực cuốn ra ào ào, đánh vỡ tan bàn ghế chung quanh, hất bay cả vào chân tường. Ngay đến y phục trên người của Đoan Mộc Hồng cũng bị hất tung và giũ rèn rẹt, như đứng trước một cơn bão phong đáng sợ! Gã Thạnh Tài, tuy thân hình khi xiêu sang tả, lúc ngã sang hữu, nhưng chẳng hề tràn tới tấn công thẳng vào Đoan Mộc Hồng. Qua một lúc lâu, hắn ta mới gào khóc to rằng:
- Hãy nạp mạng lại đây! Dứt lời, ngọn Chiêu Hồn Phướn trong tay của hắn liền được vung cao lên, rồi bắt từ trên nhắm giáng thẳng vào đầu của Đoan Mộc Hồng. Đồng thời, gã Thạnh Phủ cũng cất giọng ngạo nghễ quát:
- Hạy nạp mạng lại đây thôi! Tức thì, chiếc gậy tang đang cầm trong tay của hắn ta, cũng được vung lên vun vút, gây nên một vùng bóng xám chập chờn, nhắm đâm thẳng vào Khí Hộ huyệt ở dưới nách của Đoan Mộc Hồng nhanh như chớp.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhìn qua thế công của Mang Sơn Song Quỷ, thì không khỏi thầm lo sợ cho Đoan Mộc Hồng.
Vì Đoan Mộc Hồng tuy vừa rồi đã ăn nói có vẻ xấc láo đối với vợ chồng ông ta, nhưng vì cả hai đều có một ý nghĩ thương tiếc cho người tài hoa, nên e rằng chàng thư sinh trẻ tuổi ấy, sẽ bị thua thiệt dưới thế võ quái dị từ ngọn Chiêu Hồn Phướn và chiếc gậy tang của Mang Sơn Song Quỷ đánh ra, nên cả hai không ai bảo ai, tự động siết chặt một món ám khí trong tay, chuẩn bị nếu gặp trường hợp Đoan Mộc Hồng gặp nguy, họ sẽ ra tay tương trợ ngay tức khắc.
Ngọn Chiêu Hồn Phướn và chiếc gậy tang công tới nhanh như điện chớp, nhưng Đoan Mộc Hồng lại cất tiếng cười ha hả, rồi vung mạnh một cánh tay lên, tức thì, ngọn roi liên hoàn chín khúc màu bạc trong tay của chàng ta, liền ngân thành một tiếng loảng xoảng, đồng thời lóe lên một vầng ánh sáng màu bạc chói ngời, hoa cả mắt người chung quanh.
Cùng một lúc đó, thân mình của Đoan Mộc Hồng lại nhanh như chớp, luồn dưới ngọn Chiêu Hồn Phướn của đối phương lách tránh ra xa, đồng thời lại vung mạnh cánh tay lên một lượt. Thế là, chẳng những Đoan Mộc Hồng có thể lách tránh khỏi được cả thế công từ chiếc gậy tang của đối phương đang công tới, mà trái lại, ngọn roi liên hoàn còn quét ngược trở ra sau, nhắm phản công thẳng vào cánh tay phải của gã Thạnh Tài.
Thế võ ấy của Đoan Mộc Hồng, chẳng những biến hóa hết sức thần tốc, mà riêng về thuật khinh công và thân pháp của chàng ta, lại tỏ ra nhanh nhẹn và ngoạn mục vô cùng, quả ít thấy trong võ lâm.
Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều không khỏi kêu thầm lên rằng: "Phi Yến Môn." Khắp trong võ lâm, có những môn phái đã dựa vào thuật khinh công độc đáo của mình để mệnh danh cho môn phái, nhưng bất luận là thuật khinh công của ai, cũng không thể sánh kịp với thuật khinh công của Phi Yến Môn cả. Vì chẳng những các cao thủ trong Phi Yến Môn có thể sử dụng thuật khinh công đến mức cao tuyệt, mà dáng điệu của họ lại trông ngoạn mục vô cùng, đó là điều mà cả võ lâm đều công nhận.
Giờ đây, Đoan Mộc Hồng đang lâm vào một trường hợp vô cùng hiểm nguy, nên đã nhanh nhẹn sử dụng thuật khinh công phi thân luồn dưới ngọn Chiêu Hồn Phướn của đối phương lướt thẳng ra xa để tránh. Vậy, nếu chẳng phải là nhân vật trong Phi Yến Môn, thì thử hỏi ai lại có được thuật khinh công kỳ tuyệt đến thế? Chính vì lẽ ấy, nên sự hoài nghi của Lữ Đằng Không cho Đoan Mộc Hồng chính là gái giả trai khi nãy, giờ đây đã trở thành khẳng định.
Vì kể từ khi Phi Yến Môn sáng lập tông phái, cho đến ngày hôm nay, trải qua một trăm bảy mươi mấy năm dài, nhưng trong môn phái tuyệt nhiên chẳng khi nào thu nhận một môn đồ thuộc phái nam, trái lại, họ chỉ thu nhận toàn môn đồ phái nữ mà thôi.
Hơn nữa, ai muốn xin vào làm môn đồ của Phi Yến Môn, thì phải tuyên thệ rất nặng nề trước di tượng của các vị Chưởng môn đời trước, là đã vào môn phái này rồi thì vĩnh viễn không lấy chồng. Chính vì lẽ ấy, nên các cao thủ thuộc nữ phái trong võ lâm, có đến gần phân nửa là người xuất thân từ Phi Yến Môn.
Đoan Mộc Hồng đã là người biết sử dụng thuật khinh công của Phi Yến Môn, vậy chắc chắn là gái giả trai, chứ chẳng còn chi nghi ngờ nữa! Lúc bấy giờ, ngọn roi liên hoàn trong tay Đoan Mộc Hồng đang quay vun vút, ánh sáng màu bạc lóe lên chập chờn khắp nơi, khiến cho hai gã Thạnh Tài và Thạnh Phủ bị đẩy lùi ra sau mấy bước.
Trong khi đó, thế lao tới của Đoan Mộc Hồng đang trên đà mạnh mẽ, nên xem ra chắc chắn chàng ta sẽ lướt thẳng ra khỏi phòng. Nhưng trong thực tế, chàng ta mới lướt ra xa độ ba bốn thước, bỗng nhiên thân người đứng yên lại, rồi nhanh nhẹn quay trở ra sau, vung ngược ngọn roi liên hoàn, nhắm ngay chiếc gậy tang của đối phương quét tới.
Lúc ấy, chiếc gậy tang đang lướt tới sát người của Đoan Mộc Hồng, và đấy chính là thế gậy thứ hai của gã Thạnh Phủ vừa công tới, sau khi thế gậy thứ nhất đã đánh hụt vào khoảng không.
Khi ngọn roi liên hoàn màu bạc trong tay của Đoan Mộc Hồng vừa quét tới, liền nghe một tiếng xoảng vang lên, và đã quấn chặt cứng lấy chiếc gậy tang của đối phương.
Qua tiếng ngân do hai làn sắt thép chạm gây nên, chứng tỏ chiếc gậy tang của gã Thạnh Phủ cũng được rèn bởi một thứ sắt thép tinh ròng, chứ không phải là một chiếc gậy bằng trúc hay bằng gỗ thông thường.
Khi hai món binh khí quấn cứng vào nhau, gã Thạnh Phủ bất thần phá lên gào khóc to hơn. Giữa tiếng khóc thê thảm rùng rợn ấy của hắn ta, lại có tiếng nói to rằng:
- Nạp mạng lại đây! Nạp mạng lại đây! Sắc mặt của Đoan Mộc Hồng tỏ ra vô cùng chán ghét hai đối phương, nên cánh tay phải liền giật mạnh khiến cho gã Thạnh Phủ vì đang năm cứng chiếc gậy tang, liền bị kéo ngã chúi về trước một bước.
Sau khi ngọn roi liên hoàn và chiếc gậy tang quấn cứng vào nhau, hai đối phương đã cách nhau rất gần, do đó, lúc gã Thạnh Phủ ngã chúi tới, khuôn mặt tái nhợt không hề thấy một giọt máu tươi của hắn ta cơ hồ chạm thẳng vào khuôn mặt xinh đẹp của Đoan Mộc Hồng. Bởi thế Đoan Mộc Hồng lại cảm thấy hết sức ghê tởm, nên bất thần vung cánh tay trái lên một lượt, nhắm giáng thẳng vào lồng ngực đối phương một chưởng mạnh mẽ phi thường. Đồng thời cùng một một lúc với chưởng lực mãnh liệt cuốn tới, lại thấy có một luồng ánh thép màu đen lóe lên, tức thì, một món ám khí lợi hại cũng bay vèo về phía lồng ngực của đối phương.
Trong khi đó, gã Thạnh Tài đã lao thoắt đến sát bên lưng của Đoan Mộc Hồng. Thân pháp nhẹ nhàng không hề gây ra tiếng động. Đồng thời hắn ta cũng nhanh như chớp vung ngọn Chiêu Hồn Phướn lên, nhắm ngay đầu Đoan Mộc Hồng giáng thẳng xuống.
Khoảng cách giữa Đoan Mộc Hồng và gã Thạnh Phủ quá gần, nên món ám khí từ trong tay Đoan Mộc Hồng ném ra, lẽ tất nhiên là đã trúng thẳng vào người đối phương, không làm sao lách tránh được nữa.
Do đó, sau một tiếng phập, tức thì ai nấy đã trông thấy món ám khí ấy ghim giữa lồng ngực của gã Thạnh Phủ, và tiếp đó, lại nghe có một tiếng phình to, khiến gã Thạnh Phủ bị hất bắn ra sau nửa bước.
Thế nhưng chiếc gậy tang trong tay của Thạnh Phủ, vẫn còn được siết cứng, không chịu buông bỏ. Và chính vì thế, khi hắn ta bị hất lui ra sau nửa bước, thì đã kéo luôn cả Đoan Mộc Hồng theo. Do đó, ngọn Chiêu Hồn Phướn của gã Thạnh Tài vừa giáng xuống, lại đánh hụt vào khoảng không, mà chỉ có luồng âm phong cuốn tới, quét bay chiếc mão nho sinh đang dội trên đầu của Đoan Mộc Hồng mà thôi.
Thế là, ai nấy đều trông thấy một mớ tóc dài xinh đẹp như mây, xòa ra chấm tới vai Đoan Mộc Hồng. Quả đúng chàng là một người con gái.
Đoan Mộc Hồng trông thấy ngọn Yến Dĩ Tiêu của mình đã cắm phập vào lồng ngực của gã Thạnh Phủ, hơn nữa luồng chưởng lực của nàng cũng vừa đánh trúng thẳng vào lồng ngực của đối phương, vậy đáng lẽ đối phương đã bị trọng thương kiệt lực, vì luồng chưởng lực ấy đã làm cho mũi Yến Dĩ Tiêu gây thương tích nặng nề hơn. Nhưng đàng này gã Thạnh Phủ vẫn còn đủ sức để phản công trả lại, khiến nàng cảm thấy hết sức quái dị, không hiểu tại sao.
Tuy nhiên, Đoan Mộc Hồng đã đoán biết là mọi việc đang rất bất lợi cho mình, nên có ý định lách tránh ra xa để đối phó với mọi điều bất trắc. Song, đã chậm mất rồi...
Gã Thạnh Phủ liền cất tiếng gào khóc rằng:
- Ta trả lại ngọn tiêu thép này cho ngươi đây! Dứt lời, hắn phình lồng ngực trở ra, tức thì, qua một tiếng vèo, mũi Yến Dĩ Tiêu lập lòe ánh thép màu đen kia, liền từ lồng ngực của hắn ta bay thẳng trở ra như tên bắn, nhắm công vào lồng ngực của Đoan Mộc Hồng.
Qua sự diễn biến ấy, chẳng những Đoan Mộc Hồng không thể ngờ trước được, mà ngay đến Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương cũng không thể nào tưởng tượng nổi.
Chừng ấy, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương mới nhớ lại là Quỷ Thánh Thạnh Linh có mấy môn võ công vô cùng quái dị, như Quỷ Khốc Thần Hiệu, thuật khinh công Quỷ Hành Không và một môn khác gọi là Quỷ Thân.
Thứ võ công gọi là Quỷ Thân ấy chính là một môn võ học rất khó rèn luyện được. Vì môn võ công ấy sử dụng một luồng chân khí âm nhuyễn cực độ, khống chế các bắp thịt trong toàn châu thân con người, làm cho cơ thể con người ấy trở thành mềm mại, phập phều, như bao bông gòn. Các binh khí thông thường, mặc dù có thể đâm vào cơ thể của người biết võ công ấy được, và thoạt nhìn cũng thấy như có thể đâm lủng vào sâu, nhưng kỳ thực thì đây chỉ vì cơ thể của họ quá mềm, nên nó hủng vào vậy thôi, chứ không hề gây thương tích gì được cho đối phương cả. Môn võ công ấy, chính là một môn võ công cao cường tuyệt đỉnh trong tà phái, nó cũng bắt nguồn từ một nguyên lý với Miên Công của Đạo giáo, và Bàn Nhược Nhuyễn Công của Phật môn. Chính vì thế, nên nó là một môn võ công hết sức khó trui luyện.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương không thể tưởng tượng được là hai gã Mang Sơn Song Quỷ ấy sử dụng Quỷ Khốc Thần Hiệu một cách tầm thường như thế, mà lại có thể rèn luyện thành công môn Quỷ Thân.
Do đó, cả hai đành trố mắt nhìn chòng chọc vào mũi Yến Dĩ Tiêu đang bay vèo tới trước lồng ngực của Đoan Mộc Hồng, chứ không làm sao tiếp ứng cho kịp nữa Nhưng Đoan Mộc Hồng đã là nhân vật trong Phi Yến Môn, đâu phải là một tay tầm thường? Do đó, nàng vừa trông thấy tình trạng bất, lợi cho mình, liền buông ngọn roi liên hoàn trong tay rồi bất thần mọp sát thân người xuống, cơ hồ nằm ngang lên mặt đất, rồi phi thân vọt mình bay ra xa nhanh như gió cuốn.
Qua thế Lão Yến Mịch Thực ấy, chẳng những nàng đã sử dụng hết sức cao tuyệt, mà dáng điệu hết sức đẹp đẽ, quả chẳng khác chi một con chim én bay lướt trên mặt đất bằng.
Do đó, mũi Yến Dĩ Tiêu ấy đã bay vèo ngang đầu nàng, rồi lại nhắm ngay gã Thạnh Tài tiếp tục lướt tới.
Vì quá nguy cấp, nên Đoan Mộc Hồng phải buông bỏ ngọn roi liên hoàn của mình. Do đó, nàng cảm thấy vẫn còn ấm ức trong lòng, nên thân người vừa đáp yên lên mặt đất, đã nhanh nhẹn vung ngược một chưởng trở ra sau, nhắm giáng thẳng vào bắp chân của gã Thạnh Phủ. Hơn nữa, thế chưởng ấy nàng đã được giương thẳng năm ngón tay ra như năm cái móc thép, có dụng ý là sẽ bấu lấy bắp chân của đối phương.
Bởi thế, sau khi nàng chụp được bắp chân của gã Thạnh Phủ, vì lẽ đang còn trớn lướt tới, nên nàng đã kéo luôn đối phương theo, khiến hắn ta không còn đứng vững đôi chân được, té đánh phịch xuống mặt đất ngay.
Đoan Mộc Hồng sau khi đứng thẳng người lên, lại thuận tay chụp lấy chiếc ghế bằng gỗ tử đàn cạnh đấy, vung lên nhắm giáng thẳng xuống đầu của gã Thạnh Phủ đang té ngồi trên mặt đất.
Đoan Mộc Hồng mới vừa thoát khỏi cơn nguy hiểm, thế mà thế võ phản công của nàng lại tỏ ra hết sức gọn gàng lanh lợi, nhìn vào nhẹ nhàng như lưu thủy hành vân.
-oOo-
Chương 4
Gọi Là Cảnh Cáo Lũ Gian
Tam Tàn Chiến Bại Đồi Hoang Hãi Hùng
Đả tự: LieuTrai
Nguồn: nhanmonquan.com
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhìn qua, thì đồng thanh buột miệng kêu lên rằng:
- Thế võ hay tuyệt! Ngay lúc ấy, ngọn Chiêu Hồn Phướn trong tay của gã Thạnh Tài đã nhanh nhẹn đưa thẳng về phía trước, để đỡ mũi Yến Dĩ Tiêu. Thế là, sau một tiếng phập, món ám khí ấy đã đâm thẳng vào ngọn Chiêu Hồn Phướn, nhưng rồi lại bị hất bật trở ra xa ngay tức khắc.
Cùng một lúc đó, chiếc ghế trong tay của Đoan Mộc Hồng cũng đang bắt từ trên cao lướt nhanh như chớp, nhắm giáng ngay đầu của gã Thạnh Phủ. Nhưng hắn ta chẳng phải là một nhân vật tầm thường, nên sau khi bị Đoan Mộc Hồng kéo té phịch xuống đất, liền nhanh nhẹn nhào lộn thân người nằm ngửa mặt nhìn lên, và vì thế, hắn đã trông thấy rõ chiếc ghế bằng gỗ tử đàn nặng nề đang nhắm giáng thẳng vào đầu mình. Do đó, hắn quát lên một tiếng to, rồi vung chiếc gậy tang trong tay lên, nhắm đập thẳng vào chiếc ghế ấy.
Thế là, qua một tiếng xoạc, chiếc gậy tang trong tay của Thạnh Phủ đã đánh vỡ làm đôi chiếc ghế đang giáng xuống, đồng thời, thế gậy của hắn ta vẫn còn đang ngon trớn, nên tiếp tục lướt tới, nhắm giáng thẳng vào đỉnh đầu của Đoan Mộc Hồng.
Ở trong trường hợp đó, Đoan Mộc Hồng phải chịu thiệt hơn. Vì nàng bị chiếc ghế che mất một vùng trước mắt, không còn trông thấy rõ đối phương đang vung chiếc gậy tang đánh tới, nên mãi đến lúc chiếc gậy tang sắp giáng đến mặt nàng, nàng mới hay được. Do đó, dù cho nàng có muốn lách tránh, cũng không còn kịp nữa...! Giữa cơn nguy cấp đó, Đoan Mộc Hồng bất đắc dĩ phải giương thẳng năm ngón tay ra như năm cái móc sắt, vận dụng chân lực nhắm chụp thẳng vào chiếc gậy tang của đối phương. Và xem chừng bàn tay của nàng cũng sắp chụp được vào bóng gậy chập chờn của Thạnh Phủ...
Nhưng ngay lúc ấy, Thạnh Phủ bỗng giật lùi chiếc gậy trong tay trở ra sau độ nửa thước. Chiếc gậy tang của hắn ta, tuy bên ngoài được quấn bằng một lớp vải trắng, nhưng kỳ thực, thì đó là một chiếc gậy thép tinh ròng, hơn nữa, trên thân gậy lại còn có vô số gai nhọn, có tẩm chất độc.
Chính vì vậy, khi hắn ta trông thấy Đoan Mộc Hồng vung tay chụp tới thì liền giật lùi chiếc gậy trở ra sau, thoạt nhìn như hắn ta sợ hãi tránh thế chụp của đối phương, nhưng thật ra là trong lòng hắn ta đang vô cùng vui thích, và làm thế để dẫn dụ Đoan Mộc Hồng chụp thẳng vào chiếc gậy của mình. Vì nếu đối phương chụp trúng vào những chiếc gai nhọn bằng thép trên thân gậy ấy, tất sẽ bị trầy da chảy máu ngay, và do đó, chất độc ngấm vào cơ thể, giết chết nạn nhân trong phút chốc.
Song Đoan Mộc Hồng là một con người lanh lợi sáng suốt, nên trông thấy mình vừa vung tay chụp tới, thì đối phương giật lùi chiếc gậy tang trở ra sau, thì liền đoán biết trên chiếc gậy ấy có điều chi đáng ngờ vực. Vì qua cử chỉ đó của đối phương rõ ràng muốn dẫn dụ nàng sa vào tròng.
Bởi thế, Đoan Mộc Hồng đã kịp thời thay đổi ý định, vận dụng thêm chân khí vào cánh tay, rồi nhanh nhẹn hạ thấp cánh tay xuống, đổi trảo thành chưởng, quét ngang một lượt, tạo thành một luồng kình phong mãnh liệt cuốn thẳng về phía đối phương. Do đó, sau một tiếng phình to, Thạnh Phủ đã bị trúng chưởng lực, thối lui ra sau một bước. Đoan Mộc Hồng liền thừa cơ điểm nhẹ đôi chân nhảy ra xa, rồi lại lấy mũi giày hất ngọn roi liên hoàn màu bạc của mình đang nằm trên đất lên, siết chặt vào tay như cũ.
Ba người đánh nhau trước sau chỉ bốn năm thế võ, nhưng vì đôi bên đều dùng các loại binh khí ngắn, nên bao nhiêu phần hiểm nguy nối tiếp diễn ra không ngừng, khiến người xem phải hoa cả mắt.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, đều không khỏi thán phục rằng: "Ôi! Quả đúng là tre tàn măng mọc, hậu sinh khả uý!" Nhìn qua trong võ lâm, Đoan Mộc Hồng và Mang Sơn Song Quỷ thật ra chỉ là hàng tiểu bối, tuổi chưa quá đôi mươi, thế mà võ công đã tiến tới một trình độ cao cường, có thể liệt vào hàng cao thủ bậc nhất trong giới giang hồ.
Lúc ấy, Đoan Mộc Hồng đã thu ngọn roi liên hoàn trở về, lắc đầu hất cho mái tóc dài xếp gọn cả ra phía sau. Vì vừa rồi chiếc mão nho sinh của nàng đã bị luồng âm phong từ ngọn Chiêu Hồn Phướn cuốn tới hút rơi, nên mái tóc huyền đã rũ xuống tới tận đôi vai, khiến nàng đã hoàn toàn bộc lộ là một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần, chẳng còn điểm nào giống tu mi nam tử nữa.
Sau khi hất gọn mái tóc, Đoan Mộc Hồng lại vung tay quét thẳng ngọn roi liên hoàn trở ra, khiến ánh sáng màu bạc lại lóe lên sáng ngời, trùm kín cả phía trước mặt, và nạt to rằng:
- Nếu các người muốn gây sự đánh nhau mãi, khi mọi việc ở đây xong xuôi, hãy coi chừng ta san bằng cái ổ yêu quái của các ngươi ở Bắc Mang Sơn thành bình địa đó! Mang Sơn Song Quỷ cất giọng ngạo nghễ cười ằng ặc. Tiếng cười của họ nghe chẳng khác nào tiếng gào khóc vừa rồi là mấy. Sau đó, cả hai lại đồng thanh nói:
- Chẳng biết khi mọi việc ở đây xong xuôi, thì quỷ cư của ta ở Bắc Mang Sơn thành bình địa, hay là Phi Yến Môn của ngươi ở Phi Yến Lãnh nhuộm đỏ máu tươi đó! Đôi mày liễu của Đoan Mộc Hồng liền nhướng lên cao nói:
- Cãi vã bằng lời nói với các ngươi không có ích lợi gì, vậy chúng ta hãy dùng binh khí để phân thắng bại được không? Thạnh Tài cất giọng ngạo nghễ, nói:
- Kẻ nào thắng thì được bảo vật, còn kẻ nào thua thì hãy mau rút lui! Đoan Mộc Hồng đáp:
- Tốt lắm! Tiếng nói vừa dứt, nàng đã phi thân bay vọt lên cao ba thước, trông thân hình nàng như đang đứng lơ lửng giữa khoảng không.
Thân pháp ấy chính là thế Nhũ Yến Ly Sào, một thế khó luyện tập nhất trong đường Phi Yến Thất Thức của Phi Yến Môn. Vì sau khi phi thân vọt thẳng mình lên cao, thì cả người Đoan Mộc Hồng lại đứng yên trên khoảng không trong giây lát, đồng thời, giữa giây phút chớp nhoáng đó nàng đã vung ngọn roi liên hoàn màu bạc quét ra vun vút, khiến ánh bạc lóe lên chói ngời nơi nơi. Nàng dùng thế Lao Yến Phân Phi, quét ra hai thế võ liên tiếp, nhắm công thẳng vào hai gã Thạnh Tài và Thạnh Phủ.
Bởi thế, hai đối phương liền cất giọng ngạo nghễ quát lên rằng:
- Tấn công thực phải lúc! Câu nói vừa dứt, cả hai liền nhanh nhẹn dang xa ngay tức khắc...
Nhưng cùng lúc đó, mọi người bất thần nghe có tiếng nổ ầm vang dội, đi đôi với một chuỗi cười dài đinh tay nhức óc, đang từ xa tiến đến gần. Và sau đó lại nghe có tiếng nói to rằng:
- Ai thắng thì được bảo vật, ai bại thì mau rút lui! Vậy bọn các ngươi hãy mau rút lui đi nào! Câu nói vừa dứt, thì trước cửa phòng đã thấy bóng người chập chờn, đồng thời, lại thấy kình phong cuốn tới ồ ạt, đi đôi với hai vầng ánh sáng màu xám xoay vun vút, gây thành tiếng nổ ầm ầm, bắt từ ngoài cuốn thẳng vào trong gian phòng, chẳng khác chi một cơn bão.
Gian phòng ấy tuy rộng rãi, nhưng chỉ trong nháy mắt sau là ai nấy đã thấy bốn bức tường chung quanh đều nứt rạn, cơ hồ như muốn sụp đổ tan tành.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhìn thấy đối phương tràn tới qua một uy thế mãnh liệt, táo bạo tới mức đó, thì liền không khỏi hãi kinh. Và sau đó, khi cả hai người định thần nhìn kỹ về phía trước, thì nghe ba tiếng bốp, bốp, bốp nối tiếp vang lên, rồi lại thấy rõ Đoan Mộc Hồng đã vung ngọn roi liên hoàn lên, giáng thẳng vào hai vầng bóng xám đang quay tít ấy ba thế võ. Và gã Thạnh Phủ cũng đang vung ngọn gậy tang lên công tới một gậy mãnh liệt! Sau khi nhân vật ấy dừng chân đứng yên, thì liền phát lên tiếng cười to ha hả. Tiếng cười của hắn ta rung chuyển cả gian phòng, khiến mái ngói tuôn đổ lào xào, lấp mất cả tiếng khóc gào ghê rợn của Mang Sơn Song Quỷ! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đến chừng đó mới trông thấy rõ nhân vật ấy chính là vị Chưởng môn phái Thái Cực, tức Phán Tiên Từ Lưu Bản. Và hai bóng xám chập chờn quay tít ấy, chính là hai gánh đá mà lão ta đã gánh trên vai! Mang Sơn Song Quỷ lúc ấy cũng đã thấy rõ được đối phương, nên đồng loạt thối lui ra sau mấy bước. Riêng Đoan Mộc Hồng cũng nhanh nhẹn xoay người lại, rồi nhảy tránh ra xa gần một trượng, nói:
- Từ bá bá, tại sao bá bá cũng tìm đến đây tham dự vào chuyện này? Phán Tiên Từ Lưu Bản cất tiếng to cười ha hả, khiến mớ thịt phì nộn trên người ông ta không ngớt rung rinh, nói:
- A Hồng, sư phụ của ngươi cũng như gã lão quỷ ấy đều đi sai một nước cờ rồi. Vì chỉ phái mấy người đến như vầy, là mọi việc có thể thành tựu được hay sao? Đôi mắt đen láy của Đoan Mộc Hồng xoay qua một lượt, nói:
- Từ bá bá, xin bá bá hãy đẩy lui hai gã yêu tinh đáng ghét này đi đã, rồi tôi sẽ có lời giãi bày với bá bá sau! Thì ra, giữa Thái Cực Môn và Phi Yến Môn vốn có sự liên hệ với nhau rất sâu xa, nên Đoan Mộc Hồng vừa nhìn thấy Từ Lưu Bản là đã gọi là "bá bá" ngay.
Từ Lưu Bản đáp:
- Được! Dứt lời, ông ta bèn ngửa mặt nhìn lên, nạt to rằng:
- Hai tên quỷ con quỷ cháu các ngươi, còn nấn ná lại đây làm gì? Sao chưa chịu cút về ổ quỷ của các ngươi cho rồi! Thạnh Tài cất giọng lạnh lùng nói:
- Ông béo này là ai thế? Từ Lưu Bản cất tiếng to cười ha hả, nói:
- Cụ cố béo của ngươi đây là người ở Song Trụ Phong tại Đông Thiên Mục, đi không đổi họ, ngồi không đổi tên, gọi là Từ Lưu Bản đây. Các ngươi hãy mau trở về nói với con quỷ già ấy, bảo là nếu muốn lũ quỷ con quỷ cháu của lão ta thật sự mặc áo tang sô để chịu tang cho lão ta, thì hãy tìm đến gặp ta được rồi. Sao các ngươi chưa chịu mau cút đi? Câu nói cuối cùng của ông ta đã sử dụng Thái Cực Chân Khí, nên tiếng nói đã vang rền như tiếng sấm nổ giữa khoảng không, làm cho tường nhà rung chuyển không ngớt.
Thạnh Phủ chờ Từ Lưu Bản nói dứt lời, thì mếu máo gào khóc to rằng:
- Ông mập kia, té ra lại chính là ông! Chả lẽ ông lại muốn gây thành mối thù oán với chúng tôi nữa hay sao? Từ Lưu Bản cười to, nói:
- Ai vì sợ bọn các ngươi có đông lũ quỷ con quỷ cháu, nên không dám gây sự với các ngươi, chứ còn ta thì chẳng hề sợ bao giờ! Thạnh Phủ đáp:
- Nếu ông không sợ chúng tôi, thì chúng tôi lại sợ ông hay sao? Từ Lưu Bản bước tới trước một bước, nạt rằng:
- Nếu các ngươi không chịu cút đi, đợi gánh đá trên vai của ta đè bẹp, thì các ngươi sẽ thật sự tìm đến ở chung với lũ quỷ bên dưới âm ty đó! Thạnh Tài bất thần vung ngọn phướn chiêu hồn lên, quất thẳng về phía trước không hề gây nên tiếng động. Từ Lưu Bản thấy thế, bèn quát rằng:
- Khá khen cho gã tiểu quỷ, chẳng biết chi là sống chết kia! Nói đoạn, lão ta bèn nghiêng vai quét gánh đá trên vai về phía trước, chạm thẳng vào ngọn Chiêu Hồn Phướn nghe một tiếng ầm, khiến chiếc cán sắt của ngọn Chiêu Hồn Phướn bị xoay tít thành mấy vòng tròn to.
Thạnh Tài thét lên một tiếng dài, rồi nhảy lùi ra sau để tránh. Trong khi đó, Thạnh Phủ đã vung ngọn gậy tang lên, tràn thẳng về phía Từ Lưu Bản! Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, bèn quay lại Lữ Đằng Không nói nhỏ rằng:
- Tuy Mang Sơn Song Quỷ không thể đối địch nổi với gã béo họ Từ kia, nhưng gã họ Từ cũng không thể nhứt thời thủ thắng được, vậy chúng ta nên nhân cơ hội này rút đi là hơn.
Lữ Đằng Không cất tiếng tán đồng, rồi nhanh nhẹn vung chưởng đánh thẳng vào vách đá, và sau một tiếng nổ ầm to, tấm vách đá ấy liền bị luồng chưởng lực của lão ta đánh thủng một lổ.
Tức thì, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bèn nhanh nhẹn phi thân bay vọt qua lỗ thủng ấy, định lướt thẳng ra ngoài để bỏ đi...
Nhưng bỗng Đoan Mộc Hồng cất tiếng kêu to rằng:
- Xin nhị vị hãy chậm chân đã! Tây Môn Nhất Nương quay đầu ngó lại, trông thấy ngọn roi liên hoàn màu bạc trong tay của Đoan Mộc Hồng đã nhanh nhẹn quét tới nơi. Do đó, bà ta bèn cất tiếng cười nhạt, và không chờ cho Đoan Mộc Hồng tràn tới gần, đã vung một cánh tay lên, chớp nhoáng điểm vào Kiên Trinh huyệt của Đoan Mộc Hồng.
Bởi thế, huyệt đạo của Đoan Mộc Hồng liền bị khóa cứng, khiến nàng phải đứng trơ người, không nhúc nhích được nữa.
Tây Môn Nhất Nương bèn cất tiếng lạnh lùng quát:
- Con bé kia! Ngươi nên an phận thủ thường là hơn. Lần này ta tha cho ngươi đó! Câu nói vừa dứt, bà ta bèn cùng Lữ Đằng Không lướt thẳng ra khỏi gian khách điếm, nhắm hướng ngoại ô lướt thẳng đi. Chẳng mấy chốc sau, hai ngươi đã lướt đi xa đến bốn năm dặm đường. Chừng ấy cả hai mới chậm bước đôi chân lại.
Tây Môn Nhất Nương lên tiếng nói:
- Ông bảo có phải không? Chiếc hộp ấy tuy là chiếc hộp không, nhưng chắc chắn bên trong có điều gì bí mật. Nếu chẳng phải thế, thì Quỷ Thánh Thạnh Linh, Từ Lưu Bản và lão già dịch ở Phi Yến Lãnh ấy lại chú tâm đến thế? Lữ Đằng Không nói:
- Chúng ta hãy mau đến Tô Châu phủ, sẽ rõ mọi việc ngay! Hai người vừa nói chuyện, nhưng đôi chân vẫn tiếp tục lướt về phía trước, nên chỉ trong chớp mắt sau, là cả hai lại lướt qua một đoạn đường ba bốn dặm.
Lúc bấy giờ mặt trời đã đứng giữa đỉnh đầu, hơn nữa hai người đang phi thân trên một con đường nhỏ, giữa đồi núi hoang vu rậm rạp, nên chẳng hề trông thấy có bóng người qua lại.
Trong khi cả hai đang tiếp tục lướt nhanh về phía trước, bỗng trông thấy có hai con tuấn mã đứng bên vệ đường, đang cúi gầm đầu ăn cỏ. Và Lữ Đằng Không không khỏi giật mình, nói:
- Ủa! Đấy chẳng phải là hai con ngựa của chúng mình đó sao? Câu nói vừa dứt thì cả hai liền trông thấy từ trong đám cỏ hoang rậm rạp cạnh đấy, có ba gã đàn ông mặt áo đen, nhanh nhẹn nhảy thoát ra. Sau khi nhìn kỹ đối phương, hai vợ chồng Lữ Đằng Không thấy đấy chính là ba gã đàn ông gầy cao, mà họ đã gặp vào lúc hoàng hôn trên đường đi ngày hôm qua, tức Thái Sơn Tam Tàn! Ba gã đàn ông ấy liền đứng thành hàng chữ nhất, chặn ngang đường. Sau một tiếng quát to, bọn chúng bèn lên tiếng nói:
- Lữ Tổng tiêu đầu, Lữ phu nhân, gia sư có ý định mời nhị vị cùng đến Vạn Hốt Cốc ở Thái Sơn một chuyến, nên mới phái ba anh em chúng tôi đến đây để nghênh đón. Vậy, giờ đây đã có sẵn hai con ngựa của nhị vị, xin nhị vị chớ nên chối từ, kẻo anh em chúng tôi lại không thể trở về bái mạng với gia sư! Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:
- Giữa ta và lệnh sư chẳng hề có giao thiệp với nhau, hơn nữa đôi bên chính tà có khác, vậy ông ấy muốn gặp vợ chồng ta để làm gì? Thái Sơn Tam Tàn nói:
- Việc đó, thật ra không phải là việc chúng tôi có thể hiểu được. Gia sư bảo chúng tôi đến nghênh đón nhị vị, đưa về Vạn Hốt Cốc mà thôi! Lữ Đằng Không gầm to rằng:
- Rõ là trò đùa! Bọn các ngươi xem vợ chồng ta là những nhân vật như thế nào, mà lại có thể nghe theo mệnh lệnh của kẻ khác? Mau tránh đường ra! Nếu Hắc Thần Quân muốn gặp ta, thì bảo lão ấy sau một tháng nữa, hãy đến thành Nam Xương là sẽ gặp được! Thái Sơn Tam Tàn nói:
- Gia sư chỉ dặn dò anh em chúng tô phải nghênh đón cho được nhị vị đến Vạn Hốt Cốc mà thôi.
Suốt mấy ngày hôm nay, trong lòng Lữ Đằng Không đang bực dọc, lúc nào cũng ấm ức, nhưng không có nơi để phát tiết được cơn tức giận. Giờ đây, ông ta nghe qua lời nói ấy, thì lửa giận liền cháy bừng bừng, vung tay lên tuốt lưỡi Tử Kim Đao xuống nghe một cái rẻng, đồng thời rùn thấp đôi chân, thủ bộ sẵn sàng ứng chiến. Chòm râu bạc dưới cằm của ông ta cũng không ngớt lay động, nên trông thần sắc uy nghi phi thường.
- Hãy xông vào đi nào! Thái Sơn Tam Tàn cũng vội vàng vung tay chụp vào sườn, mỗi tên tuốt lấy một món binh khí siết chặt vào tay. Những binh khí ấy có hình dáng giáo không ra giáo, đao không ra đao, tên gọi là Tam Tài Phiên, chỉ vì một món binh khí ấy, mà có đến ba công dụng.
Lữ Đằng Không trông thấy đối phương đã siết cứng binh khí vào tay, bèn quay đầu lại nói:
- Phu nhân, bà chẳng cần phải trợ lực với tôi, hãy để tôi thử bộ xương già này xem còn dùng được không, và xem có thể lo việc trả thù cho Lân nhi không? Câu nói vừa dứt, Lữ Đằng Không đã tràn tới nhanh như tên bắn, vung ngọn Tử Kim Đao lên, gây thành những vệt ánh thép màu tía lập lòe, trông chẳng khác chi một chiếc cầu vồng vắt ngang khoảng không. Đấy chính là thế Tam Thanh Nhất Can, và chỉ một thế đao mà đã nhắm chém thẳng vào ba người cùng một lúc.
Tức thì, sau ba tiếng xoảng, xoảng, xoảng, thì đã thấy Thái Sơn Tam Tàn vung ba ngọn Tam Tài Phiên lên đỡ thẳng vào đường đao của Lữ Đằng Không vừa chém tới, khiến tiếng sắt thép va chạm ngân dài. Đồng thời, ba hắn ta cùng buột miệng thét lên một tiếng hãi kinh, rồi đồng loạt nhảy lui ra sau đến bảy tám thước, mới đứng vững đôi chân lại được.
Thái Sơn Tam Tàn chính là những tên môn đồ đắc ý nhất của Hắc Thần Quân ở Vạn Hốt Cốc, tại vùng Thái Sơn. Võ công của ba gã ta cao cường không thua chi Mang Sơn Song Quỷ. Thế mà, chỉ một đường đao mãnh liệt, Lữ Đằng Không đã có thể hất bay cả ba người ra sau cùng một lúc! Lữ Đằng Không có vẻ vô cùng đắc ý, đưa tay vuốt râu và cất tiếng cười dài, nói:
- Thế nào, các ngươi còn muốn xông vào thử nữa thôi? Thái Sơn Tam Tàn cố gắng siết cứng lấy món binh khí của mình, mặc dù lúc ấy vì sức va chạm quá mãnh liệt, làm cho hổ khẩu tay của họ đã rách toạc, máu tươi tuôn dầm dề.
Vậy, thử hỏi cả ba nào còn dám xông vào đánh nhau nữa? Do đó bọn họ liền đưa mắt nhìn nhau một lượt, lên tiếng nói:
- Lữ Tổng tiêu đầu không nể tình cho, thì về sau hãy cẩn thận đề phòng! Lữ Đằng Không cất tiếng to cười ha hả, mắng rằng:
- Ta sẽ bầm nát ba tên súc sinh các ngươi thành ra một đống thịt vụn bây giờ! Vừa nói, lão ta vừa tràn nhanh tới trước, khiến Thái Sơn Tam Tàn đều kinh hãi, đồng loạt nhảy lui ra sau.
Lữ Đằng Không lại phá lên cười to ha hả, nói:
- Nhưng nếu ta giết chết ba tên súc sinh các ngươi thì trong võ lâm sẽ bảo ta sợ hãi trước Hắc Thần Quân, nên không dám cho các ngươi trở về báo tin. Vậy hãy mau cút đi cho ta! Sắc mặt của Thái Sơn Tam Tàn đang tràn đầy vẻ tức giận, nhưng nào dám gây sự đánh nhau nữa. Do đó, cả ba liền xoay lưng phi thân lướt đi vun vút, và khi đã lướt đi xa độ bảy tám trượng, lại quay đầu nói với rằng:
- Họ Lữ kia, mong rằng sau này chúng ta sẽ còn gặp nhau! Tây Môn Nhất Nương bèn phá lên cười dài, nói:
- Còn ta nữa đây! Dứt lời, ngón tay giữa của bà ta bèn búng ra, tức thì, ba tiếng rẻng, rẻng, rẻng nối nhau ngân dài, và ba ngọn phi tiêu thép bé nhỏ, theo đó bay vèo tới nhanh như điện xẹt.
Thái Sơn Tam Tàn chưa kịp nghĩ đến việc lách tránh, thì đã cảm thấy vành tai của mình bị đau buốt, vì ba ngọn phi tiêu bé nhỏ kia, đã bay vút đến cắt đứt một vành tay trái của bọn họ rồi! Lúc ấy, Tây Môn Nhất Nương đứng cách xa Thái Sơn Tam Tàn có đến bảy tám trượng, thế mà ba mũi phi tiêu thép của bà ta chẳng những bay vèo tới nhanh như điện chớp, mà còn chính xác phi thường. Như vậy, cũng đủ thấy thủ pháp sử dụng ám khí của bà ta đã tiến tới mức ai nghe nói cũng phải kinh hồn thất sắc.
Thái Sơn Tam Tàn cùng sờ vào vành tai phía trái, thấy máu đỏ nhuộm ướt cả bàn tay.
Do đó, cả ba chẳng còn dám nấn ná ở lại đây nữa, luống cuống bỏ chạy bay đi tuốt.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhờ thế lại tìm được hai con ngựa của mình, nên liền tra đao vào vỏ, phi thân lướt thẳng lên yên rồi giật mạnh cương ngựa phi nhanh tới trước.
Tuy hai vợ chồng Lữ Đằng Không đánh bại được Thái Sơn Tam Tàn, nhưng cũng tự biết từ nay, mình đã kết thành mối thù với Hắc Thần Quân ở Vạn Hốt Cốc trong Thái Sơn. Song, cả hai đều ỷ lại võ công cao cường của mình, cũng như ỷ lại vào sự trợ lực của vô số cao thủ trong hai phe Nga My và Điểm Thương, nên mặc dù nghe lời đồn đãi Hắc Thần Quân vô cùng lợi hại, nhưng họ chẳng lấy đó làm điều lo ngại.
Ngày hôm ấy, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đã hối hả phi ngựa lướt đi đến chiều tối, và chẳng có việc chi rắc rối xảy ra.
Song, hai người vì không muốn gặp những điều rắc rối khác làm cản trở chuyến đi của mình, nên đêm ấy, họ không tìm đến ở trọ nơi khách điếm, mà trái lại tìm một nơi kín đáo giữa núi rừng hoang dã để yên nghỉ mà thôi.
Vào lúc nửa đêm, bỗng Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bất thần nghe có tiếng ngựa hí dài, nên cả hai đều giật mình tỉnh giấc. Khi họ ngồi lên xem kỹ, thấy cách xa đấy độ bảy tám trượng đang có hai bóng người đang cố trì kéo hai con tuấn mã của mình.
Hai con ngựa ấy tuy không phải là giống ngựa tốt lắm, nhưng nó vẫn biết mến chủ, chẳng khi nào lại chịu nghe người xa lạ. Do đó, chúng đã cố trì kéo giằng co với đối phương, đồng thời lại giương cổ hí dài không ngớt.
Lữ Đằng Không trông thấy có kẻ lạ mặt cả gan dám đến trộn ngựa của mình, trong lòng hết sức tức giận, đang định đứng phắt dậy để bước tới trước, bất thần từ trong bóng đêm đã có một người lướt nhanh ra, bước đi nhẹ nhàng và tiến đến sát bên cạnh hai bóng người trộm ngựa ấy.
Liền đó, bóng đen nọ nhanh như chớp thò hai tay ra, nắm cứng lấy cổ của hai gã trộm ngựa xách bổng lên, quát to một tiếng, nói:
- Môn hạ của Quỷ Thánh mà lại hèn hạ đến thế này sao. Bọn các ngươi dám ra tay trộm cắp, quả là đáng tức cười! Quả là đáng tức cười! Dứt lời, bóng đen ấy bèn xách bổng hai gã trộm ngựa kia lên, bước thẳng về phía Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương. Khi còn cách nhau độ bảy tám trượng nữa, thì bóng đen ấy lao thoắt đến nhẹ nhàng, trông chẳng khác nào lướt đi trên mặt nước.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều có kinh nghiệm giang hồ, nên vừa nhìn qua thế lướt tới của người ấy, thì đã biết ngay đối phương thuộc hàng cao thủ bậc nhất trong võ lâm. Do đó cả hai đều không dám chểnh mảng, vội vàng đứng phắt dậy, và người ấy cũng đã tiến đến trước mặt họ rồi.
Khi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương giương mắt nhìn kỹ, thì trông thấy bóng đen ấy là một người che mặt bằng một vuông lụa đen, nên không thể nhìn rõ được diện mục của đối phương như thế nào.
Nhưng riêng về hai gã đàn ông mà người ấy đang xách bổng trong tay, thì lại trông được rất rõ ràng. Đấy chính là hai gã đàn ông ăn mặc rất quái dị, một người thì ăn mặc giống như con Quỷ Bạch Vô Thường, và người khác, trông chẳng khác chi con Quỷ Hắc Vô Thường.
Thì ra, môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh rất đông, ngoại trừ hai đứa con trai của lão ta ăn mặc như kẻ có đại tang, lại còn có tám môn đồ yêu quý khác nữa. Trong tám môn đồ ấy, có hai tên ăn mặc như ngưu đầu mã diện, hai tên cải trang như loại tiểu yêu ở dưới địa phủ, hai tên khác lại ăn mặc như phán quan, và hai tên cuối cùng thì ăn mặc như con quỷ Vô Thường. Trong võ lâm người ta gọi chúng là Âm Thế Bát Quỷ.
Hai gã đàn ông này ăn mặc như quỷ Vô Thường nên Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vừa nhìn qua đã biết chúng chính là Bạch Vô Thường Thượng Bát và Hắc Vô Thường Thượng Hách. Võ công của hai hắn ta tương đương với Mang Sơn Song Quỷ, trong võ lâm cũng thuộc thành phần tương đối có tiếng tăm. Thế nhưng người che mặt nọ đã tóm lấy chúng một cách dễ dàng không thể tưởng. Như vậy, cũng đủ biết võ công của người ấy cao cường đến mức nào! Lữ Đằng Không to tiếng cười nói:
- Tại hạ xin đa tạ tôn giá, về chỗ đã bắt hai tên trộm ngựa này cho! Người che mặt cũng cất tiếng cười, đáp rằng:
- Hai gã này định gây thương tích cho đôi ngựa của các hạ, hầu sáng mai khi các hạ lên đường, thì hai con ngựa ấy sẽ bất thần té khụy, và thừa dịp đó bọn chúng tràn ra để xuống tay. Tuy các hạ chắc chắn không sợ chi tài nghệ yêu quỷ của lũ chúng, nhưng hành động hèn mạt ấy của chúng quả thực là đáng ghét. Các hạ cứ thử xem có phải không? Lữ Đằng Không nói:
- Lời của bằng hữu nói không sai tí nào cả. Bởi thế, cần phải trừng trị chúng để cảnh cáo mới được.
Người che mặt bèn buông lỏng hai bàn tay ra, đồng thời, lại nghe hai tiếng bốp, bốp nổi lên. Thế là Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường đều ngã chúi xuống đất, nằm sóng sượt.
Lữ Đằng Không khi thấy người che mặt vừa buông lỏng hai bàn tay ra, thì đã nhanh như chớp, ấn mạnh lòng chưởng vào Thiên Trụ huyệt trên gáy của họ. Do đó, chắc chắn Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường đều phải bị trọng thương, dù cho không chết, sau này cũng không mong chi xuất đầu lộ diện trong võ lâm để gây thêm tội ác, hành động ngang tàng nữa.
Tây Môn Nhất Nương cười, nói:
- Khoái lắm! Khoái lắm! Đối với lũ yêu quái này, cần phải trừng trị như vậy mới được! Người che mặt nói:
- Lữ phu nhân là người ghét cay ghét đắng phường gian ác, chứng tỏ lòng hào hiệp thực khó ai bì.
Người che mặt ấy xuất hiện một cách đột ngột, và đã sử dụng mấy thế võ kỳ tuyệt để đối phó với Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường, chứng tỏ võ công của ông ta cao cường tuyệt đỉnh. Nhưng vì ông ta dùng vải đen che kín khuôn mặt, đồng thời, y phục nếu so với những người khác, cũng không có chi khác biệt, nên vợ chồng Lữ Đằng Không chẳng làm sao nhận xét ra đối phương là ai cả. Hơn nữa, người ấy nói năng lại rất khách sáo, nên càng làm cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương khó hiểu được đối phương là kẻ có ý định gì.
Lữ Đằng Không lên tiếng nói:
- Nếu không nhờ thủ pháp cao cường tuyệt đỉnh của tôn giá, thì cũng chẳng dễ chi trừng trị được hai con yêu này! Ông ta chẳng biết nói chi khác hơn là những lời khách sáo ấy. Lúc bấy giờ, Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường cũng đang lồm cồm bò dậy, nên người che mặt ấy đã quát rằng:
- Sao hai ngươi chưa chịu cúi lạy, xin lỗi Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân? Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường nghe thế, đều đưa mắt ngơ ngác nhìn nhau, không nói nên lời.
Vì bọn họ đều là số người có địa vị rất cao trong các môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh. Ngay trong võ lâm, bọn họ cũng là số người tương đối có danh vọng, thế mà ngày hôm nay lại bị thất bại ê chề, nên hoang mang chẳng hiểu tại vì đâu mà mình lại bị trọng thương đến mức ấy.
Tuy nhiên, họ đã tự biết đối phương chẳng phải là tay tầm thường, nên đứng sửng sờ trong giây lát, rồi liền nói ấp úng rằng:
- Anh em chúng tôi đã biết được Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân, chỉ riêng có các hạ, chẳng hiểu cao tính đại danh là gì? Người ấy cười nói:
- Bọn các ngươi tìm hiểu danh tánh của ta, thì có thể trở về sào huyệt, gọi Quỷ Thánh đến đây trả thù giúp cho được hay sao? Tên tuổi của ta không nổi bật lắm, nên chẳng làm thế nào bì kịp với Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân. Nhưng các ngươi chỉ cần trở về Bắc Mang Sơn thuật lại mọi việc đã gặp ngày hôm nay, có lẽ Quỷ Thánh còn nhớ ra được ta là ai.
Thôi, bọn các ngươi sao không chịu quỳ lạy, xin lỗi cho mau đi! Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường đang lâm vào khung cảnh bất khả kháng, nên vì sự sống còn, cả hai liền vâng lệnh xin lỗi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, rồi quay lưng lủi đi mất.
Tây Môn Nhất Nương đứng bên cạnh, thấy người che mặt ấy không bằng lòng nói rõ danh tánh cho hai gã Hắc Bạch Vô Thường nghe, thì biết dù mình có hỏi đi nữa, chắc chắn cũng là vô dụng. Do đó, bà ta liền đi thẳng vào đề rằng:
- Giữa đêm khuya như thế này, tôn giá tìm đến đây chẳng rõ có việc làm quý hóa chi? Vậy, tôn giá cứ nói thẳng ra cho! Người ấy xoa đôi tay, dường như hết sức ái ngại và qua một lúc thực lâu mới đáp:
- Có phải nhị vị định đi đến Tô Châu phủ phải không? Lữ Đằng Không đáp:
- Đúng thế! Người che mặt ấy nói tiếp:
- Kim Tiên đại hiệp ở Tô Châu hiện trong nhà đang có biến cố to, vậy e rằng nhị vị tìm đến đó lại sẽ gây ra việc hiểu lầm không hay chăng? Giờ đây, tại hạ có một lời yêu cầu bất đắc dĩ, song chẳng rõ nhị vị có bằng lòng chấp nhận cho không? Lữ Đằng Không nghe qua câu nói của đối phương, tuy cảm thấy có lắm điều khó hiểu, nhưng vì thái độ của đối phương lúc nào cũng tỏ ra khách sáo, nên liền ôn tồn hỏi:
- Chẳng hay tôn giá có điều yêu cầu chi? Người ấy đáp:
- Trong chuyến đi này của các hạ, có lẽ chính là để áp tải một vật chi đó cho một khách hàng chăng? Chẳng hay các hạ có thể vui lòng cho tại hạ được xem qua vật đó không? Lữ Đằng Không trông thấy đối phương nói quanh nói quẫn, rồi cũng đề cập đến chiếc hộp gỗ kia, nên trong lòng không khỏi tức giận, cười nhạt đáp:
- Việc ấy không làm sao chấp nhận được! Người ấy bèn cất tiếng than dài, nói:
- Tôi cũng đoán biết trước, là Lữ Tổng tiêu đầu không khi nào chịu chấp nhận. Nhưng nếu tại hạ bằng lòng lấy một con người để đánh đổi vật ấy với Lữ Tổng tiêu đầu, thì chẳng hay Lữ Tổng tiêu đầu có chịu không? Lữ Đằng Không không khỏi bắt tức cười thầm, nói:
- Tôn giá thật sự là ai thế? Tại sao lại cứ nói dài dòng và không đâu mãi thế? Nhưng Tây Môn Nhất Nương như chợt hiểu ra điều gì, bèn lên tiếng nói:
- Ông định dùng ai để đánh đổi chiếc hộp gỗ ấy với chúng tôi? Người ấy đáp:
- Người đó, chắc chắn nhị vị...
Câu nói mới đến đây, thì bỗng nghe từ phía xa có tiếng hú thật to, nhưng rất ngắn ngủi vang lên. Những tiếng hú ấy đã xé tan màn đêm, vọng đến nghe rõ mồn một! Người che mặt ấy bỗng nhảy lùi ra sau gần một trượng, nói:
- Những người đồng hành với tại hạ đang có chuyện cấp bách nên đã lên tiếng gọi, vậy tại hạ xin tạm cáo lui ngay bậy giờ! Tây Môn Nhất Nương vội vàng tràn ngay người tới trước quát rằng:
- Bằng hữu, nên nói cho hết lời rồi sẽ đi! Nhưng trong khi Tây Môn Nhất Nương còn đang lên tiếng nói, thì người ấy lại nhảy lui ra sau đến ba bốn trượng nữa. Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, thì lại tiếp tục truy đuổi theo, Nhưng người ấy bỗng bất thần quét mạnh tới một chưởng, và Tây Môn Nhất Nương cũng đã kịp thời vung chưởng quét ra đỡ thẳng.
Thế là, qua một tiếng ầm to, hai luồng chưởng lực đã va chạm thẳng vào nhau. Tây Môn Nhất Nương cảm thấy đối phương có một nguồn nội lực vô cùng dồi dào, bà ta tuy có đủ sức đối địch, nhưng đối phương đã nương vào sự va chạm ấy, tiếp tục nhảy lui ra sau, rồi dùng một thân pháp nhanh chóng, cơ hồ chẳng phải là thân pháp của một con người nữa, nhanh nhẹn biến mất vào màn trời đêm.
Tây Môn Nhất Nương không khỏi sửng sốt, quay đầu lại nói:
- Tiếng hú vừa rồi nổi lên từ hướng nào, ông nghe rõ chăng? Lữ Đằng Không đáp:
- Dường như phía tây nam thì phải! Tây Môn Nhất Nương nói:
- Nếu thế, chúng ta hãy truy đuổi theo mau! Lữ Đằng Không lấy làm lạ, nói:
- Hắn ta bỏ đi thì thôi, chúng ta còn đuổi theo hắn để làm gì? Câu nói của Lữ Đằng Không chưa dứt, thì Tây Môn Nhất Nương đã nhắm hướng tây nam lướt đi nhanh như một luồng gió hốt. Do đó, Lữ Đằng Không bất đắc dĩ cũng phải bám sát theo sau. Thân pháp của hai người cũng hết sức nhanh nhẹn, nên chỉ trong chớp mắt sau là đã lướt đến một đỉnh núi nhỏ rồi.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đứng trên đỉnh núi cao, nhìn trở xuống thì thấy khắp bốn bề, đâu đâu cũng tối đen như mực, nên chẳng biết cánh rừng chung quanh có loài cây chi.
Sau đó, hai người lại rảo mắt khắp bốn bên, cố quan sát địa hình thực kỹ, nhưng chỉ thấy giữa một cánh rừng rộng lớn đen ngòm, có một con đường hẹp duy nhất là có thể vượt qua được cánh rừng ấy mà thôi. Ngoài ra, chung quanh đấy không còn một con đường nào khác nữa.
Tây Môn Nhất Nương bèn đưa tay chỉ về phía con đường mòn nhỏ ấy, nói:
- Chúng ta hãy đi theo con đường mòn nhỏ ấy để truy đuổi theo kẻ địch mau! Lữ Đằng Không vẫn không hiểu mục đích của Tây Môn Nhất Nương muốn truy đuổi theo người che mặt ấy để làm gì, nên lên tiếng hỏi:
- Phu nhân, chúng ta đuổi theo hắn để làm chi chứ? Tây Môn Nhất Nương cất giọng bực tức nói:
- Chúng mình hãy truy đuổi theo hắn ta trước đã, và chờ khi đuổi kịp hắn tất sẽ rõ tại sao, chớ nên hỏi lôi thôi dài dòng nữa! Lữ Đằng Không nghe qua giọng nói ấy của vợ mình, thấy tựa hồ việc này như vô cùng quan trọng. Từ trước đến nay, lão ta biết bà vợ già của mình là người mưu trí phi thường, có lẽ còn cao vượt hơn lão ta nữa, nên chẳng dám hỏi thêm mà cùng nhanh nhẹn chạy trở xuống phía dưới chân núi ngay tức khắc.
Khi hai người lướt đến sát bìa rừng, và nhìn rõ những cây cối mọc um tùm trong cánh rừng ấy, thì không khỏi giật mình. Vì cả khu rừng to lớn ấy, đều mọc toàn cây gai góc chằng chịt. Những chiếc gai nhọn từ nhành cây nhô ra, dài có đến gần một tấc, trên mũi lại hết sức bén. Do đó, chớ nói chi là con người, mà dù là loài dã thú quen sống trong rừng, cũng không dễ gì vượt qua được cánh rừng đó.
Sau khi hai người tìm đến con đường mòn, thì thấy con đường ấy chỉ rộng độ một thước mộc, dù cho có lách mình để bước tới, thì e rằng y phục mặc trên người cũng sẽ bị gai góc móc rách toạc tất cả.
Tây Môn Nhất Nương tỏ ra do dự trong giây lát, nói:
- Nơi này chính là một địa điểm tốt để thử thách tài khinh công của người ta đây! Dứt lời, bà ta vận dụng chân khí trong người, phi thân bay vọt lên. Khu rừng đầy gai góc ấy, nhánh nhóc dính liền nhau chằng chịt, lá cây rậm đen như không hề có một khe trống, cơ hồ đến gió cũng không thể thổi lọt. Do đó, Tây Môn Nhất Nương vừa phi thân bay vọt lên đầu ngọn cây, liền sử dụng ngay thuật khinh công Thảo Thượng Phi, tiếp tục lướt tới nhanh như gió. Tuy dưới chân bà ta toàn là những gai góc bén nhọn, nhưng nhờ thân người của bà ta nhẹ như một con chim yến, nên chẳng hề gây được thương tích chi cho bà ta cả.
Lữ Đằng Không thấy vợ mình phi thân bay vọt lên cao, thì cũng vội vàng bám sát theo sau. Thế là, hai người một trước một sau, lướt đi nhanh như hai vì sao sa. Chỉ trong thoáng chốc đã lướt đi được hai ba mươi trượng rồi. Thế là, họ đã bắt đầu xâm nhập vào trung tâm khu rừng.
Nhưng giữa lúc hai người đang tiếp tục lướt tới, thì bất thần nghe có ba tiếng rít gió vèo vèo liên tiếp nổi lên, rồi lại trông thấy có ba đốm sao bạc, từ bên dưới cánh rừng bay vút lên theo hình tam giác, nhắm ngay lồng ngực của Tây Môn Nhất Nương bắn tới.
Tây Môn Nhất Nương liền kêu to lên rằng:
- Này ông, hãy thận trọng đấy! Ba mũi ám khí nọ vốn đang nhắm tấn công ngay về phía Tây Môn Nhất Nương, thế mà bà ta lại lên tiếng gọi Lữ Đằng Không hãy thận trọng, nên mới nghe qua dường như hết sức vô lý. Song, kỳ thực thì tiếng kêu của bà ta vừa dứt, thì thân người bà ta đã lách ngang nhanh như chớp để tránh. Và trong giây phút ngắn ngủi đó, ba món ám khí màu bạc kia, đã lướt thẳng qua khỏi bà ta, rồi tiếp tục bay về phía trước nhanh như điện xẹt.
Lữ Đằng Không vốn đang bám sát theo sau Tây Môn Nhất Nương, nên khi Tây Môn Nhất Nương vừa lách mình tránh ngang, thì ba đốm sao bạc ấy đương nhiên nhắm ngay Lữ Đằng Không công tới.
Chính Tây Môn Nhất Nương đã thấy trước được điều đó, nên mới lên tiếng bảo Lữ Đằng Không phải cẩn thận đề phòng.
Lữ Đằng Không nhờ tiếng kêu ấy của Tây Môn Nhất Nương, nên đã sẵn sàng đối phó với mọi điều bất trắc. Bởi thế, khi thấy ba đốm sao bạc bay vèo tới nơi, thì lão ta đã chụp ngọn Tử Kim Đao tuốt ra khỏi vỏ nghe một tiếng rẻng, đồng thời nhanh như chớp, vung lên đỡ thẳng vào ba đốm sao bạc nọ. Tức thì, qua ba tiếng xoảng, xoảng, xoảng đi đôi với ba đốm lửa đỏ lóe lên sáng ngời, ba món ám khí nọ đã bị hất bay cả ra xa.
Trong khi đó, đôi chân của Lữ Đằng Không vẫn tiếp tục lướt nhanh tới trước, chẳng hề chậm lại tí nào. Nhưng lão ta vừa quét rơi ba đốm sao bạc trước mặt, thì bất thần lại nghe dưới chân mình có một luồng gió lạ quét tới, nên vội vàng dừng chân đứng lại ngay tức khắc.
Chừng ấy, lão ta mới cảm thấy tại bắp chân bị đau buốt, và khi cúi đầu nhìn xuống, thì lại thấy có một cái móc thép sáng ngời như bạc, đang từ dưới cánh rừng thò lên, và chỉ còn cách xa ống chân của lão ta trong đường tơ kẽ tóc.
Bởi thế, nếu tài nghệ của Lữ Đằng Không chưa tiến tới mức cao cường tuyệt đỉnh, và do đó, không thể kịp thời dừng chân đứng yên lại, thì chắc chắn với thế lướt tới nhanh nhẹn của lão ta, tất chiếc móc thép sáng ngời kia, sẽ cắt đứt tiện đôi chân của lão ta rời khỏi thân người rồi.
Song, cũng may là lão ta đã phát giác kịp thời, nên dừng chân đứng yên lại ngay. Tuy nhiên, ngay bắp chân của lão ta, cũng bị mũi nhọn của chiếc móc thép ấy rạch đứt thành một đường dài, máu tuôn xối xả.
Lữ Đằng Không hết sức tức giận, liền vung ngọn Tử Kim Đao quét thẳng xuống phía dưới chân. Thế là, qua một tiếng xoạc, ngọn đao của lão ta cuốn thẳng về phía ấy nhanh như gió hốt, mãnh liệt như thủy triều dâng. Đồng thời, lão ta quát to rằng:
- Bằng hữu phương nào mà lại hành động mờ ám, thực không còn kể chi sỉ diện nữa.
Luồng đao phong của Lữ Đằng Không vừa cuốn qua, là một vùng nhánh nhóc cây rừng thực to đã bị quét đứt tiện, tuôn đổ lào xào. Đồng thời, móc thép sáng ngời ấy cũng thụt trở xuống mất hút.
Lữ Đằng Không vì dừng chân đứng lại đối phó với những trở lực ấy, nên Tây Môn Nhất Nương đã lẩn khuất giữa màn đêm không còn trông thấy đâu nữa.
Nhưng Lữ Đằng Không tạm thời không có đủ thời giờ để chú ý đến Tây Môn Nhất Nương, trái lại, lão ta nhanh nhẹn buông mình xuống phía dưới khu rừng, trong khi chân khí khắp người đều được vận dụng, nên chẳng những bảy mươi hai quan huyệt trong người lão ta được khóa cứng, mà cơ thể cũng trở thành hết sức cứng rắn, có thể lướt qua khỏi gai góc chung quanh một cách dễ dàng.
Do đó, số gai góc bén nhọn ấy, tuy đã làm rách toạc lớp y phục trên người lão ta, nhưng hoàn toàn không thể làm tổm thương mảy may đến da thịt của lão. Lữ Đằng Không sau khi đáp yên đôi chân tới mặt đất, bèn xông thẳng về phía trước, trong khi ngọn Tử Kim Đao trên tay cũng nhắm ngay nhành lá rậm rạp chung quanh quét vun vút, khi chém sang trái, lúc chặt sang phải, nên mặc dù cây rừng rậm rạp, mà lão ta vẫn có thể lướt tới trước nhanh nhẹn như con cá lội trong nước.
Khi lão ta tiến tới được chừng bốn năm trượng, bỗng thấy có một bóng người thấp thoáng ở phía trước, và cũng đang hành động như lão ta, để tiếp tục lướt tới.
Lữ Đằng Không bèn cất tiếng to cười ha hả, và cùng một lúc với tiếng cười, lão ta phi thân bay vọt lên khoảng cao, rồi bắt từ trên dùng thế Thiên Đăng Địa Liệt, vung ngọn Tử Kim Đao chém thẳng xuống nghe một tiếng vút, khiến ánh thép màu tía lóe lên chói rực như một chiếc cầu vồng ở giữa khoảng không.
Đường đao ấy là một thế tuyệt học của Lữ Đằng Không, có một uy lực vô cùng đáng sợ. Dù cho là một người bằng sắt đá đi nữa, cũng chắc chắn sẽ bị chém đứt lìa ra làm đôi! Trong cơn nguy cấp, bóng người ấy bèn nhanh nhẹn vung ngọn móc sắt đang cầm trong tay lên, để đỡ thẳng vào thế đao của Lữ Đằng Không...
Thế là, sau một tiếng xoảng, ngọn đao của Lữ Đằng Không đã chạm thẳng vào chiếc móc sắt của đối phương, khiến cái lưỡi bén của cái móc sắt, vốn đang quay về Lữ Đằng Không, đã bị áp lực của thế đao đè mạnh, nên bất thần đã quay ngược trở lại bóng người ấy.
Đồng thời, vì ngọn kình phong cuốn tới quá mạnh mẽ, nên lưỡi nhọn ấy bị hất bạt và cắm phập vào ngay đỉnh đầu của bóng đen nọ. Do đó, đối phương liền bị chết tốt dưới ngọn móc sắt trong tay của hắn ta.
Lữ Đằng Không chẳng ngờ đối phương lại quá tầm thường, không thể đỡ nổi một đường đao của mình như vậy. Do đó, lão ta không thể hối tiếc là mình đã sử dụng chân lực quá nhiều.
Nhưng Lữ Đằng Không nào biết trong cả võ lâm ngày nay, người am hiểu võ công tuy nhiều, nhưng số người có thể đỡ nổi đường đao ấy của lão ta, có lẽ chẳng vượt hơn ba mươi người.
Bởi thế, đối phương không phải là một cao thủ tuyệt đỉnh có võ công đứng hàng đầu trong giới giang hồ, thì bị chết thảm thiết như vậy là lẽ tất nhiên. Liền đó, Lữ Đằng Không nhanh nhẹn thò tay chụp xác chết, xách bổng lên xem kỹ lưỡng, thấy khuôn mặt của hắn ta đang nhuộm đỏ máu tươi, nên không làm sao nhận ra được đấy là ai nữa. Tuy nhiên, Lữ Đằng Không biết đấy cũng là một trong những nhân vật đang dòm ngó đến chiếc hộp gỗ mà mình đang lãnh áp tải.
Sau đó, Lữ Đằng Không bèn vung tay ném thẳng xác chết ấy ra, và bỗng lão ta trông thấy có một vật chi từ trong người xác chết đó rơi trở xuống mặt đất.
Bởi thế, Lữ Đằng Không bèn hối hả tràn tới một bước, rồi lấy mũi đao hất mạnh vật ấy lên, chụp gọn vào lòng bàn tay xem kỹ qua, nên sắc mặt không khỏi lộ vẻ kinh ngạc...
Thì ra đấy chính là một cái thẻ bạc, to độ bằng bàn tay, bên trên có khắc năm chữ: "Địa Hương Đường Chủ: Huỳnh". Và bề trái của tấm thẻ bạc ấy, lại có chạm một bó đuốc đang cháy đỏ rực.
Lữ Đằng Không xem qua tấm thẻ bạc ấy, lẽ tất nhiên đã hiểu đấy chính là tấm lệnh bài của mười hai Đường chủ trong phái Hoa Sơn. Như vậy, kẻ vừa bị lão ta chém chết ấy, chính là Địa Hương Đường chủ của phái này rồi.
Nếu thế, chả lẽ phái Hoa Sơn đã cho người theo dõi mình rồi chăng? Lữ Đằng Không vung tay ném bổng chiếc thẻ bạc ấy lên không, rồi lại vung đao chặt thẳng vào nó, và sau một tiếng kẻng, tấm thẻ bạc ấy đã bị hất bắn đi tít mù.
Sau đó, Lữ Đằng Không bèn nhanh nhẹn phi thân bay bổng lên, tiếp tục lướt thẳng về phía trước mặt, và chẳng mấy chốc lão ta đã gặp một con suối đang chảy róc rách giữa cánh rừng rậm rạp.
Nhưng Lữ Đằng Không chẳng hề trông thấy bóng dáng của Tây Môn Nhất Nương đâu cả, và cũng không thể đoán biết được bà ta đã bỏ đi về hướng nào.
Trong lòng của Lữ Đằng Không không ngớt nghĩ ngợi, là Địa Hương Đường chủ của phái Hoa Sơn đã xuất hiện tại nơi này, chả lẽ người che mặt vừa rồi lại chính là Liệt Hỏa Tổ Sư, tức vị Chưởng môn của phái Hoa Sơn đấy chăng? Nhưng khi lão ta nhớ lại hình dáng của bóng người ấy, lại thấy hoàn toàn không giống nhau với Liệt Hỏa Tổ Sư của phái Hoa Sơn. Vì vị Chưởng môn phái Hoa Sơn chính là người Tây Vực, tóc đỏ như lửa, thân hình vạm vỡ to lớn, mỗi khi ra đi, dấp dáng rất uy nghi, tuyệt đối chẳng khi nào lại đi đứng một mình như vậy.
Nếu thế, Tây Môn Nhất Nương đã truy đuổi theo một nhân vật hoàn toàn không hiểu lai lịch, và chính vì vậy, cũng chắc chắn sẽ là một kẻ thù khó đối phó nhất. Do đó, Lữ Đằng Không lo ngại cho người vợ già của mình sẽ bị thiệt thòi vì cô thế chăng? Giữa lúc lão ta đang định tiếp tục phi thân lướt thẳng về phía trước để tìm Tây Môn Nhất Nương, bỗng nghe về phía bên kia bờ suối, có một người buột miệng kêu kinh ngạc rằng:
- Ồ! Và Lữ Đằng Không đã nhận ra được, đấy rõ ràng là tiếng của Tây Môn Nhất Nương, nên hối hả gọi:
- Nhất Nương, bà ở đó phải không? Bên kia bờ suối liền thấy có một bóng người di động chập chờn, và chỉ trong thoáng chốc, là Tây Môn Nhất Nương đã xuất hiện. Bà ta lên tiếng nói:
- Ông hãy mau qua đây, xem cái chi đây này! Lữ Đằng Không trông thấy vợ mình được bình an vô sự, nên cũng tạm yên lòng. Lão ta khẽ nhún đôi chân vượt qua dòng suối, rồi buông mình đáp nhẹ xuống bên cạnh Tây Môn Nhất Nương, đưa mắt nhìn về hướng tay chỉ của bà ta, trông thấy trên một nhành tùng cổ thụ cao vút ở cạnh đấy, có một thanh đao sáng lập lòe ánh thép cắm cứng trên ấy. Do đó, Lữ Đằng Không buột miệng kêu thất thanh rằng:
- Ồ! Đấy chính là thanh đao bằng thép Miến Điện của Lân nhi.
Tiếp đó, lão ta lại bất giác kêu to rằng:
- Lân nhi! Lân nhi! Con ở đâu? Con ở đâu? Tây Môn Nhất Nương hừ một tiếng nói:
- Chắc chắn là chỉ có thanh đao ở đấy thôi, chớ nào có Lân nhi đâu đấy mà kêu? Lữ Đằng Không hết sức thất vọng, nói:
- Phải rồi! Lân nhi nào còn sống trên dương trần này nữa! Hai người ngó mặt nhau im lặng một lúc lâu, không ai nói chi thêm nữa. Đã suốt mấy ngày qua, đây là lần thứ nhất hai vợ chồng Lữ Đằng Không lại nhắc chuyện đau lòng nhất trong đời họ.
Sự im lặng kéo dài thêm một lúc khá lâu, thì Tây Môn Nhất Nương mới cất giọng buồn bã nói:
- Bắp chân của ông làm sao thế? Lữ Đằng Không biết sở dĩ vợ mình hỏi thế, chính là có ý muốn đánh trống lảng, để mình không còn nhớ đến việc Lân nhi nữa. Vì đấy chính là một việc đau lòng nhất trong đời họ, chắc không còn việc chi đau lòng hơn nữa. Và dù cho họ là người võ công cao cường tuyệt đỉnh, nhưng đứng trên tình cảm họ vẫn biết đau xót như tất cả những bậc làm cha mẹ đã bị mất con.
Do đó, có lẽ Tây Môn Nhất Nương tự biết, nếu cứ gợi lại chuyện đau đớn ấy mãi, chắc chắn cả hai không làm sao chịu đựng nổi trước sự giày vò về tinh thần, và chắc chắn sẽ đưa đến tình trạng vì quá đau buồn mà bị nội thương chăng.
Lữ Đằng Không hiểu thế, nên cũng vội vàng quay sang chuyện khác, nói:
- Vừa rồi, có một gã đàn ông mai phục bên dưới cánh rừng, và đã dùng một cái móc thép bén quét vào đôi chân tôi, chỉ bị thương nhẹ, chẳng hại chi cả.
Tây Môn Nhất Nương nói:
- Nếu thế, thì có lẽ kẻ ném ám khí vừa rồi cũng là người ấy chứ gì? Nhưng món ám khí của hắn ta sử dụng, rất giống loại ám khí riêng biệt của phái Hoa Sơn, có tên gọi là Ngân Hoàng Phi Tiêu.
Lữ Đằng Không nói:
- Đúng thế! Gã đàn ông ấy chính là người trong phái Hoa Sơn, và đã bị chết dưới thanh Tử Kim Đao của tôi rồi. Hắn ta là Đường chủ Địa Hương của phái ấy.
Tây Môn Nhất Nương gật đầu nói:
- Nếu thế thì hắn là Huỳnh Hán, Đường chủ Địa Hương rồi. Hắn ta từ trước đến nay vẫn sử dụng binh khí có hình dáng như một cái móc thép. Xem ra, số nhân vật của phái Hoa Sơn cũng đang theo dõi chúng ta đấy!
-oOo-
Chương 5
Ngao Cò Trì Kéo Giằng Co
Tiêu Đầu Rảnh Trí Lại Lo Đăng Trình
Đả tự: PhiUng
Nguồn: nhanmonquan.com
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương thật ra đều có ý muốn vượt lên ngọn cây cao, để lấy thanh đao bé nhỏ bằng thép Miến Điện ấy xuống.
Nhưng vì cả hai đều sợ thấy vật lại nhớ người, khiến họ đau đớn trước cái chết thảm khốc của Lân nhi hơn, nên không ai đủ can đảm làm việc đó. Chính vì vậy, cả hai chỉ bàn bạc với nhau về những chuyện không dính dấp chi đến Lân nhi cả.
Sau đó, bỗng Tây Môn Nhất Nương cất tiếng cười khanh khách, nói:
- Xem ra, số nhân vật đang bám sát để theo dõi hành tung của chúng ta, gồm có cả hai phái chính tà, vậy chi bằng chúng ta chẳng nên đem chiếc hộp gỗ này đến Tô Châu phủ nữa, mà trái lại, dừng yên tại nơi đây để chờ họ, rồi đặt điều kiện cho họ cùng so tài với nhau, ai thắng thì được, ai bại thì lui. Như vậy, sẽ có một cuộc tranh giành vui mắt vô cùng, và ngay đến Phi Yến Môn và Thái Cực Môn, là hai môn phái từ bấy lâu nay có mối tương quan với nhau rất sâu sắc, cũng sẽ phải ra tay tương tàn vì chiếc hộp gỗ này! Lữ Đằng Không im lặng một lúc khá lâu, mới lên tiếng nói:
- Phu nhân... Chúng ta... vượt lên ngọn cổ thụ kia, để lấy thanh đao thép Miến Điện ấy xuống, được không? Tây Môn Nhất Nương cố giữ giọng bình tĩnh, đáp:
- Ông hãy đi lấy đi! Tuy lúc bấy giờ, trong lòng của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đang vô cùng xót xa buồn bã, nhưng giữa vợ chồng họ, đã chung sống suốt mấy mươi năm dài, tình cảm đậm đà khắng khít, nên người này sợ người kia đau lòng trước việc mất con, do đó, bề ngoài cả hai đều cố giữ trầm tĩnh, để đối phương không vì thế mà càng đau lòng hơn.
Lữ Đằng Không nghe thế, bèn phi thân vọt thẳng lên ngọn tòng cổ thụ, trông thấy ngọn đao thép Miến Điện được cắm cứng trên cây, tại mũi đao còn có mang cả một tấm giấy nhỏ nữa...
Bởi thế, Lữ Đằng Không hết sức kinh dị, vội vàng thò tay giật mạnh thanh đao ra, rồi lại nhanh nhẹn đưa hai ngón tay kẹp lấy mảnh giấy, nhảy trở xuống đất, nói:
- Phu nhân, trên đầu lưỡi đao lại có cả một tấm giấy nữa đây! Tây Môn Nhất Nương bước nhanh tới, đưa mắt nhìn, thì trông thấy trên tấm giấy ấy có mấy mươi cái vòng tròn bằng mực đen, chứ tuyệt nhiên không có một chữ nào cả.
Nhưng số vòng ấy, to nhỏ đều suýt soát nhau, ngay hàng thẳng lối, chứng tỏ trên tấm giấy này trước đây đã có viết hai hàng chữ, và sau đó lại bị kẻ khác dùng mực để xóa đi thành những cái vòng tròn đen như vậy.
Lữ Đằng Không lật ngược trở ra sau, thấy mảnh giấy ấy hoàn toàn trắng bạch, không có một chữ nào khác cả.
Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều không khỏi sửng sờ, ngơ ngác.
Vì bao nhiêu chuyện quái dị khó hiểu xảy ra liên tiếp suốt mấy hôm nay, và tấm giấy lạ lùng này, đối với họ quả là một câu đố nan giải.
Lữ Đằng Không lật qua lật lại lưỡi đao thép Miến Điện, xem xét kỹ một lúc sau, rồi đứng trơ người ra như một pho tượng đá. Và trước mắt lão ta từ từ hiện rõ hình ảnh lanh lợi khả ái của Lữ Lân, đang cùng tập dượt võ công với lão ta tại luyện võ sảnh. Do đó, đôi khóe mắt của lão ta bất giác đã ngấn ra hai hạt lệ nóng, rồi chẳng mấy chốc sau, đôi dòng lệ già nua ấy lại tuôn trào ràn rụa lên đôi má nhăn nheo! Giữa lúc Lữ Đằng Không đang cảm thấy lòng đau như xé, thì bỗng nghe có giọng nói dịu dàng của người vợ già vọng đến bên tai rằng:
- Này ông, chúng ta nên mau lên đường thôi! Lữ Đằng Không gắng gượng ừ một tiếng, rồi ngửa mặt nhìn lên. Lão ta sau khi đưa tay chùi nước mắt, thì thấy Tây Môn Nhất Nương đang xếp kỹ tấm giấy bỏ gọn vào áo, nên cũng hối hả giắt thanh đao thép Miến Điện bé nhỏ của Lữ Lân vào lưng.
Tây Môn Nhất Nương nhìn qua Lữ Đằng Không một lượt, mỉm cười nói:
- Y phục của ông hiện giờ đã thành những mảnh vải rách cả, vậy hãy đến thị trấn trước mặt, để mua một bộ y phục mới.
Lữ Đằng Không cũng gượng cười, nói:
- Phu nhân, vừa rồi bà có đuổi theo kịp người ấy không? Tây Môn Nhất Nương đáp:
- Không đuổi kịp.
Lữ Đằng Không lại hỏi:
- Tại sao phu nhân quyết tâm truy đuổi theo hắn ta? Tây Môn Nhất Nương đáp:
- Chả lẽ vừa rồi ông không nghe lời nói của hắn ta sao? Hắn ta bảo rõ ràng, là sẽ dùng một người để đánh đổi chiếc hộp gỗ bằng gấm của ta đang áp tải kia? Lữ Đằng Không nói:
- Phải đấy, nhưng việc đó thì có quan hệ chi? Tây Môn Nhất Nương nói:
- Hắn ta đã biết chắc chắn là chúng ta không làm sao bằng lòng đưa chiếc hộp gỗ ấy ra, nhưng lại nêu điều kiện là sẽ đánh đổi bằng một người, thì đủ hiểu người ấy đối với chúng ta vô cùng quan trọng. Vì nếu chẳng thế, hắn ta đâu lại nêu ra điều kiện đó? Lữ Đằng Không lấy làm lạ, nói:
- Những người trưởng thượng của ta hiện giờ đâu còn ai nữa, tất cả đều đã qua đời, còn con cháu thì...
Mới nói đến đây, lão ta bỗng im bặt, không làm sao nói được hết lời.
Tây Môn Nhất Nương nói:
- Phải đấy, chính vì lẽ ấy nên tôi mới truy đuổi theo để hỏi rõ lại hắn. Nhưng vì thân pháp của người ấy quá nhanh nhẹn, đến mức không ai có thể tưởng tượng nổi, nên không làm sao đuổi theo kịp hắn ta. Và khi mới vừa đến nơi này, bỗng tôi lại phát giác được thanh đao bé nhỏ bằng thép Miến Điện ấy.
Lời nói của Tây Môn Nhất Nương tuy quanh co kín đáo, nhưng Lữ Đằng Không cũng đã nhận ra được ngụ ý bà ta muốn nói gì. Do đó, Lữ Đằng Không đã hiểu được một người mà đối phương muốn mang ra đánh đổi chiếc hộp gỗ của họ, chắc chắn không ai khác hơn là Lữ Lân.
Tuy nhiên, lão ta cũng chẳng nói thẳng ra điều đó, sợ người vợ già của mình lại đau lòng. Vì xác chết không đầu của Lữ Lân đã xuất hiện tại gian phòng đá bí mật của lão ta ở thành Nam Xương, vậy người ấy làm sao lại dùng Lữ Lân để đánh đổi chiếc hộp gỗ mà lão ta đang áp tải đây được? Bởi thế, lão ta chỉ còn cách dùng lời dịu dàng để an ủi vợ rằng:
- Phu nhân, người ấy đã dòm ngó đến chiếc hộp gỗ của chúng ta, thì tôi tin chắc rằng trên đường từ đây đi đến Tô Châu phủ, hắn ta sẽ lại tìm gặp chúng ta một lần thứ hai.
Tây Môn Nhất Nương nói:
- Đúng thế, người ấy khinh công cao cường tuyệt đỉnh, hiếm thấy trong đời. Thuật khinh công của hắn ta, ngay đến thuật khinh công Quỷ Hành Không của Quỷ Thánh Thạnh Linh cũng không làm sao sánh kịp. Nhưng chẳng rõ vì lý do nào, hắn ta lại che kín cả khuôn mặt, nên không sao biết được hắn ta là ai? Lữ Đằng Không nói:
- Việc đó thực là quái dị, ngay đến tôi cũng không làm sao phán đoán được hắn ta là ai cả.
Hai người bàn bạc với nhau một lúc, thì bầu trời cũng đã bắt đầu bình minh. Do đó, cả hai không buồn trở lại để tìm hai con ngựa, mà tiếp tục nhắm hướng trước mặt phi thân lướt thẳng tới.
Suốt ngày hôm ấy, hai người chẳng hề gặp chuyện chi rắc rối xảy ra. Đêm đến, họ cùng vào khách điếm tại Quảng Đức trấn để ngủ trọ, và suốt đêm cũng chẳng có chuyện chi rắc rối. Đến sáng ngày hôm sau, họ lại tiếp tục lên đường. Vào hoàng hôn hôm ấy, họ đã đi tới biên cảnh Triết Giang. Thế là, chỉ còn một ngày đường nữa là họ sẽ đến Tô Châu phủ.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đã bàn bạc kỹ với nhau, về kế hoạch trao chiếc hộp gỗ đến cho Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn tại Tô Châu phủ từ trước rồi.
Họ đã có ý định, là nếu có thể tìm hiểu được mọi bí mật về chiếc hộp gỗ ấy nơi Kim Tiên Chấn Càn Khôn Hàn Tốn thì tốt, bằng không, họ cũng chẳng cần để tâm tới làm gì. Trái lại, họ sẽ cải trang giả dạng, không cho người chung quanh được biết chân diện mục của mình, rồi cả hai cùng âm thầm chia tay ra đi, một người đến núi Điểm Thương để mời vị Chưởng môn của phái này là Lăng Tiêu Yến, cùng với vị cầm đầu các cao thủ trong môn phái là Thần Thủ Kiếm Khách Khuất Lục Kỳ. Một người khác thì gấp rút trở về phái Nga My để mời các cao thủ tại gia của phái này.
Sau đó, họ sẽ cùng đến tập họp dưới chân núi Võ Di trong vòng một tháng tới đây, rồi cùng kéo lên núi để mở một trận huyết chiến với Lục Chỉ Tiên Sinh và số người của Thiết Đạc Thượng Nhân.
Ngày hôm ấy, vì họ muốn sớm đến Tô Châu, nên đã chọn đường tắt trong núi rừng để đi cho được nhanh hơn. Vùng ấy chính là miền bắc Triết Giang, núi non chập trùng khắp nơi nơi. Khi vào giữa trưa, họ đã vượt qua ngọn Bách Trượng Phong, và đến hoàng hôn thì đã tới Đông Thiên Mục.
Như vậy, chỉ cần họ đến được Tây Thiên Mục, thì đường đi sẽ trở nên bằng phẳng, vì nơi ấy đã rất gần Thái Hồ. Khi đến Thái Hồ, họ chỉ còn có nửa ngày đường nữa là đến được Tô Châu phủ.
Khi hai người đến vùng Đông Thiên Mục, và đi tới mới được non một dặm đường, bỗng trông thấy bên cạnh một dòng suối trong, có một gã đàn ông to béo đang nằm ngủ ngon lành. Gã đàn ông ấy nằm gối đầu lên một gánh đá nặng nề, nhưng xem có vẻ bình thản như nằm trên giường êm ấm.
Khi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương thấy rõ đối phương chính là Phán Tiên Từ Lưu Bản, thì không khỏi giật mình. Cùng một lúc ấy, Từ Lưu Bản cũng đã đứng phắt dậy, cất tiếng cười ha hả, nói:
- Quả hai ông bà đã đi theo con đường này, đúng như mọi sự phán đoán của tôi.
Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng, nói:
- Tôi đi theo con đường này thì có sao không? Từ Lưu Bản cất tiếng cười vui vẻ, nói:
- Này Tây Môn Nhất Nương, song kiếm của bà khắp trong võ lâm ai ai cũng biết tiếng, do đó, Từ mỗ vốn không có ý muốn lãnh giáo làm gì. Nhưng nếu bà quyết lòng chỉ dạy, tất Từ mỗ phải cung nghênh vậy! Tây Môn Nhất Nương biết Từ Lưu Bản không phải là một nhân vật dễ trêu chọc, nên nhất thời cũng kiêng dè không dám gây sự với hắn ta, mà chỉ cười nhạt nói:
- Từ trước đến nay, Thái Cực Môn được ai nấy xem là một danh môn chính phái, thế chẳng ngờ Chưởng môn nhân ngày hôm nay lại làm những chuyện hèn hạ như thế này.
Từ Lưu Bản nói:
- Tôi có làm việc chi gọi là hèn hạ đâu? Có lẽ tôi ở đây đón đường nhị vị, thì chắc chắn sẽ có lợi cho nhị vị hơn. Vì nếu nhị vị tiếp tục đi về phía trước, thì gặp ông bạn ở Tây Thiên Mục ấy, còn sẽ rắc rối nhiều.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều biết đối phương bảo "ông bạn ở Tây Thiên Mục" ấy là ai rồi, nên trong lòng không khỏi hết sức băn khoăn, lo lắng.
Lữ Đằng Không nói:
- Ngay đến ông ấy cũng có ý muốn can dự vào chuyện riêng của chúng tôi nữa hay sao? Từ Lưu Bản gật đầu, định lên tiếng trả lời, thì bất thần nghe từ hướng tây có một giọng gào to rất quái dị vọng đến bên tai. Do đó, sắc mặt của Từ Lưu Bản không khỏi biến hẳn, nói:
- Hãy mau nhảy qua bên kia bờ suối.
Nói dứt lời, lão ta điểm nhẹ đôi chân, phi thân bay thẳng qua bờ suối bên kia.
Trong khi Từ Lưu Bản nhảy ngang qua dòng suối thì trong tay vẫn mang theo gánh đá nặng nề. Khi ông ta đáp yên đôi chân xuống đất, liền quay mặt nhìn lại, trông thấy Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vẫn đứng yên một nơi không nhúc nhích, thì trên lớp da thịt béo trắng của ông ta toát ướt mồ hôi lạnh, nói:
- Tại sao nhị vị chưa chịu sang bên này? Lữ Đằng Không nghe tiếng gào quái dị ấy, cười không ra cười, khóc không ra khóc, khiến ai nghe cũng phải bắt nổi da gà, tựa hồ chẳng phải là tiếng của con người, mà dường như là tiếng của một loài nhạc khí chi tấu nên, quái dị không thể tả, trong lòng đã biết chuyện chi đang xảy ra rồi.
Do đó, Lữ Đằng Không bèn cất tiếng cười nhạt, nói:
- Sang bên kia bờ suối thì gặp cướp, ở bên này bờ suối thì gặp côn đồ, vậy thử hỏi chúng tôi sang bên ấy để làm gì? Từ Lưu Bản cuống quýt, nói:
- Lữ Tổng tiêu đầu, dầu sao với tôi nhị vị vẫn được nhiều điều dễ dàng hơn. Hơn nữa, tôi nào phải là trộm cướp đâu? Người bạn ấy một khi đến nơi, thì thử hỏi còn có lý do chi để biện bác với hắn ta được nữa? Giữa lúc đôi bên còn đang nói chuyện với nhau, thì tiếng gào quái dị ấy cứ mỗi lúc nghe lại càng quái dị hơn! Tây Môn Nhất Nương như có một ý nghĩ chi trong lòng, lên tiếng nói:
- Thôi, cũng được! Chúng ta hãy cùng nhảy sang bên kia bờ suối vậy.
Nói đoạn, Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không liền cùng phi thân bay vọt sang bên kia bờ suối. Do đó, Từ Lưu Bản cảm thấy trong lòng như được nhẹ nhõm đi.
Sau khi Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không vượt sang đến bờ suối phía đông, và quay mặt nhìn trở lại bờ suối phía tây, thì đã thấy có một người đang đứng sững. Người ấy có thân hình thực to, mình mặc một chiếc áo dài xanh, tà áo không ngớt tung bay theo chiều gió, có vẻ nhàn tản phong lưu vô cùng.
Nhưng trên vạt áo phía trái của người ấy, có thêu một chiếc đầu lâu bằng kim tuyến, không ngớt chiếu lập lòe ánh sáng mặt trời, nên ai nhìn vào, đều có cảm giác hắn ta là một nhân vật hung ác và gian manh.
Xem về tuổi tác, người ấy chỉ trên dưới bốn mươi, diện mạo đoan trang, duy có hai tia mắt là tràn đầy vẻ dâm tà, hung ác. Khi hắn ta đưa chân bước đến sát bờ suối, liền lấy bộ như định phi thân nhảy ngang qua.
Bởi thế, Phán Tiên Từ Lưu Bản bèn lên tiếng nói:
- Bằng hữu, chúng ta đã định rõ ranh giới, và đã giao kết là giữa Đông Thiên Mục và Tây Thiên Mục không hề xâm phạm lẫn nhau, vậy chả lẽ bằng hữu lại nuốt lời hứa ấy rồi hay sao? Người đàn ông đó cất tiếng cười hô hố, nói:
- Gã béo họ Từ kia, trong một trường hợp bất đắc dĩ người ta quên đi lời hứa một lần, chắc cũng chẳng có chi là quan trọng.
Từ Lưu Bản biến hẳn sắc mặt, xách bổng gánh đá nặng nề lên, nói:
- Trước đây, chúng ta đã vỗ tay để thề, là đôi bên không được vượt qua ranh giới của nhau để gây sự, nếu giờ đây bằng hữu nuốt lời hứa ấy, thì chả lẽ tôi lại sợ bằng hữu hay sao? Người đàn ông đó lại cất tiếng cười hô hố, nói:
- Phải rồi, tôi dù có vượt ranh giới, nhưng không gây sự là được, chả lẽ dòng suối này tôi không được phép bước sang hay sao? Từ Lưu Bản đưa mắt nhìn về phía Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương một lượt, rồi bỗng nhảy lui ra sau độ một trượng, nói:
- Nhị vị này đã là khách quý của Đông Thiên Mục tôi, vậy nếu ông bạn có ý định gì về họ, thì xin mau nói thẳng ra là hơn.
Người ấy buột miệng úy lên một tiếng. Nhưng cùng một lúc đó, thân người hắn ta cũng đã bay vọt lên, rồi điểm nhẹ đôi chân lên mặt nước, tiếp tục lướt thẳng sang bên này bờ suối, nhẹ nhàng như một con chim én, khiến ai nấy đều không kịp trông thấy rõ đối phương hành động như thế nào. Sau khi bước đến nơi, người ấy bèn lên tiếng nói tiếp:
- Gã béo họ Từ kia, tại sao ông lại biết được ý muốn của tôi thế? Qua giọng nói của hắn ta, chứng tỏ hắn ta thật sự muốn xuống tay đối với Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương thấy vậy đều cùng mỉm một nụ cười lạnh lùng, đưa chân tránh sang một bên.
Từ Lưu Bản trông thấy thế, sắc mặt có vẻ vô cùng căng thẳng. Ông ta chờ cho người ấy đứng yên đôi chân, bèn lên tiếng hừ một lượt, nói:
- Ông bạn thật sự muốn ra tay đánh nhau với họ hay sao? Người ấy quay về Từ Lưu Bản mỉm cười một lượt, rồi lại nhìn sang Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, cúi đầu thi lễ, nói:
- Từ bấy lâu nay, tại hạ nghe tên tuổi của Lữ tiêu đầu nổi vang như sấm, nhưng mãi đến ngày hôm nay mới được gặp mặt nhau, quả là quá muộn! Lữ Đằng Không biết hắn ta là một nhân vật tâm địa vô cùng sâu hiểm, không có việc chi mà lại không dám làm. Ngay đến Phán Tiên Từ Lưu Bản, là Chưởng môn của Thái Cực Môn, thế mà thấy đối phương xâm nhập vào vùng Đông Thiên Mục, tức một nơi hiểm yếu của Thái Cực Môn vẫn tỏ ra kiêng dè. Như vậy, dù cho vợ chồng của ông ta không phải sợ hãi chi trước hắn, nhưng nếu gây sự ra thì chắc chắn khó bề tiếp tục hành trình. Do đó, khi ông ta thấy đối phương đã có thái độ khách sáo với mình, vậy tại sao mình không tỏ ra khách sáo với đối phương. Bởi thế, Lữ Đằng Không bèn đáp lễ, nói:
- Chả dám! Chả dám! Các hạ là người tên tuổi vang lừng, mới đúng là một bậc vô song trong thiên hạ! Sắc mặt người ấy khẽ biến đổi, hạ giọng nói:
- Chả lẽ Lữ Tổng tiêu đầu lại biết rõ tánh danh của tôi hay sao? Lữ Đằng Không nói:
- Tánh danh của các hạ, lẽ cố nhiên tại hạ hoàn toàn không được biết, nhưng trong võ lâm khi nhắc đến ba tiếng Kim Cô Lâu, thì có ai không biết? Người ấy cất tiếng cười hô hố, nói:
- Té ra là thế, nếu giữa chúng mình đã là người đồng thanh tương ứng, thì hôm nay tại hạ có một điều yêu cầu bất đắc dĩ, vậy chẳng hay các hạ có nỡ chối từ không? Lữ Đằng Không chưa kịp đáp lời, thì Tây Môn Nhất Nương đã gằn giọng nói:
- Kim Cô Lâu! Ông đã biết đấy là một điều yêu cầu bất đắc dĩ, tức một việc mà người ta không vui lòng lắm, vậy thử hỏi còn bắt buộc người ta phải trả lời làm gì? Kim Cô Lâu cất tiếng cười nhạt, nói:
- Chả lẽ ngay đến việc trình bày ý kiến của mình, Lữ phu nhân cũng không cho phép nữa hay sao? Tây Môn Nhất Nương và Lữ Đằng Không nhất loạt thối lui ra sau hai bước, nói:
- Nếu thế, các hạ hãy nói ra nghe thử coi nào? Kim Cô Lâu nói:
- Nghe lời đồn đãi của mọi người, hiện nay Lữ Tổng tiêu đầu rời khỏi thành Nam Xương ra đi, chính là để áp tải một món vật vô cùng quan trọng đến Tô Châu. Và món vật ấy có tương quan rất lớn tới tại hạ, do đó, tại hạ muốn hỏi nơi nhị vị đôi điều, chẳng rõ nhị vị có vui lòng giải đáp hay không? Tây Môn Nhất Nương lúc nào cũng tỏ ra tế nhị hơn Lữ Đằng Không, nên vừa nghe qua lời nói ấy, đã thầm nghĩ: "Người này không tên không tuổi, mà nhân vật giang hồ chỉ dựa vào chiếc đầu lâu màu vàng thêu trên vạt áo phía trái của hắn ta, gọi hắn là Kim Cô Lâu mà thôi. Đại phàm những cao thủ trong võ lâm, ai nấy cũng đều được biết lai lịch và sư môn của họ cả. Chỉ riêng có gã Kim Cô Lâu này, thân thế thực hoàn toàn bí mật. Đấy là một chuyện lạ.
Năm năm về trước, trong võ lâm chẳng hề có ai được biết về người này, nhưng chỉ mới vào mùa thu trước đây ít lâu, hắn ta đã ra tay đánh trọng thương Hoắc Thị Thất Hổ, là những nhân vật tên tuổi lẫy lừng trong phe hắc đạo tại quan lộ Cam Lương. Và sau đó ba hôm, hắn ta lại đánh trọng thương Ngân Thương Trần Tổ Trạch ở Lan Châu nữa. Chính vì thế, Trần Tổ Trạch đã bị gãy cả hai giò, đành phải lui ra khỏi võ lâm không còn hoạt động được nữa.
Chỉ trong vòng có hai hôm, mà hắn ta đã đánh bại tám cao thủ trong hai phe chính tà, nên hắn ta càng trở thành là một nhân vật thần bí khó hiểu hơn.
Tiếp đó, hắn ta lại tiếp tục đi theo quan lộ Cam Lương, thẳng tiến về phía nam. Dọc đường hễ gặp nhân vật võ lâm nào, là hắn ra tay đối địch đánh nhau, và nhất nhất đều bị hắn ta đánh bại tất cả. Do đó, chỉ trong vòng nửa năm, là tên tuổi của hắn đã vang dội khắp nơi nơi.
Nhưng sau khi đến Tây Thiên Mục, thì chỉ còn nghe hắn đã gây sự tranh chấp với Thái Cực Môn mấy lần, rồi sau đó vắng bặt chẳng còn tin tức chi nữa.
Trong lòng của Tây Môn Nhất Nương vốn đang băn khoăn nghi ngờ về chiếc hộp gỗ mà hai vợ chồng bà ta lãnh áp tải, và mãi cho đến bây giờ, bà ta vẫn chẳng được biết trong chiếc hộp gỗ ấy đựng thứ chi.
Do đó, khi nghe nhân vật thần bí kia bảo món bảo vật ấy có liên quan với hắn, trong lòng bà ta không khỏi có ý nghĩ là có lẽ đối phương đã biết đây là vật chi rồi chăng? Hoặc giả đối phương đã biết lai lịch của gã đàn ông mang món hàng ấy đến và tự xưng là Tề Phúc nọ? Bởi thế, Tây Môn Nhất Nương bèn cười tự nhiên, nói:
- Đáng lý các hạ hỏi, chúng tôi phải thành thật giãi bày. Nhưng vì việc này ngay đến chúng tôi cũng mù mờ, không biết mình đang lãnh áp tải vật ấy là vật chi cả! Kim Cô Lâu cũng cất tiếng cười, nói:
- Lữ phu nhân, việc ấy là một việc dễ dàng nhất trên đời này, vì chỉ cần mở nó ra xem, thì chẳng phải tự nhiên hiểu rõ hay sao? Sắc mặt Tây Môn Nhất Nương không khỏi biến sắc, nói:
- Lời nói ấy của các hạ không khỏi quá đáng hay sao? Vì chúng tôi đã hứa với người chủ là áp tải vật ấy đến Tô Châu, vậy đâu có lý nào dọc đường lại tự tiện mở ra xem như vậy? Kim Cô Lâu bỗng cất tiếng than dài một lượt, nói:
- Nếu nhị vị quá cố chấp như thế, tại hạ đành phải đắc tội rồi! Vừa nói, hắn ta vừa khẽ nhún đôi chân, khiến chiếc đầu lâu thêu trên áo cũng theo đó khẽ rung động. Vì vậy, diện mạo vốn rất đoan trang của hắn ta, đã vì chiếc đầu lâu màu vàng chớp lập lòe ấy, làm cho hóa thành một con người sâu hiểm và gian manh không tả xiết! Lữ Đằng Không cười lạnh lùng, nói:
- Trong chiếc hộp gỗ ấy, tôi không rõ có đựng một vật quý báu chi mà tất cả quần hùng trong võ lâm đều dòm ngó. Nhưng nếu các hạ giờ đây muốn ra tay chỉ giáo, thì xin các hạ cứ việc đánh trước đi nào? Nói đoạn, Lữ Đằng Không bèn đưa chân bước ngang, rồi rùn thấp thủ bộ theo thế tọa mã, đôi hàm râu bạc không ngớt bay phất phơ, đôi chân vững vàng như một quả núi, trông uy nghi đáng sợ.
Kim Cô Lâu buột miệng than rằng:
- Ai nấy đều đồn đãi Lữ Tổng tiêu đầu là một nhân vật số một trong nhóm đệ tử tại gia của phái Nga My, quả danh bất hư truyền.
Vừa nói, hắn ta vừa thong thả đưa chân bước tới trước. Nhưng hắn ta chỉ mới bước được hai bước, bất thần bên cạnh đấy lại có một luồng kình phong dấy động ào ào, vì gánh đá xanh của Từ Lưu Bản, đã được ông vung lên, chặn ngang trước mặt Kim Cô Lâu, không cho đối phương tiến bước. Do đó, mớ thịt nặng nề trên người của Từ Lưu Bản cũng không ngớt rung rinh. Ông ta quát to rằng:
- Bằng hữu, ông bạn thật sự muốn gây sự đánh nhau tại vùng đất Đông Thiên Mục này chăng? Tôi không cho phép ông bạn hành động như vậy! Kim Cô Lâu nói:
- Cũng được, nếu thế thì ta sẽ đánh đuổi ngươi trước! Câu nói vừa dứt, thì Kim Cô Lâu đã nhanh nhẹn vung tay ra, nhằm thẳng vào gánh đá của Từ Lưu Bản.
Từ Lưu Bản quát to lên một tiếng như sấm động tháng ba, trong khi đôi tay cũng đã nhanh nhẹn vung ra, đỡ mạnh gánh đá trở lên.
Trong thế đỡ ấy của Từ Lưu Bản, đã được ông ta vận dụng Thái Cực Chân Khí đến bảy phần mười sức mạnh trong người, có mục đích đối kháng lại với sức đè xuống của Kim Cô Lâu.
Nhưng bàn tay đang đè lên gánh đá ấy của Kim Cô Lâu vẫn không hề buông ra. Duy chỉ có điều là sắc mặt của hắn ta từ trắng trẻo đã trở thành đỏ hồng, và chỉ cần nhìn qua, cũng biết hắn ta đang vận dụng nội công để chống trả với Thái Cực Chân Khí của Từ Lưu Bản.
Bởi thế, mặt đá nơi hai người đang đứng, không ngớt chuyển nghe răng rắc, và chẳng mấy chốc sau, số đá vụn chung quanh bờ suối, đều bị họ giẫm nát thành bột! Lữ Đằng Không và Tây Nương Nhất Môn đều là những nhân vật rất có kinh nghiệm giang hồ, nên vừa nhìn qua là đã biết ngay hai đối phương tuy đứng cách nhau một cái gánh đá, nhưng đang bắt đầu đấu nội lực với nhau, và chắc chắn họ không thể nào phân thắng bại trong chốc lát được. Do đó, nếu hai người không bỏ chạy đi thì còn đợi chừng nào? Tây Môn Nhất Nương cất tiếng cười dài, nói:
- Xin nhị vị hãy ở lại đây thong thả so tài với nhau, còn chúng tôi không thể hầu được nữa.
Vừa nói, cả hai vừa sử dụng thân pháp bay vọt qua khỏi mặt suối rộng ngoài hai trượng, và chỉ trong nháy mắt, là đã lướt được sang đến bờ suối kia.
Khi hai người buông chân đáp yên xuống mặt đất, và đang định phi thân lướt thẳng tới trước, thì bỗng nghe Kim Cô Lâu cất tiếng gào to inh ỏi. Tiếng gào của hắn ta nghe chẳng phải là tiếng khóc, mà cũng chẳng giống tiếng cười, quái dị không thể tả. Đồng thời, lại nghe tiếp theo đó có một tiếng bốp vang lên...
Bởi thế, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều quay đầu nhìn lại, thì thấy gánh đá xanh của Từ Lưu Bản, vốn hai đầu đều có một tảng đá khổng lồ, to như một cái cối xay bột, đường kính rộng ngoài hai thước mộc, chính giữa dùng một cây sắt lớn để làm đòn gánh.
Thế mà, giờ đây chiếc đòn gánh sắt ấy đã cong, đồng thời, một tảng đá khổng lồ cũng bị vỡ ra làm năm bảy mảnh.
Tảng đá bị vỡ ấy, chính là tảng đá mà Kim Cô Lâu đã đè tay lên.
Liền đó, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bỗng lại trông thấy Kim Cô Lâu bất thần bay vọt thẳng lên khoảng không, trông chẳng khác nào một con chim én.
Qua sự diễn biến đột ngột đó, đã làm cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều kinh hoàng ngơ ngác. Vì một khi hai cao thủ đấu nội lực với nhau, nếu chưa thể phân thắng bại, thì rất khó bề dang ra xa nhau, và nếu kẻ nào thu nội lực trở về để lui trước, chắc chắn kẻ ấy sẽ bị thiệt hại nặng nề ngay.
Thế nhưng giờ đây Kim Cô Lâu chẳng hiểu đã dùng biện pháp chi, mà lại bất thần bỏ dở cuộc đấu nội lực, để phi thân bay vọt lên khoảng không một cách dễ dàng? Lúc ấy, sắc mặt của Từ Lưu Bản đang tràn đầy vẻ tức giận, quát to rằng:
- Chớ nên bỏ chạy! Kim Cô Lâu sau khi thoát ra khỏi sự giằng co với đối phương, liền nhắm phía bờ suối bên kia lướt thẳng tới, thân pháp hết sức nhanh nhẹn.
Nhưng Từ Lưu Bản đã kịp thời phi thân lướt theo, và thân pháp còn nhanh hơn cả gã Kim Cô Lâu nữa. Bởi thế, chỉ trong nháy mắt sau, ai nấy trông thấy dòng suối bắn nước lên tung tóe vì Từ Lưu Bản đã buông mình rơi xuống, đứng sững giữa con suối ấy. Đồng thời, hai tay ông ta vung mạnh gánh đá xanh lên, rồi nhằm ngay thân người của Kim Cô Lâu lúc ấy hãy còn bay lơ lửng trên không quét tới nghe một tiếng vút, đi đôi với một luồng kình lực như xô bạt được cả núi đồi.
Kim Cô Lâu cất giọng ngạo nghễ cười dài không ngớt, và giữa lúc thân hình hắn ta còn đang bay lơ lửng trên không, bất thần lại vận dụng chân lực, bay vọt thêm lên cao năm thước nữa.
Đáng lý thân hình của Kim Cô Lâu bay vọt được lên cao, thì gánh đá xanh khổng lồ của Từ Lưu Bản sẽ không làm sao đánh trúng hắn ta được. Nhưng vì thế võ ấy của Từ Lưu Bản, chính là thế Điên Đảo Càn Khôn, đồng thời lại được sử dụng toàn bộ Thái Cực Chân Khí thượng thặng trong người, dồn đầy vào gánh đá xanh ấy, nên mặc dù gánh đá xanh không thể đánh trúng được Kim Cô Lâu, song một luồng cuồng phong hết sức khủng khiếp, đã cuốn tới ầm ầm, trông thực vô cùng kinh sợ.
Bởi thế, thân người của Kim Cô Lâu đang bay lơ lửng giữa khoảng không, khó bề vận dụng chân lực để đối kháng, nên đã bị luồng cuồng phong đó đẩy lui thân người trở ra sau mấy bước.
Giữa lúc vô cùng nguy cấp, Kim Cô Lâu đã vung chưởng quét tới để đỡ thẳng vào luồng Thái Cực Chân Khí của Từ Lưu Bản, nhưng vẫn bị đẩy lui ba trượng, và rơi trở về bờ suối phía đông, không làm sao nhảy qua bên bờ phía tây được.
Mục đích của Từ Lưu Bản là muốn ngăn chặn không cho đối phương lướt khỏi bờ suối phía đông, và khi thấy hành động của mình đã đoạt được mục đích, nên cất tiếng cười to ha hả, khiến mớ thịt nặng nề trên người ông lại không ngớt rung rinh, nói:
- Bằng hữu, chớ mong chi nhảy khỏi con suối này được! Kim Cô Lâu cười, nói:
- Gã béo họ Từ kia! Ngươi hãy đứng yên giữa dòng suối ấy mà giữ, riêng ta không còn thời giờ để hầu nữa! Từ Lưu Bản nghe thế, không khỏi giật mình, nói:
- Ông bạn định đi đâu? Kim Cô Lâu cất giọng ngạo nghễ cười ha hả, đáp:
- Ở tại Song Trụ Phong, chẳng phải là nơi sẵn sàng chờ đón ta sát phạt hay sao? Song Trụ Phong chính là một địa điểm trọng yếu nhất của Thái Cực Môn, vì đệ tử ba đời của Từ Lưu Bản, gồm cả bảy tám mươi người đều tập trung ở tại Song Trụ Phong cả. Do đó, Kim Cô Lâu cho biết là sẽ xâm nhập vào Song Trụ Phong, tức là có ý bảo, hắn ta sẽ tới đấy tàn sát môn hạ của Từ Lưu Bản.
Hơn nữa, Từ Lưu Bản tự biết là trong Thái Cực Môn, chỉ có mình là đủ sức đánh cầm đồng với đối phương, còn thì tất cả môn hạ của ông ta, ngay như hai tên đệ tử kế nghiệp, võ công cao cường nhất, cũng không thể nào đối địch nổi với Kim Cô Lâu. Như vậy, nếu để hắn ta xâm nhập vào Song Trụ Phong ra tay sát phạt, thì chỉ e rằng Thái Cực Môn đành phải tan rã, không làm sao ngóc đầu lên được nữa.
Chíng vì vậy, nên trong lòng của Từ Lưu Bản hết sức cuống quýt. Tuy nhiên, ngoài mặt ông ta vẫn giữ vẽ điềm nhiên, cất giọng lạnh lùng cười khanh khách, nói:
- Nếu Song Trụ Phong là nơi để cho mọi người mặc tình ra vào, thì Thái Cực Môn đâu còn chỗ đứng trên võ lâm này nữa? Kim Cô Lâu nói:
- Nếu thế, thì gã béo họ Từ ngươi dám để mặc cho ta xâm nhập, không ngăn chặn hay chăng? Từ Lưu Bản đáp:
- Được rồi! Ông bạn cứ đi lên Song Trụ Phong, còn ta sẽ đến Tây Thiên Mục, hầu thăm viếng tôn giá một lần vậy.
Kim Cô Lâu nghe qua lời nói ấy, sắc mặt không khỏi biến hẳn, gằn giọng nói:
- Gã béo họ Từ kia! Lời nói ấy của ngươi là thực hay chơi? Từ Lưu Bản nghe thế, trong lòng không khỏi hết sức hoang mang, nghi ngờ. Vì đối với một nhân vật mà hành động cho đến lai lịch đều vô cùng thần bí như Kim Cô Lâu, thì ông ta lúc nào cũng muốn tìm hiểu những bí mật chung quanh hắn ta là kẻ đang ở sát nách mình.
Nhưng từ trước đến nay, Từ Lưu Bản vẫn không làm thế nào tìm hiểu được chi về hắn ta cả.
Kể từ lúc Kim Cô Lâu đến ở tại vùng núi này, thì hai bên đã gây sự đánh nhau mấy lần, nhưng đều bất phân thắng bại. Vì thế, nên đôi bên mới giảng hòa và lấy dòng suối nơi đây làm ranh giới, hứa hẹn sẽ bất tương xâm phạm, và suốt mấy mươi năm qua mọi việc đều được yên lành, mãi cho đến ngày hôm nay mới lại bắt đầu gây ra điều rắc rối.
Từ Lưu Bản thấy Kim Cô Lâu vừa nghe mình sẽ xâm nhập nơi cư trú của hắn ta, thì sắc mặt lộ vẻ kinh hoàng sợ hãi nên trong lòng hết sức lấy làm lạ. Do đó, ông ta cất tiếng cười nhạt, nói:
- Nếu ông bạn muốn xâm nhập Song Trụ Phong, lẽ cố nhiên tôi cũng phải đến tôn xá, gọi là bánh sáp đi bánh quy lại.
Kim Cô Lâu cất tiếng cười ngạo nghễ, rồi bất thần lao thoáng về phía Từ Lưu Bản. Thân pháp của hắn ta nhanh nhẹn đến mức không ai tưởng tượng nổi. Và khi hắn ta tràn đến sát bên cạnh bờ suối, liền vung chưởng lên nhắm quét thẳng vào giữa dòng suối, nơi có Từ Lưu Bản đang đứng.
Tức thì, nước suối bị luồng chưởng phong mãnh liệt quét bắn đi, gió mạnh cuốn tới ầm ầm, nhắm ngay thân người của Từ Lưu Bản công tới.
Kim Cô Lâu vừa đánh ra thế chưởng thứ nhất, rồi lại nhanh nhẹn bồi thêm một thế chưởng thứ hai, với mục đích khiến đối phương không trở tay kịp. Do đó, những bựng nước trắng xóa lại bắn lên nơi nơi, đồng thời, những viên đá tròn to bằng trứng ngỗng ở dưới lòng suối, cũng bị chưởng lực cuốn tung lên, bay vèo vèo, rồi bắn từ trên cao giáng ồ ạt trở xuống đầu Từ Lưu Bản! Từ lúc Kim Cô Lâu tràn người tới sát bên bờ suối, cho đến lúc hắn ta đánh dồn dập hai thế chưởng, làm cho bọt nước và đá vụn cuốn ồ ạt về phía Từ Lưu Bản, chẳng qua chỉ trong một khoảng thời gian nháy mắt mà thôi.
Nhưng Từ Lưu Bản tuyệt nhiên không hề để ý chi những mảnh đá vụn đang bắn về phía mình, dõng dạc đưa chân tràn về phía bờ suối, nơi Kim Cô Lâu đang đứng.
Lúc bấy giờ, khắp trong người của Từ Lưu Bản, đã được vận dụng Thái Cực Chân Khí che chở, nên những mảnh đá vụn chạm thẳng vào người ông ta, đều bị hất đi khắp bốn phía.
Riêng Kim Cô Lâu vốn muốn thừa cơ hội ấy, nhảy chồm qua bên kia bờ suối, nhưng đã bị Từ Lưu Bản kịp thời quát to, và vung gánh đá nặng nề quét tới chận mất lối tiến.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vừa xem đến đây, thì cũng đưa mắt nhìn nhau một lượt. Tây Môn Nhất Nương hạ giọng nói:
- Chúng ta hãy đi thôi! Lữ Đằng Không khẽ gật đầu, thế là cả hai âm thầm tiếp tục bước đi thẳng, giữa lúc Kim Cô Lâu và Từ Lưu Bản vẫn còn đánh giằng co với nhau.
Việc Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bỏ đi, cả Kim Cô Lâu và Từ Lưu Bản đều trông thấy rõ ràng, nhưng cả hai đều không làm cách nào truy đuổi theo họ được.
Vì Từ Lưu Bản nếu bỏ rơi Kim Cô Lâu lại đấy để lo truy đuổi theo vợ chồng Lữ Đằng Không, chắc chắn đối phương cũng sẽ truy đuổi theo, và do đó lại phải đánh nhau nữa. Đồng thời, Từ Lưu Bản cũng sợ đối phương có phục binh bên bờ suối phía tây. Riêng Kim Cô Lâu, thì lại càng không thể truy đuổi theo vợ chồng của Lữ Đằng Không được, vì hắn ta đang bị Từ Lưu Bản vung gánh đá nặng nề, chặn mất lối đi, không làm sao vượt khỏi được dòng suối.
Chính vì thế, nên cả hai liền giương tròn xoe đôi mắt, nhìn chòng chọc vào bóng của Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương càng chạy càng xa dần. Và chẳng mấy chốc sau thì cả hai đã lẩn khuất giữa núi rừng chập trùng.
Kim Cô Lâu không ngớt cất tiếng cười lạnh lùng, nói:
- Gã béo họ Từ kia, giữa ngươi với ta không làm sao cùng sống chung được nữa rồi! Từ Lưu Bản cũng biết, khi đã gây sự đánh nhau như vầy, tất nhiên là đôi bên đã trở thành cừu địch không đợi trời chung. Do đó, ông ta liền cất tiếng hú dài, khiến âm thanh bay lâng lâng ở giữa khoảng không, rồi truyền ra tận núi đồi xa tít. Khi tiếng hú vừa dứt, Từ Lưu Bản liền lên tiếng nói:
- Đúng thế, giữa đôi bên quả không làm sao cùng chung sống được nữa! Sắc mặt của Kim Cô Lâu trở thành âm u lạnh lùng, nói:
- Gã béo họ Từ kia, bộ ngươi tưởng ta đây thật sự sợ Thái Cực Môn của ngươi hay sao? Ta nói thật, nếu chẳng phải vì ta có lòng hiếu sinh, thì Thái Cực Môn của các ngươi đã diệt vong từ lâu rồi! Từ Lưu Bản cũng cất giọng lạnh lùng nói:
- Hiện giờ, nếu ông bạn muốn ra tay sát phạt, thì vẫn còn chưa muộn kia mà! Kim Cô Lâu cất tiếng to cười ha hả, đưa chân bước tới và đã bước thẳng xuống dòng suối.
Dòng suối ấy, sâu độ chừng hai thước mộc, nên đôi bên chỉ đứng ngập quá gối mà thôi.
Từ Lưu Bản trông thấy đối phương tràn tới, liền nhanh nhẹn vung gánh đá nặng nề lên, dùng thế Kiên Đảm Nhật Nguyệt đánh thẳng ra vun vút, gây thành hai đóa Như Ý Hoa màu xám, gió rít ào ào, nhắm ngay đôi vai phải và trái của Kim Cô Lâu giáng xuống! Kim Cô Lâu quát lên một tiếng to, trong khi cánh tay trái đã vung ra nhanh như chớp, giương thẳng năm ngón như những chiếc móc sắt, nhắm ngay gánh đá của Từ Lưu Bản chụp tới...
Gánh đá của Từ Lưu Bản vốn đang bắt từ trên cao sa xuống, nhanh chẳng thua chi gió hốt, sức mạnh như núi đồi sụp đổ, trong khi đó Kim Cô Lâu muốn dùng đơn chưởng bằng xương bằng thịt của mình để chụp lấy gánh đá quét tới mạnh có hàng ngàn cân ấy, quả là một chuyện không thể làm sao thực hiện được.
Từ Lưu Bản trông thấy đối phương thò tay chụp tới, liền vận dụng thêm Thái Cực Chân Khí, tràn nhanh đôi chân, xô thẳng gánh đá về phía trước, khiến cho dòng nước bị hất bay tung tóe, đi đôi với một luồng kình phong mãnh liệt, nhắm giáng thẳng vào người đối phương.
Nhưng bàn tay của Kim Cô Lâu bất thần hạ thấp xuống, trong khi năm ngón vẫn giương thẳng như năm chiếc móc, đổi hướng chụp về phía người Từ Lưu Bản.
Thế võ ấy, mới xem qua vô cùng thần kỳ, nhưng kỳ thực thì lại kém sáng suốt.
Vì mặc dù bàn tay của Kim Cô Lâu đã bỏ rơi không nhắm chụp thẳng vào gánh đá của Từ Lưu Bản nữa, mà trái lại diễn biến thế võ chụp thẳng vào lồng ngực của đối phương, song vẫn không làm sao tránh được hai gánh đá xanh sẽ giáng trúng mình, trước khi mình gây được thương tích cho kẻ địch. Như vậy, là mình đã thiệt hại to.
Từ Lưu Bản đang nghĩ thế, nên cất tiếng cười ha hả, đinh ninh rằng đối phương chắc chắn sẽ bị đánh bại...
Nhưng khi gánh đá của Từ Lưu Bản quét tới mặc dù đã đánh trúng vào đôi vai của gã Kim Cô Lâu nghe một tiếng phình to, song..
Với thế đánh ấy, chắc chắn có sức mạnh đến ngoài ngàn cân, nên dù gã Kim Cô Lâu không ngã ra chết tức khắc, ắt cũng sẽ bị trọng thương...! Nhưng nào ngờ đâu, gánh đá nặng nề từ trong tay của Từ Lưu Bản, sau khi đã giáng trúng thẳng vào vai của đối phương, ông ta mới kịp nhận ra, là trên người của đối phương, có một kình lực mềm dẻo, vừa mãnh liệt một cách quái dị, tự động đỡ thẳng ra, khiến gánh đá xanh bị hất bắn lên cao đến ngoài một tấc.
Trước đây, Từ Lưu Bản đã gây sự đánh nhau mấy lần với Kim Cô Lâu, nhưng đều giữ mức cầm đồng, không ai hơn ai kém. Do đó, trong lòng của gã Từ Lưu Bản mới có sự kiêng dè đối với gã Kim Cô Lâu này.
Nhưng đến ngày hôm nay, qua sức chịu đựng trước gánh đá xanh nặng nề của Kim Cô Lâu, ông ta mới biết được võ công của đối phương quả cao cường đến mức không thể tưởng tượng nổi.
Đứng trước thực trạng đó, Từ Lưu Bản đã biết nguy, nên vội vàng thu thế võ trở về.
Nhưng bàn tay phải của Kim Cô Lâu đã nhanh như chớp, quét đến trước lồng ngực của ông ta rồi.
Bởi thế, Từ Lưu Bản vội vàng thót mạnh lồng ngực vào, khiến lớp da thịt tại đấy tự nhiên biến đi ngay. Tức thì, qua một tiếng xoạt như tiếng xé lụa, vạt áo trước lồng ngực của Từ Lưu Bản, đã bị Kim Cô Lâu xé bứt đi một miếng to.
Chính vì thế, nên Từ Lưu Bản không còn dám tấn công ồ ạt nữa, trái lại đưa chân bước tránh sang ngang một bước, để thủ thế.
Cùng một lúc đó, bỗng nghe tiếng gào thét inh ỏi, rồi lại thấy từ hướng đông có mười bóng người đang phi thân lướt tới như bay. Trong tay số người đó, đều có cầm binh khí, kẻ đao kiếm, người giáo búa, ánh thép chiếu lập lòe.
Từ Lưu Bản trông thấy môn hạ của mình kéo đến nơi, thì tinh thần cũng trở thành phấn khởi hơn, quát to mấy lượt. Thế là, chỉ trong chớp mắt sau, số môn hạ của ông ta gồm tất cả mười lăm người, liền tràn tới vây chặt lấy Kim Cô Lâu vào giữa.
Đôi khóe miệng của Kim Cô Lâu hiện lên một nụ cười lạnh lùng, rảo mắt nhìn quanh khắp bốn bên, và bỗng bất thần nhảy lui ra sau, lướt đến sát bờ suối.
Nhưng mười sáu người đang vây chặt lấy hắn ta, cũng đã nhanh nhẹn di chuyển theo, rồi lại bao vây hắn ta vào giữa y như cũ.
Có điều là, mặc dù Kim Cô Lâu xê dịch thân mình nhanh nhẹn đến mức nào, hắn ta vẫn trông thấy hình bóng của Phán Tiên Từ Lưu Bản, đứng sừng sững trước mặt mình mãi, không làm sao lách tránh đi đâu cho khỏi.
Kim Cô Lâu thầm đếm đối thủ, thì thấy cả Từ Lưu Bản nữa, là gồm có mười sáu người, nên tự biết mình đang bị vây giữa Lưỡng Nghi Trận của Thái Cực Môn. Do đó, trong lòng cũng không khỏi thầm kinh hãi.
Lúc ấy, Từ Lưu Bản lên tiếng nói:
- Kim Cô Lâu! Hiện giờ ông bạn đang bị vây giữa Lưỡng Nghi Trận rồi, vậy nếu có thể phá vỡ được thế trận này, thì kể từ đây về sau, Thái Cực Môn chúng tôi sẽ dâng hai tay vùng đất Đông Thiên Mục này lên cho ông bạn, không cư trú ở đây nữa! Kim Cô Lâu chắp hai tay ra sau, ngửa mặt nhìn trời, im lặng không nói chi cả. Do đó, Từ Lưu Bản hết sức lấy làm hoang mang, không hiểu đối phương định giở trò gì. Song, ông ta vẫn tin tưởng Lưỡng Nghi Trận của mình vô cùng thần diệu, chắc chắn đối phương không làm thể nào thoát ra khỏi được, nên cũng vững lòng đứng yên chờ đợi mọi sự diễn biến sắp tới.
Do đó, đôi bên kéo dài tình trạng im lặng ấy một lúc khá lâu, Kim Cô Lâu mới bỗng thong thả cất tiếng nói:
- Gã béo họ Từ kia, hiện giờ hai vợ chồng họ Lữ ấy đã bỏ đi xa rồi, vậy chẳng rõ thật là các ngươi muốn đoạt lấy vật chi ở họ? Từ Lưu Bản thấy đối phương không chịu ra tay đánh nhau, nên hết sức ngờ vực, không biết đối phương đang mưu toan chuyện gì. Và khi nghe đối phương hỏi thế, ông ta bèn lên tiếng nói:
- Thế còn ông bạn? Ông bạn định cướp chi nơi họ? Kim Cô Lâu cất tiếng cười, nói:
- Món vật mà tôi muốn lấy nơi họ, thực đối với các ông không có dùng vào đâu được cả. Thế mà các ông lại tập trung số đông đến đây, để gây sự đánh nhau, thật quả là một điều lầm to! Từ Lưu Bản cất tiếng lạnh lùng, cười nói:
- Rõ là nói chơi thôi! Việc tôi lầm hay không lầm, thử hỏi có can dự chi đến ông chứ? Kim Cô Lâu bước tới, rồi bước lui mấy bước, nói:
- Nếu các ông không bằng lòng nói, tôi cũng không truy hỏi làm gì? Từ bấy lâu nay, Thái Cực Môn các ông vẫn ở yên tại vùng Đông Thiên Mục này, vậy thử hỏi tôi đâu lại uy hiếp để buộc các ông bỏ đi? Thôi, vậy chi bằng các ông hãy mở thế trận này ra, để chúng ta cùng đánh tay đôi với nhau được không? Từ Lưu Bản cất tiếng cười nhạt, nói:
- Phải đấy, chúng tôi mở thế trận ra, để cho ông bạn truy đuổi theo bọn họ phải không? Kim Cô Lâu tức giận nói:
- Gã béo họ Từ kia, các ngươi tưởng đâu ta không thể xông ra khỏi thế trận này chăng? Từ Lưu Bản nói:
- Đúng thế! Kim Cô Lâu phá lên cười to, trong khi thân người lại nhảy lùi ra sau, rồi cũng không buồn quay đầu ngó lại, vung tay chụp ngược về phía ấy nghe một tiếng vút! Nhưng Lưỡng Nghi Trận của Thái Cực Môn, chính là thế trận tối lợi hại của phái này, trận hình chuyển biến vô cùng kỳ ảo, không ai có thể ước lường trước được. Một khi kẻ cường địch bị vây vào giữa thế trận, hễ đứng yên thì thế trận cũng yên, hễ tràn tới tấn công thì thế trận cũng chuyển biến, đối phó kịp thời ngay.
Thân pháp của Kim Cô Lâu tuy hết sức nhanh nhẹn, nhưng hắn ta vừa xê dịch thân mình, trận pháp cũng chuyển biến ngay tức khắc. Do đó, hắn ta vừa mới vung tay chụp về phía sau lưng, Từ Lưu Bản đã đứng sững tại nơi ấy rồi. Đồng thời bàn tay của hắn ta chưa kịp chụp tới nơi, gánh đá xanh nặng nề đã quét tới, cuốn theo một luồng kình lực mạnh mẽ vô song.
Cùng một lúc ấy, lại thấy bóng người chung quanh di động chập chờn, rồi ba thanh kiếm lập lòe ánh thép, đồng loạt nhắm đâm thẳng vào cổ họng hắn ta.
Kim Cô Lâu liền trân mình quyết chịu đựng gánh đá nặng nề của Từ Lưu Bản đánh tới, và điềm nhiên vung hai tay chụp thẳng về phía ba thanh trường kiếm đang công tới nơi.
Nhưng chỉ trong chớp mắt sau, ba thanh trường kiếm sáng ngời ấy, đột nhiên biến mất. Và Từ Lưu Bản lại đứng sừng sững trước mặt lão ta, trong khi gánh đá nặng nề lại quét tới vun vút.
Kim Cô Lâu đã sử dụng trên mười thế võ vô cùng lợi hại để tràn tới tấn công như vậy, nhưng thế trận lúc nào cũng chuyển biến kịp thời, và do đó Từ Lưu Bản lúc nào cũng đứng sừng sững trước mặt hắn ta, không dễ chi đối phó! Bởi thế, Kim Cô Lâu vừa đánh nhau với đối phương, nhưng lại thầm tính toán trong lòng. Hắn ta thấy Lưỡng Nghi Trận gồm có tất cả mười sáu người, ngoài Phán Tiên Từ Lưu Bản và hai tên môn đồ kế nghiệp của ông ta kể là cao thủ, còn thì những người khác đều là đệ tử thứ ba của Thái Cực Môn cả. Như vậy, hắn ta có thể dùng lối đánh giằng co để tiêu hao nội lực của số người đó và chờ khi thế trận để lộ một sơ hở nào, hắn ta sẽ thừa cơ hội ấy mà phản công, để phá vỡ thế trận đi.
Vì đã có ý định như vậy, nên Kim Cô Lâu liền dùng lối đánh chậm chạp, một lúc lâu mới tấn công vào thế trận một lần, do đó chẳng mấy chốc thì đôi bên đã xê dịch đến sát bờ suối.
-oOo-