Đã mấy ngày nay một mùi củi cháy nồng nặc bao trùm lên khu làng nhỏ. Mọi người lo lắng nhìn về phía Đông, ở đấy, đêm đêm, từng đám vừng hồng lại bừng lên trên rừng taiga, như có một người nào đấy không ngớt vẫy tung một chiếc khăn khổng lồ màu đỏ. Thậm chí cả những con chó trước đây suốt ngày chỉ gầm ghè nhau, bây giờ con nào cũng nằm im cạnh cổng nhà mình, lắng nghe tiếng ầm ì từ xa vọng lại, vẻ sợ sệt lộ ra mặt.
Ban ngày, mặt trời như một chiếc đĩa bằng đồng chiếu qua các đám mây khói. Lũ trẻ Tai sét nhìn thẳng lên thiên thể đỏ rực ấy mà không cần nheo mắt, và chúng nhận thấy có vết đen trên đó.
- Trông kìa, trên ấy có núi, cậu ạ! - Giamin, một cậu bé mười bốn tuổi, sau khi đã leo hẳn lên mái nhà, sung sướng reo lên như vậy.
- Cứ như là không có cậu thì tớ không nhìn thấy đấy! Hừ! - Gô-ga vừa tiếp tục dùng chiếc dao nhíp cũ chăm chú cạo nhựa khô từ một khúc gỗ tùng lá rụng, vừa đáp lại. Rồi cậu ngẩng mái đầu bù xù đã lâu ngày không cắt tóc, dùng lưỡi đảo đi đảo lại cục nhựa thông thơm thơm trong miệng, phều phào nói: - Bà tớ còn nói thế này: sẽ còn lắm chuyện nữa đấy.
- Thì hãy nhổ cái cục kia ra đã, rõ đồ tham. Bà cậu nói cái gì? - Giamin vừa thận trọng bước trên mái nhà lợp bằng những thanh gỗ mỏng, vừa hỏi bạn.
Gô-ga khó nhọc dùng lưỡi ùn cục nhựa cây màu vàng ra khỏi miệng
- Xem này, mình nhai được nhiều! Đủ dùng cho cả ngày nhé - Cậu ta khoái trí cười. Chỗ sún thoáng hiện lên như một hạt bá hương giữa hàng răng đều và trắng muốt. Cậu lấy tay vo tròn cục nhựa, cẩn thận gói lại bằng một chiếc mã đề rộng rồi đút vào chiếc túi rất sâu của mình. Trong túi đó, cậu luôn luôn giữ các mẩu kim loại, các lõi chỉ và các loại diêm khác nhau, những thứ này làm bọn bạn thèm rỏ dãi.
- Thế nào, bà cậu nói gì nào? - Giamin nóng lòng hỏi lại mặc dầu biết trước bà của Gô-ga là một mụ già cáu gắt nhất làng, đã nhiều lần chửi rủa bọn cậu, thì không thể nói một điều gì gọi là nghe được. Chả thế mà thậm chí con dê đực giống Taiphun hung tợn là mối đen dọa của đàn chó cũng phải lẩn tránh mụ.
Gô-ga vừa lấy tay giữ chiếc quần khỏi tụt xuống vì những túi nặng, tỏ ra thành thạo cố nhại giọng bà:
- Sẽ còn lắm chuyện nữa đấy, bà tớ bảo, Chúa phạt tội chúng ta...
- Thế mà cũng nói được! Chúa! Nói láo!
- Nói láo, nói láo - Gô-ga nhại lại bạn - Bà tớ chẳng biết hơn cậu ấy à? Tại sao rừng lại cháy? Chịu chưa? Không biết nhé! Nhưng bà tớ thì biết. Là vì có một mảnh mặt trời rơi xuống và đã đốt cháy rừng. Cho nên mặt trời mới bị loang lổ như vậy. Từ giờ thì suốt đời nó sẽ như thế...
Đến đây, Gô-ga nhận thấy bạn mình đang im lặng lấy tay che trán, chăm chú nhìn về một phía nào đó.
"Hắn ta thế đấy, nhìn thấy cái gì đó mà không nói cho mình - Gô-ga bực mình nghĩ bụng - Không hiểu hắn nhìn thấy gì phía ấy?
Bỗng Gia-min kêu lên như có ai dội nước sôi vào người:
- Thú rừng! Xem kìa, thú rừng! Nai!....
Qua bờ giậu, Gôga leo lên mái hiên rồi dọc theo các thanh gỗ lợp mái ọp ẹp và đi lại chỗ Giamin.
- Đâu, thú đâu?
- Kia, nhiều lắm!
Gô-ga nhìn về phía đường Xanh thứ hai có bạch dương và thông non mọc hai bên. Nếu không có những ngôi nhà với những hàng giậu vững chắc xung quanh, người ta có thể nghĩ Tai-sét là một khu rừng taiga đã bị đốn trụi và chỉ còn những cây non được chừa lại một cách cẩn thận và khéo léo.
Hết sức hốt hoảng vì lửa rừng, bầy thú chạy dọc theo đường làng về hướng Tây, nhẹ nhàng nhảy qua các bờ rào cao chúng gặp trên đường đi. Không khí sặc mùi lông và mùi thịt cháy. Chúng thở một cách khó nhọc, hai hông thóp lại luôn giật giật và lặng yên cắm cổ chạy. Có lẽ chúng đã chạy như thế hàng mấy chục cây số rồi. Mọi người đứng nép sát vào các bờ giậu nhường đường cho thú rừng tiếp tục cuộc hành trình lạ lùng của mình. Ngay cả những con chó vốn độc ác là thế mà giờ hình như cũng hiểu được là thú rừng đang gặp phải một tai họa ghê gớm. Chúng nghểnh những đôi tai to nghe ngóng, gừ gừ trong cổ họng và khó nhọc lắm mới ngồi yên được một chỗ.
- Chà, chúng nó chạy ghê quá! - Gô-ga kêu lên sung sướng - Xem kìa, cáo đi bên nai nhé! Còn đây, ôi chao, bao nhiêu là sóc nữa. Suỵt suỵt.
- Gì mà kêu lên thế, thằng ngốc? Thế mà còn suỵt, suỵt nữa! Giamin trách bạn - Chúng gặp lửa phải chạy, mà cậu lại lấy thế làm mừng. Không hiểu chúng đã phải chết bao nhiêu rồi...
- Nhưng mình có mừng đâu. Chỉ kêu lên thế thôi. Quả trông cáo chạy buồn cười quá...
- Thử ném cậu vào lửa xem cậu có chạy như thế không? Gia-min nói vẫn còn tức giận và chăm chú nhìn những con vật đang hoảng sợ kia.
Bỗng nhiên, thú rừng rẽ phải, nhảy qua bờ giậu lao về phía đường Xanh thứ nhất. Ở đây rừng taiga kéo sát tận làng.
Khập khễnh chạy trước là một con nai già sừng bị gãy. Trong đôi mắt dè dặt của nó không thoáng thấy một vẻ sợ sệt nào. Chó, kẻ thù của nó, tiếng động của phố xá, hơi người...cũng không làm nó sợ. Cái đáng sợ nhất là lửa, bây giờ đã qua rồi. Nó đứng lặng một lát rồi ngoảnh chiếc đầu mệt mỏi về phía sau. Cả thân hình lực lưỡng như muốn nói lên "Thế là tôi đã cứu các bạn ra khỏi địa ngục rồi đấy"
Bỗng có tiếng người kêu như tiếng còi thổi giật vang lên khắp đường làng:
- Prô-ôn-ca! Mở cổng ra! Đuổi nó vào! Chó đâu. thả chó ngay! - Bà nội Gôga vừa đón chặn con nai, vừa vung cào đe dọa. Con nai ngạc nhiên nhìn mụ già vừa kêu đó, lắc lắc cái đầu gù gù rồi mạnh dạn đi vào chiếc cổng mà Prônca - bố Gô-ga đã kịp mở xong. Trông cách hắn mở cổng đã có một cái gì đấy rất độc đáo, cay cú. Cạnh hắn là một con chó to lớn cổ mang dây xích vẫn dùng để múc nước. Con chó không muốn ra ngoài đường một chút nào, nơi thú rừng đang hoảng sợ chen chúc đứng bên nhau.
- Pôncan! Xì... Xông vào! - Prônca vừa huýt chó, vừa giật mạnh dây xích đeo trên cổ nó.
- Cứ đá nó đi, đồ ăn hại! Khéo nó chạy thoát đấy! Mụ già vừa kêu the thé, vừa tìm cách tách con nai ra khỏi các con vật khác.
Cáo là con vật đầu tiên như đoán được mối nguy hiểm đang chờ đợi thủ lĩnh của mình. Nó chạy lăng xăng trước nai như muốn nói "Muốn chết hay sao mà đi vào đó" rồi phắt một cái nhảy ra xa khỏi chiếc cổng mở sẵn và lao một mạch vào rừng. Các con vật khác sắp sửa đi theo nai nhưng nhìn thấy mụ già đang vung cào liền bỏ chạy theo cáo. Còn nai ta thì vẫn đàng hoàng bước thẳng vào sân, đưa đôi mắt buồn còn in lửa rừng liếc nhìn Prônca đang đứng nấp sau cột. Prônca biết rất rõ sức mạnh của các cặp chân và bộ sừng của con vật. Một khi giận dữ, con vật có thể dùng móng đạp gẫy cả những cây to như bắp chân, còn sừng của nó thì ngay cả chúa rừng taiga là gấu cũng phải kiêng nể.
- Đóng cổng lại, đồ chết giẫm! Khéo nó chạy mất bây giờ! - Mụ già kêu to và chạy tọt vào cổng. Và tiếp đó là tiếng gậy bình bịch vọng ra. Cánh cổng được đóng chặt cứng.
- Bà cậu làm gì thế, Gôga? - Giamin sợ hãi hỏi bạn. - Trời ơi, họ sẽ giết nó!
Gôga nhăn mặt rụt người lại như sợ có ai sắp đánh mình. Rồi cậu bỗng nói một cách cương quyết:
- Mình không để thế đâu! Rồi cậu xem!
Gô-ga gần như trượt bằng bụng theo mái hiên, nhảy xuống đất, khập khiễng chạy về nhà...
Đến cổng thì Giamin đuổi kịp bạn. Gô-ga khi thì đấm, khi thì dùng chân đạp mạnh vào tấm gỗ dày chắn cổng, kêu lên không thành tiếng:
- Bà ơi, mở cổng! Cháu đây, Gô-ga đây. Bố ơi, bố ơi, bố đừng giết nó!
Cạnh đấy, hàng xóm đang đứng nhìn về phía nhà cậu, vẻ trách móc. Giữa tiếng bàn tán ồn ào nổi lên giọng nói của Xtêphan Xôcôlốp, bác thợ rèn làm việc ở xưởng cơ khí, một người rất mê săn gấu và câu cá.
- Đồ đáng nguyền rủa! Chúng giết con vật đáng thương mất. Có giỏi thì vào rừng mà đánh, sao lại đánh ở đây! Thú rừng đến đây chắc là để nhờ người che chở, thế mà lại bị đánh như vậy...
- Cậu lấy hòn chì ra mà đập - Giamin khuyên - hòn chì đập kêu to hơn.
Gôga lôi từ túi ra những hòn chì trứ danh dùng làm đồ chơi của mình, rồi áp sát tai vào ván cổng nghe. Im lặng. Chỉ nghe thấy tiếng gầm gừ của con Pôncan và tiếng chân ai đi nhè nhẹ trong sân.
- Bố ơi, mở cửa! - Gô-ga dùng hòn chì tiếp tục đập.
- Nào thì vào. Quỷ tha ma bắt mày đi! - mụ già lúng túng trong miệng và hé mở cánh cửa chỉ đủ rộng để đứa cháu có thể lách qua. Giamin to người hơn đang định lách theo bạn thì bị một cánh tay gầy đét như que củi ấn vào vai ẩy ra. Cậu chưa kịp hiểu vì sao thì bên kia cổng đã nghe tiếng chửi:
- Việc gì cũng chõ vào được! Không thấy bố mày đang bận đấy à! Chúa nghe thấu lời cầu của tao và ban cho của quý này...Bây giờ thì đủ thịt ăn cho đến tháng Mười.
- Con không cho làm thế đâu! Không! - Gô-ga kêu lên, giọng lạc hẳn đi làm con Pôncan tru lên. Con nai đứng giữa sân và hình như bây giờ mới nhận ra là mình đã mắc bẫy.
Bây giờ thì những cặp chân khỏe mạnh đã từng cứu nó thoát khỏi nanh vuốt của chó sói cũng chẳng giúp gì nó được nữa. Bộ sừng cứng như sắt từng chỉ húc một cái cũng đủ đánh bại những con gấu nặng hàng tạ, bây giờ cũng trở nên vô dụng. Chiếc cổ lực lưỡng vất vả lắm mới giữ nổi cái đầu mệt mỏi....
Con nai không tin là một bà già yếu đuối lại có giọng kêu to như vậy (thì ai biết được sao có thể có người như thế) và con trai mụ, một người cau có và không lấy gì làm dũng cảm lắm (con nai nhớ là lúc xua chó cắn nó, lão đứng trốn sau cột) lại có thể làm hại nó được. Nó đi vào đây chính là vì ngửi thấy mùi cỏ khô và vì quá mệt. Không, không, họ sẽ không đụng đến người nó. Mấy ngày nay nó đã gặp nhiều người và ai cũng tốt với nó cả. Khi khó khăn, mọi người phải giúp đỡ nhau cơ mà. Như nó khi lội qua sông Biruxa nó cũng tránh không giẫm chết con mèo rừng và các chú mèo con, và con gấu con chạy sau nó hai ngày liền cũng có nhảy lên lưng cắn nó đâu... Con nai nghe thấy tiếng Gô-ga kêu "Không được thế! Bố ơi, đừng bắn" Và chính tiếng kêu gào ấy đã nện mạnh vào ngực nó...
Một đòn đau đớn tương tự nó cũng đã cảm thấy tám năm về trước, khi bị một con hươu xám có vết sẹo bên sườn húc. Lúc ấy tuy bị húc đau thật, nhưng dù sao nó vẫn còn đứng dậy được. Thế mà bây giờ không hiểu sao nó không chịu cử động nữa, và trong ngực nóng ran, khắp người nóng ran. Mà nóng là đúng vì một cục lửa đỏ đã xuyên qua người nó. Nhưng sao lại ở đây nhỉ? Nó đã vượt qua khu rừng cháy rồi cơ mà?...
Nghe thấy tiếng súng, Giamin đấm mạnh vào cánh cổng. Bác Xtêphan chạy lại và cũng dùng nắm đấm khổng lồ của mình mà đấm.
- Prônca, mở cửa ra! Không tao đạp đổ cổng bây giờ. Mày biết tao là người thế nào rồi đấy! Xem mày đã làm gì trong ấy rồi nào?
- Bác khỏi phải dọa. Chúng tôi cũng không đến nỗi hèn nhát lắm đâu... Prônca lẩm bẩm, rồi không hiểu sao cũng mở rộng hai cánh cổng to nặng ra.
- Cháu đừng dằn vặt nữa - mụ già vất vả giữ chặt Gôga đang cố giãy thoát ra khỏi tay mụ - Chúa đã cho chúng ta của quý này..
- Không phải Chúa, mà chính bà và bố đã nhử nó vào đây - Gôga thút thít khóc - Trong rừng thì nó đã cho biết tay rồi...
Giamin đứng khuất sau chiếc áo ngoài sực mùi kim loại của Xtêphan, vừa căm ghét vừa hồi hộp liếc nhìn bà nội Gôga.
- Và thế là chúng đã giết mất con vật.... - Bác thợ rèn Xtêphan nói, không ra hỏi, không ra khiển trách. - Nó chạy tránh rừng cháy, thế mà lại bị Prônca....Hừ mày là thằng khốn nạn, Prônca ạ! Sao mày còn trơ mặt sống với đời? - Xtêphan nhổ nước bọt rồi đi lại gần con vật đang hấp hối.
Con nai nằm nghiêng, sóng sượt trên mặt đất.
Khắp thân hình to lớn của nó nổi lên những lớp gợn nhỏ như thể nó đang lạnh lắm. Nó hít mạnh không khí tạo nên những tiếng như những tiếng nấc. Chiếc mũi màu nâu nhạt phập phồng, phập phồng dồn dập.
Nó không muốn chết. Nó không hiểu sao người ta lại đối xử với nó như thế..
Người ta nói, khi hấp hối con vật thường khóc, có thể lắm. Nhưng con nai này không khóc. Mắt nó khô, ngả màu xám như màu thép và trở nên to một cách lạ lùng, như muốn hứng lấy cả trời thẳm, cỏ xanh, rừng taiga sặc sỡ.
- Bác Xtêphan ơi, nó có chết không? - Giamin giật áo bác thợ rèn, sợ hãi hỏi.
- Chết, cháu ạ. Cháu xem, đạn xuyên ngực còn gì. Đồ chó.
- Bác Xtêphan, nói gì thì nói, nhưng phải vừa vừa chứ - Prônca lẩm bẩm, rồi quay sang quát những người tò mò đang đứng đầy sân: - Gì mà đứng há mồm ra thế! Làm như lạ lùng lắm đấy nhỉ! Xem rồi thì xin mời về.
- Con vật, có thể nói, đến để nhờ mày che chở, thế mà mày lại đểu thế...Mày đâm dao vào lưng nó.
- Xấu lắm, Prônca ạ - những người láng giềng nói.
Rồi ai về nhà nấy như sau một đám tang vậy: đăm chiêu không nhìn thẳng vào mặt nhau.
Giamin đứng khóc ngoài hiên. Mắt còn đỏ hoe, cậu đi vào nhà và thấy mẹ cậu - dân làng quen gọi là thím Samsura, đang buồn rầu cúi đầu ngồi cạnh lò sưởi sụt sịt, lấy một góc khăn choàng lau mũi. Gida và Marat đứng cạnh mẹ, lãnh đạm nhìn Giamin.
- Mẹ và các anh cũng thương con nai, phải không? - Cậu đi lại gần mẹ, định kể cho mẹ nghe đầu đuôi câu chuyện.
- Mày thì đâu cũng mò tới được, thằng khốn. Trách gì mà quần chẳng rách! - Gida, anh cả của Giamin, vô cớ bỗng trách cậu.
- Đừng cãi nhau, các con, đừng! - Thím Samsura ôm Giamin vào lòng - Tai họa đã đến, con ạ. Một tai họa ghê gớm, khủng khiếp... Chiến tranh. Bọn Đức đã tấn công!...
Giamin để mặc mẹ ngồi khóc, chạy bổ ra ngoài nhà và trong chốc lát tạm thời quên những gì đã xảy ra ở sân nhà Gôga.
- Cậu nghe chưa? Chiến tranh! - Gô-ga hồi hộp nói với Giamin khi gặp cậu ở cổng. Mặt Gôga bẩn vì hoen nước mắt.
- Tớ biết rồi! Giamin đáp - Mẹ tớ đang khóc ở nhà. Tớ cũng chẳng hiểu vì sao nữa. Ta chạy tìm Côlia và Vichia đi!
Ngoài phố, người lớn đứng từng toán một, lo lắng bàn về thông báo của Chính phủ Liên Xô. Còn phụ nữ thì không hiểu sao chẳng thấy ai cả. Những người đàn ông đã đứng tuổi thì nói chuyện với nhau một cách bình tĩnh, chỉ vừa đủ nghe thôi. Bọn trẻ thậm chí cảm thấy như người lớn cố tình nói thế để các cậu không biết được bí mật của họ. Chẳng trách mà ở đâu họ cũng đuổi chúng: "Chúng mày đứng đây làm gì? Về nhà đi"
Thử hỏi sao lại "làm gì" khi người lớn đang bàn cách làm sao mau chóng đánh tan Hítle. Và rồi dù họ có bí mật đến đâu, cuối cùng bọn trẻ cũng biết được là khoảng hai, ba tháng gì đó Hít le sẽ toi đời. Cánh thanh niên trẻ nói như vậy. Trong số đó có hai anh của Giamin, anh Pêchia Vôncôp hay bẽn lẽn đang học lớp mười, anh Valenchi Pôncốp tay đánh cờ tướng giỏi nhất trường, anh của Côlia là Xêmiôn, người bao giờ cũng mắng em trai vì tội câu cá, anh Giênhia Cukharsic cao lêu khêu, người học giỏi nhất lớp mười và còn nhiều thanh niên khác không quen biết từ các đường khác nữa.
Các cậu bé bây giờ thấy thích những người anh của chúng, mặc dù từ lớp bốn trở đi, quan hệ giữa họ không hiểu sao không lấy gì làm thân thiết cho lắm. Thường thì trẻ em nhiều khi cũng muốn làm những việc như người lớn...Ai cũng biết là không có gì xấu xa trong việc này cả, ấy thế mà bao giờ người ta cũng bảo chúng: "Cái này không được, cái kia không được! Chờ lớn đã, khi ấy hẵng hay"
Nhưng hôm nay, các anh của chúng không đuổi chúng nữa. Nghe họ, các cậu tin chắc là trong chiến tranh chẳng có điều gì đáng sợ cả, vì họ đã quả quyết là Hitle sẽ bị đè bẹp trong vòng hai ba tháng gì đó thôi. Thế mà các bà mẹ cứ sụt sùi vô ích, và bác Xtêphan, bố Côlia, các bác thợ rèn xưởng cơ khí và các bác giữ ngựa phải hoài công nhíu mày nhăn trán.
Ngày hôm sau, những người được động viên đầu tiên đã kéo đến phòng quân vụ. Và từ đấy đi thẳng ra ga. Ở đây, từng đoàn tầu nôi đuôi nhau chạy về phía Đông, nơi các sư đoàn Xibêri đang được xây dựng.
Những người nhập ngũ đang từ biệt người thân cạnh nhà ga, trông giống một cái kho chứa đồ sộ. Trông mặt họ long trọng như sắp sửa đi dự một ngày hội lớn chứ không phải ra mặt trận.
- Việc gì mà phải khóc! Chắc là chúng tôi chỉ đi một thời gian ngắn thôi mà!
Người ta vội vàng lùa ngựa lên các toa hàng. Cụ Cudia cũng có mặt ở đấy. Cụ là nhân viên trại nuôi ngựa. Cụ khuyên các chiến sỹ Hồng quân nên chăm sóc từng con ngựa một như thế nào, và giúp họ dẫn những con nhút nhát bước qua chiếc cầu gỗ lung lay để vào toa.
Nhìn những thanh niên to lớn, khỏe mạnh, Giamin, đã có mặt ở đây từ sáng sớm, nói với các bạn mình, vẻ quả quyết:
- Rồi họ sẽ cho Hítle biết tay!
- Hẳn là thế. Nhìn xem, ai cũng cừ cả! - Vichia phụ thêm.
Tuy thế các cậu cũng không cầm được nước mắt khi đoàn tàu chuyển bánh và khắp sân ga nhao nhao tiếng của những người đi tiễn. Cụ Cudia vừa vẫy chiếc mũ nỉ bám đầy cỏ khô, vừa dặn theo:
Này các con, nhớ trở về nhé!!
*
* *
Sau khi những người được động viên đầu tiên ra đi, làng Taiset ít người vốn đã vắng lặng, nay lại càng vắng lặng thêm. Từ tháng này qua tháng khác, người ta càng cảm thấy rõ ràng hơi thở của chiến tranh, không ngày nào là không có người được động viên ra mặt trận, càng ngày càng có thêm phụ nữ làm việc ở các xưởng cơ khí, ở trại nuôi ngựa, trên đường sắt….
Kẻ thù vẫn tiếp tục tiến về phía trước. Mỗi lần gặp nhau, người ta lại thì thầm: “Không ngờ nó lại mạnh thế”. Nghe những lời như vậy của người lớn bọn trẻ như muốn kêu to: “Không, không, không bao giờ!” và sẵn sàng ngay lúc ấy đi ra mặt trận chiến đấu. Chúng sẽ chặn đứng ngay được Hitle. Thử tập hợp tất cả thiếu niên của đất nước Xô Viết (chỉ riêng ở Taiset thôi cũng đã bao nhiêu rồi), cho trang bị vũ khí và hô to: "xung phong" rồi cứ thế xông thẳng vào kẻ thù xem nào. Lúc ấy không Hítle, không Gơben thọt chân nào có thể tới Matxcơva được, các cậu bé Taiset hoàn toàn tin như thế. Chỉ riêng Gôga là bao giờ cũng chõ vào cãi được và luôn làm hỏng tất cả mọi kế hoạch.
- Thế bọn chúng không có trẻ con như ta hay sao? – Cậu ta bỗng hỏi và nhếch môi cười (môi giần giật như môi thỏ)
- Có
- Nếu thế sao các cậu lại bảo: “Bọn mình sẽ cho biết tay”
- Nhưng chúng không có thiếu niên tiền phong, không có thanh niên cộng sản, hiểu chưa – Giamin nổi nóng và không hình dung nổi sao Gôga lại không hiểu được những điều đơn giản như vậy.
- Cômxomon là sức mạnh, cậu hiểu chứ- Côlia ủng hộ bạn.
Thường thì Côlia im lặng, bây giờ không hiểu sao lại bắt chuyện.
- Cậu nghe mình đây, Gôga – Côlia chậm rãi nói – Bọn chúng không có những đứa trẻ Xiberi như mình đâu. Bố mình nói là trên đời này không có người lính nào khỏe mạnh, dẻo dai và dũng cảm hơn người lính Xiberi. Vì khí hậu của ta ở đây tốt lắm. Khí hậu lục địa khắc nghiệt! Ta chẳng học địa lý ở lớp năm rồi sao. Mùa đông thì lạnh buốt như cắt da cắt thịt, còn mùa hè nóng thế nào thì các cậu biết rồi đấy. Và con người được tôi như một thanh sắt như trong tay anh thợ rèn, hết vào nóng lại ra lạnh, rồi lại vào nóng. Còn bố mình và cụ Cudia như vậy vẫn chưa đủ: vừa ở trong nhà tắm bằng hơi nóng đã trần truồng lăn ra ngoài tuyết, rồi lại vào nhà tắm. Cũng chính nhờ thế mà cụ Cudia đã chiến đấu dũng cảm với bọn Nhật, bọn Đức, bọn Bạch vệ được. Người ta còn bảo không ai khỏe hơn bố mình, cậu hiểu chứ?
- Hiểu, - Gôga kéo dài giọng, và không muốn tỏ ra mình là người bị thua, cậu nói - Thì bố mình tắm hơi nóng cũng có kém ai đâu.
Mấy ngày sau bố Côlia và năm người khác cùng xưởng cơ khí tình nguyện ra mặt trận. Mỗi người trong bọn họ đều có một giấy chứng nhận rằng họ là thợ lành nghề không thể thay thế được và hết sức cần thiết cho công việc ở đây, và họ chỉ được động viên theo một mệnh lệnh đặc biệt mà thôi. Các bà láng giềng nhà Xtephan Xôcôlôp ái ngại nói: “Để lại một gia đình như thế - bốn miệng ăn! Ôi, ôi, ôi! Mà đứa lớn nhất mới có mười bốn tuổi ranh, còn đứa lớn hơn là Xêmiôn thì anh ta lại cho theo ra mặt trận luôn. Không hiểu anh ta nghĩ gì?”
Cô Grunhia, vợ Xtephan, nổi tiếng bạo mồm bạo miệng, bây giờ trở nên lặng lẽ. Thường thì bao giờ trong sân cũng chỉ nghe giọng nói lanh lảnh của cô:
- Xtephan! Cho bò ăn!,….Xtephan, láng giềng họ mang thùng sang nhờ làm quai đấy. Làm cho chắc vào, đừng để tôi phải hổ thẹn với họ! Xtephan! Phơi giúp tôi ít quần áo ướt! Mà rửa tay cho sạch đã, chứ ông thì cứ như đi đâu cũng mang cả cái lò rèn của mình đi theo!
Xtephan làm bất cứ điều gì Grunhia yêu cầu, bao giờ cũng vui vẻ và pha trò nữa.
Biết rõ quyền lực của Grunhia với Xtephan, một hôm gặp cô ở giếng nước, bà Gôga bóng gió hỏi:
- Thế nào, bà chị, khoẻ chứ? Còn bọn trẻ thế nào – Mụ chậm rãi lấy nước.
- Thì cũng như mọi người cả thôi, bà ạ..
- Tại sao một người thông minh, nhanh nhẹn như cô lại chịu để Xtephan ra trận? Tôi còn nghe là bác ta, rõ ngốc, còn tự nguyện xin đi nữa cơ đấy, để lại cho cô một bầy con như thế. Thật là một gã quá tệ!
- Sao bà lại có thể nói thế? - Grunhia trách, xách đôi thùng không sửa soạn đi – Thế ai sẽ bảo vệ con cái chúng ta, nhà cửa chúng ta?
- Ai, ai à? Chính quyền Xô viết chứ ai! Chính quyền mạnh lắm. Bọn Đức sẽ không tới vùng ta được. Ai cần thì đi mà đánh nhau! – Giọng của mụ rít lên. Mụ đem đổ một nửa nước từ chiếc thùng đầy sang chiếc thùng không rồi bước đi thẳng.
Cả làng Taiset ra tiễn Xtephan. Những người thợ rèn làm cùng ca với bác trong những bộ quần áo lao động của công nhân sặc mùi than đá và mùi sắt, cũng tạm tắt lò đến tiễn. Bố Gôga cũng láng cháng ở đấy. Hắn vừa uống rượu xong, cái mặt bầu bầu đỏ bừng như một quả gấc chín.
- Pronca, sao mày bỗng nhiên lại đến đây thế? Cụ Cudia hỏi hắn. Cụ vừa dùng con ngựa Tôdich kéo xe chở cả nhà Xtephan ra đây, mặc dù đi bộ tới ga cũng chỉ mất khoảng bảy hay mười phút gì đó – Người ta ra trận bao nhiêu rồi, cả bọn cùng tuổi của mày nữa, mày có đi tiễn ai bao giờ đâu, thế mà bỗng nhiên nay lại...
- Tôi đến đây, cụ ạ, cốt để nói một vài lời thông minh cho ông bạn láng giềng nghe trước lúc lên đường. Tôi thương hại bác Xtephan lắm. Cái hòn đạn, cụ ạ, nó ngốc lắm! – Cặp môi dầy của Pronca trông giống như hai viên mằn thắn nấu quá chín. – Cụ đừng nghĩ là Xtephan to khỏe và hòn đạn chì thì bé tí! Nó mà đụng đến thì Xtephan toi đời. Con nai to thế, ấy vậy mà tôi chỉ "tắc" một cái là xong!
- Thì ra những lời thông minh của mày là thế đấy! - Cụ Cudia khinh bỉ nhìn Pronca – Người ta đang đi làm một việc thiêng liêng, đi bảo vệ quê hương mình, mà hắn thì lại ăn nói như thế!
- Tôi có làm gì đâu, chẳng qua chỗ bà con láng giềng...Pronca đảo mắt nhìn xung quanh.
- Tất cả lên toa! – Có lệnh vang lên.
Những người đi tiễn chen nhau về phía bác Xtephan và các bạn cùng đi với bác. Chắc Xtephan không ngờ lại có nhiều người đến tiễn mình như vậy. Bác cao hơn người khác đến một cái đầu và từ biệt mọi người có vẻ ngượng ngịu, lúng túng, một lúc bắt luôn cả hai, ba bàn tay, khẽ vỗ vào vai bạn bè làm họ cũng phải mỉm cười "Thật đúng khỏe như gấu". Khi từ biệt các bạn cùng làm việc, Xtephan nói với từng người một: "Liệu đấy, ở nhà đừng có phụ lòng tin của mọi người. Còn chúng tớ ngoài kia sẽ cũng sẽ không để người Xiberi phải hổ thẹn đâu!"
Các cậu bé cũng cố chen tới chỗ bác, nhưng lần nào cũng bị người lớn ẩy ra. Cuối cùng Xtephan nhìn thấy các bạn của con trai và tự mình lách đến chỗ chúng.
- Này, các cháu! Phải làm thế nào cho đâu vào đấy, nhé! Trở về, bác sẽ dẫn các cháu đi săn gấu. Các cháu phải nhớ bây giờ các cháu là chủ nhân ở đây – Rồi bác bắt tay từng cậu một như bắt tay người lớn, xong bác đi lại chỗ gia đình.
Ba đứa bé nằm gọn trong tay người bố, đang tranh nhau nói một điều gì đấy. Côlia giống bố như đúc, buồn rầu đứng cạnh mẹ, mắt đỏ hoe vì khóc. Cậu cố mỉm cười – ai chứ cậu thì hẳn là biết bố đi đâu.
- Thôi, tạm biệt, Grunhia. Ở nhà trông nom con cái...Em sẽ vất vả đấy. Nhưng không sao, Côlia đã lớn. Em đừng giận anh nhé. Kẻ thù tàn ác, tàn ác hơn cả thú dữ. Em biết đấy, cần phải.....- Bác Xtephan đặt các con xuống đất, ôm vợ và Côlia vào lòng rồi chạy vội tới toa tàu.
- Em thì nói làm gì, chỉ có anh là phải giữ lấy mình – Grunhia vẫy theo, đầm đìa nước mắt.
Trước đây, Giamin ít nghĩ tới bố mình – cậu mồ côi từ bé, vào năm đói. Cậu lớn lên với các anh và không biết thế nào là sự âu yếm, những lời khiển trách nghiêm khắc hay những lời khuyên đáng quý của người bố. Và bây giờ Giamin rất muốn được làm Côlia, để bàn tay to như chiếc xẻng của bác Xtephan xoa đầu cậu, để được nghe: "Cố giúp mẹ, con nhé"
Đến lúc này Giamin mới nhận thấy là đoàn tàu chạy về phía Tây.
- Cụ Cudia ơi, sao bác Xtephan lại đi về phía Tây? Những người trước bao giờ cũng đi về phía Đông cơ mà.
- Bởi vì, cháu ạ, bác ta là cán bộ, có kinh nghiệm và thành thạo. Bác ấy xuống tàu là có thể ra trận đánh nhau được ngay, không phải chờ đợi gì cả. Xtephan là lính cận vệ đấy! Còn thuộc binh chủng nào thì cụ chưa hỏi. Thật là sai lầm. Hay là kỵ binh? Không, bác ta nặng quá. Lính xe tăng – cũng to quá. À, lính pháo binh! Đúng thế, lính pháo binh như lão ấy! – Cụ Cudia vui mừng vì đã đoán ra được như vậy.
Càng gần tới mùa thu, càng có nhiều đoàn tàu quân sự chạy về phía Tây. Có ngày tầu chạy cả hai chiều. Lúc ấy, những người kiểm tra đường ray phải nhờ cả những người thân giúp đỡ. Cứ cách một giờ họ thay nhau kiểm tra lại tuyến đường mình phụ trách. Thường thì bọn trẻ hay đi theo người lớn, và chúng làm họ vốn đã quá mệt mỏi, phải phát ngấy lên vì những câu chuyện của chúng. Đã có một số trường hợp người kiểm tra đường ray, bị nghiền nát dưới bánh của những con tàu đang chạy vùn vụt.
Còn làng thì có vẻ vẫn đang sống một cuộc sống hòa bình. Ở đây bom không réo trên đầu, đạn trái phá không nổ, nhà không đổ.
Chiến tranh đang còn ở xa lắm – năm nghìn cây số. Phim thời sự về chiến tranh chỉ mới chứ chưa chiếu, nên bọn trẻ Xiberi còn chưa được nhìn thấy mặt thật của chiến tranh, chưa nhìn thấy bọn lính quốc xã. Những người cha, người anh của chúng ra trận gửi về những bức thư dài kể rằng họ chưa tham gia một trận chiến đấu nào, và mặt trận còn xa, nhưng họ đang được huấn luyện cẩn thận, có lẽ là cho một chiến đấu lâu dài.
Họ dặn ở nhà mỗi người phải làm việc bằng hai: hậu phương và tiền tuyến là anh em! Họ còn báo trước là chiến tranh sẽ ác liệt và lâu dài.
Đọc những bức thư như vậy, bọn trẻ bao giờ cũng lấy làm ngạc nhiên: gửi về Taiset, ai cũng chỉ ghi số hòm thư dã chiến, có điều số hòm thư mỗi người mỗi khác – thế thì người nhận thư ở đâu? Còn chưa đánh nhau thực sự nhưng cái gì cũng biết, thậm chí còn nghiên cứu cả kỹ thuật tác chiến của địch nữa...
Suy nghĩ một lúc, Giamin kết luận là các anh cậu, bác Xtephan và những người khác đang ở ngoài chiến trường. Nếu không sao họ lại phải viết "hòm thư dã chiến"?
Năm ngoái Igơnat Ipachiêvich Beredin, trưởng trại ngựa, mang con dê này từ Acunset cũ về. Acunset cách Taiset 18 cây số.
Thật khó mà biết được là ông ta đã đưa được nó về bằng cách nào. Đường xa, chỉ toàn rừng là rừng. Cây cối cứ như mọc hẳn ra ngoài đường, không chịu cho ai qua lại. Rễ cây to như dây neo tàu biển nằm chắn ngang dọc trên mặt đường như muốn bịt kín cả hai đầu khu rừng taiga đang bị con người chia đôi.
Phải đi qua một quãng đường như thế quả đúng là cực hình. Ngày ấy ô tô còn ít, hơn nữa, có cũng chẳng đi được. Đi bằng xe ngựa thì lắc đến nỗi không thể ngồi yên một chỗ. Đường xấu đến như thế, ấy vậy mà ông ta đã lôi được con dê này về. Chỉ một thời gian sau, người ta mới biết là Igơnat Ipachiêvich dọc đường đã phải cho nó ăn mất ba chiếc bánh mì to, bốn cái bắp cải, làm con ngựa Tôđích xinh đẹp phải đầm đìa mồ hôi, mà sau này hễ gặp ở đâu là con Tôđích cứ vẫy tai lia lịa, chân luôn đạp xuống đất như dẫm phải lửa.
Trưởng trại ngựa đã trị được con dê như thế, nhưng dân Taiset thì mãi vẫn không hòa thuận được với nó. Chỉ cần sơ ý một chút để nó sổng ra ngoài là y như đường làng lập tức vắng tanh vắng ngắt: trẻ con leo lên bờ giậu, người lớn thì gậy lăm lăm cầm tay, tuy thế họ vẫn tránh không va chạm với nó.
- Thật ông khéo kiếm được ra cái của nợ ấy thế - mỗi lần gặp trưởng trại ngựa, người ta vẫn hỏi ông như vậy.
- Không sao, không sao! Nhưng cả vùng này nó là độc nhất vô nhị đấy! Ông tự thanh minh cho việc mua dê - Rồi nó sẽ thuần thôi, dù sao thì cũng có phải là ma quỷ đâu.
Còn con dê thì vì thấy không ai dám làm gì mình, ngày càng trở nên trâng tráo và hay dở chứng nghịch ngợm. Bây giờ nó không còn bạ ai húc nấy nữa, mà bình tĩnh chọn mục tiêu, phì phì rõ to để báo trước là mình sắp tấn công, đôi môi đen tớn lên. Bao giờ nó cũng tấn công mãnh liệt và đột ngột, cũng vì thế mà người ta gọi nó là Taiphun.
Đã giữa tháng chín. Ngoài đường ít thấy bóng các cậu bé, cây rụng trụi lá nên đường làng trông có vẻ như rộng hơn. Bên quán bánh mì, một số người đang đứng xếp hàng chờ mở cửa. Bà nội của Gôga đang say sưa kể lại một giấc mơ "định mệnh" nào đó của mình, luôn miệng nhắc đi nhắc lại: "Không phải điềm tốt đâu, các bà ạ, ôi không phải điềm tốt đâu" thì bỗng trong hàng có người kêu to:
- Con Taiphun! Taiphun!
Bà lão không nghe rõ, đưa mắt ngơ ngác nhìn các bà bạn vội vàng nấp sau nhà. Còn con chó Prôncan bên cạnh thì rướn cổ xù lông, nhe nanh rồi lỉnh ra xa, vẻ miễn cưỡng. Chỉ lúc này bà lão mới nghe tiếng phì phì và tiếng móng chân của con dê đạp đều đều trên đất. Bà lão quay phắt người. Như một viên đạn trái phá sống có cặp sừng hình xoắn ốc đứng chĩa ra phía trước, con dê lao thẳng vào bà lão.
Thế nhưng trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, con Taiphun bỗng dưng dừng lại trước bà lão mấy bước, như thể gặp phải một chướng ngại vật vô hình nào đó. Theo quán tính, nó còn tiến thêm một ít về phía trước, rồi đưa cặp mắt đỏ như máu nhìn chằm chằm vào bà lão, bộ râu rung rung.
- Nó làm bà lão tàn phế mất! - Một bà nào đó kêu ré lên và bẻ vội một thanh gỗ hàng giậu cầm tay.
- Bà kia, chạy đi! Nó húc chết bây giờ. Con dê trời đánh!- Những người đứng nấp sau nhà kêu to. Nhưng Taiphun lại một lần nữa lắc đầu, phì phì thở rồi lao về phía Pôncan. Con chó cụp đuôi cắm cổ chạy theo đường làng.
Ngày hôm sau thì cả Taiset ai cũng biết rõ câu chuyện này.
Còn Gô-ga thì ngồi trên một bãi cỏ đã ngả màu nâu kể lại cho các bạn nghe làm như là bà cậu đã túm lấy râu con Taiphun và nhổ toẹt vào đôi mắt lấc láo của nó. Và chỉ lúc ấy, bực mình quá, nó mới chạy bổ theo con Pôncan.
- Bịa thế mà không ngượng mồm! Chờ đấy, con Taiphun sẽ chìa râu cho bà cậu nắm! Còn lâu!....Giamin cãi lại bạn.
- Nhưng chính mẹ mình cũng thấy con dê sợ bà cậu ấy thật. Mẹ mình còn nói là trông con Taiphun chẳng khác gì một con quỷ hung dữ và đáng sợ - Vichia Bêlogrivuwi ở đường Xanh thứ hai ủng hộ Gôga, mặc dù thường thì cậu ta không thích Gôga lắm.
- Đấy, thấy không, thế mà cậu lại không tin! Cả đến thằng Mộc tặc cũng còn nói thế nữa là, - Gôga sung sướng nói.
- Có mày là Mộc tặc thì có! - Vichia cãi lại và lập tức nuốt lời:- Mình có biết gì đâu. Có thể mẹ mình chỉ biết thế thôi...
Gôga lấy làm tiếc đã sơ ý gọi Vichia như vậy. Bây giờ điều quan trọng là phải làm thế nào bắt Giamin thừa nhận là con Taiphun có sợ bà cậu thật...
- Gớm nhỉ, con dê không húc vào bà cậu ta đi! Vinh dự lớn đấy! Nếu bà cậu ta còn cưỡi được nó thì mới đáng! - Giamin nằm ngửa, lơ đãng nói.
- Cậu bịa! Cưỡi đâu mà cưỡi! - Gôga nhìn bạn, ngạc nhiên
- Thế thì làm cái gì? Giamin lim dim đôi mắt.
Cũng lạ là khi nhắm mắt, ta thấy những điều ta ước mơ tự nhiên hiện lên như thật. Tại sao như thế thì Giamin không cắt nghĩa nổi.
- Sao cậu lại im lặng? - Gôga lấy tay huých bạn - Hay cậu định cưỡi con Taiphun chắc?
- Không. Cậu xem kìa, đám mây nom ngộ không! Đấy, con Pôncan nhà cậu kia có hai đầu nhé... Còn đám mây lớn kia thì giống con Tôđich khi được thắng vào xe - quên cả việc cãi nhau lúc nãy, Giamin say sưa chỉ lên các đám mây.
- Con Pôncan ở đâu? Cậu chỉ khéo bịa - Gôga quay sang nằm sấp rồi lấy dao cắt rễ một bụi cây đã khô héo - Bây giờ ta chơi ném dao đi!
- Quả đúng là con Tôđich, Gôga ạ. Kia kìa! Còn cạnh nó là con Pôncan đang chạy! - Vichia nhảy phắt dậy, chỉ tay lên trời.
- Đâu? - Gôga lại quay sang nằm ngửa cổ, cố tìm những gì các bạn mình nhìn thấy. Vì có phải ngày nào cũng thấy được con Pôncan và Tôđich ở trên mây đâu.
- Cậu nhìn đi đâu thế? Đây cơ mà! - Giamin chỉ sang hướng đối diện - Bên ấy là các tàu thủy.
- Không biết chừng chúng đã chạy mất rồi? - Vichia không chịu thua.
- Chẳng thấy quái gì cả. Các cậu chỉ tưởng tượng ra thôi - Gôga thất vọng nói rồi ngồi xuống đất - Ta chơi ném dao có hay không? - Cậu ta đề nghị và liền lúc ấy kêu to: - Nào, tớ chơi đầu nhé!
Gôga chơi ném dao giỏi lắm. Suốt cả buổi cậu chưa khi nào phải rút cọc cả. Ngay cả những cậu lớn tuổi hơn cũng phải chịu tài cậu ta. Gôga chơi một cách rất điêu luyện. Các cậu khác khi thì dao dắt vào mảnh gỗ, vào đá cuội hay đất sét khô, còn dao của Gôga thì bao giờ cũng cắm xuống đất một cách khéo léo.
Vichia và Giamin biết là trong hai cậu thế nào cũng có người phải rút cọc.
- Này, xem chừng không được chơi gian đấy nhé! - Hai cậu dọa Gôga - Nếu không chúng tớ sẽ cho đi kiệu bằng gậy đấy!
- Được - Gô-ga nhếch mép cười, lấy lòng bàn tay xoa sạch chỗ ném rồi bắt đầu chơi.
- Gôga bắt đầu ném lần thứ nhất - "bà lão"
Lưỡi dao nhíp sắc nhọn như một tia chớp lấp lánh trong không khí rồi cắm gọn xuống đất đánh xẹt một cái. Tiếp đến Gôga ném một loạt nữa. Các cậu kia chỉ kịp nói:
- Ông già
- Nắm đấm
- Cái đĩa
- Bàn tay
- Mặt trời! Chà chà! Vichia không nén nổi, kêu lên thán phục. Cậu thèm thuồng nhìn lưỡi dao cắm phập một cách chính xác giữa các ngón tay xòe ra trên mặt đất
Chỉ khi mẹ Vichia thái bột thì lưỡi dao mới thoắt đi, thoắt lại nhanh và khéo như thế.
Khoảng 5 phút sau Gôga đã chơi xong và cậu không ném trượt một lần nào. Cậu ta đã ghi một "dấu ấn" tuyệt vời và khéo léo "ký nhận".
Còn Vichia và Giamin thì thay nhau chơi đều có kết quả. Gôga ngồi buồn. Cậu để mặc hai cậu kia chơi với nhau, thỉnh thoảng nhếch mép cười khinh khỉnh khi hai cậu kia chê nhau không biết chơi.
Cuối cùng Vichia cũng ghi được "dấu ấn". Gôga vót nhọn một chiếc que nhỏ chiều dài bằng que diêm.
- Nào, chuẩn bị đi, cái anh hay nghi ngờ kia - Gôga vui mừng một cách độc ác - Hay bây giờ cậu cũng không tin là phải lấy răng ngoạm đất?
Giamin hiểu Gôga muốn ám chỉ gì.
- Hôm nay cậu cố sức cũng vô ích, Gôga ạ - Vichia lên tiếng bênh bạn. Hôm nay Giamin không thể ngoạm đất được. Răng cậu ấy bị gẫy.
- Thế ai bảo chơi làm gì? Không sao, cứ để cậu ấy nếm mùi đất - Gôga vừa nói vừa ngắm nghía để ném chiếc cọc một cách chính xác và mạnh hơn. Nó rất muốn trả thù Giamin vì tội cậu ta không tin là bà nó đã túm râu con Taiphun mà lôi đi - Cậu sẽ kéo lên như thế nào?- nó hỏi thế
- Răng cậu ta lung lay - Vichia lại gần Giamin, khéo léo bật môi cậu ta như người lớn vẫn làm khi mua ngựa ngoài chợ, và chỉ vào chiếc răng cửa bị lung lay - Thấy không?
- Nếu thế thì đừng chơi. Tớ có lỗi hay sao?
- Không cậu thì còn ai nữa? Hôm kia cậu đã ném cù văng vào răng cậu ấy đấy. Quên rồi sao?
- Nhưng mình có chú ý đâu?
- Thôi được, ném đi - Giamin lúng búng trong miệng.
Ba lần Gôga đều ném trúng chiếc cọc nhỏ, làm nó lún sâu xuống đất như xuyên qua khe hở mà bay đi mất. Còn Vichia thì cả 3 lần đều trượt cả. Giamin lấy lòng bàn tay phủi bụi trên mặt đất, quỳ hai chân, chống tay, thổi.
- Thôi, cậu để mình - Vichia bỗng đề nghị rồi lấy chiếc cằm gầy gò của mình đùn đất quanh chiếc cọc.
Vichia rất giỏi trong việc rút cọc, ai cũng chịu thua cậu. Bất cứ chiếc cọc nào cũng chỉ cần một thoáng là cậu đã rút lên được. Thành ra khi Vichia thua cuộc, các bạn cậu không lấy gì làm vui mừng lắm vì biết trước là chúng sẽ chẳng được xem cái gì lý thú và đáng buồn cười cả. Thấy vậy Gôga lại gần, lấy giọng kẻ cả nói:
- Thôi được, không cần nữa. Nếu biết cậu sẽ rút cọc thì bọn mình sẽ không chơi. - Gôga cẩn thận lau đi lau lại chiếc lưỡi dao vốn đã sạch bóng vào mép quần, gập lại rồi cho vào túi.
- Đất ở đây không tốt, dính quá - Vichia vừa nói vừa nhổ đất trong miệng ra.
- Thế nào Giamin, cho đến bây giờ cậu vẫn không tin à? Gôga bỗng hỏi, vẻ khiêu khích.
- Không! Cậu chỉ là một thằng ba hoa.
- Tớ à? Thế ai vừa xí xóa cho cậu về việc thua cuộc? - Gôga vênh mặt hỏi vặn, ý thức rất rõ về địa vị người thắng cuộc.
- Cậu bảo mình phải tin là con Taiphun sợ bà cậu phải không? Và bà cậu đã túm lấy râu nó mà lôi đi? Gôga này, mình bảo thật cho biết nhé, là mình...mình sẽ cưỡi lên con Taiphun dạo chơi, và sẽ không bao giờ còn sợ nó mà bỏ chạy nữa! Rồi cậu sẽ thấy.
Giamin thậm chí không chín chắn nghĩ tới những lời mình nói khi cao hứng. Chỉ khi Gôga bảo Vichia: "Cậu nghe cậu ta nói gì không?" thì Giamin mới hiểu được là mình đã nói bộp chộp một điều vô lý. Kể ra thì cậu ta có thể chữa lại bằng cách nói thêm: "Không, mình đùa đấy thôi các cậu ạ", và chuyện đến đây có thể chấm dứt. Hơn nữa, Vichia cũng nhìn cậu ta như muốn nói: "Này, Giamin, nói lại đi, nếu không ngày mai cả trường sẽ biết việc này đấy!" Nhưng hình như có một con quỷ nào đấy lại thầm nói với cậu: "Cậu là đội viên thiếu niên, cậu phải giữ lời hứa. Hay cậu chẳng hơn gì một mụ già mê tín?"
- Đúng, mình sẽ cưỡi lên lưng con Taiphun - Giamin vẫn bướng bỉnh cương quyết nhắc lại - Cậu không được nhìn mình với cái vẻ châm chọc như thế nữa!
-Thì có gì là lạ! Cậu ấy sẽ làm thế thật - Vichia rụt rè ủng hộ bạn - Cậu còn nhớ mùa hè năm ngoái một lần câu cá, Giamin đã cứu cậu thế nào không? Lúc ấy mới thực là đáng sợ.
- Lúc ấy là một chuyện, còn con Taiphun lại là chuyện khác! Bà mình nói nó là một con quỷ thực sự.
Gôga không thích nhắc lại cái đêm không may kia...
*
* *
...Trong tất cả bọn trẻ Taiset thì Côlia Xocolôp là người nổi tiếng say mê câu cá. Mùa hè, hầu như ngày nào cậu cũng ra câu ở sông Biruxa. Và khó mà bắt được cậu ta đi cắt cỏ, xới đất và vun khoai tây. Khi phải làm những việc này với người lớn, cậu ta suốt buổi cứ lặng thinh như giận ai.
Nhiều lần Vichia, Giamin và Gôga xin Côlia cho đi theo câu cá ban đêm, nhưng bao giờ cậu ta cũng lấy bộ quan trọng nói:
- Các cậu làm cá sợ chạy hết. Các cậu thì chỉ biết chơi đánh khăng và ném dao thôi. Không được, cá thích yên tĩnh...
- Cho bọn mình đi câu với, Côlia, bọn mình sẽ không làm ồn đâu. Mà cậu cũng đỡ vất vả chứ, bọn mình sẽ trông cho lửa không tắt, sẽ đi xem những dây câu cắm cho cậu... Còn cậu cứ việc ngủ - các cậu kia năn nỉ, thiết tha nhìn vào khuôn mặt thỏa mãn và đầy tàn nhang của bạn, dường như có ai rắc hạt kê chưa xát vỏ lên trên..
Rồi một hôm, sau nhiều lần năn nỉ như thế, Côlia lấy vẻ đàn anh, nhíu đôi lông mày nâu nhạt, nói:
- Thôi được, tớ cho đi. Các cậu đã thuyết phục được tớ. Nhớ mang cần câu đi theo!
- Nhưng bọn mình kiếm đâu được cần câu? - Gôga hỏi.
- Chính cậu bảo là mùa xuân vừa rồi cậu đi câu với bố cậu cơ mà? Giamin ngạc nhiên hỏi - Bố cậu còn có cả dây câu cắm mà.
- Không sao, thiếu cần câu của cậu ấy cũng được - Vichia khoát tay nói - Chứ không cái tính keo kiệt của nó cũng hành cậu ấy chết.
Côlia cũng cho là Vichia nói về mình. Cậu ta nhăn nhó, quay người, nói như đã quyết định từ lâu:
- Cần câu sẽ có. Các cậu cứ đào giun đi. Đào ở những chỗ có phân đọng ấy, ở đấy giun to và béo. Đừng quên rắc một ít đất dưới đáy hộp.
Hôm sau, trời chưa tối, các cậu đã ở một nhánh của sông Biruxa. Nước sông vàng óng dưới ánh mặt trời sắp lặn, tràn vào các lạch như dòng kim loại bị nung chảy.
- Đi bắt ruồi trâu, nhanh lên. Cái giống cá trắm thích loại ruồi này lắm đấy! - Côlia ra lệnh và vứt chiếc túi xuống cạnh chiếc lều dựng tạm gần một cây bạch dương trên gò đất cao. - Ở đây ít ruồi nhặng hơn. Vì có gió mà! - cậu nói thêm.
- Nhưng làm thế nào mà bắt được? - Vichia hỏi.
- Thế nào, thế nào à? - Côlia nhại lại - Gôga, cởi áo ra. Cậu béo tròn trùng trục và nhẵn nhụi như một củ cải. Lại vừa đúng lúc cậu đang ra mồ hôi. Đứng dậy và không được động đậy. Chờ một phút rồi xem, sẽ có hàng đàn ruồi trâu đến bâu, chỉ có không kịp đập thôi. Cụ Cudia dạy mình bắt ruồi kiểu này đấy.
Gôga co ro như người bị hàng chục con ruồi to đang cắn..
- Nhưng thế thì chúng sẽ cắn đau chết.....
- Thế cậu tưởng chúng sẽ hôn cậu à?- rồi Côlia lấy giọng an ủi nói thêm: - Không sao, chúng cắn một tý thôi mà. Tai họa thật! Nhưng đến tối thì tha hồ mà chén cá trắm - vừa vuốt những chiếc cần câu, cậu ta vừa an ủi Gôga - Cá trắm mê ruồi trâu nhất đấy!
Vichia và Giamin định phản đối cái cách bắt mồi này nhưng nhìn thấy nét mặt nghiêm khắc của Côlia lại thôi.
Gôga cởi áo ra và đứng thẳng lưng.
- Còn các cậu thì đứng cạnh - Côlia bảo - Đừng đánh ngay. Cứ bình tĩnh để chúng tiêm nọc đã, nếu không chúng có thể bay mất.
Một phút, rồi hai phút trôi qua...
- Côlia này, không có con nào đến bâu cả - Gôga phấn khởi nói - Hay mình mặc áo vào nhé?
- Không! - Côlia cắt ngay - Chờ đấy, chúng sẽ đến bây giờ. Cậu nghĩ rằng cá nó tự vào tay cho cậu bắt đấy phỏng? Chính các cậu nài nỉ xin đi câu với mình cơ mà!
Vừa đúng lúc ấy Vichia đập đánh đét một cái vào lưng Gôga, bắt con đầu tiên:
- Này, to ghê! Chẳng khác gì con ong nhé?
- Nhưng đau quá...Cậu đập khẽ tí nữa không được hay sao? - Gôga nhăn nhó.
Bây giờ thì các cậu thi nhau lấy lòng bàn tay đập đen đét vào chiếc lưng sưng vù của Gôga. Cậu ta không còn cảm giác đau nữa, mà còn phụ theo một cách sung sướng:
- Xem này, Côlia, con này to chưa? Chắc là ruồi chúa.
- Ờ, béo lắm - Côlia gật đầu. Cậu cẩn thận xếp ruồi vào hộp sắt - Có điều các cậu phải đập cẩn thận! Những con gãy cánh thế này là không dùng được đâu. Cái giống cá trắm ranh lắm.
- Thế này chưa đủ à? - Vừa đập xong một con Giamin hỏi.
- Chưa. Xem chúng bay đến nhiều chưa kìa - Côlia sung sướng kêu lên - Ta tranh thủ bắt mồi luôn cho sáng mai.
Kinh nghiệm đã dạy cho cậu biết là sáng mai nhất định Gôga sẽ không đời nào chịu đứng bắt mồi thế này nữa.
- Gôga, mặc áo vào để mình đứng thay cho. Biết đâu lưng mình chúng cũng thích cắn. - Giamin đề nghị.
- Không sao, mình chịu quen rồi - Gôga đáp, nhưng lại vội vàng mặc áo vào.
Lưng cậu ta đỏ ửng như bị ai lấy cây tầm ma mà quất.
Lúc đầu tiếng đập nghe còn rụt rè, Côlia trách Gôga:
- Mình đã bảo là gắng chịu tý nữa. Có thấy không, đập vào lưng nó, mình cũng thấy thương hại.
Nhưng rồi một chốc sau, bàn tay của các cậu cũng thi nhau in hình lên chiếc lưng trắng của Giamin, làm nó trở nên đỏ hỏn như bị phơi dưới nắng gắt tháng sáu...
Hai bên bờ dòng sông nhánh đã ngả màu thẫm, như màu thép mới tôi. Côlia đi ngược dòng một quãng rồi tung xuống nước một nắm ruồi trâu bị đập nát bét. Khi các cậu tới ngang với chiếc lều thì mặt nước đã nổi gợn lăn tăn như có ai vừa vứt xuống một nắm sỏi nhỏ...
- Các cậu nhóm lửa, xách nước va kiếm củi đi! - Côlia hạ giọng ra lệnh. Ba cậu kia răm rắp làm theo.
Lần quăng câu đầu tiên đã thắng lợi. Côlia giật lên bờ một con cá trắm lưng đen, đặc sản của các dòng sông rừng taiga, nặng gần nửa cân.
- Con đầu tiên nhé! - Cậu ta bình tĩnh nói.
Con cá nặng nề rơi xuống cỏ, lặng đi một lúc rồi vẫy vẫy chiếc vây sống lưng như chiếc quạt, óng ánh đủ tất cả các màu sắc của cầu vồng.
Côlia đã câu được khá nhiều cá trắm, nhưng mỗi lần câu được con nào, cậu cũng không hết ngạc nhiên trước vẻ đẹp của chúng, cái vẻ đẹp nhất thời, đầy sức quyến rũ. Bản thân cậu và cả cụ Cudia cũng không cắt nghĩa nổi tại sao khi mới bị lôi lên khỏi mặt nước cá trắm lại có vẻ đẹp lạ lùng như vậy.
Khi các cậu khác chạy lại thì con cá trắm đã ngả màu. Gôga hồi hộp hỏi:
- Có phải cậu câu được do ruồi trâu của mình không?
Côlia lặng thinh, khéo léo mắc một con ruồi nữa vào lưỡi câu, nhổ nuớc bọt lên nó, lẩm bẩm một điều gì đó và quăng xuống nước.
Một giờ sau, vừa xuýt xoa húp món cá ám từ chiếc xoong đang bốc hơi, Gôga vừa ngớt lời khen:
- Cả đời mình chưa bao giờ được ăn một bữa cá ám ngon như thế này!
- Thế này đã thấm gì, - Côlia lấy giọng kẻ cả nói. Cậu ăn một cách điềm đạm, đàng hoàng - Một lần mình với cụ Cudia nấu một nồi cá dày không thể tưởng được! Nấu cá dày xong, chắt nước, cứ thế ba lần. Và lần cuối thì luộc cá sộp. Được một nồi cá ám đặc sệt, cắm thìa vào cứ là đứng thẳng!
*
* *
... Trời sẩm tối, các cậu đã đặt xong dây câu cắm ở những chỗ ngoặt của sông nhánh, nơi rừng taiga ăn ra sát tận nước, và rễ cây xoắn lấy nhau cắm xuống đáy cát dòng sông. Côlia biết là ở đó ban đêm thuờng hay câu được cá sộp, và nhiều khi cả cá lăng nữa.
- Thế còn đi xem những dây câu cắm thì thế nào? - Gôga hỏi, sợ hãi nhìn xung quanh. Ngay bây giờ trông cũng đã đủ rợn người rồi - trước mặt là dòng sông Biruxa hùng vĩ và bí ẩn, đằng sau là bóng những cây thông lâu đời chĩa thẳng lên trời, trông như những chiếc cột đồng ngả đen vì thời gian, dưới gốc là bụi rậm dày đặc chăng kín khắp nơi. Mùi hoa Maria có màu vừa chói vừa đỏ thẫm như hoa mẫu đơn làm chóng cả mặt. Những bông hoa có màu sắc khác thường này to dễ bằng đầu trẻ em, nhưng vì mùi như thế nên ít người hái chúng.
- Từng đứa một thay phiên nhau đi xem những dây câu cắm - im lặng một chốc, Côlia nói - Cố nhớ rõ đường đi. Chỗ nào cắm cọc là có dây câu cắm.
Dọc đường trở về lều, các cậu hái một túm hành dại giống lá cây linh lan và có mùi như mùi tỏi.
- Ăn nữa đi, loại hành này bổ ghê lắm - Côlia nói, vuốt tay lên đầu mình.
Đêm đến một cách chậm chạp. Mặt trời lơ lửng trên những ngọn đồi có hình cây nham nhở như lông nhím cho đến khi khuất hẳn. Mặt nước cũng miễn cưỡng biến đổi theo - lúc đầu ngả màu vàng, tiếp đến màu xanh nhạt, màu sẫm và cuối cùng thành màu chì xám.
Tiếng muỗi vo ve đến phát ngấy, như thể có ai không ngớt đập ngón tay vào những dây đàn đã đứt. Thân cây tùng lá rụng to rực cháy, bắn các đốm lửa ra chung quanh. Các cậu ngồi sát bên nhau trong lều, thỉnh thoảng lại lấy cành bạch dương xua muỗi.
Côlia là người đầu tiên đi xem dây câu cắm. Cậu lấy một thanh củi còn cháy làm đuốc soi đường rồi biến mất trong rừng rậm. Có lúc qua kẽ lá lại thấp thoáng ánh lửa, nghe rõ từng bước chân của Côlia. Tất cả những cái ấy quả đẹp thật, nhưng đồng thời cũng có vẻ huyền bí và khác thường một cách dễ sợ. Rừng taiga như nuốt chửng con người bé nhỏ kia. Khi tiếng chân bước của Côlia mất hẳn, Gôga thì thầm hỏi bạn:
- Chẳng nhẽ đi một mình mà cậu ta không sợ?
- Sợ ai mới được chứ? - Vichia lên tiếng - Đống lửa chiếu sáng suốt đêm, cậu ta nằm trong lều như nằm trong pháo đài.
- Nhưng đằng kia - Gôga lại hỏi, hất đầu về phía bóng tối Côlia vừa đi qua - Ở đấy làm gì có lửa?
- Do quen thôi, các cậu ạ - Giamin thêm vào, tay lấy một chiếc gậy dài khều lửa. Tàn lửa bay lên trời đêm như những con đom đóm.
- Dù sao một mình cũng thấy sợ lắm. Bà mình kể là có một lần, khi bà sống ở trại trong rừng, cũng có một đêm như thế này...- Gôga không nói hết câu. Một tiếng cười man rợ phá tan cái im lặng mênh mông của rừng taiga, và tiếp đến có tiếng gì vọng lại như có ai lấy xẻng mà đập xuống nước. Có cả tiếng gì sịt sịt và tiếng kêu rất khẽ, tinh lắm mới nghe được.
- Cái gì thế nhỉ - Gôga thì thào hỏi và xích lại gần các bạn.
- Không biết - Vichia sợ hãi đáp.
Các cậu lặng im.
Bỗng từ phía bụi rậm cạnh lều có tiếng sột soạt, tiếng cành khô gẫy và như có một người nào đấy đang chạy qua rừng.
- Hay ta đi lại chỗ Côlia đi? - Giamin đề nghị và bò ra khỏi lều. Nhưng liền lúc ấy cậu ta đã kêu to, lùi lại, suýt nữa thì giẫm chân không lên đống than nóng bỏng.
- Thế nào, vẫn ngồi đấy à? - Côlia bỗng xuất hiện với nụ cười trên môi, từ chân đến lưng ướt đẫm, dính đầy đất, rêu cỏ và lá cây. Trên đầu chiếc gậy ở sau lưng có treo một vật gì lủng lẳng, nặng, dài và động đậy.
- Cậu làm mình sợ quá! - Giamin thú nhận.
- Không sao, lúc đầu mình cũng sợ. Sau quen đi. Trong rừng taiga không có gì đáng sợ lắm đâu...
Các cậu biết là người câu cá chính của mình bây giờ đang vui, mặc dầu trông cậu ta chẳng khác gì ma lem. Côlia bỏ gậy xuống, và trong ánh lửa, các cậu nhìn thấy một con cá trông như một khúc gỗ lớn. Con cá còn sống. Nó đập đập cái đuôi đẹp xuống đất, thỉnh thoảng lại há cái miệng rộng đầy răng.
Vichia và Gôga chồm ra khỏi lều, tò mò ngắm nhìn con cá.
- Cá thế mới là cá chứ - Gôga kéo dài giọng, lấy gậy chọc vào nó.
- Làm thế nào mà cậu kéo được nó thế? - Vichia hỏi, giọng ngạc nhiên.
- Trong nước, con cá lăng bơi lội thoải mái - vừa cởi bộ quần áo ướt ra, Côlia giải thích - Nó vừa nhô lên đớp không khí một cái là hình như trở nên hung hãn - Côlia lấy miệng ủng dí vào chiếc bụng màu hồng nhạt có các đốm nhỏ của nó - Ở dưới nước, mình không nhìn rõ lắm, cứ nghĩ là lưỡi câu mắc vào rong rêu gì đó. Khi soi đuốc lên xem thì chính mình cũng phải ngạc nhiên. Mình lôi nó lên bờ, nhưng nào đã hết. Nó giãy giụa, đập mạnh đuôi xuống nước đánh ầm một cái! Mình nhảy theo ngay. Cũng may là gần bờ nên nước không sâu. Nhưng khốn nỗi một cái là ngọn đuốc ấy lại xì xì một hồi rồi tắt ngấm. Thế mới lắm chuyện. Vất vả lắm mình mới lại lôi được nó lên bờ, rối lấy gậy nện thẳng cánh. Vì tối có lẽ mình nện cũng chẳng trúng lắm, hơn nữa cũng sợ giẫm chân vào miệng nó.
- Cứ cái miệng này, có lẽ nó ngoạm được hổ chứ chẳng chơi, Côlia nhỉ! - Gôga thêm vào.
- Hổ thì hơi quá, nhưng nó có thể cắn vào gót chân được - Côlia nói và nhìn các bạn với vẻ không tán thành. Cậu vốn không thích khoác lác.
Bọn trẻ con xâu con cá đã nằm im vào sợi dây đang treo lủng lẳng mấy con cá trắm hôm qua còn lại.
- Còn bọn mình thì, Côlia ạ, không có cậu sợ đến chết người đi được - Giamin lại nói khi tất cả đã nằm trong lều- Có tiếng cười rợn người đâu đây và tiếp là tiếng ai đập xuống nước. Sợ lắm.
- Quả là đáng sợ! Gôga phụ thêm.
- Con cú vọ đấy! Nó vẫn hay trêu người như thế - Côlia giải thích - Lúc đầu mình cũng sợ lắm. Cụ Cudia bảo mình: hễ cú vọ kêu như người cười, nghĩa là gần đấy không có thú to. Mà có cú vọ thì lại vui hơn, có điều phải quen đi mới được.
Như nghe tiếng Côlia nói, con cú lại nổi lên một tràng tương tự ngay gần đấy. Các cậu kia rùng mình nhìn Côlia, còn Côlia thì nằm sấp, vẽ lên mặt đất những hình thù kỳ quặc, như thể cậu ta không nghe thấy gì. Từ quần áo treo trên cọc, hơi nước bốc lên dày đặc, mùi ủng da ướt nồng nặc khắp nơi.
Các cậu kia yên tâm thiếp đi lúc nào không biết. Côlia lắc đầu - như thế mà cũng đòi đi câu cá! Nhưng cậu cũng không đánh thức các bạn dậy. Còn lâu mới cần xem dây câu cắm.
Phương Đông, sao nhấp nhánh nhiều hơn. Khí trời trở nên mát mẻ. Sương mù bay dọc sông như có ai ở trên cao mà nhả khói xuống. "Trời sắp sáng" - Côlia khoan khoái ngáp rồi co mình trong chiếc áo ấm.
- Dậy thôi - một chốc sau cậu lay Gôga. Giamin cũng tỉnh dậy - Đã đến lúc phải xem dây câu cắm.
Hai cậu kia vươn người, uể oải bò ra khỏi lều.
- Nhớ mang theo chiếc thùng - Côlia khuyên - Gặp cá nhỏ thì có thùng cũng tốt. Còn đuốc thì nên chọn cành nào nhiều nhựa ấy, kẻo tắt. Các cậu cũng biết là trong rừng rất ẩm.
Gôga và Giamin biến mất trong sương mù như bị một bức tường tuyết che khuất. Côlia nằm nghĩ cách chia con cá lăng làm sao để không ai phật ý. Nếu có hai con thì dễ dàng biết mấy, cứ cắt dọc là ổn. Ai cũng có phần đầu, phần giữa và phần đuôi. Nhưng chỉ một con thì làm thế nào bây giờ? Khó thật. Hơn nữa là một người câu cá có kinh nghiệm, cậu hiểu thế nào là ăn cá lăng - có ăn cả con mới biết có ngon hay không. Có người thích ăn đầu của con cá lăng nổi tiếng ở sông ngòi vùng Xibêri, có người thích ăn gan, cũng có người thích ăn món cá ám nấu bằng đuôi, đầu và vây của nó…
Nhưng những tính toán đắn đo của cậu bị ngắt quãng bởi tiêng người kêu và tiếng cành cây gãy từ phía sông nhánh vọng lại. Côlia chồm dậy, nghe ngóng. Tiếng vọng khó hiểu mỗi lúc to thêm. Vớ vội cây đuốc, Côlia chạy bổ về hướng đặt dây câu cắm. Bây giờ thì cậu nghe rõ tiếng kêu hớt hải của Giamin: "Chạy lại phía hàng cây, nấp ở đấy! Nó không lại đó được đâu"
Tới nơi, trong cảnh tranh tối tranh sáng, Côlia nhìn thấy cạnh bờ nước là một con hươu con và một con hươu mẹ có sừng rất to. Nó đang từ từ rút lui vào rừng rậm, trước mặt nó Giamin đang dùng thanh củi làm đuốc khua như điên như dại vào chiếc thùng. Con hươu hoảng sợ vì tiếng gõ và lửa, lắc lắc đầu rồi cả chiếc thân nặng nề vào bụi rậm. Cuối cùng, nó rống lên và lao vào rừng sâu. Con hươu con tập tễnh chạy theo, nhún nhảy như một chú dế mèn, trông thật buồn cười.
Sau này khi ngồi quanh đống lửa và đã hoàn hồn. Gôga kể lại việc cậu thấy con hươu con đang uống nước cạnh chỗ đặt dây câu cắm và định bắt nó, nhưng nó bỗng kêu to và lúc đó, nghe tiếng hươu con kêu, hươu mẹ giận dữ chạy xổ từ trong rừng rậm ra. Gôga chỉ biết đứng sững như đá vì sợ hãi. Cũng may mà lúc ấy Giamin kịp chạy lại, khua đuốc, gõ thùng ầm ĩ đứng chắn đường con vật khổng lồ của rừng taiga. Về sau, Vichia vẫn thường hỏi không lẽ cậu ta không sợ nó.
- Sợ chứ! Rất sợ nữa là khác. Nhưng lúc ấy Gôga tay không, mà con vật cứ nhằm cậu ta lao tới. Còn mình thì có cây đuốc và chiếc thùng rỗng.
Gôga không thích người khác nhắc lại chuyện này với cậu.
Cụ Cudia nhận thấy là thời gian gần đây Giamin, con trai thím Samsura, hay ra trại ngựa và lảng vảng cạnh chuồng ngựa. Trước kia Giamin và các bạn thỉnh thoảng cũng đến đây, có việc vẫn thường sẵn lòng giúp cụ: quay tời kéo nước từ dưới giếng lên, mang cỏ tới máng ngựa ăn, rửa chuồng ngựa. Vì thế các cậu được cụ cho chơi với bầy ngựa con, cưỡi dạo trong sân trên con ngựa đốm Dorica hiền lành. Một lúc bốn cậu có thể ngồi gọn trên cái lưng rộng của nó. Các cậu chỉ thích cưỡi con ngựa này vì tin chắc nó là ngựa rạp xiếc. Sau một lần xem phim về xiếc, các cậu đã đi đến kết luận như vậy. Cái kết luận này được hoàn toàn xác định hẳn khi Vichia một lần đã khám phá ra điều mới này:
- Các cậu ạ, đuôi con Dorica cũng rậm lông như đuôi ngựa rạp xiếc ấy! Nhìn xem!
Các cậu khác cũng cho là như thế, mặc dù thừa biết là Côlia đã làm được nhiều dây câu từ đuôi của Dorica.
Các cậu cứ bám chặt lấy ông cụ như ruồi bâu mật, mặc dù ông cụ bao giờ cũng nghiêm khắc, và không bao giờ bỏ qua cho các cậu một lỗi lầm nhỏ nào. Chỉ cần có cậu nào treo vòng cổ ngựa không đúng chỗ, hay để quên bộ cương ngoài đường là y như cụ đặt một chân lên thành giường, nhấp nháy đôi mắt xanh lam như hoa lý dưới đôi mi đã trắng bạc vì thời gian, rồi cất giọng trẻ trung một cách lạ lùng, nói:
- Cậu nào làm sai thế? Đi lại đây!
Nghe cụ nói thế, người có lỗi vội vàng chạy đi chữa lại việc đã làm sai.
- Được! - Đôi mắt xanh của cụ lại ánh lên, và cụ lại vân vê bộ ria trắng vốn đã vểnh ra ngoài của mình.
Các cậu nhận thấy là cụ giống Sapaép - cùng một tầm vóc, cũng nhanh nhẹn như thế, bộ ria cũng thế, có điều là ria của cụ trắng mà thôi...
Không hiểu sao gần đây cụ tiếp các cậu không được niềm nở như trước.
- Các cháu láng cháng nghịch ngợm ở đây, mà lão thì phải chịu trách nhiệm - cụ Cudia lúng búng trong miệng mỗi lần thấy Giamin đến trại.
Cố lấy giọng nghiêm khắc, cụ nói tiếp:
- Có chuyện gì xảy ra là người ta lại rầy rà lão. Có lẽ nên tránh xa thì hơn, các cháu ạ.
- Sẽ không có chuyện gì xẩy ra đâu, cụ ạ. Cháu chỉ lại chỗ con Taiphun thôi mà.
- Đúng, đúng. Chính vì nó mà lão đang phải khổ đấy. Cháu xem, con dê thì thích thế nào làm thế đấy, mà lão thì phải chịu trách nhiệm về nó. Có đời thuở nào như thế không? - Cụ Cudia ngồi xuống khúc gỗ cạnh chuồng ngựa, lấy tay phủi phủi các bụi cỏ khỏi hai ống áo bông. Vào những giờ rỗi rãi này, cụ thích ngồi ở đấy, chỗ mà cụ vẫn gọi là "trên boong tàu", thong thả hút thuốc và bàn luận về nhân tình thế thái.
Hôm nay tuy không vui lắm nhưng cụ vẫn nói chuyện với Giamin:
- Lại chỗ con Taiphun đấy à? Nó có gì mà quyến rũ cháu thế? Cháu định thắng cương cho nó chắc? - Giọng cụ có vẻ hiền lành hơn - Cậu bé ạ, lão phải vất vả nhiều lắm vì nó đấy. Bao giờ cũng phải để mắt trông nó. Mà lão thì lúc nào cũng bận túi bụi. Cháu hiểu chứ? Sao đứng thế, ngồi xuống đi.
"Cụ nguôi giận rồi". Giamin mừng thầm, ngồi xuống khúc gỗ. Từ người ông lão coi ngựa, mùi cỏ và mùi mồ hôi ngựa bay ra. Cậu không thể giải thích được tại sao cậu thích cái mùi này như vậy.
- Nhưng tại sao cháu bỗng chú ý đến con Taiphun thế mới được chứ? - cụ Cudia đưa tay ôm vai Giamin.
"Nếu mình nói thật, cụ có cười không nhỉ? Biết đâu cụ lại chẳng trách cho"
- Thế nào, sao lại ngồi lặng thinh?
Giamin thở dài, cúi nhặt từ đất lên cọng bồ công anh đã bay hết hạt.
- Cụ ạ, cháu cãi nhau với các bạn. Với Gôga. Nó bảo là cả Taiset sợ con Taiphun, và chỉ mình bà nó là không sợ. Nó còn nói là bà nó đã nắm râu con dê mà lôi đi như lôi một thằng say rượu..
Ông lão coi ngựa chú ý lắng nghe, thậm chí còn ngừng cả hút thuốc. Tuy biết là cụ Cudia vẫn lắng nghe các cậu hơn ai hết, dù sao, cậu vẫn đưa mắt liếc nhanh nhìn cụ.
- Cụ biết thế nào không, cháu bảo là từ nay cháu sẽ không sợ con Tai phun nữa, thậm chí còn nói là... - Giamin ngập ngừng: - Còn nói là cháu sẽ cưỡi lên nó...Chứ không thì thằng Gôga sẽ bảo là bao giờ Chúa cũng giúp bà nó…
- À, ra thế, cháu đến đây là vì chuyện đó. Lão nói thật với cháu là gay đấy. Nhưng kể ra cháu đã nói đúng. Đúng lắm, cháu ạ. Cần phải thế. Kẻo không hóa ra con dê chỉ sợ độc có một mụ già chỉ biết cầu chúa, còn lão và cháu nó không sợ à? Có điều, cháu xem, làm thế nào mà cưỡi nó được - Ông lão coi ngựa đứng dậy, đi lại chỗ con Taiphun đang bị nhốt trong chuồng.
Thấy có người, con dê nhỏm dậy, thở phì phì và lắc đầu, có vẻ bực dọc.
- Sao lại giận dữ thế, ông bạn? - Cụ Cudia đứng ngoài chuồng ngắm nó, hỏi - Có người muốn làm bạn với mày đấy - ông lão gật đầu chỉ về phía Giamin.
Taiphun thong thả dạo quanh chuồng rồi bỗng nhiên húc mạnh vào thành chuồng phía đối diện với cụ Cudia, thanh gỗ chắn rung lên, cong lại. Sau đó nó lùi lại một tí và cúi đầu xuống, như thể lắng nghe ông cụ nói gì.
- Tất nhiên là nó hung dữ. Nhưng làm sao mà không hung dữ được? Cháu nghĩ xem: ai cũng muốn trêu nó, đánh nó, ai thấy nó cũng chạy như chạy kẻ bị dịch hạch… Cháu tưởng nó không hiểu à? Cháu nhìn xem, nó đang nghe đấy. Hỏi đã mấy người định đối xử tốt, vuốt ve nó và làm bạn với nó? Chưa ai hết. Bao giờ nó cũng nghe nói: con quỷ, con trời đánh, đồ hung dữ. Sau những lời như thế thì làm sao nó có thể trở thành thiên thần được! Mà nó cũng chỉ là con vật mà thôi.
Taiphun thích nghe giọng nói của người hàng ngày vẫn cho nó ăn cỏ. Nó hoàn toàn bình tĩnh trở lại, đưa cặp môi mỏng chọn ở bó cỏ những ngọn non rồi oai vệ dạo quanh chuồng. "Nó cũng chẳng hung dữ lắm" - Giamin nghĩ bụng.
- Cháu có hiểu thế nào là "Taiphun" không? - Cụ Cudia bỗng hỏi và tinh nghịch nhìn Giamin.
- Gió to, bão lớn.
- Đúng thế. Rất nguy hiểm. Nó ập đến bất ngờ, bất ngờ như quỷ sứ từ lò sưởi ra vậy. Lúc ấy thì không thể phân biệt nổi đâu là trời đâu là đất nữa. Tất cả đều bị đảo lộn hết. Nhưng cháu ạ, trong mỗi cơn bão đều có một chỗ yên tĩnh. Người ta gọi đó là "mắt bão". Thành ra, nếu tàu bè mà tìm được cái "mắt bão" ấy cũng không có gì đáng sợ nữa. Trời lặng, nước yên. Thì con Taiphun của ta cũng phải có một cái mắt như thế. Cháu mà tìm thấy thì cưỡi nó tất được.
- Cụ ơi, để cháu đưa cỏ cho nó ăn nhé, được không? - Giamin hỏi.
- Vội vàng sẽ làm hỏng việc đấy cháu ạ. Phải thận trọng với nó mới được.
- Cháu đưa cỏ cho nó, cụ nhé - Giamin lại hỏi, trong đầu đã tưởng tượng cảnh cậu sẽ nói với Gôga: "Còn mình thì đã dùng tay đưa cỏ cho con Taiphun đấy nhé" khi có mặt của cả lớp.
- Đây - cụ Cudia rút trong túi ra một miếng bánh mì đã khô cứng. Nhưng suy nghĩ một lúc, cụ lại bẻ đôi miếng bánh - Để phần con Tô đích một nửa. Nó thích ăn bánh mì với muối lắm - cụ giải thích.
Giamin cầm nửa miếng bánh mì kia đi lại gần con Taiphun. Ông lão coi ngựa mỉm cười, tuy thế, vẫn để cửa chuồng nửa đóng nửa mở. Con dê ngẩng đầu, ngạc nhiên nhìn Giamin. Nó không hiểu tại sao con người bé nhỏ kia, đáng lẽ phải sợ bỏ chạy mà lại tự mình đi lại gần nó thế.
- Bánh mì, chìa bánh mì cho nó xem! - Giamin nghe có giọng nói ở đằng sau. Ông lão chăn ngựa đứng ở bên cậu.
- Này, lại đây, lại đây, Taiphun! - Giamin thì thầm.
Ngoài chuồng, mọi việc có vẻ như đơn giản hơn nhiều, và không có gì đáng sợ lắm. Bây giờ, khi mắt con Taiphun đổi sắc và đôi môi ướt như nhung của nó cong lên, thì lại là chuyện khác. Giamin nhận thấy nó có một cặp mắt đen rất đẹp, còn hai sừng thì hầu như dính vào nhau ở gốc, lông ở đấy lốm đốm như đã bắt đầu bạc.
- Lại đây, lại đây - Giamin gọi Taiphun, giọng run run.
Con dê đưa mắt quan sát nhanh người khách không mời mà đến một lần nữa rồi cong mình lấy thế, rướn cổ thành vòng cung, sẵn sàng nhảy bổ vào húc Giamin. Giamin tái mặt, đang nói giữa chừng bỗng dừng lại. Những tưởng không còn gì có thể ngăn Taiphun được nữa.
- Taiphun, làm gì thế? Không thấy người ta mang bánh lại cho mày đấy à? - cụ Cudia quát.
Con Tai phun hạ chân xuống, quay người, kêu be be mấy tiếng rồi thong thả đi vào góc chuồng. Cụ Cudia lẩm bẩm nói theo:
- Thật chẳng biết điều một tý nào! - rồi cụ cầm lấy mẩu bánh mì từ tay Giamin đang đứng lặng người, đi lại gần con Taiphun - Này, ăn đi. Cậu ta mang cho mày đấy.
Con dê thận trọng ngoạm mẩu bánh khô trong tay người chăn ngựa. Còn ông cụ thì vẫn tiếp tục nhỏ nhẹ trách móc, đưa tay gãi mang tai cho nó.
Giamin nhìn mà không tin vào mắt mình. Con Taiphun cả Taiset phải sợ, bây giờ đang đứng trước cụ Cudia như một con bê hiền lành nhất.
Khi hai người ra khỏi chuồng, Giamin đã hoàn toàn bình tĩnh trở lại, cậu buồn rầu nói:
- Đáng lẽ cháu không nên nói khoác với Gôga như thế, cụ Cudia ạ. Cháu không làm bạn với con Taiphun được - Cậu thở dài và liền hỏi - Sao nó sợ cụ nhỉ? Giá nó sợ cháu như thế!
- Thì lão đã bảo là bất kỳ con vật nào cũng thích được đối xử tốt, thích được vuốt ve. Nhưng cũng cần nghiêm khắc nữa, cháu ạ - cụ Cudia ngồi xuống nói.
Giamin biết cụ Cudia từ ngày cậu bắt đầu biết nhớ. Và cậu tin chắc là ông lão coi ngựa bao giờ cũng tốt bụng và luôn có mặt quanh bầy ngựa như bây giờ. Nhưng hôm nay cậu còn biết thêm là cụ Cudia từng làm lính thủy pháo binh trên chiếc tàu tuần tiễu lừng danh "Người Triều Tiên" và đã tham gia các trận thủy chiến năm 1905.
- Năm ấy bọn Nhật làm quân ta điêu đứng - cụ Cudia nhớ lại - Đại bác của chúng bắn xa hơn, còn tàu thì nhiều hơn ta những ba lần, và lại chạy nhanh hơn. Còn Nga hoàng ấy à? Quỷ tha ma bắt hắn đi. Hắn chỉ biết suốt ngày nốc rượu và dạo chơi bơi, không đếm xỉa gì đến xương máu của thủy thủ. Ấy thế mà người thủy thủ Nga vẫn đứng vững, cháu ạ. Bọn Nhật muốn bắt quân ta làm tù binh, muốn lắm. Nhưng chúng chẳng được quái gì cả. Chúng quên là chúng đang đánh nhau với ai. Sau này, người ta có kể lại là thằng cha đô đốc Nhật bực mình hai ngày liền không ăn, không uống, không muốn nhìn ai hết. Quân ta đã biết tay thế đấy! Tinh thần anh hùng của người thủy thủ Nga thời ấy được sử sách chép lại cho đời sau.
Cụ Cudia thong thả kể chuyện. Giọng cụ như trẻ lại, thậm chí các nếp nhăn trên trán cũng biến mất, toàn người cụ như tỏa sáng từ phía trong. Có lúc Giamin nghĩ bụng: bây giờ mà bỏ bộ ria trắng đi, khoác lên người bộ đồng phục hải quân thì lập tức cụ lại thành một chàng thủy thủ trẻ và khỏe mạnh.
Hôm ấy ông cụ đã kể cho Giamin nghe nhiều điều hay và bổ ích. Kể ra, phần lớn câu chuyện của cụ là nói về cuộc đời mình, và chức vụ không lấy gì làm vinh quang, như cụ vẫn hay nói, nhưng cũng không thuộc loại tồi nhất trong xã hội. Giamin hiểu được điều chủ yếu: cần phải sống trung thực. Cụ Cudia giải thích điều này như sau: phải kính trọng người khác, phải có tâm hồn cao thượng, phải biết quý và bảo vệ tình bạn, biết yêu ngôi nhà của mình, Tổ quốc của mình ngay cả trong những giờ phút thử thách gay go nhất. Tổ quốc cũng như người mẹ, thương yêu một cách nghiêm khắc, quở trách, nhưng không ruồng bỏ. Bao giờ cũng chân tình...Về nhà, Giamin kể hết với mẹ những gì cậu nghe từ miệng cụ Cudia. Các từ ngữ thủy thủ mà cụ Cudia vẫn thích dùng, thậm chí một số người lớn cho là kỳ quặc, hóa ra chúng ở ngay tâm hồn cụ. Thế đấy!
- Thế con có biết ông cụ từng là du kích không? - Mẹ cậu hỏi - Cùng một đội với chính ông Bisơ đấy, và hoạt động trong vùng ta. Người ta nói ông cụ kiên quyết lắm. Cả nhà cụ bị bọn Cônsác giết - chúng treo cổ ở chỗ cầu nổi, bây giờ các tàu chở than vẫn tới đổ ở đấy. Ông cụ sống một mình là thế. Và ông cụ từng là một người thợ nguội tài giỏi! Vì sức khỏe yếu mà phải tới trại ngựa thôi. Ông cụ cần không khí tốt. Phổi đau nặng, trước bị nhiễm hơi ga trong cuộc đại chiến thứ nhất. Ông cụ đã gặp nhiều điều không may. Được thưởng huân chương Ghêoocghi. Còn bây giờ con đã lớn gần bằng ông - Phải biết nhận ra người tốt, con ạ. Con lớn rồi, phải hiểu điều đó. Người tốt không bao giờ tự phô trương mình cho người khác thấy đâu... Bao giờ họ cũng khiêm tốn.
Sáng sớm hôm sau, Giamin vớ vội miếng bánh mì trên bàn rồi chạy thẳng ra trại ngựa. Chưa có người đánh xe nào đến. Những chiếc xe ngựa đứng thẳng dọc theo bờ giậu, càng xe trần trụi chĩa lên trời. Chú gà trống cổ trụi lông đang oai vệ đi lại giữa bầy gà mái. Mỗi lần tìm được hạt gạo trong bụi đất, nó lại kêu cục cục trong miệng, đạp đạp đôi chân có cựa sắt như giẫm phải lửa.
Đang quét cạnh chuồng ngựa, miệng lẩm bẩm hát lạc điệu bài "Trên núi đồi Mãn Châu Lý" cụ Cudia nhìn thấy Giamin
- À, đã đến rồi cơ à? - ông cụ mừng rỡ nói - Vậy mà lão cứ nghĩ là sau lần hôm qua, cháu không còn nghĩ tới việc cưỡi con Taiphun nữa. Thế nhưng hôm nay vẫn đến. Tốt lắm. Thôi đi lại với nó đi. Bây giờ nó vừa ngủ dậy, không hung dữ. Mà chớ vào chuồng nó đấy nhé!
- Này, Taiphun - Giamin gọi con dê và chìa mẩu bánh mì cho nó xem. Tai phun bước từng bước ngắn lại gần. Giamin nghe rõ cả tiếng móng chân tách làm đôi giống như cặp sừng cụt.
Tại sao con người nhỏ bé này lại cứ bám lấy mình thế nhỉ? Hắn không kêu như người khác mà nói khe khẽ, tay cầm mẩu bánh thơm phức, làm người cứ như ngứa ngáy. Muốn ăn quá. Còn ông lão bé nhỏ kia đâu rồi, cái ông già suốt ngày chỉ quẩn quanh với mấy con ngựa, và bao giờ cũng tốt với mình ấy.
Tai phun đi lại mép chuồng, chìa mõm qua khe hở thè lưỡi đỡ lấy mẩu bánh. Hai sừng mắc giữa các thanh chắn.
Giamin bẻ nhỏ mẩu bánh để lên lưỡi nó. Con dê lắc lắc đầu rồi chậm rãi nhai bánh.
Chẳng mấy chốc bánh hết. Đưa mẩu cuối cùng xong, Giamin lấy bàn tay vuốt nhanh cái bờm đầy lông cứng của nó.
Ở trường bây giờ ai cũng biết là Giamin đã làm bạn được với con Taiphun: có thể vào chuồng nó mà không sợ gì, dùng tay cho nó ăn, chải lông cho nó. Một số cậu công khai ghen tị với Giamin và xin được ra trại để xem Taiphun đón bạn mình như thế nào.
Được sự đồng ý của cụ Cudia, Giamin dẫn cả một đoàn ra trại. Nghe tiếng ầm ĩ, Taiphun lập tức đề phòng.
- Không được làm ầm lên thế, nó giận đấy - Giamin lấy từ chiếc túi vải sơn một chiếc bánh mì rồi bước vào chuồng.
Taiphun đón cậu một cách dè dặt, có lẽ nó cho là thổ lộ tình cảm bây giờ, trước mặt mọi người là quá sỗ sàng. Nó chỉ cà hông vào đầu gối Giamin, khép đôi mi cứng che mắt.
- Xem kìa, như chơi với mèo con của cậu ấy, nhé - các cậu bé ngạc nhiên kêu lên.
Tiếng ồn ào lại làm Taiphun cảnh giác.
- Nhưng cưỡi lên nó thì có thuê cậu ta cũng chẳng dám - Gôga nói chọc
"Một liều ba bảy cũng liều, mình sẽ thử" - Giamin quyết định rồi ném chiếc túi ra ngoài chuồng:
- Cầm hộ mình!
- Đừng, nó sẽ hất cậu ngã! Nó sẽ húc - các bạn khuyên Giamin
- Sợ rồi, mày sợ rồi! - Gô-ga kêu lên. Cậu ta chạy lăng xăng giữa đám trẻ và thì thầm điều gì với chúng.
Không ai hiểu thật rõ ràng cái gì đã xảy ra. Các cậu chỉ thấy Giamin bỗng nhảy tót lên lưng con dê rồi lập tức cậu bị hất bay qua sừng nó, rơi xuống đống phân trong góc chuồng. Con dê giận dữ lao vào nạn nhân của mình, kẻ đã dám làm cái điều hỗn xược kia.
Gô-ga là người đầu tiên kêu ré lên và chạy bổ tới chuồng ngựa
- Cụ Cudia ơi, con Taiphun húc Giamin
Ông lão hết sức ngạc nhiên khi chạy tới thì thấy bọn trẻ đứng lặng người, còn Giamin thì ngồi tái mặt trong chuồng, bên cạnh là Tai phun đang đứng cúi đầu, cái đuôi khe khẽ vẫy.
- Cháu làm lão sợ quá Gô-ga ạ. Lão cứ nghĩ thôi chết rồi, cậu thủy thủ tý hon của lão bị bão tố thật rồi. Hóa ra không sao - ông cụ thật thà trách Gô ga.
- Tại vì cậu ấy cứ nói chọc Giamin là "đồ hèn, đồ hèn" mãi đấy - các cậu kia tranh nhau nói.
Cụ Cudia giấu nụ cười trong bộ ria của mình, rồi quay lại với công việc bị ngắt quãng, miệng lẩm bẩm hát bài: “Trên núi đồi Mãn Châu Lý”
Đã hai tuần nay có những người từ Matxcơva sơ tán đến ở nhà hàng xóm của Giamin. Đó là ba người phụ nữ, một cô bé mắt đen, khoảng mười bốn tuổi và một cậu bé mắt xanh là mỗi lần thấy bò đi dọc đường làng là khóc lên rồi chạy vào sân.
- Giamin, lại chỗ những người sơ tán đi - Gôga trèo qua giậu nói.
- Có gì đấy mà phải đi xem! - Giamin vừa trả lời, vừa tiếp tục bổ củi.
- Họ để rơi gàu nước xuống giếng, không làm thế nào mà lấy lên được - Gôga nói - Ta đi đi. Họ là dân thành phố mà.
- Tớ sẽ lấy lên. Thế cậu có giúp tớ không? - Giamin hỏi.
- Được - Gôga miễn cưỡng đáp.
Giamin vào nhà và một chốc sau đi ra với chiếc áo thể thao màu trắng, cổ xanh mà chỉ ngày lễ cậu mới mặc
- Làm gì mà diện thế? - Gôga ngạc nhiên hỏi.
- Chả là áo kia bẩn quá - Giamin ngượng nghịu đáp
Khi hai cậu bước vào sân, một phụ nữ xinh đẹp đi giày cao gót mỉm cười nói:
- À, bây giờ nam giới họ sẽ giúp bọn mình.
- Chào các chị - Giamin rụt rè nói rồi tò mò ngắm nhìn những người Matxcơva
- Trong nháy mắt là cậu ta lấy ngay lên thôi- Gôga lấy tay ẩy Giamin - Ở làng này chưa có giếng nào là cậu ta chưa trèo xuống - Gôga cảm thấy thoải mái.
“Chỉ giỏi cái nói khoác” - Giamin nghĩ bụng rồi hỏi:
- Cái móc ở đâu?
- Ở dưới ấy! - người phụ nữ xinh đẹp chỉ xuống giếng.
- Có lẽ nó mắc vào một cái gì đấy - một người đàn bà khác nói chen vào.
Giamin cúi đầu nhìn xuống. Nước trong lòng giếng lạnh, như một con mắt đen nhánh, đang nhìn cậu. Một mẩu gỗ rơi xuống và con mắt xanh kỳ lạ kia khép lại, tối dần và biến mất.
Giamin khẽ giật dây xích. Không thấy gàu. Cậu chao dây thừng từ bên này sang bên kia định mắc nhưng không được.
- Phải trèo xuống thôi. Nếu không, không thể lấy lên được - cậu kết luận.
- Nhưng ai xuống? Giếng sâu lắm - giọng người phụ nữ xinh đẹp run run.
Gôga vội lánh xa khỏi thành giếng.
Giamin buộc một nút thắt đầu dây xích, rồi như trên một chiếc đu quay khổng lồ, cậu cho chân vào đấy, nói:
- Cho xuống đi, đừng sợ! Gôga, cậu nghe chứ?
- Được, Gôga kéo dài giọng, không nhìn bạn.
- Này cậu bé, hay thôi đừng xuống nữa, giếng sâu lắm..
Giamin liếc nhìn những người đàn bà, suýt bật cười. Cậu không nhớ người ta gọi cậu là cậu bé lần cuối cùng là lần nào. Có lẽ lúc cậu còn học ở lớp bốn hay lớp năm gì đấy. Còn thì người ta gọi cậu là “anh thanh niên”. Lâu nay mẹ cậu vẫn chẳng bảo “Con trai của mẹ, con đã lớn rồi đấy” và cụ Cudia thì nói: “Cháu đã là một thanh niên biết suy nghĩ”. Thế mà chị ta lại cứ gọi mình là cậu bé.
- Có phải lần đầu tôi xuống giếng đâu - Giamin đáp rồi từ từ tụt xuống lòng giếng lạnh và tối.
Theo từng vòng quay, cái giếng như nuốt Giamin mỗi lúc một sâu vào lòng mình. Những mảnh rêu trơn như chân ếch lúc rơi xuống vai, lúc rơi xuống lưng lạnh buốt, thật dễ sợ.
...Giamin nhanh chóng gỡ chiếc móc ra. Với chiếc gàu nước thì khó hơn nhiều. Nó cắm sâu xuống đáy vì bị một khúc gỗ mục trên thành giếng rơi phải. Nhúng tay vào nước lạnh như cắt da, cắt thịt và lắc lắc quai gàu, Giamin biết là không dễ gì mà lấy ngay lên được. “Trước hết phải nhấc khúc gỗ đã”, cậu quyết định. Cậu tựa lưng vào thành giếng cố kéo, nhưng như một con cá sộp, khúc gỗ cứ tuột khỏi tay cậu.
Những người phía trên thấy Giamin im lặng, lo lắng gọi vọng xuống:
- Này cậu bé, lên thôi! Kệ nó, gàu với chẳng gàu! Lạnh lắm hở? - Tiếng họ nghe như những tràng pháo bập vào tai cậu nghe như từ thành giếng bay ra.
- Sắp xong rồi... - Giamin ghì chặt một đầu khúc gỗ vào ngực và đáp.
Phải vất vả lắm khúc gỗ mới chịu chuyển. Dây xích cắm những chiếc răng cùn vào chân Giamin, làm cậu cử động rất khó khăn. Tay cậu bị cóng cứng đờ… Hơn nữa, cậu cũng không dám nhấc mạnh khúc gỗ, vì cậu cảm thấy dưới chân cậu mùn gỗ mục cũng đã rão lún lắm rồi.
- Này cậu bé, lên thôi, lên thôi! - Những người phía trên khẩn khoản
- Lên bây giờ đây...Giamin khẽ đáp
Cuối cùng, cố hết sức, cậu đã lôi được chiếc gàu lên và giọng khàn khàn cậu giục:
- Kéo lên!
- Ôi, cám ơn cậu nhé! Có điều áo bẩn thế thì làm thế nào bây giờ? - người phụ nữ Matxcova xinh đẹp kêu lên khi nhìn thấy Giamin - Mà chúng ta cũng đáng trách thật, không biết đưa trước cho cậu ấy một cái áo khoác.
- Không sao, giặt sẽ sạch - Giamin cố nói với vẻ bàng quan nhất, tuy cậu thừa biết là rêu xanh mà bám vào cổ áo thì không thể nào tẩy sạch được, và mẹ cậu sẽ không thể để cậu yên về việc này.
Còn Gôga thì như không hề biết bạn mình sạch bẩn thế nào, đang say sưa nói chuyện gì đấy với cô bé mới đến. Còn chú bé kia thì nhìn như dán mắt vào cậu ta, miệng há to vì khâm phục.
“Mình thì suýt chết vì cái móc của nó, mà nó lại thế đấy…” Giamin bực mình nghĩ bụng. Thậm chí cậu không nghe thấy cả lời của mấy người phụ nữ Matxcowva đang bảo cậu đi tắm và nhận giặt hộ áo cho cậu.
- Có thật là anh đã cưỡi lên con dê không?- chú bé hỏi
Giamin không đáp, bỏ đi ra cổng
- Thì ít ra cũng cầm lấy bánh xà phòng này chứ - người phụ nữ xinh đẹp chạy theo ra tận ngõ, chìa cho cậu một bánh xà phòng còn nguyên, màu hổ phách.
Lâu lắm Giamin mới được thấy một bánh xà phòng như thế. Cậu vẫn phải dùng một thứ nước đen như dầu chưng thay xà phòng. Giặt bằng thứ nước này không sạch, tay xát nó dính như xát lên nhựa thông, mắt cay như gặp phải mùi hành. Bánh xà phòng này quả là một cám dỗ lớn. Có nó, có lẽ mẹ cậu sẽ tha cho không mắng vì tội làm bẩn áo. Nhưng rồi, không hiểu sao cậu thở dài nói:
- Có phải vì xà phòng mà tôi làm giúp đâu - Cậu biết là một bánh xà phòng như thế giá rất đắt..
“Một cậu bé hơi kỳ” - Người phụ nữ xinh đẹp nghĩ bụng, nhìn theo chiếc lưng hơi cúi với chiếc áo lấm rêu ướt của Giamin.
Bỗng có tiếng gì rơi đánh ầm một cái và tiếng nước sóng từ phía giếng nước vọng lại. Người đầu tiên chạy tới là cô bé có hai bím tóc nhỏ. Đôi mắt mở to của cô đầy vẻ lo lắng và ngạc nhiên. Trong giếng cô không còn thấy bầu trời sóng sánh, không thấy các đám mây trắng lững lờ bay - lòng giếng bốc mùi rêu và khí lạnh - phần dưới của giàn gỗ bị rơi xuống nước.
Những người sơ tán hồi lâu vẫn nhìn xuống lòng giếng, như không tin là đứa bé hàng xóm đã lên khỏi đó từ lâu.