Vì tôi bị ốm đi nằm bệnh viện nên bức thư tiên sinh gửi ngày 8 tháng 8 tôi mới nhận được, xin lỗi tiên sinh tôi đã trả lời chậm.
Tôi rất vui mừng đọc thư của tiên sinh và Tất Thành Húc tiên sinh. Tác phẩm của tôi đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Nga, và Hàn Quốc, nhưng chưa được dịch ra tiếng Việt. Tuy tôi chưa sang Việt Nam, nhưng đúng như tôi đã từng viết trong một bài tản văn của mình, khi tôi đang học đại học đã từng hiến ba trăm mililít máu vì Việt Nam. Tôi kính phục dân tộc Việt Nam! Thông qua đài báo, tôi biết Việt Nam cũng đang cải cách, phát triển khá nhanh, tôi rất vui và xin chúc mừng các bạn Việt Nam hạnh phúc…
Một lần nữa cám ơn tiên sinh và xin gửi lời hỏi thăm tới Tất Thành Húc tiên sinh cùng Lục Quân tiên sinh.
Trong mười bốn tập văn tuyển đồ sộ của nhà văn Giả Bình Ao, tiểu thuyết "Phế đô" đã gây xôn xao dư luận nhất trong cả nước. Sau khi "Phế đô" được đăng trên tạp chí "Tháng mười" và được nhà xuất bản Bắc Kinh ấn hành năm 1993, kể cả số in lậu, tổng số sách in ra đã vượt con số một triệu cuốn. Ngay trong lúc "Phế đô" chưa chính thức xuất bản, hoặc vừa mới xuất bản, đã có những người đặt ngang hàng "Phế đô" với "Hồng lâu mộng" và "Kim bình mai", là "Hồng lâu mộng" và "Kim bình mai" hiện đại, trong lĩnh vực miêu tả và khắc hoạ về trí thức, thì "Phế đô" là tác phẩm hay nhất sau cuốn "Vây thành". Giới văn học đã một thời tranh luận rộ lên về cuốn sách này, thậm chí có địa phương còn tổ chức hội thảo văn học học thuật về "Phế đô" và hiện tượng "Phế đô". Trong hội thảo có người khen, người chê, người thì khen trong chê, người thì chê trong khen, người bảo "Phế đô" thật, người bảo "Phế đô" giả, người bảo "Phế đô" thiện, người bảo "Phế đô" ác, người bảo "Phế đô" đẹp, người bảo "Phế đô" xấu. Đây là hiện tượng bình thường trong thảo luận học thuật.
Nếu tóm tắt nội dung "Phế đô" cũng phải ngót nghét bảy tám chục trang in, nên tốt nhất xin cứ để bạn đọc lần theo từ trang đầu đến trang cuối cuốn sách. Nhưng qua mối liên hệ đan xen giữa các nhân vật, mà chủ yếu là giữa danh nhân Trang Chi Điệp với những người đàn bà cùng những người thân cận của anh, toàn bộ đời sống hiện thực và tâm linh của con người đang tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá được tái hiện sống động với những số phận khác nhau và tính cách tiêu biểu qua các trang viết của "Phế đô", mỗi bạn đọc đều có thể có những cảm thụ riêng, chẳng hạn, không nên vứt bỏ cái có sẵn trong tay để tìm bắt bóng, khi người ta đã phạm sai lầm lần đầu tiên sẽ có thể liên tiếp dấn thân vào sai lầm thứ hai, thứ ba…Khi con người cho dù là nhân vật tiếng tăm, song đã thoái hoá suy đồi và khi thực trạng đầy rẫy bệnh hoạn, thì theo quy luật tuyển chọn tự nhiên tất sẽ tự phế bỏ, không ai đánh đổ được mình trừ chính mình. Quả thật trong đời sống xã hội và không có ít những người vô tình hay hữu ý huỷ hoại bản thân và môi trường mình đang sống. Đọc "Phế đô" càng làm cho ta cảm thấy sâu sắc sự cần thiết phải sống trong sáng, lương thiện và trung thực biết chừng nào?
Trong hình thức thể hiện, tác giả cũng có những thủ pháp lôi cuốn người đọc, ví dụ như miêu tả chi tiết các cuộc làm tình, thường vào lúc cao trào nhất, tác giả lại vẽ sáu khung vuông bỏ trống và trong dấu ngoặc đơn chứa dòng chữ "Tác giả cắt bỏ ngần này chữ…", yếu tố tình dục và mê tín khá đậm nét trong "Phế đô", song tác giả mô tả tình dục không phải để khêu gợi tình dục, miêu tả mê tín không để khuyến khích mê tín, mà đàng sau các chi tiết ấy, tác giả muốn nói lên những khiá cạnh rộng lớn về con người và đạo đức của lối sống hiện đại.
Với một tác phẩm mà nội dung và hình thức như vậy, tôi nghĩ nên dịch ra để bạn đọc nghiên cứu, tham khảo. Trong quá trình dịch "Phế đô", tôi đã trung thành với nguyên tác, cố găng dịch sát ý, làm sao phản ánh bộ mặt y như nó có của tác phẩm, lại vừa "Việt nam hoá" tối đa ngôn ngữ nước ngoài. Có những chữ, có những cụm từ tôi phải hỏi lại bạn Trung Quốc qua điện thoại, thậm chí có bài văn bia cổ phải fax sang nhờ bạn dùng ngôn ngữ hiện đại dịch ra giúp. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách quá rộng, tác giả đề cập đến nhiều khiá cạnh phức tạp của đời sống vật chất và tinh thần của các dạng, các kiểu người với những lối ăn chơi, lối nói lóng mang nặng màu sắc phong tục tập quán địa phương, cho nên dù đã hết sức cố gắng, song trình độ có hạn chắc chắn có những chỗ bất cập mong bạn đọc thông cảm và chỉ giáo, tôi sẵn sàng tiếp thu phê bình và xin cám ơn ý kiến quý báu của bạn đọc để có thêm kiến thức và kinh nghiệm chọn dịch tiếp tác phẩm của nhà văn Giả Bình Ao đang được dư luận trong nước bạn coi là một torng những nhà văn lớn hàng đầu của văn đàn Trung Quốc.
Tôi xin chân thành cảm ơn những người đã động viên khích lệ tôi dịch xong tác phẩm này.
Thị xã Thái Bình, ngày 8 tháng 6 năm 1999
Vũ Công Hoan
"Tình tiết hoàn toàn bịa đặt
Xin chớ suy bụng ta ra bụng người
Chỉ có tâm linh chân thực
Cười chửi khen chê xin tuỳ"
Tuyên bố của tác giả năm 1993
Năm một ngàn chín trăm tám mươi, ở thành Tây kinh xảy ra một chuyện lạ. Có hai anh bạn chí thân, một hôm buồn quá mới đi tưởng niệm Đường Quý Phi Dương Ngọc Hoàn. Thấy nhiều khách du lịch ai cũng bốc theo một nắm đất mộ xách theo người, thắc mắc lắm, hỏi ra mới biết, Quý Phi là người đẹp tuyệt thế, lấy đất này rắc vào chậu hoa, hoa cũng sẽ tươi đẹp vô cùng. Hai anh bạn cũng bới rất nhiều, gói vào áo mang về, đựng vào một cái chậu sành đen cất giữ đã lâu năm, chờ có giống hoa tốt sẽ gieo hạt. Nào ngờ mấy ngày sau tự nhiên trong chậu hoa mọc lên một cái chồi xanh, chỉ trong một tháng đã biến thành một khóm cây tươi tốt. Nhưng cây này đặc biệt lắm, không ai biết là loài gì. Bê đến chùa Dựng Hoàng trong thành hỏi người thợ già trồng hoa, người thợ già cũng không biết. Vừa may có đại sư Trí Tường đi qua, liền xin ý kiến đại sư. Đại sư cũng lắc đầu. Một trong hai anh bạn lại hỏi: "Thường nghe Đại sư biết xem bói đoán số. Xin đại sư bói xem cây hoa này về sau nở mấy nhánh?". Đại sư bảo một anh khác nói ra một chữ, anh ấy đang cầm cái kéo của người trồng hoa trong tay, buột mồm nói ra chữ "Nhĩ". Đại sư bảo: "Hoa sẽ là hoa lạ, nở ra bốn nhánh, nhưng chẳng được bao lâu sẽ bị các anh làm hại". Quả nhiên về sau hoa nở bốn nhánh, nhưng hình dạng vừa tương tự mẫu đơn lại vừa tương tự hoa hồng. Hơn nữa có một nhánh nhuỵ màu đỏ, một nhánh nhuỵ màu vàng, một nhánh nhuỵ màu trắng một nhánh nhuỵ màu tim, đẹp vô cùng. Bỗng chốc tin đồn loan đi, ngày nào cũng có người nườm nượp kéo tới xem, không ai là không thốt lên khen ngợi. Hai anh bạn tự nhiên đắc ý, đặc biệt có một anh yêu qúy hoa hơn, bưng để lên bàn, đích thân chăm nom, bón phân tưới nước. Nào ngờ một hôm say rượu, nửa đêm tỉnh dậy chợt thấy nên đi tưới hoa, loắng quắng thế nào xuống nhà bếp xách nhầm ấm nước sôi, thế là cây hoa chết yểu. Anh bạn cứ hối hận mãi, tức mình đập vỡ chậu sành, lăn ra ốm một tháng không gượng dậy nổi.
Chuyện này tuy lạ nhưng xét cho cùng cũng chỉ là một chậu hoa mà thôi, số người biết cũng không đông, sau đấy không ai nhắc đến nữa. Nào ngờ sau mùa hè, thành Tây Kinh lại xảy ra một chuyện lạ lớn hơn, ai ai cũng được chứng kiến. Vào giữa trưa ngày mồng bảy tháng sáu âm lịch, đầu tiên mặt trời vẫn đang còn toả ánh sáng rực rỡ, cái hay của mặt trời là mặt trời vẫn đang chiếu sáng, mà con người thì quên mặt trời đang toả sáng, cho nên người Tây Kinh không ai nhìn lên mặt trời. Hình thế đường phố vẫn là hình thế trước đây. Người có chức sắc ngồi xe con thì ngồi xe con, người không có chức sắc nhưng hái ra tiền, không muốn chen xe ca, liền giơ tiền lên vẫy đi taxi. Giữa lúc ấy có nhân vật nào đó quan trọng thân chinh đến nơi này, mấy xe công an hộ tống mở đường, bóp còi inh ỏi, tất cả xe con, xe taxi, xe ca chở khách phải tránh sang một bên đi chậm lại, còn dòng sông dài xe đạp thì rối loạn đội hình. Chỉ có người đi bộ thì chỉ biết sải bước, anh nọ dẫm vào bóng anh kia, cái bóng đâu có đau có ngứa. Đột nhiên màu sắc cái bóng chuyển từ đậm sang nhạt, càng nhạt càng ngắn, rồi chợt biến mất. Con người không có cái bóng kéo theo thì hình như con người không còn là con người nữa, đưa tay sờ vào mông, sờ đến nỗi đực mặt ra nghi hoặc. Có người chợt nhìn lên trời liền reo to: "Ồ kìa, trên trời có bốn ông mặt trời!". Mọi người ngẩng hết đầu lên nhìn trời, quả nhiên trên đó có bốn ông mặt trời. Bốn ông mặt trời kích thước như nhau, không phân biệt rõ cũ mới, đực cái, cụm lại làm một, thành hình chữ Đinh. Trong kinh nghiệm trước kia, trên trời đã từng có trăng khuyết và nhật thực, song cùng một lúc có bốn mặt trời thì chưa thấy bao giờ, cứ tưởng mắt nhìn nhầm lại ngước mắt nhìn trời, mặt trời không còn đỏ nữa mà trắng bợt, trắng như màu trắng của tia hàn điện. Trắng giống như cái gì nhỉ? Cũng chẳng nhìn thấy cái gì hết. Hoàn toàn một màu đen. Con người không nhìn thấy cái gì. Con người sáng mắt hoàn toàn mà cũng không nhìn thấy gì ư? Xe to xe nhỏ không còn dám chạy nữa, chỉ bóp còi suông, còn con người thì bước giẫm lung tung, lơ mơ cảm thấy mình không ở trên đường phố, đang xem phim thì phải? Máy chiếu đột nhiên bị hỏng, hình trên màn bạc biến mất, mà tiếng nhạc còn đang vang. Một người cảm thấy như thế, mọi người cũng gần như cảm thấy như thế. Vậy là yên tĩnh hẳn xuống, yên tĩnh đến mức chết lặng đi, chỉ còn tiếng huyên một nhạc khí cổ xưa bằng đất hình quả trứng có sáu lỗ ai đó thổi trên tường thành còn muốn cất lên tiếng cuối cùng, song không cất lên nổi vì đã đứt hơi, giống như gió đập vào tường, tạt ngang biến mất. dường như mọi người coi khinh rẻ kẻ thổi huyên kia, cười khẩy một cái, chợt giật mình trở về với hiện thực đang sống, đồng thời bị sự yên tĩnh làm cho khiếp sợ, đã kêu ầm ĩ, đâu đâu cũng nháo nhào, lộn tùng phèo cả lên.
Hiện tượng quái dị này đã kéo dài gần nửa tiếng đồng hồ, thì mặt trời trên không trung lại khôi phục chỉ còn có một ông. Khi mắt người ta đã nhìn rõ dần bóng mình trên mặt đất thì ai cũng trơ mắt nhìn nhau, sau đó đã xấu hổ vì sự nhếch nhác, liền hốt hoảng bỏ chạy tán loạn. Bỗng chốc loài người rối tinh rối mù như kiến vỡ tổ song chẳng thấy bóng cảnh sát giao thông đâu cả. Trên hòn đảo an toàn có ông già ngồi nhởn nhơ một mình. Ông già đầu bù tóc rối, mặt mày nhọ nhem song đôi mày thì rất dài, đang lạnh lùng nhìn mọi người hối hả qua lại. Ánh mắt của ông khiến ai nấy có phần nào không chịu nổi, cuối cùng điên tiết lên quát gọi: "Cảnh sát đâu nhỉ? Cảnh sát đâu rồi? " Người cảnh sát họ Tô, vừa chạy vừa đội mũ két pi lên đầu cứ mắng ông già là kẻ ăn xin bằng tiếng "Pi". Tiếng "Pi" là tiếng địa phương thô tục nhất trong thành Tây Kinh chửi "Cút đi". Ông già nghe chửi đưa ngón tay viết lên đảo an toàn một từ thời cổ xưa lại rất nho nhã, âm đọc là "pỷ" song chữ là "ty", có nghĩa tránh. Ông thư thả mỉm cười. Tiếp theo ai nấy cười rộ hẳn lên. Bởi vì khi ông già bước xuống khỏi đảo an toàn để lộ bộ quần áo mặc trên người vốn được may bằng những bức gấm của khách hành hương tặng chùa Dựng Hoàng. Trước ngực in hai chữ "Có cầu", hai chân dạng ra, chỗ đũng quần là những đường mũi kim thô xù xì kéo dài cho đến tận lưng. Trên mông bên trái là chữ "tất", bên phải là chữ "ứng". Ông già không tỏ ra xấu hổ, mà xuất khẩu thành chương, đọc vanh vách một bài vè. Bài vè này sau đó lan truyền cả thành phố. Bài vè đó như sau:
Công dân loại một làm đầy tớ Gác tiá lầu son sướng như tiên. Công dân loại hai làm quan phe Đầu cơ buôn lậu có ô che. Công dân loại ba làm thầu khoán Chơi bời cờ bạc ăn uống đã có nơi thanh toán. Công dân loại bốn chuyên cho thuê Ngồi nhà rung đùi thu bạc tỉ. Công dân loại năm đội mũ kê pi Ăn cả bên nguyên lẫn bên cáo. Công dân loại sáu thầy thuốc cầm dao Phong bì quà biếu đầy hầu bao. Công dân loại bảy làm diễn viên Ngoáy mông dướn eo cũng ra tiền. Công dân loại tám làm tuyên truyền Dăm ba hôm một bữa giải cơn thèm. Công dân loại chín làm giáo viên Sơn hào hải vị nào có biết hết tên. Công dân loại mười chủ nhân ông Chân chỉ hạt bột loại Lôi Phong.
Bài vè này sau khi lan truyền đi, có người phân tích ông già này không phải là kẻ ăn mày, hay nói cách khác, ít nhất ông cũng làm giáo viên. Bởi chỉ có thầy giáo mới soạn được những lời vè như vậy. Hơn nữa, lời vè đều tỏ ra chỉ trích đối với mấy loại người trước, chỉ có loại người giáo viên là được kêu khổ kêu oan. Nhưng xét cho cùng ông già là loại người gì thì không ai hỏi cho ra nhẽ. Trong năm ấy, thành Tây Kinh vừa bổ nhiệm một thị trưởng mới, vị thị trưởng này quê ở gốc Thượng Hải, phu nhân lại là người địa phương Tây Kinh. Mười mấy năm qua, mỗi nhiệm kỳ thị trưởng Tây Kinh, ông nào cũng có lòng lập công lập nghiệp ở thành cổ này. Nhưng hầu hết đều làm đi làm lại, quanh quẩn như con kiến leo ra leo vào trên cành đào, không sao nhúc nhích khởi sắc lên được, liền rời khỏi dinh lũy thép ra đi một cách êm ru. Ông thị trưởng mới này tuy không vui vẻ nhận chức trước cổng nhà bố vợ, khổ một nỗi đã dấn thân vào con đường làm quan, hoàn toàn do người ta sắp đặt, sau khi nhận nhiệm vụ, lúng ta lúng túng không biết xoay sở thế nào, bắt đầu hành động từ đâu. Phu nhân thuộc diện nội trợ giỏi giang, liền triệu tập nhiều bạn bè thân thích tham mưu cố vấn cho chồng, thế là có một người trẻ tuổi tên là Hoàng Đức Phúc, nêu ra một đề nghị: Tây Kinh là cố đô của mười hai triều đại, văn hoá lắng đọng sâu dầy, vừa là vốn liếng vừa là gánh nặng, tư duy của dân chúng và cán bộ các tầng lớp có khuynh hướng bảo thủ, cho nên kinh tế lâu nay phát triển thua xa so với các tỉnh thành ven biển, nếu cứ như các thị trưởng nhiệm kỳ trước mặt nào cũng nắm, thì thường bởi xí nghiệp già cỗi, xây dựng thành phố nợ nần chồng chất, bỏ ra mười phần công sức mà hiệu quả thu được ba phần, hơn nữa nhiệm kỳ bây giờ thường là ba năm hoặc năm năm sẽ điều đi, quy hoạch lâu dài khó hình thành mà nhân sự lại thay đổi. Đã như vậy thì thà rằng cứ nắm những nghề mà người khác không ham, ví dụ phát triển văn hoá và du lịch. Chỉ trong thời gian ngắn là đã có thành tích chính trị. Thị trưởng được gợi mở lớn, không ngại hỏi tiếp, đã mời người trẻ tuổi ấy đến nói chuyện, ba ngày ba đêm, lại điều anh ta khỏi trường học cũ về trụ sở uỷ ban thị làm thư ký riêng. Ngay tức khắc lên kinh đô xin kinh phí, xuống cơ sở kêu gọi góp vốn ở khắp nơi, dóng dựng một sự nghiệp to lớn ngàn năm bất hủ, tức là sửa sang lại thành Tây Kinh, khai thông con sông trong thành, xây khu vui chơi giàu màu sắc địa phương dọc theo bờ sông. Còn xây lại ba đường phố lớn, một đường xây theo kiểu kiến trúc đời Đường, chuyên bán tranh vẽ, chữ viết và đồ gốm, một đường phố xây theo kiến trúc đời Tống, chuyên kinh doanh các món ăn vặt dân gian của thành phố cho đến cả tỉnh, một đường phố xây theo kiến trúc đời Minh, đời Thanh, tập trung tất cả công nghệ phẩm dân gian và đặc sản địa phương. Nhưng ra sức phát triển nghề văn hoá ở thành thị, đã làm cho số người lưu động ở thành phố tăng vọt, đã xuất hiện nhiều tệ nạn trên lãnh vực trật tự trị an. Trong giây lát thành Tây Kinh bị người nơi khác gọi là thành trộm cắp, thành nghiện hút, thành ở lậu…Dân thành phố cũng bắt đầu nảy sinh tư tưởng bất mãn. Khi ông già đầu bù tóc rối mặt mũi nhọ nhem lại đọc bài vè trên đường phố, thì lúc nào cũng có một tốp những kẻ ăn không ngồi rồi nhũng nhẵng bám theo sau, hò hét: "Đọc lại đi! Đọc nữa đi!". Ông già liền nói hai câu:
- Bảo anh được, anh sẽ được, không được cũng được. Bảo không được sẽ không được, có được cũng không được.
Bọn vô công rồi nghề nghe xong đồng loạt vỗ tay. Ông già không nói câu vè này ám chỉ người nào, xong bọn vô công rồi nghề lại suy bụng ta ra bụng người, câu vè lại loan truyền nhanh như gió. Chẳng bao lâu câu vè lọt đến tai của Hoàng Đức Phúc, liền gọi điện thoại cho cục Công an, nói ông già gieo rắc tin đồn nhảm về thị trưởng, cần phải ngăn chặn. Cục Công an đã bắt giữ ông già, tra hỏi ra mới biết, thì ra một tên lưu manh đi kiện đã hơn mười năm nay.
Thế nào là lưu manh đi kiện?
Bởi vì hơn mười năm trước, người này là giáo viên dân lập, khi xét chuyển thành giáo viên nhà nước thì bị cấp trên trù dập không chuyển được, liền lên Uỷ ban tỉnh kêu oan, vẫn không thành công. Thế là ở hẳn Tây Kinh, cứ dăm ba ngày lại đến cổng Uỷ ban thưa kiện, đưa đơn biểu tình ngồi, lâu dần muốn vào không có lối, muốn rút không bậc thang, đâm ra bị tâm thần. Sau đó thôi chẳng kiện tụng nữa, cũng không về làng, liền lang thang trên hè phố. Cục Công an đã bắt hỏi mười ngày, tra xét không có tội nên thả ra, lấy xe chở ra khỏi thành phố ba trăm dặm rồi thả xuống. Nào ngờ được vài hôm lại thấy ông già trên đường phố . Song ông già đã kéo chiếc xe cải tiến cọc cạch len lỏi trong các phố bới nhặt đồng nát. Đám người vô công rồi nghề tự nhiên cứ bám theo, sai bảo ông lại đọc ca dao hò vè. Ông già bây giờ đã ki bo miệng lưỡi, chỉ rao rất cao rất dài: "Đồng nát nào! Nhận khoán đồng nát nào!", tiếng rao này vang trong ngõ phố ngày hai buổi sớm tối, cũng thường có người thổi huyên trên tường thành. Một người kêu như sói gầm, một kẻ rên như ma khóc, hai bên đối đáp nhau, hàng ngàn con chim trên lầu chuông gác trong cứ huyên náo ỏm tỏi cả lên.
Hôm nay ông già kéo chiếc xe cải tiến bánh sắt không có săm lốp, đi loanh quanh mãi mà không thu nhặt được đồng nát, liền đứng ở vạt đất ngoài tường chùa Dựng Hoàng, thèm thuồng nhìn mấy đại sư khí công dạy người học phép dẫn dắt nhổ ra lấy vào, lại còn thấy từng tốp từng tốp tụ tập ở dưới tường thành thấp lè tè bốc quẻ xem bói, liền rẽ vào cũng tính xin thầy tướng số bói cho một quẻ. Người xung quanh liền bảo:
- Ông già ơi, ở đây không xem bói mạng sống nhỏ nhoi đâu. Đại sư là người cao thủ ở núi Nga Mi, chỉ dự đoán những sự việc lớn dưới gầm trời.
Tự ý đẩy ông già ra mãi xa. Ông già vô cớ bị trêu chọc, liền đỏ mặt tiá tai. Giữa lúc đó trời đổ mưa rào rào, những giọt nước mưa to bằng đồng xèng đập xuống, trên mặt đất lập tức giăng giăng bụi mù, loáng một cái nước nổi lênh láng, vô vàn bong bóng nước cứ thế thay nhau cái này nổi lên trên cái kia tan ngấm. Người nọ tiếp người kia bỏ đi cả, ông già nói một câu "Mưa đúng lúc" cũng bỏ xe đấy chạy vào cổng chùa Dựng Hoàng trú mưa dưới cột cờ. Bởi đứng không chán ngán, cũng có thể ngứa họng, ông già lại cao giọng đọc một đoạn ca dao.
Nào ngờ đại sư Trí Tường đang ngồi héo hon trong cổng chùa Dựng Hoàng đã nghe được đoạn ca dao ấy. Trong cổng chùa Dựng Hoàng có một hòn đá lạ, bình thường chẳng có màu sắc, hễ gặp mưa trời âm u, trên hòn đá nổi lên đường vằn hình con rồng rất nét, đẹp vô cùng. Đại sư Trí Tường thấy mưa liền ra cổng chùa xem đá rồng nghe bên ngoài có tiếng hát: "Giàu sang thì làm quan, phát tài thì buôn bán, nghèo khổ thì ra rìa".
Dường như đang nghĩ đến một chuyện gì đó thì một tiếng kêu chát chúa như sét đánh ngang tai đập trên mái ngói cổng chùa. Ngẩng đầu nhìn lên đã thấy bảy cái cầu vòng đan xen vào nhau lơ lửng trên nền trời đàng Tây, liền liên tưởng đến hôm có bốn mặt trời xuất hiện trên không trung, biết rằng Tây Kinh sắp có chuyện lạ. Quả nhiên ngày hôm sau đài đưa tin đã phát hiện ra Sarira của Đức Thích Ca Mâu Ni cách chùa cửa Phật hai trăm dặm. Xương Phật xuất hiện ở Tây Kinh đã gây chấn động thiên hạ. Đại sư Trí Tường đêm đó ngồi im trong phòng thiền, chợt hiểu ra, nói một mình. Hiện giờ trên đời hiếm có sói, hổ báo vì chó sói, hổ báo hoá thành người ra đời cả rồi, cho nên có nhiều kẻ gian ác xấu xa. Đồng thời trong thành Tây Kinh những năm gần đây tụ tập biết cơ man nào thầy khí công, nào người có công năng đặc biệt, phải chăng ông trời đã cử loại người này xuống để cứu vớt nhân loại? Chùa Dựng Hoàng tự có phép công cường thịnh. Đã có bao nhiêu thầy khí công thông thường, và người có công năng đặc biệt đua nhau xuống núi, thì sao mình không gắng hết công đức cơ chứ? Thế là dán truyền đơn áp phích quảng cáo khắp nơi, mở lớp huấn luyện sơ cấp ở trong chùa thu nhận học viên truyền thụ công pháp thông hiểu trời đất. Lớp học khí công mở được ba khoá, khoá nào cũng có một học sinh tên là Mạnh Vân Phòng. Mạnh Vân Phòng là nghiên cứu viên quán văn sử song anh đều hăng hái đối với bất cứ việc gì. Bảy năm trước cả thành phố đang háo hức với một loại nấm trà đỏ, chữa được bệnh, làm cơ thể khoẻ mạnh, anh đã nuôi trồng tại nhà đến mức trong nhà chỗ nào cũng lỉnh kỉnh chai lọ đựng nấm trà, lại còn đem cho bà con khối phố khá nhiều. Vậy là quen biết một bạn trà dẫn đến chỗ cưới bạn trà này làm vợ. Sau đó hai vợ chồng lại bắt đầu vung tay, nói liệu pháp vung tay hơn hẳn nấm trà đỏ. Đương nhiên việc ấy chỉ được chừng nửa năm. Ngoài xã hội lại dấy lên cơn sốt ăn trứng chua, lại uống tiết gà, hai người đều nhất nhất làm theo. Nào ngờ uống tiết gà vào liền sinh bệnh. Bao nhiêu lông vợ rụng cho bằng sạch. Đi nhiều bệnh viện khám chữa không khỏi, vô tình nghe người hàng xóm kề bên có liều thuốc bí mật gia truyền, bà vợ liền sang xin chữa. Quả nhiên đã mọc lại lông mới. Người hàng xóm hơn Mạnh Vân Phòng một tuổi, trước đây cũng đã cùng nhau chơi mạt chược, sau đó ra khỏi cửa gặp nhau, gật đầu chào, người hàng xóm cười hề hề. Mạnh Vân Phòng liền mua quà biếu rất sang về bảo vợ:
- Người ta đã chữa cho em, em nên sang cám ơn người ta mới phải chứ.
Bà xã mang quà sang biếu, rồi hớn hở về nhà, song Mạnh Vân Phòng lại đặt đơn ly hôn đã viết sẵn lên bàn bảo vợ ký vào. Anh bảo thôi nhé, phen này thì chúng mình ly hôn, vợ là vợ của anh, mặc áo nhìn bố, cởi áo nhìn chồng, tại sao cái thứ của vợ anh lại để người ngoài nhìn thấy? Cắt đứt được sáu tháng thì cưới vợ mới là Hạ Tiệp, cũng theo họ Hạ tìm nơi ở mới. Nhà mái thường mới, vừa vặn cách chùa Dựng Hoàng một bức tường, tường ngăn không cao. Sau khi cưới vợ mới, Mạnh Vân Phòng ở nhà, thường ngày chẳng có việc gì, thường hay ghé đầu vào tường nghe âm nhạc, nhìn sư sãi đi lại. Từ sau khi tham gia học khí công, hàng ngày cứ nghe tiếng thanh la đồng gõ xủng xoảng là tay chân ngứa ngáy như khỉ, muốn vượt tường lao sang. Một lần đại sư Trí Tường bắt gặp, hối hả định chạy trốn thì đại sư bảo:
- Chúng mình chỗ quen biết cũ mà?
Mạnh Vân Phòng vội gật đầu và nói:
- Đại sư có trí nhớ tốt thế, vẫn còn nhớ tôi sao?
Đại sư đáp:
- Sao lại không nhớ kia chứ, cây hoa lạ của các anh chết rồi phải không?
Mạnh Vân Phòng nói:
- Vâng, chết rồi ,đại sư đoán chữ quả là linh nghiệm.
Đại sư laị hỏi:
- Thế bạn anh thì sao? Đã khỏi ốm rồi chứ?
Mạnh Vân Phòng trả lời:
- Đã khỏi lâu rồi ạ. Đại sư biết cả chuyện bạn tôi bị ốm nữa ư? Đúng là người thần thánh!
Đại sư nói:
- Đâu có, nếu là thần thánh, lúc ấy tôi nên giữ danh nhân ấy lại để tiện nói chuyện.
Mạnh Vân Phòng vội nói:
- Để lúc khác nhất định tôi sẽ dẫn anh ấy đến nói chuyện với đại sư.
Lớp học khí công khoá đầu khai giảng Mạnh Vân Phòng đã mê ngay khí công, lại còn khoe khoang khắp nơi, trên người có khí cảm. Mỗi khi có người quen họp mặt, Mạnh Vân Phòng liền xuống tấn trong trạng thái gây tác dụng, sẵn sàng phát công cho người khác, lại còn hỏi đi hỏi lại có cảm giác gì không. Không có cảm giác gì, lại đọc lời chú, đọc đến nỗi sùi cả bọt mép, trán đẫm mồ hôi vẫn không ăn thua. Mọi người liền cười ồ lên. Hạ Tiệp nói:
- Anh ấy có khí thật đấy. Tối hôm qua em chướng bụng, anh ấy phát công một cái, quả nhiên bụng em sôi ùng ục, một lát sau em đã chạy ra chuồng tiêu. Bây giờ anh ấy không đụng đến rượu thịt, không hút thuốc lá cũng không ăn hành.
Mạnh Vân Phòng nói:
- Thật đấy.
Anh em bảo:
- Ồ, đi với sư thì làm sư luôn, vậy thì cai gái luôn chứ? Nếu tối không ngủ với chị Tiệp thì là cai rồi.
Hạ Tiệp cũng cười bảo:
- Em cũng chờ anh Phòng cai đấy.
Chị liếc nhìn chồng, mặt anh Phòng đỏ ửng.
Lời của Hạ Tiệp, chỉ có Hạ Tiệp và Mạnh Vân Phòng biết được mà thôi. Thì ra trong thời gian học khí công, Mạnh Vân Phòng quen biết ni cô Tuệ Minh trong chùa. Tuệ Minh mới ba mươi tám tuổi, mới ba năm trước tốt nghiệp viện Phật học về chùa Dựng Hoàng. Hai người đã nói chuyện với nhau vài lần. Mạnh Vân Phòng rất khâm phục tri thức Phật học của chị. Anh cũng đã từng đọc "Ngũ đăng hội nguyên", và "Kinh kim cương", lại giỏi vận dụng nên thường được Tuệ Minh xin ý kiến khi gặp việc khó. Thế là nhiều buổi trưa, ở bên kia tường ngăn thấp lè tè, Tuệ Minh đã gọi thầy giáo Phòng. Hai người bám tường nói chuyện ríu ra ríu rít lâu lắm. Một buổi tối trăng sáng yên tĩnh, Hạ Tiệp đi đâu về lại thấy Mạnh Vân Phòng bám tường nói chuyện với ni cô Tuệ Minh. Bởi bám lâu quá, muỗi đốt hai chân, chân nọ cứ nhấc lên gãi liên tục vào chân kia. Bên này tường nói:
- Tuệ Minh ơi, bài luận văn này viết hay lắm! Nhưng em cũng cần nghỉ ngơi dưỡng sức chứ.
Bên kia tường đáp:
- Em không mệt. Người mệt là tâm mệt, lặng lẽ viết bài luận văn này, em chỉ cảm thấy khoan khoái.
Bên này tường bảo:
- Khoan khoái như sen chứ? Chỉ cách một bức tường mà hai thế giới. Anh hâm mộ bên các em.
Bên kia tường cười hì hì, bảo:
- Anh làm được mọi thứ, chỉ không làm sư được thôi. Anh ở ngoài không tìm được thanh tịnh. Tìm được nơi thanh tịnh thật thì e rằng anh không chịu nổi thanh tịnh đâu mà?
Bên này lại hỏi:
- Thật chứ?
Bên kia lại trả lời:
- Chuyện nói với anh hôm trước, nhất định phải giữ kín đấy nhé?
Bên này nói:
- Chuyện ấy anh hiểu, thắt chặt trái tim, giữ miệng kín như hũ nút mà.
Bên kia bảo:
- Thầy giáo Phòng tốt thật đấy. Vậy em còn viết một lá đơn kiện, nhờ thầy đưa tận tay cho thị trưởng.
Bên này cố sức rướn người, thò tay sang bên kia nhận, bảo:
- Em đứng trên hòn đá thì anh mới nhận được. Ái chà, trẹo chân rồi phải không?
Bên kia đáp:
- Không.
Một tập giấy thò lên khỏi mặt trường, Mạnh Vân Phòng đã cầm được, nhưng cùng lúc đó cây gỗ bên này giẫm lên bị gãy uỵch một tiếng, người ngã lăn ra, cằm va vào ngói trên tường, một hòn ngói lăn xuống vỡ tan. Hạ Tiệp nhìn lớp kịch hay đó, nói:
- E hèm, Mạnh Vân Phòng ơi, anh cẩn thận đấy! "Tây sương ký" em mới xem một phần đấy nhé!
Cũng chẳng chú ý xem Mạnh Phòng có đau hay không, Hạ Tiệp cầm cái ghế đứng lên nhìn qua tường. Ni cô Tuệ Minh đã chạy xa khỏi khóm hoa như một bóng ma. Lúc này Hạ Tiệp ám chỉ Mạnh Vân Phòng trước đám đông, Phòng đỏ mặt song vẫn nói:
- Em khỏi cần nói nữa, đấy cũng là việc Phật, công đức vô lường.
Mọi người càng khó hiểu được chuyện ấy. Hắn bảo sắp ăn cơm trưa đi thôi. Một anh bảo:
- Chị Phòng cứ thong thả, chỉ cần chị bỏ sức, không cần chị bỏ tiền ra đâu.
Thế là mỗi vị móc ra năm đồng, đương nhiên là Triệu Kinh Ngũ, nhanh tay nhanh chân, xách liền ra chợ mua thịt rượu.
Ở Đồng Quan phiá đông Tây Kinh bốn trăm dặm, những năm này xuất hiện một băng những kẻ nhàn rỗi lang thang. Bọn họ thường bất mãn cái này, không vừa lòng cái kia, nôn nóng tới mức chẳng khác gì một đàn nhặng. Trong đó có một gã tên là Chu Mẫn. Thấy bên cạnh kẻ muốn làm quan đã tìm được bậc thang thăng tiến, người muốn phát tài đã có mười mấy vạn đồng gởi vào ngân hàng. Riêng mình vẫn chưa tìm được cái gì mình cần. Gần chạng vạng tối, buồn chán vô cùng, ngồi trong nhà uể oải được được mấy trang sách, lỉền đi quán cà phê tiêu xài, xả lán một chầu, lại đi dạo tiệm nhảy. Trong tiệm nhảy đã quen biết một người đàn bà xinh đẹp. Sau đó đêm nào cũng đi, thấy chị ta đêm nào cũng đến. Chu Mẫn liền nảy ra ý định lạ lùng: "Có lẽ người đàn bà này có thể gửi gắm cho mình đấy". Xong cuộc nhảy, Mẫn đề nghị được tiễn chị ta về nhà. Chị ta từ chối một lúc song không kiên quyết. Mẫn bạo phổi dùng xe đạp lái đến một phố vắng. Chị ta nhảy xuống tạm biệt, bảo anh đi đi, song vẫn cứ đứng tại chỗ. Mẫn liền bước tới hôn một cái, chị ta liền khóc hu hu, bảo:
- Em hận anh!
Chu Mẫn nói:
- Anh xúc động quá, anh sẽ không bao giờ thế nữa.
Chị ta bảo:
- Em hận lúc này mới gặp anh. Ba năm trước anh ở đâu?
Chu Mẫn liền ôm chầm chị ta đặt lên bót ba ga, phóng vù vù ra bờ sông ngoài thành, khi chiếc xe đạp đỗ xuống thì hai người ngã vật ra bãi cát, cuốn chặt lấy nhau. Lúc này người đàn bà nói:
- Em đã có chồng, con em đã hai tuổi rồi đấy!
Chu Mẫn nghe nói giật mình, nhưng không sao kiềm chế được, bảo:
- Mặc kệ, anh chỉ cần em. Em lấy anh nhé?
Người đàn bà đó tên là Đường Uyển Nhi, từ đó không sao quên được Chu Mẫn. Về nhà đòi ly hôn, anh chồng không nghe, lại còn lột hết quần áo ra đánh. Bị đánh, Chu Mẫn không gặp được Đường Uyển Nhi ở tiệm nhảy, đã bố trí tay chân theo dõi động tĩnh ở đàng trước đàng sau nhà Uyển Nhi.
Tin tức đưa về, nhân lúc anh chồng kia bước ra khỏi cửa, liền lẻn vào dẫn Đường Uyển Nhi đi, dấu vào một buồng kín. Huyện lỵ Đồng Quan cũng to rộng thế, mỗi con ruồi còn có chỗ ra vào, huống là một con người sống? Ngày thứ tư Chu Mẫn đến thăm Uyển Nhi, Uyển Nhi chỉ nói, vừa nhìn thấy một người bạn của chồng, rình mò, rình mò, nhất định sẽ tra hỏi. Nghe vậy Chu Mẫn cũng cảm thấy từ lâu mình không tiện ở một nơi nhỏ bé như thế này, liền thuê một chuyến xe chở Uyển Nhi về thành Tây Kinh, thuê hẳn một phòng để ở. Lúc mới đến Tây Kinh, hai người như cá gặp nước, mua sắm một vài vật dụng trong nhà và đồ dùng sinh hoạt trong nhà. Đầu tiên đi chơi Ao Hoa Thanh và tháp Đại Yên, sau đó mấy lần đi công viên Thiên Mã và khách sạn Đường Hoa. Người đàn bà này là con người tuyệt diệu, háo ăn chơi, thích khách sạn hào hoa và thời trang đẹp, thích xem cả truyện, có tư tưởng mới lạ kỳ diệu. Hai người đi qua ngôi nhà lầu cao ngất báo giờ trong thành. Khi chiếc đồng hồ khổng lồ đang nổi nhạc báo giờ thì Uyển Nhi nói:
- Người ta muốn chết, cứ nhảy từ trên chiếc đồng này xuống chết thế mới là chết oanh liệt!
Chu Mẫn nói:
- Anh muốn chết, anh không nhảy thế đâu. Anh lấy một sợi dây chão treo cổ tự tử trên đồng hồ báo giờ, vừa được chết trong tiếng nhạc, lại được cả thành phố nhìn thấy chết.
Uyển Nhi bảo thế rồi sà vào lòng Chu Mẫn làm nũng, kể chuyện dạo trước hai vợ chồng cãi nhau, chị liền mở dàn loa cho hát bài Tiểu hành khúc, có thứ nhạc nhẹ ấy, tư tưởng hai bên sẽ dần ôn hoà, nào ngờ anh chồng dơ chân đạp đổ dàn loa.
Chu Mẫn bảo:
- Anh ta không biết thưởng thức.
Người đàn bà đáp:
- Anh ta chỉ biết hùng hục, là một con lừa.
Một tháng sau, máu hăng cuồng nhiệt của hai người nguội dần, xẹp đi, tiền của mang theo cũng không còn mấy. Chu Mẫn mới biết đối với đàn ông, đàn bà chẳng qua là thế. Quả tình, Đường Uyển Nhi xinh đẹp, mà thành Tây Kinh to lớn thế, cũng không thực hiện được nguyện vọng của anh. Ở thành phố này, được những thứ mà anh muốn, như phim mới, quần áo mới, đồ trang sức mới, không thiếu thứ gì. Song vẫn thiếu tư tưởng mới và chủ đề mới. Mỗi buổi sáng ánh nắng gặm nhấm bờ tường vẫn là ánh nắng ấy, hoa nở trong bồn vẫn là loại hoa ấy. Mặc dù oai phong của người phụ nữ đã vượt chồng, thì một năm cũng vẫn chỉ có một ngày "mùng tám tháng ba". Tuy lão già tám mươi lấy vợ làm chú rể mới, thì vẫn là ông già. Chu Mẫn chìm đắm trong buồn khổ không thể nói toạc ra với Uyển Nhi những điều đó. Duy chỉ có một việc leo lên tường thành thổi huyên hai buổi sớm tối. Thổi huyên xong vẫn phải sống. Vậy là tìm việc kiếm ăn. Chu Mẫn đã phát hiện ở cách nhà không xa có một cái am ni cô. Trong am đang sửa lại mấy gian buồng, anh đã đến đó và xin việc làm, may mà làm ngày nào trả công ngày đó. Nên ngày nào cũng mua được một con trám cỏ, nửa ký nấm tươi về nhà hầm cho vợ hờ xơi. Chu Mẫn mặt mũi sáng sủa, trông nổi hẳn giữa đám thợ. Cai đầu dài đã giao cho anh quản thêm việc đi thu mua vật liệu. Mua vật liệu lại phải qua ni cô kiểm tra nghiệm thu thế là quen biết thêm thầy Tuệ Minh. Qua chuyện trò vài lần biết thầy Tuệ Minh về chùa Dựng Hoàng cách đây không lâu. Bởi còn trẻ lại có học vấn, tuy không phải là chủ am, nhưng chỗ nào cũng có mặt, lại tự đề xuất ý kiến, chị em ni cô ai ai cũng phục Tuệ Minh. Chu Mẫn thấy Tuệ Minh xinh đẹp, có ý gần gũi, có việc hay không cũng thường đến hỏi. Một hôm đang cầm một quyển sách đọc, chợt ngẩng lên thấy Tuệ Minh đang ở dưới giàn Tử đằng đang vẫy gọi mình. Chu Mẫn bỏ sách xuống đến gần, Tuệ Minh bảo:
- Anh xuất chúng lắm, đọc sách gì vậy?
Chu Mẫn đáp:
- "Tây sương ký", trong chùa Phổ Đà này… - song không nói gì nữa.
Tuệ Minh hỏi:
- Anh cảm thấy am ni cô này không tốt bằng chùa Phổ Đà ư?
Chu Mẫn ngoái đầu nhìn chung quanh, đang định nói điều gì thì khuôn mặt trắng trẻo của Tuệ Minh khe khẽ cười, trông trang trọng lắm. Tuệ Minh nói:
- Anh vừa đến, em đã nhận biết anh không phải là dân làm thuê lao động vất vả, quả nhiên thích đọc sách. Nếu xem cho vui thì thôi, nếu xem để nhận ra một điều gì đó, biết ý tứ sâu hơn trong sách thì có thể gặp một người.
Chu Mẫn nói:
- Đương nhiên hay lắm, không biết người đó là ai. Có chịu gặp tôi không, còn phải nhờ thầy giới thiệu.
Tuệ Minh nói:
- Có cái mồm ngọt xớt như anh, người trong thành Tây Kinh, ai cũng có thể gặp được.
Thế là viết luôn số ngõ phố, tên họ người cần gặp, lại viết một lá thư nhỏ. Chu Mẫn mừng rơn, định đi luôn. Tuệ Minh bảo:
- Chờ một chút, tôi còn một lá thư nữa, anh đem tới cho anh ấy.
Chu Mẫn cầm thư theo số ngõ phố thì tìm được Mạnh Vân Phòng ở sau tường bên trái chùa Dựng Hoàng. Mạnh Vân Phòng rất nhiệt tình, mời ngồi, rót nước, hỏi nhiều tình hình, chẳng hạn đã đọc sách gì? Đã từng viết văn chưa? Đã quen biết ai ở thành Tây Kinh? Chu Mẫn dẻo mỏ, trả lời từng câu. Mạnh Vân Phòng liền dẫn Chu Mẫn vào phòng sách trò chuyện, say sưa lắm. Đêm về Chu Mẫn nói chuyện với Đường Uyển Nhi. Đường Uyển Nhi bảo:
- Xưa nay được ở Tây Kinh không dễ đâu. Chúng mình ở đây không thân quen ai, nay được gặp nghiên cứu viên Mạnh Vân Phòng cũng là phúc to bằng trời, anh không chỉ đi một lần do Tuệ Minh giới thiệu rồi bỏ, mà nên đến nhiều lần mới đúng.
Nghe lời Uyển Nhi, cứ dăm ba hôm Chu Mẫn lại đến thăm một lần. Thời gian đầu đến thăm thường lấy danh Tuệ Minh, về sau mỗi lần đến lại không tránh khỏi mang theo một con cá hay một bó rau. Hạ Tiệp cũng có cảm tình tốt với Chu Mẫn, khen anh ăn mặc gọn gàng trước mặt chồng, chê chồng lôi thôi bẩn thỉu. Hơn một tháng, đã trở thành khách đến nhà thường xuyên. Chu Mẫn bắt đầu đưa bài văn ngắn mới viết đến nhờ sửa chữa. Mạnh Vân Phòng thích làm thầy người khác, tự nhiên giảng giải từ mỹ học cổ điển Trung Quốc đến nghệ thuật hiện đại phương Tây. Nói đến mức Chu Mẫn gật đầu lia lịa, quyết tâm phải chịu khó viết cho văn hay dưới sự chỉ đạo của thầy giáo, liền than phiền đi làm mướn bỏ sức ra chưa kể, ngay đến thời gian cũng không có, thầy giáo Phòng là danh nhân văn hoá trong thành, chắc chắn là có quen biết nhiều người, liệu có thể giới thiệu đến toà soạn một tạp chí nào đó làm tạp vụ một là có thời gian đọc sách, hai nữa là cho dù không có thời gian, nhưng được tiếp xúc toàn người làm văn hoá. Riêng bầu không khí đó cũng giúp nâng cao trình độ cho mình nhanh hơn. Mạnh Vân Phòng nói một câu "Đồng Quan đa chung tú, nhân sự hữu linh khí" (Đất Đồng Quan có nhiều bậc kỳ tài, con người tự khắc có khí thiêng) rồi mỉm cười một mình. Chu Mẫn không biết ý của anh, liền thanh minh luôn, nếu thầy giáo thấy khó thì thôi. Hiện giờ tìm được một việc làm khó lắm, huống hồ toà soạn báo chí là nơi dành cho những người nào.
Mạnh Vân Phòng liền cười bảo:
- Mình dự đoán cậu chẳng phải là tay vừa. Không nói bốc đâu, tất cả các toà sọan báo chí trong thành mình đều quen biết. Hiện giờ tuy toà soạn nào cũng ăm ắp người rồi, nhưng mình nói một câu cũng chẳng phải nước hất đi đâu. Thôi quay lại chuyện cũ đi nhé, muốn kiếm được một chân trong cái làng văn nghệ của Tây Kinh thì phải hiểu được thực trạng cái làng văn nghệ đó. Cậu đã hiểu đến đâu hả?
Chu Mẫn đáp:
- Em đâu có hiểu gì, ra khỏi cửa là đêm đen mù tịt.
Mạnh Vân Phòng nói:
- Trong thành Tây Kinh có hàng đống những kẻ ăn không ngồi rồi. Kẻ ăn không ngồi rồi lại chia ra làm hai loại, một kẻ là ăn không ngồi rồi, về mặt xã hội có thể có địa vị, có thể không có địa vị, có thể có nghề nghiệp, có thể không có nghề nghiệp, đều là những người có nghĩa khí, có sức lực, có tinh lực, có tài năng, coi trọng và thích làm việc. Bọn họ buôn chuyến, làm thích khách, ăn uống chơi bời cờ bạc, chỉ không hút thuốc phiện, hãm hại, che giấu lừa gạt, chỉ không trộm cắp của cải, tiền bạc, gây sự rồi lại dẹp sự. Bọn họ lãnh đạo trào lưu ăn uống, may mặc ở Tây Kinh, bọn họ kích thích phát triển kinh tế ở Tây Kinh. Đường đỏ họ chèo lái, lối đen họ cũng khống chế. Nhân vật đại diện cho số này cũng là lãnh đạo trong bóng tối, có bốn tên người ta gọi là "bốn cậu ác lớn". Loại người này đã đối xử tốt với cậu thì xẻo thịt trên người cho cậu ăn, đã nói không tốt, thì lập tức quay ngoắt, không chơi nữa. Cậu đừng có dính líu vào cái vòng này. Nói như thế nào về những người này nhỉ? Cậu thử nghe ngôn ngữ của họ là đoán biết được phần nào. Họ không gọi tiền là tiền mà gọi là "bả nhi" (cái chuôi), nói anh tốt không gọi là anh tốt, mà gọi là "cương ca nhi" (ảnh thép), chơi gái thì gọi là "đả động" (đào lỗ), con gái đẹp thì gọi là "tạc đạn" (quả bom).
Mạnh Vân Phòng còn định nói nữa thì trên khuôn mặt khiêm tốn của Chu Mẫn lại nở một nụ cười. Vân Phòng hỏi:
- Cậu không tin hả?
Chu Mẫn đáp:
- Tin ạ.
Trong bụng thì nghĩ đến việc mình đã làm ở Đồng Quan, biết rằng thành phố lớn có kẻ vô công rồi nghề của thành phố lớn, huyện lỵ nhỏ có kẻ vô công rồi nghề của huyện lỵ nhỏ, mức độ có khác nhau song ít nhất ngôn ngữ cũng tương tự. Chu Mẫn liền bảo một câu:
- Ngoài xã hội bây giờ ta có thể ngồi trong nhà tưởng ra cái gì thì trong đời sống hiện thực có thể xảy ra cái đó. Những điều thầy nói em đều tin.
Mạnh Vân Phòng nói:
- Không nên nói đến loại người đó nữa, mình muốn nói với cậu một loại người ăn không ngồi rồi khác. Người ăn không ngồi rồi văn hoá. Trong thành Tây Kinh nhắc tới "bốn cậu ác lớn" không ai mà không biết, nhắc đến tứ đại danh nhân thì người lớn trẻ con ai cũng biết rõ. Muốn bám vào giới văn nghệ Tây Kinh, cậu phải biết bốn danh nhân lớn này. Người đầu tiên trong bốn danh nhân lớn là hoạ sĩ Uông Huy Miên, năm nay bốn mươi lăm tuổi, vốn là thợ chạm của nhà máy đồ ngọc, ngoài giờ làm việc vẽ tranh, trong vài năm tranh vẽ nổi lên như cồn. Viện tranh Trung Quốc ở Tây Kinh vốn có ý định điều anh ta đi, nhưng anh ta lại đi đến tháp Đại Yên, được mời làm họa sĩ chuyên nghiệp ở đó. Người nước ngoài đến Tây Kinh phải đến tháp Đại Yên, anh sẽ bán tranh, nhất là loại tranh tờ, một tranh tờ nho nhỏ bán đến những mấy trăm đồng. Một ngày anh có thể vẽ được bốn, năm tranh tờ, số tranh bán được thì Sở quản lý tháp Đại Yên được một nửa, anh được một nửa, vậy là anh có nhiều tiền hơn hoạ sĩ thông thường. Điều lạ lùng hơn cả là anh học cái gì giống cái đó, có thể phỏng chế tất cả tranh vẽ của các hoạ sĩ tên tuổi , trên có Thạch Đào, Bát Sơn Đại Nhân, dưới có Trương Đại Thiên, Tề Bạch Thạch. Hai năm trước tranh của Thạch Lỗ bán có giá, anh đã vẽ mấy bức, ngay cả gia đình Thạch Lỗ cũng không phân biệt được thật giả. Anh lắm tiền, vợ đẹp, nói công khai khi vẽ tranh không có người đẹp ở bên cạnh mài mực trải giấy thì không có đam mê. Mùa hè năm ngoái, mời bạn bè đi chơi núi Ngũ Đài ở phiá nam thành phố, mình cũng được mời, anh ấy oách lắm, thuê hẳn bốn xe taxi, một xe toàn là đàn bà. Người tình trẻ của anh bơi trong đầm, đánh rơi chiếc nhẫn vàng, ai nấy rối tinh rối mù lên, lội xuống mò, anh bảo "Rơi rồi thì thôi có sao đâu". Nghe cái giọng dường như chiếc nhẫn vàng một vạn hai ngàn đồng là hạt cáu ghét trên người kỳ ra? Ngay lập tức rút trong túi ra một xấp tiền đưa cho cô gái, hừ, xấp tiền ấy dày thế này này. Một vị nữa, cậu đi khắp phố to ngõ nhỏ ở Tây Kinh, thử nhìn chữ trên các tấm biển, cậu sẽ thấy cái tên lớn Cung Tịnh Nguyên. Thời Quốc dân đảng, tất cả các chữ hiệu đều do Vũ Hữu Nhậm viết. Vũ Hữu Nhậm cũng không phất bằng Cung Tịnh Nguyên bây giờ. Cũng như Uông Hy Miên, ông này cũng có một đống đàn bà đuổi không đi, song ông không si tình bằng Uông Hy Miên, chỉ gặp đâu chơi đấy cho vui, tốt thì tốt, tốt xong thì quên luôn, cho nên khá nhiều đàn bà tự xưng là bồ của họ Cung. Còn Cung Tịnh Nguyên thì không nói được tên cụ thể. Hiện nay khó tìm được chữ của ông. Thông thường người đi xin chữ, ông không đóng dấu, không đóng dấu thì coi như bằng không. Muốn đóng dấu đều phải do phu nhân của ông đóng, vậy thì phải tiền trao cháo múc. Một tranh chữ đóng khung dài một ngàn đồng, một tấm biển ba ngàn đồng. Tiền do phu nhân quản lý hết. Cung Tịnh Nguyên không có tiền tiêu vặt nhưng ông mê đánh mạt chược, một đêm thường thua từ tám trăm đến một ngàn đồng, không có tiền thì viết chữ thay thế. Cho nên ông đi đến bất kỳ khách sạn nào, muốn ăn cứ ăn, muốn ở cứ ở. Giám đốc khách sạn đón tiếp ông như tiếp Phật. Hội nấu nướng trong thành phố kiểm tra sát hạch các đầu bếp, quan sát hạch đã hỏi trước: Cung Tịnh Nguyên đã ăn món anh nấu chưa? Nếu trả lời đã ăn thì đầu bếp ấy coi như đã qua cửa ải thứ nhất. Nếu trả lời chưa, thì coi như chưa đủ bậc. Danh nhân thứ ba là Nguyễn Tri Phi đoàn trưởng đoàn ca nhạc miền Tây. Anh vốn là diễn viên Tần Xoang, học từ thời bố được mấy ngón tuyệt vời "Thổi lửa", "Vung roi", "Nhe răng". Tần Xoang sa sút, kịch trường tiêu điều, anh đã xin từ chức, lập đoàn ca múa dân sự, diễn viên đều tuyển dụng hợp đồng, anh đã dùng những người mà đoàn kịch nghiêm chỉnh không dám dùng, anh hát những bài không dám hát, anh mặc những bộ quần áo không dám mặc, cho nên năm năm trước, đi hết đông tây nam bắc, buổi diễn nào cũng đông nghìn nghịt, tiền thu về như tuyết bay tơi tới. Những năm này ca múa lưu hành không được như trước đây, đoàn ca múa chia làm hai, một nửa từ thành thị chuyển về nông thôn, một nhóm khác mở bốn tiệm ca múa trong thành Tây Kinh. Vé vào lên tới ba mươi đồng mà người xem cứ lao vào như điên. Ba vị danh nhân này đều có đi lại với những người vô công rồi nghề trong xã hội, chỉ có điều khi hợp thì hợp, khi tan thì tan, cái chính là bên trong dựa vào quan lại, bên ngoài thì dựa vào người nước ngoài. Riêng vị danh nhân thứ tư thì sống thanh tịnh. Tuy vị phu nhân của anh cũng thuê người mở hiệu sách Thái Bạch ở đường Nhà Bảo tàng Rừng Bia, song anh là ông chủ không thiếu tiền lắm, lại không mê tiền lắm, chỉ ở nhà viết văn cho vui. Nhưng sự đời lại càng éo le kỳ quặc, anh càng không cần gì cả, thì cái gì anh cũng có hết. Trong bốn danh nhân này, coi như anh ấy cao cấp hơn, thành tựu lớn tên tuổi vang xa nhất. Đó là đồng hương của Đồng Quan các cậu!
Chu Mẫn nghe Mạnh Vân Phòng nói thao thao bất tuyệt, cứ ngẩn tò tè, đực mặt ra, khi nghe nói đến "đồng hương của Đồng Quan các cậu" liền nói:
- Có phải là nhà văn Trang Chi Điệp không ạ?
Mạnh Vân Phòng nói:
- Đúng đấy, không thì mình đã chẳng nói "Đồng Quan đa chung tú, nhân tự hữu linh khí". Mình thấy cậu thích viết văn, liền nghĩ tới Trang Chi Điệp. Anh ấy là niềm kiêu hãnh của quê hương cậu, cứ tưởng thế nào cậu cũng biết.
Chu Mẫn đáp:
- Tên thì biết từ lâu, có một lần anh ấy đến Đồng Quan nói chuyện văn học, em biết tin tìm đến thì cuộc nói chuyện đã kết thúc. Thanh niên thích văn học ở Đồng Quan đông như thế cũng là do ảnh hưởng của anh ấy. Em đã nhìn thấy ảnh của anh ấy nhưng chưa gặp mặt.
Mạnh Vân Phòng nói:
- Trong bốn danh nhân lớn mình khâm phục nhất là Trang Chi Điệp. Người tốt với mình hơn cả cũng là Trang Chi Điệp. Anh là nhân vật mũi nhọn đứng số một số hai trên văn đàn thành Tây Kinh. Nếu cậu định đến làm việc tại toà soạn báo chí, đương nhiên mình có thể giúp cậu. Nhưng mình đi tám lần mười lần chẳng bằng anh Điệp nói một câu. Anh thường đến đây uống trà uống rượu. Cậu có thể đến đây chiều thứ tư thứ bảy hàng tuần, biết đâu sẽ gặp đấy. Mình sẽ nêu ra thử xem ý kiến của anh toà báo, tạp chí nào thích hợp hơn.
Từ đó mấy tuần liền Chu Mẫn đến nhà Mạnh Vân Phòng vào chiều thứ tư và thứ bảy hàng tuần, ăn mặc gọn gàng, đầu chải bóng mượt, không có sợi tóc nào bờm xờm. Nhưng tuy trong nhà Mạnh Vân Phòng ngồi khá nhiều các nhà văn , nhà biên kịch, hoạ sĩ, diễn viên, nhưng không thấy Trang Chi Điệp. Tạm thời Chu Mẫn không thể đi làm việc ở toà soạn báo chí, bởi vì kiếm sống, lại không để lỡ công việc làm thuê kiếm tiền ở am ni cô, nên cũng nản lòng.
Hôm ấy, Tuệ Minh lại bảo Chu Mẫn chuyển lời đến nhà Mạnh Vân Phòng, hai người ngồi uống trà, tự nhiên nhắc đến Trang Chi Điệp. Mạnh Vân Phòng mới cho biết, thì ra Trang Chi Điệp đã không ở trong thành bấy lâu nay. Anh cũng vừa mới biết khi gặp Hồng Giang ở tiệm sách Thái Bạch chiều nay, liền oán trách Trang Chi Điệp. Gần một năm nay thanh danh ngày càng lớn, ngược lại tâm tình ngày một xấu đi, tính nết cũng cổ quái ra, đi ra ngoài một thời gian dài như vậy, ngay đến Phòng này cũng không nhắn được một câu! Chu Mẫn nghe nói, cúi đầu khe khẽ thở dài. Mạnh Vân Phòng lại cầm một bức thư ngắn hỏi Chu Mẫn có thể đích thân đến Sở văn hoá tìm một người được không, nếu tìm được người này, không đi được toà soạn khác, thì có lẽ đến toà soạn Tạp Chí Tây Kinh thì sẽ không thành vấn đề. Chu Mẫn mở thư ra xem, thì ra Mạnh Vân Phòng lấy danh nghĩa Trang Chi Điệp viết cho một người có tên là Cảnh Tuyết Ấm. Chu Mẫn không biết Cảnh Tuyết Ấm là đàn ông hay đàn bà, là lãnh đạo gì, hỏi Mạnh Vân Phòng thì Phòng chỉ tủm tỉm cười một cách ranh mãnh tránh trả lời. Chu Mẫn nửa tin nửa ngờ cầm bức thư ngắn đến Sở văn hoá. Lúc trời sắp tối lại đến gặp Mạnh Vân Phòng. Mạnh Vân Phòng đang cởi áo ngoài mặc quần cộc ngồi trên phòng khách sáng tác, mồm thì đáp lại thân không nhúc nhích. Chu Mẫn không chờ, nói to:
- Thầy Phòng ơi, em đây, Chu Mẫn đây!
Có tiếng bước chân lẹp kẹp, then cửa được mở ra. Chu Mẫn đẩy cửa vào, quỳ sụp trước mặt Mạnh Vân Phòng. Mạnh Vân Phòng hết sức ngạc nhiên song cũng hiểu ra phần nào, hỏi:
- Việc thành rồi hả?
Chu Mẫn sắc mặt đỏ gay song vẫn quay đầu lại gọi:
- Đưa cả vào đây!
Tiếp theo là một người đàn bà chân thô, xách một túi du lịch. Mở túi ra đặt trên nóc tủ một hộp trà Bích Loa, hai chai bột nước hoa quả vitamin C, một gói sợi măng, một gói vị thuốc bắc Cẩu Khởi của tỉnh Ninh Hạ và một gói nấm hương. Mạnh Vân Phòng nói:
- Tiểu Mẫn này, cậu làm gì thế, biếu xén mình phải không?
Chu Mẫn nói:
- Biếu xén gì đâu cơ chứ. Trời oi bức, sáng tác lại vất vả mệt mỏi, em muốn mua cho thầy mấy thứ, thầy lại kiêng ăn chất béo, lại càng khó mua. Thầy Phòng ạ, nhờ có mẩu giấy của thầy, may quá, công việc mười phần thì thành công tám chín phần rồi.
Mạnh Vân Phòng nói:
- Mình bảo tìm Cảnh Tuyết Ấm, tìm một cái là trúng. Chị ấy là người của Sở, trước kia đã từng làm trong ban biên tập, có ai là không biết cái mặt của chị ấy chứ.
Hạ Tiệp đã đi nằm ở nhà trong, nói qua bức rèm:
- Cậu Mẫn ơi, cậu là người coi trọng thực tế đấy. Thầy Phòng viết cho cậu mẩu giấy, cậu đền đáp lại cho thầy Phòng phải không nào?
Chu Mẫn cười đáp lại:
- Cô Tiệp đã đi ngủ rồi ư? Em đâu dám quên cô. Vừa rồi đi qua cửa hàng vàng bạc Lam Điền, em có rẽ vào xem trong đó có cái vòng ngọc hoa cúc. Em đã trả tiền người ta, nhưng đưa ra ba vòng, chiếc nào cũng có vết lỗi, em đã giục người ta mau mau nhập hàng, ba ngày nữa đến lấy, chỉ e không vừa mắt cô mà thôi.
Hạ Tiệp nói:
- Tôi thấy cậu là con người lang thang làm được một đồng thì tiêu hai.
Chu Mẫn vẫn đang cười, Mạnh Vân Phòng mở nắp hộp bột nước cốt trái cây vitamin C pha cho mình một cốc, lại pha cho Hạ Tiệp một cốc, đem vào. Chu Mẫn từ chối, bảo cốc trà này dành cho cô Tiệp. Mạnh Vân Phòng bảo:
- Đã đưa vào đây coi như là của gia đình. Bây giờ mình chiêu đãi cậu.
Mạnh Vân Phòng bưng một cốc vào nhà trong. Chu Mẫn ngồi xuống hớp một hớp, rèm cửa động đậy, người đàn bà đưa hàng ra hiệu cho anh. Chu Mẫn ra ngoài, khẽ nói ở sân:
- Sao chưa đi? Việc của chị đã xong rồi!
Người đàn bà hỏi:
- Thế tiền đâu?
Chu Mẫn đáp:
- Tiền đã trả hết chị rồi cơ mà?
Người đàn bà nói:
- Anh đã trả hết tiền hàng, em đưa hàng đi xa thế này anh cũng không chi thêm đồng nào à?
Chu Mẫn nói:
- Có một đoạn đường ngắn tủn cũng đòi thêm tiền à?
Liền trả một hào, người đàn bà bảo:
- Không được, anh định đuổi kẻ ăn mày phải không? Kẻ ăn mày có mở mồm cũng không cho một hào đâu.
Chu Mẫn liền lộn túi cho xem, không còn một đồng nào cả, người đàn bà lầu bầu chửi bỏ đi. Chu Mẫn đi trở vào nhà, vui vẻ bảo:
- Cái chị họ Cảnh khí chất cao sang lắm, vừa gặp mặt, em đã bị chị ta làm cho khiếp viá, suýt nữa không dám đưa mảnh giấy ra, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi. Đầu tiên chị ấy dẫn em đi gặp tổng biên tập tạp chí, sau đó lại đi tìm giám đốc Sở đến. Tổng biên tập bảo ba hôm sau sẽ báo tin. Chị ấy quá là tài giỏi.
Mạnh Vân Phòng nói:
- Cậu chưa biết đó thôi. Cảnh Tuyết Ấm tuy chỉ chỉ là trưởng phòng ở trong sở, nhưng Sở văn hoá, ngoài giám đốc sở ra, trên dưới không ai dám coi thường chị ấy đâu! Nói ra cậu sẽ sởn tóc gáy rùng mình đấy, phó bi thư phụ trách văn hoá trên tỉnh hiện nay là cấp dưới ngày xưa của bố chị ta. Trưởng ban tuyên truyền cũng từng là thư ký riêng của ông ta. Ông già hiện nay đã điều khỏi Thiểm Tây, vẫn là quan ở bên Sơn Tây. Tuy người không ở Thiểm Tây, hổ rời khỏi núi, vẫn còn cái uy chứ?
Chu Mẫn nghe xong nói:
- Điều đó em biết, ngày xưa Cảnh Tuyết Ấm chắc là người yêu của thầy Trang Chi Điệp phải không ạ?
Mạnh Vân Phòng đáp:
- Sao cậu biết?
Chu Mẫn trả lời:
- Đồng Quan có Trang Chi Điệp thì Đồng Quan lưu truyền những chuyện ít ai biết về anh ấy. Trước đây em tưởng người ta thêu dệt bịa đặt, nào ngờ có thế thật. Chị Ấm vừa xem thư xong đã nói "Trang Chi Điệp ra bộ quá nhỉ, có mỗi mẩu giấy gởi đến, người không thấy vác mặt đến".
Mạnh Vân Phòng hỏi:
- Thế cậu bảo sao?
Chu Mẫn đáp:
- Em bảo thầy Trang Chi Điệp dặn em hiện nay thầy đang viết một truyện dài, tới đây thầy sẽ tới thăm chị. Chị bảo thăm cái gì, già khú đế rồi, còn đẹp đẽ gì nữa.
Chu Mẫn nói xong tủm tỉm cười rồi lại bảo:
- Thầy Phòng ơi, sự việc êm xuôi như vậy song em lo lắm. Thầy Trang Chi Điệp sẽ trách chúng ta cho mà xem.
Mạnh Vân Phòng trả lời:
- Chính vì vậy mình mới phải viết cho kịp một bài phê bình tác phẩm của ông ấy.
Chu Mẫn cám ơn rối rít rồi nói chuyện cho đến khi chuông đồng hồ điểm hơn mười hai giờ mới ra về.
Suốt một ngày Đường Uyển Nhi không thấy mặt Chu Mẫn biết là đang bôn ba công việc ở ngoài, đem hâm lại bữa trưa đã nguộ ngơ nguội ngắt, rồi tắm nước nóng, đánh răng súc miệng, thay xi líp, xu chiêng, đã xịt nước hoa, ngóng chồng về để an ủi anh. Nhưng mãi không thấy chồng về, đã ngả mình xuống giường nằm đọc sách. Đêm về khuya, nghe tiếng bước chân ở ngoài, người mềm nhũn, che quyển sách lên mặt, giả vờ ngủ say. Chu Mẫn gõ cửa, cửa tự mở ra, thì ra chưa cài then, bước vào thấy đèn vẫn còn sáng, vợ ngủ im thin thít, khe khẽ nhấc quyển sách ra, ngắm tư thế ngủ của vợ một lát, bất giác cúi xuống hôn, người đàn bà liền há mồm cắn luôn cái lưỡi đang thò vào, Chu Mẫn giật nảy mình đánh thót một cái.
Chu Mẫn nói:
- Em chưa ngủ à? Cởi trần truồng như nhộng như thế này, cửa cũng không gài nữa chứ.
Uyển Nhi bảo:
- Em chờ một tên tội phạm đến cưỡng dâm đấy.
Chu Mẫn bảo:
- Đừng nói vớ vẩn, một ngày không về thì không chịu được chứ gì.
Uyển Nhi bảo:
- Anh cũng biết một ngày có về đâu cơ chứ!
Chu Mẫn liền kể lại chuyện đi gặp Mạnh Vân Phòng như thế nào, Mạnh Vân Phòng viết thư ra sao, lại gặp Cảnh Tuyết Ấm, công việc mười phần hòm hòm đã đến tám chín. Uyển Nhi mừng lắm, cứ để tồng ngồng bưng cơm canh đã hâm nóng, nhìn chồng ăn bằng sạch, rồi quăng bát lên bàn, cũng chẳng buồn rửa, sau đó đã múc nước để Chu Mẫn tắm rồi lên giường đú đởn với nhau.
Đường Uyển Nhi hỏi:
- Cảnh Tuyết Ấm có xinh không? Có phúc như thế ư? Yêu được Trang Chi Điệp kia à?
Chu Mẫn đáp:
- Không trắng bằng em, trên mặt cũng đã có nhiều nếp nhăn , chân không đẹp, nhưng trông có khí thế lắm, giọng sang sảng, hình như dữ dằn phải biết, lại dường như có vẻ phớt đời, thích nói cười với đàn ông.
Uyển Nhi đẩy đầu Chu Mẫn sang một bên, chê mồm anh sặc mùi thuốc lá rồi bảo:
- Đàn bà nào chẳng thích đàn ông.
Chu Mẫn nói:
- Anh đã nghe Mạnh Vân Phòng nói chị ta là một người được cánh đàn ông đánh giá rất cao, song cánh đàn bà lại bĩu môi, chị ấy không có bạn cùng giới.
Đường Uyển Nhi nói:
- Em đoán ra ngay, loại đàn bà này được giới đàn ông chiều chuộng quen rồi, liền tưởng mình ghê gớm lắm. Nếu là người thường, thì rất dễ rơi vào trạng thái tâm lý không bình thường, là con mụ đáng ghét. Chị ta xuất thân cao sang, được nuôi dạy tốt hơn, chị ấy sẽ nhử bọn đàn ông vây chung quanh, song lại chẳng cho anh một chút gì. Cái đấy gọi là sói nhiều không ăn thịt con, càng là nơi nguy hiểm càng an toàn.
Chu Mẫn nói:
- Em là con cáo ranh ma, cái gì cũng biết. Nhưng xét cho cùng huyện lỵ Đồng Quan không phải là thành Tây Kinh. Nếu chị ta như thế thì chỉ một mẩu giấy của Trang Chi Điệp, tại sao đã bỏ công ra như thế?
Uyển Nhi trả lời:
- Nếu nói em không hiểu thì cũng ở chỗ này. Nhưng em dám nói hạng đàn bà ấy không chơi được. Người khác thì có thể vì chị ta chứ chị ta không để người khác làm tổn thương mình. Người ta đã chịu giúp đỡ mình như vậy, anh nên đến chỗ Mạnh Vân Phòng nhiều hơn, tránh sau này Trang Chi Điệp biết mình mượn tên của anh ấy sẽ tức giận, cũng tiện để Mạnh Vân Phòng đứng ra đỡ đòn cho.
Chu Mẫn liền nói chuyện mua vòng ngọc cho Hạ Tiệp, anh bảo đã nghĩ kỹ rồi, cho chị ấy chiếc vòng ngọc của Uyển Nhi, chỉ một cái. Đường Uyển Nhi lặng ngắt một lúc lâu không bảo sao. Chu Mẫn không dám nói nhiều, bò lên, lại hôn hít tấm thân ấy. Đường Uyển Nhi đẩy ra bảo:
- Cái vòng ấy anh mua cho em, bây giờ lại đem tặng người ta. Cái chị họ Hạ ấy là người đàn bà mốt của thành phố lớn, co quắp rõ ràng là xinh đẹp, chỉ sợ sau này chị ta cũng là của anh.
Chu Mẫn bảo:
- Em rặt nói linh tinh, chị ta ăn mặc mốt, nhưng với một người mặt xanh xao vàng vọt, thì một cái vòng ngọc đáng giá bao nhiêu cơ chứ? Tìm được một việc làm ở Ban biên tập, có lẽ sau này sẽ tìm được cái mà anh cần, chúng mình có thể sống lâu dài ở Tây Kinh. Em thử cân nhắc xem, đàng nào nặng đàng nào nhẹ. Nếu không bằng lòng thì ngày mai anh mua một cái khác là xong ngay.
Đường Uyển Nhi nói:
- Được rồi.
Rồi tháo luôn cái vòng đeo tay để lên đầu giường, quay lưng đi ngủ.
*
* *
Ba hôm sau Chu Mẫn đem cái vòng đến tặng cho Hạ Tiệp. Mạnh Vân Phòng đi vắng. Hai người nói đến chuyện của toà soạn, trong lòng Chu Mẫn có nhiều thắc thỏm.
Hạ Tiệp bảo:
- Không xem mặt sư thì xem mặt Phật, Cảnh Tuyết Ấm sẽ hết lòng đấy.
Chu Mẫn nhớ lại lời của Đường Uyển Nhi cũng cười hỏi:
- Xét cho cùng quan hệ giữa thầy Điệp với Cảnh Tuyết Ấm là như thế nào? Cuối cùng sao lại không cưới nhau hả chị?
Hạ Tiệp đáp:
- Chi Điệp bây giờ là nhà văn lớn rồi, nhưng ngày xưa đâu có bì được với cậu? Cái trò yêu đương không nói mạnh được. Là vợ chồng chưa chắc đã có tình yêu. Có tình yêu chưa hẳn đã là vợ chồng.
Hạ Tiệp liền kể hết quan hệ giây mơ rễ má trước đây của Trang Chi Điệp, khiến Chu Mẫn ngồi nghe mà hồi hộp con tim, cứ thở than lia lịa.
Đêm về Chu Mẫn lại đem những chuyện ấy kể với Đường Uyển Nhi. Đường Uyển Nhi khoái quá cứ bắt Chu Mẫn phải kể đi kể lại mãi chỉ khổ cho Chu Mẫn lại phải bịa ra. Chu Mẫn bảo:
- Chúng mình chơi nhau thế này mà em cứ bắt anh phải kể chuyện người ta. Em định bắt chước Cảnh Tuyết Ấm hả?
Đường Uyển Nhi nói:
- Em có ảo giác anh là Trang Chi Điệp cơ đấy.
Tức nghẹn tới mức mất cả hứng thú, Chu Mẫn cứ để chân đất đứng một chỗ lâu lắm, rồi mặc quần vào. Quả nhiên toà soạn thông báo Chu Mẫn đến làm tạp vụ, sung sướng như hạn tháng sáu gặp mưa rào. Chu Mẫn đem khá nhiều quà, biếu từng người trong ban biên tập, làm quà gặp mặt. Ngày nào cũng sáng đi tối về, chạy in ấn, trao bản thảo, lau nền nhà, xách nước sôi, được lòng trên, vừa lòng dưới. Anh lại là người thông minh, tranh thủ lúc rảnh rỗi đọc bản thảo gởi đến, cũng nhận xét được thế nào là hay dở. Cho đến một hôm đưa một bài tự mình viết cho tổng biên tập Chung Duy Hiền đọc. Chung Duy Hiền ngạc nhiên đến mức nói to:
- Cậu cũng viết được à?
Tuy bài viết cuối cùng không đăng, nhưng đã biết tài cán của anh. Từ đó Chu Mẫn đâm ra say mê, không lên tường thành thổi huyên hai buổi sáng tối nữa, đã mua khá nhiều sách của Trang Chi Điệp đọc, cố ý dò hỏi những chuyện của Trang Chi Điệp, đem về kể cho Đường Uyển Nhi làm vui. Đường Uyển Nhi ở nhà cán mì, vừa ấn cán tay cán thật mạnh, làm cho hai cái vú ngồn ngộn cứ rung rinh theo, nói:
- Anh muốn viết thật, sao không viết về Trang Chi Điệp đi? Ở Đồng Quan loan truyền bao nhiêu chuyện về anh ấy. Anh lại biết tình hình anh ấy ở Tây Kinh. Viết xong, nếu được đăng trên tạp chí "Tây Kinh", nhờ viết danh nhân mà tạp chí tăng lượng phát hành. Anh viết về danh nhân biết đâu cũng nổi tiếng. Hơn nữa viết về anh ấy, mở rộng ảnh hưởng cho anh ấy, khi trở về, biết mượn tên tuổi của anh ấy đến làm việc ở toà soạn, nếu anh ấy không vui cũng cám ơn anh, dù cho không vui cũng chẳng gây khó dễ cho anh làm gì!
Chu Mẫn nghe vậy hét lên "Cao kiến!" rồi giằng luôn thanh gỗ cán mì bảo "Hạnh phúc một quắn đã!" Đường Uyển Nhi cũng chẳng kịp rửa tay, hai người lôi nhau vào giường, hú hí một vài chưởng.
Quả nhiên Chu Mẫn đã viết một bài ba vạn chữ. Tuy chưa biết Trang Chi Điệp nhưng nghiễm nhiên là bạn thân của Trang Chi Điệp, kể lại cuộc sống và con đường sáng tác của anh, cùng mấy người đàn bà anh quen biết trong cuộc sống và sáng tác. Đương nhiên nội dung viết phong phú hơn cả, dùng từ đẹp đẽ nhất, miêu tả có tình tiết nhất những cuộc làm tình với Cảnh Tuyết Ấm. Tên của Cảnh Tuyết Ấm được giấu kín, chỉ dùng ký hiệu. Tổng biên tập xem xong rất thích thú quyết định đăng ngay số trong tháng. Thấy ngày ra tạp chí sắp đến, ngày nào Chu Mẫn cũng đến nhà Mạnh Vân Phòng hỏi thăm xem Trang Chi Điệp đã về chưa, nào ngờ mấy hôm nay Mạnh Vân Phòng đã đi cùng đại sư Trí Tường đến chùa Tháp Môn xem tro xương Phật. Hạ Tiệp cho biết Trang Chi Điệp đã về thành rồi, tối hôm qua còn gọi điện đến, liền viết địa chỉ của Trang Chi Điệp cho Mẫn tiện đi gặp trước.
Chu Mẫn sốt ruột đạp xe thẳng đến trụ sở hội văn học nghệ thuật phố Bắc Đại. Xe đi được nửa đường thì dừng lại, đi bộ để trấn tĩnh tâm tư tình cảm căng thẳng. Khi đến Hội, thấy khá nhiều người ở đó, lại không sao nén được hồi hộp , liền ngồi xổm ở một bên xa xa nhìn vào. Cổng cơ quan bằng sắt, không to, có một người đàn bà dắt một con bò sữa lưng vằn, vừa nói chuyện với người bên cạnh, vừa cầm cốc sứ vắt sữa dưới bụng bò. Trong sân có một người kéo dép lê đi tốt, dáng lùn, tóc dài dựng ngược loà xoà, mặc một áo lót đen, có in chữ cái phiên âm màu vàng ở cả đàng trước trước ngực và sau lưng. Con bò sữa đột nhiên rống lên một tiếng. Mọi người đều nói:
- Bò gọi anh đấy!
Rồi cười ầm lên.
Người kia bảo:
- Bò gọi tôi là sợ các anh uống hết sữa. Mình đề nghị dắt một con bò đến bán sữa, nhưng ngụm sữa đầu tiên bao giờ các anh cũng uống trước.
Người đàn bà nói:
- Cả tháng nay không thấy anh đâu, con bò này dọc đường cứ ì ra, sữa cũng ít. Hôm nay vào thành phố, nó không chịu dừng ở đâu, cứ đi thẳng tới đây tôi nghĩ lạ quá chắc là anh đã về rồi thì phải? Quả nhiên anh về thật. Tại sao anh gầy rộc đi thế?
Người đó trả lời:
- Không có sữa chẳng gầy đi thì sao?
Người đàn bà nói:
- Nhưng bụng thì phệ ra.
Người đó cười, vỗ vỗ vào bụng, liền cúi xuống dưới bụng bò, ngửa cổ lên ngậm mồm vào đầu vú, lấy tay bóp sữa bú. Chu Mẫn ở bên này nhìn sang cảm thấy buồn cười, các vị văn nhân ở trụ sở hội văn học nghệ thuật quả là kỳ quặc, vắt sữa xong uống tại chỗ, không cần nấu kể cũng lạ, làm gì có chuyện ngậm vú bò mà bú thế kia! Lại nghe thấy những người bên cạnh bàn tán chuyện bụng phệ của người đó. Họ bảo:
- Đương nhiên bụng đã phệ ra, chị thử hỏi xem anh ấy đi đâu?
Người đàn bà nói:
- Đi đâu ăn sơn hào hải vị thế? Ca dao ở ngoài phố nói "Người loại tám làm tuyên truyền dăm ba hôm một bữa giải cơm thèm" anh lại đi họp gì vậy?
Người bên cạnh nói:
- Chị nhìn áo của anh ta kia kìa, chữ phiên âm trên áo là gì nhỉ? Ở ngực là "Bia Hanci", ở lưng là "Hanci Bia", bụng nào mà chẳng phệ ra kia chứ?
Chỉ nghe một tiếng "phì", người đang bú sữa dưới bụng bò, bật cười, sữa trắng phau phau bắn cả vào mặt vào cổ, cũng thôi bú, đứng dậy trả tiền, lại cười nói vài câu, rồi lẹp kẹp dép đi vào. Người đàn bà đếm tiền, bảo trả thừa xin hoàn lại, người đứng cạnh nói:
- Anh ấy bú có lẽ nhiều đấy, hơn nữa người khác phải vắt ra bán, còn anh ấy bú trực tiếp, giá đương nhiên cao hơn.
Người đàn bà bảo:
- Hôm nọ có một cậu ở phổ Nam mua sữa, bảo người ta bú được thì cậu cũng bú, kết quả bú không ra sữa, trái lại bị con bò đái cả vào đầu tanh ngòm.
Người đứng cạnh nói:
- Thế còn tốt đấy, nếu cậu ta nhầm, không khéo bú vào cái gì khác của con bò cũng nên.
Một trận cười rộ lên, người đàn bà giơ nắm đấm thụi vào cái mồm đáng ghét kia rồi dắt bò đi. Những người mua sữa cũng tự giải tán. Chu Mẫn thấy người đàn bà dắt bò đi, người mua sữa cũng mỗi người một ngả, liền đứng lên táo bạo bước tới. Giữa lúc ấy có một bà già gác cổng đi ra đóng cửa sắt đưa mắt nhìn chằm chằm vào anh. Vừa may có ai đó phóng xe đạp, phanh cực nhanh, đỗ xịch ngay trước cổng, bà già ngăn lại hỏi:
- Anh làm gì thế?
Người ấy đáp:
- Tôi tìm Vương An, ông ấy là nhạc sĩ, nhà ở gác đàng sau.
Bà già bảo:
- Anh ở cơ quan nào?
Người ấy đáp:
- Tra hộ khẩu à?
Bà già nóng nảy:
- Tra hộ khẩu thì sao nào? Nước có phép nước, nhà có nội qui. Tôi gác cổng chính của Hội văn học nghệ thuâ. Đây là trách nhiệm của tôi.
Người ấy nói:
- Vâng, vâng, tôi ở Nhà văn hoá Tháp Yên, họ Lưu tên là…
Bà già bảo:
- Tôi chẳng cần biết tên anh là gì. Tôi gọi ông ấy đến.
Bà đi vào phòng thường trực ở cổng thổi phù phù vào micrô, quay đầu hỏi:
- Có tiếng không?
Chu Mẫn đáp:
- Có tiếng.
Bà già nói:
- Mời thầy giáo Vương Anh xuống có khách. Mời thầy giáo Vương Anh xuống có khách!
Bà gọi ba lần, tiếng dội vang cả ngôi nhà. Bà già thò đầu ra bảo:
- Người đi vắng, lúc khác đến nhé!
Tiếp theo bà hỏi Chu Mẫn có việc gì. Chu Mẫn định nói cần gặp Trang Chi Điệp nhưng đột nhiên quyết định không gặp nữa, nghĩ bà già này gọi như vậy, y hệt mụ chủ nhà chứa thời xưa, nếu quả thật gọi Trang Chi Điệp xuống tiếp khách, mình sẽ giới thiệu bản thân thế nào, lại đứng ngay ở cổng, một hai câu nói sao hết được? Chu Mẫn liền quay về nhà Mạnh Vân Phòng, may sao Mạnh Vân Phòng vừa về, định dẫn anh cùng đi. Chu Mẫn vẫn còn căng thẳng trong lòng, liền bảo cứ chờ tạp chí ra đã, đưa bài viết cho Trang Chi Điệp xem, sẽ dễ ăn dễ nói hơn.
Khi về nói lại với Đường Uyển Nhi, Đường Uyển Nhi liền mắng xơi xới:
- Anh còn cầu kỳ định tìm thế giới nào nữa! Anh mới là thằng ngốc ! Trang Chi Điệp đã trở về thành phố, anh mau mau đi gặp, định chờ anh ấy đi đến chỗ Cảnh Tuyết Ấm trước, lộ hết mọi chuyện nổi giận lên ư?
Chu Mẫn hối hận cứ vỗ đầu bồm bộp, Đường Uyển Nhi nói:
- Thế này vậy, nhờ sự phú quý của người ta, tại sao mình không sắp cỗ mời anh ấy đến nhà?
Chu Mẫn bảo:
- Anh ấy không chịu đến đâu?
Đường Uyển Nhi nói:
- Nhờ thầy Mạnh Vân Phòng đi mời. Đầu tiên nói rõ lý do, sau đó nói đến chuyện bài báo. Nếu sự việc suôn sẻ, anh ấy sẽ đến. Nếu không đến, chuyện đến toà soạn coi như chấm dứt, cũng khỏi phải đến chỗ người ta rách việc.
Chu Mẫn hấp tấp đi gặp Mạnh Vân Phòng, Mạnh Vân Phòng đi nói với Trang Chi Điệp, trả lời đồng ý đến ăn cỗ, hai anh chị mừng quýnh, bắt tay ngay vào sửa soạn cho bữa tiệc, định vào ngày mười ba tháng này.