Vân Mộng Thành Chi Mê - Nguồn: Nhạn Môn Quan (Đủ bộ 63 chương)
Vân Mộng Thành Chi Mê
Dịch giả Nhạn Môn Quan thân tặng huynh đệ tỷ muội 4vn.
Thân!
Tây Độc và huynh đệ Nhạn Môn Quan.
Hồi 1
Luân lạc thiên nhai
Dịch giả: Trúc Đào
Ô Tử Hư mở mắt ra, ánh nắng chói chiếu thẳng vào mắt, nhất thời hắn không thấy gì cả, càng không biết mình đang ở đâu, đầu nhức đến muốn nổ tung. Hắn ngồi bật dậy, hai tay ôm đầu thở dốc. Mệt quá, chưa bao giờ mệt như bây giờ, cảm giác hư nhược và khốn khổ hoàn toàn đánh bại hắn, giống như kẻ đánh bạc suốt mười ngày đêm không ngủ nghỉ, rốt cuộc vẫn thua sạch túi, đó là một cảm giác rất đáng sợ. Gót chân đau nhói, gợi lại đoạn đường chạy trốn hơn mười ngày qua đầy gian khổ của hắn. Điều duy nhất an ủi hắn được, là mình vẫn còn sống. Hắn từ từ buông hai tay xuống, ngưng thần lắng nghe, nhưng chỉ có tiếng ve kêu vang, thầm thở phào một hơi, hắn bắt đầu nhìn quang cảnh bốn bên. Hắn đang ngồi trên một sườn đồi cỏ ướt có mùi mốc, ở chân đồi là một dòng suối trong, cỏ cao và cây thấp mọc um tùm bên bờ, đối diện bên kia suối là rừng xanh dày đặc. Hắn nhìn lên đỉnh đồi, cao hơn chỗ hắn chừng bốn, năm trượng, thầm nghĩ có lẽ mình ngất đi, nên đã lăn từ trên đỉnh xuống dưới đây. Ánh nắng chiếu từ phía hữu, mặt trời vừa lên quá đường chân trời. Nhìn về hướng nam, nằm chắn ngang là một dãy núi liên tục, cây mọc xanh rì. Đây là chỗ quái quỷ nào đây? Thật là xui xẻo! Không phải xui xẻo, mà là xui tận mạng, lãnh họa tày trời. Với kinh nghiệm hành tẩu giang hồ phong phú của hắn, tại sao lại có thể làm chuyện ngu xuẩn như thế? May mà đã tránh khỏi truy binh, từ lúc qua sông xong, hắn có cảm giác đã thoát hiểm, hy vọng không sai! Ngay lúc ấy, tai hắn bắt được tiếng ngựa hí rất nhỏ, như có như không. Ô Tử Hư sợ run lên, đứng bật dậy như chim sợ cung, bỗng hai chân nhũn ra, hắn mất thăng bằng té lăn xuống đồi, xuống đến dưới cùng, xém chút rơi luôn xuống suối. Tiếng ngựa kêu càng lúc càng rõ hơn. Ô Tử Hư quên cả mệt nhọc, bò dậy thất thểu chạy trốn về hướng nam. Từ lúc hiểu chuyện trở đi, dường như hắn chưa từng gặp may, bây giờ lại sắp đối diện đại họa, nếu bị kẻ địch bắt được, hắn sẽ hối hận đầu thai làm người. Lúc này hắn chỉ có một ý niệm, ấy là trốn được xa chừng nào hay chừng nấy, hắn không muốn chết chút nào.
o0o
Vô Song Nữ mình mặc khinh trang màu đen, tay dắt con hắc mã đen tuyền, lẳng lặng rời khỏi khu trại của Bách Hí Đoàn ở ngoài thành. Đã chín năm rồi, nàng theo đoàn đi từ hương thôn đến thị trấn, qua thành đô biểu diễn kiếm ăn, nhờ thân thủ hơn người mà trở thành cột trụ của Bách Hí Đoàn, và cũng là nữ đệ tử đắc ý nhất của trưởng đoàn, tức vua hề An Giới. Thế nhưng đêm nay nàng bỏ đi không lời từ biệt, lại chẳng tỏ vẻ gì lưu luyến, bởi lòng nàng chưa bao giờ ký thác ở Bách Hí Đoàn. “Vô Song!”. Vô Song Nữ thở ra, dừng bước trong vùng tối nằm ngoài ánh đuốc của khu trại, thân ảnh hòa trong bóng đêm. An Giới bước đến sau lưng nàng, thở dài một tiếng. Ông biết rõ cá tính của nàng, có nói gì cũng không khiến nàng từ bỏ ý định ra đi. Vô Song Nữ nói khẽ: “An thúc đã đọc thư Song nhi để lại”. An Giới trầm giọng: “Từ lúc rời huyện Ninh An, con cứ như kẻ đãng trí, trầm mặc làm ta lo sợ, nhưng vẫn không ngờ con nói đi là đi. Thực chẳng ngờ đã qua mười năm mà con vẫn nghĩ không thông, buông không được”. Vô Song Nữ lạnh nhạt: “An thúc hiểu tâm sự của Song nhi chăng?”. An Giới cười buồn: “Con không nói thì ta làm sao rõ được. Từ chín năm trước lúc cữu phụ của con gửi con vào Bách Hí Đoàn của ta, ta đã biết sự việc chẳng phải tầm thường, cữu phụ con với ta là sinh tử chi giao, y không kể thì ta cũng không truy rõ nguồn cơn”. Vô Song Nữ bình thản hỏi: “Tại sao cữu phụ không trở lại tìm Song nhi?”. An Giới thở dài: “Ta không định nói ra, thuở ấy cữu phụ của con trước lúc rời đi, có nói với ta để giữ an toàn cho con, y quyết định ẩn tính mai danh, không đến thăm con nữa. Y đành đoạn làm thế là vì con. Hãy ở lại đây, đừng phụ kỳ vọng của cữu phụ, cũng đừng phụ kỳ vọng của ta đối với con, một nữ tử tài nghệ như con, hơn bốn mươi năm ta đi khắp đại giang nam bắc, mới gặp đây là lần đầu”. Vô Song Nữ nhỏ giọng: “Đại ân đại đức của An thúc, Song nhi chẳng bao giờ dám quên, nhưng Song nhi phải đi ngay, xin An thúc tha lỗi”. An Giới bỗng nghiến răng: “Được! Con đã quyết ý đi, thì để ta cho biết một bí mật ta cất giấu chín năm nay, đó là làm cách nào tìm đến cữu phụ con”. Vô Song Nữ quay phắt lại đối diện An Giới, cặp mắt linh hoạt đen láy vụt sáng lên.
o0o
Mỗi lần Cô Nguyệt Minh đặt chân vào đại cung giám phủ của “Hoàng Kim Thái Giám” Phụng công công, y đều có cảm giác toàn thân không thoải mái. Có lẽ vì y phải để lại bên ngoài thanh kiếm mà bình thường là vật bất ly thân. Trong kinh thành có người bảo không ai giết được Cô Nguyệt Minh với kiếm trong tay, đấy chẳng phải lời tâng bốc, mà thực sự là đến nay chưa ai làm được. Tiếng ho của Phụng công công từ trong thư phòng vọng ra. Chắc có lẽ y cảm thấy khó chịu vì y không thích Phụng công công, lão thái giám thâm trầm hỉ nộ vô thường, quyền uy bao trùm triều đình có thể khiến đại thần mãnh tướng run sợ. Nhưng điều mà y không thích nhất là mỗi lần Phụng công công lại đưa ra một việc mà y không thể không đáp ứng. Ký Thiện, vị thái giám dẫn đường, không quay đầu lại mà hạ giọng nói: “Đêm nay tinh thần đại công công rất khá, hai ngày trước bỗng bị cảm, dùng hết ba thang thuốc của thái y, đến nay đã đỡ nhiều”. Cô Nguyệt Minh khẽ ừ, tỏ ý đã nghe. Ký Thiện chẳng phải tốt bụng chi, gã là thuộc hạ đáng sợ nhất của Phụng công công, sát thủ hàng đầu, hai tay nhuộm đầy máu tanh. Không phải gã đối đãi đặc biệt với Cô Nguyệt Minh, mà chỉ vì đã nhận không ít tiền của họ Cô. Bên ngoài thư phòng có hai tên lính gác, Ký Thiện đưa mắt ra hiệu cùng Cô Nguyệt Minh, ý bảo đợi ngoài cửa, phần gã bước vào trong, một lúc sau gã quay ra, kéo Nguyệt Minh sang bên kề tai bảo: “Thật lạ, đại công công tâm tình rất vui, như đang mong Cô gia, cơ hội này khó kiếm, Cô gia chớ nên bỏ lỡ; tại hạ đã ra công mở đường cho Cô gia rồi đấy”. Trong lòng Cô Nguyệt Minh bất giác không an, tim đập nhanh, đối với y điều này rất hiếm xảy ra. Hít một hơi dài, Cô Nguyệt Minh nói lời cảm tạ Ký Thiện, bước vào thư phòng. Người kinh thành thường nói, thà đắc tội Hoàng thượng, chớ nên đắc tội Phụng công công. Nếu chọc giận Hoàng thượng, may ra còn nhờ Phụng công công xin tha giùm, còn như đắc tội Phụng công công thì kể như chết chắc. Không ai dám chọc giận vị lão thái giám từng trải tam triều, hầu qua ba vị hoàng đế này. Thoạt nhìn, Phụng công công trông như một lão nhân hư nhược, mặt đầy nếp nhăn. Thuở còn thanh niên chắc lão cũng cao lớn, song bây giờ vì lưng còng nên thân hình trông suy yếu hẳn. Dưới mái tóc dày bạc trắng bồng bềnh, là một vầng tráng cao, khuôn mặt hóp, gò má nhô lên làm nổi bật đôi môi mỏng như hai sợi chỉ căng ngang. Nhìn qua nhìn lại, Phụng công công trông không khác một kẻ gần đất xa trời, sức khỏe như đèn leo lét trước gió, nhưng Cô Nguyệt Minh biết rất rõ cảm quan ấy sai lầm. Tương truyền từ nhỏ Phụng công công luyện tập một loại khí công huyền diệu mà chỉ có thái giám mới luyện thành được, ngày nay đã đạt đến cảnh giới chí cao vô thượng, còn như lợi hại đến bực nào thì không ai biết. Riêng Cô Nguyệt Minh vẫn có thể thoáng thấy trong mắt lão một ánh tinh quang lạnh như băng, sắc bén vô song, làm bằng chứng cho một trí tuệ đã trui rèn qua bao năm tháng. Một người có thể đạt đến tột đỉnh quyền uy như thế chắc chắn không phải chuyện đơn giản. Phụng công công mình mặc trường bào màu lam có thêu vân viền vàng, ngồi trên ghế thái sư đặt phía nam, tay cầm ống điếu dài bằng vàng, đang phì phà khói thuốc. Cô Nguyệt Minh nghĩ thầm, ống điếu bằng vàng này có trọng lượng không dưới mười cân, mà vị lão thái giám có vẻ suy nhược này cầm trong tay thấy nhẹ như không, chỉ điểm này cũng đủ khiến người không dám xem thường lão. Phụng công công nhìn Cô Nguyệt Minh thi lễ thỉnh an, gật đầu: “Ngồi đi! Nguyệt Minh làm việc rất giỏi, Hoàng thượng hết sức đẹp dạ với món quà mừng lễ đại thọ của ngươi”. Cô Nguyệt Minh ngồi xuống ghế bên tả phía dưới Phụng công công, nghĩ thầm phần quà này phải mạo hiểm với sinh mệnh của mình mới lấy về được. Y tốn hết nửa năm truy lùng một bọn cướp ngang dọc vùng đông bắc, mới chém lấy thủ cấp của đầu mục Chu Hổ Thành, cũng lãnh thêm ba vết sẹo trên mình. Ánh mắt như soi thấu của Phụng công công dò xét Cô Nguyệt Minh một hồi, bèn thong dong thốt: “Ta muốn hỏi ngươi một điều”. “Xin công công cứ hỏi, Nguyệt Minh này không giấu một điều gì cả”. Phụng công công đặt ống điếu xuống chiếc bàn nhỏ bên cạnh, động tác ung dung. Trên bàn còn có một túi da hẹp dài độ hai thước, không biết bên trong chứa vật gì. Ký Thiện nhìn không lầm, tâm tình Phụng công công đang sảng khoái, đêm nay quả là cơ hội hiếm có. Rất hiếm khi Phụng lão được như hôm nay, quanh năm ở giữa trường tranh đấu ngấm ngầm của triều đình, ai mà vui được? Phụng công công vì sao tâm tình vui vẻ? Lão nhìn ánh trăng ngoài cửa sổ, nói bâng quơ: “Bất luận là mãnh tướng hay đại thần, ai ai gặp ta cũng sợ run, chỉ có ngươi, ta cảm thấy ngươi chẳng có mảy may ý khiếp sợ, ấy là do đâu?”. Cô Nguyệt Minh thầm thở ra, mỗi người đều có điều muốn hỏi, bên bị hỏi có thể chọn đáp hay không đáp, mà y thì chẳng bao giờ trả lời. Chỉ có khi Phụng công công hỏi thì không thể không đáp. Có thể y không sợ Phụng công công, nhưng chắc chắn y sợ câu hỏi của lão. Thậm chí y cũng không thể biểu lộ sự không khứng của mình. Y so vai: “Giả như kẻ này nói là vì tự vấn mình vẫn một lòng vì công công hành sự, chẳng có gì phải lo sợ, nên chẳng hề nghĩ đến sự sợ hãi, công công tin chăng?”. Ánh mắt Phụng công công chiếu như tên bắn vào Cô Nguyệt Minh, tỏ ý vui vẻ: “Ngươi là một kẻ thú vị, chẳng những thẳng thắn mà còn dám nói chuyện ngang với ta, làm ta có cảm giác kỳ lạ như đang trò chuyện với bằng hữu. À! Đã lâu lắm rồi ta không có cảm giác này. Nói cho ta nghe, tại sao ngươi không sợ ta?”. Cô Nguyệt Minh nghĩ bụng Phụng công công có thể là người duy nhất nhận thấy y là một kẻ thú vị, y nói thẳng: “Công công có thể không thích câu trả lời của kẻ này. Tại hạ là một kẻ không luyến tiếc sinh mệnh, chẳng những không sợ cái chết mà còn khát vọng tử vong”. Phụng công công như bất động, chỉ có tiếng nói rít ra qua kẻ răng: “Tử vong có thể chia ra chết nhẹ nhàng hay chết đau đớn, hoặc thà chết sướng hơn sống, ngươi nghĩ sao?”. Cô Nguyệt Minh ung dung nói: “Công công cứ xem như tại hạ tự tin mù quáng, tại hạ tin chắc không ai có thể bắt sống tại hạ”. Phụng công công bật cười: “Giỏi! Giỏi! Nói hay lắm! Ta sống đến chừng này tuổi, mới nghe có kẻ nói không sợ chết”. Nói xong lão nhìn lên trần nhà, lộ vẻ trầm tư. Cô Nguyệt Minh nhìn bốn bức sơn thủy thư họa treo giữa tường phía sau lưng Phụng công công, ngay lúc y thốt ra câu “không ai có thể bắt sống tại hạ”, liền nghe thấy tiếng thở gấp truyền lại từ phía sau tường, y lập tức hiểu ra. Chắc chắn đàng sau bức tường là nơi ẩn mình của vệ sĩ của Phụng công công, trong nhóm có một người tưởng rằng câu nói này sẽ khiến Phụng công công nổi giận hạ lệnh giết ngay, nên trong lúc khẩn trương đã thở gấp, nhưng không tránh được đôi tai thính của y. Bức tường này chỉ là giả tạo, thực chất hẳn mỏng như giấy, các vệ sĩ ẩn mình phía sau có thể phóng ra bất cứ lúc nào. Tiếng của Phụng công công lọt vào tai Cô Nguyệt Minh: “Ta thật không hiểu, với võ công và tài trí của ngươi, bề ngoài lại tuấn tú phong lưu, bao nhiêu thứ tốt đẹp của cuộc đời đang chờ ngươi thưởng thức, mà ngươi cứ xăm xăm một lòng tìm cái chết. Ngươi chán sống rồi chăng? Năm nay ngươi bao nhiêu tuổi rồi? Hai mươi lăm hay hai mươi sáu?”. Cô Nguyệt Minh thành thật đáp: “Hai mươi lăm”. Trong lòng y nảy sinh cảm giác như đang đi trên băng mỏng, cần cẩn thận. Thật ra mỗi lần gặp Phụng công công, y đều có cảm giác mình đang ở trong chốn hiểm nguy. Lần này Phụng lão nói nhiều câu “dư thừa”, càng là một điều trước nay chưa từng xảy ra, chứng tỏ lần này có việc khác thường. Phụng công công không nói gì, im lặng chờ câu trả lời của Cô Nguyệt Minh. Y bình tĩnh nói: “Tại hạ chỉ nói sự thật tình trạng bản thân. Tại hạ là một kẻ thích mạo hiểm, chỉ thích đặt mình giữa nguy cơ bị giết hoặc giết người, điều đó không thể giải thích được. Nếu có một ngày có kẻ tiễn được tại hạ ra đi, tại hạ sẽ rất cảm kích đối phương. Nhưng tuyệt đối tại hạ không tự tận, trừ phi đến đường cùng sống không bằng chết vì lúc ấy tử vong là một sự giải thoát”. Phụng công công đăm đăm nhìn Cô Nguyệt Minh, một lúc sau mới nói: “Đúng là suy nghĩ này đã khiến ngươi trở thành đệ nhất danh kiếm tại kinh sư, kiêm liệp thủ lãnh thưởng được Hoàng thượng trưng dụng. Song ta càng không hiểu, một kẻ xem cái chết tựa giải thoát như ngươi, tại sao tìm trăm phương ngàn kế nhờ ta nói giúp với Hoàng thượng để giải trừ quân chức của ngươi?”. Cô Nguyệt Minh ngầm thở phào, cuối cùng Phụng lão đã nói vào mục đích chính. Với câu hỏi này y đã dự bị trước câu trả lời thích hợp nhất, nên không do dự đáp ngay: “Tại hạ là một kẻ tính tình cô độc, sợ chốn đông người, nếu đem tại hạ đẩy ra chiến trường, tại hạ sẽ có cảm giác chết sướng hơn sống như công công nói, đáng sợ hơn là chính mình sẽ làm bậy, đã báo quốc chẳng đặng mà còn ngược lại làm hỏng đại sự”. Y lại thở dài: “Từ lúc trưởng thành đến nay, Nguyệt Minh này vẫn đi lại một mình, công công biết rõ điều đó mà”. Phụng công công tỏ vẻ thông cảm: “Biết thì đã sao? Vấn đề là Bành đại tướng quân, lúc sinh tiền...”. Cô Nguyệt Minh ngơ ngác hỏi: “Sinh tiền?”. Phụng công công ra chiều thương tiếc: “Hung tín truyền về đây từ bắc tuyến cách nay bảy ngày, Bành đại tướng quân trúng phải ổ mai phục của kẻ địch, binh bại thân vong. Đến lúc này ta vẫn giấu kín sự việc, để có đủ thời gian an bài hậu sự, kẻ biết nội vụ không quá mười người, ngươi chớ tiết lộ chuyện này”. Cô Nguyệt Minh không nói gì, cũng không biểu lộ gì cả. Từ lâu y đã trơ như gỗ đá đối với sự chết, chẳng biết vì giết người nhiều hay vì bẩm sinh như vậy. Bành đại tướng quân đã từng dạy y binh pháp, y là một trong khá nhiều môn sinh của tướng quân. Phụng công công nói tiếp: “Bành đại tướng quân lúc sinh tiền từng nhắc đến ngươi cùng Hoàng thượng, tướng quân chỉ ra khả năng thiên phú về quân sự của ngươi, bất luận quân lược binh pháp khó hiểu thế nào, ngươi chỉ cần nghe qua là thông hiểu, lại nữa ngươi thuộc dòng dõi tướng môn, khiến Hoàng thượng vẫn để tâm. Tin Bành đại tướng quân qua đời vừa truyền ra, Hoàng thượng nghĩ ngay đến ngươi, nếu không nhờ ta khuyên giải, ngươi chắc đã nhận được thánh chỉ đi thay thế Bành đại tướng quân”. Cô Nguyệt Minh biến sắc: “Cái gì?”. Phụng công công chăm chú nhìn y, không nói tiếng nào. Cô Nguyệt Minh bỗng cảm thấy mình ở vào thế kẹt. Không cần biết Hoàng thượng có suy nghĩ như Phụng công công nói hay chăng, chỉ cần lão quyết ý đẩy y ra chiến trường thì y cầm chắc khó thoát. Tại sao Phụng lão muốn đẩy y vào tuyệt địa? Phụng công công nhếch mép ẩn ý cười khó hiểu, hòa hoãn nói: “Trong tình huống này, nói thế nào Hoàng thượng cũng không nghe. Nghĩ tình Nguyệt Minh ngươi chuyên tâm làm việc cho ta năm năm nay, lập công vô số, ta suy nghĩ mãi mới có một cách duy nhất có thể thay đổi chủ ý của Hoàng thượng”. “Xin công công chỉ điểm”. Phụng công công hạ giọng: “Các ngươi hãy lui ra”. Nghe tiếng vệ sĩ phía sau tường rón rén rút lui, Cô Nguyệt Minh cảm thấy lạnh cả cột sống. Phụng công công sắp nói đến bí mật gì? Vì sao chỉ cho một mình y biết mà thôi?
o0o
Trong bóng tối núi rừng, tối đến độ đưa bàn tay lên không thấy năm ngón, Ô Tử Hư gần như lả đi, không khí trong phổi như bị rút mất, không thể không há to miệng thở dốc. Vô số câu hỏi xoay vòng trong đầu hắn. Không thể nào. Hắn như con mồi bị săn lùng, bị đuổi chạy tán loạn tứ phía, không cách nào theo kế hoạch ban đầu để đào thoát. Đúng ra hắn định qua sông rồi đi về phía tây, đến Dương Châu thì tìm cách lén lên một tàu đi biển, đến chốn nào cũng được, chỉ cần rời xa trung thổ. Kẻ địch của hắn quá lợi hại, hắn mà ở lại Trung nguyên sẽ dễ bị bắt. Không thể nào! Với thân thủ trốn thoát của hắn, tại sao kẻ địch vẫn bám theo sau, bây giờ hắn đã tiến sâu vào dãy núi phía nam mà khi nãy hắn ở trên đồi cỏ nhìn thấy, không biết có thay đổi tình huống chăng? Hắn có hối hận chăng? Chắc chắn là có, hắn hối hận đã vào sòng bạc ấy, hối hận gặp phải nữ nhân ấy, hối hận... Aaa! Sai lầm nặng đã phạm, còn hối hận được gì, chỉ tội trong túi bây giờ chỉ còn một lượng bạc. Bỗng thấy chấn động, tiếng ngựa hí lại vọng vào tai hắn, nhưng hắn đang ở trên núi, ngựa làm sao trèo núi vượt đỉnh? Hay trong núi có đường? Kẻ địch truy nã phía sau hẳn phải có cao thủ, dù không bằng liệp thủ Cô Nguyệt Minh vang danh thiên hạ, thì cũng không thua bao nhiêu, bằng không làm thế nào đến lúc này vẫn chưa mất dấu Ô Tử Hư. Hắn đâu phải kẻ tầm thường, mà là một đại đạo chưa từng thất thủ từ lúc bắt đầu hành nghề đến giờ, chỉ tức là trộm càng nhiều hắn càng đánh bạc nhiều, đệ nhất đại đạo mà đánh bạc rất tệ, đâm ra hắn thường xuyên rổng túi, chuyến này lại bị người nhận diện làm lộ hành tung. Nếu nói không hối hận là nói dối. Nhưng chỉ cần hắn trốn lánh đến một đại trấn, “phá giới” trộm vặt vài lượng, đủ mua vật liệu để hóa trang, và y theo kế hoạch ra đến Dương Châu, là hắn có thể theo đường biển trốn mất dạng. Bao nhiêu ý niệm xẹt qua trong đầu Ô Tử Hư, hắn bật dậy xông về phía trước, đang có ý nghĩ vùng rừng rậm này rộng bao nhiêu, bỗng hụt chân té lộn vòng xuống dưới, chẳng biết đụng phải bao nhiêu cành cây chắn ngang, bất chợt hắn thấy thân mình rơi giữa khoảng không, sau lưng tiếng nước chảy ầm ầm, thì ra là một thác nước lớn. Không thể nào! Tại sao khi nãy hắn không hề nghe thấy tiếng nước chảy? “Ùm” một tiếng, Ô Tử Hư rơi xuống vài chục trượng, rớt vào đầm nước, suýt chút ngất đi. Từ dưới nước ngoi lên, hắn đã uống không biết bao nhiêu ngụm nước, đầu óc xây xẩm không còn tỉnh táo để bơi vào bờ. Giòng nước chảy xiết đẩy hắn trôi xuống dưới, chẳng còn phân biệt được phương hướng. “Bùm” một tiếng, thân mình hắn lại rơi giữa không trung, thì ra thêm một từng thác nước. Khi rớt xuống nước, Ô Tử Hư cảm thấy giòng nước chảy càng mạnh hơn, hắn thầm kêu chắc tới số rồi, chỉ cần đụng phải đá ngầm là vỡ óc mất. Vừa có ý niệm ấy, hắn đã bị giòng nước xiết vùi sâu trong bóng tối. o0o
Phụng công công thong thả hỏi: “Ngươi có tin chuyện quỷ thần chăng?”. Cô Nguyệt Minh không hiểu tại sao Phụng lão hỏi một câu chẳng liên quan gì cả, nhưng không thể không trả lời: “Không!”. Phụng công công mỉm cười: “Nếu ngươi sống đến tuổi ta, ngươi sẽ không còn khẳng định như vậy, vì ngươi sẽ gặp rất nhiều chuyện lạ mà chỉ có thể mượn quỷ thần để giải thích. Để ta nói rõ ngọn ngành câu chuyện cho ngươi hiểu”. Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên hỏi: “Không lẽ công công muốn sai tại hạ đi làm việc có dính dự đến quỷ thần? Mà chỉ cần tại hạ hoàn thành nhiệm vụ, thì có thể khiến Hoàng thượng đổi ý, giải trừ quân chức cho tại hạ?”. “Đúng vậy. Chỉ cần ngươi hoàn thành nhiệm vụ, Hoàng thượng sẽ bỏ qua mọi thứ, kể cả cương thổ của người. Ta có thể đảm bảo ngươi không phải ra chiến trường, mà từ nay về sau ngươi sẽ không bị kéo vào chiến sự nào cả”. Nói đến đây, tấm thân còng của Phụng công công bất giác thẳng lên, hai mắt sáng như điện, cả người như biến thành một kẻ khác, không còn chút cảm giác lão suy, toàn thân toát đầy sinh khí sống động, trong mắt lão chứa đầy khát vọng và kỳ vọng, trông rất quỷ dị. Phụng công công đang thị uy với Cô Nguyệt Minh chăng? Y nói: “Công công gây hứng thú cho tại hạ rồi đấy”. Phụng công công bỗng trở lại vẻ già nua bình thường, lạnh nhạt nói: “Ngươi từng nghe đến Vân Mộng Trạch chưa?”. Cô Nguyệt Minh không hiểu đầu đuôi, bèn đáp: “Đó là nơi nào? Tên nghe cổ quái, nhưng đầy thi ý”. Phụng công công không vòng vo nữa, lão nói: “Thời Xuân Thu chiến quốc, Động Đình Hồ mang cổ danh này, vị trí nằm trong Sở quốc, Vân Mộng Trạch ngày nay, đại khái là chỉ một khoảng đầm lầy phía đông ngạn sông Tương ở phía nam Động Đình Hồ”. Cô Nguyệt Minh không nhịn được liền hỏi: “Trong đầm phải chăng là nơi cư trú của quỷ thần?”. “Có thể nói như vậy”. Phụng công công giải thích thêm: “Sự việc này bắt nguồn từ thời Xuân Thu chiến quốc, lúc ấy tại nước Sở, trong vùng Vân Mộng Trạch có một tòa thành trì tên là ‘Chuyên’, Thành chủ vì muốn chiếm riêng một bảo vật nên chống lại Sở Vương, không chịu trao bảo vật, xảy ra chuyện gì bên trong, trải qua bao thời đại không còn ai biết, chỉ biết Chuyên thành sau đó bị Sở Vương đem quân công phá, nhưng chẳng tìm được gì, từ đấy bảo vật kể như biến mất”. Cô Nguyệt Minh thở hắt ra: “Công công muốn phái tại hạ đi tìm một vật đã biến mất khỏi thế gian hơn cả ngàn năm ư?”. Phụng công công khoan khoái mỉm cười: “Công công ta tuy già nhưng chưa đến nổi lẩn thẩn, đâu làm khó ngươi mà chi. Bảo vật này đã từng được phát hiện, suýt được đưa về kinh sư, chuyện xảy ra mới cách đây mười năm”. Cô Nguyệt Minh phấn chấn tinh thần, bắt đầu hiểu thêm một chút, bèn hỏi: “Vật này có phải có quỷ thần yểm, và được tìm thấy bên trong đầm Vân Mộng, nên công công mới kể chuyện lúc nãy?”. Phụng công công chẳng biết nghĩ đến việc gì, không có gió mà mái tóc trắng của lão cũng lay động: “Tại sao dưới trướng ta có nhiều kỳ nhân dị sĩ, mà ta lại chọn ngươi để đảm đương vụ truy tìm bảo vật?”. Cô Nguyệt Minh đương nhiên không thể tự khen mình có bản lãnh thế nào, nên đành hỏi theo: “Công công vì sao chọn tại hạ?”. “Bởi vì ngươi đích thực là một kẻ không tham bất kỳ một loại kỳ trân dị bảo nào trên đời này”. “Công công hẳn suy từ quan niệm xem nhẹ sự chết của tại hạ, mà đoán rằng tại hạ không động lòng trước vật ngoài thân”. Phụng công công mỉm cười đầy thâm ý: “Ngươi có thật sự không để tâm đến sự chết hay không, e phải chờ lúc trực diện sinh tử mới biết. Nhưng ngươi không tham của, ấy là sự thật”. “Tại hạ chưa hiểu”. “Còn nhớ chăng? Ba năm trước ngươi theo lệnh của ta truy sát tên đại đạo ‘Đạo Thiên Gia’, chém đầu hắn xong, ngươi đem kho báu đầy của trộm của hắn nộp cho triều đình. Sau đó ta cho người điều tra cặn kẽ, biết rõ ngươi niêm phong kho tàng ấy nộp lên, các vật trân quý trứ danh không mất món nào, khiến ta cảm thấy rất khó tin. Nếu ngươi có ý giấu riêng một phần thì ta cũng khó biết vì ngươi có thể đổ cho ‘Đạo Thiên Gia’ đã bán lại những món ấy”. Cô Nguyệt Minh lộ vẻ chua chát, thở phào một hơi: “May mà tại hạ không có hứng thú với những thứ ấy”. “Đó chỉ là một lý do”. “Còn có lý do khác ư?”. “Lý do khác là sự thành bại kỳ này còn tùy vào ngươi, xem thử ngươi có phát huy được lần nữa sở trường của mình chăng”. “Sở trường của tại hạ là sát nhân, vậy có quan hệ gì đến việc tìm bảo vật?”. “Quan hệ ở chỗ ngươi phải giết kẻ nào? Nếu kẻ ấy là một đại đạo siêu cấp, hành tung không lộ dấu vết như Đạo Thiên Gia, thì muốn giết được hắn cũng phải có nghề riêng. Về phương diện này, trong thiên hạ không ai hơn ngươi, do đó ta chỉ chọn ngươi”. Cô Nguyệt Minh không khỏi hiếu kỳ, lại hỏi tiếp: “Thế gian hãn hữu, giá đáng liên thành, vật trân bảo ấy là thứ gì?”. Phụng công công hạ giọng: “Chẳng ai biết rõ”. Cô Nguyệt Minh thất thanh hỏi: “Cái gì?”.
Ô Tử Hư nghe tiếng tim mình đập thình thịch, ý niệm đầu tiên là hắn vẫn còn sống. Đã xảy ra chuyện gì? Hắn như người mới sống lại, thân thể dần dần khôi phục tri giác, nếu lúc trước chỉ mệt mỏi, thì nay tinh lực kiệt quệ, đến di động hai chân cũng không cách gì làm nổi, toàn thân hắn mềm nhũn vô lực, đầu váng ngực tức. Hắn chậm chạp mở mắt ra, thấy trước mắt một cảnh giới như trong mộng, chưa bao giờ tưởng tượng đến. Một bên mặt hắn đang áp xuống đất bùn ẩm ướt, từ dưới nhìn lên, vầng trăng sáng treo bên trên mặt đất, bầu trời một khoảng xanh đen. Từ góc độ hắn đang nằm trông ra, hắn thấy vô số ao nước nhỏ rải rác chung quanh, dương liễu phủ đầy bên bờ ao khúc khuỷu, cành liễu yếu gầy thấm ướt. Giữa đám dương liễu có lẫn vào một giống cây thấp chẳng biết tên gì, có cây đang trổ hoa tươi sắc thắm, có cây trĩu đầy quả. Điều làm hắn kinh ngạc trố mắt nhìn, là vùng đầm lầy này chừng như rộng vô tận, ra đến cuối chân trời. Ô Tử Hư rên lên một tiếng, không di động được, sau đó hắn nhận ra nửa thân hắn vẫn còn ngâm trong vũng nước lạnh. Lúc này đã tỉnh thêm một chút, Ô Tử Hư nhớ lại lúc trượt chân rớt xuống dòng nước chảy xiết, song hắn không hiểu sao lại trôi đến một nơi như thuộc quỷ vực này. Hắn không sao liên tưởng được hai cảnh nước xiết và vùng đầm lầy với nhau. Hay là mình đã chết mất rồi, và nơi đây chẳng phải chốn nhân gian nữa, mà là âm giới. Ý nghĩ này khiến hắn rùng mình. “Không thể nghĩ lung tung nữa! May mà họa trung hữu phúc, mình trượt chân lần này, chắc chắn dứt bỏ được truy binh, chỉ cần tìm đường ra khỏi đây thì có thể thong thả trốn tránh”. Đúng lúc ấy, có tiếng vó ngựa vang lên. Không thể có chuyện này! Chẳng những địch nhân không có cách gì đuổi kịp hắn, mà ở chốn quỷ quái này chẳng thể nào cỡi ngựa. Hồn phi phách tán, Ô Tử Hư gắng sức ngóc đầu lên nhìn về phía trước.
o0o
Phụng công công ra dáng hồi tưởng chuyện xưa: “Chuyện này cần phải kể từ đầu cho Nguyệt Minh ngươi rõ, vì ta không muốn tái phạm sai lầm”. Cô Nguyệt Minh chuyên tâm lắng nghe. Phụng công công nhìn lên xà nhà, từ tốn kể: “Mười năm trước, có một người tên Mâu Xuyên, vì đắc tội Hoàng thượng nên bị tống giam vào đại lao, cầm chắc tử tội khó tha. Mâu Xuyên là người biết xoay sở, nhờ quen biết một vị triều thần mà tìm đến quan thống lãnh ngự lâm quân Phu Mãnh, một tay tâm phúc thân tín của Hoàng thượng lúc ấy. Họ Mâu thố lộ cùng Phu Mãnh về bí mật “Sở hạp”, hy vọng có thể tìm được Sở hạp cho Hoàng thượng hầu được tha tội chết. Mâu Xuyên chẳng phải nói ngoa, vì đó là bí mật lưu truyền trong gia tộc của y, có đề cập đến trong gia phả. Tổ tiên họ Mâu vốn là cận thần của Sở vương thuở ấy, nên biết rõ chuyện xảy ra lúc ấy, chỉ có điều gia phả đời xưa đã bị thất lạc vì chiến loạn, Mâu gia chỉ còn bảo tồn được phần ký lục từ sau đời Tấn, nên chuyện kể không tường tận”. Cô Nguyệt Minh nhíu mày hỏi: “Nếu người dòng họ Mâu biết chỗ giấu ‘Sở hạp’, tại sao qua cả ngàn năm vẫn không tìm ra bảo vật?”. Ánh mắt Phụng công công chiếu lại Cô Nguyệt Minh, lão trầm giọng: “Đó mới là điểm quái dị, người của Mâu thị đã từng phái người đi tìm của báu, nhưng không thể tìm được cổ thành thuộc Sở quốc như trong truyền thuyết đã thuật lại. Điểm ly kỳ nhất là những kẻ đi tìm bảo vật đều gặp tai họa, như thể bị vướng lời nguyền độc địa, không ai gặp may, thế nào sau đó cũng bị chết đột ngột, nên từ giữa đời Đường về sau, chẳng còn ai dám đi tìm bảo vật nữa”. Phụng công công lại mỉm cười thốt: “Nguyệt Minh ngươi quả kỳ quái, lúc nãy ta có nói không ai biết bảo vật là thứ gì, bây giờ ngươi lại cho bảo vật là Sở hạp, chẳng phải mâu thuẫn sao?”. Cô Nguyệt Minh hỏi: “Bảo vật thực thụ có phải nằm bên trong hộp chăng?”. “Ngươi khá nhạy bén đấy. Hộp báu này hình vuông có cạnh khoảng nửa thước, được chế bằng một loại chất liệu kỳ dị nửa như vàng nửa như đồng, trên mặt có khảm bảy viên dạ minh châu theo vị trí thiên văn của bắc đẩu thất tinh. Chỉ riêng bảy viên dạ minh châu này cũng đã là kỳ trân hi hữu trên đời, giá đáng liên thành, đủ khiến Hoàng thượng động lòng. Tuy nhiên Hoàng thượng để ý nhất, vẫn là vật quý báu không tên bên trong hộp, Chuyên thành Thành chủ vì vật ấy mà mạo hiểm họa diệt tộc để chống lại Sở vương, còn Sở vương cũng không ngại huy động đại binh quyết chí tranh đoạt. Bảo vật ấy thực sự là gì? Hoàng thượng rất muốn biết, ta cũng muốn biết, bất kỳ ai cũng muốn mở hộp ra nhìn một lần cho biết. Bây giờ chắc ngươi đã hiểu sức thu hút của Sở hạp”. Cô Nguyệt Minh thờ ơ nói: “Có lẽ cũng giống như viên Hòa Thị Bích”. Y lại nhíu mày: “Mâu Xuyên lần này dựa vào đâu mà đi tìm Sở hạp? Không chừng cổ thành đã bị hủy hoại từ xưa, bị cỏ hoang che lấp”. Phụng công công thốt: “Đây là điểm quái dị thứ nhì, Mâu Xuyên trong lúc bị giam trong ngục, đã nằm mộng thấy tổ tiên y đến bảo cho biết nếu muốn tìm vào cổ thành, phải chờ đến quỷ tiết vào Vân Mộng Trạch tìm mới được. Mâu Xuyên tuy được báo mộng nhưng vẫn bán tín bán nghi, song để tự cứu y phải liều thử một phen. Trước sau cũng chết, đi tìm của báu may ra sống được, ít nhất cũng kéo dài mạng sống thêm một thời gian”. Cô Nguyệt Minh trầm ngâm: “Quỷ tiết phải chăng nhằm ngày mười bốn tháng bảy mỗi năm, cũng là lúc tương truyền quỷ môn quan mở cửa?”. “Ngươi có thể đoán biết diễn tiến sự việc, Hoàng thượng phái kẻ tín nhiệm nhất, giải Mâu Xuyên đến Vân Mộng Trạch đi tìm cổ thành trong truyền thuyết, nhưng những chuyện xảy ra sau đó, than ôi!”. Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì xảy ra sau đó?”. Phụng công công lắc đầu khẽ thở dài: “Người phụ trách nhiệm vụ này là Phu Mãnh, cộng thêm hai mươi bốn cao thủ tinh nhuệ trong hàng ngũ ngự vệ, đúng ngày ngày mười ba tháng bảy họ tiến vào đầm Vân Mộng để chờ hôm sau đúng thời khắc của quỷ tiết”. Cô Nguyệt Minh nghe đến đây chợt rùng mình. Đội tìm của báu hẳn đã tìm được Sở hạp, bằng không Phụng công công đã không nói Sở hạp từng xuất hiện. Như vậy chuyện Mâu Xuyên được báo mộng là thật, đến đúng quỷ tiết, cổ thành sẽ xuất hiện. Hèn gì Phụng công công có nói trước, có những chuyện lạ cần kể đến quỷ thần mới thông. “Lúc ấy phía ngoài Vân Mộng Trạch có bố trí một đội ngũ năm trăm người, do tướng lãnh vùng ấy là Tiền Thế Thần chỉ huy, để tiếp ứng Phu Mãnh. Hai bên giao hẹn, hễ đến cuối giờ Hợi ngày mười bốn tháng bảy, bất luận có kết quả hay không, Phu Mãnh sẽ phái người trở ra báo tin. Nào hay Tiền Thế Thần chờ mãi đến giữa giờ Sửu ngày mười lăm, vẫn không thấy ai ra báo tin, vội dẫn binh vào trong, tìm kiếm đến năm ngày sau, cuối cùng phát hiện ra đội tìm của báu đã xảy ra chuyện. Cô Nguyệt Minh nghĩ thầm: “Ắt phải có chuyện, nếu không Phụng công công đâu cần ép mình đi tìm Sở hạp”. “Hai mươi sáu người vào trong Vân Mộng Trạch, hai mươi bốn người bỏ thây tại chỗ, tất cả đều trúng kịch độc, kể cả Mâu Xuyên”. Cô Nguyệt Minh bắt đầu thấy chút manh mối của câu chuyện, bèn hỏi: “Hai kẻ thất tung là ai?”. Phụng công công nói: “Một là Phu Mãnh, còn kẻ kia là thủ hạ đắc lực có quan hệ mật thiết với họ Phu, chính là thân đệ của ái thiếp của Phu Mãnh”. Cô Nguyệt Minh cảm thấy nhẹ nhõm cả người, thầm nghĩ thì ra chỉ vì lòng tham giấu bảo vật làm của riêng, chỉ cần sự việc không liên quan đến quỷ thần là được. Chẳng có “người” nào mà Cô Nguyệt Minh không ứng phó được. Phụng công công buồn rầu nói: “Trước khi xảy ra việc này, tại kinh sư mọi người kể cả ta đều không tin Phu Mãnh là kẻ tham đoạt của báu, ma lực của Sở hạp có thật mạnh như thế chăng”. Cô Nguyệt Minh nói: “Điều đó không liên quan đến chiếc hộp nữa, chắc chắn Phu Mãnh đã mở hộp ra xem, cái hấp dẫn hắn là vật nằm bên trong”. Phụng công công lắc đầu: “Ngươi biết một mà chẳng biết hai. Sở hạp chẳng phải vật tầm thường, mà là trấn thành chi bảo của Chuyên thành, tương truyền được chế tạo từ thời tam hoàng ngũ đế, chất liệu luyện thành Sở hạp nửa như đồng nửa như vàng mà cũng không hẳn, đao nhọn kiếm bén hay lửa đốt cũng không hủy được, cách mở hộp cũng là một bí mật, điều này về sau ta mới được người trong Mâu thị cho biết. Dù Phu Mãnh có lấy được Sở hạp, ta dám chắc đến bây giờ cũng không có cách mở ra, do đó chỉ cần ngươi tìm được Phu Mãnh thì rất có thể thu hồi Sở hạp, để nguyên vẹn đem trao lại cho Hoàng thượng”. “Nói như thế, chưa ai gặp lại Phu Mãnh”. Phụng công công không trực tiếp trả lời: “Ngoài chính thất, Phu Mãnh còn có tiểu thiếp, sinh hạ một gái, cư ngụ tại biệt viện ở ven kinh thành. Người thiếp này rất được Phu Mãnh sủng ái, sau khi xảy ra sự việc này, Hoàng thượng hạ lệnh tru di tam tộc họ Phu, duy chỉ có tiểu thiếp của hắn là Tiết nương cùng con gái là trốn đi mất dạng, như vậy đủ biết Phu Mãnh đã đi sớm một bước, chạy về kinh sư dẫn hai mẹ con đi trốn. Qua việc đó có thể suy đoán là Phu Mãnh chẳng những còn sống, mà chắc chắn Sở hạp cũng rơi vào tay hắn”. Cô Nguyệt Minh có chỗ không thông, hỏi lại: “Điều này không hợp lý, Phu Mãnh đã không mở được Sở hạp, làm sao biết bên trong chứa bảo vật gì? Có ai lại vì một vật không rõ là thứ gì mà buông thả công danh phú quý, lại phải chịu tán gia diệt tộc?”. “Đây là chỗ khiến người nghĩ hoài không thông, hà huống Phu Mãnh vốn là một người tâm địa đoan chính, đối với Hoàng thượng một dạ trung tâm. Nhưng sự việc đã xảy ra như vậy, bọn ta cũng không cần suy xét thêm nữa. Tri nhân tri diện bất tri tâm, có rất nhiều việc đến nước cùng mới biết rõ, đúng không?”. Cô Nguyệt Minh biết là Phụng công công đang ngầm mỉa mai y xem thường sự sinh tử, nhưng y đâu thể đấu khẩu với lão, đành nói: “Nguyệt Minh này phải bắt đầu thế nào? Xin công công chỉ thị”.
o0o
Vô Song Nữ dầm mưa hứng gió, ra roi thúc ngựa phi trên đường cái, trong lòng nhớ về mười năm trước vào đêm mà cuộc đời nàng thay đổi hoàn toàn. Cữu phụ nửa đêm đến biệt viện, nơi nàng trải qua một thời tuổi thơ sung sướng, lúc ấy nàng chỉ mới chín tuổi, tiếng mẫu thân dậy thay áo làm nàng tỉnh giấc. Cữu phụ là người cưng chiều nàng nhất sau cha mẹ, lúc ấy nàng vô tư cứ tưởng cữu phụ đem đồ chơi thích thú đến cho nàng, bởi cữu phụ đã hứa như vậy trước khi theo cha đi xa, lại tưởng rằng cha cũng về cùng lúc. Mẹ vì bận rộn quên đóng cửa phòng, nên nàng nghe được lời đối thoại giữa cữu phụ và mẹ, mà đến nay nàng vẫn chưa quên từng câu nói. Sau đó mẹ nàng đuổi hết tỳ nữ và kẻ hầu, hai mẹ con theo cữu phụ đang đêm chạy trốn, từ đấy ẩn tính mai danh, thay đổi chỗ ở luôn luôn để tránh bị quan phủ vây bắt. Chưa đầy một năm, mẹ vì ưu tư thành bệnh nặng không dứt, cuối cùng đã bỏ nàng ra đi. Thần sắc của mẹ lúc lâm chung, nàng vẫn nhớ rõ, nàng hiểu vì sao mẹ không vui, không phải vì sự cực nhọc trốn tránh đây đó, mà vì đau lòng và tuyệt vọng trước sự bỏ rơi của cha. Lần này nàng nhất quyết rời khỏi Bách Hí Đoàn, song thật ra không rõ mình đang làm gì, chỉ biết cần phải đến Vân Mộng Trạch đi tìm cổ thành kia, được kết quả gì thì nàng chưa nghĩ đến, chỉ biết rằng nếu không làm vậy, nàng sẽ bị suy nghĩ của chính mình thôi thúc đến chết mất. Từ lúc biết chuyện, cha là người giỏi nhất trong tim nàng, một nhân vật anh hùng nhất. Mẹ và cửu phụ không hề biết nàng nghe được lời đối thoại của họ, mỗi lần nàng hỏi đến cha, họ đều tìm lý do nói qua chuyện khác. Những tháng ngày theo đoàn đi biểu diễn khắp nơi, nàng chuyên tâm học nghề, chẳng sợ cực khổ, không phải vì muốn trở thành một kẻ biểu diễn xuất sắc, mà vì muốn học được một thân đầy bản lãnh khá, để chuẩn bị cho cuộc hành trình này, bắt đầu từ đêm nay. Vì mẹ, vì chính mình, nàng thề phải giải oan cho cha, nàng không tin cha mình là hạng người như vậy. Dù mạo hiểm có thể bại lộ thân phận, nàng cũng phải làm sáng tỏ xem cha nàng là một hảo hán hay là một kẻ ti tiện thấy lợi quên nghĩa, bỏ rơi thê tử.
o0o
Phụng công công theo thói quen không trực tiếp trả lời câu hỏi của Cô Nguyệt Minh, lão trầm ngâm: “Sau hung án Vân Mộng Trạch, trong mười năm qua trước sau hết chín lần ta đã phái người đến đúng ngày mười bốn tháng bảy tiến vào trong đầm tìm kiếm cổ thành, mà lần nào cũng trở về không kết quả, cổ thành xem ra đã biến mất”. Cô Nguyệt Minh nhún vai: “Có thể cổ thành vốn không hiện hữu”. “Nếu kẻ thất tung không phải Phu Mãnh mà là Mâu Xuyên, thì ngươi nói có lý. Nhưng sự thật kẻ thất tung là Phu Mãnh cùng em vợ, vậy ngươi giải thích thế nào?”. “Tại hạ chưa có cách giải thích hợp lý”. Phụng công công mỉm cười: “Ta có thể đưa ra thêm một cách giải thích, ấy là quỷ thần quả thật tồn tại, và những quỷ thần canh giữ cổ thành đến ngày mười bốn tháng bảy thì nghỉ một ngày. Nhưng sau khi xảy ra sự việc này thì họ không phạm sai lầm ấy nữa, vì thế bọn ta không có cách gì tìm ra cổ thành”. Cô Nguyệt Minh không có lời nào đáp được, chuyện này chỉ có tin hay không, chẳng có chỗ tranh luận. Phụng công công nói tiếp: “Lúc ấy ta là người thừa lệnh tịch thu gia sản họ Phu, Hoàng thượng ủy thác việc tìm Sở hạp cho ta toàn quyền phụ trách. Đương nhiên Hoàng thượng muốn lấy được Sở hạp để mở ra xem bên trong có gì, nhưng hơn thế nữa ngài muốn bắt Phu Mãnh đem mổ thịt lóc xương. Đáng hận nhất là bị kẻ thân tín nhất của mình phản bội. Nguyệt Minh ngươi hiểu chăng? Vì vậy chỉ cần ngươi nhận nhiệm vụ kỳ này, hoàn thành tâm nguyện của Hoàng thượng, thì ta dám vỗ ngực bảo đảm bất luận ngươi có yêu cầu gì, Hoàng thượng cũng thẳng thắn chấp thuận”. Cô Nguyệt Minh gật đầu: “Tại hạ hiểu”. Phụng công công thốt: “Ngay lúc ngươi trao Sở hạp, sẽ là lúc ta giao tận tay thánh chỉ giải trừ quân chức cho ngươi, quyết không nuốt lời, ngươi có thể an tâm hành sự”. Cô Nguyệt Minh thầm kinh ngạc, với tác phong của Phụng công công, không khi nào lão nói rõ trắng đen như vậy, qua đó có thể thấy Hoàng thượng rất nóng lòng muốn được của báu, nên tạo áp lực rất lớn cho Phụng công công. “Công công an tâm đi, cũng may tại hạ chỉ phải truy tầm hai kẻ phản đồ, chứ không phải đi tìm cổ thành. Xin công công cho biết tại hạ nên truy tầm theo cách nào”. Phụng công công nhìn sang chiếc túi da đặt trên bàn mấy lần, đưa tay cầm ống điếu vàng, tay kia châm lửa, rít một hơi dài, rồi thong thả nhả khói và nói: “Có năm người rưỡi biết rõ tường tận nội vụ, trong đó có Hoàng thượng, Tiền Thế Thần, Quý Nhiếp Đề, Nguyệt Minh ngươi, thêm người nữa là ta”. Nghe đến tên Quý Nhiếp Đề, Cô Nguyệt Minh bất giác rúng động. Quý Nhiếp Đề được tôn là đệ nhất cao thủ của Đông, Tây xưởng và cả Cẩm y vệ, chẳng những tài trí hơn người, mà còn thủ đoạn tàn nhẫn, có thể nói y là một nhân vật lợi hại có thanh thế lớn nhất dưới tay Phụng công công. Lần này y có tham dự trong việc này, chứng tỏ Phụng công công dốc toàn lực quyết đạt kết quả. Cô Nguyệt Minh hỏi: “Còn nửa người kia là ai?”. Phụng công công đáp: “Người này tên Qua Mặc, ngoại hiệu ‘Đạo gia hành giả’ sống ở vùng Lưỡng Hồ, vì đạo pháp cao minh, có bản lãnh bắt quỷ đuổi ma, nên được tham gia qua sự đề cử của Thế Thần, và ta cũng chấp thuận”. “Ngoại hiệu của hắn tại sao cổ quái như thế?”. “Bởi vì Qua Mặc kết hợp hai phái Đạo gia và Mặc môn, tinh thông thuật nội ngoại đan của Đạo gia, sinh sống thì khắc khổ như hành giả bên Mặc môn, do vậy mà có ngoại hiệu như thế. Người này rất đặc biệt, chẳng phải phường hư danh, mượn tiếng lừa thiên hạ, khi ngươi gặp hắn sẽ rõ”. Cô Nguyệt Minh gật đầu thị ý đã hiểu. “Thế Thần hiện tại là nhiệm chức bố chính sứ ti vùng Hồ, Quảng, trực tiếp giám thị Vân Mộng Trạch, Nhiếp Đề nhận trọng trách truy lùng khắp nơi hai kẻ phản đồ, Nhiếp Đề làm rất được việc, đã phát động các bang hội lớn nhỏ toàn quốc, cuối cùng đã có chút manh mối”. Cô Nguyệt Minh phấn chấn hỏi: “Có phải đã phát hiện hành tung của Phu Mãnh?”. Phụng công công không giấu được nét vui: “Cũng gần như thế, nhưng không phải Phu Mãnh, mà là tên em vợ Tiết Đình Hao, hắn hóa thân làm một hành tăng vân du, bị trụ trì một ngôi chùa nhận ra được, rất tiếc khi Nhiếp Đề vội đến nơi, thì hắn đã bỏ trốn. Ngươi hãy bắt đầu lùng kiếm họ Tiết, chỉ cần bắt được hắn, dựa vào hình thuật của ngươi, tra tấn hắn để lấy sự thật không khó”. Cô Nguyệt Minh ung dung nói: “Nguyệt Minh này bảo đảm làm tròn việc này, công công an tâm”. Phụng công công hài lòng bảo: “Ta tin chắc ngươi thừa sức làm tròn trọng trách này, Nhiếp Đề hiện đang ở đâu ta cũng không rõ, nhưng ngươi cứ theo mật lệnh của ta đến Lạc Dương gặp Thế Thần, thì có thể biết rõ chi tiết vụ này”. Nói xong lão đưa tay cầm lên chiếc túi da trên bàn, trao cho Cô Nguyệt Minh. Cô Nguyệt Minh vội vã đứng dậy cúi mình đưa hai tay tiếp nhận. Phụng công công chưa buông tay, nhìn y đăm đăm: “Trong bọc da này ngoài mật lệnh của ta, còn có một cây kiếm thần ‘Thất Phản’ không có vỏ kiếm, có thể dùng để trợ giúp ngươi lúc bất ngờ nhất. Ngồi đi!”. Nói xong lão mới buông tay khỏi túi da. Cô Nguyệt Minh nghe xong nhíu tít mày, cầm ngang túi da, ngồi trở về chỗ. Phụng công công lộ nét cười khó hiểu, lạnh lùng âm trầm hỏi: “Cô Nguyệt Minh khi có kiếm trong tay, phải chăng là người nguy hiểm nhất trên đời này?”. Cô Nguyệt Minh cười gượng: “Công công cũng biết tại hạ là một người thế nào, nếu so với Phu Mãnh hoặc Tiết Đình Hao, thì hình dung tại hạ như thế cũng tạm thích đáng”. Y lại than: “Bạn đồng hành thân nhất của tại hạ là cây kiếm ‘Bạch Lộ Vũ’ tự tay chế luyện thành, nếu đổi sang kiếm khác chỉ e lợi bất cập hại, công công có thể nào thu hồi thanh kiếm này chăng?”. Phụng công công nghiêm mặt: “Ngươi chớ khinh thường thanh kiếm này, ta đặc biệt chọn trong quân khố của Hoàng thượng lấy thanh kiếm này, là vì nó có dị lực trừ yêu ma. Thất phản giả, trời có thất tinh, người có thất khiếu. Đóng được thất khiếu, thần sẽ không tản ra ngoài, các xúc giác bị cám dỗ bởi các thứ sắc, thanh, hương, vị. Ngươi tin hay không cũng được, song mang theo thanh kiếm này chỉ có lợi chứ không có hại”. Sau đó lão gằn từng tiếng một: “Ta truyền cho Nguyệt Minh ngươi lập tức rời kinh, bất cứ việc gì liên quan đến Sở hạp không được đề cập đến với bất kỳ ai ngoại trừ Thế Thần và Nhiếp Đề, thời cơ đã đến trước mắt, ngươi nên lập tức mau đi Lạc Dương”. Cô Nguyệt Minh không ứng tiếng đáp ngay, mà trầm ngâm giây lát rồi nói: “Tại hạ có vài lời tâm phúc, có thể tỏ bày cùng công công chăng?”. Phụng công công ngạc nhiên: “Nói đi!”. Cô Nguyệt Minh thản nhiên thốt: “Nếu muốn hoàn thành nhiệm vụ, nên theo phương thức của tại hạ mà làm, xin công công hiểu cho”. Phụng công công ngẩn người một chút, rồi cầm ống điếu hút một hơi, lại thong thả nhả khói, bật cười: “Cô Nguyệt Minh rốt cuộc vẫn hoàn Cô Nguyệt Minh, độc hành riêng biệt, không muốn bất kỳ ai làm vướng bận. Được! Cứ thế mà làm, ngươi có thể hành sự theo ý muốn của mình, chỉ cần đem thủ cấp của Phu Mãnh và Tiết Đình Hao, cùng Sở hạp về trao lại là được”. Cô Nguyệt Minh vâng dạ, đứng dậy thi lễ cáo từ.
o0o
Ô Tử Hư không dám tin vào mắt mình. Nếu hắn nhìn thấy một nhóm kẻ địch phi ngựa xông đến như mãnh thú, thì hắn chỉ có cách cam chịu số phận chứ không kinh ngạc. Đằng này cảnh tượng hắn trông thấy đúng lý không thể nào xảy ra tại một nơi như quỷ vực này. Từ phía tả cách độ hơn ngàn bước, có hàng trăm ngọn đuốc xuất hiện, chiếu sáng cả góc trời, dưới ánh lửa rực đỏ như máu, cả một đại đội người và ngựa đang di chuyển về phía hắn đang nằm. Hàng tiên phong gồm mấy chục tên bộ binh khôi giáp bóng loáng, tiếp theo là bảy, tám kỵ binh, người người trang bị kỹ càng, trên mặt không biểu lộ tình cảm gì, cứ như những chiến sĩ đang ra trận, đã hóa ra vô cảm trước sự sinh tử. Ô Tử Hư chưa từng thấy qua loại khôi giáp của đội quân này, trông vừa nặng vừa thô, chẳng phải loại vũ trang của binh lính thời nay, điều này khiến hắn cảm thấy quái dị lạ thường. Giữa tiếng vó ngựa xen lẫn tiếng bánh xe lăn trên mặt đất, Ô Tử Hư nhìn rõ hơn một chút, bỗng kinh ngạc đến trợn hai mắt há hốc miệng. Theo sát phía sau đội kỵ sĩ là một chiếc xe hai bánh do bốn ngựa kéo, kiểu như loại cổ chiến xa, vì tầm nhìn bị hạn chế nên nhất thời Ô Tử Hư không thấy được kẻ đánh xe. Ngay lúc ấy, đột nhiên Ô Tử Hư phát hiện cách mình khoảng hơn hai chục bước, có một con đường trải đá vụn, rộng cỡ mười bước nằm ngang phía trước. Hắn không dằn được cảm giác lạnh rợn người. Con đường này chỉ mới đột nhiên hiển hiện lúc hắn nhìn thấy chiến xa, trong lòng thầm nghĩ hay mình gặp quỷ rồi. Tuy nhiên thần trí hắn vẫn còn, đang muốn xoay mình lăn xuống lạch nước phía sau để trốn, bỗng hắn nhận thấy mình không thể di động được. Trong lúc hoảng kinh, nhóm bộ binh mở đường đã đến phía trước mặt Ô Tử Hư, không một ai quay đầu nhìn hắn, như thể hắn không hề tồn tại, trong khi ánh đuốc thì soi sáng đến mức hắn không có cách gì ẩn mình được. Ô Tử Hư toàn thân tê liệt, chỉ trố mắt nhìn, chợt thấy trước mắt sáng lên, kẻ đánh xe cuối cùng đã xuất hiện trước mắt, thời gian bỗng như ngưng lại, mọi diễn tiến trở nên chậm lại, trừ kẻ đánh xe trước mặt, hắn như không thấy bất kỳ thứ gì khác. Chưa bao giờ hắn nhìn thấy một kẻ đánh xe đẹp như thế, một nữ nhân diễm lệ như thế. Tuổi nàng không quá hai mươi, phía sau đầu bới cao, thân hình mảnh khảnh được ôm gọn trong chiếc áo bào màu tím, áo dài chấm đất, cổ và tay áo có viền hoa, hai tay cầm cương ngựa. Cả người nàng như tỏa ánh sáng, ngọc cốt băng cơ, mi mục như họa, tươi như vầng thái dương mới ló dạng, thuần khiết như vầng trăng sáng giữa trời đêm thăm thẳm. Mọi thanh âm đều lặng đi, Ô Tử Hư hoàn toàn bị nữ nhân hấp dẫn, quên đi gian khổ, quên cả nguy hiểm. Từ lúc hiểu chuyện đến nay, chưa bao giờ hắn chuyên tâm ngắm nhìn một người đến xuất thần như vậy. Hắn để ý từng vẻ mặt, từng động tác của nàng. Sau khi chiến xa lăn bánh qua, tuyệt sắc nữ nhân tưởng như không hề biết sự có mặt của hắn, nhưng bỗng nhiên nàng quay đầu nhìn về phía hắn, nhìn thẳng vào sâu trong tâm khảm của hắn. Trong lòng Ô Tử Hư dâng lên một cảm giác khó tả, óc hắn bị chấn động mạnh như bị sét đánh, sau đó mất hết tri giác.
Tại một sương phòng ở lầu hai Lân Hoa Cư, Cô Nguyệt Minh ngồi trên bục, tựa vào lan can nhìn xuống đường phố phía dưới, rải rác những khách bộ hành, xe ngựa. Chỉ còn một giờ nữa thì trời sáng, mặt trời mọc là lúc y phải rời kinh đô. Bất luận chuyến này công vụ hoang đường và ly kỳ đến đâu, y nhất quyết phải hoàn thành nhiệm vụ vì y không có sự chọn lựa nào tốt hơn. Lân Hoa Cư nằm trong phố yên hoa trứ danh nhất kinh thành, thanh lâu chen nhau san sát, thâu đêm không ngớt khách tìm hoa, phải đến sáng mới trở lại yên tĩnh. Có tiếng tỳ nữ hô to: “Hoa Mộng phu nhân đến!”. Cô Nguyệt Minh không quay đầu lại, chờ khi Hoa Mộng phu nhân đến gần ngồi xuống bên kia bàn, y mới thở dài. Hoa Mộng phu nhân nhìn Cô Nguyệt Minh, ngạc nhiên nói: “Cớ sao Nguyệt Minh trông như trùng trùng tâm sự, chàng chẳng từng nói trên đời này không có chuyện gì có thể khiến chàng không vui, cũng không có chuyện gì có thể khiến chàng hởi dạ kia mà?”. Nghe lời phu nhân hàm ý hờn dỗi, Cô Nguyệt Minh thầm than một tiếng, đến y cũng không hiểu tâm tình của mình trong lúc này. Từ khi rời đại cung giám phủ, y cứ có cảm giác trầm trọng nhưng không biết vì sao. Hoa Mộng phu nhân là chủ nhân Lân Hoa Cư, ở kinh thành nàng làm ăn rất đạt, bất luận quan quyền quý nhân hay hắc đạo cường đồ, ai cũng nể mặt nàng vài phần. Lúc còn trẻ, Hoa Mộng phu nhân đã từng là danh kỹ nổi tiếng nhất phố yên hoa, nay tuy tuổi gần ba mươi, nhưng da dẻ vẫn non như trẻ nhỏ, có điều cuộc sống đêm đêm đàn ca đã để lại vết hằn năm tháng nơi khóe mắt cuối mày. Dù vậy, phu nhân vẫn là một nữ nhân ưu nhã đầy sức hấp dẫn. Ánh mắt phu nhân dừng lại nơi chiếc túi da đặt trên bàn, mặt lộ vẻ nghi ngờ, nàng hỏi: “Đó là vật gì?”. Cô Nguyệt Minh điềm đạm đáp: “Ta chưa xem qua, tốt nhất là phu nhân cũng đừng nên xem thử”. Hoa Mộng phu nhân mỉm cười: “Phải chăng vật này có liên hệ đến Phụng công công? Nhìn thần sắc của Minh Nguyệt, không cần nói cũng biết lão hồ ly ấy lại làm khó chàng rồi”. Cô Nguyệt Minh rốt cuộc nhìn về phía Hoa Mộng phu nhân rồi thốt: “Sự thật thì ngược lại, lão đưa điều kiện có thể giải trừ quân chức cho ta, quyết không ngoa chút nào”. Hoa Mộng phu nhân ngạc nhiên nói: “Được như vậy, sao chàng như không vui vậy?”. Cô Nguyệt Minh lắc lắc đầu, như muốn xua đi những phiền não trong lòng, chỉ có khi ở trước mặt Hoa Mộng phu nhân y mới không giấu giếm tâm sự, vì nàng là vị hồng nhan tri kỷ duy nhất của y, một đối tượng mà y có thể thố lộ tâm sự. Y tự lẩm bẩm: “Ta thực không hiểu, đúng ra ta phải phấn chấn, phải không?”. Hoa Mộng phu nhân nhíu mày nói: “Vậy có chỗ nào không ổn?”. Cô Nguyệt Minh đưa mắt nhìn trở lại đường phố, trầm giọng nói: “Bằng trực giác ta thấy sự tình không đơn giản như bề ngoài, nên ta tìm đến phu nhân trước khi rời kinh thành, ta muốn nhờ phu nhân tìm giúp ba người”. Hoa Mộng phu nhân không hỏi cặn kẽ vì nàng biết có hỏi cũng thừa, điều gì có thể tiết lộ, tự nhiên Cô Nguyệt Minh sẽ cho biết. Nàng chỉ hỏi: “Chàng cần tìm ai?”. “Nhờ phu nhân dò xét xem trong cả vùng Động Đình Hồ, có cao thủ dùng độc trứ danh nào chăng. Kẻ này chẳng phải tầm thường, mà là một nhân vật có thể gây bối rối cho những tay lão luyện giang hồ bậc nhất. Hoa Mộng phu nhân gật đầu đáp: “Nếu có một nhân vật như thế, chắc chắn không tránh được tai mắt của thiếp. Vậy còn tìm ai nữa?”. “Phu nhân biết Phu Mãnh chăng?”. Hoa Mộng phu nhân gật đầu đáp: “Đương nhiên thiếp biết, lúc thiếp mới vào nghề, họ Phu đã là nhân vật đắc sủng nhất kinh thành, chẳng những thế hắn còn được công nhận là một hán tử can cường, vì hắn là người duy nhất dám đấu khẩu với Phụng công công. Rất tiếc cuối cùng hắn cũng không hơn được Phụng công công, mà còn bị lão tịch thu gia sản, giết cả gia đình, từ đấy chẳng còn ai dám vuốt râu hùm của Phụng công công”. Cô Nguyệt Minh càng nhíu chặt chân mày. Hoa Mộng phu nhân thích nhất là ngắm vẻ trầm ngâm của Cô Nguyệt Minh. Nàng đã từng gặp các nam tử tuấn tú khôi vĩ hơn, nhưng vẫn không ai bì được khí chất riêng biệt của y, một nét cô độc, ưu tư bẩm sinh. Nguyệt Minh không động lòng vì bất cứ chuyện gì, bất cứ ai, kể cả nàng. Lối suy nghĩ này gây cho nàng cảm giác lạc lõng, nhưng chính cảm giác lạc lõng này khiến nàng thích gặp y. Cô Nguyệt Minh chú mục xuống đường, lên tiếng: “Phụng công công lấy cớ gì bắt Phu gia?”. Hoa Mộng phu nhân hừ nhẹ: “Bắt tội khi quân. Chẳng biết Phụng công công dùng trò gì mê hoặc Hoàng thượng, bởi không ai tin Phu Mãnh có thể bội phản Hoàng thượng. Điều ly kỳ hơn nữa là Phu Mãnh đào thoát được. Nếu Phụng công công muốn giết kẻ nào, bất luận kẻ ấy trốn đến chân trời góc bể, chắc hẳn rất khó thoát độc thủ của lão, chỉ có Phu Mãnh là ngoại lệ. Còn nếu Phu Mãnh đã rơi vào tay Phụng công công, tại sao lão không tuyên dương cho mọi người biết?”. Dừng một chút Hoa Mộng phu nhân hạ giọng hỏi: “Điều kiện Phụng công công đưa ra có phải là buộc chàng hạ sát Phu Mãnh?”. Cô Nguyệt Minh cười gượng: “Quả thực phu nhân chớ nên hỏi, biết thêm việc này chỉ có hại vô ích, ta không muốn liên lụy phu nhân. Hừm! Xem ra bọn ta nên loan tin điều tra cao thủ dùng độc kia, cho lọt vào tai mắt của Phụng công công”. Hoa Mộng phu nhân lộ thần sắc cẩn trọng, gật đầu hội ý: “Còn một người nữa là ai?”. Cô Nguyệt Minh ngần ngừ giây lát rồi hỏi: “Phu nhân có nghe qua một người tên Mâu Xuyên chưa?”. Hoa Mộng phu nhân lắc đầu ra dấu chưa từng nghe đến. Cô Nguyệt Minh nhìn nàng, trịnh trọng thốt: “Vậy phu nhân cứ xem như chưa nghe bao giờ. Phu nhân chỉ cần điều tra về cao thủ dùng độc là đủ. Trời sáng ta sẽ rời kinh đi Lạc Dương, phu nhân nên gửi kết quả điều tra sang bên ấy. Hoa Mộng phu nhân nói: “Thanh lâu trứ danh tại Lạc Dương là Hồng Diệp Lâu, nơi ấy có một tài nữ tên là Bách Thuần, cũng là tiểu sư muội của thiếp, tài sắc vẹn toàn, tuyệt đối có thể tín nhiệm, thiếp sẽ đưa tin đến chỗ ấy, chàng tìm tiểu sư muội là có thể biết tin tức”. Cô Nguyệt Minh khẽ thốt: “Đa tạ!”. Hoa Mộng phu nhân thở dài: “Những lần trước Nguyệt Minh đi xa, thiếp chẳng bao giờ lo lắng, nhưng lần này thiếp có cảm giác rất bất an, e rằng Nguyệt Minh đã bị Phụng công công kéo vào vòng tranh đấu của triều đình”. Cô Nguyệt Minh nói: “Đời người như cơn ảo mộng, chớp mắt đã qua, mọi thứ tiêu tan như mây khói chẳng còn dấu vết. Sống chết cũng thế, ta không để tâm đâu”. Hoa Mộng phu nhân cúi đầu khẽ thốt: “Nguyệt Minh!”. Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì thế?”. “Thiếp có thể hỏi một điều chăng?”. Cô Nguyệt Minh nhìn khoảng đêm sao lặng trước lúc mặt trời mọc, thở ra một hơi, ảm đạm gật đầu. Hoa Mộng phu nhân nói: “Đối với chàng giải trừ quân chức quan trọng lắm sao? Không ai biết rõ hơn thiếp, chàng quả thực là một người không sợ chết, tại sao lại sợ ra chiến trường?”. Cô Nguyệt Minh trầm trọng: “Bởi vì ta sợ chiến tranh, rất sợ”. Hoa Mộng phu nhân ngơ ngác: “Cô Nguyệt Minh mà cũng biết sợ ư?”. Cô Nguyệt Minh vươn vai đứng dậy, gật đầu thốt: “Ta thực sự sợ, nhưng nếu phu nhân hỏi vì sao phải sợ, ta quả tình không biết trả lời thế nào. Những cơn ác mộng ta trải qua, ít nhiều đều có liên quan đến chiến tranh. Bao nhiêu lần giật mình tỉnh mộng đều từ cảnh chiến tranh, từ lúc mới lớn đến giờ chiến tranh cứ một mực trói chặt ta. Chuyện này ta chưa từng thố lộ với bất kỳ ai, kể cả cha mẹ”. Nói xong Cô Nguyệt Minh cầm lấy chiếc túi da trên bàn, chúm môi huýt sáo, lập tức có tiếng vó ngựa vang lên từ dưới đường, một con tuấn mã sắc xám trắng chẳng biết từ đâu phi đến phía dưới lầu chỗ Cô Nguyệt Minh đang đứng. Hoa Mộng phu nhân đứng dậy đến sau lưng Cô Nguyệt Minh, đột nhiên dùng hết sức ôm chặt lấy y. Cô Nguyệt Minh bất động, chân thành thốt: “Nếu ta một đi không về, xin chớ vì ta rơi lệ, nên cười mới phải”. Hoa Mộng phu nhân buông tay, dòng lệ nóng không dằn được tuôn rơi, Cô Nguyệt Minh chưa bao giờ nói lời từ biệt bất tường như thế. Cô Nguyệt Minh một tay vịn lan can tung mình lên không, lộn mình xuống hai, ba trượng, đáp ngay lưng tuấn mã, thúc ngựa phóng đi nhanh chóng. Hoa Mộng phu nhân tựa lan can nhìn theo, trong ánh lệ nhạt nhòa bóng Cô Nguyệt Minh khuất dạng sau khúc quanh.
o0o Ô Tử Hư tỉnh lại, tự dưng muốn khóc, chưa bao giờ hắn có cảm giác này, ngay cả lúc tinh thần sa sút nhất. Nhưng bây giờ đầu óc hắn chỉ là một khoảng trống không, như thể bị lẩn lộn giữa hiện tại và tương lai, không cách gì định được mình ở đâu và đã xảy ra chuyện gì. Hắn mơ hồ thấy một gương mặt tuyệt mỹ hiện ra trong não, đang nhìn về phía hắn như muốn hớp hồn, với ánh mắt thăm thẳm vô tận như hàm chứa ngàn vạn lời nói. Ô Tử Hư ngồi bật dậy thở gấp, rốt cuộc hắn nhớ ra cảnh quái dị đã chứng kiến trước khi ngất đi, song lại run sợ phát hiện ra là vùng đầm lầy rành rành trước mắt đã biến mất không dấu vết. Tuy toàn thân vẫn còn đau nhức, nhưng hắn đã hồi phục sức lực. Ánh nắng từ phía sau chiếu lại, hắn đang nằm bên bờ một con sông rộng độ năm trượng, nước trong xanh thấu đáy sông. Dòng sông lặng lờ trôi, uốn quanh như một đai ngọc trên vùng bình nguyên rộng lớn. Bầy chuồn chuồn bay vòng vòng trên đầu hắn như đang múa, nhưng chúng không hề đụng vào nhau. Gió nhẹ đưa lại. Ô Tử Hư quay đầu lại nhìn vị trí mặt trời, thầm giật mình vì bây giờ chỉ còn độ một giờ là mặt trời lặn, vậy là hắn đã hôn mê gần hết một ngày. Thực sự đã xảy ra chuyện gì? Lối giải thích hợp lý nhất là sau khi hắn hôn mê vào đêm qua, lại bị nước sông đẩy trôi đến đây, còn vùng đầm lầy thì nằm phía thượng du. Nhưng làm thế nào giải thích việc hắn đã gặp mỹ nữ tuyệt thế và đội bộ binh kỳ dị kia? Không lẽ hắn đã gặp phải một đám âm hồn không an nghỉ từ thời cổ xưa? Ô Tử Hư bất giác rùng mình, toàn thân run lên. Hắn lại tự mắng mình suy nghĩ bậy bạ tự dọa mình, rất có thể đó chỉ là một cảnh trong mộng, thế nhưng mộng tại sao rõ ràng chân thật như thế. À! Cũng có thể đêm qua chính mình đã bước nửa bước vào Quỷ Môn Quan, nên nhìn thấy cảnh giới bên kia, nghĩ đến đây hắn cảm thấy lạnh cả gáy. Đang hoang mang nghi ngờ, bụng hắn bỗng kêu “ột ột”, hắn chợt cảm thấy đói quá sức. Hắn thầm nghĩ nơi đây tìm trái cây dại nhấm đỡ đói hẳn không khó, nếu tìm được loại giống như hoàng tinh thì càng lý tưởng, ăn no bụng thì mới có sức ra khỏi chốn quái quỷ này.
o0o “Rầm!”. Hoàng Phủ Thiên Hùng đập tay xuống bàn, cả giận nói: “Các ngươi làm sao mà chỉ có một tiểu tử ngoại lai cũng không bắt được. Họ Hoàng đứng bật dậy, càng rõ dáng hùng vĩ cao to, lại thêm đỉnh đầu nhẵn bóng, một chiếc mũi khoằm như vuốt chim ưng, đôi mắt nheo lại thành hai sợi chỉ sắc như dao, biểu lộ một cá tính khắc bạc vô tình. Hơn mười đại hán đang bị trách mắng, ai nấy cúi đầu chẳng dám thở mạnh, đương nhiên không ai dám lên tiếng, lúc này mà khiêu khích Hoàng Phủ Thiên Hùng thì hẳn là chán sống rồi. Nhóm đại hán này khi ra ngoài, người nào cũng là nhân vật ngang tàng có tiếng, nhưng trước mặt họ Hoàng lại trở nên ngoan ngoãn như cừu non. Chỉ có một người là ngoại lệ. Hắn vòng tay đứng sau lưng Hoàng Phủ Thiên Hùng với vẻ cao ngạo, vóc người cao, trông cường tráng rắn chắc, mái tóc đen dày chải ngược hết ra phía sau, để lộ vầng trán cao rộng, sống mũi thẳng, đôi mắt vô cùng sắc bén, linh hoạt. Một khuôn mặt vuông, tướng mạo đường đường, tuy đứng yên bất động song toàn thân hán tử khí lực sung mãn tựa như một con báo sắp vồ mồi, tuổi chừng hai mươi bảy, hai mươi tám, phong độ đại gia rất lôi cuốn. Người này tên là Khâu Cửu Sư, đại tướng hàng đầu dưới trướng Hoàng Phủ Thiên Hùng, bất cứ việc gì giao cho hắn đều được thu xếp ổn thỏa, từ trước đến nay chưa bao giờ phải khiến Hoàng Phủ Thiên Hùng bận tâm. Hai ngày trước, Khâu Cửu Sư nhận được thư bồ câu của Hoàng Phủ bang chủ, lập tức trở về từ vùng Thái Hồ. Hai mắt Hoàng Phủ Thiên Hùng nổi đầy gân máu, hiển nhiên đã nhiều đêm mất ngủ, lão nghiêm giọng giận dữ nói: “Nuôi binh ngàn ngày, dùng trong nhất thời, lúc ta cần các ngươi nhất, đám ngu xuẩn này chẳng có tên nào làm được việc. Làm thế nào các ngươi có thể để cho quân cẩu trệ ấy trốn sang bên kia bờ sông? Chẳng phải các ngươi đã phong tỏa một vùng trăm dặm vuông hay sao? Nếu nội trong mười ngày mà các ngươi vẫn chưa bắt được gã đê tiện ấy, thì mỗi người tự lấy đầu trở về gặp ta”. Lúc này có một người thong thả tiến vào thính đường, thần sắc ung dung tự nhiên, so với nhóm mười mấy đại hán bị mắng thậm tệ đang hãi sợ thì như một trời một vực. Chúng đại hán thấy người này cứ như gặp được cứu tinh, chỉ có Khâu Cửu Sư đang đứng sau lưng Hoàng Phủ Thiên Hùng thì vẫn trầm tĩnh không biểu lộ gì cả. Người mới vào mặc đồ theo lối văn sĩ, nhất cử nhất động nhẹ nhàng thoải mái, dáng người bậc trung, nhìn không xuất sắc mấy, nhưng đôi mắt tinh anh đầy tự tin khiến kẻ khác cảm nhận được gã thuộc hàng mưu trí hơn người, dị chúng bất đồng. Chúng đại hán đồng loạt lui ra hai bên nhường lối cho văn sĩ bước đến trước mặt Hoàng Phủ Thiên Hùng. Văn sĩ thi lễ và nói: “Tu Chân bái kiến đại long đầu, nội vụ rốt cuộc đã có chút manh mối”. Hoàng Phủ Thiên Hùng như kẻ gặp thủy nạn sắp chết chìm giữa biển mà vớ được phiến gỗ trôi ngang, tinh thần phấn chấn, hướng sang chúng đại hán bảo: “Các ngươi hãy cút đi”. Nhóm thuộc hạ mừng như được hoàng ân đại xá, vội vã lui ra, chẳng bao lâu đã đi hết cả, chỉ còn lại Hoàng Phủ Thiên Hùng, Khâu Cửu Sư và văn sĩ tự xưng là Tu Chân. Hoàng Phủ Thiên Hùng là thủ lãnh Đại Hà Minh, một tay sáng lập bang hội hùng bá lưu vực Đại Giang này, tuy lấy Đại Giang làm địa bàn chủ yếu, thực chất thế lực đã lan tràn khắp toàn quốc, đến như quan phủ triều đình cũng ân cần phủ dụ, chẳng dám xem thường. Nếu Khâu Cửu Sư là đại tướng đắc lực nhất của Hoàng Phủ Thiên Hùng, thì Nguyễn Tu Chân là quân sư đa mưu túc trí của đại long đầu. Hai người một võ một văn, khiến thế lực Đại Hà Minh không ngừng bành trướng, trong vòng năm năm trở lại đây, không còn bang hội nào dám thách thức ngôi vị bá chủ của Đại Hà Minh. Hoàng Phủ Thiên Hùng trở lại ghế ngồi, trầm giọng hỏi: “Kết quả thế nào? Nguyễn Tu Chân vòng tay thủ lễ trước đại long đầu, đáp: “Tu Chân phái người đem hình vẽ của tên hung đồ ấy đi điều tra cặn kẽ, phát hiện ra hung đồ giả tên Chúc Lương, ba tháng trước đến huyện Bắc Giang thuộc phủ Kinh Châu, ngụ tại khách sạn hoa lệ nhất, nội trong đêm hắn đến đổ trường phóng tay đánh bạc, sau đó la cà thanh lâu tửu quán, tiêu tiền như nước. Tuy nhiên hắn chỉ lưu lại Bắc Giang ba ngày, rồi xuôi hạ du đến một huyện khác, lại tiếp tục bài bạc, ăn chơi trác táng. Hắn tự xưng là tay buôn vải, nhưng chưa ai gặp hắn mua bán vải, cũng không ai biết hắn. Hoàng Phủ Thiên Hùng nhíu mày: “Tiểu tặc này xem ra rất giàu”. Nguyễn Tu Chân nói tiếp: “Kẻ này vừa ăn chơi bài bạc, vừa di chuyển qua nhiều huyện ven sông đến phía đông. Tu Chân ước tính, chỉ nội tiền hắn thua bài và phung phí trong phố yên hoa, chắc chắn phải trên năm ngàn lượng bạc, một con số kinh người. Nhưng hắn có một đặc điểm, đó là không bao giờ đến cùng một đổ trường hay thanh lâu, chỉ tới một lần rồi đi, đến bất cứ đâu hắn cũng ở không quá năm ngày, do đó dù bọn bất lương bản địa có ý đồ gì với hắn, chưa biết rõ thì hắn đã đi mất rồi”. Hoàng Phủ Thiên Hùng trầm ngâm suy nghĩ. Nguyễn Tu Chân tiếp tục: “Loại người như hắn đúng lý dễ điều tra, thế nhưng trước khi xuất hiện tại huyện Bắc Giang, hắn như chưa từng có mặt, tại các huyện thành trong vòng trăm dặm vuông chưa có ai gặp hắn, hay từng nghe qua một người tương tự như hắn”. Hoàng Phủ Thiên Hùng gật đầu không ngừng nhưng không nói gì, Khâu Cửu Sư vẫn bất động như cũ, chỉ có mắt hắn hơi thay đổi, tinh quang sáng ngời. “Căn cứ theo việc hắn đã nằm trong địa vực có thế lực mạnh nhất của bọn ta, mà còn có thể an toàn trốn sang bờ phía nam Đại Giang, thì có thể đoán biết kẻ này tuyệt chẳng phải tầm thường, thuộc hạ không nói hắn có võ công cao cường, mà là bản lãnh tàng ẩn và đào tẩu siêu phàm của hắn”. Hoàng Phủ Thiên Hùng trầm tư hỏi: “Vậy hắn là ai”. “Chắc chắn hắn không phải thuộc hàng tử đệ đại phú đại gia muốn che giấu lai lịch, mà hành vi của hắn thì giống như một cự phú bạo phát, do đó thân phận thực của hắn đã phơi bày”. Hoàng Phủ Thiên Hùng rúng động: “Tu Chân đoán hắn là ai?”. Nguyễn Tu Chân dài dòng đáp: “Thuộc hạ chưa dám khẳng định, để chứng thực suy đoán của mình, thuộc hạ đã liên lạc nhóm người chuyên buôn của trộm có thực lực nhất quanh huyện Bắc Giang, quả nhiên có phát hiện mới”. Hoàng Phủ Thiên Hùng lộ ý cừu hận, lẩm nhẩm: “Tu Chân ngươi làm việc rất tốt”. Nguyễn Tu Chân nói tiếp: “Cách đây ba tháng, tên Tạ Thành ở Tương Dương có mối làm ăn lớn đến sáu ngàn lượng bạc, ấy là ngưu tượng bằng thúy ngọc, một trấn gia chi bảo của Phương Vi Công, phú hộ giàu nhất thành đô. Sau đó Phương Vi Công cắn răng bỏ ra tám ngàn lượng chuộc lại bảo vật. Đại long đầu bây giờ chắc đã biết kẻ đó là ai!”. Hoàng Phủ Thiên Hùng trợn hai mắt, nghiến răng ken két: “Ngũ Độn Đạo, ta rủa mười tám đời tổ tông nhà ngươi”. Ngũ Độn Đạo là một đại đạo thần bí và thành công nhất hiện nay, vì hắn chưa bao giờ thất bại, người ta đồn hắn tinh thông thuật ngũ độn. Nói đến ngũ độn, tức là khả năng dựa theo biến hóa ngũ hành mà mượn các vật chất khác nhau để độn thân ẩn hình, như kim mộc thủy hỏa, duy có thổ độn là mau nhất vì chỗ nào cũng giáp đất. Dĩ nhiên đây là lời đồn thổi phồng thêm, nhưng có thể thấy khả năng tới lui không dấu vết của Ngũ Độn Đạo. Ngũ Độn Đạo cũng có nguyên tắc riêng khác người, ấy là có ba trường hợp không hành nghề, một là chẳng phải nhà đại phú thì không ra tay, hai là chẳng phải vật trân bảo thì không trộm, ba là nếu không phải vật trấn gia chi bảo cũng không lấy. Mà hắn chưa từng đả thương người, mỗi lần chỉ trộm một món, do đó danh vang giang hồ không ít. Ngũ Độn Đạo rất được các tay buôn của trộm hoan nghênh, bởi theo quy củ giang hồ, nhà buôn đồ trộm sẽ báo cho khổ chủ biết cách chuộc đồ, mà khổ chủ nào có của bị Ngũ Độn Đạo động thủ cũng là phú thương bậc nhất, tất cả đều giống như Phương Vi Công đành bỏ tiền chuộc lại bảo vật. Chuyện giang hồ giải quyết theo cách giang hồ, bởi khổ chủ không dám kinh động quan phủ, chỉ e mất luôn cơ hội chuộc của báu, do đó tính đến nay Ngũ Độn Đạo vẫn chưa nằm trong bảng tróc nã của quan phủ. Nguyễn Tu Chân lại nói: “Tạ Thành nửa đêm bị Ngũ Độn Đạo đánh thức dậy, như thường lệ hắn trùm kín toàn thân bằng vải đen, chỉ đưa ngưu tượng bằng thúy ngọc ra cho Tạ Thành kiểm tra là đồ thật, báo cho họ Tạ biết lấy trộm nhà ai, sau đó ôm bảo vật rời đi. Tạ Thành mất ba ngày lấy đủ ngân lượng rồi chờ Ngũ Độn Đạo đến tìm gã để trao đổi. Họ Tạ chờ hết mười hai ngày mới gặp lại Ngũ Độn Đạo. Chiếu theo lời gã miêu tả, Ngũ Độn Đạo có chiều cao và hình thể hoàn toàn phù hợp với kẻ sát hại công tử, qua đó có thể khẳng định là cùng một người”. “Bình!”. Hoàng Phủ Thiên Hùng đập tay xuống bàn, hai mắt long lên như phun lửa. “Ngũ Độn Đạo ít nhất bị bọn ta nắm được nửa bàn chân. Ba tháng nay, chắc chắn hắn dùng chân diện mục đi lại gặp người, bằng không các kỹ nữ thanh lâu đồng sàng với hắn thế nào cũng phát giác ra điểm khác thường. Mà hắn đã xài hết tiền, không thể không tìm cách kiếm ngân lượng, vậy khi nào hắn liên lạc với nhà buôn của trộm, ấy là thời cơ của bọn ta”. Hoàng Phủ Thiên Hùng bình tĩnh lại, trầm giọng hỏi: “Cửu Sư nghĩ sao?”. Khâu Cửu Sư lãnh đạm đáp: “Nguyễn tiên sinh suy đoán chắc chắn không sai chỗ nào. Chỉ có Ngũ Độn Đạo mới có thể trốn thoát khỏi thiên la địa võng của bọn ta. Việc này giao cho thuộc hạ cùng Nguyễn tiên sinh, bảo đảm có thể bắt sống hắn giải đến cho đại long đầu xử trí”. Hoàng Phủ Thiên Hùng trầm ngâm chốc lát, lắc đầu thốt: “Nếu không tự tay bắt sống hắn, làm sao rửa hận cho ta? Ta đã hạ lệnh phong tỏa bắc ngạn, hắn muốn hành nghề chỉ có thể đến nam ngạn Đại Giang, như vậy bọn ta thu hẹp phạm vi vây bắt hắn rất nhiều, để xem thử hắn trốn đến đâu”. Khâu Cửu Sư nói: “Bọn ta cần đặc biệt chú ý các thành thị nơi xuất hải và ở biên cương, đề phòng hắn trốn ra ngoại vực. Chỉ cần hắn vẫn ở Trung thổ, chuyện rơi vào lưới chỉ là sớm muộn mà thôi”. Hoàng Phủ Thiên Hùng ra lệnh: “Lập tức cảnh cáo tất cả nhà buôn của trộm phía nam, ai không ngoan ngoãn hợp tác với bọn ta, chẳng những nhà tan thân diệt, mà còn chết rất thảm. Nguyễn Tu Chân và Khâu Cửu Sư lớn tiếng vâng dạ. Hoàng Phủ Thiên Hùng song mục ngập ánh cừu hận, khoé miệng lộ nét tàn độc: “Ta sinh chín gái, mới có được một trai, Ngũ Độn Đạo ngươi thật cả gan, ta sẽ khiến ngươi hối hận làm người”. Lúc này một thủ hạ tiến vào bẩm báo: “Bẩm đại long đầu, kinh thành có người tới cầu kiến”. Hoàng Phủ Thiên Hùng không suy nghĩ hét lớn: “Cút mau! Ta không muốn gặp ai cả!”. Tên thủ hạ sợ quá quỳ phục xuống đất, run giọng nói: “Là... là...”. Nguyễn Tu Chân ngạc nhiên hỏi: “Là ai?”. “Là Quý Nhiếp Đề đại nhân”. Hoàng Phủ Thiên Hùng, Nguyễn Tu Chân và Khâu Cửu Sư cùng biến sắc mặt.
Vô Song Nữ dắt hắc mã đi qua phố tại Thanh Hương Trấn, thong dong bước trên đại lộ nối đông tây, nàng nhìn tứ bề với ánh mắt hiếu kỳ, tựa như nhàn tản vô mục đích. Thị trấn này khá lớn, nhà nhà san sát nhau hai bên đường, ước tính vài trăm hộ gia cư, sinh hoạt khá phồn thịnh. Tuy Vô Song Nữ khoác áo bào rộng để che khinh phục bó sát thân, nhưng vì nét đẹp khác thường nên gây sự chú ý của nhiều người. Thân hình hấp dẫn, suối tóc đen tuyền đầy sức sống, làn da trắng mịn, một mỹ nữ hiếm thấy như thế, không cần làm chi cả cũng đủ khơi lòng ham muốn của các nam nhân cùng lòng đố kỵ của nữ nhân khác. Vô Song Nữ không mấy quan tâm sự chú mục của kẻ khác, vì nàng vốn không sợ ai cả, nàng tự tin trong người mình luân lưu dòng máu của cha nàng, mà Phu Mãnh chính là một người không sợ gì cả. Chẳng bao lâu nàng đến đúng cửa tiệm muốn tìm, trước sự đon đả chào hàng, nàng lựa mua một số lương khô và đồ nhật dụng, xếp đầy túi hành lý. Trước khi nàng đi ra, người bán hàng đã cao tuổi không nhịn được liền hỏi: “Cô nương lên đường một mình à?”. Vô Song Nữ mỉm cười gật đầu: “Có chuyện gì chăng?”. Người bán hàng vội đáp: “Không có gì”. Như đã ngưng rồi lại không dằn được, vị lão bá lo ngại nói: “A! Ma Tử Quang và đám thổ bá đang để ý cô nương, cô...”. Vô Song Nữ thấy lão nhìn lén ra đường trước rồi mới nói câu trên, liền hiểu ngay, nàng không nhìn theo ánh mắt của lão, để đám lưu manh đang theo dõi nàng không biết lão đang nhắc nàng đề phòng, hòng tránh cho vị lão bá có lòng tốt này khỏi lãnh họa vào thân. Nàng cắt ngang: “Lão bá chớ lo! Ta biết cách đối phó”. Nói xong nàng cầm túi hành lý bước ra ngoài cửa đến bên thân ngựa, cột chặt túi bên mình ngựa, không thèm nhìn đến vài thanh niên đang tụ tập bên kia đường bình phẩm nàng. Đám thanh niên này mới nhìn đã biết không phải hạng lương thiện. Vô Song Nữ ôm cổ hắc mã thủ thỉ vài câu, rồi dắt ngựa thong thả đi về hướng đông của thị trấn, thần thái an nhàn. Có người từ phía sau đuổi tới, Vô Song Nữ không cần nhìn lại cũng nhận ra đối phương có bảy người tất cả. Bỗng một hán tử mặt rỗ hoa mè rượt ra trước mặt Vô Song Nữ, dang hai tay cản đường, cười nham nhở nói: “Cô nương phải chăng đang tìm chỗ ở, chi bằng đến nhà ta, vừa đỡ tốn tiền vừa tiện lợi”. Sáu tên vô lại còn lại cùng ùa đến, bao vây Vô Song Nữ, trong bọn một tên trơ trẽn cười: “Quang ca biết chiều mỹ nhân nhất, bảo đảm phục vụ chu đáo, nếu không được thì còn bọn ta đây?”. Cả bọn cười hô hố. Người trong trấn đều tránh xa hết, chẳng ai dám nhúng tay vào, chừng ấy đủ biết đám thanh niên này bình thường hoành hành bá đạo đến mức nào. Vô Song Nữ không một chút giận, nhưng đã hết cười, nàng lạnh lùng nói: “Cút đi!”. Tên mặt rỗ giả bộ kinh ngạc, chỉ vào mũi mình nói: “Mỹ nhân nói sao? Tai ta lãng mất rồi, nàng lặp lại lớn tiếng một chút”. Một tên khác giả giọng: “Quang ca không nghe à? Nghe lại cho rõ này! Nô gia bảo ngươi xéo xuống giường đi, để cho các huynh đệ khác lên. Hứ!”. Đám thanh niên ôm bụng ngả nghiêng cười rú lên. Vô Song Nữ hừ nhạt một tiếng, bèn dắt ngựa tiến thẳng về phía Ma Tử Quang đang đứng chận đường. Hai mắt Ma Tử Quang lộ hung quang, đưa tay định chộp cương ngựa. Vô Song Nữ hô một tiếng “muốn chết”, nhanh như chớp vung cước đá ra, tên mặt rỗ chưa biết xảy ra chuyện gì, thì thấy vùng bụng dưới đau nhói kịch liệt, cả thân mình nặng đến trăm cân bị đá văng ra sau đến nửa trượng, té chổng bốn vó lên trời, khiến mọi người đều không tin mắt mình, không ngờ một nàng gái liễu yếu lại có cước lực mạnh như thế. Sự tình diễn tiến ngoài định liệu của mọi người, đám thanh niên còn chưa hiểu rõ đã xảy ra chuyện gì, thì Vô Song Nữ lộn ngược đến trước mặt hai tên đứng phía sau, tung mình phóng liên hoàn cước đá thẳng vào mặt của cả hai, chúng rú lên, mũi miệng đổ máu té ra phía sau ngồi bệt xuống đất. Nhóm vô lại địa phương này tên nào cũng biết chút võ nghệ, mỗi ngày đấm đá vung đao, bằng không chẳng thể hoành hành vùng hương thôn này. Thấy đồng bạn bị đá, bốn tên còn lại nổi xung, xông vào từ hai phía tấn công Vô Song Nữ. Vô Song Nữ rốt cuộc cười lên đôi chút, bỗng phi thân nhẹ như mèo không chút phí lực ung dung đáp lên lưng ngựa, lại rút bên hông ra một ngọn roi mềm màu đen dài cỡ nửa trượng. Bốn thanh niên xông vào chộp hụt, chẳng biết nàng đang ở đầu, bỗng thấy bóng roi xẹt trên đầu, giữa tiếng kêu rú và trong chớp mắt, mỗi tên đã bị trúng ít nhất một roi trên mặt, khiến chúng đau đớn chẳng còn sức phản công. Dân trong trấn bàng quan vừa trố mắt nhìn vừa cảm thấy khoái trá. Không ai ngờ tiểu cô nương yêu kiều hấp dẫn kia không những có thân thủ lợi hại, mà còn tạo cho người đứng nhìn cảm giác đang xem một màn biểu diễn ngoạn mục. Vô Song Nữ huýt nhẹ một tiếng, tuấn mã được lệnh lập tức phóng đi. Lúc này Ma Tử Quang đang ngồi dậy, Vô Song Nữ thúc ngựa phóng ngang qua chỗ gã. Gã vừa giận vừa đau hét lên một tiếng, mới nửa chừng bỗng tắt nghẹn, thì ra đã bị ngọn roi siết chặt gã té ngược ra sau, ghì sát xuống đất. Vô Song Nữ nét mặt bình tĩnh, như không biết mình đang siết cổ một người, đến khi Ma Tử Quang gần sắp đứt hơi nàng mới thu roi, phi ngựa ra cổng trấn, để lại Ma Tử Quang nằm còng queo dưới đất ôm cổ họng rên la.
o0o
Khâu Cửu Sư cùng Nguyễn Tu Chân sánh vai thả bộ trên lối đi nhỏ trong vườn hoa, họ Nguyễn đột nhiên dừng bước thở dài một tiếng. Khâu Cửu Sư đồng tình thốt: “Nếu công tử có được hai, ba thành công phu của long đầu thì không phải chết dễ dàng như vậy”. Nguyễn Tu Chân nói: “Ta thì không tiếc cho công tử. Nói trắng ra, long đầu nuông chiều công tử quá mức, lâu ngày chày tháng quen thành tính. Công tử cứ ngang ngược bá đạo, nếu chẳng phải là con trai Hoàng Phủ Thiên Hùng ắt đã chết không biết mấy lần”. Hai người làm việc chung lâu năm, cùng trọng tài nhau, quan hệ đôi bên rất tốt, nên khi trò chuyện riêng có thể nói thẳng suy nghĩ mà không úy kỵ gì cả. Khâu Cửu Sư nhíu mày hỏi: “Vậy sao tiên sinh vẫn một mực ưu tư? Nguyễn Tu Chân hạ nhỏ giọng: “Ta lo cho tương lai của bổn bang. Từ mấy năm qua, uy thế của bọn ta lên đến tột đỉnh, có câu thịnh cực tất suy, vật cực tất phản. Cái chết bất ngờ của công tử là một đả kích lớn cho long đầu, cứ nhìn thần thái của long đầu khi nãy, đủ biết việc này ảnh hưởng long đầu nhiều đến mấy. Tướng quân theo long đầu bấy lâu, có bao giờ thấy ngài rơi lệ chăng?”. Khâu Cửu Sư thốt: “Chuyện này cũng thường tình thế nhân không ai tránh khỏi thương tâm, tuy nhiên long đầu là một người rất kiên cường, ta tin ngài sẽ hồi phục rất mau, mọi việc sẽ trở lại bình thường. À! Hy vọng trong nhóm tỳ thiếp của long đầu có người sẽ sinh hạ cho ngài một trai”. Nguyễn Tu Chân nói: “Nhưng nếu có biến họa trước lúc ấy thì sao? Triều đình do bao năm liên tục chiến loạn nên trở thành thế yếu, mà bọn ta mấy năm gần đây thì thế lực tăng trưởng không ngừng, ta tin chắc triều đình đang cố kỵ bọn ta. Quý Nhiếp Đề hôm nay đến gặp đại long đầu, hẳn không phải tốt lành gì”. Khâu Cửu Sư gật đầu: “Long đầu bây giờ đang nói chuyện cùng Quý Nhiếp Đề tại nghị sự đường, sớm muộn gì bọn ta sẽ biết rõ mục đích của họ Quý. Long đầu tín nhiệm tiên sinh nhất, chỉ có lời của tiên sinh mới nghe, bây giờ là lúc long đầu đang cần tiên sinh nhất đấy”. Vẻ mặt Nguyễn Tu Chân vẫn lo âu, trùng trùng tâm sự. Khâu Cửu Sư ngạc nhiên hỏi: “Tình huống thực sự nghiêm trọng thế sao? Nhưng ta không cảm thấy gì khác lạ, theo cách nhìn của ta, chỉ cần bắt sống Ngũ Độn Đạo cho long đầu rửa sạch hận, thì mọi thứ sẽ trở lại như trước”. Hắn lại hừ lạt: “Nếu Phụng công công muốn trừ khử bọn ta, năm năm trước họa chăng miễn cưỡng làm được, để đến hiện nay thì đã lỡ mất thời cơ. Phạm vào bọn ta, bọn ta thẳng thắn công nhiên tạo phản, xem thử ai làm khó được ai”. Nguyễn Tu Chân ngẩng đầu nhìn bầu trời hoàng hôn, từ từ thốt: “Ngay sau khi công tử chết bất ngờ, ta gieo ba quẻ cho bổn bang”. Khâu Cửu Sư kinh ngạc hỏi: “Chẳng phải gieo một quẻ đã đủ đoán hung cát sao? Tại sao phải lấy liền ba quẻ?”. Nguyễn Tu Chân cười gượng: “Ta cũng không biết bắt đầu nói từ đâu. Quẻ đầu tiên ta bốc, trúng phải tam hào tề động, tâm tư rúng động, vì bốc quẻ quan trọng nhất là động hào, nhưng hào động quá mức sẽ khiến kẻ bốc quẻ không biết giải thế nào. Điều khiến ta bất an hơn, ba hào động đều là quỷ hào. Tam tam bất tận, lục lục vô cùng. Trời ạ!”. Khâu Cửu Sư nhíu mày: “Ta chưa hiểu”. “Không hiểu cũng không sao. Nói đơn giản là ta không thể dựa vào quẻ này đoán điềm hung cát. Qua một ngày sau, ta bốc thêm một quẻ, lại cũng tam hào tề động, cũng giống quẻ trước, là quỷ hào động”. Khâu Cửu Sư cảm thấy rờn rợn, tuy không thông hiểu phép bốc quẻ, nhưng cứ nhìn thần sắc ưu tư của Nguyễn Tu Chân cũng biết sự bất thường của hiện tượng này, chắc chắn không phải điều tốt. Nguyễn Tu Chân nói tiếp: “Quẻ thứ ba ta bốc vào bảy ngày sau, ôi!”. Khâu Cửu Sư ngạc nhiên hỏi: “Tình thế không thay đổi ư?”. “Vẫn là tam hào tề động, đều là quỷ hào. Đừng hỏi ta hiện tượng này mang ý nghĩa gì, vì ta cũng chẳng biết, chỉ biết là ta không dám gieo quẻ thứ tư”. Khâu Cửu Sư trầm ngâm không nói. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Có rất nhiều sự việc không chờ đến phiên bọn ta lý giải, chỉ có cách tận lực mà làm, phải chăng?”. Khâu Cửu Sư không nói được gì cả.
o0o
“Ta không muốn chết chút nào”. Câu nói đó không ngừng lặp lại trong đầu Ô Tử Hư. Từ nhỏ hắn vẫn là một người kiên cường tranh đấu, bất luận thất bại thế nào cũng không tiêu hao ý chí phấn đấu sinh tồn của hắn. Xuất thân từ một đại gia đình bảo thủ phong kiến, từ lúc hiểu việc thì hắn không thích “nhà” cho lắm, đặc biệt hắn thuộc giòng trắc thất thứ năm, cha hắn bạo ngược ngang tàng, mẹ hắn yếu bệnh thường xuyên, huynh đệ tỷ muội khá đông. Khi mẹ hắn thất sủng, bị đại nương, nhị nương cùng tam nương liên thủ bức tử, lúc ấy chỉ mười hai tuổi hắn đã quyết ý bỏ nhà ra đi, tự bấy đến nay không hối hận. Hắn đã từng đi xin ăn, từng học đủ nghề khác nhau, làm qua vô số công việc. Bất luận học thứ gì, chỉ học qua thì làm được, thậm chí trội hơn cả thầy truyền nghề cho hắn, thiên tư học tập của hắn chưa ai bì kịp. Hắn lại khám phá ra mình chẳng bao giờ làm một nghề gì quá nửa năm vì hắn rất mau chán. Mơ hồ hắn cảm thấy mình như đang tìm kiếm một vật nhưng không rõ là thứ gì. Nói về võ công, hắn theo học hơn mười vị sư phụ, nhưng lần nào cũng chỉ nội trong vài tháng là hắn đã vượt trội hơn thầy, khiến hắn trở nên một đồ đệ không được ưa chuộng nhất. Đến năm mười tám tuổi, hắn học được một thân toàn tài, thập bát ban võ nghệ loại nào cũng tinh thông. Hắn có một đôi tay linh xảo, thính lực hơn người thường, tuy nhiên hắn hãnh diện nhất là nhãn lực của mình. Các cư viện bố cục thế nào, thậm chí các loại khóa tinh xảo nhất, hắn chỉ nhìn qua một lần là nắm vững mọi chi tiết chính xác. Hắn cũng vướng vào tật cờ bạc, hắn thích sự kích thích khi ngồi trong bàn đoán cuộc thắng thua, điều này khiến hắn nghèo kiết xác, nợ đầy thân. Rất may cuối cùng hắn nghĩ ra một cách. Ô Tử Hư tốn hết năm năm chuẩn bị, truy tìm nghiên cứu các thủ đoạn trộm cắp, chế ra đủ loại dụng cụ, luyện tập thân thủ. Đến năm hai mươi ba tuổi, lần đầu tiên hắn xuất thủ trộm được con ngựa bằng ngũ sắc hoàng kim, bảo vật trứ danh của phú hào bậc nhất phủ Ứng Thiên, lúc ấy hắn biết mình đã xoay chuyển mệnh vận của mình. Tuy trở thành một tay trộm, nhưng hắn chẳng phải như bọn cẩu đạo trộm vặt, mà là một đại đạo siêu cấp có phong cách riêng. Ngân lượng vào tay, hắn lại tiêu pha như nước, tận tình hưởng lạc cuồng hoan, đến khi xài hết tiền tài, không thể không làm một chuyến trộm bảo vật khác, từ kích thích cực độ đến phóng túng cực độ. Thế nhưng hắn có thỏa mãn chăng? Hắn cũng không rõ, sâu trong tâm tư hắn biết mình đang tìm kiếm một thứ gì đó. Có thể là một bảo vật, cũng có thể là một nữ nhân, hắn không rõ, chỉ biết nỗi khao khát trong tâm rất có thể vĩnh viễn không tìm được. Cũng có thể chỉ tìm được trong mộng. Bất giác trong đầu hắn hiện lên rất rõ hình ảnh nữ nhân tuyệt sắc trên chiến xa cổ đại. Mặt trời chưa lặn xuống gò đất phía tây. Tìm được củ hoàng tinh ăn xong, tinh thần thể lực Ô Tử Hư hồi phục, lại đầy đủ ý chí tranh đấu. Đúng lúc ấy, hắn nhìn thấy ở xa xa như có một điểm sáng, định thần muốn nhìn kỹ hơn thì điểm sáng đã biến mất. Hắn nghĩ thầm chỗ ấy có thể có người ở nên cả mừng, vội nhảy phắt dậy đi về phía đã xuất hiện ánh sáng. Trong đầu hắn chỉ có một ý niệm là mau rời khỏi vùng hoang dã như quỷ vực này.
o0o
Quý Nhiếp Đề tướng cao ốm, trên dưới bốn mươi, luôn cho người ấn tượng an nhiên tự tại, chỗ khác người là thần thái ung dung khoan thai của y không phải cố luyện tập để tạo ra, mà như là một vẻ tự nhiên bẩm sinh. Vẻ lạnh lùng, cùng với nhãn thần không biểu lộ tình cảm của y, tạo cho người tiếp cận y cảm giác đè nặng kỳ lạ. Đối phương không bao giờ biết được y nghĩ gì bên trong, hay y có phải đang ngầm toan tính gì. Nếu y chỉ là một kẻ tầm thường, muốn nghĩ gì là chuyện riêng của y. Điều không may là Quý Nhiếp Đề lại là nhân vật quyền thế nhất trong thiên hạ ngoài Phụng công công, cho nên không ai dám khinh thường ý nghĩ của y. Ngay cả Hoàng Phủ Thiên Hùng đối với Quý Nhiếp Đề cũng không dám bê trễ, e chuốc lấy hậu họa. Hoàng Phủ Thiên Hùng hoàn toàn hồi phục phong độ lúc bình thường, trầm tĩnh lạnh lùng, nỗi đau mất con không chút thể hiện, tựa như chưa từng xảy ra chuyện gì cả. Lão đứng tại đại môn nghinh tiếp Quý Nhiếp Đề vào nghị sự sảnh, phân ngôi chủ khách an tọa, tỳ nữ dâng trà rồi lui ra xong, Hoàng Phủ Thiên Hùng mỉm cười nói: “Bao nhiêu năm nay không gặp mặt! Mừng cho Quý đại nhân vẫn phong thái như xưa, xem chừng còn trẻ hơn lần trước hội kiến”. Một chút ý cười hiện nơi khoé miệng Quý Nhiếp Đề, trong mắt Hoàng Phủ Thiên Hùng, họ Quý dường như lúc nào cũng đeo một lớp mặt nạ che giấu chân bản ngã. Hoàng Phủ Thiên Hùng tự hào với khả năng nhìn người của mình, nhưng cũng tự nhận không nhìn thấu được họ Quý, cũng không định được võ công của y cao thấp thế nào. Căn cứ theo lời đồn, cây Long đầu đao hình thù đặc biệt của Quý Nhiếp Đề có thể là thiên hạ đệ nhất khoái đao, chưa có ai đấu với y trong vòng mười chiêu mà không bị thương. Quý Nhiếp Đề cười ha hả: “Đại long đầu nói chơi rồi, bọn ta không gặp nhau đúng chín năm, dù thân này chưa già, thì tâm cũng đã già đi rất nhiều”. Nói xong y đưa chén trà nóng trong tay lên nhấp một ngụm. Hoàng Phủ Thiên Hùng nhìn họ Quý đặt chén trà xuống bàn, hân hoan thốt: “Quý đại nhân chuyến này từ kinh sư xa xôi đến đây, chẳng biết có việc gì dùng được Hoàng mỗ, Hoàng mỗ xin dốc toàn lực, hy vọng không như lần trước khiến Quý đại nhân thất vọng”. Quý Nhiếp Đề lắc đầu: “Chuyện năm ấy làm sao có thể trách đại long đầu, chỉ vì đối thủ của bọn ta quá lợi hại, sự giúp đỡ của đại long đầu, công công và ta vẫn khắc ghi trong tâm, vô cùng cảm kích”. Nói xong y lại nhíu mày tiếp tục: “Hơn mười ngày nay, quý bang huy động bang chúng, dường như đang tìm một kẻ nào, chẳng hay đã có đầu mối gì chưa? Xưởng Vệ bọn ta có giúp gì được chăng, đại long đầu cứ nói thẳng”. Hoàng Phủ Thiên Hùng trong bụng thắt lại thầm giật mình, song hiểu rằng chuyện này không thể giấu Quý Nhiếp Đề với tai mắt khắp thiên hạ, càng biết là giấy không gói được lửa, bị bắt gặp nói dối thì sau này gặp mặt khó nói, nên lão đành nói qua loa: “Chuyện xấu trong nhà không nên truyền ra ngoài, chỉ là gia sự mà thôi! Đa tạ Quý đại nhân quan tâm, việc này Hoàng mỗ đủ sức xử lý, hãy trở lại nói chuyện của Quý đại nhân!”. Quý Nhiếp Đề không hỏi gạn thêm, đưa tay vào tay áo rút ra một ống trúc dài cỡ hai thước, hai tay cung kính trao cho Hoàng Phủ Thiên Hùng. Hoàng Phủ Thiên Hùng đưa hai tay tiếp nhận ống trúc, theo chỉ thị của Quý Nhiếp Đề mở ống lấy ra một cuộn giấy trương ra xem, thì ra là một bức họa chân dung một hòa thượng. Y ngạc nhiên hỏi: “Hòa thượng này là ai, nhìn quen quá, ta có biết người này chăng?”. Quý Nhiếp Đề không biểu lộ chút thay đổi, chỉ đáp: “Đại long đầu đương nhiên nhận ra kẻ này, hắn là Tiết Đình Hao, một trong hai tên đào phạm của triều đình mà chín năm trước ta đã nhờ đại long đầu truy sát”. Hoàng Phủ Thiên Hùng đang nghĩ thầm, họ Quý làm thủ lãnh của xưởng vệ, có phải là một kẻ không có thất tình lục dục, hay là đã đè nén tuyệt đối tình cảm của mình, bằng không làm thế nào trở thành công cụ sát nhân của Phụng công công. Lão gật đầu nói: “Thì ra là Tiết Đình Hao, thảo nào trông quen mắt, khen cho hắn cải trang thành tăng nhân, khiến bọn ta không tìm được hắn. Tuy nhiên nếu đổi là ta, thì sẽ trốn ra hải ngoại hay tái ngoại, tuyệt đối không lưu lại Trung nguyên, tên xú tiểu tử này vẫn còn thiếu kinh nghiệm”. Quý Nhiếp Đề không để ý lời phê bình ấy, chỉ nói: “Hắn không phải giả làm tăng nhân, mà thật sự quy y không môn, chẳng những thế còn khắc khổ tu tập hơn bất cứ tăng lữ nào, hắn nghiên cứu Phật pháp, tu loại tham thiền khó khăn nhất. Chính vì hắn biến thành một cao tăng hành đạo nên không ai có thể nhận ra hắn là Tiết Đình Hao, ngay như đối diện với hắn cũng khó nhận ra, bởi khí chất của hắn cũng thay đổi rồi”. Hoàng Phủ Thiên Hùng chăm chú nhìn hình họa, có chỗ chưa hiểu: “Nhưng căn cứ theo bức họa này, nhìn ngang nhìn dọc vẫn thấy đây là Tiết Đình Hao cải trang thành hòa thượng, chỉ cần người nào chú ý kỹ chắc chắn có thể nhận ra hắn”. Quý Nhiếp Đề thốt: “Bức họa này là chiếu theo hình họa mười năm trước của hắn và đổi thành trang phục kiểu hòa thượng, bây giờ thì thần thái của hắn hoàn toàn khác. Để ta nói rõ chút, hắn không còn là Tiết Đình Hao của năm xưa, mà hóa thân thành một cao tăng với pháp hiệu Sắc Thâm. Do thay đổi tập quán ăn uống, diện mạo của hắn cũng biến đổi so với lúc xưa ốm hơn nhiều”. Hoàng Phủ Thiên Hùng không mấy chú ý: “Trở thành mập ốm cũng chẳng sao, chỉ cần hắn có vài phần giống thuở trước, chiều cao không đổi, người của bổn bang chắc chắn không nhìn lầm”. Lão không dằn được lại hỏi: “Quý đại nhân làm thế nào nhận chân lớp trá hình của hắn”. Thực ra Hoàng Phủ Thiên Hùng không có lòng dạ nào tính đến chuyện kẻ khác, nhưng vì đối phương là Quý Nhiếp Đề, nên không thể không làm ra vẻ nhiệt tâm giúp đỡ. Tuy nhiên Quý Nhiếp Đề nói chưa rõ, khiến lão một tay lão luyện giang hồ đưa ra câu hỏi theo thói quen. Hai mắt Quý Nhiếp Đề lộ thần sắc kỳ dị làm Hoàng Phủ Thiên Hùng không sao hiểu được, họ Quý trầm giọng nói: “Đại long đầu xin chớ trách ta nói kiểu thần bí, nhưng vì sự tình quá ly kỳ, nên đến nay ta vẫn chưa làm sáng tỏ mọi việc”. Hoàng Phủ Thiên Hùng xoè hai tay ra biểu thị không chấp: “Quý đại nhân thực sự muốn Hoàng mỗ giúp đỡ cách nào?”. Quý Nhiếp Đề lóe tia sáng trong mắt, nghiêm trang nói: “Đại long đầu trước nay vẫn có quan hệ tốt đẹp với Phật môn, nếu Đại long đầu thị ý cùng các Phật tự lớn nhỏ khắp nơi là không nên chứa kẻ này, thì chắc chắn hữu hiệu, trong tương lai nếu thành công bắt được kẻ này, Quý mỗ tất sẽ báo đáp”. Hoàng Phủ Thiên Hùng hiểu ra, xưởng vệ dù quyền khuynh thiên hạ, nhưng nếu họ trực tiếp ra lệnh với Phật môn, người bên Phật môn đương nhiên sẽ biết ngay chẳng phải tốt lành, rồi sẽ vờ tuân lệnh ngoài mặt, trong khi ngầm cảnh giác cho Tiết Đình Hao biết. Còn như chính lão trước nay vẫn xây miếu tu bổ chùa không tiếc lực, trong mắt Phật môn lão là bạn chẳng phải địch, chỉ cần tìm cách nói dối đường hoàng, thì có thể tìm được Tiết Đình Hao. Qua sự kiện này có thể thấy Quý Nhiếp Đề đã mất lòng tin trong việc tìm Tiết Đình Hao, không biết hắn đã trốn đến hoang sơn dã tự nào mà tìm hoài không thấy. Phật môn đệ tử trải đầy khắp thiên hạ, tương truyền Hoàng thượng cũng là Phật gia đệ tử, xưởng vệ dù bá đạo đến đâu, cũng không dám phá miếu bắt người, hòa thượng nào cũng đem ra xét nghiệm lai lịch, nên Hoàng Phủ Thiên Hùng hiểu khó xử của Quý Nhiếp Đề. Nếu có thể lựa chọn, Hoàng Phủ Thiên Hùng quyết không nhúng tay vào việc này, chọc giận Phật môn chỉ tổn hại cho chính mình, không có lợi gì cả. Quý Nhiếp Đề nói: “Chỉ cần bọn ta biết được hắn đang ở đâu, mọi việc sẽ do xưởng vệ xử lý, bảo đảm mọi việc gọn sạch, không kinh động Phật môn, quý bang có thể đứng ngoài không bị dính dự”. Hoàng Phủ Thiên Hùng làm ra vẻ vui vẻ nhận lời: “Quý đại nhân có lệnh, làm sao mỗ dám không theo, việc này mỗ bảo đảm giúp đại nhân lo liệu ổn thỏa”.
Ô Tử Hư nhìn cảnh tượng trước mắt, không còn cảm thấy chút hơi ấm nào trong người, chỉ cảm giác lạnh thấu tim. Từ trên đỉnh gò đất nhìn xuống, dưới ánh trăng một vùng đầm lầy với vô số ao nước hiện ra phía trước, bóng thảo mộc ven bờ phản ánh nguyệt phát sáng. Cảnh giới trong mộng lại trở về. Xa xa một cánh rừng thưa đứng phía đối ngạn đầm nước lớn nhất, phảng phất đang mời gọi người tiếp tục tiến tới, đàng sau đó lại là những gò đất nối tiếp nhau. Ô Tử Hư nổi gai cùng mình, thầm nghĩ hay đó chẳng phải mộng cảnh mà đích thực xảy ra, hoặc giả đến bây giờ hắn vẫn bị hãm trong mộng cảnh? Đột nhiên hắn không còn phân biệt được là mộng hay thực, không gian này đã mất giới hạn. Vùng đất bằng ở xa xa lại hiện ra ánh sáng, lần này không phải vụt xẹt lên rồi tắt mà rõ ràng tiếp tục hiện hữu. Tim hắn bỗng đập nhanh mấy lần gây cảm giác hồi hộp, bất giác hắn hết sức kinh ngạc, vì đây là chỗ thiên phú đặc thù của hắn, mỗi khi tiếp cận dị bảo là tim hắn có phản ứng, nhưng nơi đây hoang sơn dã địa làm sao có được dị bảo? Ô Tử Hư tự bảo là gì cũng được, cứ tìm được nhà dân thì tự nhiên tìm được đường ra, chỉ cần rời khỏi nơi quỷ bí này, còn chuyện khác hắn không muốn bận tâm đến, nên vội nhắm hướng có ánh sáng bước đến.
o0o
“Thiện công công đến!”. Hoa Mộng phu nhân đã đứng sẵn ngoài cửa sảnh đường nghinh tiếp, nghe nói Ký Thiện đến tìm là nàng thêm nhức đầu. Sở trường của phu nhân là ứng phó đủ các loại nam nhân, nhưng gặp phải nam nhân không có hứng thú trước nữ nhân, thì dù nàng có giải pháp cũng không thể thi triển. Ký Thiện đương nhiên phụng mệnh Phụng công công đến đây, Cô Nguyệt Minh đêm qua mới đi khỏi, đêm nay Phụng công công liền phái người đến tìm nàng, đủ biết sự tình không bình thường, chẳng biết chuyện gì khiến Phụng công công khẩn trương như thế? Nàng nên ứng phó ra sao? Hoa Mộng phu nhân đương nhiên không thể tiết lộ tình hình thực sự của Cô Nguyệt Minh, nhưng nếu giấu quanh giấu quẩn e Phụng công công sẽ cho rằng nàng nói dối, thì đại họa sẽ lập tức giáng xuống đầu. Ký Thiện cười lên, khách sáo thi lễ: “Chào phu nhân, đại công công nhờ ta thỉnh an phu nhân. Lân Hoa Cư chẳng phải đã mở cửa sao? Phu nhân hà cớ không trở về liệu lý?”. Hoa Mộng phu nhân đáp: “Hoa Mộng thiếp hôm nay hơi không khỏe nên ở nhà nghỉ ngơi, đa tạ công công quan tâm”. Ký Thiện bước theo Hoa Mộng phu nhân đến chỗ bàn tròn ở trung tâm đại sảnh, tỏ vẻ quan tâm thốt: “Phu nhân phải bảo trọng thân thể, nên nghỉ ngơi nhiều, để chốc nữa ta phái người đưa qua hai gốc dã sâm hạng nhất, phu nhân nấu lấy nước uống để bồi bổ nguyên khí”. Hoa Mộng phu nhân vội vàng cảm tạ và mời Ký Thiện ngồi tại bàn, còn mình thì ngồi bên, bảo tỳ nữ lui ra ngoài hết. Ký Thiện ho khan một tiếng, đột nhiên hạ thấp giọng thân thiết: “Nguyệt Minh là tri giao hảo hữu duy nhất của Ký Thiện này. Thế nên ta cũng không nói vòng vo, lần này đại công công phái ta đến gặp phu nhân, song phu nhân khoan vội nghi ngờ, chỉ vì đại công công quá quan tâm nhiệm vụ lần này của Nguyệt Minh. À! Phu nhân cũng biết tính đại công công, chuyện gì cũng phải nắm rõ trong tay, lại biết Nguyệt Minh trước khi rời kinh có ghé thăm phu nhân, nên... phu nhân nên hiểu ta đang nói gì chứ?”. Hoa Mộng phu nhân trong lòng hừ mũi, đừng nói Cô Nguyệt Minh không khi nào xem Ký Thiện là hảo hữu, mà chính họ Cô không có bằng hữu chi hết, nàng là ngoại lệ duy nhất, nhưng có thể vẫn chưa được xem là tri kỷ. Còn Ký Thiện càng không bao giờ xem Cô Nguyệt Minh là bằng hữu. Đối với Ký Thiện chỉ có quan hệ lợi ích và tổn hại. Thủ đoạn hung ác của Ký Thiện đã đồn xa khắp kinh thành, đừng tưởng vị thái giám không quá bốn mươi này có vẻ hiền hòa, sự thật gã có thể trở mặt giết người bất cứ lúc nào. Nội kinh thành ngoài Cô Nguyệt Minh và Quý Nhiếp Đề, không có kẻ thứ ba nào có thể đỡ được kiếm sắc của gã. Hoa Mộng phu nhân khẽ than: “Nhiệm vụ ấy quan trọng bực nào? Nguyệt Minh chẳng chịu tiết lộ một câu, chỉ bảo thiếp tìm giùm một người”. Ký Thiện rúng động hỏi: “Tìm ai?”. Nếu Ký Thiện là một nam nhân bình thường, Hoa Mộng phu nhân có thể thừa dịp dùng sắc mê hoặc gã để hỏi dò nhiệm vụ vô cùng bí mật của Cô Nguyệt Minh, nhưng rất tiếc cách này vô dụng đối với Thiện công công, nên nàng đành đáp: “Nguyệt Minh nhờ nô gia điều tra xem ở vùng Động Đình Hồ có cao thủ dùng độc hay chăng”. Ký Thiện như thở ra nhẹ nhõm, tuy không lộ liễu nhưng không giấu được đôi mắt kinh nghiệm của Hoa Mộng phu nhân, nàng thầm nghĩ chẳng lẽ Ký Thiện quả thật sợ Cô Nguyệt Minh xúc phạm Phụng công công sao? Nghĩ đến đây bất giác nàng có thêm chút hảo cảm với Ký Thiện. Ký Thiện gật đầu: “Điều này hợp lý, không làm như thế thì đâu phải tính cách của Nguyệt Minh. Nguyệt Minh có đề cập đến người nào khác chăng?”. Hoa Mộng phu nhân nghĩ chớp nhoáng, Cô Nguyệt Minh bảo nàng xem như chưa từng nghe đến tên Mâu Xuyên, đương nhiên y có lý do riêng, nhưng nếu không tiết lộ Cô Nguyệt Minh đã đề cập đến Phu Mãnh thì rất dễ lộ sơ hở, nên nàng vội nói: “Nguyệt Minh còn hỏi chuyện liên quan đến Phu Mãnh, không lý nhiệm vụ này quả có dính dự đến Phu Mãnh?”. Ngoài sự định liệu của Hoa Mộng phu nhân, Ký Thiện nói thẳng: “Ít nhiều có quan hệ. Ta hơi lo rằng Nguyệt Minh vì không rõ tình hình thực sự, sẽ bị tổn thất lớn”. Hoa Mộng phu nhân ngơ ngác hỏi: “Tình hình gì?”. Ký Thiện hạ thấp giọng, xích gần Hoa Mộng phu nhân mà nói: “Điều ta sắp nói với phu nhân chỉ có thể cho một mình Nguyệt Minh biết mà thôi, tuyệt đối không thể cho người thứ tư biết, sau này ta sẽ phủ nhận từng nói điều này, phu nhân hiểu chứ?”. Hoa Mộng phu nhân khẽ nhíu mày, khẳng khái thốt: “Đã vậy xin công công tốt nhất chớ nói ra, nô gia sợ mình không đảm bảo được”. Kỳ thực nàng rất muốn biết hơn ai hết vì điều này liên hệ đến sự an nguy của Cô Nguyệt Minh. Chiêu này gọi là dĩ thoái vi tiến, buộc Ký Thiện phải tiết lộ chút nội tình, lại thừa cơ thử phản ứng của Ký Thiện để đoán xem gã có phải vẫn chuyển lời của Phụng công công, vì Phụng công công là người biết dùng thủ đoạn nhất kinh thành. Ký Thiện nghiêm mặt: “Phu nhân cho rằng Ký Thiện này là một kẻ có thể bị tiền tài trân bảo mua chuộc sao?”. Hoa Mộng phu nhân nghĩ thầm “Ai cũng biết ngươi tham nhũng, càng không có tư cách nói câu này”, nhưng nàng đâu thể nói thật, chỉ đáp: “Công công đương nhiên không phải hạng người như vậy”. Ký Thiện cười cay đắng: “Ta biết phu nhân nói câu đó chỉ để ngoài mặt, vì ít nhất ta đã nhận không ít vàng bạc của Nguyệt Minh. Nếu ta cho phu nhân biết mỗi cắc ta nhận được, cuối cùng cũng rơi vào túi riêng của đại công công, phu nhân tin không?”. Hoa Mộng phu nhân quá ngạc nhiên, lời nói của Ký Thiện gần như bội phản Phụng công công, song rất có thể là sự thật. Ký Thiện tiết lộ bí mật hẳn là để lấy sự tín nhiệm của nàng, tại sao gã đi nước cờ này? Nàng hồi hộp cúi đầu nói: “Nô gia xem như chưa bao giờ nghe công công nói câu này”. Ký Thiện trầm ngâm chốc lát, chừng như do dự, sau đó gã nói: “Phu nhân còn muốn nghe chăng?”. Hoa Mộng phu nhân khẽ gật đầu, trong lòng rối loạn, bởi những gì Ký Thiện sắp nói, chỉ cần Phụng công công biết được thì có thể đưa đến cho nàng họa sát thân. Ký Thiện đẹp dạ thốt: “Phu nhân không hổ là hồng nhan tri kỷ của Nguyệt Minh”. Hoa Mộng phu nhân buồn bã trong lòng. Từ nhỏ nàng lăn lộn nơi chốn thanh lâu, đã sớm hóa gỗ đá đối với tình cảm nam nữ, sự săn đón của nam nhân làm nàng chán ghét, chỉ có Cô Nguyệt Minh khiến nàng động lòng, có thể vì đối với nàng Cô Nguyệt Minh không đòi hỏi nhục thể, nên tạo cho nàng cảm giác khác biệt với các nam nhân khác. Cũng có thể vì cả hai người họ đều là những kẻ cô độc. Ký Thiện trầm giọng: “Phu nhân không cần biết chi tiết, nếu phu nhân có thể giấu được tin tức này là do ta tiết lộ, thì ta rất cảm kích, xin thề ngay nếu xảy ra biến cố sau này, Ký Thiện này sẽ tận toàn lực bảo hộ phu nhân, nếu phạm lời thề sẽ bị thảm tử”. Hoa Mộng phu nhân rúng động toàn thân, ngẩng đầu nhìn Ký Thiện. Hai mắt Ký Thiện phát ra ánh kiên định, gã thong thả thốt: “Ta muốn kể cho phu nhân bí mật này đến cả đại công công cũng không biết, là để phu nhân chuyển lời lại cho Nguyệt Minh. Đó là quan hệ giữa Quý Nhiếp Đề và Phu Mãnh”. Hoa Mộng phu nhân càng nghe càng mù mịt nhưng không dám hỏi. Quý Nhiếp Đề có quan hệ gì với Phu Mãnh? Nếu tin tức của Ký Thiện không phải xuất phát từ Phụng công công thì là từ đâu? Ký Thiện kề tai nàng: “Thuở niên thiếu, Quý Nhiếp Đề và Phu Mãnh là bạn thân, tình như huynh đệ, rồi vì cùng thương một thanh lâu tài nữ mà trở mặt với nhau, xem nhau như người xa lạ. Chuyện này xảy ra trước khi họ thăng quan”. Hoa Mộng phu nhân không hiểu tin tức này có tác dụng gì cho nhiệm vụ của Cô Nguyệt Minh, bèn nhíu mày hỏi: “Sau đó thì hoa vào nhà nào?”. “Vì lai lịch của tài nữ nọ, Phu Mãnh chỉ hứa nạp nàng làm thiếp. ta chỉ nói được chừng này, phu nhân không cần biết ngọn ngành, chỉ cần nói y như vậy cho Nguyệt Minh biết, bằng vào tài trí của Nguyệt Minh sẽ hiểu phải làm gì”. Hoa Mộng phu nhân gật đầu: “Nô gia hiểu rồi!”. Ký Thiện nghiêm mặt: “Lời ta vừa nói toàn là sự thật không chút nói ngoa, chỉ có lợi chứ vô hại cho Nguyệt Minh”. Nói xong gã đứng dậy cáo từ. Hoa Mộng phu nhân vội đứng lên tiễn khách, ra đến cửa Ký Thiện dừng bước thốt: “Đại công công bảo ta đến nói, nếu phu nhân không chịu hợp tác mà che giấu giùm Nguyệt Minh, thì hỏi phu nhân một câu”. Hoa Mộng phu nhân cảm thấy tâm tình lên xuống đều bị vị thái giám này khống chế trong tay, bèn thở dài nói: “Đương nhiên chẳng phải lời nói tốt đẹp gì”. Ký Thiện chăm chú nhìn nàng: “Đại công công bảo ta hỏi, phu nhân có chịu hy sinh tất cả vì Nguyệt Minh chăng?”. Hoa Mộng phu nhân ngơ ngác, bất giác suy nghĩ “Mình có chịu hy sinh tất cả vì Nguyệt Minh chăng?”. Ký Thiện hân hoan thốt: “Ta biết câu trả lời rồi! Phu nhân quý thể bất an, không cần tiễn nữa. Mai hậu tại kinh thành có gì phiền não, chỉ cần cho ta biết một tiếng, chắc chắn sẽ không làm phu nhân thất vọng”. Gã nói xong bèn đi ra khỏi cổng. Hoa Mộng phu nhân mất một lúc sau mới định thần, thầm suy nghĩ: “Nhìn theo bất cứ góc độ nào, Ký Thiện cũng không bao giờ lén Phụng công công đi giúp đỡ Cô Nguyệt Minh, hà huống kẻ này chẳng có chính nghĩa gì cả, hoặc giả vẫn là Phụng công công đứng sau chỉ thị gã. Nhưng nói vậy cũng không hợp lý, nếu Phụng công công muốn cho Cô Nguyệt Minh biết rõ ân oán giữa Phu Mãnh và Quý Nhiếp Đề, thì có thể nói thẳng với Nguyệt Minh, đâu cần đánh đường vòng”. Nàng nghĩ hoài không thông.
o0o
Ô Tử Hư tiếp tục tiến tới giữa vùng đất tựa như mộng cảnh. Hắn phải vượt qua vùng đầm lầy cho nên không có cách nào đi thẳng, ánh sáng phía trước ở trong khu rừng lúc ẩn lúc hiện nhưng vẫn còn không tắt. Trăng treo phía sau lưng, bầu trời biến ra màu trắng bạc, khiến hắn chẳng những khó phân biệt là mộng cảnh hay hiện thực, mà đến giới hạn ngày đêm cũng mơ hồ, như thể thiên địa tự khởi thủy vẫn là như vậy, và vĩnh viễn cũng không có biến hóa gì. Bao nhiêu ý niệm kỳ quái dấy lên trong óc hắn, vốn là ký ức mơ hồ bỗng hiển hiện, những sự việc tưởng đã quên mất thì ra vẫn hiện rõ mồn một. Mỗi dòng suy nghĩ cùng ý niệm đều xẹt qua trong não và biến mất không dấu vết. Tình trạng này chưa bao giờ xảy ra cho hắn, tựa như hoàn cảnh kỳ dị này có sức khơi lên hồi ức của hắn một cách lạ thường. Luồng suy nghĩ của hắn đi từ lúc mấy năm gần đây trộm bảo vật để sinh nhai, đến ngược trở về thuở ấu thơ xa xưa không mấy sung sướng mà hắn đã quên đi. Trong đó có một tình cảnh đặc biệt rõ, là lúc hắn bị bệnh, mẹ hắn vừa khóc vừa đút thuốc đắng cho hắn, còn tất cả những người khác kể cả cha hắn chẳng ai đoái hoài, trong lòng tràn ngập cảm giác buồn bã không thể giải bày, không khí vùng đầm lầy như lan đầy mùi thuốc nồng nặc. Ô Tử Hư cơ hồ muốn ngẩng đầu hét lớn, đột nhiên hắn tỉnh lại, chẳng hiểu vì sao mình lại suy nghĩ lộn xộn vậy. Hắn định thần nhìn thì thấy mình đã vượt qua đầm nước lớn, đến dưới chân đồi, phía trên là khoảng rừng thưa, đỉnh đồi có một đống đá ngổn ngang, trong đó một viên đá tỏa ra kim quang rất quỷ dị. Hắn cứ tưởng ánh sáng phát ra từ nhà dân, giờ thì biết không phải thế. Nơi hoang sơn dã địa tại sao có vật tỏa sáng, không phải lửa lân tinh, không lý đó là quỷ hỏa theo trong truyền thuyết? Nghĩ đến đây, hắn suýt bỏ chạy nhưng lại không cam tâm, suy tính tới lui, cuối cùng hắn lấy can đảm đi lên đồi, mỗi bước như nặng ngàn cân. Các thứ bàng môn tả đạo đa phần hắn có nghiên cứu qua, chỉ chưa học phép vẽ bùa bắt quỷ, vì hắn không tin trò này, bây giờ hơi hối hận, nếu có một vài đạo bùa hộ thân, gặp phải quỷ cũng có cách ứng phó, không thúc thủ như bây giờ. Nhưng rồi hắn lại thấy buồn cười, tại sao hai đêm nay hắn cứ nghi thần nghi quỷ, chân giả bất phân, thật ra là chuyện gì? Ô Tử Hư cuối cùng lên đến đỉnh đồi, bỗng rúng động toàn thân mở to mắt nhìn thẳng vào khối đá tỏa sáng, hắn bất giác quỳ xuống như không tin mắt mình, trân trân nhìn dị vật đang tỏa kim quang ở trên khối đá bằng phẳng cao ngang đầu gối. Trong lòng hắn thầm kêu: “Trời ơi! Đây là vật gì? Không lý lại là dạ minh châu có thể tỏa sáng trong đêm, ánh sáng như vầy cách xa nhiều dặm vẫn thấy được, vật tỏa sáng lại là một viên dạ minh châu phát kim quang, thật là chưa hề nghe qua, chắc chắn là kỳ trân hiếm có”. Ngọc châu màu hoàng kim lớn bằng đầu ngón tay, tròn vành vạnh không tì vết, bên trong như hàm chứa huyền cơ, ẩn tàng một thế giới riêng, tựa như một thần vật giáng phàm. Ô Tử Hư đầu óc trống rỗng, nhất thời không hiểu đã xảy ra chuyện gì. “Ta có phải đang nằm mơ? Làm thế nào đang trong lúc mạt vận lại gặp được tuyệt đại dị bảo, vật này phải đáng bao nhiêu tiền”. Tim hắn hổn loạn, hít hơi thật sâu, đưa tay run rẩy chạm vào dạ minh châu. Hắn thầm nghĩ nếu đụng vào mà vật này tan biến, thì chứng tỏ mình đang nằm mộng. Đột nhiên Ô Tử Hư kêu lên một tiếng, ngồi bệt xuống đất thở hồng hộc. Dạ minh châu đang nằm giữa hai ngón tay của hắn, quả thật tồn tại! Trời! Thì ra là thật. Ô Tử Hư nhìn tứ phía, không thấy bóng người nào cả, mới dám đưa dạ minh châu đến trước mắt nhìn không chớp. Dạ minh châu càng sáng rực, chiếu đến mức như soi thấu bàn tay của hắn. Ô Tử Hư vội cất dạ minh châu vào trong mình, bao nhiêu nỗi kinh sợ đã biến mất, thay thế bằng một sự vui mừng trong cơn bĩ cực thái lai. Phen này khỏi lo rồi! Mấy năm qua mỗi lần thanh toán xong một mối buôn bán, hắn liền đem dụng cụ hành nghề và năm trăm lượng bạc giấu một chỗ ở trong núi hoang, sau đó tận tình đem “của” đi khắp nơi hưởng thụ, đến khi xài hết sạch, mới đi lấy đồ nghề và dùng năm trăm lượng làm kinh phí cho mối trộm bảo vật kế tiếp. Thông thường hắn tốn mất ba tháng đi tìm mục tiêu, mất công quan sát tỉ mỉ để nắm rõ tình cảnh của mục tiêu, sau đó hạ thủ trộm báu và lập tức chạy xa, do đó cần dùng đến năm trăm lượng. Lúc xảy ra chuyện, hắn chỉ còn lại một lượng bạc, lại không thể trốn đi tìm tài sản cất giấu ở bắc ngạn đại giang, đâm ra hắn trở thành nghèo mạt. Người không tiền không xong, nhất là kẻ địch lại là bang hội có thế lực nhất, không tiền mỗi bước càng khó đi. Mình nghĩ được thì kẻ địch cũng nghĩ tới, do đó hắn muốn trốn ra hải ngoại, chỉ như vậy mới hòng thoát ma chưởng của kẻ địch. Đương nhiên hắn không đành rời bỏ vùng đất hắn biết rõ như bàn tay mình, chỉ có ở đây công hắn luyện tập mới không lãng phí. Quan trọng hơn là chỉ có ở đây, hắn mới biết cách làm sao che giấu thân phận. Thử nghĩ nếu ra hải ngoại đến xứ nào đó, chỉ nội ngôn ngữ không thông cũng đủ khiến hắn không có đất dụng võ. Hà huống hắn rất thích kế sinh nhai bằng nghề trộm báu, không có gì đánh đổi được cảm giác thành tựu sau khi đắc thủ và sự kích thích trong lúc hành sự. Đối với hắn, nghề trộm không còn là nghề vặt của phường chuột nhắt, mà là một nghệ thuật. Tuy nhiên nếu hắn có thể bán được viên dạ minh châu thì mọi thứ sẽ khác đi. Hắn sẽ có đủ tài lực để làm bất cứ chuyện gì, chỉ cần trốn xa phạm vi mà kẻ địch có thế lực mạnh nhất, ẩn tính mai danh một thời gian thì sẽ có cơ hội bắt đầu lại. Nói trắng ra, hắn hưởng thụ đã quen, bảo hắn chịu cực chẳng khác nào đòi mạng hắn. Chuyến buôn bán lần này sẽ không giống lần trước, dạ minh châu là vật vô chủ, không thể bảo khổ chủ chuộc tiền. Lại nữa Hoàng Phủ Thiên Hùng trước sau gì cũng biết Ngũ Độn Đạo hắn là kẻ giết con lão. Với thế lực của Đại Hà Minh, muốn truy tìm hành tung trong ba tháng qua của hắn thật dễ như trở bàn tay, thấy một kẻ không tên tuổi trong vài tháng ngắn ngủi xài một mớ tiền nhiều như thế, không nghi ngờ mới là chuyện lạ. Chỉ cần tìm đến vài tay buôn của trộm đủ tư cách làm ăn với hắn, thì thân phận chân chính của hắn sẽ không chỗ che giấu. Do đó hắn không thể bán bảo vật theo lối thường, như vậy là tự tìm tử lộ. Người có khả năng giúp hắn thoát nạn cần hội đủ ba điều kiện. Đầu tiên là có đủ tiền mua dạ minh châu, thứ đến là có tư cách không e ngại Hoàng Phủ Thiên Hùng, sau rốt y phải là người rất thích sưu tầm bảo vật và có kiến thức. Tại vùng nam ngạn Đại Giang, người như thế chỉ có một, ấy là Tiền Thế Thần, bản thân đã là đại quan, vừa là bố chính sứ ti vùng Hồ, Quảng, vừa là cự phú bậc nhất Giang Nam. Đồn rằng người này có qua lại mật thiết với thủ lãnh xưởng vệ Quý Nhiếp Đề, lại là tâm phúc của Phụng công công quyền khuynh thiên hạ, một người như thế sẽ không xem Hoàng Phủ Thiên Hùng vào đâu cả. Chỉ cần Tiền Thế Thần chịu xuất hai, ba vạn lượng bạc để mua dạ minh châu của hắn, mọi khó khăn có thể giải quyết được. Lúc này cần gấp, phải tìm ngay hai trăm lượng làm kinh phí hành sự. Hắn cần cẩn thận đường đi nước bước, không thể sơ xuất, nên không tránh khỏi trộm vặt một chút. Mơ hồ hắn cảm thấy viên dạ minh châu hoàn toàn thay đổi vận đen của hắn, con đường phía trước lại tràn đầy ánh sáng và hy vọng.