Luỹ tre làng cản ngang tầm mắt
Nguyễn Phương Thảo rời Bắc vô Nam
Trời mưa rả rích lê thê, gió thổi từng cơn hắt những giọt mưa rơi từ mái tranh vô nhà, mang theo khí lạnh ẩm ướt. Thảo ngồi co ro nơi trường kỷ: lắng nghe tiếng mưa rơi cùng tiếng ếch nhái ngoài đồng.
Trong nhà im lặng như tờ. Cha anh đi vắng, mẹ anh ngủ vùi sau một ngày lao động vất vả. Chỉ có một mình anh ngồi đối diện với ngọn đèn dầu. Cha mẹ anh có năm người con bốn trai, một gái, anh cả làm thông phán Bưu điện ở Hải Phòng. chị thứ hai lấy chồng ra riêng, anh thứ ba cưới vợ cũng ra riêng.
Thảo thủ tư và người em út kém anh vài tuổi. Thảo sinh năm 1908, nhằm năm Mậu Thân, năm nay mười bẩy, đang học năm thứ hai trường học ở Hải Phòng.
Giữa niên học, Thảo bỗng đổi ý. Thay vì cố học để sau này làm công chức như anh Cả, Thảo lại thích dấn bước giang hổ. Tuổi trẻ thích bay nhảy. Những chân trời vẫy gọi vô cùng quyến rũ.
Bên ngoài trời vẫn mưa rả rích, ếch nhái ván tấu bản nhạc đồng quê buồn muôn thuở. Thảo càng thêm cương quyết. Không thể chôn chân nơi chốn chiêm khê mùa thối này mãi, phải lên đường tìm tương lai.
Nam Kỳ là đất dụng võ của những kẻ quyết chí lập thân. Hôm nay Thảo về quê Yên Phú để xin phép cha mẹ. Anh biết trước cha sẽ không bằng lòng và sẽ khuyên anh không nên “thả mồi bắt bóng” như chó ngoạm miếng thịt chạy qua cầu trong sách Quốc văn giáo khoa thư. Nói làm sao đây để thuyết phục cha cho anh ra đi tìm chán trời mới? Khó lắm! Cách hay nhất là biên thư để lại. Khi cha đọc thư thì anh đã xuống tàu ra khơi.
Chiếc tàu Pélican của hãng Messagenés Maritimes nhổ neo từ từ tách bến. Thảo lâng lâng như uống mấy cốc rượu. Đàn hải âu bay lượn sau lái tàu là hình ảnh khắc sâu trong tâm hồn chàng trai lần đầu tiên lao vào kiếp phiêu lưu vô định. Thảo đặc biệt chú ý một con hải âu nhỏ nhất. đang xòe đôi cánh tơ mềm trong gió lộng, có lẽ nó mới rời tổ ấm để thử sức lần đầu. Cũng như mình. háo hức, tràn đầy khát vọng. Tự nhiên Thảo ví mình với chú hải âu đáng yêu ấy.
Sau mấy ngày lênh đênh trên biển, tàu cập bến Nhà Rồng, anh thợ giặt ủi bất đắc dĩ bắt tay từ biệt các bạn thuỷ thủ bước xuống Khánh Hội. Trước mắt anh, một cảnh tượng vui mắt: Tây, Tà, Chà, Chệt, người thì đủ sắc, xe thì đủ loại, xe hơi, mô tô, xe kéo, xe ngựa... Thảo xách gói hành lý nhỏ theo dòng người đi về chợ Bến Thành. Qua cầu Móng, đã thấy phố xá đông vui. Sài Gòn sầm uất hơn Hải Phòng của anh nhiều. Thảo đi về phía chợ, một biệt thự xuất hiện nguy nga tráng lệ như nhà Tây. Hỏi mới biết là nhà chú Hoả, một người Tàu giàu nhất Sài Gòn - Chợ Lớn. Theo chỉ dẫn của người bạn, Thảo tìm đến một nhà trọ ở trong hẻm gần nhà ga xe lửa. Ở đó anh được chủ nhà cho mượn ghế bố nghỉ trưa và nghỉ đêm. Cơm ngày hai bữa dọn chung cho tất cả mọi người ở trọ thuộc nhiều giới: thầy ký công tư sở, thanh niên học nghề. Mỗi mâm bốn người. Nhà nấu cơm tháng này chứa khoảng mười hai người, giá cả rất vừa túi tiền giới bình dân. Thảo rất vừa ý nơi này. Anh có đủ tiền để ở trọ lại đây trong một tháng thời gian vừa phải đi tìm việc làm. Hàng ngày anh thả rong khắp phố phường khám phá thành phố mà Pháp hãnh diện gọi là Hòn ngọc Viễn Đông. Phương tiện đi lại rất dồi dào: xe điện, ô tô buýt, xe thổ mộ. Thảo thích ngồi vắt vẻo trên xe thổ mộ. Tiếng móng ngựa gõ lộc cộc xuống đường nhựa nghe hay hay, thỉnh thoảng anh xà ích tra cán roi vô căm tạo âm thanh giòn giã như một bản nhạc độc đáo của Sài Gòn. Thảo đi khắp nơi: Chợ Cũ, Cầu Muối, Cầu ông Lãnh, Cầu Kho, Chợ Quán, Chợ Lớn, Bình Tây. Đi xe điện cũng có cái thú của nó. Thảo thích ngồi ngắm thành phố chạy dài theo đường xe điện, ngồi ăn bánh mì ngọt thơm bơ gọi là bánh croissant, vừa thưởng thức mùi vị ngọt ngon vừa ngắm cảnh, còn vui thú nào hơn. Về đêm, những ánh điện sáng xanh với tiếng chuông leng keng mỗi khi qua các ngã tư đường là hai nét độc đáo của xe điện mà Tây gọi là “tramway” mượn của người Anh...
Cảnh chỉ là phụ, người mới là chánh. Thảo có óc quan sát về sinh hoạt của thành phố. Tất nhiên anh quan tám trước nhất là cộng đồng người Bắc lập nghiệp trong Nam. Số này ở từng nhóm theo tập quán phố phường của Hà Nội. Ngành da tập trung mấy dãy phố đường Đết-pan. Ngó qua vách Khám Lớn, ngành tơ lụa chiếm một khúc đường Catinat(1) là một trong những khu sang trọng nhất. Ở dưới dốc cầu Kiệu gầu chợ Phú Nhuận là nơi hành nghề của các chị em cô đầu, trước nhà có gắn đèn xanh đỏ và bên trong vang lên tiếng đàn tiếng ngâm “Hồng Hồng, Tuyết Tuyết, mới ngày nào có biết cái chi chi...”
Còn cộng đồng người Tàu thì nắm trọn ngành thương nghiệp. Hầu hết các dãy phố trong Chợ Lớn đều do người Tàu mở tiệm buôn và ăn uống, từ bình dân như mấy tiệm Băng Gia bán hột gà chưng cho tới các nhà hàng sang trọng như Ngọc Lan Đình, Đại La Thiền.
Người Tàu và người Bắc có một điểm giống nhau là tình đoàn kết của những kẻ tha phương cầu thực. Người Tàu sống theo bang, Quảng Đông, Triều Châu, Phước Kiến, Hải Nam, Hẹ v.v... Quảng Đông buôn bán lớn, Hải Nam mở quán nước. Tiều làm rẫy, Phước Kiến dạy học... Thảo thích vô quán Tàu ăn cơm thố với thịt xá xíu, canh cải bẹ xanh nấu thịt hẩm và đập lên trên một quả trứng vịt nửa sống nửa chín. Hồi ở Hải Phòng, anh học chút ít tiếng Quảng Đông, nhờ vậy có thể nói chuyện với đám phổ ky vui tính thích trò chuyện với khách. Câu nói đầu môi của họ là hỏi: “Lị xức phàn chưa?”. Thảo ngẫm nghĩ và nẩy ra một ý nghĩ hay hay: chỉ những người biết đói khát mới quan tâm tới chuyện cơm nước, mới hỏi thăm cuộc sống của những người bên nhau. Những kẻ lưu lạc nghèo đói dễ gần nhau đúng như khẩu hiệu Thảo thường thấy trong báo Pháp lén lút đưa vô thuộc dịa “vô sản toàn thế giới, liên hiệp lại”.
Chú thích:
(1) D Espagne nay là Lê Thánh Tôn. Catinat nay là Đồng Khởi.
Thích giang hồ, trọng người hảo hớn
Chợ Bến Thành kết bạn Sơn Vương
Bạn cùng nhà trọ với Thảo có một thanh niên học nghề máy nổ rất mê tiểu thuyết. Hễ về tới nhà là lật ghế bố đọc say mê. Có lúc Thảo bắt gặp anh ta cười một mình, rung rinh cả ghế bố. Thấy Thảo tò mò nhìn mình, anh ta đưa quyển sách cho Thảo, nói:
- Anh phải đọc nó mới được. Hay lắm!
Thảo nhìn quyển sách nhàu nát: đó là cuốn “Kim thời dị sử” của nhà văn Ngũ Biên Nhi, xuất bản vào tháng 8-1921. Trong năm năm qua không biết bao tay người đọc sách, lem luốc bẩn thỉu nhưng còn đọc được. Thảo liếc sơ qua lời giới thiệu của Nguyễn Kiệu Đính, tổng lý Công Luận Báo: “Chuyện đạo tặc mà không hại cho phong hoá”. Tò mò Thảo mượn đọc và thật bất ngờ anh bị lôi cuốn ngay tức khắc. Câu chuyện thật hấp dẫn: Ba Lâu làm nghề đạo tặc, lấy của nhà giàu chia nhà nghèo. Anh ta cứu một người có máu mê cờ bạc tự vẫn vì thua cháy túi, rồi cho tiền khuyên y làm lại cuộc đời. Sau đó Ba Lâu dùng kế đánh chà “Siết-ty” đoạt sáu muôn(1) đồng. Trận đánh xảy ra ở Takeo rất ly kỳ. Xe chà Siết-ty chở tiền đi Takeo để cho vay bị Ba Lâu tráo tài xế, tới chỗ phục kích, tài xế ngưng xe để Ba Lâu tấn công giật cặp da đựng tiền...
Thảo đọc say mê đến hết tập một, hỏi mượn tập hai. Anh bạn cười nói:
- Mê rồi phải không? Rất tiếc là tập hai thất lạc... Nếu anh muốn đọc loại này thì tôi cho anh mượn cuốn khác còn hay hơn nữa. Đó là cuốn Tướng cướp hào hoa của Sơn Vương. Hễ đọc là mê, tôi dám cam đoan mà!
Đây là là loại trường thiên tiểu thuyết đọc ròng rã một ngày là xong. Cốt chuyện ly kỳ, văn chương trau chuốt: một tay hảo lớn thấy chuyện bất bình ra tay nghĩa hiệp. Để có tiền làm việc “cứu dân độ thế”, y nghĩ ra sách “làm tiền” đánh cướp các chủ đồn điền cao su, đánh cai tổng, Huyện hàm(2). Cách đánh cũng mới: xe hơi, súng lục, tạc đạn... truyện hấp dẫn như coi chiếu bóng...
Đọc xong, Thảo hỏi:
- Sơn Vương là ai mà viết hay vậy?
- Muốn làm quen hả? Vậy thì sáng mai đi với tôi. Ông ta ở gần mình thôi.
- Ở đâu mà gọi là gần?
- Chợ Bến Thành chớ đây. Tám giờ sáng ngày mai, tôi sẽ giới thiệu anh với ông ta.
Sáng hôm sau Thảo theo bạn ra Bến Thành. Trên vỉa hè đường g De la Somme (nay là Hàm Nghi) đám thày bói ngồi một dãy dài. Ông nào cũng mang kính râm, trước mặt bày mu rùa hoặc bộ bài cào. Giang sơn mỗi người là chiếc chiến manh bẩy tấc. Đến góc đường Monlau (nay là Huỳnh Thúc Kháng) người bạn đường lại chỉ một người dong dỏng cao mặc bộ bà ba lụa Tân Châu ngồi trên tấm vải ka-ki, trước mặt là một chổng sách khổ nhỏ, loại tiểu thuyết từng thiên mà Thảo vừa đọc xong.
- Nhà văn Sơn Vương của chúng ta đó.
- Thật không?
Thảo không tin một nhà văn ngồi vỉa hè bán sách của chính mình viết. Lâu nay anh nghĩ nhà văn sống trong tháp ngà - cách gọi văn vẻ để tả cái gác trọ - tuy không giầu sang thì cũng phong lưu...
Anh bạn cười nói:
- Lạ lắm phải không? Nhưng dân Sài Gòn không lạ mấy chuyện này đâu. Ông Nguyễn An Ninh, đường đường là chủ báo La Cloche Felée(3) mà còn dám ôm cả xấp báo rao bán ngoài đường. Vậy thì Sơn Vương bày sách của mình trên vỉa hè rao bán có gì lạ. Chuyện này chắc ngoài Hà Nội, Hải Phòng không có?
- Hà Nội thì tôi không biết chứ Hải phòng thì làm gì có chuyện này. Nhưng anh hãy giúp tôi làm quen với nhà văn bình dân này đi.
Hai người bước tới ngồi trước Sơn Vương, cầm lên các cuốn sách bày bán ngắm nghía. Sơn Vương vui nói:
- Có cuốn này mới nè hai chú: Luật rừng xanh. Có chữ ký của tác giả tặng cho một trăm độc giả đầu tiên.
Thảo nhìn chữ ký cười nói:
- Đọc không ra chữ Sơn Vương. Giống như chữ gì bắt đầu bằng chữ Th...
Sơn Vương gật lia:
- Chú em tinh mắt. lắm. Bút hiệu là Sơn Vương nhưng qua tên là Thoại: Trương Văn Thoại. Chú em biết chữ nho không? Chữ Thoại gồm ba chữ Sơn, Vương và Nhi. Cho nên qua lấy bút hiệu Sơn Vương.
Thảo thích thú:
- Đó là lối chiết tự. Ai biết chữ nho thì thấy trò chơi chữ lầy hay hay.
Sơn Vương nhìn Thảo cười nói:
- Chú em ở Bắc mới vô phải không? Vô đây ở đâu? Có bà con quen biết?
Thảo chỉ người bạn:
- Tôi ở trọ cùng anh này. Chính anh này cho tôi mượn sách của ông. Đọc rồi muốn làm quen với nhà văn...
Câu chuyện tới đây bị đứt ngang vì có nhiều người tới mua sách. Chừng họ đi rồi. Sơn Vương cho sách vô bao kiêu “sác marin” của lính thuỷ, cuốn mảnh ka-ki đùng lên. Thảo ngạc nhiên:
- Ủa sao không bán nữa?
- Bán sách chỉ là một cách giao du tìm bạn tri âm. Sáng nay làm quen với chú em, anh thích lắln: một người từ phương Bắc mà mến mộ một kẻ ở trời Nam thì thật là một điều lý thú đáng được đánh dấu bằng một tiệc sơ giao. Mời hai bạn trẻ qua bên kia đường. Ta vô quán đàm đạo.
Hai bạn trẻ theo Sơn Vương băng qua bồn binh tới đường Colollel Grinlaud (nay là Phạm Ngũ Lão), bước vô một tiệm nước một người Tàu:
- Ba lô hủ tiếu đặc biệt. Sơn Vương bảo lão Chệt bụng bự đứng bên thùng nước lèo nghi ngút khói. Đặt bao sách lên ghế kê sát tường, ông kéo ghế ngồi ngó ra đường. Thảo và anh bạn nói:
- Gọi một tô cho ông thôi. Chúng tôi ăn sáng rồi.
- Có sao đâu! Ăn rồi thì ăn nữa. Ăn với tôi để dành dấu ngày sơ ngọ. Tôi chưa ra Bắc lên không có dịp nào làm quen với chú em, người mới chân ướt chân ráo vô đây.
Thảo cười:
- Ông muốn tìm hiểu gì?
- Những gì còn ngnyên chất, chưa pha tạp. Chớ người Bắc vô Nam lâu đời thì đường Đết-pan thiếu gì!
Phổ ky bưng ba lô hủ tiếu tới. Sơn Vương kêu thêm:
- Một thau xíu quách, ba chai la-ve.
- Sáng sớm không bán xíu quách... Phổ ky lắc đầu nhưng Sơn Vương cười lớn:
- Ký tố, ký tố(4)! Cứ đem ra rồi tính bao nhiêu cũng được. Tao đang đãi khách quý, không thấy sao?
Phổ ky nói nhỏ với lão bụng bự. Lão lầy cau mày nhưng rồi cũng gật. Phổ ky đem xíu quách đầy một thau vớt từ thùng nước lèo tới:
- Ông chủ nói chỉ bán cho khách đặc biệt thôi...
- Cứ ăn tự nhiên nghe, hai anh bạn trẻ, chớ có khách sáo gì hết!
Sơn Vương ăn xong tô hủ tiếu, bóc cục xương chấm giấm ớt gậm ngon lành. Ông hút tuỷ nghe rồn rột, rồi hớp một ngụm la ve rất điệu nghệ. Mặt ông không đỏ mà tai tái, dấu hiệu một kẻ có tửu lượng cao.
- Chú em đã đọc truyện nào của qua? Tướng cướp hào hoa? Thấy thế nào? Dân Nam Kỳ thích nói thẳng, không úp thở nể nang.
Thảo có chút men bia gật gù:
- Hay lắm thưa ông.
- Hay thiệt không đó! Đừng khen vị bụng nghe! À mà gọi qua bằng anh, đừng gọi ông, nghe khách sáo quá!
Thảo nhớ lời bình của chủ bút Nguyễn Kim Đính về cuốn Kim thời dị sử nói:
- Hay thiệt mà, viết vế tướng cướp mà đọc không thấy sợ, trái lại người đọc khâm phục kẻ giang hổ kỳ hiệp. Chính vì vậy mà hai chúng tôi tới đây làm quen với ông... với anh.
Sơn Vương nốc cạn chai la ve, rút khăn lau mặt, lấy trong túi xách hai quyển sách, quơ cây Kaolo đề tặng.
Sơn Vương cười lớn:
- Qua quên dặn chú là qua luôn luôn đổi chỗ bởi vì việc bán sách chỉ là thứ yếu. Nó lệ thuộc mục đích của mình...
Thảo nhíu mày suy nghĩ về câu nói đó, mong nhà văn giải thích mục đích gì thì Sơn Vương hỏi:
- Sao! Đọc xong Luật rừng xanh chưa? Thấy thế nào?
Thảo nêu ngay điều mình thắc mắc:
- Nhân vật chánh trong chuyện có phải là anh không?
Sơn Vương cười hỏi ngược lại:
- Nếu qua nói nhận xét của chú đúng thì chú nghĩ sao?
Thảo vui mừng nói:
- Em nghe nói trong Nam có nhiều hảo hớn kiểu Lương Sơn Bạc. Anh đúng là một trong 108 vị anh hùng Thuỷ Hử. Em may mắn được làm quen với anh. Mong được đi theo con đường của anh.
Sơn Vương chỉ quyển sách Thảo cầm trên tay:
- Thì hôm qua chúng mình đã làm lễ đào viên kết nghĩa rồi đó!
Thảo nói thêm:
- Hôm qua kết bạn là vì mến văn tài của anh. Sáng nay mới biết. thêm một điều quan trọng hơn văn tài: anh là một giang hồ kỳ hiệp. Có bạn nhà văn là điều hay, có bạn giang hồ kỳ hiệp còn hay gấp mười lẩn... Em muốn được anh dìu dắt...
Sơn Vương thân ái siết tay Thảo:
- Ngay phút đầu qua đã chấm chú rồi. Tại sao? Một chú bé dám đơn phương độc mã từ Bắc vô Nam, nội đầu óc phiêu lưu mạo hiểm đó đáng mặt giang hồ rồi. Huống chi chú lại hâm mộ văn chương nghĩa hiệp...
Đồng hồ Tổng Ngân khố điểm mười giờ, Sơn Vương cho sách vô bị nói:
- Thôi, mời chú em về nhà qua cho biết. Cũng gần đây.
Thảo theo Sơn Vương đến phía cầu Móng. Ngay ngã ba Lefebvre - Guynemer (nay là Nguyễn Công Trứ - Hồ Tùng Mậu) Sơn Vương nói:
- Đây là chủ nhà, ông Tư Chiêu, cũng được gọi theo tên bảng liệu là ông Nam Chấn Hưng, ông Tư ngụ tại đây, số 2 Lefebvre mấy chục năm rồi... Thảo cúi chào ông chủ tiệm may và được Sơn Vương giới thiệu tiếp:
- Còn đây là chú em từ Bắc vô Nam, mới kết nghĩa với tôi.
Sơn Vương đi thẳng lên gác, chỉ một vòng tròn cười nói:
- Giang sơn của mình chỉ có hai mươi thước vuông thôi. Nhưng ông bà mình có câu: “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Mà ăn thì nhiều chớ ở bao nhiêu.
Vừa nói ông lấy tấm ka ki trong bị ra giăng võng nằm đu đưa hút thuốc:
- Chú có mệt thì nằm trên ghế bố mà nghỉ. Còn qua thì nằm võng quen rồi.
Thảo thích thú trước tính đa dụng của tấm ka ki, lúc là chiếc chiếu trải ở vỉa hè chưng bán sách, lúc là cái võng đung đưa ru ngủ, lúc là cái mền đắp ấm trong đêm. Với Sơn Vương, không có cái gì thừa. Do vậy mà gác nhỏ bằng bụm tay cũng vừa đủ cho ông.
Hút tàn điếu thuốc, Sơn Vương nhìn đồng hồ:
- Mời chú em ăn trưa. Mình ăn cơm thố óc heo chưng thuốc Bắc. Tiệm ăn sát một bên. Chú làm một chung rượu thuốc được chớ?
Thảo gật:
- Cha tôi, bữa ăn nào cũng uống một chung rượu thuốc. Tôi có nếm thử...
Sơn Vương cao hứng:
- Lại thêm một điểm hai anh em mình giống nhau. Ông thân của qua là thầy thuốc Nam mỗi bữa ăn làm một chung rượu thuốc. Quê mình ở Gò Công, sát bờ sông Soài Rạp. Do vậy mà tâm hồn mình cũng cuồn cuộn sôi nổi như con sông cái chẩy ra Vàm Láng. Sông Soài Rạp chảy bạo hơn sông Lòng Tàu. Nhưng mà chú có biết hai con sông này đâu...
Thảo vội nói:
- Sông Soài Rạp thì tôi chữa biết, nhưng sông Lòng Tàu thì tôi có biết. Vô bến Nhà Rồng, tàu phải đi ngược dòng sông Lòng Tàu...
- Té ra chú đi đường biển. Vậy mà tôi tưởng chú đi xe lửa. Chuyện tâm tình hãy để đó. Bây giờ đi ăn cơm. Mình quen ăn quán đúng thư lời thơ: “kiếp phong sương ăn quán ngủ đình”. Nếu chú thấy thích dọn về đây ở với qua. Qua mời thiệt đó.
Sau bữa ăn, Thảo theo Sơn Vương trở về gác trọ nghỉ trưa. Lúc Sơn Vương ngáy vang trên võng, Thảo quyết định dọn về ở với nhà văn giang hồ này. Anh muốn tìm hiểu thêm về con người miền Nam mà Sơn Vương có lẽ tiêu biểu hơn hết.
Chú thích:
(1) Muôn: Tiếng trong Nam đồng nghĩa với vạn
(2) Huyện hàm (huyện homoraire): có chức mà không có quyền
(3) Tiếng chuông rè
(4) Tiếng Tàu: bao nhiêu cũng được
Theo Sơn Vương nếm mùi ăn cướp
Kẻ thư sinh dấn bước giang hồ
Sơn Vương nói với Thảo:
- Chú Ba nó đang tìm việc mà chưa có. Theo ý qua, thì ta nên kiếm vốn làm ăn buôn bán hơn là làm thơ ký cạo giấy. Để qua làm xong cú này sẽ giúp vốn cho chú Ba nó lập tiệm giặt ủi(1) có thể kiếm ăn được.
- Cú này là cú gì vậy?
- Nói theo mấy cha ghiền truyện Tàu là “làm lục lâm thảo khấu”.
Thảo kinh ngạc:
- Chuyện động trời mà Sơn Vương nói nghe như không. Làm ăn ở đâu vậy anh Hai?
- Gần đây thôi. Chú có muốn theo coi chơi không?
- Muốn. Nhưng có chắc ăn không anh Hai?
- Chắc như bán rang. Không chắc làm sao dám mời chú theo? Lâu nay qua ngồi bán sách ngoài lề đường là để điều tra con mồi. Nó tới nhà băng vào ngày nào, giờ giấc ra sao, đi xe gì, chạy đường nào. Tất cả chi tiết qua nắm chắc trong tay, hễ kỳ khai là đắc thất - mã đáo là thành công!
Thảo vẫn chưa hiểu:
- Nó là ai vậy?
- Nó là con mồi mình đi săn. Chuyến này là thằng Tây, phó giám đốc sở cao su. Hằng tuần nó tới Kho bạc lãnh tiền lên sở phát lương cho thầy thợ. Tuần nào cũng vậy, mình nắm chắc rồi.
- Chắc nó có súng...
- Có là cái chắc. Nhưng mình đánh “xuất kỳ bất ý” nó biết đâu mà lường. Khi mình đã tới sát một bên thì súng sáu chỉ là cục sắt.
Thảo vẫn lo:
- Chắc có vệ sĩ giỏi võ...
- Cái đó cũng là cái chắc. Nhưng mình cũng có võ. Mà lại có gồng nửa. Chú muốn xem qua biểu diễn không? Xuống nhà dưới hỏi mượn cây dao yếm lên đây.
Sơn Vương cầm lấy con dao, đưa mấy ngón tay rà lưỡi dao bén ngót rồi cởi áo phình bụng căng cứng, xỉa mấy ngón tay vô thử mấy cái rồi thẳng tay chém ba nhát vô bụngg. Lưỡi dao bật ra, để lại trên da bụng ba vết lằn đỏ.
Trước cặp mắt trợn tròn kinh hãi của Thảo, Sơn Vương nói:
- Nội công này qua học của Đại lão sư trên núi ở Long Hải. Dao mác không chém đứt, chỉ có súng đạn mới đáng sợ. Nhưng súng trong tay kẻ chủ động mới ăn tiền. Để chứng minh điều này, qua để cây súng thiệt ở nhà chỉ mang theo cây súng giả. Cam đoan vẫn đánh lấy valy bạc của thằng Gaillard cho chú xem.
***
Một chiếc xe du lịch bóng lộn đậu trước nhà, Sơn Vương kéo Thảo bước lên ngồi băng sau. Sơn Vương hỏi:
- Năm Đường, mẩy thay bảng số chưa?
- Dạ rồi anh Hai!
- Máy ngon lành không?
- Ngon hết chỗ chê!
- Ghé Chợ Cũ kiếm gì bỏ bụng cái đã. Còn sớm mà!
Điểm tâm xong, Năm Đường lái xe trực chỉ lên Tân Sơn nhất. Trên khúc đường quẹo ra Bà Quẹo, xe ngừng lại tại cầu sắt nhỏ. Năm Đường xuống dỡ nắp xe lên, làm như xe hỏng máy.
Sơn Vương xem đồng hồ nói:
- Một khắc nữa là xe nó tới. Vừa đủ thời giờ cho mình hút một điếu thuốc.
Thảo ngồi trong xe ngắm nhìn hai thầy trò Sơn Vương và Năm Đường đóng kịch. Không bao lâu đã thấy bụi bốc lên từ phía Tân Sơn Nhất. Tức thì Năm Đường vờ lom khom sửa gì đó trong đầu máy xe còn Sơn Vương thì đi tới đi lui làm như sốt ruột lắm, cứ nhìn đồng hồ tay mãi. Vài phút sau chiếc xe thằng giám đốc sở cao su chạy tới. Nó bóp kèn inh ỏi đòi qua. nhưng chiếc xe của Năm Đường nằm chình ình ở giữa đường. Thằng Tây mở cửa xe bước xuống nạt lớn:
- Đẩy xe qua một bên cho người ta đi!
Sơn Vương chỉ Năm Đường nói:
- Tài xế đang sửa, sắp xong, xin đừng nóng!
Thằng Tây hống hách:
- Chừng nào xong? Người ta đang gấp. Đẩy xe vô sát lề đi? Mau lên!
Bất ngò Sơn Vương quay lại, nạt lớn:
- Mầy là thằng nào mà dám ra lệnh cho tao?
Nhanh như chớp ông chĩa súng vô ngực thằng Tây:
- Haut les mains! (Đưa tay lên!)
Thằng Tây run bắn người, ngoan ngoãn đưa tay lên. Sơn Vương thò tay tước ngay khẩu súng sáu trong túi nạn nhân. Một tay cầm súng, Sơn Vương xách valy bạc trong xe ném vô xe mình, cười khanh khách:
- Cho mình mượn kỳ phát lương này nghe mon cher Monsieur Gaillard? Cho mon cher cây súng của tôi làm kỷ niệm.
Sơn Vương ném khẩu súng của mình vô xe thằng Tây rồi bước lên xe mình. Năm Đường chỉ chờ có thế để rồ ga vọt qua cầu.
Thảo nhìn về phía sau, thấy thằng Tây hối tài xế đuổi theo. Nó chĩa súng bóp cò, chừng đó mới biết súng giả, bực mình ném xuống gầm xe. Hai chiếc xe xả hết tốc độ đuổi nhau, quậy bụi bay đỏ trời. Xe Năm Đường là loại xe đời mới nên máy móc tối tân, tốc lực cao hơn nên càng phút càng bô xa xe sau. Cứ chạy sau hít bụi, thằng Tây thối chí bỏ cuộc.
Về tới Hoà Hưng, Sơn Vương và Thảo xuống xe, bao xe thổ mộ về Chợ Cũ. Năm Đường lái xe về nhà chủ Tây, gỡ bảng số giả giấu kỹ để chờ dịp khác, lau bụi đỏ rồi rửa xe để “phi tang” chuyến “ăn hàng” cực kỳ táo bạo của Sơn Vương. Cú này “canh ta lê” thật kỹ, thừa dịp thằng Tây chủ đi về Pháp, Năm Đường mới mượn xe của chủ trong chuyến “đi hát” táo bạo này.
Ngồi trên xe thổ mộ hai anh em bao nguyên chiếc, Thảo cứ tủm tỉm cười. Sơn Vương hỏi:
- Chú nó cười gì vậy?
- Trước đây có đọc “ Tướng cướp hào hoa”, nay mới biết, nhân vật trong truyện lại chính là tác giả ngoài đời.
Sơn Vương cười:
- Biết rồi chú nó có còn muốn kết nghĩa nữa không?
Thảo xiết chặt bàn tay Sơn Vương thay lời đáp.
Ngay chiều đó Năm Đường tới nhận tiền “đi hát”. Thảo cũng được Sơn Vương tặng một số tiền để “tửng” một căn phố ở Đakao mở tiệm giặt ủi. Căn phố này là căn bìa, có một sân rộng để đặt sào phơi phóng.
Từ ngày “ra riêng” Thảo vẫn theo dõi các hoạt động của Sơn Vương về hai phương diện: Văn chương và giang hồ. Thỉnh thoảng Sơn Vương cũng ghé tiệm giặt ủi để xem chú Thảo làm ăn ra sao, nếu cần thì giúp thêm vốn.
Chú thích:
(1) Giặt ủi: giặt là
Năm Đường phản, Sơn Vương bị bắt
Mê nhà báo Thảo gặp Nam Kiều
Mất trọn kỳ phát lương, Ren Gaillard bực lắm.
Mất tiền không đáng kể nhưng bị một thằng điếm thúi dùng súng giả cướp súng thiệt của mình mới là đau. Dòng máu anh chị của thằng Tây gốc đảo Corse này là máu nóng, không thể chịu người ta làm nhục nên hắn cấp tốc tới gặp giám đốc Mật thám Sài Gòn là cò Bazin nhờ tung hết nhân viên “rờ-sẹc” truy bắt kẻ cướp mà hắn tả rõ hình dạng dấu riêng: “người cao khoảng một thước bảy mươi, mình dây, nói tiếng Tây cỡ “cours supérieur” (lớp nhất tiểu học).
Bazin nghe xong, gật gù nói:
- Đánh cướp kiểu đó phải là kẻ có học, từng mê tiểu thuyết của Phú Đức với các nhân vật Bách-si-ma và Hoàng Ngọc Ẩn lái điếu Xì gà và Khúc Dồi phóng như bay trên đường nhựa. Được rồi! Tôi sẽ ra bố cáo cho các nơi truy tìm hung thủ. Nhưng tốt nhất là ông nên treo một giải thưởng để khêu gợi lòng tham những kẻ biết tung tích hung thủ.
Gaillard gật:
- Tôi treo giải thưởng một phần mười số tiền đã bị cướp. Tức là năm ngàn đồng.
Vài ngày sau có bố cáo khắp nơi treo giải thưởng năm ngàn đồng cho ai chỉ bắt bọn cướp lái xe du lịch Clément Bayard.
Tiền thưởng quá lớn thúc dục đám mật thám đua nhau truy tìm kẻ gian. Nhờ chi tiết về hiệu chiếc xe mà công việc săn bắt trở nên dễ dàng. Hiệu xe này mới quá. Cả Nam kỳ chỉ có chừng chục chiếc. Riêng Sài Gòn chỉ có năm chiếc. Cứ quần năm chủ xe thì thế nào cũng ra mối. Tội nghiệp Năm Đường đã bợ của Sơn Vương mười ngàn đồng mà ăn ngủ không yên. Mỗi lần đám rờ-séc tới làm “ăn kết” về chiếc xe Clément Bayard là hắn nổi da gà. Sau mấy đêm không ngủ, Năm Đường đành tới bót thú tội đã cho Sơn Vương mượn chiếc xe để đi ăn cướp. Mặc dầu Sơn Vương đã rời nơi trú ẩn, nhưng không sao tránh lọt khỏi “thiên la địa võng”. Rồi một ngày nọ Thảo đọc trên báo một cái tin hết sức giật gân: Sơn Vương, nhà văn - tướng cướp đã sa lưới. Mấy đêm liền Thảo mất ngủ. Người anh em kết nghĩa và là ân nhân của mình đã xộ khám. Vào tù ra khám là chuyện tất nhiên của kẻ cướp dù tài ba đến mức nào. Biết vậy mà Thảo không khỏi ngậm ngùi cho Sơn Vương. Anh theo dõi vụ xử trên báo hàng ngày, gọi là chia buồn cũng như trước đây đã chia vui với tay giang hồ mã thượng gốc Gò Công này.
Bắt được Sơn Vương, Bazin điện ngay cho Gaillard tới Catinat dự cuộc thẩm vấn:
- Trước khi điều tra, tôi giao nó cho ông trong mười lăm phút. Nó cướp của ông năm chục ngàn, ông có thể làm gì nó cho đáng số tiền đã mất. Dân giang hồ chơi nhau bằng luật giang hồ trước đã. Pháp luật sẽ tính sau. Đây, roi gân bò sẵn đó.
Gaillard chụp roi gân bò quất trót trót trong không khí rồi nhìn trừng trừng con mồi, nói từng tiếng:
- Tao tính rẻ mạt: một ngàn là một roi. Mấy chịu nổi năm chục roi?
Sơn Vương ôn tồn đáp:
- Chỉ sợ ông mỏi tay thôi!
Gaillard ngạo nghễ:
- Mấy chưa gục ngã, tao chưa mỏi tay!
Hắn thẳng tay quất roi gân bò vô mình Sơn Vương đang bị còng hai tay. Ngọn roi đầu xé rách chiếc áo sơ mi lụa lèo. Mấy roi sau biến chiếc áo rách thành mớ bùi nhùi. Máu rịn theo các vết hằn trên da.
Sơn Vương cắn răng ván nội công, hai mắt trợn trừng nhìn Gaillard như thôi miên.
Mới có trên mười roi, Gaillard đã thấm mệt. Hắn vứt roi hổn hển nói:
- Tao cho mấy thiếu số còn lại.
Sơn Vương bật cười khanh khách:
- Ông quen cho vay với bao nhiêu phân lời? Mà dù ông cho vay không lấy lời tôi cũng cám ơn. Sơn Vương không có thói quen vay hỏi. Khi cần thì mượn tạm của nhà giàu như bọn ông. Tánh tôi thích sòng phẳng. Ông nên cầm roi lên đánh cho đủ số đi.
Gaillard khoát tay:
- Tao cho mấy luôn đó. Mà tao không thèm kiện thưa mầy để mất thì giờ đi hầu toà.
Quay lại Bazin, Gaillard nói:
- Tôi muốn nói chuyện riêng với ông.
Bazin nhấn chuông cho lính đưa Sơn Vương ra ngoài.
Galllard hỏi:
- Ông làm mật thám lâu đời, có bao giờ ông gặp một thằng cướp như thằng này không? Nó hiên ngang, nó anh hùng quá, phải không ông?
Bazin im lặng nghe, Gaillard nói tiếp:
- Đảo Corse quê tôi nổi tiếng sản sinh những tay tướng cướp sừng sỏ nhất thế giới, nhưng so với thằng này thì ít ai hơn được.
Bazin hỏi:
- Vì vậy mà ông tính tha cho nó?
Gaillard gật:
- Đảo Corse chúng tôi có câu: anh hùng phải trọng anh hùng.
Bazin nhún vai:
- Đó là chuyện của ông. Còn tôi thì phải tôn trọng luật pháp. Nó phải ra toà lãnh án.
Gaillard bắt tay Bazin:
- Chuyện ai nấy làm. Nhưng tôi nói trước là tôi sẽ không đi hầu toà trong phiên xử hắn. Dù sao cũng cám ơn ông đã giúp tôi giáp mặt một kẻ giang hồ hảo hớn.
Tên phó giám đốc sở cao su Mimot đi rồi, Bazin ngồi thừ khá lâu. Thái độ kỳ lạ của Gaillard làm tên trùm mật thám ngạc nhiên. Và phản ứng của tên mật thám là sưu tra lai lịch. Hắn nhận chuông cho nhân viên sưu tra tìm hồ sơ của tên Ren Gaillard, phó giám đốc sở cao su Mimot. Chỉ nửa giờ sau, Bazin có trước mật hồ sơ cần xem. Lai lịch vắn tắt mấy dòng: Ren Gaillard là em của Charles Gaillard. Cả hai đều là tù vượt ngục khám La Santé ở Paris, trốn qua Mỹ chuyên đánh cướp các ngân hàng. Vụ sau cùng đánh một xe bạc, trốn qua Đông Dương mua cổ phần đồn điền cao su Terres Ronges.
Bazin gật gù: “Thảo nào! Cùng một húi với nhau cả mà!”
***
Làm tiểu chủ chỉ vất vả lúc đầu, về sau có một số thân chủ, tiền thu nhập đủ sống, Thảo sống nhàn hạ. Thú vui của anh là uống trà đọc báo. Sài Gòn có nhiều cái hấp dẫn mà đứng đắn là báo. Chỉ cầm tờ báo lên là ta biết đủ thứ chuyện trên đời. Chuyện trong nước, chuyện thế giới. Ngoài tin tức thời sự, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội, còn có tiểu thuyết để thay đổi không khí. Tiểu thuyết đăng báo hằng ngày nhiều cái rất hấp dẫn, đã đọc thì ghiền, cứ trông chờ báo hôm sau để biết tình tiết diễn ra làm sao. Các tác giả viết theo lối chương hồi của chuyện Tàu “câu chuyện ra sao, hồi sau phân giải”.
Một trong những tiểu thuyết đăng trên tờ Đông Pháp thời báo ký tên Nam Kiều. Thảo chưa gặp ông ta lần nào, nhưng đọc văn thấy hay. Anh đoán Nam Kiều là người miền Bắc vô Nam đã lâu vì giọng văn rõ ràng là ngôn ngữ Bắc Hà nhưng có pha lời lẽ Nam Bộ. Nội cái tên Nam Kiều cũng chỉ rõ tác giả là kẻ từ xa đến miền Nam. Nam Kiều đã chinh phục tình cảm của Thảo. Với vài bạn thích văn chương tiểu thuyết, Thảo thường bàn chuyện và đa số đồng ý nhận xét sau: Bắc giỏi văn, Trung giỏi thơ còn Nam giỏi báo.
Quyết tới toà soạn làm quen với nhà văn Nam Kiều, Thảo được chủ bút tờ Đông Pháp thời báo tiếp.
Thảo đi thẳng vô đề:
- Cho tôi gặp nhà văn Nam Kiều.
- Nam Kiều là tôi đây.
Thảo ngẩn ngơ:
- Ông là chủ bút Trần Huy Liệu mà...
- Viết báo tôi ký tên Trần Huy Liệu, viết văn tôi ký nhiều tên, ở đây là Nam Kiều, trên các báo khác là Đầu Nam, Côi Vị, Hải Khách, Hải Thu, Kiếm Bút, Âm Hận...
Thảo bật cười:
- Người sao mà nhiều tên quá! Viết nhiều báo chắc ông giàu lắm?
Liệu cười lớn:
- Giàu lắm! Giàu hay không, hãy xem cách ăn mặc của tôi đây. Cuộc sống của nhà văn An Nam mình, bậc tiền bối Tản Đà đã nói rõ rồi: “văn chương hạ giới rẻ như bèo”, Nguyễn Vỹ than “nhà văn An Nam khổ như chó”... Nhưng hãy bỏ qua chuyện giầu nghèo. Nhà văn chúng tôi viết là vì sứ mạng của người cầm bút. Những bút hiệu của tôi đã nói quá rõ tâm tư của nhà văn nhà báo một nước bị mất, quyền độc lập tự do...
Cuộc gặp gỡ này đưa Thảo tới một khúc quanh mới. Đi tìm nhà văn Nam Kiều, Thảo lại gặp nhà báo Trần Huy Liệu. Những lần đi lại với nhau sau đó gắn hai kẻ đồng hương. Trần Huy Liệu là Đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng hoạt động ở miền Nam. Nhờ khả năng nói và viết rất hùng biện, Liệu được giao nhiệm vụ tuyên truyền. Những ai đã nghe ông nói, không sớm thì muộn đều xin gia nhập Đảng, dù biết “dấn thân vô là phải chịu tù đầy” nhưng tinh thần dân tộc là truyền thống bất khuất của dân Nam. Thảo trở thành đảng viên tích cực.
Gây quỹ Đảng, đi tìm họ Mạnh
Đất Gò Đen. Thảo gặp ông Tồn
Một hôm Liệu tới bàn với Thảo:
- Đảng ta đang cần tiền để hoạt động. Số tiền đóng góp của anh chị em đảng viên không được nhiều vì đa số là dân lao động, tay làm hàm nhai. Mình phải đi tìm các Mạnh Thường quân. Đất Nam kỳ rất nhiều nhà giàu có tinh thần yêu nước. Một trong những số này có ông Võ Công Tồn, một nghiệp chủ ở Gò Đen. Hôm nay tôi và cậu đi thăm ông ta, mời ông ta đóng góp chút ít vào việc lớn.
Thảo thay đồ đi ngay với Liệu. Trên đường đi anh hỏi:
- Gò Đen là đâu? Gần hay xa? Mình đi bằng xe gì?
- Cậu vào Nam lâu rồi mà không am tường địa dư Nam kỳ. Gò Đen là một quận trong Chợ Lớn, nằm dọc hai đường xe hơi và xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho. Từ đây xuống đó chừng ba mươi cây số. Mình đi xe lửa...
- Ông Tồn là người thế nào mà anh gọi là Mạnh thường quân?
- Ông ta là nghiệp chủ. Nói rõ hơn là có đất điề ruộng lúa, về sau mở lò gạch. Ông Tồn quê xã Long Hiệp, tổng Long Hưng, Chợ Lớn, cưới vợ xã Phước Vân. Ông có con học bên Tây và giao du với các trí thức lớn ở Sài Gòn như chủ báo La Cloche Felée (Tiếng chuông rè) là cử nhân luật Nguyễn An Ninh.
Thảo gật gù:
- Nguyễn An Ninh tôi có biết. Tờ báo Tiếng chuông rè tôi có đọc. Đây là tờ báo song ngữ vừa viết tiếng ta vừa viết tiếng Tây. Tôi nhờ đọc báo đó mà ôn lại ba mớ tiếng Pháp.
Xe lửa Mỹ chạy không nhanh như xe lửa Biên Hoà. Ngồi bên cửa sổ nhìn phong cảnh hai bên đường sắt thật là thích thú. Ra khỏi Chợ Lớn xe chạy qua những cánh đồng. Thảo nhớ Quốc văn giáo khoa thư:
“Đồng quê thì đâu đâu cũng giống nhau, không mấy nơi có phong cảnh lạ. Nhưng đồng quê miền Nam có nhiều nét khác, mà nổi bật nhất là không có làng nào bị rào kín trong luỹ tre xanh. Không khí đồng quê miền Nam thoáng hơn, dễ thở hơn. Xóm làng mọc dài theo hai bên đường nhựa chạy song song với đường sắt. Cứ cách khoảng năm cây số xe lửa dừng lại một ga: An Lạc, Bình Điền, Bình Chánh rồi Gò Đen.
Hội đồng Tồn tiếp nhà báo Trần Huy Liệu rất trịnh trọng. Thảo đóng vai quan sát viên. Anh thấy ông Tồn ở miệt vườn mà am hiểu tình hình trong nước và thế giới không kém dân Sài Gòn. Đó là nhờ báo chí hàng ngày do xe lửa và xe hơi đưa tới tận các quận. So sánh người điền chủ miền Nam với các hào lý miền Bắc, Thảo thấy khác một trời một vực.
Về nhận xét này, anh Liệu nói: “Nam Kỳ hưởng chế độ thuộc địa, còn Trung Bắc là xứ bảo hộ. Thuộc địa do Pháp cai trị trực tiếp, còn Bảo hộ thì do triều đình Huế nắm. Về nhiều mặt Nam kỳ được rộng rãi hơn. Một trong những tiến bộ đó là báo chí”.
Theo dõi cuộc nói chuyện giữa chủ và khách, Thảo nhìn nhận hội đồng Tồn đúng là Mạnh thường quân như Trần Huy Liệu đã nói. Sau khi nghe anh Liệu trình bày dự án hoạt động của Đảng, ông Tồn gật gù nói:
- Nhà báo các anh là những người học sâu hiểu rộng. Các anh lo việc mở mang dân trí là điều rất phải. Chúng tôi phải ủng hộ các anh. Mới rồi mấy anh trên Sài Gòn có xuống đây, bàn chuyện sắm nhà in, ra báo. Tôi cũng giúp một số tiền.
Chủ nhà mời khách ở lại dùng cơm, chiều hãy về:
- Từ ngày có xe lửa, việc đi Sài Gòn dễ dàng như đi chợ. Cứ một tiếng là có một chuyến xe lên, một chuyến xe xuống. Bạn hàng tập trung tại các nhà ga rất đông. Đi buôn trên xe lửa tiện lợi hơn trên xe đò vì chở được nhiều hơn.
Trong khi ăn cơm, anh Liệu mới vô đề:
- Vừa rồi có anh Nguyễn Ngọc Sơn đặc phái viên Việt Nam quốc dân đảng vào Nam gây cơ sở. Tôi được chỉ định làm tỉnh bộ trưởng. Anh Nguyễn Phương Thảo đây là Trưởng ban cảnh bộ về tổ chức. Hôm nay tôi đưa anh Thảo xuống đây để giới thiệu với ông.
Thảo cúi đầu chào và bắt tay chủ nhà. Liệu nói tiếp:
- Lâu nay anh em chúng tôi xem ông là Mạnh thường quân, vừa rồi có người đề nghị mời ông vô Ban chấp hành, với chức Vụ trưởng ban Tài chánh ông nghĩ thế nào?
Ông Tồn cười:
- Anh em tín nhiệm, tôi xin cám ơn. Nhưng tôi chỉ muốn đứng ngoài. Khi nào anh em cần giúp đỡ như hôm nay thì tôi xin sẵn sàng. Tôi dốt chánh trị nên không dám nhận chức vụ gì. Chỉ làm cảm tình viên thôi.
Liệu đành loài lòng với kết quả đó. Sau bữa ăn, chủ trải chiếu lên bộ ván mời khách nghỉ trưa. Chiều mát trời hai anh em mới ra ga đón xe lửa. Hội đồng Tồn trao cho Liệu một bao thư dày cộm:
- Chúc các anh dồi dào sức khỏe để hoạt động.
Sau chuyến đi này, Thảo càng gắn bó với Liệu mà anh xem như người anh kiêm người thầy. Đem so sánh với Sơn Vương, Thảo thấy mỗi người một nét.
Sơn Vương là nhà văn tướng cướp còn Trần Huy Liệu là nhà văn cách mạng. Hai người gặp nhau ở một điểm: không chấp nhận nỗi nhục mất nước. Nhưng tướng cướp đi vào bước đường cùng vì đơn độc còn cách mạng có tương lai hơn nhờ biết tập hợp mọi giới trong đó có các Mạnh thường quân như Võ Công Tồn.
Trấn Huy Liệu làm chủ bút báo Pháp Việt nhứt gia chống chủ trương Pháp Việt đề huề của bọn thân Pháp. Báo gây tiếng vang trong dư luận. Pháp lo ngại, chúng bắt ngay chủ bút. Tin này khiến Thảo bàng hoàng. Anh thăm dò dư luận và mướn luật sư biện hộ cho Liệu. Toà kêu án sáu tháng tù.
Ra tù Liệu sáng lập Cường Học thư xá chuyên xuất bản sách cổ vũ lòng yêu nước. Tất cả sách này, Liệu đều tặng Thảo để rèn luyện ý chí. Cũng trong năm 1928 ấy, chi bộ Việt Nam Quốc dân Đảng Nam Kỳ thành lập do Trần Huy Liệu làm bí thư. Thảo chánh thức được bầu vô Ban chấp hành. Năm ấy anh đúng hai mươi tuổi.
Chi bộ hoạt động được một năm. Thảo là cánh tay đắc lực của Liệu. Hai anh em rất tâm đắc khẩu hiệu Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên, người mà dân Trung quốc suy tôn là “quốc phụ”. Thảo miệt mài nghiên cứu tinh hoa của thuyết Tam dân: dân tộc độc lập dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Độc lập Tự do và Hạnh phúc chính là điều mơ ước của mọi người. Dân một nước thuộc địa như Việt Nam lại càng mơ ước ba điều đó nhiều hơn ai hết.
Lần đầu tiên được sinh hoạt Đảng, Thảo thích thú vô cùng. Anh biết cách điều khiển một cuộc họp như thế nào theo đúng khoa học như tuyên bố lý do, chương trình nghị sự, bầu chủ toạ, thư ký điều khiển và ghi biên bản các cuộc thảo luận. Sôi nổi nhất là lúc tranh luận. Bản lãnh của vị chủ toạ là ở tiết mục này, phải nắm bắt và tóm gọn những ý phát biểu và kết luận thoả đáng. Nến hai bên chưa đồng ý thì phải biểu quyết lấy đa số... Thảo chưa hài lòng với nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số. Theo anh chưa hằn đa số luôn luôn đúng. Nhưng các cuộc tranh luận này chưa đi tới đâu thì xảy ra biến cố quan trọng nhất trong đời anh. Không rõ do sơ xuất nào mà mật thám bao vây trong khi chi bộ đang họp. Hai anh em Liệu, Thảo bị đưa vô bót Catinat điều tra, sau đó giải qua Khám Lớn Sài Gòn. Vài tuần sau ra toà lãnh năm năm tù, xuống tàu ra Côn Đảo.
Trong cái rủi có nhiều cái may. Thời gian lưu đày đã rèn luyện một anh chàng cách mạng tài tử trở thành một nhà cách mạng thật sự. Vốn sống được nhân lên trong thử thách ác liệt. Nhà tù Côn Đảo chỉ đứng sau địa ngục trần gian khét tiếng thế giới là khám đường Cayenne trên xứ Guyane cũng là thuộc địa Pháp nằm sát ranh xứ Ba Tây. Nguyễn Phương Thảo vượt qua “thập diện” Côn Đảo như thế nào? Xin đón xem hồi sau phân giải.