Chuông reo liên hồi báo hiệu giờ học bắt đầu. Giảng đường là một hội trường khá đơn sơ với bục diễn giả và bàn học viên bằng gỗ đã quá cũ, sân khấu có tượng lãnh tụ, cờ và khẩu hiệu chói lọi. Tân kỳ nhất ngó thấy được trong giảng đường này là bộ phóng đại âm thanh không dây micro di động và sáu thùng loa mắc hai bên tường, mỗi thùng ba loa tròn nhỏ xíu, âm thanh thì oang oang mà lại trong veo.
Học viên nam lẫn nữ đa số là những quý ông bà từ sồn sồn tới cụ già ngấp nghé sáu mươi đeo kính, đầu hói, tóc hoa râm bộ dáng khá bệ vệ. Hai phần ba số học viên nam bụng to, dáng điệu trịnh trọng như những doanh nhân thành đạt. Mà thật vậy, tất cả học viên đều có địa vị cao trong xã hội, có người là phó chủ tịch ủy ban hay viện trưởng một viện, giám đốc, phó giám đốc công ty thì vô kể. Nhiều học sinh đi xe du lịch, số đi xe gắn máy hầu hết chọn Dream, nhất là cánh nữ. Học viên nữ cùng là những bà nạ dòng xinh đẹp, áo đầm cắt môđen hoặc áo sơmi "bỏ vô thùng", hiếm thấy người nào mặc áo bà ba, bới tóc như những cán bộ nữ thôn quê. Học viên nam biểu lộ thái độ học tập khá miễn cưỡng. Ngược lại, học viên nữ có vẻ tự giác, trên môi luôn nở nụ cười thật tươi, kể cả khi hội trường nóng bức cỡ bốn mươi độ, quạt chạy vù vù. Như thế đấy, một lớp học đặc biệt mà trong đời tôi, tôi chưa từng thấy.
Đọc tới đây, chắc quý vị thắc mắc, tôi là ai mà được chứng kiến những điều kỳ thú nói trên? Xin thưa, tôi là nữ lao công mới hợp đồng dọn dẹp, phục vụ hội trường thay cho người tiền nhiệm nghỉ hưu. Tôi làm việc chưa đầy sáu tháng nhưng thực sự đã có thâm niên hơn mười năm trong các trường mà tôi làm giáo viên mẫu giáo. Tôi học ít, dạy không hay, thu nhập kém, không đủ tiền nuôi hai con nhỏ nên đành phải lựa chọn cách này. Làm lao công lương kém, danh dự cũng chẳng được gì, nhưng được hợp đồng làm thêm, làm ngoài giờ. Số tiền tôi thu được từ công việc dọn dẹp nhà phụ huynh các cháu khá cao, lại được các cháu mến, cha mẹ các cháu gửi gắm, lì xì... Làm cô giáo không thể nào được cái diễm phúc ấy. Và từ đó, tôi trở thành lao công chuyên nghiệp hồi nào tôi cũng không hay.
Bị mật việc ở trường mẫu giáo, tôi sang trường tiểu học, trường dạy nghề, rồi sau đó chuyển sang quét dọn ở cơ quan. Tuy phải khóc thầm khi chia tay với lứa tuổi học trò mà tôi yêu quý nhưng tôi nhận ra ở cơ quan, công việc tôi rất nhẹ nhàng, loáng cái là xong, nhờ đó tôi có thì giờ đọc báo, đọc sách mà không ai nhắc nhở, la rầy. Ngoài công việc ở cơ quan, tôi còn được làm lao công cho nhà riêng các viên chứa, những người tử tế. Nhiều vị cán bộ cách mạng cho đến thời kinh tế thị trường vẫn còn ngại không dám cho người làm thuê trong nhà vì sợ mất lập trường giai cấp, họ chuộng cách để dành tiền mua máy giặt. Nhưng có những việc không thể nhờ máy móc được, chẳng hạn như lau nhà. Trong khi chờ có robot, người ta cần người làm tính giờ, để khỏi phải "nuôi ong tay áo". Nhờ vậy, một tiếng đồng hồ buổi tối tôi kiếm thêm được hai chục ngàn đồng, chủ cho ăn cơm ngon vì tôi là khách chớ không phải "kẻ ăn người ở trong nhà". Hơn nữa, tôi biết cách ứng xử ngọt ngào với tất cả mọi người và vén khéo trong công việc. Nhưng có lẽ điều đặc biệt nhất, là tôi có chút duyên ngầm. Tôi ý thức rõ về nước da ngăm, thân hình cân đối của gái hai con mà thay vì bán nó một lần như những người đàn bà khác, tôi không bán, cũng không cho, mà lặng lẽ dùng nhan sắc để trang điểm cho nghề lao công thêm đẹp, đồng nghiệp tôi không thể cạnh tranh nổi. Để bảo vệ tư cách của nhan sắc bình dị của mình, tôi chỉ nhận lau dọn nhà vào giờ cao điểm tức là bữa ăn tối, khi tất cả mọi thành viên trong trong gia đình có mặt đông đủ, các đức ông chồng chưa về hoặc nếu đã về nhà thì đây là lúc các đức ông vùi đầu trong tờ báo, an ninh bất động chờ cơm, còn các bà chủ gia đình thì hoàn toàn yên tâm. Cách ứng xử có ý tứ giúp tôi có việc làm thêm cả sáu đêm trong tuần. Tôi luôn nhận được việc làm từ các bà chị, vợ các thủ trưởng, các viên chức có thu nhập khá. Mỗi tuần tôi kiếm thêm một trăm hai chục ngàn, chưa tính tiền bo và những bữa được mời ăn. Nhờ vậy tôi có thể nuôi một mẹ già hai con nhỏ mà không cần biết người chồng bạc bẽo của tôi đang trôi dạt nơi chân trời nào.
Trong lớp học mà tôi đang phục vụ đây, có cả một thân chủ của tôi, đó là ông Tư đầu bạc, người già gần nhất lớp, cũng là ngồi gần bàn chót gần cửa ra vào. Trong giờ học, tôi thường giúp ông vài chuyện vặt như mua nước trà đá hoặc photocopy một tài liệu nào đó. Ông có thiện cảm với tôi và tôi cũng thích cái tính chân tình cởi mở của ông, dù tôi đoán biết, ông là người có chức vụ. Tuy có cảm tình với ông, nhưng không vì thế mà tôi không giữ ý khi lau dọn nhà ông. Còn ông thì thường tỏ ra quan tâm tới tôi. Khi làm việc ở nhà ông, ông hay ép tôi ăn cơm và trong bữa ăn, ông thường hỏi chuyện. Tôi đã nói với ông tất cả về tôi: từ nghề giáo viên mẫu giáo chuyển sang làm lao công... Và có lẽ, chỉ mình ông Tư là người duy nhất trên đời này còn gọi tôi là cô giáo. Tôi nhớ mãi giọng ấm áp của ông mỗi tối khi tôi đang lau nhà:
- Cô giáo đâu, rửa tay ăn cơm đã, mai làm tiếp có sau đâu...
Chuông reng ba hồi, báo giờ vào giảng đường, cũng là giờ tôi phải lau dọn ngoài hành lang. Tiếng ồn ào vui vẽ chấm dứt khi chủ nhiệm bước vào lớp dắt theo một ông thầy gọi là giảng viên. Các vị thầy đến đây thỉnh giảng đều đáng kính với học vị phó tiến sĩ, thạc sĩ hoặc giáo sư các bộ môn triết học, chính trị, văn hóa, kinh tế xã hội. Họ già hơn học viên cũng có, nhưng đa số là trẻ tuổi hơn những học viên của họ. Thế mà, khi thầy vào lớp, tất cả học viên đều đứng dậy chào. Phải công nhận rằng, khi lần đầu tiên chứng kiến cái cảnh tôn sư trọng đạo này tôi xúc động đến chảy nướ mắt. Chính cái cảnh đó giúp tôi đỡ buồn khi phải từ biệt những trường học của trẻ em và đến với trường của những người lớn, những thủ trưởng, những ông quan.
Nhưng dù sao, những buổi lên lớp ở giảng đường không thu hút tôi hơn là những buổi học của học trò nhỏ. ở đây người ta nói lý luận rắc rối. Người ta hay nói từ cơ bản, hệ thống và biện chứng, đến nỗi ông Tư vốn đạo mạo cũng nổi cơn hóm hỉnh thường đùa rằng: "Về cơ bản, tôi và vợ tôi trước đây có quan hệ biện chứng với nhau". Ông làm tôi nhớ một câu chuyện về sự định nghĩa lạm ngôn trên một tờ báo cười. Bạn có biết người ta gọi sợi dây phơi quần áo là gì không? Đó chính là thiết bị thu năng lượng mặt trời để sấy khô các loại vật chất cấu tạo bằng sợi ở dạng mỏng và thể nhẹ. Rắc rối đến thế là cùng. Chính vì vậy, tôi thường lau nhà cho nhanh để khỏi phải nhức đầu vì lý luận!
Ông thầy giảng bài hôm nay khá trẻ, có thể nói là nhỏ tuổi hơn cả nhữn học sinh nhỏ tuổi. Ông chưa đeo kiếng, thắt cà vạt không được khéo, quần áo cũng xoàng, trông giản dị và khá nghệ sĩ. Chính những nét khác người ấy làm tôi tò mò hơn mọi khi.
Sau phút rào đón khá dài, ông vào đề hơi lúng túng. Nhưng chỉ cần mươi phút là ông lấy thể chủ động, nói như búa bổ về bộ môn tâm lý học: "Không chỉ có lập trường và tư tưởng, trong con người còn có tâm lý, có cả tâm linh nữa. Trong chiến tranh, đôi khi cần phải thống soái về tư tưởng vì lợi ích chung cuộc. Nhưng phải đâu con người chỉ có tư tưởng. Văn học chúng ta một thời vì phải dùng văn chương để đánh giặc, nên chỉ khai thác tư tưởng và ý chí chính trị thuần túy. Tư tưởng và ý chí luôn cần thiết nhưng tâm lý cũng cần thiết không kém, cái này bổ sung cho cái kia".
Tôi không đủ trình độ tiếp thu những điều ông nói nhưng cũng thấy ông thầy này không giống những ông thầy khác. Buổi tối, khi lau dọn, giặt giũ nhà ông Tư, tôi nghe ông nhận xét: "thằng cha thầy này gan, vậy là tốt".
Vào đầu giờ thứ hai, ông thầy tâm lý phá lệ dành ít phút để làm một màn "đố em" khá ngộ nghĩnh.
- Xin các anh, các chị nhìn lên bảng, chúng ta cùng chơi trò trắc nghiệm tâm lý. Tôi xin nói, đây chỉ là trò chơi để thư giãn thôi, nhưng chắc chắn là "không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc".
Nói xong, ông thầy vẽ lên bảng đen tám chữ o tròn bằng phấn trắng cách khoảng đều nhau, gồm ba hàng ngang, ba hàng dọc, cả hàng ngang lẫn hàng dọc đều có hai hàng đủ ba chữ o, và một hàng hai chữ. Câu hỏi của ông là: "Hãy kể bốn đường thẳng xuyên qua các chữ o tròn với điều kiện đường kẻ không được đứt quảng".
Các vị học trò già, nam cũng như nữ, ồ lên trong thoáng chốc rồi im lặng nhìn lên bảng xì xào trao đổi với nhau giống như những thí sinh "đố em" từng thấy trên tivi.
Tôi tạm dừng công việc lau hành lang, khéo léo nép bên cửa để nhìn trộm vào lớp học. Học trò già dán mắt lên bảng im lặng và suy nghĩ. Học trò sồn sồn có vẻ hăng hái, nhấp nhổm muốn lên bảng chứng tỏ sự thông minh của mình. Một chị đầu quăn bước lên rẹt bốn nét phấn cực kỳ nhanh nhưng chỉ xuyên qua được có bảy chữ o, thay vì cần phải đủ tám! Chị học trò chưng hửng y như là bị tổ trác.
Cả lớp lặng im. Người ta bắt đầu cảm thấy trò chơi này không đơn giản, cần có sự công phu hơn. Các vị học trò buộc phải bắt đầu làm thử trên giấy. Tôi chủ ý quan sát ông Tư đầu bạc, vị học trò già, ngồi gần cửa ra vào vào, kế bên chỗ tôi nép mình. Ông Tư đang khoanh tám chữ o tròn to tướng theo đúng quy định của thầy rồi kẻ rẹt rẹt bằng bút lông bi. Ông kẻ lần đầu năm nét, lần sau sáu nét, lần sau nữa là bốn nét nhưng chỉ nối được có bảy chữ o giống như chị học trò sồn sồn lên bảng đen khi nãy. Thế là rốt cuộc... vẫn dư ra một chữ o tròn.
Vị học trò, có vẻ là một quan chức với chiếc cặp to tướng để trên bàn học cũng kẻ những đường kỷ hà rối như canh hẹ rồi chán nản vò tờ giấy vứt vô sọt rác.
Tôi vốn là học trò giỏi toán đố mẹo nên đã linh cảm được mẹo của bài toán nằm ở chỗ nào. Tuy nhiên, những biến cố trên bảng đen cuốn hút tôi hơn. Tôi chờ đợi coi ai sẽ là người thứ hai bước lên đoạn đầu đài. Giây phút trôi qua, đến lượt tôi hồi hộp. Tôi đặt mình vào hoàn cảnh của các vị học viên và cảm thấy rất khó xử. Nếu im lặng trước trò đố em tôi sẽ trở thành trẻ em. Vậy tôi phải làm sao đây? Tôi bỗng thầm trách ông thầy bày chi cái trò ú tim, hoàn toàn không hợp với tâm lý người cao tuổi. Nếu như tôi là ông Tư đầu bạc, tôi sẽ nghĩ gì? Tôi lén nhìn ông để tìm kiếm những tín hiệu tâm trạng của ông lộ ra ngoài. Nhưng tuyệt nhiên, ông không bộc lộ thái độ gì khác thường ngoại trừ sự tập trung chăm chú nhìn lên bảng đen chờ đợi. Tôi nhìn ông Tư chợt nghĩ tới đoạn đời gian truân của ông mà mủi lòng. Gần trọn đời chiến đấu hy sinh, đã làm xong bổn phận mình đối với non sông, ông còn phải học hành môn tâm lý này để làm gì? Chẳng lẽ, tồn tại ba mươi năm trong lửa đạn và trong những điều kiện sống ngặt nghèo của chiến tranh gian khổ, ông Tư không hề sử dụng những liệu pháp tâm lý nào? Đáng lẽ với từng ấy kinh nghiệm sống trong cuộc đời, ông đáng là thầy hơn là trò của ông thầy mới ở tuổi bốn mươi...
Nhưng... thái độ thành khẩn, chờ đợi của ông Tư và chăm chú nhìn, nghe lời giải chứng tỏ ông không đồng tình với tôi. Tuy biết vậy, nhưng tôi vẫn tin rằng tôi phải nghĩ và nên nghĩ như thế mới hợp đạo lý. Chính vì thế, mặc dù muốn chứng kiến giây phút căng thẳng hồi hộp, đầy kịch tính khi bài toán được giải đáp, tôi đành phải xách thùng đồ nghề quét dọn của tôi rời khỏi lớp học. Tôi không muốn thấy ai thắng, ai thua trong cuộc "đố em" bất đắc dĩ này.
Tối hôm đó, tôi đến nhà ông Tư sớm hơn thường lệ. Không biết sao, lần này, tôi rất muốn trò chuyện với ông, khác với cách ứng xử thụ động nhằm mục đích giữ mình. Lau dọn xong còn thì giờ, tôi vô bếp phụ với bà Tư dọn bữa cơm tối cho bốn người, ông bà Tư, đứa cháu nội mười hai tuổi và tôi. Những người khác trong nhà ăn tối vào một giờ khác, sau cà làm ở nhà máy. Mấy năm nay, gia đình ông vẫn vậy. Ông làm chuyên viên của một viện gì đó, hình như là thiết kế tàu biển, còn con trai và con dâu là kỹ sư ở nhà máy trên Biên Hòa. Họ về rất trễ chắc còn phải làm thêm ở đâu đó. Cháu nội mười hai tuổi của ông Tư hoàn toàn do ông đưa đón. Đơn giản là vì công việc ông nhàn nhã, ổn định, lại di chuyển trên một lộ trình ngắn và rất an toàn, ông thấy cần phải nhận lãnh trách nhiệm hỗ trợ con cháu. Những bữa cơm có tôi cùng ăn, không bao giờ ông uống rượu bia. Nhưng bữa nay thì khác, ông tự mình dọn rượu: một chai rượu thuốc nhỏ màu nâu sậm, một chiếc ly con con. Ông nhấp môi thử và sau đó uống cạn ly, rồi rót ly khác. Chỉ cần bấy nhiêu đó rượu, ông bắt đầu huyên thuyên. Ông hỏi là tôi thảng thốt:
- Sao, buổi lên lớp sáng nay, cô giáo thấy có điều gì thú vị không?
- Dạ thưa chú... cháu bận làm, không để ý lắm..
- Không... tôi thấy cô giáo theo dõi kỹ lúc thầy đố mẹo, học trò già bí hết.
- Dạ, cháu thấy vui vui, nên có lén nhìn một chút rồi đi
- Rất uổng, nếu như cô giáo được coi hồi kết cuộc.
Suýt nữa thì tôi reo lên, xin chú Tư nói ngay cho kết cuộc như thế nào. May thay tôi biết kềm chế:
- Thưa chú... bài toán gì, giải ra sao ạ?
Uống thêm một ngụm rượu nhỏ, đóng nút chai lại, ông Tư cười tủm tỉm:
- Cả đời học đủ thứ, sáng nay mới đúng là học, học được cái chữ khó học nhất, là chữ ngờ. Cô giáo biết không, ông thầy vẽ tám chữ o, bảo phải kẻ bốn đường thẳng xuyên qua tám chữ o đó với điều kiện không được nhắc phấn lên, làm đứt quãng. Câu hỏi tưởng dễ mà khó, tưởng khó mà dễ. Những người quen khuôn mẫu như chúng tôi tư duy mãi trong cái khung hình thang vuông mà tám chữ o ấy tạo ra nên ai cũng ngang ngay sổ thẳng, rốt cuộc ai cũng phải mất năm sáu đường mới nối được những chữ o với nhau. Nhưng cái anh trẻ nhất lớp nó lên bảng đi một mạch bốn đường một cái rẹt mới tài!
- Thưa chú, anh ấy vẽ như thế nào ạ..
- Như thế nào à? Một cái rẹt... phá khung. Bắt đầu tư dòng thứ nhất, hàng thứ ba bên phải, anh ta kẻ một đường chéo xuyên tâm lên chữ o cuối của hàng ngang thứ nhất rồi kéo xuống chữ o giữa hàng ngang thứ hai và chữ o cuối hàng thứ ba. Từ đây anh ta kéo đường kẻ từ dưới lên xuyên qua các chữ o hàng dọc, và thay vì dừng lại ở vòng tròn thứ ba như mọi người, anh chàng kẻ tuốt ra khỏi khung, anh chàng xỏ xuyên qua ba chữ o còn lại bằng hai nét thật nhẹ nhàng và hợp lý cực kỳ... Như thế là vừa đủ bốn đường kẻ không dư tí nào! Thế mà bọn chúng tôi nghĩ không ra vì chúng tôi không dám vượt khung.
Nói tới đây, ông Tư lại mở nắp chai rượu, Tợp một ngụm nhỏ và khà một cái rõ to, ông tiếp:
- Bí quyết nằm ở cái chỗ đám già thì cho những đường kẻ của mình loay hoay trong cái hình thang vuông đó, coi nó một thứ khuôn mẫu, một thứ vòng kim cô cổ lổ, còn cái anh chàng trẻ măng kia thì dùng mũi dao nhọn của mình đâm toạt cái vòng kim cô đó, và anh ta đã thành công, đã cho bọn già này một bài học nhớ đời.
Ông Tư lại mở nắp chai rượu nhưng lần này thì bà Tư can ông đành chịu thua. Ông trầm ngâm nhìn mọi người nói một câu đầy bất ngờ:
- Phá khung, đó là bài học của những bài học trong đời tôi. Tôi cám ơn tám chữ o đó vô cùng.
Câu kết luận bất ngờ của ông Tư làm tôi thở phào. Vâng bài học phá khung là bài học lớn nhất của ông, dù ông đang vinh quang trong khuôn vàng thước ngọc. Tôi đã hiểu vì sao, tuy tuổi đã cao mà ông vẫn mải miết học, vẫn muốn làm học trò, vẫn phải đứng lên chào khi thầy vô lớp và vẫn kiên trì với những điều mới lạ. Tôi kính trọng ông và nhớ ra, tôi đã làm lao công cho nhà ông lâu hơn bất cứ nơi nào. Giờ đây khi tiếp nhận ý tưởng phá khung, tôi bỗng chợt nghĩ tới cái khung rồi từ bỏ cuộc đời làm cô giáo của mình. Tôi đã được xóa đói giảm nghèo bằng nghề lao công dạo. Và giờ đây, tôi chỉ muốn sống lại trong cái khung của mình, với những lớp học vuông vắng và bầy trẻ lao xao. Vậy là tôi phải phá cái khung lao - công - dạo này hay sao?.
Phải mất hai tuần lễ đi về ra vô cửa cái cao ốc sừng sững như vách đá này, tôi mới có dịp dừng lại ở thềm nền. Có mất cặp mắt nhìn tôi không buồn cũng không vui nhưng có vẻ ngại ngùng. Cặp mắt nhìn tôi không buồn cũng không vui nhưng có vẻ ngại ngùng. Cặp mắt đầy gân đỏ của người sửa xe đạp lề đường nổi bật lên gương mặt bóng mồ hôi và nham nhở dầu mỡ. Cặp mắt tròn ngây thơ của cháu bé hình như là con của người thợ đó. Và cặp mắt sớm mệt mỏi có hàng mi cong đã qua nhiều săm soi trao chuốt của cô bán mía thành phố. Có một lần tôi muốn làm quen, nhưng đang lưỡng lự thì có một bà già ngồi đâu đó mở cửa, sẵn đà tôi bước luôn vô nhà. Hình như có cái gì buồn buồn, hối hận xâm chiếm lấy tôi về việc có một người mở cửa để mình vô, nhất là khi tôi chợt nhớ tới một người tài xế vừa ngừng xe đã vội chạy vòng qua đầu xe mở cửa cho "ông chủ". Cái mở cửa của bà già có cái gì giống như người tài xế nọ? Tôi khép cửa kiếng lại, mọi âm thanh ồn tạp câm nín. Lớp kiếng cửa khép kín như tấm vách ngăn đôi cuộc đời của hai thế giới riêng của những người đang thả sức lập nên những tổ ấm và những thế giới bên ngoài hãy còn đầy rẫy những ưu phiền.
Điều đó làm tôi nảy ra ý nghĩ rằng, lần này tôi không đi thẳng vô thang máy, mà ngồi lại chiếc ghế dựa dán mắt vào tấm kiếng nhìn ra. Bà lão ban nãy kê miếng cây ngồi dưới tầm mắt tôi đang nhìn mông lung ra đường, nhìn vào những chai xăng - như những vị cứu tinh giúp bà kiếm sống - xếp hàng để cạnh lề, bất chợt bà quay mặt vào trong nhà nhìn ngay tôi. Đôi mắt bà lờ đờ, đuôi mắt nhăn nheo, mày rụng gần hết, trên gương mặt đầy nếp nhăng như dấu thủy triều xưa cũ trên những phiến đá vôi. Tôi có cảm giác đôi mắt ấy tò mò nhìn sâu vào căn nhà kín đáo, nhìn sâu vào tôi trách móc. Và bỗng nhiên tôi giật mình hốt hoảng. Tôi lùi lại không kềm chế nữa. Tôi la lên: "Bà ơi, bà nhìn gì dữ vậy?". Không có tiếng trả lời, cũng không có vẻ gì tỏ ra bà nghe tôi nói cả. Tôi sực nhớ ra cấu tạo của mặt kiếng này chỉ giúp người ta nhìn ra, người nhìn vô không thấy được gì ở bên trong.
Một hôm, báo chí đăng dồn dập tin tức sẽ dẹp các nơi bán xăng chợ đen, tôi mới trực nhớ đến bà lão. Tôi không chỉ nhớ đôi mắt mà nhớ cả dáng điệu lụm cụm, từ tốn của bà với anh em chúng tôi mà bà chỉ biết chung chung là bộ đội. Cử chỉ nhún nhường của bà khiến cho tôi có cảm vừa đau xót. Cảm thông vì bà đã già lại mắc vào cái nghề chợ đen, chợ đúa để kiếm sống và đau xót vì sự khúm núm của bà với chúng tôi, nhất là khi tôi về, bà hay giúp mở cửa. Không biết bà có coi chúng tôi là những người chủ như chủ cũ của ngôi nhà này không? Chao ôi! Chủ của cái cao ốc đồ sộ này là một triệu phú. Cuộc đời ông, từ lúc phát tài đã như một lãnh chúa. Tòa cao ốc 5 tầng thì có tới 3 tầng dành làm nơi ăn chơi. Vợ con trong nhà ,ai cũng có hàng tủ hình ảnh và phim quay ghi lại chi li từ cái ăn ngủ chơi bời. Nói cung, vì thừa tiền người ta tạo cớ để mà chụp mà quay... bằng cách nheo mắt méo mồm, lè lưỡi... Đó, những người chủ cũ mà bà đã biết. Còn bà, chắc chắn rằng bà không tưởng tượng nổi người nghèo như bà cũng có thể là chủ của cao ốc này? Mỗi lần tôi vào trong, bà khép cửa lại, yên phận: bên trong ấy là những chủ mới, còn bà là phía bên ngoài, phía lề đường.
Bữa đó tôi về, chủ tâm dừng lại trước cửa. Dừng lại để làm gì, tôi không rõ. Thấy bóng dáng tôi trên xe bước xuống, bà lẹ làng cầm lấy ổ khóa. Tôi cũng lẹ làng không kém giữ tay bà lại. Bàn tay bà khô cứng như một nhánh cây khô. Tôi cứ giữ yên tay bà trong tay tôi, nhìn vào mắt bà. Tôi nói: "Mai mốt cháu về, bà cứ để thây kệ cháu". Bà lão nhanh nhẹn nói lảng sang chuyện khác như không để ý đến câu nói của tôi. "Hôm nay sao anh về sớm vậy?". Tôi lại ngạc nhiên: "Sao bà lại kêu cháu bằng anh?". Bà cười từ tốn: "Ngoài Bắc người lớn vẫn gọi em, cháu bằng anh kia mà!". Hóa ra bà ấy cứ tưởng tôi là người Bắc. Tôi không cần thanh minh vì Bắc Nam cũng là bộ đội, bà đã hiểu chúng tôi như vậy là đủ rồi. Tôi chỉ sợ bà "đóng cửa kiếng lại" để tách chúng tôi và bà ra, như trước kia giữa bà và người tư sản mại bản chủ nhà này. Từ từ buông tay bà ra tôi hỏi: "Bà có nghe tin cấm bán xăng không?". Tôi tưởng bà ngạc nhiên lắm nhưng bà ấy vẫn từ tốn đáp lại: "Cám ơn anh, ở khóm cũng có kêu loa hồi hôm". Lại đến phiên tôi ngạc nhiên: "Vậy nếu không bán xăng nữa thì bà làm sao kiếm sống?" Bà chậm rãi nói và cũng chậm rãi cười: "Nghe chính phủ có giúp gạo muối đi về quê lập nghiệp, tôi cũng định xin đi đó anh à"...
Dường như ý nghĩ của bà còn nhiều bí ẩn chưa tiện nói ra... Tôi vào nhà, không khép cửa đứng nhìn ra những chai xăng. Báo vẽ tranh phê phán việc bán xăng lậu với dòng chữ "xăng nguyên chất 100%" bên cạnh một người pha xăng với dầu lửa. Bà có làm như vậy không? Một người khách dừng xe lại, bà đon đả cầm chai xăng mời mọc. Khách hất hàm hỏi: "Xăng thiệt, giả?". Bà nói luôn: "Xăng trắng đây thầy, xăng trắng đây!". Bà lấy xăng trắng ở đâu ra? Bà bán được hai lít, bán lời một lít xăng mua được một lon gạo. Nhưng thường chỉ bán được ba lít, xăng mắc quá xe cộ cũng bớt chạy. Trời nắng chang chang, bà kéo miếng cây làm ghế kê sát vào tường đụt nắng. Tôi đẩy chiếc ghế mây từ trong nhà ra cho bà. Bà đã mệt mỏi lắm, không từ chối nữa. Bà khép nép ngồi xuống, dựa nhẹ lưng, xương sống giãn lắc rắc khô khan. Bà nhìn tôi như để cảm ơn rồi thở ra: "Không nói dấu gì anh tôi lâu nay không sống bằng nghề này, may đâu khi bộ đội về, xăng khan hiếm, có người biểu tôi đứng bán giúp họ, họ trả cũng đủ sống. Họ tử tế quá, với lại mình cũng cần kiếm sống, nên tôi nhận lời. Bây giờ, còn ít xăng tôi ráng bán đến ngày hai mươi cho hết. Qua ngày hai mươi mốt chính phủ bán xăng cung cấp, có giá đàng hoàng, mình bán chợ đen coi không đặng. Ngặt có hai thằng cháu mồ côi, mẹ nó chết vì nghèo đói, bệnh tật, cha chúng thì đi học cải tạo chưa về, nó ghiền ma túy chỉ sống như cái xác không hồn".
Bà nói chậm rãi, thái độ quen chấp nhận tỏ ra không thù hằn, tức giận, cũng không than van phiền trách. Bà lấy gói cơm nguội ra nhai với cá khô bạc má... Bà nhai tự nhiên như là ăn trầu, xỉa thuốc vậy.
Trời chuyển mưa, và cơn mưa đột ngột ập xuống. Cả dãy hành lang ướt đẫm nước mưa. Mọi người buôn bán đều nép sát chân tường, lấy vải nhựa quấn kín. Bà già với tay đóng cửa kiếng lại không cho mưa tạt vô nhà. Bà thu mình trong chiếc ghế mây kê nép sát tường, đầu hơi tựa vào thành ghế và ngủ thiếp.
Mấy bữa sau tôi quyết định đi tìm bí ẩn dấu kín của bà. Tôi phải đi lén theo chân bà. Mỗi lần bà ngó ngoái tôi lại phải lẫn tránh. Cuối cùng tôi đi sâu vào trong hẻm. Cũng là lần đầu tiên tôi vào ngõ hẻm sâu hun hút này. Con đường đi tráng xi măng cũng là con đường thoát nước. Mùi tanh tưởi bốc ra từ dòng nước tái xanh ấy. Con đường không có ánh sáng và bóng cây. Chỉ có căn phố tối om om hoặc nhợt nhạt ánh đèn nêông giữa ban ngày, nhiều trẻ em xanh xao, khẳng khiu như bóng đen cây cột điện. Con trai tóc dài cũng ở đây, lấp ló trong cái hẻm nhỏ rộng vừa một người đi. Một cảm giác rờn rợn chạy dọc xương sống tôi: ở đây có vẻ bí mật đến đáng sợ.
Theo bà lão quanh qua quẹo lại mấy con đường càng ngày càng ngập nước và hôi hám. Đến một đoạn nữa người ta bắc những tấm ván làm cầu. Rồi cuối cùng tôi đến một xóm nhà không thể gọi gì khác hơn là: "ổ chuột". Những cây chống xiêu vẹo đỡ không nổi cả một đống "ổ chuột" ken dày, chen lấn xô đẩy nhau trên dòng sông Thị Nghè nước đen như màu mực. Không ngờ, giữa trung tâm thành phố con người "văn minh" bao nhiêu thì ở đây cuộc sống thấp kém bấy nhiêu, gần như đã lùi về thời trung cổ. Không có điện, nước, những bộ xương chưa khô này đã sống ra sao với vũng nước ô nhiễm cực kỳ dơ bẩn kia?
Tôi lần từng bước, cố bám theo bóng dáng bà lão. Buổi chiều, cái nắng xiên khoai soi qua kẽ hở của những mảnh giấy thùng sữa, những tấm thiếc sét rỉ màu đen sì, những tấm bao bố rách che cửa, che nắng làm phơi bày ra nhiều sự thật đau lòng. Lũ trẻ lóc nhóc bò lê sàn, đứa tong teo như con chàng hiu, đứa bụng to như bụng ễnh ương, nhiều cặp mắt trẻ con thau láu như mắt cú ló ra từ một lỗ chiếu rách. Vài đứa trẻ bộ xương khô đét không cất cái đầu to đầy bướu như đầu một con trâu nghé. Hai ống chân xanh dờn của ai thò ra ngay lối đi như người đã chết...
Một nhóm "trẻ" tóc dài tua tủa xuống tận vai đang nằm sóng soài, mắt lim dim, nước dãi thò ra khóe miệng. Chúng đã say ma túy đang thả hồn phiêu diêu. Mấy cái ống chích còn còn vương vãi dưới chân. Một đứa đang trong cao điểm ghiền nói làm xàm, bò lê cái nhìn ghẻ chóc, càu nhàu, gầm gừ, như một con chó dại.
Vẫn chưa phải là tận cùng của địa ngục, tôi đến kịp khi bà vừa chui vào một ống cống xi măng nằm tênh hênh mí bờ sông và sàn nhà. Trời sẫm tối, trong ống cống leo két một ngọn đèn dầu chao nghiêng trước gió. Ngoài bà lão ra, một chú mèo mun ốm tong teo đang uể oải vươn vai đón chủ về. Ba tấm sạp tre kê khít nhau vừa đủ ba người nằm co quắp, tôi đoán thế song không thấy hai người kia đâu...
Bà lão đã thấy tôi khi quay ra. Bà hơi lúng túng nhưng lấy lại được giọng từ tốn như cũ:
- à anh vô tới tận đây sao? Anh ngồi chơi
Tôi khom ngồi bên mép cống, ngay đầu tấm vạt tre. Bà lão tủm tỉm cười vệ sự có mặt đột ngột nầy của tôi.
- Chắc anh đi công tác vùng nầy?
- Dạ cũng đi qua vậy thôi. Tôi đáp cho có.
- Bác ở đây lâu mau rồi?
- Cũng mới đây, trước khi cách mạng về ít lâu
- Còn trước nữa?
- Trước nữa bạ đâu ở đó anh ạ cũng toàn là gầm cầu với vỉa hè kể từ ngày thằng con cả tôi vô lính năm 1969 tới bây giờ.
- Bác ở đây với ai?
- Hai thằng cháu ghiền ma tuý
- Chúng đi đâu rồi?
Bà lão vừa nói chuyện vừa vo một nắm gạo bắc lên chiếc cà ràng đã bể mất phân nửa, rồi xắt rau muống cho vào như nấu cám heo. Tôi không thấy bà nấu thức ăn ở đâu ngoài xâu khô cá bổi treo cạnh nồi "cơm". Bà vẫn không trả lời câu hỏi sau cùng của tôi.
Lát sau khi vừa nhắc cơm xuống, hai thằng cháu của bà cũng vừa về. Đứa lớn tên là Cần còn đứa nhỏ tên là Mẫn. Đứa lớn kè đứa nhỏ. Cả hai thằng đều ướt như chuột lột tóc dài dán sát ót, từ chúng bốc ra mùi hôi hám của nước đường mương - Không kịp khom lưng chui vào ống cống đã bị vấp ngã, hai đứa đè lên nhau. Không đứa nào trách móc đứa nào, cả hai lồm cồm bò dậy. Tuồng như chúng đã té nhào như vậy nhiều lần lắm rồi. Đứa lớn, thằng anh mở mắt thau lau nhìn tôi. Nó đã gặp tôi lúc nãy. Nhưng nó chỉ thều thào trong họng, không rõ nó nói gì.
Nét mặt bà lão trở nên cằn cỗi hơn hơn nhiều so với khi bà ngồi bán xăng. Bà không còn thư thả nữa. Bà nhìn thằng lớn lắp bắp: "Nó tới cơn rồi đó anh ạ, ôi thật là khốn nạn...!" Chỉ nói được vậy với giọng từ tốn một cách gắng gượng. Rồi bà không kềm được nữa, hai bàn tay bưng mặt, bà nấc lên, đôi vai khẳng khiu run rẩy.
Thằng cháu nhỏ như không thấy việc đó, nó bổ tới vồ lấy nồi "cơm" và lánh sang một góc, lấy tay quào được một búng, đưa vô họng nhai ngồm ngoàm. Nó làm tôi nhớ tới nhiều đứa trẻ khác, húp ngon lành chỗ cơm thừa canh cặn trong các quán ăn.
Còn thằng lớn, mắt vẫn thau láu nhưng hình như không còn thấy gì nữa nằm bất động.
Tôi thấy hai tai lùng bùng, đầu nhức như búa bổ. Tôi quay gót trở ra như chạy trốn.
Bà và chúng tôi đã có mối quan hệ gần guĩ hơn mặc dù tấm cửa kiếng vô tình vẫn ngăn chúng tôi ra làm hai. Càng gần tới ngày chấm dứt bán xăng chợ đen, tự nhiên anh em trong nhà ai cũng cảm thấy thương bà. Mấy bữa nay, ít ra, sự quenthân với những ngườn ngay trước cửa cũng làm chúng tối yên lòng rằng: ở ngôi nhà này, chúng tôi đã có chỗ dựa nhân tâm. Cái nhân tâm đã lọt được vào nhà và sống với chúng tôi. Điều đó khác xa với các sanh hoạt thường nhật của Sài Gòn: "Đèn nhà ai nấy rạng", hai nhà sát vách nhau nhà này khóc đám ma, nhà kia thản nhiên cười vui như ngày hội.
Có một cán bộ cấp trên khó tính đến thăm nhà của chúng tôi, ông không chịu được khi thấy trước cơ quan có cả một cái chợ nhỏ và có khi người bán người mua choán cả lối vào. Lại nữa, khi ông cần vào gặp chúng tôi, có bà lão này hay hạch sách: "Ông vào gặp ai? Anh ấy, đi rồi..." Ông bực mình nói: "Các cậu phải dẹp cái chợ trời đó đi chớ, với lại sao lại để công việc cơ quan cho người ngoài biết?". Ông khó tính nhưng lại chịu nghe đầu đuôi câu chuyện. NGhe xong ông nói "Hoàn cảnh kiếm sống của bà con mình cực khổ quá, thôi thì tùy các cậu, ăn ở thế nào bảo vệ tốt cơ quan là được.."
Cứ mỗi buổi chúng tôi đi làm về, ai cũng cúi chào bà như người trong nhà. Bà luôn luôn cười tươi để đáp lại. Kế đó, thế nào bà cũng kể một sự kiến gì xảy ra lúc chúng tôi vắng nhà. "Bữa nay có người tìm anh đó anh Nguyễn ạ. Mấy ông điện nước có lại đòi tiền, tôi nói nhà này là giải phóng, không tiền bạc gì đâu".
"Lâu quá sao các anh không đem rác xuống đổ, à mà mấy anh ăn cơm tập thể, có phải như mình đâu mà rác với rưởi". Có bữa thì vui nhưng có hôm câu chuyện lại quan trọng và căng thẳng: "Các anh coi chừng cái đồng hồ đó. Nó mới giựt cái đồng hồ của anh bộ đội ngay đây. Tội nghiệp gia đình mới cho... tụi ma túy tới cơn ghiền nó có thể giết người đấy anh ạ"
Mỗi chiều trước khi về nhà ở Phú Nhuận, bà già đem hết chai, thùng đựng xăng vô buồng đồng chí bảo vệ, để về một góc. Sáng lại đem ra bày bán. Anh sửa xe đạp, cô em bán mía cũng gởi một đống đồ đạc không biết gồm những thí gì trong đó. Những việc làm này đều không có quy ước, chỉ làm theo lòng tin. Nhưng chưa có mất mát nào xảy ra.
Đêm mười chín, sáng lại là ngày cuối cùng bán xăng, có người đứng trước cửa dòm vô nhà. Ban đêm, bên trong thắp đèn sáng nên người ở ngoài nhìn qua lớp kiếng vẫn thấy rõ người, ngược lại, từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy bóng đen. Cái bóng đen đứng lù lù, thỉnh thoảng xiêu vẹo rồi khuỵu xuống. Một lát lại thấy hai bàn tay xương xẩu ngón dài thượt bám lấy mặt kiếng kéo cái bóng đen dậy. Và đôi bàn tay nắm chặt lại đập cửa thình thình. Cái mặt người dán vào kiếng, mồm há hốc như kêu cứu nhưng chúng tôi không nghe được tiếng. Đồng chí bảo vệ mở cửa. Cánh cửa bật mạnh ra làm cái bóng đen mất đà ngã chúi xuống đồng thời với tiếng khò khè lí nhí tràn vô nhà.
Tôi mở đèn ngoài chạy ra. Một cái xác hôi hám, chân bê bết máu, mặt trầy một đường ở màng tang, đang nằm sóng soài, mặt úp xuống nền xi măng, mũi thở khò khè trông thảm hại. Đồng chí bảo vệ xốc thằng Mẫn dậy, lắc mạnh nó:
- Trời ơi, mầy say rượu hả mậy, say gì mà tàn mạt vậy nè!
Nhưng không ai ngửi thấy mùi rượu cả. Thằng Mẫn ngồi dựa lưng vô tay đồng chí bảo vệ đầu gục xuống, tóc dài tận ót và lòa xòa phủ trán, như một tàn binh ngụy lẩn trốn trong rừng sâu vừa mới bị bắt, miệng rõ dãi nhểu nhão. Một lát nó từ từ mở mắt ra, hai con mắt thau láu mà tôi đã gặp bỗng trở nên dữ tợn, long sòng sọc nhìn chúng tôi rồi bất thần xô té đồng chí bảo vệ, phóng càn vào nơi để xăng, chồm tới ôm thùng xăng vào lòng rồi đâu đầu chạy trở ra. Nó bị chận ngay cửa, té bò xuống, nhưng vẫn ôm chặt thùng xăng nói phều phào:
- Nội, nội biểu em lấy xăn dùm nội mà... Buông em ra, xăng của nội em, em lấy chớ có ăn cắp của ai đâu..
Rồi nó van lơn: "Em lạy mấy anh, mấy anh cho em lấy xăng rồi mai em trả, sáng mai em trả liền mà"
Nhưng đồng chí bảo vệ đã khéo léo lấy được thùng xăng. Nó cúi rạp mình van lơn vẫn với bao nhiều lời lẽ ấy. Không ai nghe, nó thất vọng nhào tới, hút vào chúng tôi, cào cấu tứ tung rồi lại nhào té trườn mình dưới vỉa hè như con chó đang bị lên cơn điên hành hạ.
Mấy người đi đường xúm lại:
- Nó lên cơn ghiền ma túy đó. Kêu bộ đội lại bắt nó đi. Để đây lát nữa nó giết người đó.
Người khác lại chen vào
- Một thùng xăng đổi một liều. Bà ngoại nó gần chết cũng vì nó đa
Tôi vỡ lẽ ra. Ghiền ma túy đáng ghê tởm thế này đây và sực nhớ đến lời của chính bà: "Nó ghiền rồi nó không kể gì đâu anh ạ". Người ta hãy còn bu quanh nó la ó, chưởi rủa, cười cợt cho đến khi nó ngất xỉu.
Đêm đó tôi không thể nào ngủ được. Thoáng nhớ một cuốn sách nói trị được bịnh ghiền ma túy, tôi lục khắp cả tủ tìm nhưng không thấy đâu cả. Tôi nghĩ lại đến bà mẹ đau khổ của - một thứ đau khổ thành thói quen thật đáng giận - tôi lại nghĩ đến việc bà đi xây dựng vùng kinh tế mới với hai đứa cháu ghiền. Ai sẽ lao động nuôi ai? Và bao lâu nữa thì bà không còn làm lụng gì nữa được? lúc tột đỉnh của sự gắng gượng kiếm sống, bà có giãy gịua la thét chửi kẻ thù hay là cứ từ tốn như vậy? (à mà bà có kẻ thù không? Bà biết căm thù không?)
Tôi ngủ mê man lúc nào không biết. Có điều lạ là sao tôi thấy chuyến công tác vùng kinh tế mới của tôi ai sắp xếp khéo léo đến mức là tôi có mặt một cách dễ dàng như từ trên trời rơi xuống Tháp Mười, một vùng chiến khu mà tôi may mắn được sống qua. Vùng Tân Hòa Đông. Mùa này, nước bắt đầu rút nhưng ngập lụt vẫn còn. Đồng bào từ Sài Gòn về đây mấy ngàn người, cất nhà vét kinh, xuồng ghe xuôi ngược. Mấy cây đào lộn hột đã rụng lá, trơ cành. ở đây, trong số người về, có một ông già Việt kiều Campuchia rất giỏi nghề châm cứu, chỉ cần ông ông châm ba lần là bịnh nhân hết ghiền ma túy. Ông ở ven kinh. Bến nhà ông xuồng đậu bít một khúc kinh. Tôi ghé vào xem thử thì gặp thằng Mẫn đang nằm thiu thiu, ông già se se cây kim ghim trong da làm cho nó nhíu mày. Châm cứu xong tôi hỏi nó: "Bà nội bây giờ nhà ở xóm nào, có trồng tỉa được gì không?". Còn nón tôi hỏi nó còn thấy thèm, thấy nhớ cái thứ khét khét mô hồn đó không? Còn thằng Cần em nó đâu sao không thấy?. Tôi cứ hỏi, nó cứ làm thinh không thèm ừ hử gì hết. Tôi tức quá hét lên: "Mầy điếc hả, mầy câm hả..."
Mấy đồng chí ngủ chung trong phòng lay tôi dậy, bật đèn sáng choang. Tôi dụi mắt mới biết mình chiêm bao. Nhìn đồng hồ đã thấy năm giờ, tôi dậy chuẩn bị đi công tác thật sự. Mở cửa kiếng ra, ngoài hiên phố chưa có ai đến kể cả bà già bán xăng. Hôm nay là ngày bán xăng "bán xăng" cuối cùng trong cuộc đời sắp hết của bà. Nếu bà đi lập nghiệp, dù là rất muộn màng, tôi tin rằng cuộc sống mới mẻ, không khí trong lành của vùng thôn quê sẽ giúp bà sống lại những ngày cuối cuộc đời để quên bớt cuộc sống bon chen giẫm đạp lên nhau mà bà là người bị xã hội cũ hất qua bên lề....
Mấy bữa sau tôi trở về, đồng chí bảo vệ nói lại là bà già có gởi lời từ giã, bà cám ơn anh em tử tế quá, không làm gì khó dễ với người nghèo. Và bà gởi lại tặng tôi một cái ống cao su hút xăng với một cái thùng nhựa đựng xăng. Âu cũng là món quà đặc biệt mà bà đã gởi gắm với chúng tôi như đã gửi một tâm sự? Số là khi tôi hỏi bà tại sao lại làm nghề này, bà đã nói: "Làm nghề này không cần vốn liếng gì cả, một thùng xăng, mấy cái chai có thể xin có thể lượm trong đống rác...". Từ đó, tôi đinh ninh là bà đã đi xa Sài Gòn, ở vùng Chơn Thành chẳng hạn, nên đi về miệt đó hễ thấy có khu nhà cất ngay hàng thẳng lối có bà lão lụm cụm xen trong những người Sài Gòn cầm cuốc, mặc đồ bộ hoặc tóc quăn là tôi đảo mắt tìm bà, tìm hai anh em thằng Mẫn và thằng Cần nhưng thấy bà đâu cả.
Tình cờ một buổi sáng, vừa đến nắm ổ khóa cửa, tôi thấy một người gánh gánh đang đứng trước mặt tôi, bên kia cửa kiếng. Người ấy nhìn vào trong tủm tỉm cười. Tôi đẩy cửa nhận ra ngay bà già bán xăng đang gánh gánh chè nóng nghi ngút khói. Bà vẫn đang cười nhìn tôi, cặp mắt chớp chớp mấy cái xúc động.
- Anh khỏe không? Nay tôi đổi sang nghề bán chè đậu đỏ, Mời anh ăn một ly.
Bà mời thật tình nhưng giọng thì pha chút khôi hài liến thoáng.
Tôi nếm vị ngọt của đường mía trên môi, nhìn kỹ và cảm thấy bà thay đổi nhiều, không còn rách rưới và khúm núm với mấy chai xăng. Hỏi sao bà không đi vùng kinh tế mới, bà nói tính đi, tính lại vẫn còn kẹt... đành ở lại chuyển qua nghề bán chè, lại mua được đường nữa, thấy dễ chịu hơn nghề bán xăng chợ đen.
Tôi hỏi: "Bà vẫn ở chỗ cũ?"
- Không anh ạ, chỗ đó giải tỏa rồi.
- Sao?
Tôi ngạc nhiên vì đã có ấn tượng xấu về chữ "giải tỏa" thời ngụy
Nhưng bà cũng lẹ làng không kém
- Tôi nói cách mạng mình "giải tỏa" hay giải phóng đó, đưa dân nghèo mình đi sản xuất ấy mà. Ai ở lại thành phố thì nhà nước cấp nhà... Già này - tôi.... cũng được 1 căn đó anh.
- Vậy ra bà đã về nhà mới rồi
- Đúng đó anh, tôi đã về nhà mới rồi, thật là như giấc chiêm bao. Bữa nào anh tạt qua đó ghé chơi, căn phố lầu ngay chỗ đường cái rẽ vô.
- Mấy đứa cháu bà vẫn ở đấy?
- Chỉ còn 1 thằng, thằng nhỏ, nó ở với tôi, coi nhà và bán báo, ngày kiếm vài trăm đủ nuôi miệng.
Tôi lại hỏi:
- Còn thằng Mẫn?
Bà tần ngần một lúc rồi nói ôn tồn
- Nó chết từ cái bữa đập cửa nhà anh. Con người ta có số cả rồi. Phải chi nó chịu vô nhà thương thì đâu đến nỗi. Nó trốn ra và tiêm nhằm thuốc ma túy giả. Tội nghiệp, nó vừa chết thì ba nó đi học cải tạo cũng vừa về...
Lần nào về quê, bụng bảo dạ, phải thăm cậu Ba trước - chính tôi cũng không biết tại sao nữa. Má tôi nói, cậu Hai con hy sinh, giờ con còn cậu Ba. Nhưng với tôi, cậu Ba hấp dẫn tôi bởi nhiều điều khá trừu tượng, đôi khi còn khó hiểu nữa...
Lần đó hợp tác hóa ào ào, tôi về Giồng Trôm dự lễ ra mắt một hợp tác xã trọng điểm. Ghé ngang nhà, đã thấy ba tôi và cậu ngồi nhâm nhi rượu đế với khô cá khoai. Cậu Ba nói: "Mày là nhà báo, mày thấy cái vụ hợp tác như thế nào?" Tôi vốn chưa biết hợp tác là gì, nhưng nhận thấy miền Bắc đánh bại không lực Mỹ, chắc chắn là phải nhờ hợp tác. Tôi nói đại: "Cậu lo chi cho mệt, trung ương tính dứt khoát là đúng". Cậu nói: "Tao sáu chục, còn mày mới ba lăm, tao có thể dốt hơn mày, nhưng kinh nghiệm thì dứt khoát hơn mày. Tao nói đại: Làm ăn kiểu này, thua". Tôi nóng mặt: Tôi đang đi tuyên truyền, cậu là đảng viên kỳ cựu, vậy mà cậu nói thua, chắc chắn là cậu thuộc thành phần bất mãn. Nghĩ vậy nhưng tôi không dám nói ra, sợ cậu buồn. Tuy nhiên khi nghe tôi trích chỉ thị đọc cho cậu nghe, để thay lời giải thích, thì cậu chỉ nghe mà không nói gì. Lúc đó, khuôn mặt cậu như ông La Hán trầm tư. Nhiều lớp nhăn kéo đến giăng lên trán cậu những cơn sóng xô lệch vầng trán vốn cao và rộng của cậu. Những làn sóng làm cho vầng trán cậu hẹp lại và thấp xuống.
Cậu quay sang mẹ tôi, giọng tếu dễ sợ: "Đó chị thấy hông: trói gà không chặt như thằng cu Ròm - Ròm là biệt hiệu của tôi hồi nhỏ - chưa biết cầm cày cầm cuốc, chưa phân biệt nỗi cây tầm cấy với cây tầm điền mà nhà nước lại cho nó đi viết báo nông nghiệp hợp tác xã, có hại không chớ. Bởi vậy, nó làm sao có nổi một ý kiến riêng, ngoài những nghị quyết...". Rồi cậu bảo tôi: "Thôi, uống mày".
Cậu bắt tôi uống hết một ly xây chừng rồi kể sang chuyện uống rượu. Cậu nói: "Mày uống rượu sao khè như rắn hổ vậy. Phải tập tư cách uống rượu. Uống như không uống, không uống như uống. Uống không say, không nói bậy, không cà kê, không lợi dụng rượu làm bậy mà cũng không nên để rượu xỏ mũi. Muốn vậy phải rèn luyện qua nhiều thời kỳ. Gian khổ lắm: đầu tiên là cho chó ăn chè, kế đến là lấy cầu
làm tay vịn, kế nữa là rượu vào lời ra. Khi đắc đạo rượu, nghĩa là uống rượu không ói, qua cầu như kẻ mộng du không bao giờ té, và đặc biệt là càng uống say càng im lặng. Im lặng là tiếng nói của những thằng uống rượu có tư cách". "Vậy chắc anh Ba là ông đạo rượu có tư cách chắc?". - Má tôi xé phay con gà, từ dưới bếp nói với lên. Cậu Ba cười khà khà: "Tại bữa nay có thằng này về dạy nó chơi, chớ em dư hiểu thằng anh của em mà, càng uống rượu càng tử tế, càng say càng im lặng. Hổng tin em hỏi má bầy trẻ ở nhà coi". Má tôi cười: "ừ, say mèm rồi thì im lặng, ngáy khò khò, chớ còn nói năng gì". Cậu nói: "Em làm lộ tẩy hết". Rồi cậu cười khà khà và sau đó là kể chuyện vui.
Cậu kể một bữa cậu lên chợ thăm người bạn. Gần tới thị xã còn cách chừng tám trăm mét nữa mới tới nhà thì thấy chiếc xe du lịch mới tinh chạy ra. Người bạn của cậu ngồi trên xe thấy cậu từ xa nhưng chỉ đưa hay tay lên chào, hô to một tiếng gì không rõ, rồi chiếc xe vù đi, để lại một lớp bụi mù. Cậu nói: "Chả chào tao liên tưởng tới con ếch bị chặt đầu, nó đưa hai tay lên đỡ lưỡi dao giống như chào vĩnh biệt".
Tôi lạnh xương sống. Thỉnh thoảng, trong cơn khề khà, cậu ba tôi hay nói những điều nghe ghê ghê.
Ông tôi có nhiều người con, nhưng rốt lại còn hai trai: cậu Hai và cậu Ba. Cậu Hai đánh tây nổi tiếng gan dạ. Cậu cùng vài đồng đội chờ đêm ba mươi, mặc xì líp đen, lọ chảo trộn dầu dừa bôi kín người, đột nhập đồn Tây. Cứ dùng hai tay mà rờ như người mù, đụng thằng nào có quần áo là đâm ẹc vô bụng. Tụi nó có súng như không, làm sao bắn trúng được khi những người du kích và bóng đêm đều cùng một màu đen? Cậu Hai tôi còn nổi tiếng trừ gian, kể cả Tây và Việt gian. Cũng chỉ với dao găm, mã tấu, cậu xử rất êm mỗi lần hàng chục thằng Tây và Việt gian. Má tôi rùng mình, nổi gai ốc mỗi khi kể cái lần má tôi cầm giáo đi chỉa dừa rụng, lỡ chỉa nhằm một hố chôn Tây, khi rút ngọn giáo ra khỏi lớp đất mỏng, má tôi nghe hơi xì ra theo.
Cậu Hai chết trong một trận đánh năm 1947, để lại hai người con gái cho cậu Ba tôi nuôi. Những người con lớn lên lại đi đánh Mỹ. Con các chị giống ông ngoại (chúng kêu cậu Ba tôi bằng ông ngoại thay vì bằng ông Ba). Hai chục năm sau chiến tranh chúng được trao lại chiếc mã tấu của ông ngoại chúng từng giết Tây, còn nguyên máu đông khô. Có lần, một đứa anh đem lau dầu chiếc mã tấu để chống sét. Nhưng vừa nhểu giọt dầu lửa vào lưỡi dao thì máu tươi lại chảy ra. Hoảng quá, chúng gói lưỡi dao mã tấu lại, từ đó đến nay không dám động đến.
Gần đây, khi nghe chuyện này, tự nhiên tôi bảo hãy cúng cô hồn đi, thế nào trong số người bị chết dưới lưỡi mã tấu này cũng có người bị oan. Đó là lẽ thường trong chiến tranh, nhưng đó cũng là nỗi đau của chiến tranh. Cũng chẳng rõ tôi đã cảm văn Chiêu hồn thập loại chúng sinh của cụ Nguyễn Du hồi nào: buổi chiến trận mạng người như rác - Phận đã đành đạn lạc tên rơi - Lập lòe ngọn lửa ma trơi - Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Nếu cậu Ba còn sống, chắc chắn tôi sẽ được nghe những lời giải thích của cậu về cậu Hai, về cái mã tấu. Nhưng cậu Ba tôi cũng đã trở thành người thiên cổ cách đây chừng sáu, bảy năm, vào lúc mà thời bao cấp chưa đi còn thời đổi mới thì cũng chưa đến kịp. Buổi đó làng tôi bị trùm lên không khí âu lo nặng nề hơn cả khốn khó, hơn cả sự ngưng trệ trong đời sống và làm ăn. Giữa lúc đó, tôi được tin ba tôi nhắc lên: Cậu Ba tôi cấm khẩu. Cậu im như thóc, ai hỏi gì cũng chỉ gật đầu hoặc lắc đầu... Cậu Ba chẳng những cấm khẩu mà cũng cấm túc luôn, ở rịt trong nhà. Ba tôi nói: "ảnh không đi đâu hết, không nói gì hết". Tôi thắc mắc: "Nhưng phải có chuyện gì, phải có nguyên cớ gì chớ". Ba tôi nói rằng: "Không có nhân thì làm sao có quả, nhưng ở đời đâu phải lúc nào cũng nhân nào quả nấy. Có khi quả còn ngược lại nhân, biết đâu mà lần?"
Cậu Ba tôi đi kháng chiến chống Pháp xong thì về làng tiếp tục sống hợp pháp hoạt động bí mật. Bề ngoài cậu tỏ vẻ thuận thảo với làng nước của ông Diệm nhưng bên trong là hoạt động cách mạng. Cũng như mọi người, phải xanh vỏ đỏ lòng, chờ chủ trương. Khi có chủ trương đồng khởi thì cậu xăn tay áo nhào vô tiếp sức với lớp trẻ. Rồi hết mười lăm năm chiến tranh, khi thì ở xã, khi lên huyện, với cái tài nói tếu, giấu trong những lời đùa cợt nhưng ngụ ý sâu sắc, cậu Ba trở thành bậc lão niên được kính trọng. Tuy nhiên về chuyện đảng tịch, chuyện nội bộ có điều gì không ổn, tiếng nói của cậu mất trọng lượng làm cho cậu không tếu như trước đây nữa.
Lần tôi về đám cưới thằng em, trông cậu hơi khang khác. Cậu mặc bà ba, che dù, ngồi trong khoang thuyền uống rượu, ưu tư. Lạ thật. Tôi nghĩ là phải chụp cho cậu tấm hình với con cháu và riêng cho cậu một tấm để... dành.
Khi nghe cậu cấm khẩu, tôi về, lội vô nhà cậu thăm. Nhà vẫn vây, cất tạm trên nền nhà xưa, trống hoác. Cậu pha trà ra hiệu cho tôi uống, không nói tiếng nào, chỉ cười, mặt rạng lên nét vui. Có ba tôi, cậu cũng không mở miệng. Rồi bà con đến (hôm đó là ngày giỗ), cậu cũng không mở miệng. Tất cả sinh lực chỉ là sự rạng ngời nét vui trên khuôn mặt.
Một hôm, ba tôi lên Sài Gòn mang theo cái tin, cậu Ba tôi đã hóa ra người thiên cổ rồi. Tất cả xong xuôi rồi, tôi không phải về nữa. Chỉ có điều chưa yên lòng là chưa có tấm ảnh nào để thờ, ba tôi muốn tôi tìm những kiểu ảnh mà tôi đã chụp. Nhưng cũng thật là lạ, tôi tìm mãi, tìm mãi, hàng trăm cuốn phim âm bản, hàng trăm tấm hình đã làm, hoàn toàn không có hình cậu Ba. Tôi thầm khấn vái, mong vong linh cậu giúp tôi tìm tấm hình. Nhưg hình như tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng cười khà khà của cậu đâu đó. Còn hình thì không tìm thấy. Thật giống y như vài năm trước, tôi chụp hình cho đứa cháu gái thật đẹp, thật dễ thương, rồi nó bị bệnh hiểm nghèo, nó chết, tôi được tin, tìm mãi, tìm mãi tấm hình, rốt cuộc chẳng thấy đâu.
Ba tôi nói, ông đã biết nguyên nhân sự cấm khẩu rồi. Ông kể: "Hôm đám tang, tao lục hết sổ sách ghi chép của ảnh coi có gì lạ không. Không có gì. Cuối cùng, tao phát hiện ra cái nguyên nhân nó nằm trên cây xiên nhà". tôi kinh ngạc: "Ba nói sao, trên cây xiên nhà?". Ba tôi nói rõ hơn: 'Tao phát hiện có dấu chữ nho viết bằng phấn trên xiên nhà, tao chắc là ảnh. Vì ở làng, ảnh loại giỏi nho. Tao bắc ghế lên, đeo kiếng và đọc. Hóa ra đó là năm chữ: "Tăng phì yên hắc phật". Ba tôi giải thích: "Mấy chữ này không rõ xuất xứ, chắc là của ảnh đặt ra, có nghĩa là ông sư mà phát mập ra thì Phật sẽ bị tèm lem vì khói đèn". Rồi ba tôi đọc luôn mấy câu văn vần do ông tạm dịch: "Thầy chùa ăn mập ú - Phật tổ mặt ném đen - Phật không ăn đồ cúng - Phật chỉ hưởng khói đèn!..."
Như vậy, theo ba tôi, nguyên nhân cậu Ba tôi cấm khẩu tới hơi thở cuối cùng là vị bọn tham nhũng, chính bọn này đã làm cho lem ố ý tưởng cách mạng, làm cho cậu Ba buồn, thấy có nói năng cũng chẳng ích gì, thà làm thinh mà tốt hơn.
Chẳng lẽ cậu Ba tôi mà suy nghĩ và hành động dễ dãi như vậy sao. Tôi không thể nào tin được điều này. Nhưng phải hiểu thế nào cho đúng về cậu thì tôi đành chịu. Mãi cho đến nay...
"Tình cờ, đọc trên báo, tao mới biết mầy vẫn đeo nghề viết và chụp hình, tao rất mừng. Tao viết vội mấy chữ này thăm mầy nhờ tòa soạn báo chuyển dùm. Nếu mầy chưa quên tao thì hãy về thăm tao, tao đang rất cô đơn. Địa chỉ của tao: ấp Bàu Le, xã Tân Khai".
Bức thư ngắn như một bức điện, lại viết trên giấy gói trà, chữ run rẩy, nét mờ, nét tỏ, làm tôi bàng hoàng. Tôi nhận ra ngay tuồng chữ quen thuộc của Nguyễn Chiến, người đồng nghiệp nhiếp ảnh mười lăm năm không gặp, cũng không được tin tức gì chính thức, ngoài cái tin anh bị thương nặng, bị tù trở về, không còn ở trong quân đội nữa.
Nguyễn Chiến đến với tôi trước hết bằng tình đồng đội, sau đó mới kết thành bạn tâm giao. Chúng tôi gặp nhau trong một trận đánh phục kích thời đồng khởi. Chiến là phóng viên nhiếp ảnh chuyên nghiệp của tỉnh đội đã có tác phẩm treo trong triển lãm. Còn tôi là phóng viên viết báo, chụp ảnh nghiệp dư. Trong lưới đạn dày đặc, Chiến vẫn bình tĩnh bấm từng kiểu ảnh một cách thận trọng. Cứ mỗi lần Chiến bấm máy là mỗi lần làm tôi thêm mất tự tin vào các kiểu ảnh mình chụp. Và chúng tôi trở thành bạn thân của nhau trong trường hợp lòng tự ái của tôi không bị tổn thương. Chiến không tỏ ý xem thường tôi. Ngược lại, trong cái đêm hai đứa hì hục trước máy phóng ảnh, Chiến đã kín đáo giúp đỡ tôi. Bằng kinh nghiệm che chắn và cắt cúp, Chiến đã làm cho nhiều bức ảnh của tôi có bố cục khá hơn so với âm bản và nhờ đó nội dung ảnh tốt hơn. Tất nhiên, khỏi phải khen ngợi những bức ảnh của Chiến. Đó là những bức ảnh mà tôi chưa dám mơ ước tới. Với ống kính trung bình của chiếc máy ảnh chiến lợi phẩm, nhà nhiếp ảnh chiến sĩ trẻ đã ghi được hàng trăm ảnh chiến đấu, sinh hoạt và chân dung con người. Mãi nhiều năm sau này tôi còn thấy những bức ảnh đó trên báo chí, trong các nhà bảo tàng. Thành công đặc biệt của Chiến là ảnh chân dung. Bức ảnh "bộ đội đầu tóc" miêu tả một người phụ nữ đấu tranh thắng lợi trở về. Đầu tóc chị bị xổ rối tung. Ngực áo bị địch xé toạc một mảng. Chiếc nón lá méo mó trên tay. Bản thân chị hơi nghiên, khuôn mặt lấm tấm mồ hôi hướng thẳng vào ống kính, mắt sáng rực, miệng mỉm cười kiêu hãnh. Sau lưng chị là ánh đuốc lá dừa lung linh mờ ảo. Trong suốt cuộc kháng chiến, tôi chưa bắt gặp bức chân dung nào có bản sao đậm đà về người phụ nữ miền Nam như vậy. Tuy nhiên đó không phải là bức chân dung thành công duy nhất của Nguyễn Chiến. Hầu như tất cả những nhân vật tiêu biểu trong phong trào đồng khởi ở quê tôi đều được Nguyễn Chiến đưa vào khung hình. Người nữ chỉ huy bộ đội đầu tiên, người nông dân sáng chế súng ngựa trời, người giao liên đưa cán bộ qua sông, người chiến sĩ du kích với bàn chông đinh...
Tất cả mọi người, qua ống kính của anh đều trở thành hình tượng nghệ thuật và được lưu truyền đến ngày nay.
Với tâm hồn nghệ sĩ và chiến sĩ, Nguyễn Chiến nghiễm nhiên trở thành một nhân vật được nhiều người chú ý một thời. Khi chúng tôi xa nhau, tôi vẫn đinh ninh trong lòng, một ngày nào đó sẽ gặp lại Chiến với tầm vóc lớn lao hơn.
Đâu ngờ Nguyễn Chiến lại ở Bàu Le, một xóm nhỏ hẻo lánh không có tên trong bản đồ, cái căn cứ bé bỏng, chỉ có những người đồng hương với chúng tôi họa chăng mới còn nhớ. Vậy mà đó là địa chỉ của anh, con người tưởng như không bao giờ biết dừng lại. Chẳng lẽ Nguyễn Chiến gặp những điều nghiệt ngã? Không. Tôi chưa bao giờ tin như thế. Đối với một chiến sĩ bản lĩnh và dày dạn như Nguyễn Chiến, mọi sự sẽ không đến nỗi nào. Nhưng tại sao Nguyễn Chiến mở mở đầu bức thư vội vàng ấy cho tôi bằng hai chữ "tình cờ", tại sao anh không viết được đến hết diện tích trang giấy gói trà? Tại sao...
Nỗi nghi ngờ cộm lên trong lòng tôi. Tôi cần phải thu xếp công việc chóng vánh để đi về Bàu Le, cách thành phố ba trăm cây số. Thật ra, thu xếp công việc trong lúc này không dễ dàng gì. Vì vậy mà mãi hai tháng sau, tôi mới lên đường.
Lên xe, xuống đò dọc, lội bộ suốt một tiếng đồng hồ trên đường cộ vắng ngắt trong mùa khô, trải qua lắm vất vả tôi mới phăng ra được con đường mòn về xóm Bàu Le. Xưa "qua lộ Đông Dương" vắt giò lên cổ mà chạy đến hụt hơi mới đến được cái lối mòn xâm xấp nước này. Cái bàu hoang mùa nước rộng ra mênh mông, sen trắng sen hồng tỏa ngát hương. Chim le le chọn nơi đây làm giang sơn, mỗi lần có tiếng chân người lạ đến chúng chỉ dáo dác một lúc rồi tiếp tục lặn ngụp rỉa mồi như những đàn vịt con. Bên rìa Bàu Le chỉ có một mái nhà lá lụp xụp tối om, một ngọn đèn dầu khi mờ khi tỏ trong gió đồng, leo lét quạnh hiu như đèn ma. Thế mà chúng tôi mừng rơn vì đó là tín hiệu bình yên của trạm giao liên. Đây chỉ là trạm bản lề ở vùng "meo", ven lộ, nơi gặp nhau để giao nhận khách qua đường.
Tôi và Nguyễn Chiến đã qua lại Bàu Le không biết bao nhiêu lần, nhưng chưa bao giờ nhận rõ được quanh cảnh thật của xóm này. Tất cả các chuyến đi đều vội vã vào đầu hôm hoặc nửa khuya. Người quen duy nhất ở đây là chú tư Năng một lão nông vạm vỡ, râu rậm, lúc nào cũng ở trần trùng trục. Chú Tư là cha của một tổ du kích canh đường dây. Đứa con gái, cô út Mến thì làm giao liên công khai, chỉ đưa khách đi hợp pháp ban ngày. Ban đêm, cô phụ với mấy anh cô lo tiếp tế cho khách. Ngụm nước mưa mát rượi trong mấy phút dừng chân chờ đổi trực là của cô. Trong bóng trăng mờ mờ, nước da con gái trắng bàng bạc, hàm răng màu sữa bắp non và mái tóc dài xức dầu dừa óng ánh như một con suối nhỏ. Khách đường dây là con trai chỉ cần qua đây một lần, ai cũng nhớ hoài hình ảnh cô gái yêu kiều, mộc mạc, con gái chú Tư Năng. Nhưng chẳng có ai có cái diễm phúc được dừng lại lâu ở Bàu Le, trừ một người duy nhất là Nguyễn Chiến. Anh bị địch phục kích khi băng qua lộ, bắp chân bị trúng đạn, phải em lại Bàu Le đợi đến đêm hôm sau mới đưa về vùng giải phóng. Nguyễn Chiến dùng dao găm cắt phăng cái mảng thịt bắp chân đã ngả màu xanh tái còn dính trên da, để làm yên lòng gia đình c hú tư Năng. Cô út Mến bặm môi, cắn răng như chính da thịt mình bị xẻo. Chú Tư Năng tròn mắt thán phục, nhìn người con trai dũng cảm ấy. Cô út Mến thoa mật ong ruồi vào vết thương Nguyễn Chiến, băng bó và đưa xuống hầm bí mật. Đêm hôm sau, anh em vào khiêng Nguyễn Chiến đi, chú Tư Năng chỉ nói một câu: "Mày đã để máu thịt lại thì phải làm rể tao". út Mến đứng dựa cột, miệng cắn chặt chéo khăn rằn, không nói lời nào. Vài ngày sau đã thấy út Mến đi công khai đến trạm quân y, tay xách một giỏ chim le le...
Tôi đi lững thững trên con đường mòn, nay chỉ còn trong ký ức, càng đi càng thấy nó xa lạ. Mười lăm năm rồi cảnh quan biến đổi quá nhiều. Dấu vết cái bàu xưa chỉ còn là vuông ruộng hơi trũng xuống. Hai mái nhà ven rìa bàu biến mất nhường chổ cho cả một xóm mới mọc lên. Mặc dù tôi cố tìm khuôn mặt rậm râu của chú Tư Năng, khuôn mặt người Bàu Le duy nhất mà tôi quen, nhưng hầu như những người chạm mặt tôi trên đường đều không có nét gì của quá khứ. Bà con thành thị về đây lập nghiệp khá đông, họ lập ra xã mới gọi là Tân Khai, hỏi Nguyễn Chiến - Bàu Le, ai cũng lắc đầu không biết. Thấy tôi vẫn tìm kiếm, một người đi đường động lòng dừng lại ngỏ ý muốn giúp đỡ. Đó là cụ già tóc bạc trắng, chống gậy, đội nón lá, có vẻ là người từ xa đến.
- Chú muốn hỏi ai?
- Dạ thưa... Tôi nói rõ là tìm nhà Nguyễn Chiến, người bạn trước là bộ đội nay về ở Bàu Le. Ông cụ lắc đầu tỏ vẻ khó hiểu.
- Chú đó làm nghề gì, có tên gì khác nữa không?
- Dạ có. Tôi nhớ ra Nguyễn Chiến còn có tên là Tư Hình, vì anh chụp hình và thứ tư
Ông già suy nghĩ hồi lâu rồi trả lời.
- Tư Hình thì tôi không biết. Nhưng thợ nhuộm thì tôi biết. Trước đây có chú bộ đội chụp hình tên là Thợ Nhuộm, rể của Tư Năng, là người quen tôi. ở đây chỉ có người đó thôi.
- Đúng rồi! Tôi reo lên. Đúng là Thợ Nhuộm rồi.
Chỉ có vậy mà tôi quên bẵng đi. Trước đây, dân miệt bên này họ quen gọi Nguyễn Chiến là thợ Nhuộm vì ngó thấy anh nhúng giấy vào nước và nhuộm thành hình. Nguyễn Chiến vốn thích cái tên nôm na này hơn cả tên bí danh dùng trong kháng chiến. Tôi nhớ, đôi lúc anh còn tự xưng "Tôi là Thợ Nhuộm đây". Và mọi người đã quen cái tên nghề nghiệp của anh, "chú Thợ Nhuộm ơi, anh Thợ Nhuộm ơi, chụp cho tôi một tấm hình..."
- Vậy chú cứ lại cái nhà kia, hỏi cô chủ tịch thì biết
Ông cụ chỉ nói vậy rồi lọc cọc chống gậy đi tiếp.
Tôi đến trụ sở ủy ban mới bt chủ tịch xã Tân Khai chính là út Mến
út Mến nhận ra tôi, nhưng tôi thì còn ngỡ ngàng vì chị đã đổi khác nhiều so với út Mến ngày nào. Mái tóc dày như một dòng suối đen đã bới gọn sau gáy, khuôn mặt rám nắng, đôi mắt đen ẩn sâu. Chỉ còn hàm răng hạt bắp trắng ngà là của út Mến ngày xưa.
Về đến sân nhà, chỉ thấy cháu bé gái chừng sáu tuổi đang vãi thóc cho gà ăn, tôi sốt ruột hỏi út Mến:
- Nguyễn Chiến đâu?
Chờ cho tôi vào nhà xong, út Mến lẳng lặng nhìn lên bàn thờ đặt tựa bên vách lá. Bàn thờ vẫn còn ghi ngút khói hương, ngọn đèn trứng vịt leo lét nhạt nhòa. Giọng út Mến buồn buồn:
- Anh về muộn quá rồi. ảnh đã.... đi cách đây hai tháng.
út Mến nói như đọc, giấu mọi xúc động trong giọng nói cố làm ra vẻ tự nhiên. Trên khuôn mặt kềm chế nét răn rúm xúc động, đôi mắt út Mến mở to không chớp.
Tôi đã biết tất cả
- Tôi nhận được thư anh ấy - Tôi nói như tạ tội - Nhưng cố chờ tới kỳ nghỉ phép để về chơi lâu. Không ngờ...
- Lúc viết thư cho anh - giọng út Mến bắt đầu run - ảnh còn làm việc cho Ty Văn hóa và Thông tin tỉnh, chuẩn bị đi Kompông Chơnăng. ảnh đi có một tuần lễ để chụp hình cho nhà bảo tàng. ảnh đi Campuchia hoài anh à. Ngờ đâu, đúng vào cái năm đó bên đó bình yên, ảnh lại bị tụi bắn lén. Viên đạn trúng vào sọ não. Xớt qua thôi, vết thương chỉ bằng mút đũa nhưng đã cướp hết của ảnh cả đầu óc. Anh trở về thành một người câm, và thường bị co giật cho tới lúc ảnh chết.
út Mến nói những lời đầy cố gắng, suôn sẻ trong nước mắt lã chã.
- Anh biết không, ảnh không qua được cái tuổi bốn chín. Thôi, anh ngồi đây, em đi nấu nước.
út Mến đi như chạy để giấu tiếng nấc. Còn lại một mình, tôi đứng trơ ra như cây keo đã rụng hết lá ở rìa sân. Đốt một nét hương tưởng nhớ bạn, tôi mới nhận ra trên bàn thờ trống trải đến hiu quạnh. Bạn tôi khôgn có ảnh chân dung, phía sau bàn thờ chỉ là khoảng vách dán giấy hoa cũ kỹ. Lẽ nào Nguyễn Chiến không để lại co út Mến một tấm hình nào, một tấm phim nào. Vô lý quá. Tôi nhìn quanh quất tìm chân dung bạn tôi, nhưng chỉ thấy toàn những bức ảnh triển lãm. Những hình ảnh về cuộc chiến tranh, ảnh phong cảnh và rất nhiều ảnh chân dung mà tôi đã biết và chưa biết được phóng to, khung lớn, treo chật cả hai tấm vách lá. Trên bàn thờ, một chồng anbum dày cộm ở góc trong cùng.
Tôi đem những tập anbum xuống chiếc bàn và xem lướt qua những trang hình Nguyễn Chiến còn để lại. ảnh về cuộc đồng khởi được dán ngay những trang đầu. Kế đó là các bức ảnh chụp về sinh hoạt trong vùng giải phóng cách đây hai mươi năm. Cứ như thế, các trang ảnh nối tiếp nhau ghi nhận các giai đoạn của cuộc kháng chiến: cuộc tấn công vào thị xã năm Mậu Thân rồi ngày ba mưới tháng tư năm 1975. Tập anbum sau cùng dành cho đề tài chiến trường biên giới và đất nước Campuchia hồi sinh. Vẫn tới phong độ ngày nào, Nguyễn Chiến rất dè xẻn trong khai thác chất liệu và kịp thời ghi lại phút giây nóng bỏng nhất của các sự kiện. Khung hình nào cũng trong sáng, giản dị và chân thật. Điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là toàn bộ các bức ảnh từ tập đầu tới tập cuối đều bóng ngời nước thuốc, chứng tỏ đây là những tập ảnh vừa được phóng lại.
Nhưng hình ảnh đọng lại trong tôi nhiều nhất chính là những bức chân dung. Chiến vẫn tiếp tục phong cách thể hiện chân dung đầy nghiêm túc, công phu của anh từ ngày đồng khởi. Anh không bỏ sót một chân dung đồng đội nào, trong đó có cả tôi do anh chụp trong lần quen nhau đầu tiên. Lẽ tất nhiên những bức ảnh chân dung đẹp nhất, Chiến dành cho những người có chiến công, những người lãnh đạo phong trào. "Chị Ba", là bức ảnh chụp một người lãnh đạo phong trào địa phương, trông oai vệ như một vị tướng, chỉ với tấm áo bà ba mộc mạc và chiếc khăn rằn. Anh đã sử dụng các mảng tối sáng chọn lọc làm cho đường nét trên khuôn mặt đạt hiệu quả tương phản cao độ, làm bật lên chủ đề bức ảnh, chủ đề đấu tranh. Trong số tác phẩm đạt tới trình độ nghệ thuật ấy có chân dung một em bé bị bom napan đang cắn răng, nước mắt lưng tròng. Khung hình chỉ có vậy, hoàn toàn không có lửa cháy nhưng tôi cảm giác như em bé đang rát đau dữ dội. Nhìn những chân dung nữ du kích của Nguyễn Chiến, tôi bỗng nhớ tới điều mơ ước của anh, chụp chân dung út Mến, cô giao liên Bàu Le đã là vợ anh. Tuy là con gái quê mùa nhưng út Mến là một thôn nữ điển hình - Nguyễn Chiến tâm sự - cô có cái duyên thầm - chỉ bộc lộ ra cử chỉ, đặc biệt là cái lung linh của đôi mắt. Vừa làm giao liên công khai vừa đấu tranh chính trị, đôi mắt dịu dàng mà cương nghị của út Mến đã giúp cô làm chủ được tình thế. Làm sao bỏ hết chi tiết thừa để tập trung thể hiện đôi mắt thôn nữ ấy trước kẻ thù. Một lần, Nguyễn Chiến nghe út Mến kể lại một cuộc đấu tranh, nhưng đó là một lần duy nhất không sao "chộp" kịp vào khung hình.
Vậy là cho tới nay, chân dung đôi mắt ấy chưa có trong những tập album của Nguyễn Chiến. Lòng tôi trữu nặng, khi lật đến trang cuối của tập ảnh cuối cùng. Không có cả hình ảnh chân dung của chú Tư Năng, của nu người thân khác mà Nguyễn Chiến ước ao được chụp. Tất nhiên chân dung của chính anh, cũng không hề có.
Tôi ngồi trước những tập ảnh, lòng ngổn ngang những bâng khuâng mơ hồ. út mến và cháu gái cũng đã trở lên, chúng tôi ngồi quanh bàn.
- Anh Thảo uống trà đi. út Mến dịu dàng.
Tôi hỏi:
- Cháu tên gì?
- Dạ thưa cháu là Thu Ba
- Thu Ba. Tôi lặp lại cái tên dịu dàng của cháu gái.
- Cháu cũng thứ ba? Tôi nhìn út Mến.
- Đúng là cháu thứ ba anh Thảo à. Tôi còn cháu Thu Hai nữa, sinh năm sáu mươi hai.
út Mết kể:
- Thu Hai lớn hơn Thu Ba tám tuổi. Hồi tôi vô cứ thăm anh Chiến, gặp nhau, tôi chưa có Thu Hai. Cháu sinh ra năm sau đó, đến cuối năm bảy hai, lúc tụi nó bình định ác liệt, cháu vừa tròn mười tuổi. Lúc này, xóm Bàu Le đã bị "khai quang", dân trong vườn bị dồn ra nơi đây thành ấp chiến lược. Cha tôi và mấy anh bị biệt kích vây diệt gọn trong một đêm. Tôi đi công tác trở về thành mồ côi cha mẹ cho tới bây giờ. Cái nền nhà cũ của cha tôi trở thành nền bót, rào gai vây kín không còn đường đi nữa. Bà con bị gom dân xáp lại đấu tranh xin xác cha, anh tôi và đùm bọc tôi. Tôi ở lại làm dân ấp chiến lược, sau đó móc ráp được anh em mình rồi tham gia đấu tranh tới ngày giải phóng.
- Cháu Thu Hai đâu rồi?
- Trời ơi! Cháu Thu Hai đâu còn nữa mà anh hỏi. Cháu hy sinh năm bảy hai.
"Cháu Thu Hai đã hy sinh". Quả thật tôi không còn tin vào tai tôi nữa.
- Cháu Thu Hai làm gì hy sinh?
- Cháu làm giao liên. Cả nhà này làm nghề giao liên mà anh. Cháu cầu thư của tôi, lúc đó tôi là trưởng ban cán sự phụ nữ Bàu Le. Tụi bình định nông thôn, đánh phá cơ sở tơi bời hết, không còn cả giao liên. Cháu Thu Hai mười tuổi phải đi liên lạc cho mẹ mang thư vô cứ. Tụi bình định bắt được biểu phải chỉ căn cứ xã. Thu Hai lắc đầu từ chối và cắn răng chịu đòn. Chúng giam thu Hai trong trụ sở bọn bình định. Nửa đêm cháu chui rào trốn ra bị trúng lựu đạn gài của chúng.
- Cháu Thu Hai chết khi ảnh đang đi chụp hình chiến dịch đánh địch phản kích - út Mến bị nghẹn nói, phải ngừng một hồi rất lâu sau mới tiếp tục một cách khó nhọc - ba tháng sau tôi mới tìm được nơi đóng quân của ban chỉ huy mặt trận. Nghe tin con, đang nằm đong đưa trên võng dã chiến, anh ngồi phắt dậy nhìn trân trối vào mắt tôi, mặt tái xám lại, tay ảnh run lên không sao cuốn nổi điếu thuốc, môi anh mấp máy định nói nhưng sau đó mím chặt lại. ảnh cứ làm thinh như thế từ chiều đến đêm. Đồng đội đến chia buồn ảnh cũng chỉ gật đầu.
Thật khuya, khi tôi mệt thiếp đi trên võng, mới nghe cử động lụp cụp của anh. Anh mở thùng đại liên đựng phim lúc nào cũng mang theo bên mình, soi đèn pin tìm kiếm rất lâu, mỗi lúc cử chỉ của anh thêm rối ren, tuyệt vọng. Rồi tôi nghe anh thổn thức. Anh lén tôi, khóc thầm một mình.
Về sau này tôi mới biết, trong đêm đó, hành động của ảnh hoàn toàn vô nghĩa. Chỉ vì muốn tìm lại hình ảnh con đã mất mà anh quên bẵng đi, chính ảnh đã cắt vụn cuốn phim chụp mẹ con tôi từ cái lần cuối cùng ảnh về Bàu Le. Lần đó, địch đang triển khai bình định, chúng gần như phong tỏa chặt vùng xung quanh xóm. Vậy mà ảnh cũng núp ló, kỳ cạch chụp hình cho Thu Hai và tôi. ảnh thức đêm tráng phim và làm ảnh nhưng không biết sao ảnh không vừa ý và cắt vụn ra tất cả. Thu Hai khóc đòi xem, ảnh không cho. Anh hứa với Thu Hai sẽ chụp hình con lần sau. Nhưng, đường dây qua lệ bị đứt, ấp Bàu Le bị chiếm, anh không còn dịp nào trở lại. Từ đó, kể cả sau ngày hòa bình, ảnh đi chụp đâu đâu, chớ khi gặp người trong gia đình ảnh không bao giờ nghĩ tới việc chụp hình nữa.
- Nghĩ lại cũng tủi anh à - út Mết nói tới đây, nước mắt lưng tròng - Vợ chồng hiểu nhau, nhưng riêng cái chuyện chụp hình này thì ảnh không cho tôi hiểu biết điều gì hết. ảnh không nghe ý kiến tôi, gần như bắt buộc tôi phải nghe ảnh mà thôi. Bởi vậy tôi đâu dám nhờ ảnh chụp hình cho em của Thu Hai là Thu Ba đây. Cháu càng lớn lên càng giống chị như hai giọt nước. Tôi mốn ảnh chụp hình Thu Ba, ảnh chỉ hứa là sẽ nhờ người khác chụp hay hơn. Nhưng tôi lo nhất là hình của chính ảnh. ảnh vào sanh, ra tử mà nhà thì không có tấm hình nào để phòng khi gặp chuyện rủi ro.... Có lần tôi đánh bạo nói ra thì ảnh chỉ cười trừ...
Lần đó, coi như chuyện chụp hình... tạm gác qua một bên. Kế đến là giải phóng miền Nam, là hòa bình, không còn bom đạn, chuyện đó coi như không còn bức thiết nữa. Đâu ngờ... chính cái lúc này.... ảnh bị thương!
Nói tới đây, út Mến quay mặt chỗ khác, kéo khăn lau nước mắt. Hồi lâu sau, chị nói tiếp một cách khó nhọc:
- Đâu ngờ... ảnh đi chụp hình khắp người ta, mà rốt cuộc, một cái hình riêng cho mình thì không có. Kể cả tấm hình gắn giấy tùy thân cũng lạc mất luôn...
Nghe út Mến kể lòng tôi đau nhói. Thật không thể nghờ được sự trống vắng một bức chân dung của người đã khuất lại gây nên bao nỗi niềm trắc ẩn đến ngần này. Càng nghe út Mến, nỗi ân hận càng giày vò tôi. Là đồng nghiệp với nhau, trước đây có biết bao cơ hội để chúng tôi bấm máy cho nhau. Nhưng không biết sao, lúc cầm máy ảnh, ống kính của chúng tôi chỉ hướng về phía trước. Phía trước có sức hút kỳ diệu đến nỗi chẳng ai nghĩ đến việc quay ngược ống kính về phía chân dung mình cả. Trong hoàn cảnh hiện nay, nói như thế có cường điệu quá chăng? Nhưng quả là có thật, trong những năm sáu mươi, ít ai nghĩ tới việc bấm máy cho nhau những bức ảnh kỷ niệm. Vả chăng, đối với Nguyễn chiến việc chụp chân dung anh gần như là một việc không cần thiết, một việc cấm kỵ.
Cho đến bây giời, sự tình đã như vậy, chính tôi cũng ngạc nhiên, không hiểu sau lại có thể có trờng hợp đặc biệt này. Tôi không tin vào trí nhớ mình nữa, trái lại, tôi còn hy vọng mơ hồ rằng, trong những kiểu ảnh bất chợt vô tình nào đó của tôi chụp, có thể có dính hình ảnh của anh. Có thể lắm, nhất là những cảnh chụp từ phía sau, chụp trong khi Nguyễn Chiến hướng ống kính về phía trước. Tuy lơ mơ hy vọng, tôi cũng đã hứa sẽ cố tìm cho út Mến và cháu Thu Ba bức chân dung bạn tôi. Lời hứa cốt để làm yên lòng những người đang sống trong đó có tôi.
út Mến cũng tươi tỉnh hơn, chị đề nghị chỉ chỉ cần tấm hình nào cho có dạng để nhờ họa sĩ vẽ thêm, gắn với tấm hình trong thẻ Đảng của chị. Cái ước mơ nho nhỏ đó cũng đủ làm cho mắt chị sáng lên, miệng cười tươi làm tôi liên tưởng tới út Mến xinh đẹp thời con gái.
Từ đó, câu chuyện chúng tôi đỡ nặng nề hơn lúc đầu. Mỗi người một ý về nét mặt, về tâm tính của Nguyễn Chiến. Tất cả những ý kiến góp lại làm cho tôi như cảm nhận rõ rệt chân dung người bạn, thứ chân dung trừu tượng vô hình nhưng rõ nét lồng lộng trong trí não.
Chỉ trừ một người ngồi chung bàn không góp lời nào vào cái chân dung tưởng tượng đó, người đó là cháu Thu Ba. Cháu ngồi tựa ngực vào mép bàn, mắt dán vào cái tập ảnh, chuyện trò nho nhỏ với những bức ảnh. Từng trag ảnh được lật tới, lật lui, mái tóc bom bê mải miết sà vào đó, cái mũi xinh xinh cứ chúi vào các bức ảnh. Ngắm Thu Ba xem ảnh Nguyễn Chiến một cách chăm chú như vậy, tôi biết chắc một điều cháu đã từng một mình trò chuyện với các bức ảnh ấy nhiều ần qua trí tưởng tượng trẻ thơ.
Em bé nào cũng thích những bức ảnh sáng rõ và tươi vui. Thu Ba cũng thế. Cháu vứ vuốt ve một tấm ảnh mới nhất và được phóng to, đầy một trang album. Đó là bức ảnh chụp theo kiểu lưu niệm, có nhiều người đứng hàng ngang tươi cười, phía sau là toàn cảnh dinh Độc Lập rực rỡ cờ hoa sau ngày ba mươi tháng tư năm 1975.
- Má ơi má. Trong tấm hình này có ba con đây nè má.
Thu Ba dựa sát vào mẹ, đẩy tập album ngay trước mặt út Mến chỉ vào tấm ảnh phóng to. ý kiến của cháu làm cho mọi người chồm tới bức ảnh. Người vừa sửng sốt xen với nỗi vui mừng là tôi. Chỉ cần một chấm nhỏ bằng đầu đũa trong khung hình cỡ lớn ấy thôi, tôi cũng đủ sức chụp lại và phóng ra một bức chân dung như đã từng mơ ước từ nãy giờ. Tôi chồm tới, vồ lấy trang hình và dán mắt vào đó để tìm khuôn mặt quen thuộc Nguyễn Chiến. Mắt tôi căng ra, lướt qua các khuôn mặt đang tươi cười trong ngày đại thắng. Mọi khuôn mặt đều rực lên trong ánh sáng hơi chếch, tóc lấp lánh đường viền thật đẹp. nhưng không có khuôn mặt chữ điền, không có đôi mắt kính cận và mái tóc bồng. Hoàn toàn không có ai là Nguyễn Chiến trong tấm ảnh chụp trước dinh Độc Lập đó cả. Tôi lắc đầu thất vọng. Nhưng cử chỉ này chỉ làm cho thái độ Thu Ba càng kiên quyết hơn. Cháu giật mạnh bức ảnh về phía mình, lại chăm chú nhìn vào tấm ảnh, giọng cháu sôi nổi lạ thường.
- Có mà. Dứt khoát là có ba cháu mà!
Thái độ kiên quyết của Thu Ba làm cho cả hai người lớn đều mất lòng tin vào mắt mình.
út Mến có vẻ bán tín bán nghi. Chị hỏi con:
- Ba con đâu, con chỉ coi?
Tôi cũng thế, tôi vuốt tóc cháu:
- Mắt cháu tỏ, cháu chỉ chú coi, ba cháu chỗ nào?
Thu Ba ngước nhìn mọi người, rồi nhìn tôi tỏ vẻ khó hiểu. Sau đó, cháu trỏ vào một góc ngoài khung hình:
- Đây ba cháu đứng đây, đứng chỗ góc này nè.
Chưa ai hiểu được ý Thu Ba muốn nói gì, ít nhất là trong vài giây. Cháu bé bị hỏi dồn, lúng túng cực độ, mặt tái nhợt, nước mắt sắp ứa ra. Cháu cố gắng giải thích:
- Ba cháu đứng đây thật mà. Ba phải đứng chỗ này mới chụp được mấy chú trong hình
- Sao con biết ba con phải đứng đây? Giọng út Mến bắt đầu run. Sao con biết, con nói đi
- Con biết mà - Thu Ba nhìn mẹ, cặp mắt van lơn - Con hỏi sao không có hình ba, ba nói có chứ, trong tất cả các tấm hình này đều có ba đứng gần đó. Ba nói, ba phải đứng gần đó mới chụp hình được.
Thu Ba nói ấp úng khó nhọc, ngón tay trỏ rối rít chỉ vào những chỗ ngoài khung hình, trên bàn, trên những khoảng trắng của trang album. Nói xong, mắt cháu sáng long lanh như ngọc, chờ đợi ý kiến chúng tôi.
út Mến tròn mắt nhìn con gái, nước mắt trào ra. Còn tôi, tôi cũng kịp nhận ra cái hồn của câu nói bé thơ vừa rồi. Đó không phải là ý nghĩ của cháu Thu Ba mà chính là của Nguyễn Chiến muốn nói với con, nói với mọi người. Nỗi buâng khuâng bỗng chốc tiêu tan trong tôi. Thì ra đâu có thiếu vắng chân dung của bạn tôi trong cuộc đời này. Nguyễn Chiến vẫn có mặt bên cạnh tất cả chân dung của mọi người.
Chỉ đơn giản vậy thôi mà trước đó tôi không hề nghĩ ra.
Sân chùa Vĩnh Nghiêm tràn ngập khói hương, người đông như kiến cỏ. Người giàu và nghèo, người sang và người hèn, người đi cúng chùa và người dạo chơi. Tất cả những người rất khác nhau ấy đều có một điểm giống nhau: ai cũng muốn mua ít nhất là một cặp chim sắc ô, chim sẻ, chim sâu để phóng sinh, cầu phước, cầu may chơi; thả một chú chim nho nhỏ tội nghiệp, biết đâu đó là con gái của vua Thủy Tề cải dạng, thế nào cũng được tiền chuộc là một viên kim cương hoặc một viên ngọc ước...
Tôi thuộc loại người già hưu trí vô công rỗi nghề đi chùa chẳng để cầu cạnh bất cứ điều gì ngoài cầu... cái thư giãn. Nhờ vô tư và kiên trì, hết ngày rằm này sang ngày rằm khác, kéo dài cả mấy năm mà quen được nhiều người, biết được nhiều chuyện, tuy không chắc chắn là chính xác trăm phần trăm, nhưng tôi tin là thú vị, nên muốn kể chuyện góp vui cùng bạn đọc. Câu chuyện mà tôi kể là kết quả của óc quan sát kết hợp với trí tưởng tượng cho nên không thể là mẩu chuyện người tốt việc tốt thật một trăm phần trăm để dành cho khen thưởng, cũng không phải là tấm gương cho mọi người học tập; đây chỉ là câu chuyện mà tôi kể là vì không thể không kể mà thôi... Đó là chuyện về một người tàn tật, người thích nhái giọng Tây gọi là người xicàque, tên do tôi đặt là Trai, nếu có sự kiện tụng về quyền sử dụng nhà ở hoặc đất ở thì đó là sự trùng tên ngẫu nhiên ngoài ý muốn tác giả. Tôi nói để phòng xa vậy thôi chứ anh chàng Trai mà tôi sắp kể ra đây hoàn toàn không có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu, anh đang là vô sản, tứ cố vô thân, hiểu theo nghĩa xưa; lại nữa, anh chàng hiền khô, chí thú làm ăn, tuy sống trên kinh nước đen kề bên xã hội thượng lưu đầy cám dỗ nhưng điều này thì tôi biết chắc - anh chàng, cho tới ngày hôm nay, là hoàn toàn vô nhiễm.
Trai có một chân bị teo, lặc lìa lặc lọi, nhưng lại giỏi nghề bẫy chim và bán chim nổi tiếng ở các chùa. Trời cho anh chàng một chân còn lại tuy có teo chút ít nhưng lại hết sức linh động được cộng với đôi tay khỏe khoắn và vững chãi khéo léo tuyệt vời. Trông cử chỉ thành thạo của Trai, chúng ta có thể đoán mà không sợ nhằm rằng, chàng làm dân bẫy chim, bán chim nhà nghề có thâm niên. Da đen sạm vì nắng gió, chiếc nón sờn bạc màu, bộ quần áo gin cũ kỹ và đôi giày há mồm, bẹt gót chứng minh phần nào điều vừa nói.
Gia tài ngó thấy được của Trai là chiếc xe rất lạ, chắc chắn là phải do anh tự chế, bởi nó không giống bất cứ chiếc xe nào cùng chức năng có mặt trên thị trường thế giới. Chiếc xe vừa lăn lại vừa có thể quay tay được kia vừa là đôi chân, vừa là đôi cánh của anh trong việc làm ăn kiếm sống. Nếu ai để ý sẽ thấy Trai thường xuất hiện rất sớm trên chiếc xe quay từ trong con hẻm ngoằn ngoèo ẩm thấp và có mùi hôi khó chịu từ phía bờ kinh đen Nhiêu Lộc. Khi ra đến gần đường Nguyễn Văn Trỗi, con hẻm cao dần lên hàng thước tây, chiếc xe quay trở thành xe lăn. Hai cánh tay khỏe mạnh của Trai lăn cật lực, hai bánh xe nhỏ xíu lên dốc, vượt qua hết thảy đất đá, ổ gà, ổ voi chướng ngại. Trên xe là ba chiếc lồng kẽm đầy ắp chim sâu, chim sẻ, chim sắt líu ríu, hấp dẫn những người thích phóng sinh chim.
Hôm đó là rằm tháng bảy, người đi chùa cúng cô hồn đông nghẹt. Những người đang sống tạm trên cõi trần này, ai cũng nể trọng kẻ khuất mày khuất mặt, nhất là những hồn ma vất vưởng, đói khát, lạnh lẽo nơi xó chợ đầu đường. Họ muốn bố thí, chia sẻ, thậm chí lo lót những thần linh, những cô hồn, cầu mong họ đừng quậy phá cuộc sống ngắn ngủi của người trần gian.
Tuy mới hai mươi tuổi đầu nhưng Trai rành tâm lý thiếu tự tin của những người sính phóng sinh này lắm. Người nào thiếu đức tin vào củ khoai thì thích tin vào thần linh và thay vì làm việc, họ thích cầu cạnh những sức mạnh siêu nhiên. Những người đó mua chim không biết tiếc tiền.
Nhưng còn cặp trai gái này thì thuộc loại nào? Đó là cặp tình nhân trẻ trung đang tiến đến những chiếc lồng chim đầy hấp dẫn của Trai. Họ đẹp đôi hết biết, trìu mến nhìn những con chim ríu rít trong lồng của Trai. Anh quan sát xác định và bắt đầu thả "chim mồi" của mình ra
- Anh chị mua cả lồng đi, hai chục con chim sắc ô, chim này em nuôi khôn lanh lắm. Nó bay cao, bay xa, và nếu anh chị muốn, nó còn biết trở lại... chúc anh chị hạnh phúc nữa.
Hai người đang yêu nhau nhìn nụ cười hồn nhiên của Trai bằng ánh mắt cảm tình. Hóa ra đây là những người vô tư, trọng nghĩa khinh tài, Trai tin chắc chắn như vậy. Chiếc lồng chim được bán cái vèo.
Trai thích bán chim cho những người đang yêu, họ rộng rãi, không bao giờ mặc cả trả giá lâu lắc như những bà nạ dòng. Họ cũng không đặt cược nhiều trong canh bạc phóng sinh; thậm chí đôi khi họ thả chim vì thấy nó bị nhốt, thương quá.
Trai đã làm nghề bẫy chim và bán chim phóng sinh này từ hồi anh mười tuổi, nay đã ngót mười năm rồi. Hồi đó, trong một đêm mưa gió hãi hùng, chú bé sốt bại liệt mất cha, người cha gầy gò, rách rưới, già nua, kéo lê đứa con trai bảy tuổi liệt một chân trên tấm ván có gắn bánh xe gỗ. Một tổ chức từ thiện đem chú về nuôi trong trung tâm phục hồi chức năng dành cho trẻ mồ côi. Nơi đây, chú bé dần dần cứng cáp nhờ cái nạng và những thanh kẹp chân bị liệt. Chú bé bẩm sinh nhiều nam tính bắt đầu lấy sự nghịch ngợm làm nguồn vui. Chú rủ các bạn mạnh tay khỏe chân bò lên sân thượng trong giờ trưa bẫy chim sẻ bằng mồi cơm nguội, lấy cắp từ bữa ăn trưa. Bẫy chim là những chiếc hộp đơn sơ, vậy mà cũng lừa được những chú chim sẻ háo ăn, non dạ. Những chú sẻ đáng thương ấy bị vặt lông và thui bằng những chiếc lá sakê khô, rụng kín mặt sân sau của Trung tâm phục hồi chức năng trẻ bại liệt. Mùi thịt chim chín thơm lừng, nứt mũi. Mấy chú nhỏ còn đang tính kế đột kích vào nhà ăn lấy cắp muối bọt để mở tiệc kết giao. Nhưng, chưa kịp thưởng thức thành quả tuyệt chiêu của mình thì các chú bé tội nghiệp bị xơ Nga phát hiện, thế là kế hoạch bị gãy, tiếc ơi là tiếc.
Từ đó, trong trại phục hồi chức năng, Trai chỉ nuôi một mộng ước duy nhất, được sổ lồng và được bẫy chim sẻ nướng ăn cho sướng miệng. Đêm nọ, nhân lúc các xơ tíu tít bận lo lễ giáng sinh, bé Trai và chúng bạn lên sân thượng bắt được một bầy chim hàng chục con đang ngủ trong mái ngói nhà bên. Cả bọn gom góp lá sa kê, lá bàng, nổi lửa nướng chim để đầy một tấm lá chuối tươi. Lần này, do chuẩn bị kế hoạch chu đáo, cả bọn chấm muối nhai rau ráu ngon lành từng con chim vàng rượm. Chao ôi! ngon như bữa réveillons đêm giáng sinh mà chúng thấy trong phim đèn chiếu. Trai và chúng bạn đang ngấu nghiến ăn cho đã thèm thì giật mình thức dậy, mới biết mọi chuyện vừa xảy ra trong cơn mơ thật tội nghiệp.
Thế là Trai vì thèm thịt chim sẻ mà trốn khỏi trung tâm. May mắn thay, khi lang thang dọc bờ kinh nước đen thui, chú bé ngó thấy một ông lão râu tóc bạc phơ giống như một ông tiên mắc đọa đang thổi cơm chiều trên cái mũi ghe bầu đã mục nát, nằm ụ. Ông lão cho chú ăn cơm và dạy chú bé nghề bẫy chim mà ông gọi là chim hàng hóa, nghĩa là bẫy để bán chớ đầu óc Trai những từ ngữ lạ thường mà không cần hỏi lại coi Trai có hiểu được chưa, như các bảo mẫu ở trung tâm phục hồi chức năng.
Theo lời dạy của ông Bảy, chú bé xin mớ cạc tông cũ và một cây vụn cắm dùi, xây túp lều của mình trên bờ kinh còn một khoảng trống nhỏ bằng cái nia. Trai thực hiện ngay kế hoạch do ông Bảy vạch ra, bán lồng chim đầu tiên, góp nhóp tiền dành dụm, làm những lồng chim chắc chắn hơn để có thể bẫy tất cả các loài chim sẻ, chim sắt, chim sâu, đồng dộc, áo dà. Từ đó, cuộc đời chú bé Trai lật sang trang mới, chú bé sống rất siêng năng, tằn tiện không hút sách, chơi bời không chửi thề, ăn cắp vặt nên được bà con lối xóm nể trọng và thương mến. tiếng lành đồn xa, một hôm từ phía xóm nhà sàn ven kinh xuất hiện cô con gái con nhà ai không biết chống xuồng đi hái rau muống. Cô gái kinh nước đen mà nước da rất sáng gọi Trai:
- Anh gì ơi, có bẫy chim thì xuống giề rau muống này nè nhiều chim lắm
Cô ái từ trên trời rơi xuống nói rất đúng trái tim đen của anh chàng xicàque; ngoài ra, như có nhân duyên gì khi Trai nhận thấy ánh mắt cô liếc về mình, trao cho mình nụ cười với hàm trăng trắng đều trân như hạt bắp. Trái tim trong ngực Trai nhảy lung tung. Giây lát sau, định thần lại, Trai mới đáp liều:
- Tui không có xuồng, cô cho tui mượn xuồng được không?
Cô gái chống chiếc xuồng nhôm lướt về phía Trai. Tay cô khỏe khoắn, mắt to long lanh, má cô hồng hồng. Trai nhìn cô không chớp mắt nhưng cô gái không thẹn, chỉ cười. Cô buộc xuồng bước lên hỏi tỉnh bơ:
- Anh tên là gì?
- Tên Trai, Trai đáp.
- Còn tui tên là Gái
Trai lắc đầu không tin. Nhưng cô gái nói quả quyết
- Tui không giỡn đâu nha, tên cha mẹ đặt sao để vậy, không có sửa. Chưa cần. Khi nào đi bán bia ôm như con Lèo thì sửa tên lại là Mộng Ngọc cũng còn kịp
Trời đất, Trai nghĩ, mình đang làm quen với ai đây, điềm lành hay dữ vậy? Gái ái ngại nhìn cái chân teo của Trai lắc đầu:
- Cho mượn xuồng thì dễ, nhưng chân cẳng anh vậy, làm sao xuống được
Trai chẳng nói chẳng rằng bước xuống xuồng theo cách của anh, êm ru... Trai đứng trên một chân teo, chống xuồng ra xa tận giề rau muống. Cánh tay khỏe mạnh như Tazan của anh nói lên tất cả. Bầy chim sắt ô từ trong cái thảm xanh ngắt ấy giật mình bay lên...
Thế là từ nay, trên kinh nước đen, người ta thấy có đôi bạn sớm chiều gắn bó nhau như hình với bóng, ríu ra ríu rít như hai chú chim sâu. Hai chiếc xuồng nhôm lúc nào cũng cặp kè nhau, lúc nào cũng líu ríu tiếng chim vui nhộn. Sáng bơi xuồng ra bãi rau đặt bẫy, chiều đưa bẫy chim về để sáng hôm sau đem đi chùa. Rau muống cũng ngày hai chuyến đi về. Dòng kinh ngày càng đen, ngày càng hôi, con người ngày càng quen mùi, không ai quan tâm tới môi trường vì họ cần phải sống. Kẻ lặn ngụp bắt trùn chỉ bán cho những người nuôi cá cảnh, người vớt rác, vớt bọc ny lông giống như những chiến sĩ vệ sinh không tự giác. Dĩ nhiên không thể tính công bảo vệ môi trường cho họ được vì họ thích kinh đen ngày càng có nhiều rác và trùn chỉ hơn. Những ngời trồng rau muống thì bao giờ cũng thích bãi rau của mình phát triển để tăng thu nhập, trong khi những người bảo vệ môi trường thì lo ngại cho dòng chảy ngày càng khó khơi thông. Chỉ có những người làm nghề bẫy chim thì yên tâm là họ không làm hại môi trường. Thế là mỗi ngày có hàng ngàn chim sậy bẫy đem bán phóng sinh hoặc vào các quán nhậu. Chim sập bẫy mươi phần hết bảy còn ba, hết hai còn một cặp trống mái nó sẽ sinh ra mươi. Con người nhờ vào cái vòng lẩn quẩn đó của chim chóc mà kiếm ăn qua ngày. Trai và Gái cũng vậy, rau muống tạo ra môi trường xanh cho chim chóc hội về và sập bẫy. Chúng được đem ra chùa bán cho những người phóng sinh,chim chóc nào còn khỏe mạnh thì lại bay về tìm thức ăn ở các bẫy quen thuộc. Cứ như thế, cái vòng lẩn quẩn luân hồi mười phần hết bảy còn ba, hết hai còn một... cứ diễn ra bất tận.
Trong vài giờ đầu buổi sáng, tất cả các lồng chim của Trai đã được bán sạch. Anh sửa soạn ra về thì Gái tất tả đạp xe tới, trên tay ôm chiếc lồng chim nhỏ đông đặc các thứ chim lít chít đang cắn mổ nhau kêu la tíu tít. Ngày rằm, ngày vía nào cũng vậy, Gái đem chim vào giấc này, khi công việc bỏ mối rau ở các chợ xong, cô về nhà thay áo sạch, đạp xe ra phụ bán chim với Trai. Gái hay làm kiếm tiền phụ với má. Cực nhọc nhưng yêu đời, tối về đi coi ti vi ké ở đầu hẻm, khoái nhất là biểu diễn thời trang, các cô gái đẹp như tiên, ẹo qua ẹo lại trong tiếng nhạc. Có lần, Gái bắt chước biểu diễn thời trang cho Trai coi trên chiếc xuồng kênh nước đen ớt như chuột lột, bầy chim sắt hoảng hốt bay vút lên. Ngày đó thất thu nhưng Gái không chừa cái tật phù phiếm. Mấy hôm nay Gái đòi nằng nặc rằm này Trai và Gái phải phóng sinh một lồng chim để cầu hên, sau đó phải chơi công viên Đầm Sen rồi tối lại đi hát karaoke. Cô nghe người ta nói phóng sinh hên lắm, như phép thần, muốn gì cũng được. Trai cũng mê lắm, nhưng vì đang phải thắt lưng buộc bụng để thực hiện chiến lược có tầm vĩ mô - nói theo đài phát thanh, Trai nghe được nhờ chiếc radio nhỏ xíu cũ của Trung Quốc trị giá ba chục ngàn đồng - mà Trai đành phải nhín nhịn từ bảy tám tuổi tới bây giờ.
Mật kế của Trai chưa hề tiết lộ cho Gái hoặc bất cứ ai. Thứ nhất vì Trai sợ bị trộm cuỗm cái món tài sản lớn mà anh chắt chiu dành dụm bấy lâu nay. Thứ hai, Trai muốn tặng cho người yêu món quà bất ngờ, cũng là để đền ơn mối duyên kỳ nghộ. Bởi vì, từ cái lần gặp gỡ Gái tới giờ, Trai bẫy chim rất trúng, bán rất chạy. Ba năm, từ mười bảy lên hai mươi tuổi, Trai chứng kiến người ta đi chùa nhiều, cúng nhiều và đặc biệt là khách thập phương ai cũng có có nhiều tiền, người ta bố thí tờ năm ngàn cho đội quân ăn xin thường trực trước cổng hoặc trên các bậc tam cấp lên chùa coi dễ như không. Có người còn mua chim bằng tiền đô, lại còn bo một hai đô nếu chim khỏe mạnh, cất cánh bay mau chóng. Có cái gì mới lạ chung quanh mà anh chàng "côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó" không có dịp nào tìm hiểu được? Anh chỉ biết khuyến dụ những chú chim bằng tất cả các loại mồi, bằng cách thâm nhập vào đời sống từng loài chim một. Anh biết những chú chim sẻ thường thức dậy cùng mặt trời và líu lo rất sớm. Lúc chúng ríu rít là lúc chúng cần ăn sáng. Bởi thế, anh dọn bữa thóc điểm tâm cho chim sẻ sớm nhất, rồi sau đó mới tới những loài khác. Anh biết cái nết của loài sắt ô là dạn dĩ, khỏe mạnh và hơi khờ khạt, nên giống chim này thường mắc bẫy hôm trước, hôm sau lại bay về bẫy cũ, nếu như nó chưa rơi rụng dọc đường.
Tiền bán chim được, Trai bọc nylong rồi đào lổ chôn. Đúng một triệu, Trai lại tìm chỗ mới. Anh đã làm như vậy được ba lần rồi, người ta bảo chỉ cần một triệu nữa là anh có bốn chục mét vuông ao rau muống ở ngoại thành. Trai cần tới một trăm mét vuông để bốn chục mét vuông làm nhà, sáu chục mét vuông còn lại làm ao.
Trai tính rất kỹ, anh lợi dụng cái bàu hoang, giáp với sân nhà, thành một trường thiên nhiên cho lũ chim sẻ, chim sắt, chim sâu. Trai muốn vĩnh viễn chọn cái nghề bẫy chim phóng sinh này bởi vì anh tin rằng nghề này sống được, không ác. Anh chỉ bắt chim bán cho ngời ta thả bay đi chứ đâu phải bán cho nhà hàng làm món chim rôti mà ác. Nhờ lòng thương yêu, chăm sóc chim như người bạn của anh mà chim phóng sinh đi rồi lại quay về tái ngộ. Anh sẽ chăm sóc chúng để bù lại những gian nan vất vả mà chúng trải qua. Anh kiếm tiền nhờ cái vòng-luân-hồi-sống ấy của những loài chim đẳng cấp kém nhất trong xã hội loài chim sẻ, chim sắt, chim sâu, dồng dộc, áo dà.... mà nhà nước không có ghi trong sách đỏ. Anh thương nhất loài chim sẻ từ cái lần anh nghe ông Bảy kể về nó. Ông bảo rằng, ở bên Tàu, có một thời gian nó là đối tượng của cách mạng văn hóa. Trời đất, chim sẻ hiền lành thế kia mà sao bị coi là phản động. Ông Bảy tủm tỉm cười giải thích rằng, là vì dân chim sẻ đông quá, mắn đẻ quá mà lại ăn lúa. Mỗi con chim sẻ ăn ba hột lúa thôi thì xã hội mất hàng triệu tấn. Ông Bảy cười khà khà, kết luận theo kiểu móc họng: nhưng các chả quên là xã hội tốn ba hột lúa cho mỗi con chim tí hon loại này, bù lại nó đã trả côg bằng cách thanh toán những thứ côn trùng có hại cho môi trường, môi trường sống nhờ đó mà được cân bằng và tốt lên hơn.
Ông Bảy còn liên hệ với tình hình Việt Nam hồi kháng chiến chống Pháp, ở miền Tây, có chủ trương bẻ cổ vịt để tiết kiệm lúa. Lúc bấy giờ vì mục tiêu chống giặc đói, kháng chiến trường kỳ nên ai nấy đều quên một chuyện quá đơn giản: vịt ăn lúa, ta ăn vịt cũng no như thường. Nhưng chẳng ai chịu, bởi quan niệm theo kiểu nhà nghèo: ăn lúa mới là ăn cơm, còn ăn thịt chỉ là ăn "văn nghệ" chơi!
Trai thích nghe ông Bảy kể chuyện, chuyện gì ông Bảy cũng biết, kể cả chuyện phóng sinh chim là tục lệ chẳng hay ho gì. Ngày xưa nước Tàu cấm tập tục phóng sinh vì phóng sinh là hành hạ chim chóc, trăm con giỏi lắm là còn sống năm mười con. Ông còn nói nước mình cũng có ông vua cấp phóng sinh chim mà Trai không nhớ ông vua đó tên gì. Hèn chi, ở xóm nước đen này, người ta đồn rằng ông Bảy từng hoạt động cách mạng, từng đi đây đó nhiều. Nhưng tại sao ông bảy không có lương hưu, không có nhà, mấy lần Trai hỏi ông, ông đều tủm tỉm cười trừ. Trai đoán mò rằng, chắc ông là dân tứ chiếng giang hồ thôi, nhưng dù ông là ai, anh cũng nể phục, coi ông như đấng sinh thành.
Nhớ lời răn đừng hại chim chóc mà mang tội, nên Trai có cách đối xử với chim như ân nhân hay thượng khách. Anh cho chim ăn sạch, uống sạch, không nhốt chúng vào lồng quá chật, luôn hết sức nhẹ nhàng, nâng như nâng trức, hứng như hứng hoa. Anh cũng khuyên khách hàng, "thượng đế" của mình nên thả chim nhẹ nhàng đừng làm chúng sợ, nhất là đừng đặt chúng vào chỗ nhang khói quá nhiều... làm chúng ngộp, chúng không bay nổi nghĩa là rủi ro không được mang đi và may mắn không được đưa về. Tất cả những gì Trai làm là để chim chóc còn trở lại với mình, cũng là để an ủi nó. Chỉ tội nghiệp cho Gái, cô còn ngây thơ quá, không hiểu được những tính toán của anh. Nhưng Trai không buồn, anh chỉ ao ước sao cho một ngày nào đó, Gái hiểu được và ủng hộ anh. Anh hy vọng vong hồn cha sẽ giúp anh. Thắp nhang trước bàn thờ cha, nhờ cha anh thuyết phục cô gái bướng bỉnh, Trai không dấu được chút kiêu hãnh là anh đã sắp thành một con người tự chủ dù chỉ có đôi tay....
Ngày xưa, trước khi qua đời, trong cơn hấp hối vì đói và lạnh, cha Trai đã căn dặn và Trai đã làm theo lời căn dặn ấy từ khi bán được chú chim sẻ đầu tiên. Câu nói cuối cùng của cha là: phải chi ba không bán đất thì đâu đến nỗi này. Bảy tuổi đầu bị mồ côi, Trai loáng thoáng hiểu ra rằng anh có người cha chết đầu đường xó chợ là bởi vì muốn từ bỏ mảnh đất mà mình đang sống. Nhưng, cho đến nay, khi đã hai mươi tuổi đầu, chú
bé ngày xưa vẫn chưa biết cha mình là ai, ở đâu, vì sao phải bán đất mà đi, nếu như Trai không được ông Bảy nói rõ nguồn cơn. Ông cho biết cha của Trai là một hạ sĩ quan của chế độ cũ, buồn tình vì vợ (là mẹ của Trai) bỏ con đi theo một gã lưu manh trong lúc anh vắng nhà đi học tập cải tạo nên bán đất lấy vàng vượt biên. Giờ đây, Trai nghĩ tới cha, giá như mà hồi đó, hai cha con có được căn chòi trên miếng đất cặm dùi này thì chắc gì cha Trai phải lìa đời!
Nhưng, thời thế lại đổi thay. Mấy tháng nay, dân sống nhờ trên bờ kinh nước đen thắt thỏm nghe tin sẽ bị giải tỏa theo quy hoạch thành phố hiện đại, thay thế những dòng kinh xanh. Nhà nước chỉ đền bù cho dân cắm dùi lấn chiếm. Tình thế này khiến Trai bức xúc hơn nữa về cái miếng đất nền nhà trong mộng tưởng mà anh đã ấp ủ từ lâu và âm thầm tích cóp từng tờ hai trăm đồng một... Mười năm thèm một chai Tribeco, một ổ bánh mì dồn thịt nhưng Trai chỉ biết nuốt nước bọt rồi bỏ đi. Trong mơ, Trai thường gặp lại cái lần anh và chúng bạn ăn hụt chim sẻ trên sân Trung tâm phục hồi chức năng và cố nhắm mắt mơ tiếp để được nhai rau ráu con chim thơm phức đó. Nhưng bao giờ giấc mơ cũng dừng lại ở cảnh bà xơ xuất hiện. Sáng ra, Trai nhìn những chú chim sẻ muốn cho nó vào chảo rô ti nhai đầu nó cho sướng, nhưng chú buộc phải dừng lại. Tám chục con chim sẻ là nửa mét vuông đất ruộng ngoại thành. Mà bốn chục ngàn thì kiếm đâu có dễ dàng gì. Một ngày rằm, may mắn lắm cũng chỉ kiếm được một phần tư mét vuông là cùng, mà đâu phải lúc nào cũng bẫy được chim? Nhiều năm qua, nhất là những tháng gần đây, dân nhập cư tứ xứ hội về đêm đêm lén cắm dùi trên đất giải tỏa để kiếm sống qua ngày. Họ không nề hà bất cứ nghề gì miễn kiếm cho được ngày hai bữa cơm nghèo, kể cả nghề bẫy chim, đòi hỏi phải "trình độ" và lòng kiên nhẫn. Chính vì vậy mà Trai ngày càng phải kiệm ước nhiều hơn, tranh thủ tối đa thị phần chim phóng sinh trước khi nguồn chim cạn kiệt. Nhịn tất cả trừ bữa cơm rau muống với cá tạp kho thật mặn để hấp dẫn được nhiều rau và nhiều cơm là thượng sách. Thêm nữa, chuyện giải tỏa kinh nước đen không còn là chuyện đùa nữa. Nếu chưa có giải tỏa kinh nước đen, thời gian sẽ ủng hộ Trai, đằng này chuyện giải tỏa tới nơi rồi, không có miếng đất ở ngoại thành, chú cặm dùi nơi đâu? Ông Bảy thường dạy: Muốn mở mang bờ cõi là phải biết cặm dùi, huống chi là dân nghèo? Mình mua đất tức là cặm dùi hợp pháp. Gái thương Trai nhưng quá hồn nhiên không biết được kế hoạch lâu dài, lại còn dọa sẽ nghỉ chơi luôn nếu như Trai không đáp ứng yêu cầu chính đáng và bức xúc của cô. Từ chiều hôm qua tới giờ, Trai cố phớt tỉnh ănglê, để sáng nay bán chim rồi mọi chuyện tính sau. Chẳng dè, mới giờ này đã thấy Gái súng sính trong bộ đội siđa mới mua hay mượn gì đó, xách lồng chim bước tới. Trai đành phải nghiêm mặt.
- Đưa hết đây cho tui, Gái về thăm bẫy bắt thêm đi, bữa nay trúng lắm
Gái xụ mặt, ngúng nguẩy không chịu lùi bước
- Hỏng dám đâu. Bữa nay em nhất quyết phóng sinh
Trước mắt cô là một đôi uyên ương như trong chuyện cổ tích bước ra đang ngắm nghía định mau chiếc lồng chim mà Gái vừa mang tới. Ôi, chàng trai và cô gái đẹp như tranh, như chàng Tú Uyên và nàng Giáng Kiều trong truyện mà Gái nghe trong tuồng cải lương
Quả vậy, họ giàu lắm, mua chung cho hai người bốn mươi con chim sẻ mà không cần trả giá. Nghe họ tính với nhau, tôi được biết chàng hai mươi hai, còn nàng mười tám, thật xứng lứa vô cùng. Không tuân theo những tập tục cúng bái, chàng trai và cô gái mang chiếc lồng chim đến một góc vắng, ngồi chung ghế đá thủ thỉ tâm tình và mở cửa lồng chim để đó, mặc cho bầy chim tha hồ chọn lựa việc đi hay ở của chúng. Cuối cùng, một đôi chim, một con trống, một con mái không chịu bay, chúng ở lại trong lồng. Kể cả khi nàng và chàng cho chim đậu lên lòng bàn tay ngà ngọc của họ và ban thưởng cho đôi chim những cái vuốt ve trìu mến, đôi chim vẫn không chịu bay đi. Và đôi bạn kia đã tặng lại cho Trai và Gái đôi uyên ương kỳ lạ ấy. Thật là tuyệt.
Tôi chứng kiến rõ ràng, nét si mê đôi bạn tình nọ đến đờ đẫn hiện lên trên mặt cô gái mười bảyi lam lũ với chiếc má lúm đồng tiền. Cô bé sung sướng như kẻ mộng du mơ thấy mình thành tiên nữ và đang phiêu bồng nơi vườn thượng uyển trên thiên đình. Nhưng chàng Trai bán chim thì vẫn lạnh lùng, hay đúng ra là làm ra vẻ lạnh lùng. Đúng thế, chàng Trai phớt tỉnh dọn dẹp đồ lề chuẩn bị lên đường. Mặc cho Gái mân mê đôi uyên ương bé tí, chàng Trai chỉ biết ra lệnh như một ông cụ non thật sự:
- Không được thả, cặp chim này làm chim mồi tốt lắm
Gái phụng phịu làm cho một bên má lúm đồng tiền thêm có duyên. Gái lắc đầu nguầy nguậy và chực khóc làm Trai cứng rắn phát hoảng
- Gì kỳ vậy. Cặp sắc ô này dạn, làm chim mồi tốt lắm, để anh làm thêm lồng bẫy chim nữa
Cô Gái bắt đầu dậm chân làm chàng Trai quýnh lên
- Vậy chớ Gái muốn gì, sao không nói đi
Gái không trả lời. Cô lẳng lặng lấy hai sợi chỉ hồng buộc vào chân hai con chim sắt ô tung nó lên trời. Hai chú chim tíu tít, lạng quạng, lúc đầu hơi lảo đảo nhưng sao đó thì lấy lại tỉnh táo bay vút đi
Gái nhìn Trai khiêu khích:
- Hễ cặp chim này trở lại thì còn, nếu không trở lại thì coi như tiêu
Trai đành phải cười trừ, nhưng nụ cười hiền lành của chàng cũng không sao làm lành được, Gái vẫn xụ mặt, ngúng nguẩy
- Còn cái vụ đi Đầm Sen với hát karaoke thì tính sao?
- Hỏng biết
Trai lại bị bất ngờ hoàn toàn bởi sự thay đổi thái độ đột ngột của Gái
Mấy năm nay cô vẫn vậy, đang vui đó thì lại buồn đó. Ngược lại, đang khóc đó, chút xíu sau lại cười toe toét. Giờ đây, Gái đang ngẩn ngơ nhìn cặp uyên ương lý tưởng dìu nhau ra cổng, rồi dìu nhau ngồi vào băng ghế bọc nhung xanh phía sau. Chiếc xe hào nhoáng lướt đi hòa vào dòng người ngược xuôi đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa trong ngày rằm tháng bảy oi ả. Gái mê mẩn tâm thần như ngây như dại, chẳng biết trời đất là gì, chẳng còn hiểu mình là ai. Bao giờ cũng vậy, Trai luôn buồn dạt dào trước cái đê mê ảo vọng đó của người yêu. Cuộc sống giàu sang thường làm lóa mắt những người nghèo hèn tội nghiệp. Gái là như vậy, cô hồn nhiên, tốt bụng nhưng phù phiếm hạng nặng, Vậy mà không biết sao Trai lại thương. Chuỗi ngày tiếp theo sau đó làm Trai buồn lắm, buồn đến mức già đi chừng mười tuổi.
Những người hàng xóm trên kênh nước đen cảm thấy buồn lây với nỗi buồn của Trai. Hầu như có tới một tháng trời, sáng nào cũng thấy anh lặng lẽ ra bài rau muống xa tít trên ngọn kênh đến xế chiều mới về, một mình lủi thủi bận rộn trong tiếng chim ríu ra ríu rít cho tới tận chiều khi lũ chim ngủ yên. Chạng vạng tối mới thấy Trai ăn chén cơm đạm bạc, uống chén nước chín, thắp nhang cho cha rồi mới mở radio nhỏ xíu nằm đu đưa trên võng. Trai thích nghe đài FM vì nó nhẹ nhàng, êm dịu và đặc biệt là nó ít hao pin. Nhưng những tuần lễ trôi đi không có Gái, Trai không còn nghe nhạc nổi nữa. Từ sáng tới tối, từ tối tới sáng chẳng thấy Gái đâu. Mọi người đều biết, Gái là con dì Tư rau muống. Bà có nhiều con, đứa nào cũng nghèo đi làm ăn xa, chỉ còn lại hai mẹ con hủ hỉ sống nhờ vào bãi rau chừng vài chục mét vuông. May mắn làm sao, kinh nước đen lại nuôi rau muống xanh um. Để thu hoạch, chỉ cần chịu cực, chịu hôi thúi, sáng dậy sớm cắt rau đem về lấy nước máy rửa sạch, khéo xếp bó thì nó có thể đem ra chợ. Muốn rau xanh tốt chỉ cần thường xuyên bắt sâu, xịt thuốc, chỉ cần vậy hai mẹ con đủ đắp đổi qua ngày.
Nhưng những tháng gần đây, hàng xóm lấy làm lạ, thỉnh thoảng từ trong căn nhà nhỏ sát bờ kinh có xảy ra to tiếng giữa dì Tư và cô Gái. Hóa ra vì cái chuyện karaoke và thời trang ở ngoài xóm. Chuyện đó làm cho dì Tư lo, linh cảm điều gì đó chẳng lành. Dì Tư nghèo, đi ghe dừa từ Bến Tre lên Cầu Ông Lãnh bỏ mối kiếm sống. Rủi thay, một chiếc xà lan chạy ẩu ủi làm chìm ghe. Mà nào phải ghe riêng của dì, đó là chiếc ghe mướn của hàng xóm. Ghe chìm, trắng tay, có kiện tụng cũng chẳng được gì, dì Tư đành phải trốn quê hương ở lại trên kinh nước đen cả chục năm nay. Ba năm trước đây, nhờ dành dụm chút đỉnh tiền, dì sang lại giề rau muống này. Gái nhờ đó đỡ phải đi phụ hồ, lại có chút đỉnh tiền sắm quần sắm áo sida. Bộ đồ siđa đầu tiên nó mặc làm dì Tư sững sốt. Dì vừa nhận ra, con gái mình khá xinh đẹp. Nhưng dì dẹp ngay cái ý nghĩ vừa nảy sinh, liền giở giọng răn đe: "Mày ăn bận gì như chúa ôn vậy, cởi ra mau khôg tao đánh chết cha". Nhưng Gái đủ trí thông minh để nhìn trong mắt mẹ và biết bà hài lòng về nó. Nó tự nhận ra mình đẹp khi coi ké ti vi, thấy các cô biểu diễn thời trang cũng có những cô cái mặt xấu hoắc. Về nhà, nó đứng trước tấm gương bể của cái tủ quần áo săm soi so sánh, bằng lòng cái khuôn mặt trái xoan có lúm đồng tiền bên má trái và đặc biệt là cái vòng hai chừng quá giang tay một tí. Trước gương bể cô gái còn thử uốn lượn, nhún nhẩy, ẹo qua ẹo lại tối đa. Chẳng may, trong khi Gái độc diễn thời trang thì dì tư ngó thấy, dì quơ cây chổi tàu cau quất túi bụi vào cả ba cái vòng vèo trên cơ thể cô gái mới lớn. Tưởng như vậy thì nó chừa, nào ngờ mấy bữa sau, nó đi bỏ mối rau không thấy về, dì Tư ra đầu hẻm dọ hỏi mới biết nó đang hát karaoke trong quán đèn mờ. Dì Tư la, nó tỉnh bơ bảo, con phải tập hát để giật giải thưởng tiếng hát truyền hình. Lại còn nói, con phải tự đổi đời chớ chẳng lẽ làm con bán rau muống hoài sao.
Trời đất! Con nhỏ gan cóc tía bị dì Tư lôi cổ về nhà nhốt lại, dì Tư thà tự đi làm rau muống chớ dì nhất quyết không giao cho con gái nữa. Dì có linh cảm nó sẽ vuột khỏi tầm tay mình. Nhưng sau đó dì bị bịnh, chứng thấp khớp hành hạ buộc dì đành phải giao quyền cho con. Vậy là Gái được tự do làm theo ý mình, miễn là sau đó về nhà chăm sóc mẹ là xong chuyện.
Trong những ngày làm chim sổ lồng tung tăng trên đám rau muống, Gái thấy một chàng trai bẫy chim mà trong xóm ai cũng mến vì cái tính cần cù, chí thù làm ăn nên nhào tới làm quen liền. Đúng là cái anh chàng đẹp trai, da sáng, mắt sáng, hàm răng sáng bóng, chỉ phải cái tật xicàque thôi. Làm quen nhau rồi, Gái thấy cô có chỗ dựa vững chắc nên tăng cường nhỏng nhẻo, đòi được nuông chiều. Gái thích được đi chơi Đầm Sen một lần như từng thấy trong tivi người ta vui chơi thủy cung, hoặc bơi những con thiên nga trên mặt hồ xanh biếc. Gái muốn thể hiện mình, muốn Trai hiểu mình, muốn cùng hát karaoke với Trai và hình dung chàng và nàng đẹp đôi lắm. Nhưng những ngày yêu nhau, chưa bao giờ Trai đáp ứng điều mong mỏi đó của Gái. Bao giờ Trai cũng hỏi phải tốn bao nhiêu tiền rồi lầm thầm bấm đốt ngón tay tính mãi. Tính xong thì lắc đầu nhắc lại một câu muôn thuở "Không được, anh phải dành dụm lo cho tương lai cho tụi mình". Mèn ơi. Gái đành phải chê Trai thậm tệ khi anh chàng xicàque tiếc cả những con chim bắt được cho một lần phóng sinh của riêng chàng và nàng! Gái chắc anh ta không thương mình, hay chỉ thương hại thôi.
Sau cái lần giận nhau ấy, cô thề không thèm tới căn chòi của Trai nữa. Cô tới cô bạn là Tèo, tên mới là Mộng Ngọc để tâm sự. Mộng Ngọc làm gái tiếp viên, sống lấy đêm làm ngày, nửa đêm về sáng phóng xe về nhà người nặc nồng mùi rượu, mùi tanh hỗn hợp của các thứ bài tiết từ con người, cái mùi đặc trưng của thác loạn. Mộng Ngọc ngủ vùi cho đến trưa mới dậy ăn bữa đầu tiên trong ngày và sau đó lại lên xe đi vào cái vòng luân hồi khép kín mà cô lao vào đó từ tuổi mười lăm. Tuy cùng tuổi với Gái, nhưng Mộng Ngọc có kinh nghiệm đời chát đắng như một gái già năm mươi, miệng luôn chưởi đàn ông, chưởi tài phán, chưởi tiền, chưởi rượu nhưng chưởi xong lại lao vào như giả ngộ. Mộng Ngọc hư những nhu cầu lặt vặt, quần áo, son phấn. Cô gái trồng rau muống trên kinh đen quen dần với nếp sống mà cô tưởng là sang trọng và bắt đầu mơ ước những chuyện trên đời. Trớ trêu thay, cô lại gặp Trai, người xây giấc mộng vàng từ những mét vuông mặt đất. Trai khao khát quyền sử dụng đất, cho đó là cái quyền độc lập tự do, là cách để giải phóng đời anh khỏi nghèo hèn, bị kinh rẻ.
Đêm nằm bấm đốt ngón tay, Trai biết rằng giấc mơ của anh sau mười ba năm kiên trì nhịn ăn, nhịn mặc, nay sắp thành hiện thực. Anh đã hứa trước vong hồn cha là anh quyết đi cho tới cùng mơ ước của mình.
Ông Bảy cũng luôn động viên Trai, ông muốn ngó thấy Trai thành công trước khi ông trở về với cát bụi. Ông mừng cho trai có bạn, cô gái xinh xắn và luôn tuơi vui như chú chim non. Nhưng rồi ông cảm thấy có điều gì không ổn khi cả tháng trời hai đứa đều ngại không gặp ông, chòm xóm xì xào về sự đổi thay nhanh chóng của cô gái quê giữa chốn thị thành... Ông Bảy không tin điều đó, ông định bơi xuồng đi gặp Gái hoặc Trai, nhưng mấy hôm nay ông yếu lắm. ở tuổi cổ lai hy ông biết mình không chịu đựng nổi ở môi trường đen này, nhưng ông không còn cơ hội nào để trở lại Cần Thơ gạo trắng nước trong nữa. Đã mười ba năm, từ cái trận gió xoáy đột ngột nhận chìm chiếc ghe thượng hồ có cánh buồm nâu cổ lỗ của ông ở vàm sông Cổ Chiên, mấy người bạn ghe là con cháu ông chết hết, ông được chiếc tàu buôn cứu sống đưa về thành pố và ông không còn gì để trở về chốn xưa. Thế là ông chọn chiếc ghe bầu mục nát làm giang san và kết bạn với những đứa bé cùng cảnh ngộ trôi giạt như ông. Ông sống bằng cái nghề khá vất vả thân già, nghề vớt rác trên các dòng chảy đen mà nhiều người làm rác khác e ngại. Một mình một cõi trên một đoạn kinh đen không ai tranh chấp, ông Bảy cảm thấy nhàn nhã trong tâm hồn khi nghĩ rằng đó cũng là một thứ giang san mà dòng chảy đặc quánh và đen ngòm là nguồn cung cấp cho ông chén cơm manh áo. Trong môi trường đen, bất cứ cái gì cũng bị ô nhiễm, trừ tấm lòng nhân ái của con người. Ông biết thế nên hết sức nâng niu, giữ gìn cái chất ngọc trong tâm hồn hai đứa trẻ mà ông gặp gỡ tình cờ và chăm sóc chúng từ tuổi ấu thơ.
Sáng nay, rằm tháng mười, Trai trúng lớn, ba lồng chim to, khoảng chừng ba trăm con bán cái vèo theo giá cao, tính ra gần một ngàn một con. Chiếc lồng nhỏ nhốt vài chục con chim sẻ còn lại có người mua mảo một trăm ngàn, ông già Đài Loan lưng còng, mắt chột đi với cô bồ cỡ tuổi Gái, luôn nũng nịu đòi phóng sinh. Thế là Trai có thêm ba bốn mét vuông đất trong vòng nháy mắt. Anh hí hửng lên xe lăn về, định đánh tiếp từ giờ tới Tết cho xong kế hoạch nhưng rồi, anh không tin vào mắt mình nữa: trên bậc tam cấp lên chùa Vĩnh Nghiêm, Trai nhận ra Gái đangđi cùng một anh chàng coi lanh chanh như con chim nắc nước, cả hai đang chuẩn bị phóng sinh một lồng chim khá sung túc. Anh chàng nọ đã đáp ứng đúng nguyện vọng của Gài làm nàng phấn khởi tươi roi rói. Nhưng khi phóng sinh chim xong thì Gái không chịu cho anh chàng kia nắm tay. Nửa muốn can thiệp, nửa muốn im lặng, Trai nghe nhói trong lòng định tìm cách tránh mặt. Nhưng Gái đã thấy anh rồi, cô nàng ngó lơ và cùng gã trai kia đi về hướng khác. Sau đó, cả hai lên chiếc xe Suzuki cổ lỗ nổ máy ầm ầm phóng đi. Trai tò mò phóng xe theo đến ngã tư đèn xanh đèn đỏ mới nhận ra gã trai nọ chính là cái anh chàng vá ép xe honda đầu hẻm. Đèn xanh, Trai chết lặng rẽ về kinh nước đen thay vì bám sát theo chiếc xe đang phun khói như điên lao về phía quận một, trung tâm thành phố. Lăn xe vào căn chòi nỏ nhưng vén khéo như một tổ chim dồng dộc, Trai ngồi thật lâu trên xe lăn, không biết phải làm gì. Hàng giờ sau, anh định lăn xe đến dì Tư báo tin nhưng nghĩ lại thấy mình vô lý nên thôi. Với lại, Trai biết dì Tư đang bịnh, không nên làm cho dì buồn. Trai cảm thấy không đủ sức chịu đựng cái tức như bò đá nên xuống xuồng bơi về phía giang sơn ông Bảy trên mui ghe mục. Nhưng vào giờ này, ông Bảy đang vớt rác tận đâu, chưa thấy ông về. Vậy là một mình Trai lặng lẽ ôm nỗi buồn vào lòng, không biết tâm sự cùng ai...
Trai thắp nhang trước bàn thờ cha. Vong linh cha nhắc anh nhớ mình đang làm gì. Trai nhớ ra và giật mình, suýt nữa thì anh quên là đã tới hẹn phải nộp tiền đất tận Hóc Môn. Anh liền chọn chỗ góc kín nhất trong căn chòi bé tí của mình để kiểm tiền, trước hết là để lấy tiền từ những chỗ chôn giấu bí mật, bất ngờ nhất và an toàn nhất. Chẳng hạn như dưới đáy cái mẻ lu đựng nước vo gạo. Đất dưới đáy lu ướt án ngữ, tiền không bắt lửa được. Nhưng điều này còn quan trọng hơn, mỗi lần lấy lên hoặc chôn xuống, anh chỉ cần lật cái mẻ lu giả vờ lau rửa, nhân mọi người không để ý thì chôn xuống hoặc moi lên. Trai cũng có cách đếm tiền bí mật nhờ trước khi chôn đã xếp sẵn loại nào ra loại đó, khi đếm chỉ cần nằm võng trùm chăn lại đếm mò là xong. Sau một lúc đắp chăn mướt mồ hôi, Trai đã biết mình có hơn hai triệu đồng, nghĩa là, nếu cộng lại tất cả các nơi chôn dấu lại thì anh đã có tiền để nhận đất nền nhà. Nghĩa là sau hơn mười năm dành dụm, kẻ tật nguyền tứ cố vô thân như Trai đã tìm được miếng đất cặm dùi. Trai mừng mừng tủi tủi, nước mắt lăn dài trên má hồi nào không hay.
Những ngày tiếp theo, sau khi đặt bẫy chim xong, anh bơi xuồng mỏi cả tay tìm ông Bảy để báo tin vui và xin lời chỉ dạy nhưng vẫn không tìm thấy ông đâu. Giang sơn trong chiếc mui ghe mục của ông trở nên đìu hiu, lạnh lẽo không còn nghe tiếng ho khúc khắc nữa. Hỏi những người xung quanh người ta đoán mò có thể ông về quê hoặc vô nhà thương gì đó. Một nỗi buồn xâm chiếm lòng anh, không có ông Bảy thì anh mua đất để làm gì. Trai không dám nghĩ thêm nữa...
Trưa hôm đó, vào ngày rằm tháng mười một, đáng lẽ phải đón bẫy chim sắt phóng sinh trở về trên bãi cỏ thì Trai nghe linh tính báo điềm không lành. Con mắt trái củaanh giật lia lịa, làm cách gì nó cũng không chịu yên, Trai đành phải về nhà coi có chuyện gì xảy ra. Ngang qua nhà Gái, Trai giật thót tim khi nghe mọi người nhốn nháo. Có ai đó la lớn:
- Trời ơi con Gái nó tự vận đây nè!
Toàn là trẻ con bu đông nghẹt căn chòi mà không biết để làm gì. Vài người lớn đang chăm sóc dì Tư đang ngất xỉu và dìu Gái ra ngoài hẻm thoáng. Cô y sĩ tư gần đó chạy đến bảo kêu xe cấp cứu. Trai lăn xe vọt đi ra trạm điện thoại công cộng. Lát sau xe cấp cứu tới người ta kịp đưa Gái lên xe trong tình trạng nhiễm độc nguy hiểm. Trai lao xe lăn theo xe cấp cứu. Nhờ đường chật nên Trai lách dễ hơn xe lớn, thành thử anh cũng tới không muộn hơn xe cấp cứu bao nhiêu. Trugn tâm cấp cứu y tế quận bơm rửa cật lực cả tiếng đồng hồ sau Gái mới tỉnh. Chừng Gái tỉnh, Trai mới cảm thấy mình vô duyên, tự nhiên đi nuôi cấp cứu cho người dưng. Nhưng đúng vào lúc đó cô y tá hỏi thân nhân để đòi thẻ bảo hiểm thì Trai đứng ra tự nhận mình là anh ruột, chịu trách nhiệm thanh toán mọi chi phí theo tiêu chuẩn dịch vụ. Trai làm thủ tục cho Gái chuyển từ phòng cấp cứu về phòng dịch vụ hai giường có máy điều hòa, có nước nóng. Gái dần dần tỉnh lại và nhờ mấy chai nước biển nên cô có phần tươi lên. Tuy nhiên cô nàng cứ không thèm mở mắt ra, kể cả dì Tư tới thăm. Dì Tư ôm con gái và nắm chặt tay Trai tỏ lòng biết ơn anh đã cứu giúp Gái kịp thời trong cơn nguy khốn.
- Trời ơi, không biết sao dì dại quá, con mình... vậy mà mình xỉu, nếu không có bà con và chú Trai đây thì không biết tánh mạng con Gái như thế nào.
Rồi dì tỏ ra lo lắng vụ tiền phòng, dì yêu cầu chuyển xuống trại thường chỉ có hai chục ngàn một giường thôi, Trai cười:
- Dì Tư để con lo được mà. Con trúng liên tiếp hai ba ngày rằm vừa rồi. Với lại bác sĩ nói may cô ấy ra viện rồi... không sao...
Trai nói xong thì đi thanh toán hết tất cả rồi lặng lẽ ra về. Còn Gái vẫn cứ nhắm ghiền đôi mắt, nhưng hai gò má thì đỏ ửng. Dì Tư hiểu con gái mình hơn ai hết. Dì biết vì sao Gái xấu hổ, vì sao nó nông nổi. Vâng chỉ có mình dì Tư biết là Gái đã biết tất cả, ai đã vì mẹ con dì trong mấy bữa lao đao vừa qua. Trai đi rồi, dì mới ra cổng ngó theo chàng trai tốt bụng đang vặn vẹo đôi chân cố bước lên xe lăn, mà lấy chéo khăn chậm nước mắt.
Rằm tháng chạp, Trai lại may mắn "trúng" một trận bán chim bù lại những gì đã mất trong lần Gái nông nổi suýt tự làm hại đời mình. Anh thắng lớn, bảo đảm y kế hoạch mua cái nền nhà như dự kiến. Tuy nhiên Trai không muốn giao tiền nhận đất ngay, bởi vì anh thiếu hẳn những động lực thúc đẩy. Ông Bảy đi đâu không thấy trở về và việc Gái, tuy đã thôi không nhắm mắt nữa và đã về nhà sống bình thườg nhưng lại sinh bịnh mới là ngậm miệng không thèm nói năng gì, kể cả khi cùng ra bãi rau muống lòng nhưng dù sao anh vẫn cảm thấy yên tâm khi được sống bên cạnh người yêu câm. Đôi khi, Trai còn mơ đến một ngày nào đó, anh sẽ lấy cô câm làm vợ và nhờ vậy mà anh không còn lo vợ mình bị nhiễm ánh đèn màu karaoke nữa. Tuy vậy nỗi hờn ghen thường xâm chiếm tâm trạng anh về đêm, khi trằn trọc một mình. Đó là vì sao Gái tự vận, ai đã làm hại đời cô, có phải cái thằng vé xe honda mà anh gặp hôm nọ không, ai biết chuyện này? Trai nghĩ tới Mộng Ngọc và liền lăn xe vùn vụt tới nhà cô. Mộng Ngọc đang sửa soạn đi vũ trường, nhìn từ xa cô đẹp như một nàng công chúa nhưng khi đến gần thì nàng công chúa ấy đã vội hóa thân thành cô nàng đỏng đảnh chuyên nghiệp mà lại chân thành một cách khó hiểu.
- Tui biết mà, cuối cùng rồi anh chàng xicàque cũng phải nhờ tới cô cave xí xọn này thôi.
Mộng Ngọc nói năng bổ bã nhanh tay nhấc bổng cả người và xe lăn của Trai và ném vào trong căn phòng khá hào nhoáng của cô. Khách chưa kịp nói gì, Mộng Ngọc đã tươm tướp hàng tràng những từ ngữ ngọt ngào pha lẫn chua ngoa khủng khiếp
- Anh chàng xicàque nhưng coi cũng được trai lắm, hèn gì con nhỏ mê như bị bỏ bùa. Con nhỏ ngốc khoái vuốt ve chiều chuộng, khoái người yêu hành động tạo cảm giác mạnh như trong phim... *** nhưng cái anh chàng nhà quê xicàque không dám hun hút, không biết điệu, không bt bao bồ, lúc nào cũng teo tóp, run như cầy sấy làm con nhỏ hái rau muống quê độ quá chừng. Đã xicàque lại keo kiệt, không dám bao em một chuyến du lịch nghèo, tiếc kể cả chỉ một cái lồng chim lút chút chẳng giá trị gì. Nhưng anh không biết rằng con nhỏ nông phu rau muống trên kinh nước đen có cái tòa thiên nhiên đẹp tuyệt trần. Phải lột hết nó ra thì mới biết. Nó tới đây, từng khỏa thân để cho con cave này chọn quần áo. Tôi phát ghen với nó, chính tôi cũng thèm chiếm hữu nó, nếu tôi thon thả như nó, tôi đã trở thành bà hoàng ở cái chốn Sài Gòn hoa lệ này rồi. Trời ơi, vậy mà không ai ngó thấy....
Giọng Mộng Ngọc nhỏ lại dần rồi run run, chân thành, trong trẻo xen lẫn những tiếng nấc thoáng qua nhanh:
- Nhiều phen, tôi muốn chiếm dụng nó, bán nó cho một vũ trường, một động nhện như người ta đã bán tôi trước đây. Nhưng vì tôi thương nó quá nên tôi tự nguyền rủa mình khi thèm năm trăm đô, khi nảy sinh ý định buôn người.
Mộng Ngọc bưng mặt khóc rưng rức làm Trai hoang mang cực độ. Anh không quen nghe ai thể hiện tình cảm theo cách này nhưng anh cảm thấy Mộng Ngọc có lý mà không biết tại sao.
- Rồi cũng chính tôi đã cứu nó - Mộng Ngọc tiếp, giọng thổn thức, cay đắng lẫn ngọt ngào - Suýt nữa thì nó đã tiêu đời nếu tôi không ngăn nó lại. Người lớn, kể cả anh nữa chỉ biết lên án hoặc xa lánh nó, không ai hiểu nó, chia sẻ buồn vui với nó, tất cả không bằng cái thằng vá xe honda đầu hẻm. Thằng này cũng nghèo, nhưng hai đứa giống nhau ở chỗ khoe giàu. Con Gái khoe má nó có vựa rau ở chợ Cầu Muối, thằng kia khoe đang chuẩn bị mở tiệm bán phụ tùng xe honda. Gái thích gì nó cũng chìu chuộng, đủ cả: karaoke, đi chơi Đầm Sen, phóng sinh hết một lồng chim. Con gái về khoe với tôi, tôi biết con chim non này sắp đặt bẫy rồi. Nhưng may mà cả hai đứa đều khờ khạo bốc đồng, khi thằng kia sàm sở, con Gái mới sợ quýnh lên chạy về đây mét tôi...
Mộng Ngọc ngừng nói, lấy hơi, xem đồng hồ, cười tự nhiên như chưa từng kể qua câu chuyện đầy kịch tính, rồi nói nhanh:
- Thôi trễ giờ của tôi hết rồi. Tôi phải đi liền đây. Nó không sao hết, chưa sứt mẻ gì hết. Sau đó bị thằng kia rình biết nó làm rau muống ở kinh đen, nó cũng rình biết thằng kia cũng chui rúc ở gầm cầu kinh đen, chỉ khác là đứa kinh Nhiêu Lộc, đứa kinh Tàu Hủ, rồi chửi nhau, thằng kia nóng tính bộp tay nó nháng lửa, nó tức về uống thuốc chuột
- Vậy là nó thoát, được phép trả giá rẻ cho sự phù phiếm, nông nổi.
Nói tới đây, Mộng Ngọc nhấc bổng chiếc xe và anh chàng Trai đặt xuống hẻm, lặng thinh hồi lâu, rồi giọng bắt đầu run:
- Vậy là nó hơn tôi, nó dùng thuốc chuột để phục hồi nhân phẩm và nó thoát nạn. Còn tôi thì vì không dám uống thuốc chuột nên còn nhơ nhuốc tới bây giờ
Lạ lùng chưa, Trai chưa từng nghe ai nói về mình, bộc lộ chuyện mình, chuyện bạn một cách thô bạo và tế nhị như Mộng Ngọc. Bây giờ Trai mới hiểu vì sao Gái vừa coi thường vừa coi khinh, vừa thương vừa sự cô gái ấy. Và lần đầu tiên Trai hiểu rằng, mình đã biết thêm một người tốt trên kinh nước đen như ông Bảy như dì tư. Người tốt ấy, Mộng Ngọc, cũng chính là cô gái vũ nữ xấu xa duy nhất mà Trai được biết trong cái xóm nhỏ này, trước khi tới đây.
Sáng hôm sau, Trai thức dậy sớm hơn thường lệ, cho chim ăn, uống nước, xong anh gom hết chim trong các lồng nhỏ, nhốt chung vào một cái lồng to nhất rồi thay vì cho lên xe lăn ra chùa Vĩnh Nghiêm, anh cho lồng chim xuống chiếc xuồng nhôm. Trước khi đẩy xuồng xuống kinh, anh thắp nhang trước bàn thờ cha và lấy thêm ít cây nhang đem theo.
Giờ này Gái cũng vừa hái rau muống xong, sắp chở về để đem ra chợ. Đúng rồi, cô đang chống chiếc xuồng con chở đầy rau muống xanh um. Trai thấy cô lúng túng khi đã ng xuồng duy nhất trên đường về của cô. Mọi mặc cảm tan biến tự hồi nào, chàng trai bơi lướt tới cặp vào xuồng của Gái.
- Làm gì kỳ vậy
Gái không câm nữa rồi. Trai mừng quýnh, líu lưỡi:
- Thì anh đemchim ra đẩy để mình phóng sinh. Anh cầu trời cho tụi mình...
Giọng Gái chững chạc như một người lớn:
- Không dám đâu, em không ham phóng sinh nữa đâu. Mình để dành cho đủ cái nền nhà...
Trai suýt kêu trời vì hạnh phúc bất ngờ ập đến. Anh run run đốt mấy nén nhang, chia cho Gái một nửa, bảo cô cùng anh xá bốn phương, sau đó anh mở cửa cho chim sổ lồng. Những chú chim sắt ô chuyên nghiệp quen người chủ cũ, ríu ra, ríu rít tiếc rẻ những hạt thóc còn đầy trong máng không chịu bay đi. Trai giơ cao lồng chim về phía mặt trời đang mọc làm bầy chim tỉnh táo nhận ra trước mắt chúng là bầu trời trong sáng và chúng chen chúc nhau lao vun vút ra không gian vô tận.
Nếu có ai chú ý đến hiện tượng chim bay về bãi rau muống kiếm ăn vào những buổi sáng đẹp trời, thì giờ đây họ sẽ vô cùng ngạc nhiên chứng kiến một hiện tượng trái ngược: có một đàn chim hàng trăm con từ bãi rau muống rủ nhau bay vút lên không.
Cả Trai và Gái đều mong rằng trong số người chứng kiến hiện tượng kỳ lạ ấy nhất định phải có dì Tư giờ này đang dõi mắt chờ Gái từ bãi rau về và ông Bảy, ông tiên của riêng anh chàng Trai đang mến mùi hạnh phúc.
Chuyện kể của tôi tới đây tưởng như đã hết. Chính tôi cũng mong rằng, sau cái lần phóng sinh sau cùng ở xóm nước đen ấy, Trai và Gái cùng hai người thân của họ đã giã từ Mộng Ngọc và kinh nước đen đang được giải tỏa để trở về với vùng đất hứa rộng bốn chục mét vuông. Nào ngờ, trong ngay rằm tháng giêng năm sau, tôi lại gặp Trai và Gái vẫn còn lam lũ với những chiếc lồng chim phóng sinh như hồi năm trước. Trên ngực áo mỗi đứa đều có đính mẩu vải đen.
- ồ, chú tưởng các cháu đã về Hóc Môn rồi? Các cháu để tang ai vậy?
- Thưa, ông của tụi con, Gái đáp
- Dạ, ông cháu bịnh nặng vừa mất hôm trước Tết. Trai nói:
Tội nghiệp cái thân già của ông, tôi thầm nghĩ và có phần nào trách mình quá thờ ơ lãnh đạm trước sự mất còn của ông lão vớt rác. Thật tình, tôi vừa trải qua một chuyến du lịch dài mới trở lại với sinh hoạt bình thường và cũng mới trở lại chùa Vĩnh Nghiêm để thư giãn lần đầu tiên sau chuyến đi.
Tôi muốn giải tỏa sự im lặng buồn buồn:
- Chú tưởng mấy ông cháu đã về Hóc Môn rồi?
- Thưa chú, tụi con bị bể kế hoạch hết trơn. ở chỗ cháu đặt tiền cọc đã lên quận nội thành rồi, giá đất bây giờ lên gấp ba lần trước, người ta đã bán sạch hết. Họ trả lại tiền cọc chỉ đủ mua bảy tám mét chú à.
- Rồi các cháu tính sao? Tôi ngậm ngùi
Vẫn giọng thản nhiên, Trai nói:
- Bây giờ muốn có miếng đất cặm dùi tụi cháu chỉ còn cách đi xa hơn nữa, chắc cháu phải tới Chơn Thành, Lộc Ninh hay Bù Đốp, trên đó còn đất rẻ... Sau rằm này, cúng tuần ông Bảy xong, tụi cháu sẽ lên đường. Sẵn gặp chú đây, tụi cháu xin từ giã chú, chúc chú khỏe mạnh, sống lâu.
Trai nói, giọng chắc nịch, tỉnh như không. Anh tự tin vào cuộc sống đến nỗi, lòng tin của anh đã lây sang tôi, một kẻ già nua yếu đuối, tuy cuộc sống khá đầy đủ nhờ có công lao và có chế đệ chăm sóc nhưng lắm khi lòng tin không mạnh bằng hai người thanh niên xóm nước đen này. Những cuộc đời chìm nổi thường mang lại nhiều đức tin cho cuộc sống hơn là những cuộc đời suôn sẻ. Quỹ lòng tin của tôi đã sử dụng và vơi đi nhiều, còn quỹ nghi ngờ thì lại tăng dần lên, lúc nào cũng đầy ắp. Thế là tôi đã được bổ sung lòng tin từ một anh chàng bẫy chim tật quyền và cô gái trồng rau muống trên một dòng kinh đen. Tôi viết những dòng này thay cho lời từ biệt và để tỏ lòng biết ơn hai người bạn trẻ đáng yêu cũng như tôi đã từng cám ơn những người dân thường trong cuộc sống đã từng giúp tôi trong những lần khủng hoảng lòng tin tương tự...