TP - Bộ hồ sơ ta thu được tại Nha Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia của chính quyền Sài Gòn có đoạn: "Từ trước đến nay, ngoại trừ những giai thoại giả tưởng trong tiểu thuyết trinh thám, chưa bao giờ có những tổ điệp báo thành công đến như thế.
Cụm A.22 hoạt động do ông Vũ Ngọc Nhạ cầm đầu phát triển đều đặn và thi thố nhiều thủ đoạn mà chúng ta phải nhìn nhận là huyền diệu và xuất sắc.
Cụm đã phát triển một hệ thống điệp vụ vô cùng quan trọng và đã len lỏi vào được nhiều cơ quan đầu não của Việt Nam cộng hòa.
Những tin tức chiến lược mà Cảnh sát Quốc gia biết họ cung cấp, đều có giá trị giúp cho Hà Nội có được những dữ kiện chắc chắn khi ấn định chính sách của họ đối với cuộc chiến tranh".
Từ những năm 1960 ông Vũ Ngọc Nhạ đã khá nổi tiếng. Báo chí Sài Gòn và nhiều tờ báo lớn ở các nước phương tây nhắc đến ông với những câu chuyện bí ẩn ly kỳ và đầy vẻ thán phục, ngưỡng mộ.
Đến năm 1975 khi hai miền Nam Bắc thống nhất, nhân dân cả nước, và đặc biệt là quê hương ông, làng Cọi Khê - Vũ Thư - Thái Bình mới hiểu được chiến công kỳ diệu của người con quê mình, nhà tình báo mưu lược, dũng cảm, trở thành "ông cố vấn" cho ba đời tổng thống của chính quyền Sài Gòn mà vẫn hướng tâm mình về với cách mạng, về với nhân dân.
Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ, sinh năm 1925 tại làng Cọi Khê. Cuộc sống lam lũ và những bất công của xã hội phong kiến nửa thuộc địa sớm ăn sâu vào tâm khảm Vũ Ngọc Nhạ.
Năm 15 tuổi Nhạ được bố đưa vào Huế theo học tại trường trung học Thuận Hóa. Những năm học ở trường Thuận Hóa, Vũ Ngọc Nhạ được thầy hiệu trưởng Tôn Quang Phiệt bố trí vào tổ chức thanh niên cứu quốc và được giao nhiệm vụ chuyển thư từ, phân phát tài liệu cho tổ chức.
Năm 1947 Vũ Ngọc Nhạ tình nguyện vào quân ngũ, công tác tại thị đội thị xã Thái Bình.
Năm 1952, Vũ Ngọc Nhạ mang tên Vũ Ngọc Kép, có mặt trong đoàn đại biểu quân sự tỉnh Thái Bình đi dự hội nghị chiến tranh du kích Bắc Bộ tại Việt Bắc do Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái chủ trì.
Trong hội nghị này, Nhạ lần đầu tiên được gặp Bác Hồ. Bác căn dặn: "Phải luôn luôn hết lòng vì dân - Dựa vào dân thì việc gì cũng thành công". Tại hội nghị, Vũ Ngọc Nhạ nhận nhiệm vụ quan trọng do Hồ Chủ Tịch và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao phó.
Lời Bác dặn năm ấy ông Nhạ vẫn nhớ như in, "Nhiệm vụ của chú là phải bằng mọi cách để biết được Mỹ đang làm gì, Mỹ sẽ làm gì và Mỹ đã làm gì".
"Thày Hai là Hoàng Long"
Năm 1954, hòa bình lập lại, với tờ căn cước hợp pháp, trút bỏ trang phục anh bộ đội Cụ Hồ, Vũ Ngọc Nhạ đóng vai một sĩ quan chính quyền Sài Gòn. Ông đưa vợ con từ làng Cọi Khê, xã Vũ Hội theo quân đội Pháp xuống tàu Hải Phòng di cư vào Nam. Cuộc chiến đấu thầm lặng, đầy mạo hiểm bắt đầu từ đây.
Vũ Ngọc Nhạ nói: "Ngày đầu vào Sài Gòn, một lần đi qua Dinh Độc Lập đứng ở ngoài nhìn, tôi thầm ao ước một ngày nào đó mình sẽ được lọt vô đây. Chưa dám mơ ngày đó thì tôi bị mật vụ Sài Gòn do Dương Văn Hiếu bắt cóc rồi đưa ra biệt giam tại tòa khâm sứ ở Huế.
Từ cái vỏ bọc của tổ chức bọc cho tôi. Gia đình tôi đóng vai một gia đình giáo dân di cư vào Nam. Dựa vào ảnh hưởng của đức cha Lê, cha Hoàng ở nhà thờ Bình An và Phát Diệm mà tôi có dịp quen biết. Chế độ Ngô Đình Diệm rất cần sự ủng hộ của các linh mục này, những người chống cộng quyết liệt.
Tôi đã thể hiện mình là cầu nối cho họ đến với nhau. Từ đó dần dần tôi chiếm được lòng tin của Ngô Đình Cẩn cố vấn miền Trung. Cẩn bắc cầu cho tôi sang cha Thục, ông Nhu và Ngô Đình Diệm.
Là phụ tá của đức cha Lê, cố vấn cho gia đình Ngô Tổng thống, tôi có điều kiện tiếp cận với các quan chức cao cấp trong chính quyền Sài Gòn, với Tòa thánh Vatican, Giáo chủ Pièrre, Khâm sứ Tòa thánh Sài Gòn, Đức Hồng y Spanman Mỹ. Qua đây tôi nắm được khá nhiều tin tức quan trọng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn để cung cấp về trung tâm của ta.
Nằm trong Phủ Tổng thống, có lúc nào ông bị nghi ngờ? Thường xuyên bọn mật vụ theo dõi. Tôi luôn biến nghi ngờ thành đức tin để bọc mình và thoát hiểm. Anh em Ngô Tổng thống coi tôi như ruột thịt. Một hôm họp gia đình có đủ Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, Lệ Xuân, Ngô Đình Cẩn và tôi, Ngô Đình Diệm tự đặt biệt danh năm con rồng cho năm anh em.
Ông bảo: "Từ nay Ngô Đình Thục là Hồng Long, Ngô Đình Diệm là Bạch Long, chú Nhu là Thanh Long, chú Cẩn là Hắc Long, thày Hai (tức Vũ Ngọc Nhạ) là Hoàng Long. Đã là anh em trong nhà, thày Hai không cần phải ý tứ gì". Anh em Ngô Đình Diệm càng tin tôi, quý tôi, bọn CIA và bọn mật vụ lại càng để mắt đến tôi.
TP - Được biết Nguyễn Văn Thiệu cũng rất tin ông, đó là điều kiện tuyệt vời để ông rút ruột ông Thiệu?
Không chỉ ông Thiệu – Vũ Ngọc Nhạ tiếp. Người Mỹ cũng cần tôi, vì tôi là cố vấn của Nguyễn Văn Thiệu, qua tôi để thăm dò ông Thiệu. Và ông Thiệu cũng dựa vào tôi để biết ý tứ người Mỹ. Tôi có điều kiện nắm bắt tình hình cả hai bên.
Anh, em trong lưới tình báo của ông ngày đó nằm trong dinh Tổng Thống được sắp xếp thế nào?
Lọt vào làm việc nắm quyền hành trong Dinh Độc Lập là một nghệ thuật cựu kỳ mạo hiểm. Việc này do tổ chức và tôi đã thiết kế đưa từng anh em chui thật sâu vào trong lòng địch, nắm địch.
Họ giữ những trọng trách gì? Nay còn ai không?
Huỳnh Văn Trọng làm cố vấn ngoại giao Phủ Tổng thống. Nguyễn Xuân Hòe là ủy viên văn phòng Tổng thống. Lê Hữu Thúy ủy viên phụ tá thông tin chiêu hồi. Và ông Vũ Hữu Duật đây, ông Nhạ chỉ tay về phía người đang ngồi bên trái chiếc ghế của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1954, khi đồng chí Mười Hương được trung ương cử về Thái Bình lấy tôi và ông Duật đi làm nhiệm vụ đặc biệt, lúc ấy ông Vũ Hữu Duật là thị ủy viên Trưởng ban tuyên giáo thị ủy Thái Bình.
Thời ông Ngô Đình Diệm, ông Duật được ta cài vào làm việc tại tổng nha cảnh sát chính quyền Sài Gòn. Thời Nguyễn Văn Thiệu, ông Duật là ủy viên tuyên huấn trung ương lực lượng tự do và làm phó tổng thư ký thường trực đảng liên minh dân chủ (đảng cầm quyền của Nguyễn Văn Thiệu). Nay cả lưới chỉ còn hai chúng tôi. Gia đình tôi và gia đình ông Duật vừa di thắp hương cho đồng đội của mình ở nghĩa trang đô thành.
Trong lúc Nguyễn Văn Thiệu tin dùng Vũ Ngọc Nhạ, hai người như bóng với hình. Ngược lại, Cục tình báo CIA Mỹ lại luôn ngờ vực ông. Cuộc chiến đấu thầm lặng trong cạm bẫy và những thử thách nghiệt ngã luôn luôn đối mặt từng ngày. Làm thế nào để vừa giữ mình, hoạt động có hiệu quả, vừa bảo đảm an toàn cho toàn lưới A22. Chỉ sơ sảy một tí là nguy hiểm ập đến, là đổ vỡ hoàn toàn. Vũ Ngọc Nhạ luôn phải vắt óc, trăn trở nghĩ suy.
Có một tình huống xảy ra ở phòng tổng Thống cách đây hơn 30 năm. Vũ Ngọc Nhạ kể:
Hôm ấy tại cái phòng này, Nguyễn Văn Thiệu tiếp một số quan chức cao cấp của chính quyền Sài Gòn và quan chức người nước ngoài tới làm việc. Tôi có mặt với tư cách cố vấn của Tổng thống Thiệu. Ngồi cạnh tôi là ông Raymond J.de Jaegher – cố vấn của Tổng thống Mỹ Nixơn. Ông ta nhìn tôi rất lâu, rồi đột nhiên hỏi: “Ông không phải là người Việt Nam?”.
Tôi giật mình, cố tĩnh tâm để không thay đổi sắc mặt, nhưng mồ hôi toát ra. Tại sao ông ta lại bảo mình không phải là người Việt Nam? Hay ông ta nghĩ người Việt Nam tức là Việt Nam Cộng Hòa. Có nghĩa là ông ta bảo mình là Việt Cộng. Hay là mình bị lộ? Tôi chợt nhớ ra Jaegher là người Mỹ gốc Bỉ nhập quốc tịch Mỹ và từng có thời kỳ làm cố vấn cho Tưởng Giới Thạch. Tôi liền buông một câu thăm dò: “Ông không phải là người Mỹ”.
Tôi không ngờ mình đã phóng mũi tên trúng đích. Ông Raymond J.de.Jaegher đứng phắt dậy chìa tay bắt tay tôi, nói nhỏ: “Ông không phải người Việt Nam. Tôi không phải người Mỹ. Đúng vậy. Nhưng ông đang làm cố vấn cho Chính phủ Việt Nam. Tôi đang làm cố vấn cho Chính phủ Mỹ. Chúng ta sẽ hợp tác chặt chẽ với nhau nghe”.
Từ đó tôi và Jaegher thường xuyên trao đổi tin tức cho nhau.
Đầu năm 1969, theo chỉ đạo của cấp trên, ông dự định thiết lập một Chính phủ Việt Nam Cộng hòa gồm hầu hết là những người trong lưới tình báo vào các vị trí quan trọng trong Chính phủ?
Danh sách các thành viên Chính phủ đã được Nguyễn Văn Thiệu phê duyệt để trình Quốc hội. Theo đó, Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục giữ chức tổng thống. Huỳnh Văn Trọng (người của ta) dự định là Thủ tướng Chính phủ. Vũ Hữu Duật đây, ông Nhạ giơ tay về phía ông Duật đang ngồi cạnh tôi, làm Bộ trưởng phụ trách chính trị.
Vũ Xuân Hòe (người của ta) làm Bộ trưởng Kinh tế. Lê Hữu Thúy (người của ta) làm Bộ trưởng thông tin chiêu hồi... Ông Lê Hữu Thúy, khi đương chức phụ tá thông tin chiêu hồi của Nguyễn Văn Thiệu, là một trong những chiến sỹ tình báo trong lưới của tôi lập công đặc biệt xuất sắc. Năm 2000 vừa qua, Lê Hữu Thúy được Đảng, Nhà nước và quân dội tuyên dương là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Vì sao các chiến sỹ tình báo của ta nằm trong danh sách nội các mới của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không thành?
Bọn CIA và mật vụ nghi chúng tôi thao túng Dinh Độc Lập, nên theo dõi sát sao và giăng bẫy khắp nơi. Chúng gặp Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cảnh báo ông ta rằng một lưới tình báo Bắc Việt trong Dinh Tổng thống đang ngầm phá Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cầm đầu lưới này là Vũ Ngọc Nhạ, người mà ông tin cẩn nhất. Trước đó tôi đã nói điều đó với ông Thiệu.
Ông Thiệu nghĩ gì khi Mỹ tố cáo ông là gián điệp Bắc Việt?
Lúc đầu ông Thiệu cho rằng Huỳnh Văn Trọng, Vũ Hữu Duật có thể là gián điệp. Ông không tin người Mỹ cho tôi là cộng sản nằm vùng và bảo đây chỉ là mưu đồ người Mỹ muốn hạ uy tín của ông. Nhưng sau đó người Mỹ tới Dinh Độc Lập dùng áp lực dọa Nguyễn Văn Thiệu. Họ nói: “Nếu ông không ký lệnh bắt Vũ Ngọc Nhạ, ông sẽ mất chức Tổng thống”.
Thế là ngày 16/7/1969, cả lưới của tôi sa vào tay địch.
TP- Ngày ấy, báo chí Sài Gòn đưa tin rùm beng trên những hàng tít lớn: "Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại". "Vụ án chính trị của thế kỷ". Các bị cáo đều là những nhân vật trọng yếu trong chính phủ Sài Gòn, người là cố vấn đặc biệt của tổng thống, người là cấp bộ trưởng, người là tham chính văn phòng bộ chiêu hồi.
Vũ Ngọc Nhạ, người bị tố cáo cầm đầu lưới gián điệp, xuất hiện trước tòa với bộ áo trắng, quần đen, cà vạt nâu, miệng luôn luôn tươi cười. Ông từ chối luật sư biện hộ cho mình, và cũng không tự bào chữa. Ông tuyên bố những việc mình đã làm chỉ có lịch sử phán xét.
Sau vụ án, chúng đưa các ông Vũ Xuân Hòe, Lê Hữu Thúy, Vũ Hữu Duật ra đày ngoài Côn Đảo. Vũ Ngọc Nhạ và anh Huỳnh Văn Trọng bị chúng giam tại Sài Gòn đến đầu năm 1970 mới đưa ra Côn Đảo.
- Làm thế nào từ Côn Đảo ông lại về Sài Gòn rồi lại vào Dinh Độc Lập tiếp tục hoạt động? - Tôi hỏi.
- Tôi không nghĩ mình bị bắt là hết. Mỗi lần bị bắt lại phải nghĩ cách tìm cho mình một con đường mới, bọc mình một lớp vỏ mới. Ở Côn Đảo, cả lưới của chúng tôi giam chung một biệt khu, nên anh em bàn nhau rất kỹ về đường đi, nước bước sau đó. Chúng tôi nhận mình là lực lượng thứ ba, có cơ hội sẽ hợp pháp hóa để hoạt động. Khi hiệp định Paris được thi hành, năm 1973, tôi và anh Huỳnh Văn Trọng được trao trả tại Lộc Ninh. Cha Hoàng cùng một số linh mục ở Bình An - và khối công giáo Phát Diệm móc nối đón tôi vào Sài Gòn.
- Khi bị bắt vì tội là cộng sản làm gián điệp, các cha đạo vẫn tin ông?
- Họ nghi tôi bị oan và cho tôi là một con chiên ngoan đạo hết lòng vì chúa, vì hòa bình. Theo chỉ đạo của trung tâm, đầu năm 1974, tôi trở lại Sài Gòn với tư cách là người của lực lượng thứ ba.
- Tổ chức của ta dự định ông sẽ tham gia trong chính phủ ba thành phần?
- Nhưng chính phủ ba thành phần không ra đời vì tình hình phát triển theo một xu thế khác. Tôi được giao nhiệm vụ củng cố, hình thành lưới tình báo mới, xây dựng lực lượng thứ ba, đưa người của cách mạng vào nội thành chuẩn bị cho ngày toàn thắng.
- Ông đã chứng kiến sự tan rã, sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và ông Thiệu?
Theo chỉ đạo của trên, tôi dựa vào các linh mục có uy tín trong khối công giáo để ép Nguyễn Văn Thiệu từ chức và góp phần dàn xếp cho tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống thay Thiệu.
- Rời ghế tổng thống, ra khỏi Dinh Độc Lập, Nguyễn Văn Thiệu có liên hệ với ông?
Những ngày cuối cùng ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Thiệu gọi điện cho tôi. Từ đầu dây, ông ta nói: "Thầy Hai góp ý cho tôi lúc này tôi nên xử sự thế nào?". "Ông nên đi khỏi Sài Gòn". "Đi đâu?".
Tôi phân tích tình hình, khẳng định thế tất thắng của cách mạng Việt Nam và chính sách hòa hợp dân tộc, rồi khuyên Nguyễn Văn Thiệu: "Đi đâu là tùy ông, nhưng ông nên trừ nước Mỹ". "Vì sao tôi không đi Mỹ?". "Sang Mỹ, họ sẽ giết ông".
Theo góp ý của tôi, Nguyễn Văn Thiệu đưa vợ con đi Hồng Kông, rồi sang cư trú tại Anh quốc. Cuối năm 2001, ông Thiệu qua đời.
* * *
Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ tâm sự, sở dĩ A 22 của ông có được chiến tích như vậy, ngoài cố gắng của anh em trong lưới tình báo, còn có công rất lớn của ông Mười Hương. "Thời kỳ đầu ông trực tiếp chỉ đạo chúng tôi. Ông từng chịu cảnh tra tấn tù đày vì chúng tôi".
Mười Hương, tên thật là Trần Quốc Hương, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương. Giữa những năm 1950, Trần Quốc Hương được Trung ương cử vào miền Nam hoạt động bí mật, trong đó có nhiệm vụ chỉ đạo lưới tình báo chiến lược H10 - A22 của Vũ Ngọc Nhạ.
Năm 1958, Vũ Ngọc Nhạ bị mật vụ bắt cóc ở Sài Gòn rồi đưa ra giam tại Huế. Ngày đó lưới A22 mới hình thành, anh em còn rất ít kinh nghiệm. Nằm trong nhà giam, ngày đêm Vũ Ngọc Nhạ lo tính mạng thủ trưởng của mình, lo tính mạng của anh em bên ngoài!
Ông bảo: "Hôm ấy bỗng trời đổ cơn giông, ngoài phòng giam gió thổi ào ào, hàng cây trước cửa nghiêng ngả, sân tòa khâm sứ cát bay mờ mịt. Ở trong phòng giam Vũ Ngọc Nhạ nghe rõ tiếng quát tháo bên ngoài: "Đù mẹ mấy cha cộng sản ngoan cố. Vô đây xem chúng bay còn gan lì được không".
Vũ Ngọc Nhạ ghé mắt nhìn qua hàng song sắt. Ông bàng hoàng nhận ra bốn người trong lưới của ông bị còng hai tay, một tên mật vụ vừa dong, vừa đạp ngã dúi dụi. Đi đầu là Lê Hữu Thúy mặt bầm tím, tiếp sau Huỳnh Văn Trọng bước tập tễnh. Rồi đến Vũ Xuân Hòe máu me đầy mặt. Người đi cuối cùng, hai mắt sưng híp là Vũ Hữu Duật. Nhìn cảnh tượng anh em của mình trong tay địch, ông Nhạ vừa thương vừa nghi ngờ có người phản bội.
Ít phút sau, lại một tên mật vụ áp tải một người nữa đi qua phòng giam. Người này thấp bé, vẻ mặt kiên nghị, Vũ Ngọc Nhạ nhận ra ngay, đó là đồng chí Mười Hương. Thì ra chúng cất một mẻ gần hết anh em trong lưới A22.
Trong những ngày ở nhà giam, địch dùng mọi thủ đoạn nham hiểm và tra tấn rất dã man Mười Hương. Biết ông là một nhân vật cộng sản tầm cỡ, gan góc, lợi hại, Ngô Đình Nhu đích thân từ Sài Gòn bay ra Huế. Khi giáp mặt Mười Hương, Ngô Đình Nhu nói:
- Bây giờ ông đang ở trong tay chúng tôi, ông biết mình phải làm gì chứ? Chẳng lẽ cộng sản các ông chỉ có một mục tiêu là hy sinh ư? Các ông cũng cần phải tồn tại. Đồng đội của ông nằm trong nhà lao của chúng tôi đây cũng cần phải sống.
Mười Hương trả lời:
- Vâng, nhưng chúng tôi không sống nô lệ. Dù ông có cho người giết tôi, cũng không lấy gì được ở tôi đâu. (Còn nữa)
TP - Ngày 25/4/2002, chúng tôi tới thăm gia đình ông Mười Hương tại 45 Tú Xương, quận Ba, thành phố Hồ Chí Minh. Ông đã bước vào tuổi bát niên giai lão, di chứng liệt một cánh tay. Nhưng đôi mắt vẫn sáng, đặc biệt, sự minh mẫn và trí tuệ của ông còn tuyệt vời.
Anh Đỗ Văn Hùng, thư ký của ông, cho biết, ông vừa dự kỳ họp của Bộ Chính trị ngoài Hà Nội về. Hầu hết các cuộc họp T.Ư quan trọng đều mời ông tham dự và đóng góp ý kiến. Ông mới ở Hà Nội vô, còn đang mệt, nhưng vẫn nhận lời tiếp chúng tôi.
Cuộc đời hoạt động của Trần Quốc Hương (tức Mười Hương) lặng lẽ, bình dị nhưng đầy mạo hiểm. Tháng 3/1942, Trần Quốc Hương mới 16 tuổi, đang thi hành một công vụ của tổ chức thanh niên dân chủ thì bị mật thám Pháp bắt.
Chúng đưa ông vào giam tại Hỏa Lò. Sau một năm giam cầm, tra khảo, không tìm ra nhân chứng, hơn nữa Trần Quốc Hương chưa đủ tuổi thi hành án, mật thám Pháp thả ông.
Thời kỳ 1955 – 1960, Trần Quốc Hương vào Sài Gòn ém mình ngay trong lòng địch để hoạt động, chỉ đạo một lưới tình báo đặc biệt. Hơn 50 năm sau, được ngồi bên ông, ghi chép những cống hiến của ông đối với cách mạng, tôi hỏi:
Ngày đó, ông Nhạ và anh em trong lưới đều đóng giả là người của chính quyền Sài Gòn. Còn ông? Ông nắm anh em bằng cách nào?
“Tôi thường đóng vai một người bạn theo đạo Thiên chúa giáo cùng di cư vào Nam với ông Nhạ, đến thăm gia đình ông”, Trần Quốc Hương nói.
“Tháng một lần, có tháng đôi ba lần tùy theo công việc. Qua việc thăm hỏi, trò chuyện, tôi nắm tình hình rồi phản ánh về trung tâm và truyền đạt nhiệm vụ của cấp trên cho anh em trong lưới”.
Trần Quốc Hương có đức tính cẩn trọng, chu đáo luôn lo sự bảo tồn tính mạng của đồng đội. Để che mắt địch, một lần đến thăm gia đình giáo dân Vũ Ngọc Nhạ, nhìn quanh nhà không thấy treo tượng chúa, ông cho người kiếm bức tượng Giê-su và cây thánh giá mang đến và dặn bà Nhẫn vợ ông Nhạ: “Bà treo những thứ này lên tường nghe. Người ta đến nhà giáo dân không thấy treo tượng chúa, họ sẽ nghi ngờ”.
Trần Quốc Hương tiếp: “Ngày đó, vợ chồng ông Nhạ có cô con gái lớn tên là Khiêm. Con bé nết na khôn ngoan, lại chịu thương, chịu khó, thường xuyên giúp bố chuyển tin tức thư từ ra trung tâm. Bé Khiêm làm liên lạc cho bố ngày ấy nay đã có hai con. Cô còn có tên gọi là Hải, hiện là bác sỹ giỏi của Bệnh viện Chợ Rẫy đấy”.
Đề nghị mãi, Mười Hương mới ý tứ thổ lộ đôi điều về những công việc mà ông đã dìu dắt anh em trong lưới A22. Ông kể: “Một hôm tôi bảo Vũ Ngọc Nhạ, anh có dáng một con chiên, một thầy tu. Anh đang được các linh mục và cha cố yêu mến, tin tưởng. Theo mình anh cứ tập trung đi sâu vào khối công giáo. Cứ bám lấy họ, biến mình thành người của họ.
Chính quyền Sài Gòn chủ yếu dựa vào lực lượng công giáo để chống cộng. Họ dựa vào các linh mục, cha cố nhằm tăng cường lực lượng đảng phái chính trị. Mình có vị thế trong công giáo, chúng dựa vào công giáo, tức là dựa vào mình. Đây là cái vỏ bọc tốt để luồn sâu vào cơ quan đầu não của địch”.
Quả nhiên sau đó, cũng nhờ chính cái vỏ bọc này, Vũ Ngọc Nhạ lọt được vào Dinh Độc Lập. Từ đây ông tổ chức thành công một lưới tình báo chiến lược, âm thầm đục phá suốt mấy đời tổng thống của chính quyền Sài Gòn.
Im lặng một lát, Trần Quốc Hương nói tiếp: “Phải nói Vũ Ngọc Nhạ hóa thân thành một con người khác thật tuyệt. Tôi còn nhớ một lần tôi đưa Vũ Ngọc Nhạ ra căn cứ của ta ở ngoài Củ Chi để gặp cấp trên. Hôm ấy, trong lúc làm việc, tôi thấy anh Mai Chí Thọ, người được Trung ương cử vào nắm tình hình, nhìn Vũ Ngọc Nhạ một cách chăm chú khác lạ. Lúc giải lao, anh Mai Chí Thọ kéo tôi ra ngoài nói nhỏ: “Anh phải cẩn thận và cảnh giác với thằng cha Nhạ nghe”.
Nghe anh Thọ nói, tôi ngớ người không hiểu đầu cuối ra sao. Vũ Ngọc Nhạ là một thị ủy viên, trưởng thành từ một cán bộ quân đội thời kỳ kháng chiến ở Thái Bình. Là người do tổ chức của ta cài vào, rất năng nổ và hoạt động đang có hiệu quả. Sao cấp trên lại nghi ngờ anh? Hay có điều gì?
Tại sao lại phải cảnh giác với Vũ Ngọc Nhạ?
Anh Mai Chí Thọ vẻ mặt quan trọng: “Mình trông nó hệt một ông linh mục. Từ dáng đi, giọng nói, đôi mắt đến tính cách, y như là một thằng cha đạo phản động”. “Thưa anh, Vũ Ngọc Nhạ có giống một thằng cha cố phản động, anh ấy mới tồn tại trong lòng địch được. Nếu cứ ngay thẳng thật thà hoặc ngụy trang nửa vời thì chúng nó bóp chết từ lâu rồi. Anh Nhạ thể hiện như thế, đúng vai kịch bản của tôi đấy”.
Ông Mười Hương nói tiếp: “Thực ra khi ấy anh Mai Chí Thọ rất tin tôi. Nhưng cái thằng cha đạo phản động lẫn trong bóng hình con người ông Nhạ đôi lúc vẫn làm anh Thọ chưa yên lòng. Có lần anh nói với tôi thế. Mãi đến sau này cả lưới A22 lập công suất sắc được tuyên dương anh hùng, anh Mai Chí Thọ mới chúc mừng tôi.
Anh bảo: Cậu khá lắm, cậu dàn kịch bản cho thằng Nhạ thật tuyệt vời. Mình rất mừng. Một đồng chí của ta đội lốt kẻ địch đến mức người của ta cũng không nhận ra quả là điều kỳ diệu đối với nghệ thuật tình báo mà chính mình cũng không thể tưởng tượng”.
TP - Ba mươi năm sau giải phóng Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ - nguyên cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, và ông Vũ Hữu Duật - nguyên Phó Chủ tịch thường trực Đảng Liên minh Dân chủ, đảng cầm quyền của Nguyễn Văn Thiệu, hai người còn lại duy nhất của lưới tình báo H10 - A22 đưa vợ vào thăm Dinh Độc Lập.
Hiểu và cùng chia sẻ với các ông chính là những người vợ. Lưới A22 được tuyên dương đơn vị anh hùng, có người nói đóng góp một nửa là công những bà vợ của anh em trong lưới.
Ông Lê Hữu Thúy, một mắt xích cực kỳ quan trọng của lưới tình báo A22, khi được tuyên dương là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tâm sự: “Người được tuyên dương anh hùng lẽ ra phải là vợ tôi chứ không phải tôi. Không có bà ấy, tôi làm sao làm nổi những việc đã làm”.
Vợ ông, bà Ngô Thị Như, người đàn bà xuất hiện trong cuộc đời của ông như một thiên tình đời lãng mạn hiếm có. Năm 1955, khi Lê Hữu Thúy được ta cài vào làm phụ tá cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ chính quyền Sài Gòn là Ngô Văn Nhậm, ông Bộ trưởng có cô con gái rất xinh đẹp tên là Bạch Tuyết.
Rồi Tuyết si mê say đắm Thúy và yêu anh hết mực. Bố cô, ông Bộ trưởng Ngô Văn Nhậm cũng muốn gả con gái của mình cho Lê Hữu Thúy. Lúc đầu Thúy cũng rất thích Bạch Tuyết vừa xinh, vừa tình tứ. Lê Hữu Thúy từ chối khéo, nói là mình đã có gia đình.
Khi Ngô Thị Như chấp nhận làm vợ Lê Hữu Thúy, bà biết con đường ông đang đi là rất nguy hiểm. Bà hiểu công việc của ông và sẵn sàng chia sẻ cùng ông.
Tháng 2 năm 1960, Ngô Thị Như bồng bế ba đứa con nhỏ ra Huế để nuôi chồng trong tù. Cuộc sống những năm tháng ở tù thật cơ cực. Nhà lao chỉ chia hai suất cơm cho người lớn, ông bà phải xẻ ra cho ba đứa con, nên cả nhà thường bị đói. Đói khổ, nhưng có ông ở bên, bà vẫn cảm thấy hạnh phúc. Bà sinh cho ông thêm một đứa con ở trong tù.
Tôi có nguy hiểm cũng không bằng ông Nhạ bị bắt
Ông Vũ Hữu Duật, nguyên thị ủy viên Thái Bình, một đường dây quan trọng của Vũ Ngọc Nhạ trong Phủ Tổng thống, nói: “Khi tôi lên làm Phó Chủ tịch Đảng Dân chủ, đảng của ông Thiệu, mọi người cứ tưởng gia đình tôi giàu có lắm”.
Bà Phạm Thị Kim Chi, vợ ông Duật kể: “tháng 8/1954, bà cùng gia đình ông Vũ Ngọc Nhạ trên chuyến tàu di cư vào Nam. Ông Nhạ do tổ chức bố trí đóng vai một trung úy ngụy. Trước lúc tàu chạy, bọn mật vụ đi kiểm tra, lục soát và ngó mặt từng người. Bà Chi đổi chiếc túi cho ông Nhạ, rồi ôm chiếc túi có lá cờ và bế thằng con áp vào để che mắt địch. Lá cờ được mang vào miền Nam an toàn.
“Bà cũng không sợ khi nhận chiếc túi có lá cờ”, chúng tôi hỏi. Bà Chi nói: “Tôi có nguy hiểm cũng không bằng ông Nhạ bị bắt. Vì ông đang đi làm nhiệm vụ đặc biệt cùng chồng tôi”.
Bà Nguyễn Thị Nhẫn, vợ ông Vũ Ngọc Nhạ, cho biết, hơn 20 năm ông Nhạ sống bên cạnh kẻ thù là 20 năm bà phấp phỏng không yên.
Vợ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là người rất tôn kính và sùng bái Vũ Ngọc Nhạ. Biết hoàn cảnh gia đình ông khó khăn, nhiều lần bà ta cho tiền, ông cũng đều từ chối. Có lần bà Thiệu nhờ người tin cẩn đem năm cây vàng và một số tiền đến nhà Nguyễn Thị Nhẫn (vợ ông Nhạ) ở xóm Chợ Thị Nghè, bà Nhẫn cũng một mực không nhận.
Bà Nhẫn bảo: “Mình nhận tiền của họ thì phải làm theo họ. Làm theo họ có nghĩa là mình đã phản bội rồi. Biết nhà tôi không ai lay chuyển nổi, tôi càng yên tâm và xác định dẫu phải chạy chợ suốt đời nuôi chồng, nuôi con, tôi cũng không quản ngại”.
Diệu kỳ
Một tai họa lớn ập xuống đầu những người vợ của anh em trong lưới A22 vào đúng ngày 16/7/1969. Bọn địch đưa tin, đã phát hiện ra một nhóm cộng sản nằm trong Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Bà Nguyễn Thị Nhẫn nói: “Sau khi nhà tôi bị bắt, bọn mật vụ kéo đến bao vây lục soát, rồi nằm lì trong nhà tôi hàng tháng trời. Chúng dọa nạt không lúc nào yên, mẹ con tôi nhiều đêm không ngủ được. Chúng đưa ông Nhạ về nhà đối chất và lục soát. Chúng đánh ông ấy bầm tím chân tay, mặt mày sưng húp. Mang bầu mới hơn bảy tháng, tôi đã sinh con”.
Trên con tàu SG - 17 chao đảo trên sóng, có ba người đàn bà vẻ mặt trầm ngâm hướng ra phía đảo xa. Đó là các bà Nguyễn Thị Nhẫn - vợ Vũ Ngọc Nhạ, Ngô Thị Như - vợ Lê Hữu Thúy, Phạm Thị Kim Chi - vợ Vũ Hữu Duật đang nằm trong chuồng cọp ngoài Côn Đảo. Các bà ra thăm chồng.
Bà Phạm Thị Kim Chi kể, những ngày các bà ra nuôi chồng ngoài Côn Đảo, nhà tù không có phòng riêng dành cho vợ chồng tù nhân. Phải đợi màn đêm buông xuống, từng đôi mới dắt díu nhau ra hàng dương ngoài bãi đảo tâm sự.
Biển ầm ào suốt ngày đêm. Mấy ai ngờ bên những hàng dương nghiêng ngả trên bờ đảo lại có một sự sống kỳ diệu. Những cặp tù nhân yêu nhau nồng cháy, tha thiết. Hình như họ bù đắp cho nhau những ngày nhớ nhung xa cách.
Lần ra đảo đầu tiên thăm chồng, bà Chi vừa thẹn vừa lo. Nhưng khi nghe chồng kể lại câu chuyện 200 tù cộng sản đóng năm con thuyền lớn dưới hầm suốt cả năm trời chuẩn bị cho chuyến vượt ngục năm 1952 mà bọn chúa đảo vẫn không hay biết thì bà mới yên tâm.
Sau lần ra đảo nuôi tù trở về, cả ba bà đều mang thai. Riêng bà Kim Chi, hai lần ra thăm chồng ngoài Côn Đảo về sinh được hai con, một trai một gái.
Cuộc hội ngộ cảm động
Bà Ngô Thị Như, người ngồi đốt tài liệu mật của địch ở nhà lao tòa Khâm Huế, mười năm sau khi ra nuôi chồng ở nhà tù Côn Đảo, lại làm một việc mạo hiểm đầy ý nghĩa.
Ông Lê Hữu Thúy lấy được bản báo cáo mật của chúa đảo gửi cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về con số tù chính trị tại Côn Đảo. Bà mang tài liệu này về chuyển cho cơ sở cách mạng.
Bản tài liệu là chứng cớ buộc địch phải trao trả hết 12.000 tù chính trị ở Côn Đảo cho ta năm 1973.
Hai mươi năm sống trong lòng địch, vừa nuôi chồng trong tù, vừa nuôi dạy chín con ăn học. Bà Như bảo, những năm tù đầy gian khổ ác liệt, bà không sợ, nhưng sau ngày hòa bình bà lại hoang mang.
Mãi đến năm 1990, tức 15 năm sau, ông mới được phục hồi đảng tịch, được thăng cấp từ thượng úy lên đại tá và đặc biệt, được Đảng và Nhà nước tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hôm đi dự lễ đón nhận danh hiệu anh hùng, ông đưa bà cùng đi. Ông bà cười mà nước mắt cứ dàn ra.
Bà Nguyễn Thị Nhẫn, bà Phạm Thị Kim Chi cũng trong tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Năm 1975 sau ngày miền Nam giải phóng, bà Nhẫn cùng chồng (ông Vũ Ngọc Nhạ) về thăm làng Cọi Khê, nơi chôn nhau cắt rốn của ông bà.
Thấy đoàn xe về làng, dân trong thôn xóm kéo ra rất đông. Khi ông bà Nhạ từ trên xe bước xuống, cả làng ngớ ra. Họ không ngờ một gia đình đi theo giặc mà họ từng căm thù nguyền rủa, nay lại được Đảng, quân đội trịnh trọng đưa về làng thăm quê hương. Trong cuộc hội ngộ hôm ấy nhiều người không cầm được nước mắt.
Cuộc đời những người làm tình báo nghiệt ngã là thế. Những người vợ, người thân của họ cũng chung hoàn cảnh như vậy. Vinh quang, cay đắng, luôn song hành tồn tại trong họ. Vượt qua nó không thể ngày một, ngày hai, mà có khi phải đánh đổi bằng cả đời người.