Tôi bắt đầu viết tiểu thuyết "Hòn Đất" tại Hội Văn Nghệ Giải Phóng miền Nam đóng giữa những cánh rừng già thuộc Đông Nam Bộ vào cuối năm 1964. Sang đầu năm 1965 thì tôi viết xong. "Hòn Đất" gởi ra Hà Nội và Nhà xuất bản Văn Học xuất bản đầu tiên năm 1966, đồng thời ở miền Nam tác phẩm này cùng với tập truyện và bút ký "Bức thư Cà Mau" của tôi được tặng giải chính thức giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu. Tính đến nay, "Hòn Đất" ra mắt bạn đọc đã trên ba mươi năm và được tái bản tới lần thứ tám. Sách cũng đã được dịch và xuất bản nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Espéranto, Tây Ban Nha, Nga, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản... Ngày viết "Hòn Đất" tôi còn rất trẻ, mới hăm chín. Câu chuyện Hòn Đất là một câu chuyện về một trận đánh trong hàng ngàn trận đánh xảy ra trên chiến trường miền Nam trong giai đoạn sau đồng khởi, Mỹ tiến hành chiến tranh đặc biệt. Cuộc chống cự diễn ra trong hang Hòn Đất và ngoài xóm, trong thế chênh lệch: bên ta có mười mấy người bị vây trong hang với vũ khí thô sơ, cũ kỹ, còn phía Mỹ - ngụy gồm tới gần hai ngàn quân với vũ khí tối tân. Vì sao tôi đã chọn trận đánh có thật xảy ra tại Hòn Đất - Kiên Giang vào cuối 1962 đó để viết thành một tiểu thuyết có cùng tên với địa danh ấy?
Trước hết là do bản thân câu chuyện tựa như là cả miền Nam chiến đấu được thu nhỏ, có tính tiêu biểu - có khả năng từ cái tiêu biểu mà khái quát hóa, thể hiện ở các mặt: tinh thần quân dân đoàn kết chiến đấu bất khuất dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, vận dụng phối hợp ba mũi giáp công, lực lượng đôi bên chênh lệch, và điều quan trọng hơn cả là viết ra câu chuyện này như gióng lên tiếng chuông báo trước: chiến tranh đặc biệt nói riêng và chiến tranh xâm lược nói chung bất kể dưới hình thức nào do Mỹ tiến hành sẽ thất bại. Ngoài ra, về mặt dựng truyện, một yếu tố khiến tôi tin tưởng là ngay từ trong chuyện đã xuất hiện một người con gái, đã sống và đã chết như một nữ anh hùng. Đó là chị Phan Thị Ràng, mà trong tiểu thuyết tôi đặt tên là Sứ. Việc có được và hình thành vun đắp ra được một nhân vật phụ nữ như thế, từ lâu trong đời viết của tôi luôn là niềm khao khát muốn khắc họa, và đó là sự quen thuộc, gần gũi như trước kia tôi đã từng khắc họa chị Tư Hậu trong "Một chuyện chép ở bệnh viện". Bởi lẽ đó, "Hòn Đất" là một tiểu thuyết viết về một cuộc chiến đấu mà cũng là một tiểu thuyết về một đời người con gái. Tôi đã rút ra từ nhiều mẫu người con gái miền Nam anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang để đúc lại thành một người. Đó là chị Sứ. Trong hơn ba mươi năm, tôi rất sung sướng về một chị Sứ trong Hòn Đất do tôi xây dựng nên từ một nguyên mẫu, đã trở thành nhân vật văn học đến cùng bạn đọc gần xa. Tôi hy vọng hình tượng chị Sứ sẽ sống lâu trong lòng bạn đọc, qua các thế hệ, nhất là đối với các em gái nhỏ sắp lớn lên thành những người con gái trên xứ sở xanh tươi yên bình của chúng ta hôm nay - đất nước đã thấm biết bao máu của những người cô người dì mình như Sứ. Giờ đây Hòn Đất vẫn còn đó. Trên đường đi từ Rạch Giá lên Hà Tiên, các bạn sẽ nhìn thấy trái núi xanh rì ấy mé tay trái, sát kề bên biển. Cách hang Hòn không xa là ngôi mộ chị Ràng, tức chị Sứ. Câu chuyện chiến đấu ác liệt ngày nào ở Hòn Đất đã qua lâu, nhưng chị Sứ vẫn còn. ở đó, bên vịnh biển Tây Tổ quốc ngày đêm sóng vỗ.
Quyên nói:
- Chị Ba, bây giờ chị tin em chưa, em đã nói anh Ba ảnh có quên chị đâu. Thơ ảnh viết đọc thiệt mới cảm động làm sao. Mà ảnh gởi về mười tám cái thơ rồi chớ ít ỏi gì. Đó, vậy mà chị cứ ngỡ thế này thế nọ... Thôi, thơ ảnh lạc hết rồi, còn thơ chị cũng chẳng tới tay ảnh cái nào đâu! Em ức quá, ở ngoài Bắc thì cũng là ở trong nước mình, vậy mà bảy năm trời bao nhiêu thơ gởi đều lạc mất. Thiệt là ức... Nhưng, nhưng bữa nay chị hết thắc mắc rồi, phải không? Kẻo chị cứ nói: - "E ra ngoài ổng sung sướng vui vẻ quá rồi không còn nhớ ai nữa". Đó, chị thấy oan cho anh Ba chưa?
Quyên nói với chị ruột của mình một cách vội vàng và mừng rỡ. Coi cô như bênh anh rể, nhưng chính là cô mừng cho chị cô. Cô gái chia xẻ và vun vào cái niềm vui lớn mà suốt bảy năm trời nay chị của cô mới có được. Lúc đó, đôi bàn tay đầy đặn của cô lát lát lại hoa lên, mắt cô long lanh, và đôi khi môi cô mím lại.
Cầm cái thư đưa trả cho chị, Quyên giữ lại tấm ảnh. Cô thoắt bước tới túm lấy con bé Thúy từ ngoài bậc thang nhà, kéo nó lại với cô, chìa tấm ảnh ra:
- Nghe dì út hỏi nè, ông này là ông nào đây?
- Ba của con!
Con bé nói, đưa đôi bàn tay nhỏ nhắn cầm tấm ảnh, nhìn đau đáu. Nó thì thào nhắc lại:
- Ba của con mà!
- Sao con biết?
- Má nói... má nói đó là ba của con!
Con bé ngước đôi mắt đen tròn như hai hột nhãn lên:
- Có phải thiệt là ba của con không, hở dì út?
Quyên không đáp. Cô bế thốc cháu lên bộ ván, đặt nó ngồi yên trên đùi mình, rồi mới gật nhẹ đầu:
- Phải rồi, ba của con đó. Từ giờ này phải nhớ cho kỹ nghe! Vậy là hai cha con biết mặt nhau rồi.
Quyên day sang chị:
- Chị Ba, theo như thơ anh Ba nói thì ảnh đã nhận được cái thơ sau cùng của chị, cả tấm hình chị chụp với con Thúy... Trời ơi, bảy năm ảnh mới biết mặt con Thúy đó nghe!
Rồi Quyên xỉa yêu ngón tay trỏ vào trán con Thúy:
- Bảy năm trời ba mày mới biết cái mặt mày rồi đó Thúy à. Hồi ba mày đi thì đã có mày đâu, hồi đó chưa đẻ mày mà...
Nghe em gái nói, chị Sứ liền nhớ lại hết sức rõ rệt những ngày cuối cùng anh San chồng chị trở về nhà trước khi lên đường tập kết. Những hôm ấy, cũng tại cái nhà sàn lát ván cũ kỹ này, anh San vẫn nói chuyện như thường, vẫn cười cái cười cởi mở như ngày thường. Riêng Sứ, chị mới hiểu sự bình thường ấy làm sao. Chồng chị cứ lặp đi lặp lại mấy lần: - "Hai năm thì có lâu la gì!". Nhưng trong đêm chót, anh mới nói thực điều anh đã nghĩ: - "Em à, nói vậy để má đừng lo, tội nghiệp má. Chớ với em, thì anh nói anh không tin ở hạn định hai năm đâu. Có khi chưa tới một năm thì súng sẽ nổ lại, nhưng có khi không phải hai năm mà là bốn hoặc năm năm. Nên tụi mình phải chuẩn bị tinh thần...". Anh ấy còn bảo: - "Hễ cái chuyện gì mà mình có tính trước thì chừng xảy ra mình vẫn vững hơn". Sau đó, trong đêm khuya, anh co cánh tay kéo đầu chị ngả sát vào. Lâu sau, chợt nghe anh nói, như tự nhủ: - "Không biết ở ngoài Bắc có cây trái như ở trong mình không? có soài, có măng cụt, có bưởi không? Cái gì chớ bưởi thì chắc có rồi nghe. Mà không biết bưởi ngoài đó tháng nào đâm bông, chưa chắc là gần giáp Tết như trong mình đâu...". Thoạt nghe, Sứ cho rằng anh cố nói lảng đi, nhưng liền đó chị biết. Chị biết anh đã nghĩ gì trước khi anh nói ra cái câu tưởng như bâng quơ ấy. Hai năm trước đó, trong bữa tiệc bà con Hòn Đất thết bộ đội đánh thắng ở chiến trường Long Châu Hà trở về, lúc Sứ bưng dọn thức ăn ra cho bộ đội, chị có ngờ đâu anh San đã để ý tới chị. Theo lời anh, thì lúc đó anh đã nghe thấy mùi hương bông bưởi thoang thoảng mà Sứ đã cẩn thận gội lên mái tóc dày mượt lạ thường của mình. Hai người quen nhau trong buổi liên hoan tối đó. Về sau gặp lại Sứ, lựa lúc vắng người, anh San cười hỏi khẽ: - "Sao lóng rày cô Ba Sứ không gội bông bưởi nữa?",
Sứ mím môi cười, thẹn đỏ mặt.
Chuyện của hai người là thế. Mối tình đó bắt đầu chớm hé giữa các chiến thắng ngày càng dồn dập trong cả nước, mối tình đó nảy nở giữa tháng chạp các vườn bưởi Hòn Đất đang độ ra hoa. Hai năm sau họ làm đám cưới. ấy là một đám cưới vui nhất ở vùng Hòn, đúng vào lúc ta đại thắng giặc Pháp ở Điện Biên Phủ. Từ bấy đến nay đã hơn bảy năm. Hai người gần gũi nhau nhiều lắm là một tháng. Mãi tới hôm nay họ mới được tin nhau qua một bức thư mỏng và gặp lại nhau qua một tấm ảnh nhỏ.
Bảy năm trời! Nghe em gái mình nói, Sứ hầu như không tin thời gian ấy là có thực. Chị thẫn thờ bảo:
- Mau quá!... Mới đó mà đã bảy năm!
- ồ... mà chị nè, chắc anh Ba ảnh đâu biết tụi mình ở trong này gian nan ra sao đâu hả chị! Phải ảnh mà biết cái năm tụi nó bắt chị lên quận ép làm tờ ly khai chồng, cái trận mà chị bị nhốt "chuồng cọp", "chuồng sấu"... Cha, ảnh mà biết!...
Sứ mỉm cười hiền hậu:
- Biết gì được... Thì chắc cũng có nghe nói, mà không rõ được đâu!
Giữa lúc hai chị em nói chuyện với nhau, con bé Thúy se sẽ tụt khỏi lòng Quyên. Nó lồm cồm bò tới bên cái rổ may, mò mẫm tìm trong rổ may lấy ra một chiếc gương tròn. Rồi nó men vào trong góc, chỗ bộ ván áp sát vách. Nó ngồi một mình, lặng lẽ. Lát sau, nó mới từ từ giơ tấm ảnh lên còn tay kia nó cầm chiếc gương soi. Con bé nó coi mặt nó trong gương và coi mặt ba nó trong ảnh. Nó coi đi coi lại, coi nó với ba nó có giống nhau không, từ mắt đến mũi, từ miệng đến vành tai. Nó thấy mắt và chân mày ba nó sao không giống nó lắm. Mắt nó thì tròn, mắt ba nó thì hơi dài mà sắc. Còn chân mày của ba nó thì rậm quá. Song nó mừng rơn lên khi thấy mũi và miệng ba nó giống nó ghê. Hớn hở con bé lại nhìn, lại tìm kiếm những nét giống khác. Nó hy vọng rằng mọi nét giữa nó và ba nó đều giống. Vì nó yêu ba nó lắm. Tình yêu ấy được gieo vào tâm khảm trẻ thơ của nó bắt đầu từ khi nó được biết trên đời này nó còn có một người cha. Nó vẫn tin rằng ba nó cũng tốt, cũng hay, và nhất định là ba nó yêu nó hơn cả. Hồi sáng, khi mẹ nó đưa nó xem tấm ảnh, bảo người trong ảnh là ba nó thì nó tin ngay. Cũng có phần là vì mẹ nó bao giờ cũng nói thật, nhưng chính khi coi ảnh, nó cứ ngờ ngợ như đã có lần gặp ba nó rồi. Thực ra thì nó chỉ gặp ba nó trong trí tưởng trẻ thơ của nó qua những lời mẹ kể.
Về việc này, phải nói là chị Sứ cứ ân hận mãi. Lúc chia tay, chị có giữ một tấm ảnh anh San, chị vẫn cất kỹ tấm ảnh ấy trong bóp. Năm năm mươi sáu, lúc bọn địch bắt chị giải lên quận, chúng xét gặp và xé nát.
Năm đó chị mới sinh con Thúy.
Ngồi trò chuyện với em, Sứ đã liếc thấy con mình làm gì hết cả. Nhưng chị giả vờ như không thấy. Chị đưa mắt nháy Quyên. Quyên ngoảnh nhìn. Thấy con bé Thúy đang lặng lẽ, chăm chú làm các việc nhận dạng đến mức ấy, thì cô bụm miệng cố nhịn cười. Nhưng lát sau, không nín được, cô cười phì ra. Con bé Thúy đỏ mặt, lúng túng, ngượng nghịu úp tấm ảnh và chiếc gương vào ngực.
Sứ không cười. Chị hỏi:
- Sao, con? Con với ba có giống nhau không?
Con bé ngó lơ chỗ khác, không đáp. Loáng cái đã thấy đôi mắt to đen của nó rân rân. Sứ biết sớm muộn gì con mình cũng khóc. Tính nó hay hờn mát, từ bé đã vậy, mẹ chị vẫn nói:
- Con nhỏ nó giống y như mày hồi đó!
Chính chị bây giờ, không hiểu sao, khi thốt hỏi con câu vừa rồi, mi mắt chị bỗng cay cay, nóng nóng. Chị đứng dậy bước tới góc bộ ván ôm lấy con. Rồi hầu như cùng một lúc, hai mẹ con đều nức nở.
Quyên ngồi mỉm cười. Cô biết giọt nước mắt của chị và cháu mình chảy ra cũng chẳng qua bởi niềm vui đến hôm nay đã gợi dậy những nỗi tủi trong bao năm gian khổ, hy sinh và mong đợi, nên cô không lấy thế làm lo. Lát sau, không muốn để tiếng khóc ảnh hưởng đến tin vui cho chị mình, cho cả nhà, cô đứng vụt dậy, nói:
- Khổ ghê, hồi biệt tin tức anh Ba thì chị với con Thúy cứ rủ rỉ thở than với nhau, bây giờ có tin anh Ba thì khóc. Thiệt hết biết hai mẹ con rồi. - Đoạn Quyên quay lưng: - Thôi, hai người ở đó khóc cho đã thèm đi. Tôi đi kiếm má cho má hay coi!
- Má hay rồi! - Chị Sứ nói giọng nghẹn ngào, và tiếp: Má đi ra bãi kiếm tôm cá gì đó, nói chiều nay làm bữa cơm.
Quyên đứng lại, mặt rạng lên:
- Cha!... Mới được một cái thơ của anh Ba mà bà già làm tiệc rồi. Đây tới chừng thống nhất anh Ba về chắc má làm heo...
- Tiệc tùng gì, nghe anh Tám Chấn với chú Ngạn về, má mới...
- ờ, ờ... sáng nay cuộc hội nghị huyện ủy mở rộng đã bế mạc. Xế xế chắc mấy anh về tới đây. Em có gặp mấy anh ở đội VT3 của anh Ngạn đóng ở ấp hai, mấy ảnh nói anh Tám sẽ về công tác ở đây một thời gian ngắn.
Chị Sứ hỏi, giọng đã bình tĩnh trở lại:
- Nghe nói kỳ này anh Tám được bầu làm bí thơ huyện rồi phải không?
- Phải, ảnh đã được bầu làm bí thơ, phụ trách cả dân vận... Em nghĩ anh Tám làm bí thơ là xứng đáng. Chị nhớ hồi đen tối không, chỗ nào cơ sở bị đánh phá dữ thì anh tới, cực khổ nguy hiểm mấy ảnh cũng tỉnh như thường.
- Thiệt, lúc đó lần nào gặp ảnh tao cũng thấy đỡ lo hơn. Nghĩ cũng lạ, nông dân mình qua cách mạng nổi lên nhiều người giỏi dữ. Anh Tám cũng là nông dân rặt đó chớ gì! Má nói hồi còn Tây nhà ảnh ở Vĩnh Hanh, mùa gặt nào cũng thấy ảnh quảy nóp xuống đây gặt mướn...
- Nghe đâu hồi đó ảnh đã hoạt động rồi.
- ồ, ảnh hoạt động lâu rồi. Coi nông dân vậy chớ hoạt động cách mạng lâu thì hiểu nhiều, biết nhiều, lại được cái chắc chắn. Mà ảnh tình cảm ghê lắm. Nhớ hồi tao bị tụi nó bắt, lúc được thả về, ảnh viết thơ nhắc nhở an ủi hoài. Mấy cái thơ đó tao nhớ có đưa cho mày coi mà, Quyên?
- Có, em có coi!
Sứ liếc em gái, cười nói tiếp:
- Thì chuyện giữa mày với thằng Ngạn không khéo chút nữa là tan rồi. Anh Tám mà không cho hay thì mày còn khóc lâu!
Quyên cười chúm chím, có vẻ như đắc ý lắm. Nụ cười của cô hoàn toàn vui vẻ và biểu hiện đầy đủ rằng giá mà đời cô gặp sự rủi chăng nữa thì sự rủi đó đâu cũng chỉ là tạm đấy thôi. Bao giờ cũng vậy, ngay trong lúc khổ cực khó khăn cô cũng cứ tươi luôn, tưởng chừng suốt đời cô sẽ tươi mãi như thế. Ngoại trừ cái dạo năm năm mươi tám thì cô đã khóc lóc vật vã trọn một tháng. Nhưng rồi sau cái tháng đó, mọi nỗi đau buồn của cô bỗng dừng lại giũ sạch.
Chuyện này có dính dáng tới người thanh niên tên Ngạn mà chị Sứ vừa nhắc tới. Ngạn là anh thợ nhà in, làm liên lạc viên ở nội thành Rạch Giá. Anh bị giặc bắt năm năm mươi lăm rồi bị đưa lên Phú Lợi. Tại Phú Lợi, Ngạn đã tham gia cuộc đấu tranh chống vụ đầu độc tù nhân lớn nhất từ trước đến nay của Mỹ - Diệm. Sau đó, anh là một trong số người sống sót bị giặc chở ra liệng biển. Dọc đường đến bến tàu, anh từ trên xe cam-nhông nhảy đại xuống, lẩn vào phố. Đồng bào ở đó chặt cái còng trên tay anh, giấu kín anh, rồi đưa anh đi. Lúc về Hòn Đất, Ngạn mới có hăm hai tuổi đời, nhưng anh có được tới ba tuổi Đảng. Anh vào Đảng trong tù. Kể chuyện cho Quyên nghe, anh nói rằng trong buổi kết nạp, anh giơ nắm tay chào cờ Đảng tưởng tượng trong lòng, chứ không có cờ Đảng treo trước mặt. Về đây cuối năm năm mươi chín, anh phụ trách thanh niên. Và anh đã gặp Quyên trong thời gian ấy. Hồi đó, Quyên mới mười bảy tuổi, hồi Hòn Đất cùng bao xóm xã khác bị bọn Diệm đánh phá khốc liệt. Có lần anh nằm trong cái hầm bí mật dưới sàn nhà Quyên gần hai tháng, sắp đặt chỉ vẽ cho Quyên đi công tác. Đến khi Quyên tự động công tác được rồi thì anh lại phải chuyển đi chỗ khác, vì giặc đã đánh hơi được anh. Cái hầm thứ hai của anh ở dưới một nấm mả giả nằm giữa một đám mả thật. Đêm đêm, có một cô gái nhỏ đi ra và chui xuống dưới mả. Cô gái nhỏ ấy là Quyên. Hầu như đêm nào Quyên cũng lẻn ra đó, đem cơm cho anh, bàn bạc công việc. Nhiều khi cô đem cho anh cả chuối và xoài nữa. Cô bắt anh phải thay quần áo, rồi thường vo bộ quần áo đã bẩn của anh về giặt. Có những lúc kẹt cô không ra được, thì mẹ Sáu ra. Lần nào xuống hầm, mẹ cũng khóc. Một hôm, mẹ nói với anh:
- Tao nghĩ không lẽ mình cứ nhịn nhục như vầy hoài sao Ngạn? Nó mổ bụng mình, nó đập đầu mình, anh em chết không biết bao nhiêu rồi. Hôm qua, con Quyên với con Sứ vô rừng mò kiếm được xương thịt của bảy anh em mình bị nó đập bữa trước, kiếm gặp ở trong bàu.
Nói rồi mẹ bưng mặt khóc:
Ngạn hỏi:
- Vậy chị Ba với em út đem những xương đó về để ở đâu?
- Hai đứa nó bọc trong ni-lông đem giấu trong hang Hòn rồi!
Có một hôm, bà mẹ nắm tay anh do dự mãi, lúc sau mới chậm rãi nói:
- Ngạn à, tao coi mày như con của tao. Tao hỏi thiệt, mày có thương con Quyên không? Nếu như có thương thì nói tao biết, tao gả cho!
Ngạn cảm động ôm chầm lấy mẹ. Dĩ nhiên là trước khi mẹ Sáu nói thế, anh với Quyên đã thương nhau nhiều. Nhưng anh cảm động sung sướng hơn vì thấy mẹ Sáu nói ra điều ấy giữa lúc cơ sở bị đánh phá dữ dội nhất, giữa lúc anh phải náu mình dưới cái hầm tăm tối và kỳ lạ nhất. Anh nghĩ mẹ Sáu muốn giao đời cô gái út cho anh, ngoài sự thương yêu riêng anh, ắt còn vì mẹ tin và yêu thương cách mạng. Nằm trong hầm tối, anh cứ nghĩ sao mẹ không tính đến việc anh có thể hy sinh nay mai? Sao mẹ không sợ con gái mình cơ cực. Ngày ấy, Quyên mới lớn, trông đã xinh, khắp vùng có nhiều người ghếm ghé mai mối, trong đó có cả những tên sĩ quan làm ra vẻ đứng đắn và những gã con trai bảnh bao thường về bãi Tre tắm biển. Bà mẹ đã nhiều lần nói với lối xóm:
- Con tôi sanh ra không phải để gả cho hạng đó đâu!
Còn Quyên thì trước những lời tán tỉnh của bọn ấy, cô bực bội lắm. Đêm đêm, khi cô sắp đặt chân tới đám mả hoang vắng, thì nỗi bực bội phiền toái của cô về chuyện đó không còn nữa, và lòng cô tràn ngập bao nỗi yêu thương cùng hy vọng. Hồi nhỏ, không bao giờ cô dám đi qua đám mả ấy, kể cả ban ngày, thế mà nay cô đi tới đó chẳng chút sợ sệt. Không, ở đó không có con ma nào cả. Có phải đề phòng là đề phòng bọn công an. Nhưng chỗ này bọn chúng lại không ngờ tới. Ngạn yên ổn sống ở dưới đó ngót hai tháng rồi mới chuyển vào ở cứ. Tai họa xảy đến với anh vào buổi trưa, lúc anh đang trên đường từ cứ ra rìa xóm. Bọn giặc phục kích bắt được anh. Ngay chiều hôm đó, căn cứ trong rừng bị địch bao. May mắn, là anh em đi bắt vọp cả, chỉ có cái chòi trống không. Anh em bắt vọp gần đấy nghe bọn lính biệt kích láo nháo:
- Đ.mẹ, sao nó chỉ ở đây?
Có thằng bảo:
- Nó chỉ ở đây trúng rồi. Chắc tụi nó biết động nên đã dời.
Bọn lính nằm rình gần nửa tiếng đồng hồ mới kéo đi. Anh em thoát được về nói:
- Thôi, thằng Ngạn khai ra hết rồi!
- Thì còn gì nữa, ngoài nó thì ai vô đây!
- Thiệt là không hiểu nổi... anh em mình tin tưởng nó, nghe nó bị bắt mình cũng không dời cứ, vậy mà nó trở mặt như vậy aà?
Cái tin nói Ngạn bị bắt vừa mới về với Quyên thì kế đó lại có tin ghê gớm hơn nói Ngạn đã khai báo. Trong một ngày, Quyên nhận được hai tin dữ. Ban đầu cô không tin, không bao giờ cô tin Ngạn lại phản bội. Cả nhà, từ mẹ cô đến chị Sứ, cũng đều không tin sự thật lại là thế. Nhưng không lâu sau, khắp Hòn Đất đều đồn Ngạn là người đã chỉ căn cứ cho địch đánh. Tất cả mọi người tốt đều nhìn Quyên với cặp mắt thương hại. Quyên tối tăm cả mặt mày. Cô có cảm tượng như bị một cây gậy của ai bất thình lình phang trúng ngang lưng. Cô khóc suốt đêm và nghĩ rằng nếu Ngạn đã vậy thì giữa cô với Ngạn đâu còn có gì nữa, và tình yêu thế là tan nát rồi sao? Đôi lúc nghĩ lại về con người Ngạn, cô bỗng muốn kêu lên: - "Không, không phải vậy đâu!". Có cái gì khiến cô hoảng sợ trước những lời đồn đãi, nhưng lại không muốn tin lời đồn đãi với sự suy xét và lòng tin của cô đối với Ngạn. Cô tìm gặp anh Hai Thép bây giờ đã là bí thơ chi bộ để hỏi. Anh Hai Thép nói: - "út Quyên à, bây cứ bình tĩnh. Chuyện này trong chi ủy vừa rồi có bàn nhưng chưa thấy có bằng cớ gì đích xác là do Ngạn khai ra, cho nên chi ủy vẫn chưa kết luận. Anh Tám Chấn viết thơ về nói: "Chuyện đó khoan đã, với bấy nhiêu sự việc mà đã vội cho đồng chí ta là phản bội thì không được. Đành rằng phải cảnh giác. Nhưng thằng địch bây giờ có nhiều mưu hiểm lắm. Việc này tôi đang cho điều tra, hư thực ra sao tôi sẽ báo cho các đồng chí hay". Quyên nghe anh Hai Thép nói thì hơi mừng. Cô trở về nhà với niềm hy vọng le lói trở lại. Cô nói với chị Sứ:
- Chưa chắc đâu, trong Đảng cũng chưa kết luận kia mà!
- Thì tao đã nói, các đảng viên chỉ có được thông báo sự việc như vậy và bảo phải cảnh giác đề phòng thôi. Mày cứ khóc hoài, phải để coi đã chớ, lớn rồi chớ bộ còn con nít sao!
Quyên nói:
- Thôi em nghe lời Đảng, nghe lời chị. Em không nghĩ gì nữa.
- ờ cứ vậy đi!... Nhưng tao hỏi... - Nói đến đây, chị Sứ do dự một lúc rồi nhìn thẳng vào mắt Quyên, nói tiếp - Nhưng... nếu Đảng chỉ biết Ngạn vẫn tốt thì không nói chi, còn giá như Ngạn hư thiệt rồi thì mày tính sao?
Quyên ngồi lặng đi rất lâu mới đáp, giọng uất nghẹn:
- Tính sao nữa... coi như không có ảnh, coi ảnh chết rồi chớ sao! Gặp ảnh, em sẽ...
- Sẽ sao?
Quyên biết chị đã có ý trêu mình, cô vùng vằng:
- Tới chừng đó hẵng hay, bây giờ em không nói trước làm chi?
May thay, sự việc không phải dẫn đến chỗ như hai chị em giả dụ. Mươi bữa sau, anh Tám Chấn từ trên huyện về, cho gọi Quyên vô cứ. Câu đầu tiên của anh Tám là:
- Nè, út Quyên kiếm gà cho tôi ăn đi, rồi tôi nói cho nghe!
Trời ơi, mới nghe nói thế Quyên đã hiểu ngay. Tim cô đập thình thịch, cô nhào tới nắm chặt tay anh Tám. Anh Tám mỉm cười nhìn cô với ánh mắt vui vẻ và thông cảm. Anh lặp lại:
- Nhưng có đồng ý làm gà cho tôi ăn không chớ?
- Có, có... Quyên nói vội, mặt đỏ lên.
Anh Tám bấy giờ mới đứng dậy kéo tay cô ra góc chòi. Anh khẽ nói:
- Mấy hôm nay nghe út Quyên buồn lắm hả? Thôi đừng buồn nữa, Ngạn vẫn tốt, rất tốt. Anh dừng lại, giúi cái tàn thuốc xuống đất, rồi tiếp:
- Mới đây, ta vừa bắt được một ổ điệp điều tra, chúng có khai ra một số chuyện, trong đó có chuyện giặc bao cứ tháng trước. Nguyên do là bọn điệp ở xóm Chùa ngày nào cũng leo lên cây sao hai ngọn để theo dõi trong rừng tràm. Chúng nói một buổi chiều chúng thấy ở giữa rừng có khói bay lên. Chúng liền báo cho tụi thằng Xăm vô đánh. Đấy chỉ có vậy, chỉ có một ngọn khói nhỏ vậy thôi...
Quyên thở phào, nhẹ cả người.
2.
Đang đi, anh Tám Chấn chợt đứng hẳn lại nhìn tới trước, trầm trồ bảo Ngạn:
- Cứ mỗi lần về Hòn là tôi lại thấy nó khác đi. Tháng này Hòn coi xanh tốt quá. Chú ngó kia, mãng cầu ta lên lá non coi mướt chưa?
Ngạn và chú bảo vệ anh Tám là Đạt cũng dừng lại. Đứng bên anh Tám, Ngạn đưa mắt nhìn về phía Hòn Đất. Anh cũng có cảm giác rất dễ chịu, ngay từ đầu đường rẽ về Hòn.
Hòn Đất nổi lên trên Hòn Me và Hòn Sóc, gối đầu lên xóm, về tháng này trông xanh tốt quá. Bấy giờ vừa sang tháng chạp ta, đã nghe gió tết hây hẩy lùa trong nắng. Cây cối trên Hòn và các xóm nằm liền Hòn vụt rạo rực, tràn trề nhựa sống. Vùng Hòn với những vòm lá của đủ các loại cây ăn quả đều sum sê, nhẫy nhượt. Những ngôi nhà trong xóm, mái lá và ngói đỏ chen nhau coi đông đúc như một thị trấn. Nhà còn cất leo lên triền Hòn thoải thoải, ở xa ngó cứ như những chuồng chim câu, có cái vách ván đã bạc thếch vì mưa nắng, có cái còn mới nguyên, vách lát bằng ván sao nổi lên đỏ sẫm. Xa quá khỏi Hòn một đỗi, là bãi Tre. Thấp thoáng những cây tre đằng ngà cao vút, vàng óng, những cây tre lâu nay vẫn đứng đấy, bình yên và thanh thản, mặc cho bao nhiêu năm tháng đã đi qua, mặc cho bao nhiêu gió mưa đã thổi qua.
Sau rặng tre ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang rỡn sóng, mang mang một màu xanh lục. Đứng ở đây, khi sóng sủi bọt âu yếm vỗ bờ, Ngạn thấy dưới chân bãi Tre như có một đường viền bằng ren, thỉnh thoảng lại dợn lên.
Anh Tám vịn vai Ngạn, cất bước chầm chậm đi tới và nói:
- Cảnh Hòn đẹp thiệt... Từ ngày đồng khởi tới này chưa đầy một năm mà cảnh đã thay đổi hẳn. Trận càn giữa năm, nhờ quần chúng đấu tranh gắt nên nó cũng không phá được gì.
- Nghe đâu nó đã rải thuốc hóa học ở một số nơi trong tỉnh mình hả anh?
- Có, nhưng càng rải nó càng chết. Có điều là sau ngày minh quật nó, nó hoảng một lúc, nay đã tỉnh tỉnh lại. Chúng đã bắt đầu chà xát mạnh ở một số nơi.
- ở đây thì kể như đã bị một trận rồi...
- Nó sẽ còn chà nhiều trận nữa chớ. Tụi nó dư biết đây là căn cứ của mình. Nó biết mọi cuộc đấu tranh tràn vô thị xã đều xuất phát từ đây. Vả lại, Hòn Đất là một điểm nằm trong khu vực tập trận của khối xâm lược Đông Nam á. Về phía ta, ta cũng không muốn chúng nó tới chỗ này. Nếu chúng có đóng bót, ta cũng phải nhổ đi...
Anh Tám Chấn dừng lại. Lát sau, anh cười rất hóm rồi nói:
- Riêng chú thì Hòn Đất còn có đặc biệt quan trọng hơn. Mặc tình chú đi đông đi tây gì đi nữa, nhưng chân chú đã bén rễ đất Hòn rồi...
Ngạn nhoẻn miệng cười. Anh Tám hỏi:
- Sao, tính ngoài ngày làm đám cưới à? Thôi, Tết này làm luôn đi. Tôi ráng "cương" lên làm chủ hôn một trận coi. Sau Tết tôi đi học rồi. Ông bà mình có nói: "Cưới vợ thì cưới liền tay..." gẫm ra rất là biện chứng nghe. Nên nhớ làm cách mạng và cưới vợ, hai chuyện mới coi qua thấy như có mâu thuẫn, nhưng trong điều kiện nào đó lại thống nhứt với nhau. Tất nhiên chuyện đời cũng có anh cưới vợ rồi sanh ra bê bết, nhưng có nhiều anh lại yên tâm hăng hái hơn. Cũng tùy, tùy "anh" tùy "em"... Phần chú thì tôi xin miễn nói, còn út Quyên thì tôi có thể nói: đó là một cô gái rất tốt, công việc Đoàn nó hăng hái tháo vát, công việc vườn tược, nấu nướng may vá nó làm cứ gọn hơ. Về sắc thì khá quá đi chớ. Đành rằng cái chuyện hiểu lầm hồi nẩm có làm chú bực, nhưng chú cũng phải thấy qua chuyện đó út Quyên nó như thếnào. Tôi thấy chú phải mừng, vì nếu cô ta nghe tin chú như vậy mà không vật vã đau đớn chi hết thì mới nguy. Đằng này nó như muốn điên lên được mà...
Nghe anh Tám nói, Ngạn cười tủm tỉm. Anh cố giấu nỗi đắc ý của anh. Thực ra, đầu tiên nghe chuyện đó thì anh dóa lắm, nhưng về sau càng nghĩ kỹ anh lại càng thấy thương Quyên tin Quyên hơn. Chính anh cũng tự dằn lòng: "Mình đã hai lần bị bắt, hai lần trốn thoát. Nếu có một lần thứ ba nữa thì cũng phải vững như vậy!".
Bởi vì anh biết rõ Quyên đã khổ sở ghê gớm như thế nào rồi, khi cô hay một cái tin như thế.
Vào tới đầu xóm, anh Tám Chấn hỏi Ngạn:
- Anh em trong đội chú đóng đâu?
- ở giữa xóm. Anh ghé đó chớ?
- Được, ghé coi có Hai Thép ở đó không?
Anh Tám quay lại vỗ vai chú bảo vệ của anh, hỏi:
- Có muốn về nhà chơi không, Đạt?
Đạt nhoẻn cười, gật đầu. Anh Tám nói:
- Thôi, cho chú về Linh Quỳnh thăm nhà, mai qua, nghe!
Chú Đạt bảo vệ hớn hở xốc lại dây đai khẩu cac-bin nói:
- Cháu đi!
Nói xong, chú rảo bước như chạy.
Từ xóm Hòn Đất qua Linh Quỳnh chỉ có bốn cây số.
Xóm Hòn Đất ở liền ngay chân Hòn. Cuối xóm là bãi Tre, cách biển vài trăm thước. Sau lưng xóm, còn một quãng vườn cây sum sê, rồi tới sông Vàm Răng. Sông không rộng cho lắm, ngày hai lần, nước sông lớn và ròng theo triều biển, theo tiếng bìm bịp kêu nghe tợ tiếng tù và thổi giục. Nhà cửa ở Hòn Đất san sát bên đường, xen vào giữa những vườn mít trái treo vàng xám, giữa những vườn dừa, vườn cau, và những cây ăn trái khác như mãng cầu, lê ki ma, măng cụt. ở đây có nhà cất trệt, nhưng cũng có nhà sàn phải đi lên bậc thang. Tùy theo lối vào nhà mà bậc thang đó bắc bên trái hoặc bên phải. Những nhà lớn lợp ngói thường có bậc thang ở hai bên, lên xuống bên nào cũng tiện.
Người ta bảo ngày mùa đứng ngoài Tri Tôn trông về Ba Hòn thấy giống như hình một cô gái vừa tỉnh giấc nồng nằm trên chiếc chiếu vàng, chân cô gái duỗi ra và đầu nhổm tới phía một dải lụa xanh phơ phớt.
Chiếc chiếu vàng là đồng lúa chín tới. Và tấm dải lụa xanh ấy là dòng sông đó chăng?
Anh Tám và Ngạn đi vào gần tới giữa xóm thì nghe trước mặt vẳng tới tiếng đờn ca. Chốc sau, có một giọng nữ cất lên. Ngạn kêu:
- Ca sĩ Năm Nhớ tụi tôi bắt đầu trổi giọng rồi!
Anh Tám Chấn bảo:
- Mấy chú về đóng ở đây coi bộ đời lên hương dữ ha! Năm Nhớ ca đó hả?... Ca khá lắm, giọng đã tốt lại biết điều khiển tiếng ca. Hèn chi tụi lính bót nó mê cũng phải... à, nghe đâu hôm mấy chú làm ăn ở bót Cà Tưng, tụi lính tuyên bố không bắn để nghe ca hả?
Ngạn gật đầu:
- ồ, tức cười lắm. Có thằng kêu: - Cô Năm thương nhớ ơi, làm sáu câu nữa đi, anh em tụi tôi là dân mô điệu à, không bắn bậy đâu!
- Cũng hay. Tụi nó không bắn bậy là hay rồi. Nhưng nội dung bài ca ra sao? Chuyện này hơi tinh tế đây, tôi cũng dốt lắm, nhưng tôi nghĩ là lời lẽ bài ca của mình có tình có lý, sao cho lính nghe rồi nó chán ngấy cuộc đời làm lính, sao cho nó nhớ vợ, nhớ con muốn bỏ trốn ráo. Không nên dùng lời lẽ cứng nhắc, cũng không nên mùi quá... Chà, chắc Năm Nhớ ca nhiều bản mùi dữ hả? Nên chi tụi nó mới kêu là "Cô Năm thương nhớ" đó chớ gì?
- Không đến nỗi đâu anh... Năm Nhớ nhiều phen cũng tức mình lắm. Cô ta nói: - "Tụi lính mắc dịch đó, tôi mà không vì cách mạng, còn lâu tôi mới ca cho tụi nó nghe!".
- à, còn chú Diệp học sinh ở Rạch Giá mới vô đó thì sao/
- Chú ta cũng tốt thôi. Anh ta cũng thương. Nhưng tất nhiên đối với cuộc sống này chú ta còn nhều bỡ ngỡ.
- ở ngoài thành mới vô thì đứa nào cũng vậy. Cố giúp đỡ nó. Con em của đồng chí mình đã hy sinh, mình phải có trách nhiệm.
Tiếng đờn ca vọng lại mỗi lúc một rõ hơn. Anh Tám nghe biết ngay tiếng đờn độc quyền của ông Tư Đờn, liền nói:
- Từ ngày bị mù tới giờ, ngón đờn của ông Tư nghe càng xúc động.
Anh Tám và Ngạn đi một đỗi nữa thì đã ngó thấy cây me lớn. Cạnh gốc me cổ thụ ấy là nhà ông Tư Đờn, coi như một cái quán cốc. Hai người mới bước vào thì một con chó phèn to từ trong chạy xổ ra kêu ư ử, cúi liếm chân hai người và vẫy đuôi rối rít. Trong nhà vừa chơi dứt bài Vùng lên, anh em ơi! theo điệu Kim tiền. Anh em trong đội võ trang ngồi vây quanh cô Nhớ và ông Tư Đờn. Thấy hai người bước vào, họ la lên:
- Anh Tám với Năm Ngạn tới rồi kìa!
Anh Tám bắt tay mọi người. Anh ôm vai một thanh niên coi dáng dấp rất học sinh, cười nói:
- Sao! Đi đây có vui không, Diệp?
- Dạ vui!
Cậu thanh niên tên Diệp đáp, cười bẽn lẽn như con gái. Anh Tám lại bắt tay cô Nhớ, anh gặt gặt mấy cái:
- Xin chào ca sĩ!
Năm Nhớ đỏ mặt kêu lên:
- Anh Tám.
Anh Tám Chấn đến bên ông Tư Đờn:
- Bác Tư lóng này mạnh luôn hả bác?
- Tám Chấn đó à?
Ông già mù thốt hỏi rồi run run đưa tay sờ lên khắp người anh, nắn nót cườm tay anh một cái lặng lẽ. Lâu sau, ông mới chậm rãi hỏi tiếp:
- Sao lâu nay không thấy về? Hay có về mà không ghé tui!
Anh Tám đặt nhẹ tay lên đôi vai gày của ông già:
- Mắc công chuyện quá không về được, bác à. Nếu có về thì ắt phải ghé thăm bác chớ!
Anh ngó trước sau hỏi:
- Con Tím nó chạy đâu rồi bác?
- Nó đi mò cá ngoài sông...
Ông Tư không nói gì nữa. Ông cứ đưa cặp mắt sâu thẳm như muốn cố nhìn anh Tám. Nhưng ông đâu thể nhìn thấy anh được. Chín năm nay ông không nhìn thấy gì, kể cả thiên nhiên lẫn con người. Ngay như gốc me cạnh nhà ông, hay chõm Hòn, hay bờ bãi, mà nhất là những con người ông yêu mến ông đều không trông thấy. Đành rằng có những cái ông đã thấy lúc mắt còn sáng, nhưng những cái ấy nay đều đã khác đi. Nỗi khổ tâm bậc nhất giày vò ông già mù này chính là ở đây. Ông chỉ nghe sự biến thiên quanh mình mà không thấy được sự biến thiên đó, cho nên ông càng phải tưởng ra để thấy. Chính vì thế mà khi uất ức ông cũng uất ức hơn, lúc sung sướng ông cũng sung sướng hơn. Tại cái gốc me cổ thụ, cách đây không lâu, bọn đồn Hòn Đất đã trói quặt tay một chị cán bộ vào thân cây rồi dùng đinh đóng suốt qua hai bàn tay chị. Ông nghe chị chửi rủa, gào thét và tiếng súng nổ. Sau cùng, ông nghe tiếng kêu lớn: - "Cô bác ơi, hãy trả thù cho cháu!". Thế rồi một loạt súng nữa nổ vang. Từ trong nhà, ông quờ quạng chạy ra. Bọn giặc đẩy ông trở lại. Lúc chúng đi, ông nhằm hướng gốc me lồm cồm bò tới. Nhưng chị cán bộ không có đấy nữa. Chúng đã đem xác chị đi mất rồi. Ông ôm gốc me khóc. Nước mắt ngập đầy hố mắt ông đêm hôm đó và cả những ngày hôm sau. Thế rồi đêm đêm, ông tưởng như thấy chị cán bộ, nghe lại tiếng kêu, hình dung ra gốc me sây sát vết đạn, in sâu vết đinh đóng. Gốc me đối với ông đã đổi khác, là vậy. Những ngày đi đấu tranh, dẫu đường trơn lầy lội vì mưa dầm tháng tám, ông vẫn nắm tay đứa cháu, đợi bà con ùn ùn kéo ngang là nhập vào, đi lên bót, lên quận. Đấu tranh thắng lợi về, ông hình dung con đường trước nhà in đầy những dấu chân. Và ông sung sướng hơn, cũng là sung sướng như thế. Ngày đồng khởi, tất cả những buổi xử tội bọn ác ôn, ông đều có mặt. Hôm xử tên chủ Mưu - tên già gian ác nhất vùng, lúc anh Hai Thép vừa thay mặt tòa cách mạng hỏi ý kiến bà con có đồng ý xử tử nó không, ông nhóng lên giơ tay và la lớn: - "Tử hình, tử hình!". Bà con ai cũng có cảm tưởng là ông ngó thấy được. Ai cũng nhường chỗ ông đứng. Ông hỏi: "Bắn à?". Người bên cạnh đáp: - "Không, ché không bắn!". Ông lại hỏi: "Ai chém?". Khi người ta bảo chém là Ba Rèn thì ông "à" lên một tiếng đầy tin tưởng.
Hồi năm bốn mươi bảy, lúc mắt ông còn đang sáng, ông có thấy Ba Rèn chém Việt gian. Hồi đó, hiếm đạn cũng như bây giờ, Ba Rèn chém bằng mã tấu. Anh ta không bao giờ vung mã tấu lên quá đầu. Anh để lưỡi mã tấu gần cổ tên phản quốc, tưởng như anh chưa chém, thế mà bất ngờ cổ tay anh gặt mạnh một cái, đầu tên phản quốc rụng xuống. Lần đó, ông Tư đứng đợi kỳ đến lúc đầu tên ác ôn chủ Mưu rơi nghe cái "phịch" xuống bãi cỏ, ông mới chịu quơ gậy đi về.
Nỗi căm uất, sự hả dạ và niềm vui sướng của ông Tư mù cho đến bây giờ vẫn không có gì thay đổi. Bây giờ nó cũng sâu thẳm như hai hố mắt ông đang cố nhìn anh Tám Chấn.
Chợt ông bảo:
- Mà nói vậy chớ rảnh thì ghé, không rảnh thì thôi, tôi biết Tám Chấn với anh em mắc lo công chuyện cách mạng. Biết vậy là tui mừng. Tui coi như anh em có ghé thăm tui rồi đó...
Anh Tám hỏi:
- Bác Tư ơi, độ rày bác còn uống rượu nhiều không?
Ông Tư Đờn không đáp ngay. Chốc sau, ông mới nói:
- Còn, mà không nhiều...
- Bác Tư uống ít là tốt!
- Chú Tám nói phải, nói phải... Nhưng hồi đó khác, bây giờ khác. Chú nghĩ, hồi đó cứ nghe tiếng cột chèo của tụi nó đập đầu anh em mình, tui hỏi chú liệu tui có ngủ đặng không? Mà tui lại không có mắt, tui còn làm gì được ngoài cái việc bòn mót gạo để dành, đêm đêm lóng tai nghe coi có chú nào về không, để quờ quạng bưng thúng gạo đưa mấy chú. Mấy chú bưng gạo đi rồi, tui thao thức, lúc đó tui mới uống...
Dừng lại giây lâu, ông tiếp:
- Còn từ ngày mình đứng dậy tới giờ, tui không uống nhiều nữa đâu!
Anh Tám từ từ nắm chặt hơn bàn tay gầy guộc của ông già mù. Một lần nữa, anh lại nghe thấy một cái gì trỗi dậy rất mãnh liệt, cứ sôi lên, thôi thúc khẩn thiết trong lòng.
Quyên xách con cá chẻm còn tươi rói đặt lên sàn nước. Cô xắn vội tay áo tới khuỷu, rồi cầm con dao phay dưới sàn chặt đứt sợi lạt tre xỏ ở mang cá. Quyên bắt đầu đánh vẩy. Bàn tay trái cô xòe hết năm ngón mà nắm không hết con cá. Con cá chẻm thiệt lớn. Mẹ Sáu nói nó cân tới bốn ký. Mẹ xách nó từ bãi Tre về đây cứ phải đổi tay luôn.
Quyền cầm dao đánh soàn soạt lên mình con cá loáng nước, anh ánh sắc tím. Những cái vẩy cá văng ra, to gần bằng đồng xu. Quyên thích thú lấy tay xếp nó lại, chồng cái nọ lên cái kia, nhìn cười, rồi lại tiếp tục đánh nốt đám vẩy còn lại. Con cá lớn là thế mà cô xoay trở làm coi gọn hơ. Cô chặt một nhát thì đứt rơi cái kỳ, chặt nhát nữa, đứt tiện cái đuôi. Phút chốc con cá chẻm đã làm xong, chỉ con mổ ruột. Quyên với chiếc gáo có cán đặt trên miệng khạp múc nước đổ vào cái vịm sành da lươn cạnh đấy, rồi nhắc con cá thả vô.
Cô dội mấy gáo nước nữa cho sàn lảng thiệt sạch.
Lúc sắp sửa vớt con cá ra để mổ bụng. Quyên chợt nghe ngoài bậc thang nhà có tiếng gọi vui vẻ, sang sảng:
- Má ơi!
Cô nghe đúng là tiếng anh Tám Chấn. Kế lại nghe:
- Má...
Tiếng sau có vẻ mừng rỡ và âu yếm. Quyên biết ngay là tiếng Ngạn. Cô liền để con cá xuống, rửa tay và vãnh bàn tay vuốt những sợi tóc lòa xòa ở hai bên thái dương. Cô nhón gót chạy ra, kêu rối rít:
- úi, anh Tám!
Cô vồn vã với anh Tám Chấn, còn Ngạn thì cô chỉ đưa mắt nhìn một cái. Thấy Ngạn mặc cái áo sơ mi đen của ai rộng thùng thình thì cô tức cười quá. Ngạn cũng vậy, anh chẳng hỏi gì cô cả, cứ thế anh ngồi xuống giữa nhà, dang tay đón con Thúy sà vào lòng. Ngạn hôn con Thúy chùn chụt. Hôn xong một cái lại "ủm" lên một tiếng coi vẻ ngon lành lắm. Con bé hôn lại anh, hôn không rõ kêu thì anh không chịu. Ngạn mở vòng tay ra, chỉ về phía anh Tám Chấn. Con bé chạy tới anh Tám. Còm một bước nữa tới chỗ anh, nó đứng lại, xuôi tay, rồi mới ôm lấy cổ anh hôn rất kỹ lưỡng.
Cả nhà đều nhìn cảnh ấy bằng cặp mắt vui vẻ, trìu mến. Mẹ Sáu đang ngồi nhai trầu, trệu trạo cười. Quyên đứng sau lưng mẹ, dùng ngón tay trỏ ấn nhẹ chiếc lông nhím trên đầu tóc bới của mẹ và cô cười lúm cả hai má. Nụ cười của Sứ có nén giữ hơn. Nhưng mặt chị cứ ngây ra. Mắt chăm chăm để ý từng cử chỉ của con chị không sao giấu được nỗi sung sướng xen chút hãnh diện. Sự an ủi của chị Sứ ở đây nhiều lắm. Đứa con gái vừa là kết quả của tình yêu thương chồng vợ, vừa là sự hiện diện của chị, của anh. Con bé gắn bó mọi người lại hết sức dễ thương và trong trẻo.
- Thúy đi học chưa? - Anh Tám hỏi.
- Dạ con đi học rồi. - Con bé đáp nhỏ nhẻ.
- Con đi một mình à?
- Ngoại đi với con. - Nói tới đây, con Thúy đưa mắt liếc nhìn ngoại nó - Bữa nào ngoại cũng đi với con hết hà!
Mẹ Sáu ngồi trên bộ ván vảnh tai vuốt tém cổ trầu ở mép, nói:
- Bữa nào tao cũng đưa nó đi rồi rước nó về đó Tám. Mà nó cứ không chịu chớ, nó nói: - "Ngoại để con đi một mình, con đi được!"... Để nó đi một mình sao được kia chớ! Thằng Tám coi, máy bay bữa nào cũng rù rù, còn tàu sắt lâu lâu cặp mé biển thụt cà-nông phùm phùm. Đưa đón nó như vậy mà suốt buổi tao còn phập phồng, hãy có hơi máy bay thì thôi tim tao nó cứ nhảy lia. Huống hồ là để nó đi một mình, dọc đường rủi máy bay tới, nó biết hầm nào mà chui?
- Dọc đường mấy bác có đào hầm! - Con bé nói.
- Thằng Tám coi nó nói đó... Có đào hầm? Đành là có, nhưng tao hỏi, rủi hầm có rắn ở dưới thì sao?
Têm một miếng trầu mới, mẹ Sáu bỏ vào miệng nhai rau ráu:
- Con nít tới chừng nó quýnh thì nó nhảy đại, có biết rắn rít gì đâu. Người lớn còn bị cái nạn đó hoài...
Anh Tám đang vén áo thắt lưng súng ngắn, nghe mẹ Sáu nói thì bật cười. Mọi người cũng đều cười. Quyên cười lâu hơn hết. Cô ghé cằm lên vai mẹ, nói:
- Má tôi bả nhát lắm, anh Tám ơi!
Mẹ Sáu lườm cô gái út:
- Phải mà, thì tao nhát!...
Anh Tám Chấn nghĩ bụng: "Không đâu, mẹ Sáu không nhát đâu! Vì năm năm mươi tám, chính mắt anh trông thấy một thử thách dữ dội nhất xảy đến với mẹ Sáu. Dạo đó xảy ra câu chuyện hai tên lính đang ngồi trên chòi gác đồn Hòn Đất thấy trong mé Hòn có một em bé cỡi trâu. Tên này thách tên nọ nếu bắn trúng em bé nó sẽ thua cuộc một điếu thuốc thơm. Tên lính giương súng ngắm bắn. Phát súng nổ. Em bé từ lưng trâu ngã lăn xuống. Hay tin đó, bà con Hòn Đất uất quá, họ vác thây em bé ùn ùn kéo ra bót. Anh Hai Thép phải cho Sứ và chị Hai Thép theo. Anh dặn: - "Phải bắt chúng trừng trị tên bắn em bé, phải đạt được yêu cầu đó với bất cứ giá nào". Anh Tám và anh Hai Thép ngồi trong một ngôi nhà bên này sông theo dõi cuộc đấu tranh. Bọn giặc ngăn không cho đồng bào kéo tới bót. Khi bà con đòi trừng trị tên giết người, chúng bảo em bé chết là do rủi ro bị đạn lạc. Bà con xông lên. Thằng Xăm, người Khơ Me lai, lúc bấy giờ là đồn trưởng, xách súng cạc-bin chạy ra. Nó chĩa súng vào ngực mẹ Sáu, vì mẹ là người xông tới trước tiên. Thằng Xăm thét:
- Đi về! Bà bước tới một bước, tôi bắn liền!
Tình thế hết sức găng. Trong bất cứ một cuộc đấu tranh nào, thắng hay không là ở phút ấy. Thằng Xăm ác ôn lắm, nó dám bắn bà mẹ như chơi. Nếu lúc đó, mẹ Sáu lùi lại thì cuộc đấu tranh kể như hỏng. Nhưng không, mẹ Sáu không lùi lại. Mẹ nói với tên Xăm câu gì, anh Tám ở xa nên không nghe được, nhưng anh thấy mũi súng cạc-bin của tên Xăm cứ run lên. Giữa lúc đó, một người đàn bà ở phía sau lách tới đứng chen vào giữa họng súng của thằng Xăm và mẹ Sáu. Đó là thím Cà Xợi, mẹ ruột của thằng Xăm. Thím nói gì với thằng Xăm, rồi đột nhiên bước phắt tới đỡ họng súng của thằng Xăm lên. Bà mẹ Sáu cùng đoàn người thừa lúc đó chạy ào vô.
Lần ấy, cuối cùng địch phải trói gô tên lính sát nhân lại. Thằng Xăm hứa sẽ bỏ tù nó. Sau đó về, anh Tám hỏi mẹ Sáu khi ấy mẹ đã nói gì với thằng Xăm. Mẹ bảo:
- Tao nói: - "Xăm à, mày bắn tao như bắn bà Cà Xợi thôi". Và câu nói của bà Cà Xợi khi đó là:
- "Đừng bắn bà Sáu, bắn tao đây. Ngực tao nè, bắn đi, Xăm!".
Thằng Xăm không bắn được. Nó là một tên ác ôn khét tiếng, nhưng nó chưa thể bắn mẹ nó.
... Bây giờ, nhìn mẹ Sáu, anh Tám nhớ rõ ràng ngày ấy mũi súng đã chĩa vào ngực mẹ như thế nào.
Anh hỏi mẹ:
- Máy bay thì má sợ như vậy, còn hồi nẩm lúc đứng trước họng súng của thằng Xăm, sao má không sợ?
Mẹ Sáu không đáp. Lát sau, mẹ chậm rãi nói:
- Máy bay tao cũng không sợ đâu. Sợ là sợ cho con cho cháu. Chớ tao thì già rồi, sắp xuống lỗ rồi mà còn sợ nỗi gì, Tám!
Má tiếp lời:
- Nói là nói vậy chớ tao chưa chết đâu. Tao còn phải mở mắt để nhìn nước nhà thống nhứt, để thấy mặt Cụ Hồ. Được thấy hai điều đó thì tao nhắm mắt mới đành!
Anh Tám nói:
- Sớm muộn gì má cũng sẽ nhìn thấy được hai điều đó!
- Chắc hôn Tám, chắc thiệt hôn Tám?
Mẹ Sáu hỏi lại và ngước mắt khẩn thiết nhìn anh Tám như thầm hỏi thêm: "Sao? Có gì mới không? Đảng nói sao, nói lại tao nghe, tao mừng với coi!".
Mẹ Sáu cho rằng cái gì anh Tám cũng biết, cũng thông báo trước hết. Hễ anh Tám nói là mẹ tin, tin rằng cái đó phải, cái đó đúng. Mẹ tin anh Tám là tin ở Đảng, tin anh là người của Đảng dẫn dắt bao bọc cho mẹ, cho con cháu của mẹ và xóm làm sống yên ấm, vui vẻ và hiếu thuận.
- Chắc chắn chớ - Anh Tám nói với mẹ - Má à, bây giờ không phải như trước. Hồi đó, mình muốn sống yên, muốn thống nhứt, nhưng Mỹ - Diệm nó không cho mình sống. Ai đòi thống nhứt thì nó chặt đầu, mổ bụng. Chịu không nổi bà con mình mới làm đồng khởi. Đã đồng khởi lên rồi thì chừng nào giành được lại cuộc sống tử tế đàng hoàng mình mới chịu, bằng không mình sẽ không buông súng.
- Đánh hoài à? - Bà mẹ hỏi.
Anh Tám đáp:
- Nếu nó còn ức hiếp mình thì mình còn đánh hoài. Hết người này đến người khác. Chừng nào Mỹ rút hết mới thôi!
- Tao ngó bộ Mỹ nó ngoan cố lắm, chừng nào nó mới chịu rút hết?
- Mình có đánh nó mới rút. Tây hồi đó cũng vậy!
Bà mẹ để hai tay vào lòng, thấp giọng:
- Biết vậy rồi...
Đoạn mẹ chép miệng:
- Lo cho tụi bây thôi, chồng vợ xa nhau, chớ tao thì già cả rồi... Mà điều tao nói thiệt với Tám, tao già thì già chớ tụi bay đi tới đâu tao cũng bươn theo tới đó. Đi đấu chính trị tao đi hoài được. Hay là nấu cơm tiếp tế cho bộ đội tao cũng nấu được...
Chợt ngoảnh lại thấy Quyên vẫn còn đứng bên cạnh, mẹ lấy tay xô khẽ con:
- Sao mà còn đứng đây?
Rồi mẹ dịu giọng:
- Đi làm cá đi, con. Chiều rồi. Nấu cơm cho mấy anh mày nó ăn!
Quyên từ từ nhắc cằm khỏi vai mẹ, đi ra nhà sau. Ngạn cũng nắm tay con Thúy đi theo.
... Quyên lật bụng con cá để lưỡi dao lên. Cô khẽ hỏi Ngạn bấy giờ đang đứng sau lưng cô tháo súng ngắn treo lên vách:
- Anh bật khính cái áo của ai vậy, anh NgạN?
- áo của anh Thẩm!
- Còn bộ quần áo em gởi cho anh đâu?
- Cho anh em rồi!
- Lại cho!
Quyên mổ cá, đem rửa. Tay làm miệng cô nói:
- Nè anh, chị Ba mới được thơ anh Ba, anh biết chưa?
- Biết rồi! Sao, ổng vẫn đàng hoàng chớ?
Quyên hơi giẩu môi:
- ở ngoài mà không đàng hoàng! Ai cũng được học tập, được giáo dục. Anh Ba ảnh tốt lắm. Đọc thơ, em tội nghiệp cho anh quá. Thôi, ảnh căn dặn chị Ba đủ thứ nghe... Nào là phải bình tĩnh, phải cho con Thúy đi học... - Nói tới đó, Quyên ngừng lại một giây, và tiếp giọng nhỏ hơn - Nghe vụ tụi mình, ảnh cũng có hỏi thăm...
4.
Mẹ Sáu đem trải lên bộ ván chiếc chiếu bông. Chiếc chiếu bông này là một trong đôi chiếu của nhà mẹ Sáu chỉ đem trải khi có giỗ kỵ, đám tiệc.
Ngạn ngồi uống nước trà trên ván với anh Tám chợt nghe ngoài đường có tiếng ai nói chuyện giống như tiếng anh Hai Thép. Ngạn chạy ra. Hai Thép đã đi vào tới sân. Anh bí thư chi bộ này vóc người hơi gầy mà chắc. Đầu anh buộc ngang một cái khăn rằn, nách cắp một chiếc cặp giả da thứ của trẻ con đi học và mang một chiếc ra-đi-ô bán dẫn kiểu Nhựt. Một tay giơ chào Ngạn theo kiểu nhà binh rồi bước như nhảy lên bậc thang. Bàn chân trái của anh bị đứt hai ngón, cứ hếch hếch lên tấm gỗ bậc.
- Mới về hả chú? Ông Tám Chấn đâu?
- ở trong nhà.
Vào nhà, anh Hai Thép liệng cái cặp giả da vào góc ván, ngó anh Tám Chấn cười và nháy mắt:
- Mới xuống hả ông?
Hỏi xong, anh gấp gấp mở thêm một cái cúc áo nữa, tay tháo cái khăn rằn trên đầu xuống đập đập mồ hôi đổ hột ở ngực. Anh Tám rót một chun trà, đặt trước mặt Hai Thép.
Hai Thép nhắc chén trà lên, cười nói:
- Tụi tôi đợi ông xuống quá xá. Cái vụ đất bị cha con thằng chủ mưu xáo canh hồi đó nay giải quyết lại nột dữ. Không phải dễ đâu nghe ông!
Anh Tám Chấn cười cười:
- Thì tôi có nói là dễ đâu!
Hai Thép đưa chung trà lên tợp một hớp rất kêu, chép chép miệng:
- Tôi đợi ông xuống đặng hỏi ý kiến ông về mấy khoản, giả tỷ như cái khoản...
Anh Tám Chấn vội giơ tay khoát khoát:
- Thôi, uống nước đi, rồi ở đây ăn cơm với tụi tôi. Mai đã, mai hẵng tính. Bữa nay ông xả hơi "giải nghề" một bữa đi!
Hai Thép ngồi xuống ván, rót nước uống liên tiếp hai ba chun nữa. Mẹ Sáu ở sau bếp đi ra, thấy Hai Thép liền hỏi:
- Hai Thép đó à? Còn Ba Rèn với thằng Năm Tấn đâu?
- Cháu không gặp. Cháu ở nhà đi thẳng tới đây.
- Tôi có nhắn mấy đứa nó chiều nay lại ăn cơm, giờ sao chưa thấy tới?
- Ối, hơi nào lo cho mấy thằng đó, má ơi!
Quyên đã bưng thức ăn ra. Mọi người đang ngồi nói chuyện liền lánh chỗ cho cô đặt đĩa cua xào dấm và đĩa tôm chiên vào giữa. Mùi chiên xào bay thơm quá. Đĩa tôm chiên coi mới thích làm sao. Những con tôm to bằng ngón chân cái đã lột vỏ, hồng hào nằm cong mình dưới lớp nước sốt cà chua đỏ tươi. Kế đó, chị Sứ lại bưng tiếp một thau nhôm đựng gỏi đu đủ trộn với khô cá bôi xé. Anh Hai Thép cúi nhìn thau gỏi, xoa xoa tay, khều Sứ nói:
- Mấy món này tao ngó đều khá. Thế nào rồi tao cũng cho má bầy trẻ tới học tập, nhưng nếu chị em bây chỉ dọn bấy nhiêu món đó thì tụi tao chưa chịu ăn đâu!
Quyên mau miệng:
- Còn cá chẻm chiên nữa, anh Hai à!
Hai Thép vỗ tay đánh bộp một cái:
- Có cá chẻm chiên nữa à! - Nhưng anh vội khoát khoát nhẹ tay: - Không, có cá chẻm tụi tao cũng chưa chịu ăn.
Quyên trố mắt, Sứ nói:
- Con Quyên khờ quá, anh Hai mà mày không biết à, ảnh nói xa nói gần đó mà...
Hai Thép cười, hài lòng:
- Con Sứ khá lắm... Vậy cái tao nói xa nói gần đó có không? Có thì đem ra đây, mau đi!
Sứ ngó mẹ, cười. Mẹ Sáu nói:
- Thôi, con vô buồng... đem ra đi, một chai thôi. Chớ không có, Hai Thép nói không chịu ăn thiệt đa!
Sứ vào buồng, lát sau cầm ra một chai rượu trong vắt. Hai Thép đưa hai tay với ngang chai rượu, ôm vào lòng như sợ bị đòi lại. Anh vừa rung đùi vừa khoát tay ra lệnh cho anh Tám và Ngạn qua. Rồi anh quay nhìn thẳng vào mắt Ngạn, cố lấy giọng thật dịu dàng:
- Mày về nhà tao thấy mày nhu mì điềm đạm, tao thương quá, Ngạn!
Anh day qua mẹ Sáu nói:
- Má à, về nhà đây coi nó mủ mỉ vậy chớ ở chỗ khác, tự nãy giờ thôi bể nhà bể cửa với nói rồi nghe má!
Mẹ Sáu lắc đầu cười. Anh Hai Thép khoái chí nhìn Ngạn đang ngượng nghịu leo lên ván...
Hai Thép rót rượu ra ly. Anh nài nỉ mẹ Sáu phải uống một chút. Mẹ không chịu uống. Anh mời tới Quyên, Sứ. Hai chị em, cười, lắc đầu. Anh đưa ly lên chạm với anh Tám Chấn và Ngạn.
Ba cái ly ấy mới giơ lên vừa chạm vào nhau đánh "cốp" một cái chợt ngoài sân có tiếng chân đi thình thịch. Và tiếng chân đó lát sau vội vã nhảy lên bậc thang. Ba người cần ly rượu trên tay chưa ai uống một hớp thì Tấn và anh Ba Rèn xồng xộc bước vào. Hai anh bắt tay anh Tám và Ngạn rồi ngồi ghé xuống ván. Tấn thì thào:
- Vừa có tin cho hay địch tập trung tại Tri Tôn ngót ngàn quân. Thế nào mai nó cũng càn, nhưng chưa biết càn đâu.
- Bao nhiêu, gần một ngàn quân à? - Anh Tám hỏi lại.
Tấn gật đầu:
- Một tiểu đoàn chủ lực, một tiểu đoàn bảo an và thêm một đại đội biệt kích.
- Đại đội biệt kích của thằng Xăm. Anh em cho biết rõ như vậy! Ba Rèn nói.
Anh Tám Chấn lặng thinh, cau mày. Anh chồm người tới trước thò tay nhặt cái nút, thong thả nhét miệng chai rượu lại, đưa cho Sứ bảo cô đem cất. Anh nói với mọi người:
- Thôi tụi mình làm bậy ly này thôi. Tranh thủ ăn cơm đi. Má, cô Sứ với cô Quyên cũng lấy chén ra ăn cơm luôn thể. Tôi nghi nó đánh đấy. Nhưng nếu nó đánh thì cũng giác hừng đông. Có đại đội thằng Xăm thì phải coi chừng. Có thể nó "đột" sớm hơn!
- Sao mấy bữa nay không thấy "đầm già" nó quần cà?
- Đâu nhứt thiết phải có "đầm già" quần.
Đợi mọi người ăn cơm xong, mẹ Sáu thu dọn mâm chén. Cũng trên bộ ván đó, bây giờ mọi người ngồi quây lại. Anh Hai Thép buộc xiết chặt cái khăn lên đầu, nói:
- Thấy rõ là nó đánh vùng Hòn rồi. Tôi đề nghị có bàn gì thì bàn mau mau để rồi chuẩn bị đối phó ngay. Theo tôi, một mặt Ba Rèn cho tập hợp anh em du kích lại xuống chông, gài lựu đạn. Còn vợ tôi để nó lo bố trí các tổ đấu tranh. Cần hết sức chú ý mặt đấu tranh hợp pháp để ngăn chặn sức đánh phá của địch. Chút nữa, tôi sẽ tạt qua nhà cho vợ tôi hay luôn!
Anh Tám Chấn đặt bàn tay lên bàn, ngón tay trỏ của anh nhịp nhịp:
- Đồng ý với Hai Thép. Nhưng nên nhớ như vậy là quân số địch đông đấy! Về tình hình Hem thì ra sao? Khi đánh nhau với chúng nó, có chỗ lánh né không?
- Hem còn tốt thì ít thôi. Chỉ đủ cho một vài tổ. Đất cát khó đào quá, cứ bị sụp hoài. Mới đây lại bị sụp nữa, chưa củng cố lại kịp. Tụi tôi tính bố trí chặn đánh chúng ngoài vườn. Chừng nào thắt ngặt quá thì lánh né vô hang.
Anh Tám Chấn im đi một lúc. Gương mặt anh thoáng vẻ lo lắng. Anh bảo:
- Phải ráng khắc phục hầm hố sao chớ để như vậy thì bị động quá...
Anh Ba Rèn nói:
- Hang Hòn là chỗ cố thủ rất ngon. ở đó một người mình có thể chống chọi lại trăm thằng. Lần trước cũng vậy...
- Lần trước khác, bây giờ khác... Tôi cũng tin là hang Hòn có địa hình chống đỡ thuận lợi, nhưng nếu chỉ xét về mặt địa hình không thì không được... Nhưng thôi, hiện tại là không có hầm đảm bảo ở ngoài xóm, cũng phải đành giải quyết như vậy thôi. Chớ nói về lâu dài thì không thể cứ chỉ lấy hang Hòn làm chỗ dựa duy nhất được đâu.
Day qua Ngạn, anh Tám nói:
- Đội công tác của chú cũng kết hợp với anh em du kích chiến đấu luôn.
Ngạn gật đầu:
- Được rồi, đội tụi tôi có sáu súng: ba mát, ba tôm-xông, và mười lăm trái MK3. Tất cả đều có thể chiến đấu.
Ba Rèn hớn hởn, nắm tay Ngạn gặc gặc. Anh Hai Thép bảo:
- Tôi thấy anh Tám không nên ở đây.
Anh Tám Chấn suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Không việc gì, tôi cứ ở đây thôi!
Rồi kéo anh Hai Thép lại, anh nói nhỏ:
- Tôi sẽ ở lại ngoài xóm giúp chỉ đạo bà con đấu tranh chánh trị. Anh liệu coi ở nhà nào thì tiện.
Hai Thép thoáng vẻ mừng rỡ, nói luôn:
- Anh Tám cứ ở tại nhà tôi. Vợ tôi trực tiếp nắm các tổ đấu tranh chánh trị có anh giúp thì hay quá. Hầm bí mật ở nhà tôi cũng vững, thôi anh cứ ở đó!
Anh Tám Chấn gật đầu. Rồi anh tiếp:
- Hai Thép cho ai chạy qua Linh Quỳnh kêu chú Đạt của tôi về. Cứ để Đạt tham gia chiến đấu. Như vậy sẽ có thêm một cây cạc-bin. Đạt nó bắn cạc-bin khá lắm!
Ba Rèn nói sẽ cho người qua Linh Quỳnh ngay. Giữa lúc ấy, Tấn an ninh nhích lại gần mọi người, khẽ bảo:
- Còn việc này nữa... Nếu địch nó bố ở đây thể nào nó cũng xài tụi điệp, dùng tụi này chọc. Hiện nay, còn thằng Ba Phi mình để đó theo dõi chưa bắt. Mình phải tính sao, chớ không...
- Phải bắt thôi. Thằng chủ trại đáy nó nguyên hiểm lắm. Cả vợ nó nữa.
- Tôi cứ tưởng mấy ông bắt nó rồi chớ! Anh Tám Chấn nói. - Và anh tiếp - Cho bắt đi!
Nhưng không biết nghĩ sao, anh lại hỏi:
- Từ đó tới nay theo dõi nó thấy có hiện tượng gì mới không?
Tấn đáp:
- Chưa thấy gì mới.
Anh Tám gõ gõ ngón tay xuống ván:
- Chắc bây giờ nó đang chờ địch tới lắm. Nếu bắt nó khai thác liền được đồ địch thì hay quá. Thế nào nó cũng biết.
Ngạn nghe nói bắt gián điệp thì xen vào bảo:
- Từ trước tới nay mình có để lộ ra cái gì chứng tỏ là mình theo dõi nó không?
Tấn nói:
- Không, nó không biết đâu!
Hai Thép bảo:
- Đi bắt nó phải bố trí cho kỹ. ở đó meo lắm, cần ghé rà trước coi hồi chiều tới giờ tụi quận có thả lính vô không?
Ngạn hỏi:
- Để cánh tụi tôi giúp cho một tay!
Hai Thép gật đầu:
- ừ, vậy thì tốt lắm. Phải làm liền đi. Tối rồi. Đi ra tới ngoải là vừa?
Ngạn đứng lên.
Quyên lẹ làng chạy ra đằng sau lấy xanh-tuya đem ra đưa Ngạn. Ngạn thắt súng vào lưng, rồi cùng Tấn bước thót ra cửa. Hai Thép dặn:
- Bắt được cứ đưa thẳng nó về hang nghe!
Ra tới đường. Ngạn đi sát vào Năm Tấn, nói:
- Tôi tính mình bắt thằng này phải mánh lới một chút, anh Năm! Phải gạt nó khai rồi hẵng bắt!
Tấn chưa hiểu, hỏi:
- Gạt làm sao?
Ngạn kề miệng nói rỉ vào tai Tấn. Tấn nghe xong lộ vẻ thích thú lắm. Anh ta khen:
- Hay, hay!
Ngạn nói thêm:
Tụi tôi có đồ sĩ quan. Đừng lo!... Bởi trước sau gì mình cũng bắt nó mà. Nhưng trước sau có một chút quan hệ lắm... anh thì nó biết mặt, cứ bố trí vòng ngoài, để tụi tôi vô.
Cái thị trấn Tri Tôn bé nhỏ chiều hôm ấy ỗng dưng ầm ĩ hẳn lên. Xe cam-nhông chở lính từ Rạch Giá nối đuôi nhau chạy xuống. Bụi bốc mù mịt trên con đường độc nhất của phố nhỏ quận lỵ. Bụi xông tỏa vào các tiệm nước, các tiệm tạp hóa, các căn phố trệt và phố lầu mới cất. Bọn lính từ trên xe nhảy xuống, lũ lượt kéo đi trong vầng bụi. Bọn lính chủ lực mặc đồ trai di, bọn biệt kích mặc đồ rằn, giày da và giày bố nện rầm rập, bồm bộp.
Đồng bào bên phố đứng xem chúng kéo qua, xì xầm bàn tán. Người ta thấy có những tên quen mặt trong đại đội biệt kích, nhưng chẳng có ai dám dòm bọn này cả. Bọn lính chủ lực từ Sài Gòn xuống còn đưa mắt nhìn xem hai bên phố, chớ bọn biệt kích thì mặt gầm gầm, lạnh lùng, súng tôm-xông và cạc-bin của chúng mang đều chúi mũi xuống đất.
Thằng Xăm, tên trung úy, chỉ huy đại đội biệt kích có đôi mắt trắng dã, lịch phịch đi sau cùng. Hắn mặc bộ đồ rằn thủy quân lục chiến rỡn hình sóng biển, bò sát lấy khổ người rất lực lưỡng. Đầu hắn đội cái kết vải vằn vện có ba mảnh vải để che gáy và che hai bên mang tai. Loại kết này vẫn gọi là kết "ba rèm". Nơi đùi thằng Xăm đeo sề sệ khẩu súng ngắn côn 12, bao da súng màu hung hung gần giống như da mặt của hắn. Ngoài ra, hắn còn khoác một khẩu cạc-bin và một cái cúp cúp. Những tên lính biệt kích trong đại đội hắn đều ăn mặc giống như hắn, đeo cạc-bin hoặc tôm-xông, tên nào cũng có dao găm Mỹ, và trông tên nào cũng hung tợn.
Đang đi, bỗng tên trung úy Xăm ghé tạt vào một quán giải khát ở giữa phố. Hắn ngang nhiên vớ lấy một chai la-ve, đưa mắt nháy người chủ quán Hoa Kiều một cái rồi đi ra. Vừa đi, thằng Xăm vừa rút soạt lưỡi dao bên hông. Một tay hắn cầm chai la-ve giơ lên, một tay hắn trở sống dao phạt mạnh ngang cổ chai. Cổ chai văng toạc đi. Bọt rượu trào ra. Hắn dừng lại, ngửa cổ đưa chai la-ve rót vào miệng. Hắn uống hết độ hai phần ba chai, rồi đưa cho tên lính đi trước. Tên lính cầm chai la-ve khoái trá uống nốt chỗ còn lại. Chừng như tên lính này đã quen uống như vậy nhiều lần rồi.
Bấy giờ, có lệnh từ tiểu đoàn lính bảo an truyền lại:
- Dừng lại, đừng đi lên nữa!
Nguyên là đồn quân chi khu này chỉ có thể chứa thêm được hai tiểu đoàn trong số trên ba tiểu đoàn lính mới đến. Đó là hai tiểu đoàn lính chủ lực. Bọn còn lại là bọn bảo an và biệt kích thì được lệnh đóng ở ngoài, trên những khoảnh ruộng trống khô, nẻ.
Một tên đại úy tiểu đoàn trưởng bảo an cao lớn truyền lệnh ấy ra sau, rồi cho những đại đội của hắn kéo vào khoảnh ruộng.
Tên Xăm càu nhàu:
- Đ.mẹ, về xứ của tôi mà bắt tôi ngủ ruộng à?
Song nói thế chứ hắn cũng khoát tay xua bọn lính áo rằn của hắn đổ vào chỗ đất trống giáp phố.
Nắng chiều vàng vọt trải xuống mặt ruộng. Trên khoảnh đất trống bị dọn sạch quanh chi khu, bọn lính chạy tới chạy lui. Chúng trải những tấm tăng, dành chỗ làm bếp nấu, tu ừng ực nước hoặc rượu chứa trong các bi-đông Mỹ. Có tên chưa chi đã nằm lăn kềnh, ngửa mặt lên trời phì phèo hút thuốc. Từ đám lính ấy nghe toát ra mùi chua loét của mồ hôi, mùi thuốc lá Bát-tô xanh, mùi rượu trắng và cả mùi sáp bôi tóc loại rẻ tiền. Tất cả những mùi đó hợp lại là cái mùi lính nói chung, nghe lờm lợm, vốn dĩ rất sẵn có ở những tên lính đánh thuê.
Thằng Xăm cởi phanh áo. Hai cổ tay hắn đeo không biết bao nhiêu dây bùa cà tha vàng hoặc đỏ. Và trên bộ ngực nở nang của hắn lủng lẳng một sợi dây chuyền buộc cái mặt chằn bằng ngà có nanh vàng chìa ra coi rất dễ sợ. Cái mặt chằn với những dây cà tha ấy thằng Xăm coi như bùa hộ mạng của hắn. Hắn bật nằm ngã ngửa ra trên tấm vải bạt xám. Điếu thuốc trên môi hắn đã cháy muốn hết mà chừng như hắn không hay. Thình lình, hắn đưa tay giật phắt mẩu thuốc, vứt đi và ngồi bật dậy. Hắn lừ lừ giương đôi mắt trắng giã ngó bọn lính của hắn bấy giờ đang lôi bánh mì ra. Một tên lính bé choắt luồn tới bên hắn:
- Mời anh Hai đi ăn cơm!
Thằng Xăm uể oải đứng dậy đi theo tên lính đến trước một tấm vải bạt. Trên tấm vải bạt có trải giấy báo, đặt nửa con gà quay, hai ổ bánh mì lớn và một hộp cá mòi đã mở nắp. Xăm ngó qua, xẵng giọng hỏi:
- Hết rượu hả mậy?
- Thưa anh Hai, còn.
Tên lính bé choắt ấy xăng xái đặt vào giữa tấm vải bạt bi-đông nặng trịch. Mắt thằng Xăm vụt sáng lên. Hắn với tay chụp cái bi-đông lắc lắc, ra vẻ hài lòng. Hắn mở nút đưa lên miệng tợp ngay một hớp rồi một hớp nữa. Cầm bi-đông đưa cho tên lính, tay hắn chộp lấy đùi con gà quay đưa lên miệng, cắn, dứt ra, nhai nghiến ngấu. Những chiếc răng vàng trong mồm hắn lóa sáng, nhồm nhoàm. Hắn đưa tay quệt mỡ gà dính ở hai bên mép. Tên lính cùng ăn, cùng uống với hắn, coi hơi cóm róm nhưng có vẻ hể hả. Thằng Xăm tu rượu ừng ực. Hắn "khà" một cách khoái trá rồi lại xé thịt gà ăn.
Tên lính và hắn ăn hết nửa con gà, uống hết một bi-đông rượu thì ánh nắng đã tắt. Nhưng mặt trời thì vẫn còn đỏ sẫm dưới ven đồng xa.
Thằng trung úy biệt kích ngà ngà rượu ấy chới với đứng lên, đưa hai tay cào cào sườn. Hắn ngước nhìn mặt trời, miệng lẩm bẩm một câu chửi tục chỉ có mỗi mình hắn hiểu, rồi nhe răng cười không ra tiếng. Bọn lính cũng đã có nhiều đứa say như hắn. Nhưng rượu đã hết, và chúng đang bẻ bánh mì chia nhau ăn. Có những tên lính đã cởi hẳn áo, để lộ bộ ngực đen bóng xăm đầy hình rồng rắn. Có một số lính đi khuân củi. Thứ củi tràm gộc bổ đôi, mỗi đứa xách hai miếng, không biết chúng lấy từ đâu.
Đêm tối vừa sụp xuống thì chúng đốt lửa. Nơi này một đống, nơi kia một đống. Lửa bốc phừng phừng, cháy sáng từng lõm ruộng. Bọn lính nấu nước bằng hăng-gô xỏ xâu vào, ngồi lổm chổm bên ngọn lửa. Mặc dù có lệnh cấm vào phố, chúng vẫn lén đi mua rượu, mua thêm la-ve và đồ nhậu. Lệnh cấm là lệnh của bộ chỉ huy hành quân, nhưng các tên chỉ huy đơn vị không cấm lính của chúng. Thằng Xăm chẳng những không cấm mà hắn còn ó ré nhậu nhẹt cùng bọn đàn em biệt kích. Bọn này không ngớt mời mọc, tán tụng hắn. Tên nào cũng đều gọi hắn bằng anh Hai. Chúng còn mời mọc một tên thiếu úy mặt xương, mắt sâu thỏm và gọi tên này bằng anh Ba.
Thằng Xăm thích lính gọi mình bằng anh Hai hơn là gọi bằng "ngài trung úy".
- Anh Hai uống với em một phát, anh Hai!
- Anh Hai thiệt uống không biết say đa!
Thằng Xăm hể hả khi nghe những câu ấy. Hắn uống hết, không từ chối một ai. Hắn quả là một thằng biệt kích mạnh rượu. Hắn uống nhiều mà không say mấy.
Cặp mắt bình thường trắng giã của hắn nay đỏ lên như có pha ánh lửa và hoe máu. Bọn biệt kích ác ôn thân tín ngồi vây quanh. Những tên này đã phục sợ thằng Xăm trong các cuộc đánh phá giết người bao nhiêu thì chúng càng phục thằng Xăm trong sự nhậu nhẹt bấy nhiêu. Một tên trong bọn chợt hỏi:
- Mai về Hòn, anh có ghé nhà không?
Thằng Xăm sắp đưa bi đông rượu lên, nghe hỏi hắn liền để bi đông xuống. Bàn tay hắn hơi run run. Câu hỏi của tên lính hình như chạm vào một cái gì trong lòng hắn.
- Ghé. Thế nào tao cũng phải ghé thăm bà già với con em.
- Cô Cà Mỵ à? Chà, năm nay cô Mỵ chắc lớn lắm rồi?
- Đâu như mười chín tuổi...
Thằng Xăm thờ thẫn nói:
- Con Mỵ nó giống tao. Tao thương bà già tao.
- Nghe nói anh Hai có kêu bà già với cô Mỵ ra chợ ở, sao không thấy bà già với cô Mỵ ra?
- Không, lần nào tao về đóng bót Hòn Đất. Để bà ở đó luôn!
Hắn nói xong thở "khì" một cái rất mạnh. Nốc thêm một ngụm rượu nữa, hắn lắc đầu lia lịa:
- Nghe nói bà già tao theo Việt Cộng. Bả thù ông già tao lắm.
Thằng Xăm nói thế, rồi nhắc tới Hòn Đất với cái giọng bỗng dưng hạ thấp hẳn xuống:
- ở Hòn Đất vui, vui lắm... Hồi tao còn làm xếp bót ở đó, tao vui hơn bây giờ. Có đủ thứ trái cây, có khô trâu...
Bọn lính cười nhăn nhở, thích thú. Tên nào cũng khoái trá, vì chúng biết nội nhật ngày mai chúng sẽ được tới đó. Bây giờ ít đứa nghĩ đến cái chết, mà chỉ nghĩ tới sự vơ vét, sự ăn uống và sự cưỡng hiếp. Trong bọn này, có tên đã biết Hòn Đất. ở đó, chúng đã làm bất cứ chuyện gì chúng có thể làm được. Chúng đã kháo với nhau và kể lại cho bọn khác nghe, giả dụ như muốn ăn thịt trâu, chúng chỉ cần ngắm cho trúng đích những con trâu ăn cỏ trên triền Hòn và nổ súng. Cũng có tên bảo chính tay nó đã đập đầu Việt Cộng bằng cột chèo, đập vỡ óc văng tung tóe cả vào áo. Chúng kháo nhau rằng ở đấy, "anh Hai" đã mổ rất nhiều người, mổ rất khéo, chỉ cần chọc một nhát dao nơi chấn thủy, lách chếch lên, đường dao rạch chỉ vừa đủ thọc bốn ngón tay vào để bợ trọn buồng gan ra.
Thật là thằng Xăm đã mổ rất nhiều người, nên trong đám ác ôn, hắn nổi tiếng là đứa mổ gan lấy mật người gọn lẹ nhất. Nhưng hắn không chỉ khéo mổ lấy gan và mật. Hắn còn nhiều cách giết người lạ lùng quái gở hơn. Dòng máu của hắn chính là dòng máu của cha hắn, một tên địa chủ người Việt trước kia làm bá chủ vùng Hòn. Người ta nói thằng Xăm không còn chút máu nào của bà Cà Xợi, tức mẹ hắn, là một người đàn bà Khơ Me uất ức và đau khổ suốt đời, đến nay vẫn còn như điên dại.
Mẹ hắn, bà Cà Xợi ấy, ngày xưa là một người con gái Khơ Me khá đẹp với nước da nâu rám mặn mòi và dáng đi uyển chuyển, chỉ có những cô gái Khơ Me nắn nồi và đội cà om đi lấy nước suối ở đây mới có được.
Người con gái Khơ Me ở đây lớn lên với nghề nắn nồi đất, ngày ngày đi quanh bàn nắn, tính trung bình mỗi ngày họ đi có tới khoảng ba mươi cây số; tức là bằng từ Hòn Đất đi lên tỉnh Rạch Giá. Thành ra công việc lao động ấy tự nhiên luyện cho họ một vóc người uyển chuyển, dịu dàng. Hơn nữa, họ lại thường đội cà om đi lấy nước suối về dùng. Khi đặt cà om nước lên đầu, cô gái Khơ Me bước đi duyên dáng lạ thường. Trên đường từ suối nước về nhà, các cô không bao giờ vịn tay lên cà om. Đôi tay các cô đánh đường xa, vẫy vẫy dịu trên lối cát.
Bà Cà Xợi ngày xưa là một người con gái như thế.
Tên chủ Mưu đã ép cô gái Cà Xợi xinh đẹp về ở với hắn. Ngày ấy anh Thạch Kha là người yêu Cà Xợi buồn quá bỏ đi làm phu bẻ cây lên tận Kông-pông-chàm. Sau khi đẻ được thằng Xăm, tên chủ Mưu bắt đầu không ngó ngàng đến Cà Xợi nữa. Y để ý tới những cô gái khác, trẻ hơn. Nhưng lúc đó Cà Xợi đã có mang với y đứa con thứ hai. Sau cùng, y đuổi Cà Xợi ra khỏi nhà, còn thằng Xăm thì y giữ lại nuôi. Bà Cà Xợi bỏ hòn màu của mình, ôm bụng thất thểu bước ra khỏi cái nhà nền đúc. Bà về xóm Hòn Đất che tạm một túp chòi, ban ngày đi gặt lúa mướn, tối về chòi ngủ. Lúc sắp đẻ, bà đau quá, bò lê ra đồng cứ vơ gốc rạ mà nhai. Tình cờ đêm ấy hai mẹ con mẹ Sáu đi đâu bên bến đò Vàm Răng về gặp, mới đem bà Cà Xợi về nhà. Bà Cà Xợi sanh con Cà Mỵ tại nhà mẹ Sáu. Được một tuần lễ sau thì anh Thạch Kha trên Kông-pông-chàm về. Anh đến nhà sụp trước mặt mẹ Sáu lạy mà xin cho rước bà Cà Xợi lẫn đứa con mới đẻ. Hai người ăn ở với nhau không đầy một năm thì anh Thạch Kha bị chủ Mưu cho người rình chém khi anh đang đi vô rừng đốn củi. Anh Thạch Kha dùng búa chém lại chết một thằng, nhưng anh thì bị chúng vây chém trọng thương, chạy về chết gục trước sân nhà. Thế là từ đó bà Cà Xợi nắn nồi nuôi con Cà Mỵ tới lớn. Cà Mỵ càng lớn càng dễ thương, giống mẹ như đúc. Duy có thằng Xăm từ bé đến lớn ở với chủ Mưu được nâng niu, càng lớn càng giống chủ Mưu về mọi mặt. Thằng Xăm gắn bó với cha nó ngay từ những miếng cườn trên Hòn, ngay từ những mảnh đất nắn nồi cha nó độc đoán chiếm bán ra từng thước khối. Nó ở trong ngôi nhà nền đúc phông tô, và lớn lên. Ngôi nhà ấy hồi kháng chiến đã bị phá, và vườn đất cũng bị cách mạng lấy chia cho dân. Chủ Mưu bỏ chạy lên Rạch Giá. Mãi hòa bình lập lại, y trở về với thằng Xăm bấy giờ đã là thiếu úy quân đội tay sai Diệm. Y giựt đất, cất nhà lại và cùng thằng con trai trả thù cách mạng với tất cả nỗi căm oán chất chứa trong bao năm. Thằng Xăm còn độc địa hơn cả cha nó, vì chính tay nó cầm súng Mỹ, và đi theo nó có cả một bầy ác ôn liều mạng nhất được nó tuyển từ các đồn lẻ quanh vùng. Bọn biệt kích của thằng Xăm thằng nào cũng chạy giỏi như ngựa. Chúng rượt nà cán bộ trên đồng trống, mò vào các khu rừng tràm, đánh phá căn cứ cách mạng cả ngày lẫn đêm. Có khi giữa đêm mưa tầm tã hoặc lúc trời vừa rạng sáng, súng của chúng nổ ran. Bà con trên Hòn mỗi khi nghe tiếng súng của bọn thằng Xăm ai cũng lo sợ nghĩ đến con mình, cháu mình và những người cán bộ thân thiết của mình vừa ngã xuống.
Nhưng có một người nghe tiếng súng ấy còn hoảng sợ đau đớn gấp trăm ngàn lần hơn người khác. Người đó là bà Cà Xợi vậy.
Ngày đồng khởi, tên chủ Mưu bị bắt đền tội. Thằng Xăm chạy thoát. Từ đó, nó càng thêm hung dữ.
Cho dù ở Hòn Đất hay là ở trên khắp thế gian, người mẹ nào mà cẳng có nỗi đau khổ riêng của mình, nhưng thật cũng có ít người mẹ nào lại có nỗi đau khổ như bà Cà Xợi.
Hồi còn làm sếp bót Hòn Đất, thằng Xăm vẫn thường đem vải vóc, vàng bạc mà nó cướp được về cho bà Cà Xợi và con Cà Mỵ. Nhưng hai mẹ con đều không lấy. Thậm chí có lần bà Cà Xợi đã liệng vãi các thứ ấy ra sân, rồi bưng mặt khóc.
Nên thằng Xăm nói:
- Nghe bà già tao theo Việt cộng rồi!
Nó nói đúng.
Chẳng phải có lần chính mẹ nó đã đứng trước mũi súng của nó đó sao?
2.
Vào giờ ấy, bà Cà Xợi đang lầm lũi tới quán của thím Ba ú ở ngã ba Hòn Đất. Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái chai xị không. ở Hòn Đất ban đêm, hễ thấy dạng người nào đi không đèn đóm thì bà con đều đinh ninh người đó là bà Cà Xợi. Bởi ngoài bà thì chẳng có ai đi như một cái bóng như thế cả. Nhưng người đàn bà mà khắp Hòn Đất này ai cũng cho là có hơi dài dại ấy khi đi trong đám tối mới tài chứ! Chẳng bao giờ bà ta vấp chân vì một mô đất hay một lỗ trũng. Hình như bà biết trước và tránh được hết.
Lúc bà Cà Xợi đến quán ngã ba thì quán vắng ngắt không có một ai. Bà bước vào quán, thấy trên quầy cạnh ngọn đèn ống khói có mỗi mình thím Ba ú đang ngồi đếm lại đống tiền lẻ bán được trong ngày. Nghe tiếng chân người bước vào, thím Ba ú ngước lên. Thím hỏi, giọng nghe êm như ru:
- Thím Cà Xợi đó à? Đi mua chi mà khuya vậy?
Bà Cà Xợi không đáp, giơ cái chai xị không lên. Thím Ba ú hiểu ngay. Thím đếm nốt cho xong số tiền lẻ lại rồi lách ra quầy, đi đong rượu cho bà Cà Xợi. Thím Ba ú này thật xứng với cái tên của thím quá. Người thím béo mập làm sao! Thím lách qua cửa quầy một cách khó khăn. Cổ tay thím lúc với ra đón lấy chai xị không của bà Cà Xợi coi mập có ngấn, núc ních. Thím xách cái chai bước tới hũ rượu, cầm một cái cóng tre múc rượu trong hũ đổ vào chai. Tuy chai xị không có đặt phiễu, thế mà thím rót không đổ ra ngoài một giọt.
Cầm chai rượu đưa cho bà Cà Xợi, thím Ba ú nhìn bà Cà Xợi lâu và hỏi bằng tiếng Khơ Me:
- Ne, néak dâng rương ây tê!
Bà Cà Xợi lắc lắc cái đầu tóc bù rối vàng sém:
- Rương ây?
Thím Ba ú nói rỉ vào tai bà:
- Nè, thằng Xăm nó mới về Tri Tôn đó nghe! Hôm qua, tôi đi bổ hàng ngó thấy nó ở trên xe nhà binh nhảy xuống...
Bà Cà Xợi chớp chớp mắt, hỏi lại:
- Thằng Xăm hả, thằng Xăm nó về Tri Tôn hả?
Bà Cà Xợi cho con gái hay cái tin đó rồi đi lại bộ ván, ngồi kéo xổm một gối lên. Lát sau, bà rót rượu ra chén, uống như uống nước. Nhưng bà chỉ uống có một chén. Rồi ngồi đó, bà ngó bóng mình in trên vách. Đêm nào cũng vậy, sau khi đan xong hai hoặc ba bao cà ròn, bà Cà Xợi lại uống một chén rượu. Ai người ta uống rượu vào thì say và quên hết mọi sự, chớ bà Cà Xợi thì ngược lại, càng uống vào bà càng tỉnh và nhớ hết. Bà nhìn Cà Mỵ (thường khi cô vẫn ngồi đan mải mốt), nhớ lại thời bà bằng tuổi nó, nhớ những cái nồi đất nung đỏ rực do tay bà nắn, nhớ những đêm dù kê anh Thạch Kha bên Sóc Trưng qua sắm vai hoàng tử còn bà thì sắm vai cô gái bắt ốc. Rồi bộ mặt của chủ Mưu hiện lên, rồi kiếp sống trong cái nhà nền đúc phông tô. Những ngày cực mà vui với anh Thạch Kha. Tai họa đến, hình ảnh Thạch Kha ngã sấp trước nhà, hai tay vã xuống đất. Bà nhớ tất cả, nhớ giữa lúc hình bóng mình in trên vách và nhìn bóng con gái đang đươn đát. Bà không quên ngày bà được cách mạng cấp đất. Rồi thì là thằng Xăm, với những bà con anh em bị nó mổ bụng, đập đầu.
"Thằng Xăm mới về trên quận" tiếng thím Ba ú nói ban nãy bây giờ hãy còn văng vẳng bên tai bà.
"Lại đi bắn giết bà con nữa chớ gì?" bà lẩm nhẩm nghĩ bụng rồi muốn kêu: - "Trời ơi nó léo lánh về đây chi vậy hở trời? Phải chi nó chết đi có hơn không?".
Người mẹ nào mà lại muốn con mình chết? ấy vậy mà nhiều lần bà Cà Xợi mong mỏi cái chết đến với thằng Xăm đấy. Nếu thằng Xăm chết, chắc bà sẽ bớt khổ hơn. Nếu nó cứ còn sống đi sát hại mọi người thế này mãi thì lúc nào đó chắc bà phải chết. Hoặc là nó chết, hoặc là bà chết. Chỉ có một trong hai cái lẽ ấy mới xong. Cà Mỵ có lần đã nói với bà:
- Má sanh y ra làm chi? Y không phải anh của tui đâu!
ấy, Cà Mỵ có lần nói bà như thế. Bà cũng có lần bảo với lối xóm: - "Thằng Xăm, nó có phải là con của tôi đâu!". Nhiều lần bà xuống giọng như van vỉ: - "Mấy người làm ơn làm phước đừng coi nó là con của tôi". Nhưng sau câu nói đó, bà Cà Xợi càng đau lòng như điên như dại. Một người mẹ đẻ con ra vì lẽ gì đó mà không dám nhận là con của mình thì sự đau lòng đã lớn rồi, chỉ có cái mức độ ít hay nhiều. Bà Cà Xợi thì đau lòng thái quá, và vì bà vốn lại là một người Khơ Me có tánh tình ngay thật, nên nỗi đau đớn đó ghê gớm lắm, có lúc làm bà như đãng trí. Bảy năm nay, bà Cà Xợi ở trong trạng thái như điên như không điên. Nét mặt bà ngơ ngác, khoen mắt bà càng tím đậm, và người ta ít thấy bà đi ra đường ban ngày. Bà chỉ hay ra đường lúc bóng đêm sụp xuống. Có lẽ bà cho là đêm đen sẽ phủ kín để không ai nhìn thấy bà.
Có đến hàng trăm lần bà đã lựa lời khuyên thằng Xăm. Trước mặt bà, thằng Xăm không bao giờ cãi. Có khi hắn ngúc ngoắc đầu vẻ khó chịu, hoặc nói giả cách bậm trợn: - "à, má nghe lời Việt cộng dụ tôi hả?". Nhưng rồi hắn cười ngay. Nụ cười của hắn coi hiền lành nữa là khác. Những lúc gặp mẹ, thằng Xăm chừng như có vẻ trở lại hình dáng một đứa con, chớ không có dáng dấp một thằng biệt kích. Thành ra ban đầu bà Cà Xợi cứ lầm lẫn, cứ ngờ ngợ không biết con mình nó có mổ bụng moi gan người thật như người ta đồn đãi không. Nhưng rồi bà không ngờ ngợ gì nữa. Một hôm, thằng Xăm ghé nhà. Thấy khóe mép hắn dường như chảy máu, Cà Xợi kêu:
- Sao miệng mày chảy máu vậy, Xăm?
Thằng Xăm vội đưa tay chùi mép, không nói chi hết. Khi hắn đi rồi, bỗng Cà Mỵ từ ngoài xóm hơ hải chạy về ôm mặt rú lên và cho biết thằng Xăm vừa mổ bụng hai người ở bãi Tre, lấy gan, vô nhà bà con mượn đĩa nhôm xào ăn. Bà Cà Xợi nghe nói té xỉu. Lúc tỉnh dậy bà sực nhớ những vết máu rây ở mép thằng Xăm thì lại ngã quay ra xỉu một lần nữa. Lại một hôm khác, thằng Xăm đi biệt kích ở Vàm Răng bắt về mấy người chẳng biết là cán bộ hay dân thường. Nghe tin thằng Xăm sắp mổ bụng họ tại ngã ba, bà Cà Xợi vội chạy ra định năn nỉ thằng Xăm tha cho họ. Khi bà chạy ra đến nơi thì thằng Xăm đã dùng dao bén khoét đít mấy người này, khoét sâu lõm vào. Rồi hắn mở trói. Những người này được mở trói vừa nhỏm tới thì ruột đã lòi ra ở phía sau. Lần ấy, bà Cà Xợi hét lên một tiếng rồi ngã lăn bất tỉnh ở giữa đường. Thằng Xăm sai lính khiêng bà về nhà. Lúc chiều tối, bà tỉnh dậy, thấy Cà Mỵ đứng bên, bà liền chỏi chỏi hai bàn tay thét to: - "Trời ơi! Thằng Xăm, mày đi đi!".
Bà con nói rằng bà Cà Xợi bắt đầu điên dại kể từ hôm đó.
Đêm nay cũng vậy, bà Cà Xợi lại uống...
Đáng lẽ như lệ thường, bà chỉ uống một chén. Nhưng giờ uống hết chén thứ nhất, bà lại run rẩy mở nút chai, rót thêm chén nữa.
Chén rượu thứ hai bà uống chậm rãi chứ không uống vội vàng như chén trước.
Cà Mỵ cắm cúi đan, miệng lầu bầu:
- Má uống nữa hả? Thôi, má không được uống nữa! Thôi đi... má ơi.
Ngoài đường bấy giờ chợt có tiếng chó sủa gâu gâu. Rồi một tiếng hỏi từ sân vọng vào:
- Mỵ ơi, ôn min nâu phờ téc tê?
Cà Mỵ nghe ra tiếng Quyên, liền buông cái bao đan dở, đứng dậy đáp ra:
- Chá min.
Cô lè lẹ mở cửa. Quyên đợi Mỵ ở sân, kéo tay Mỵ ngồi xuống, thì thầm:
- Nè, Mỵ đã hay gì chưa?
- Chưa.
- Giặc rục rịch sắp bố đấy. Một chút nữa sẽ có loa thông báo cho bà con hay. Lính về Tri Tôn đông lắm. Anh em du kích đều đã chuẩn bị. Tôi mới đi xuống chông về đây!
Mỵ thắc mắc:
- Sao không kêu tôi đi?
- Cà Mỵ có chuyện làm mà, đừng lo. Kỳ này định để Cà Mỵ ở trong tổ hợp pháp. Mỵ biết không, nghe có thằng Xăm về Tri Tôn nữa đó?
- Em biết rồi!
Quyên rủ rỉ:
- Cà Mỵ nè, nếu càn vô đây, mình đánh chông đánh lựu đạn đã đành, nhưng phải đấu tranh, phải giúp đỡ du kích. Cà Mỵ chưa bị lộ, với lại tụi giặc nó cũng nể Cà Mỵ là em thằng Xăm, Cà Mỵ ráng lo công chuyện liên lạc, tiếp tế...
Cà Mỵ nằn nì:
- Thôi mà, để em đi gài lựu đạn cho!
- Lựu đạn thì có người khác gài rồi.
Cà Mỵ ngẫm nghĩ một giây, rồi nói:
- Thôi được. Thiệt... Mỵ không muốn gặp mặt tụi nó, chị Quyên à. Gặp tụi nó khó chịu lắm!
Quyên quàng cổ Mỵ, thân thiết:
- Thì có ai muốn gặp tụi nó đâu, nhưng cách mạng cần vậy... A, mấy anh có dặn, Mỵ phải khéo léo, đừng nóng nẩy, có tức mình cũng ráng dằn xuống, khi cần nói ngọt phải nói ngọt, cần hát Xa ri ca keo cũng cứ hát... Đó vậy đó, chắc Mỵ dư hiểu rồi. Tin tưởng Mỵ lắm à, nghe!
Cà Mỵ mím môi, gật mạnh đầu trong bóng tối. Trước khi Quyên ra về, Cà Mỵ ôm chầm lấy Quyên hôn chùn chụt rồi mới buông cho Quyên đi.
Cánh cửa nhà ông Tư Đờn đã khép chặt. Ngạn và hai đội viên của anh là Trọng và Tới đang mặc những bộ quần áo biệt kích. Ngạn mặc xong bộ đồ rằn sĩ quan gắn lon thiếu úy, liền chụp lên đầu cái kết ba rèm. Tới và Trọng cũng đã cải trang xong.
- Sao, coi giống chưa?
Tấn nói:
- Giống lắm. Thế nào thằng Ba Phi cũng bị mắc!
Tới và Trọng khoác mỗi người một khẩu tôm-xông. Ngạn rút khẩu côn 12, tháo băng, lấy đạn trên lòng bàn tay. Đếm thấy đạn vẫn còn đủ tám viên, anh đóng băng cho súng vào bao. Năm Tấn không mang súng, anh giắt cây mã tấu sáng lóa ở sườn, được thít ngang bằng một cái khăn choàng sọc.
Ngạn nói:
- Đi thôi!
Bốn người mở cửa ra khỏi nhà.
Họ đi một mạch khỏi xóm Vạn Thạnh, băng qua ruộng. Vào gần tới xóm Vạn Hiệp. Tấn bảo ba người ngồi đợi, để anh vào bám.
Ba người ngồi được một chốc thì Tấn trở ra, thì thào:
- Êm, đi đi!
Bốn người lại đi, Tấn dắt mọi người đi men ra bờ sông. Xa xa, phía trước mặt đã thấy ánh đèn trại đáy Ba Phi. Nước sông đang đổ ra biển, réo lên những chỗ xoáy. Ngọn đèn xanh treo ở cột đáy giữa cứ rung lên bởi dòng nước chảy xiết. Năm Tấn khẽ bảo:
- Đêm nay đáy nó không đóng?
Lệ thuyền đêm nào có đóng đáy thì một cột đáy có treo đèn đỏ.
Ánh đèn xanh ngoài cột đáy Ba Phi soi lờ mờ một khoảng nước sông cuồn cuộn. Trại đáy hiện rõ dần. Nói là cái trại chứ nó là cả một cái nhà sàn cất chìa ra sông, gác mình trên những cây cọc lớn. Trong nhà le lói ánh đèn. Càng tới gần, mọi người càng ngửi thấy rõ mùi tanh của tôm cá, mùi muối, mùi vỏ sắn ngâm, những cái mùi mà bất cứ trại đáy nào cũng có. Tấn rỉ tai Ngạn:
- Nó có ở nhà.
- Được rồi, để tụi tôi vào. Anh cứ đợi ở đây!
Dứt lời, Ngạn và Tới, Trọng bước dấn lên. Đã quen xông xáo vào những nơi nguy hiểm. Ngạn đi riết thẳng tới cửa không chút do dự. Tới và Trọng bám sát gót Ngạn. Ngạn dừng lại ở cửa nghe ngóng. Bên trong có tiếng nói chuyện rầm rì. Ngạn cố lắng nghe mà nghe không rõ. Anh giơ tay vỗ đồm độp vào tấm cửa lợp lá. Tiếng nói chuyện bên trong im bặt. Ngạn lại vỗ cửa một lần nữa và khẽ gọi:
- Ông Ba có nhà không?
Trong nhà im thin thít. Lát sau, ở trong bỗng cất lên một tiếng hỏi rất dõng dạc:
- Ai kêu cửa đó?
- Tụi tôi đây, mở cửa đi!
Ngạn nghe có tiếng dép kéo lẹp xẹp trên sàn ván, đi ra phía cửa. Kế đó, nghe cây ngáng cửa phía trong rút "soạt" một cái. Cánh cửa mở hé. Một mụ đàn bà, mặt bự thịt, xách cây đèn chai giơ lên. Mụ đưa cặp mắt lá dăm liếc nhìn Ngạn, Ngạn chưa hề gặp mụ ta bao giờ. Nhưng anh đoán chắc đây là mụ chủ trại đáy. Anh hỏi:
- Có ông Ba ở nhà không?
Đôi con mắt lá dăm của mụ đàn bà chợt nháy sáng:
- Có, có. Mời mấy ông vô nhà.
Ngạn đưa tay lên miệng ra hiệu bảo mụ nói khẽ.
Mụ đàn bà nánh ra một bên cho anh bước vào. Tới và trọng cũng vào theo. Ngạn thản nhiên đưa gót giày đá khép cánh cửa lại.
Vừa lúc ấy, tấm màn che cửa buồng bên trái chợt động đậy và một cái đầu sói bóng thò ra. Đó là một thằng đàn ông chạc chừng năm mươi tuổi, mặc áo thun lá, người mập bệu, hai mắt thoạt trông có vẻ lờ đờ như người mới ngủ dậy. Ngạn gật đầu chào y:
- Ông là ông Ba Phi?
Y khom lưng, chắp hai tay vô ngực:
- Thưa phải!
Nhìn cái vẻ cóm róm của y, Ngạn thấy công việc bước đầu đã xuôi lọt. Anh bảo:
- Tôi có chuyện muốn nói với ông. Xin tự giới thiệu, tôi là thiếu úy ở đại đội ông Xăm. Trung úy phái tôi tới gặp ông...
Anh giơ tay chỉ bao quát phía sau lưng nhà:
- Tụi tôi mới ở chi khu vô tới.
- Biết rồi, biết rồi... xin mời quý ông vô trong này!
Nói xong, y vén tấm rèm vải lên. Ngạn bước qua cửa rèm. Bên trong là gian buồng rộng, có kê một bộ ván ngựa lên nước rất bóng. Trong nữa là một cái giường lớn đã buông mùng. Ba người đi lại ngồi lên bộ ván ngựa. Ngạn nheo mắt nhìn qua gian buồng rồi quay lại nói:
- Ông ở đây sung sướng quá hế! Tụi tôi không được ăn ngon ngủ yên như ông đâu... Việt cộng lóng này phá rối dữ lắm!
Tên chủ trại đáp cung kính:
- Dạ, thưa thiếu úy tôi cũng biết. Hồi xế, tôi có hay tin quý ông về. Vợ chồng tôi mừng lắm. ở đây, vợ chồng tôi mong mỏi quý ông về, đợi hoài, đợi hoài... Tới đây, y ngó vợ bảo: - Này, nấu nước đi!
Đoạn y nhướn mắt chỉ tay ra ngoài:
- Mấy ông về nằm ở ngoài hết rồi hả?
- ừ.
- Trời đất, tôi có hay biết gì đâu, mấy ông về êm quá!
Kế đó y chửi tục một câu, rồi rít chặt hai hàm răng:
- Đ.mẹ, trận này cho tụi nó thấy mẹ hết. ở đây tụi Việt cộng nó lộng lắm, thiếu úy. Để tôi chỉ thằng nào con nào, ở đây, tôi nắm hết thảy. Tôi chỉ cho ông "xạ" tụi nó như xạ mỏ nhác chơi!
Ngạn gật đầu:
- Tôi gặp ông cũng là vì chuyện đó.
- Được, được.
Vừa nói tên Ba Phi bước nhón tới cái kệ treo trên vách, bưng lại một cái khay bằng gỗ trắc đen mun. Trên khay có bộ ấm chén sứ vẽ hình con rồng màu đỏ, và một gói thuốc thơm hiệu Ru-bi. Y mở gói thuốc, rút thuốc cung kính đưa mời Ngạn, Tới và Trọng, rồi đi vào bếp coi nước. Ngạn cầm điếu thuốc, khẽ động đầu điếu thuốc vào móng tay cái. Mụ vợ, sau khi đã bắc ấm nước lên bếp, giờ bước ra đứng xán gần Ngạn, híp mắt hỏi:
- Mấy cậu còn "ém" ở đây lâu không?
Ngạn đáp:
- Lâu. Chi vậy?
Đuôi mắt lá dăm của mụ Ba Phi nháy rất lẳng:
- Mấy cậu có muốn "lai rai" chút đỉnh "ba xị đế" không?
Nghe mụ ta hỏi, Ngạn nghĩ: "Mình không nên từ chối". Anh đưa mắt liếc mụ đàn bà, cười lại với mụ, chân nhịp nhịp:
- Có tôm cua gì không?
- Cha, bữa nay tôm cua tươi không có. Có tôm khô... à, mà mấy cậu ăn cháo vịt nghe, có vịt tơ mập lắm!...
Rồi, không đợi Ngạn trả lời, mụ quay vào bếp khiến chồng:
- Ông ơi, bắt vịt đi ông, bắt hai con!...
Thằng chồng đang đứng coi lửa ở trong đáp:
- ờ, được, để đó... thiếu úy với mấy cậu uống trà, nước sôi rồi!
Y xách ấm nước ra, chế vào bình đã bỏ trà sẵn. Đợi một chốc, y nhấc bình rót nước ra các chun. Xoa xoa đôi bàn tay béo múp míp, y mời mọi người uống.Y cũng hớp một chun, khà khà rồi để ba người ngồi đó, xăng quần bước tới rút mấy cây lót sàn, buông chân xuống. Tiếng vịt kêu cạp cạp, Ngạn ngồi cầm chun trà ngó xuống thấy tấm lưng của thằng chủ trại trắng hếu. Y đang quờ quạng chụp vịt. Ngạn ngó thấy nó hăng hái bắt vịt bao nhiêu lòng anh càng căm giận bấy nhiêu. Anh nghĩ bụng: "Thằng này quả là một thằng tay sai đắc lực".
Bầy vịt càng kêu và chạy tán loạn dưới sàn. Con mụ vợ ngồi chổm hổm trên sàn, miệng ngậm mấy sợi lạt dừa. Thằng chồng bắt được con vịt nào đưa lên, mụ ta liền chộp théo cánh, lấy lạt dừa trói chân liệng xuống sàn.
Bắt vịt rồi, thằng chồng lội sồn sộn ra sông tắm. Tắm xong, y lên nhà đi vòng ra phía sau, giội lại nước ngọt nghe ào ào. Mình y vận một cái xà rông sặc sỡ, sột soạt đi ra, tay cầm lược chải cái đầu sói sọi chỉ còn lại mớ tóc ốp xuống ót. Ngạn đưa tay ngoắc y:
- Ông Ba, để khỏi mất thì giờ, trước khi ăn cháo vịt, mình bàn công chuyện một chút!
- Dạ, được!
- Ông có bản đồ vùng này chớ?
Tên chủ trại đáy không đáp, lùi lũi đi vào nhà sau. Một lát, y trở ra, hai ngón tay kẹp một cái ống trúc đã khô. Y ngồi xuống ván, để cái ống trúc đó lên bắp vế, và lôi ra từ ống trúc một tấm giấy cuộn nhỏ bằng mút đũa. Ngạn với cầm cuộn giấy trên tay, tháo ra. Tới và Trọng lanh lẹn nhấc bốn cái chun nước dằn bốn góc ra để tấm bản đồ đừng vo cuộn lại. Trên tờ giấy manh nguyên, Ngạn thấy nét bút chì bi màu xanh vẽ vụng, nhưng rất chi li; nhà cửa, vườn cây, và những khoanh tròn như trôn ốc và anh đoán là các hòn. Nhưng trông thế thì biết thế, chứ anh không hiểu ra nổi.
Tên chủ trại đáy chợt đưa mắt nhìn anh. Sau đó, y nhớn nhác trông ra cửa, cánh cửa đã gài tự nãy giờ Ngạn nói:
- Đừng sợ, xung quanh đây không có ai ngoài lính của tôi. Ông cứ việc nói. Chắc ông biết là ngày mai tụi tôi đánh vô Hòn.
- Tôi biết...
Tên chủ trại đáp khẽ rồi kéo mí xà rông nơi bụng vận guộn lại cho chặt, người hơi nhổm tới. Cái móng tay trỏ để dài, vàng khè khói thuốc của y gí tới gí lui trên tấm bản đồ:
- Đây, cái nhà nào tôi có đánh dấu chéo đỏ là nhà tụi Việt cộng ráo. Thiếu úy chú ý nghen!
Ngạn lập lại:
- Nhà có dấu chéo đỏ... biết rồi!
Tên chủ trại đáy lại dùng móng tay cái, cũng cáu bẩn như ngónt rỏ của y, bưa bưa xuống mặt giấy:
- ở cụm này có một cái công trường của tụi nó chế súng tự tạo. Chỗ đó, tôi có báo một lần rồi, máy bay tới liệng cháy rừng mà tụi nó vác chạy được hết... Còn hang Hòn đây rất nguy hiểm. Trận càn trước, tụi nó rút vô hang, mình tấn công vô bao nhiêu chết bấy nhiêu. Nay nếu muốn đánh phải cắt đường rút vô hang mới được.
Nghe tên điệp nói, Ngạn nghĩ thầm: "Mẹ, thằng này lợi hại thật!... Được rồi, tao sẽ giết mày như giết một con chó!".
Đợi cho tên chủ trại đáy vạch đường chỉ nẻo xong xuôi, Ngạn cuốn tấm bản đồ lại, đưa trả y và vỗ vai y:
- Được rồi. Tốt, tốt lắm!... Trận này mà kết quả thế nào ông cũng được lãnh tiền thưởng.
... Tới đây, Ngạn thấy chẳng cần kéo dài tấn kịch này một cách vô ích. Bấy nhiêu cũng đủ lắm. Bấy nhiêu cũng đủ khiến tim anh sôi lên rồi. Anh đưa mắt nháy Tới và trọng. Hai người nheo mắt đáp lại.
Ngạn vỗ nhẹ vào vai tên chủ trại đáy bấy giờ đang cúi rót rượu ra ly:
- Thôi ông bạn, đừng rót nữa. Không ai uống đâu. Đang nói, Ngạn đứng lên quát - Dẹp đi! Nói cho mày biết, tao không phải là ngài thiếu úy của mày đâu. Chúng tao là lực lượng võ trang cách mạng tới bắt mày đây, hiểu chưa?
Lúc Ngạn mới bắt đầu nói, Tới đã gí sát nòng khẩu tôm-xông vào ngực tên chủ trại đáp. Y chỏi tay, la
- Ê, ê... đừng giỡn!
- Không giỡn đâu!
Ngạn lấy dây trói thúc y lại. Mụ vợ bị Trọng lôi xềnh xệch từ bếp ra. Lát sau, cả hai vợ chồng mới vỡ lẽ, mặt tái mét. Thằng chồng chưa uống một giọt rượu nào mà mắt cứ đỏ ngầu lên. Sau lần dây trói, hai tay y run giật. Con mụ vợ trố mắt, cái cặp mắt kinh dị và sợ hãi muốn đứng tròng.
4.
Ba người giải vợ chồng tên chủ trại về tới đầu xóm Vạn Thạnh thì đêm đã khuya. Tấn cho hai du kích dẫn vợ chồng tên chủ trại về Hòn. Còn Ngạn, Tới, Trọng, sau khi thay quần áo, cùng Tấn vào ven vườn, chỗ bố trí chiến đấu.
Ven vườn này giáp với những cánh đồng rộng trải từ Tri Tôn đến vùng Hòn. Địch muốn đánh Hòn Đất, thường chúng ập vào đây trước.
Ba người mới len vào vườn thì gặp anh Ba Rèn.
Ba Rèn hỏi:
- Sao? Bắt được nó chưa?
Tấn đáp:
- Bắt đưa về Hòn rồi!
Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí cười ha hả. Anh kéo tay mọi người chỉ vô vườn, nói:
- Hiện anh em còn đào công sự. Ông Tám Chấn mới tới bảo phải đào công sự cho tổ ba ba. Đào riêng, nhưng chụm lại thành tổ. ổng nói không có hầm ở ven vườn thì không thể đánh được. Và ổng còn hăm nếu hầm đào không kỹ thì ổng không cho đánh.
- ảnh đâu rồi?
- ổng với Hai Thép về rồi. Cả cô Nhớ, chú Diệp, ổng cũng kêu về trỏng hết! Ông Tám Chấn bình thường thấy ông dễ, tới chừng làm công việc tôi ngán ổng quá!
Ba Rèn nói xong xách cây đèn chai xăng xái dắt ba người ra ven vườn. Vừa đi anh vừa dặn:
- Đi theo tôi nghe, coi chừng chông lụi què đa!
Năm Tấn vốn thạo đường, ở đâu có hầm chông anh ta đều biết. Ngạn không thạo, nên anh bám sát chân anh Ba Rèn. Họ đi xuyên qua đám vườn mãng cầu ta rậm rạp. Mùi mãng cầu chín bay thơm ngát. Thỉnh thoảng lại có một trái mãng cầu chín cây rụng cái "bịch" gần đó, Ngạn nói:
- Chống càn ở đây không sợ đói. Cùng lắm lượm mãng cầu ăn cũng sống được.
Tấn bảo:
- Mãng cầu ăn xót ruột lắm, thứ đó không ghé tôi. Đói thì tôi kiếm chuối chín bói, vững hơn.
Ba Rèn cười:
- Chưa chi mà mấy cha lo đói. Tôi thì cứ lo mấy cây "quảnh tầm sào" của tụi tôi hẻo đạn quá, với lại không biết mấy "ông ngựa trời" có khẹt ra lửa được không?
- Nghe đồn mấy cây ngựa trời đem thử nổ nghe đã lắm mà?
- Bắn thử thì nổ ngon đó, còn bắn thiệt không biết ra sao!
- Chắc nổ mà... ờ, còn cái vụ đạn thì hẻo thiệt đó! Tụi tôi cũng ít lắm. Nên phải chơi kỹ mới được!
- Hai Thép với anh Tám Chấn có dặn mình ở đây ráng tiêu hao nó. Cùng lắm mới rút vô hang.
Ngạn gật đầu:
- Như vậy là đúng. Chừng nào nột quá hẵng rút vô hang. Cái hang đó ở trong đánh ra cũng sướng. Tôi tính một người mình ngồi tại miệng hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó vô. Vô thằng nào mình gõ đầu thằng nấy!
Ba Rèn bảo:
- Tôi tính trước chú rồi, mà điều tôi xài cây dầu vuông hay hơn. Cầm cây dầu vuông nặng trịch, chú đánh ngang, thằng nào cũng phải té hết thảy!
Bốn người vừa đi vừa nói chuyện, lát sau họ đã nhìn thấy cành lá mãng cầu phía trước chập chờn ánh lửa.
Khi họ tới nơi, anh em đang còn hì hục kẻ vét người đặp miệng hầm. Những cái hố mới đào nằm rải dài theo ven vườn. Anh em treo đèn chai trên những nhánh mãng cầu. Cây đèn nào cũng có che một miếng lá chuối để ánh đèn không hắt ra mặt ruộng.
Ngạn đi coi lại từng cái hố, lòng thầm cảm ơn anh Tám đã đôn đốc việc đào những cái hố ấy. Trong cuộc sống chiến đấu, Ngạn hiểu rất rõ giá trị của cái công sự. Nó hết sức cần thiết cho sự tấn công cũng như sự chống đỡ. Cái công sự càng cần thiết cho người yếu vũ khí chống lại với kẻ địch có vũ khí mạnh. Anh em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. Thẩm, đội phó đội tuyên truyền, chỉ cái hố dành cho Ngạn, nói:
- Đây, cái của mày đây!
Ngạn nhảy xuống hố xem xét. Anh gọi Tới đem giùm cây trường mát 36 lại cho anh. Đứng dưới hố, Ngạn nâng cây trường mát tì vào vai, ngắm. Anh ngắm mấy lượt, rồi hạ súng xuống đưa lại cho Tới cầm. Anh với tay lấy cây vá dẫy bớt lớp đất trên miệng. Anh thấy miệng hố đắp có hơi cao, chưa thật vừa với tư thế đứng bắn. Khi liệu chừng lớp đất miệng hố đã thấp bớt xuống rồi, anh liệng cây vá, cầm lại khẩu súng nơi tay Tới, nâng lên ngắm lần nữa. Lần này, anh có vẻ ưng ý, mới chỏi tay nơi miệng hố nhảy thót lên, Tới thấy Ngạn rà lại hố kỹ thế thì hơi chột dạ, cũng vội chạy về coi lại cái hố của mình.
Thấy công việc chuẩn bị đã ổn, Ngạn nói:
- Anh nào gác thì lo gác, còn anh em bẻ lá nghi trang hố mình rồi đi ngủ. Khuya rồi...
Có một người nói trong bóng tối:
- ừ, phải ngủ một chút mới được. Lần nào nó càn sao tôi cũng buồn ngủ ghê!
Ba Rèn nói:
- Chém vè mới buồn ngủ chớ đánh thì tôi không biết buồn ngủ đâu. Tôi cho hay, sống chết gì mai tôi cũng nổ ngựa trời nghe mấy cha! Công trình tôi với thằng Hai Cà Trèn o bế nó mấy tháng nay!
Ngạn dọa:
- Mấy ông bắn ngựa trời thì phải lo chân lo cẳng để vác chạy. Thứ đó phải bắn sát, chớ bắn xa không ăn thua đâu!
Anh du kích có biệt hiệu là Hai Cà Trèn lên tiếng:
- Tôi đợi sát mới bắn chớ không thèm ở xa bắn gãi ngứa đâu, anh em tin tôi đi!
Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. Anh nào cũng khấp khởi, mặc dù anh nào cũng biết ngày mai địch vào rất đông.
... Thì kìa, bọn giặc đã tiến sát đến bãi chông ngoài ruộng. Chúng chạy vào cái khoảnh ruộng trống giống hệt như những khoảnh ruộng khác đang hiền lành hóng lấy những tia nắng ấm áp ban mai. Nhưng chưa có tên nào bị sụp chông cả. Bọn lính áo rằn sấn lên, chừng như thằng nào cũng muốn chen lấn vào ven vườn mãng cầu sum sê này trước.
Ngạn nín thở, tì nhẹ báng súng vào vai.
Khoảng cách giữa bọn giặc và ven vườn chỉ còn chừng hai trăm thước. Ngạn nghĩ bụng: "Bây giờ mình bắn thì tụi nó cũng không ào về kịp". Ngạn ngắm kỹ một tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay.
Phát súng nổ vang.
Từ các công sự, anh em cũng bắn vãi ra.
Ngạn nhìn lại, không thấy bóng thằng giặc cao to ban nãy nữa. Trên ruộng, bọn giặc bị bắn bất ngờ, nhảy lung tung. Bỗng Ngạn ngó thấy có mấy thằng tự dưng tụt hẫng xuống ruộng. Cánh tay cầm súng của chúng chới với, chới với.
Anh em la ré lên:
- Nó sụp chông rồi!
Rồi, rồi, sụp rồi!
Bọn giặc ngoài ruộng hốt hoảng, càng chạy bậy càng bị sụp. Chúng nằm xuống mặt ruộng, không tiến mà cũng không lùi. Bọn phía sau trấn tĩnh lại, ôm súng máy bắn sả vào vườn. Mãng cầu rụng nghe lịch bịch. Một nhánh mãng cầu bị đạn súng máy cắt đứt rơi xuống vai Ngạn. Anh hất nhánh mãng cầu, đứng nhóng lên. Thấy bọn giặc ở bãi chông vẫn nằm im, anh nói lớn:
- Đừng bắn nữa, anh em! Chừng nào tụi nó đứng dậy xáp vô hãy bắn!
Quả nhiên, bọn giặc nằm im một lúc thì lồm cồm đứng dậy tiến tới. Lần này, bọn đi sau hò hét, la lối rất dữ. Còn những tên đi đầu lò dò từng bước, tiến rất chậm. Ngạn nghe bên cánh Ba Rèn nổ luôn mấy phát lơ-ben, "păng păng, păng" hệt như tiếng trung liên. Bọn giặc liền nhốn nháo. Một số nữa lại bị sụp chông, người cứ biến đi dưới mặt ruộng. Nhưng lần này có nhiều tên thuộc đại đội biệt kích tiến được một quãng khá xa. Mặc dù nghe súng nổ, chúng vẫn xóng lưng chạy tới. Bọn phía sau theo gót chúng chạy dấn lên. Đội hình giặc bỗng dưng biến thành một dọc dài. Chúng đã vượt qua được tuyến chông thứ hai. Ngạn thấy nếu cứ để chúng tiến vào kiểu ấy thì chỉ vài phút nữa là chúng tới nơi. Anh nhảy thoắt lên khỏi công sự, xách súng chạy riết lại ngay mũi tiến của giặc, nằm rạp xuống. Đợi ba bốn tên nhập một, anh nổ ngay một phát. Hai tên biệt kích bị viên đạn của anh xỏ xâu, tên sau té trước, tên trước đứng sững lại, buông súng, người hơi ưỡn ra sau rồi loạng choạng ngã gục.
Bây giờ, trên ruộng, bọn giặc tiến vào dễ dàng hơn, vì chỗ nào không có chông đều đã lộ ra cả. Chúng trí mọt-chê giữa ruộng, bắt đầu nã vào. Đạn mọt-chê kêu "hụp, hụp, hụp" bay rú tới ven vườn nổ "uỳnh, uỳnh" bứng nguyên gốc mãng cầu. Khói xám bốc lên.
Ngạn bắn tiếp mấy phát nữa và la lớn:
- Chuẩn bị rút nới vô!
Anh bảo một anh du kích:
- Dẫn anh em rút đi!
Toàn đội Ngạn chạy theo anh du kích, Ba Rèn dặn:
- Vô tới miếng vườn trong thì ở lại đợi tụi tôi nghe!
- Bây giờ anh chưa rút à?
- Tôi hả, tôi cũng vô trỏng liền mà!
Ba Rèn nói vậy nhưng vẫn chưa đi. Ngạn len qua mấy gốc mãng cầu, lúc ngảnh lại thấy Ba Rèn với mấy anh du kích lom khom vác hai cây ngựa trời chạy ngược ra hướng giặc, Ngạn lo quá. Nhìn cây súng ngựa trời sần sùi thô kệch, bỗng dưng Ngạn thấy thương Ba Rèn và anh em du kích vô hạn.
Vào tới mương vườn trong, Ngạn cùng anh em bám dưới mương. Bọn giặc chia ba mặt ập vào vườn. ở mặt Ngạn, anh em đánh với chúng tám trận. Thình lình Thẩm bị miếng mọt-chê phạt trúng chân trong lúc anh vọt qua một bờ vườn. Anh em xốc Thẩm lên, vác chạy. Bọn giặc nhảy thòm thọp qua mương, la ó vang vườn. Thấy chúng tràn tới dữ quá, mà chẳng thấy cánh du kích Ba Rèn đâu cả, Ngạn cho anh em cõng Thẩm rút ra đường. Trên đường về Hòn, Ngạn vừa chạy vừa ngó thấy dấu máu nhỏ dài trên cát. Anh nghĩ bụng "Máu của Thẩm!", phía trước, Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. Hai chân Thẩm thòng xuống muốn chấm cát. Bắp chân trái của Thẩm đã được buộc lại bằng một cái khăn rằn. Ngạn chạy riết theo cho kịp Tới. Anh sấn lên, kêu:
- Thẩm, Thẩm, có đau không?
Thẩm nhoẻn cười đáp:
- Hơi ê ê!
Ngạn thấy mặt Thẩm hơi tai tái. Máu nơi chân Thẩm chảy trông rất sợ. Lớp khăn buộc vết thương bị máu thấm ướt hết, và máu cứ chảy ròng theo gót chân Thẩm, nhỏ thành giọt xuống cát. Giọt nào vừa nhểu xuống liền bị cát hút ngay, đổi thành màu sẫm như màu sét sắt. Ngạn hơi lo, nhưng anh cũng cười, nói:
- Ráng một chút nữa vô tới Hòn, tao kêu Năm Nhớ nó băng cho. Năm Nhớ mà băng thì mày bớt đau liền!
Thẩm nhếch mép cười, nhưng không nói gì cả.
Tới cõng Thẩm nãy giờ mệt thở hồng hộc. Trọng liền thay Tới, cõng Thẩm. Ngạn xách súng đi một bên, lát lát lại ngó ngoái về cụm vườn, có ý ngó coi cánh du kích của Ba Rèn ra chưa. Phía vườn, súng vẫn nổ không ngớt. Thình lình, anh nghe mấy tiếng nổ "ầm, ầm" dội lại, nhỏ hơn tiếng lựu đạn và mọt-chê 61 một chút. Chốc sau, đằng cụm vườn có bóng người liên tiếp chạy vọt ra. Anh em trong đội Ngạn kêu lên:
- Cánh Ba Rèn dông rồi kia kìa!
- Bộ tụi nó rượt lắm sao mà mấy chả chạy dữ quá!
- Chắc nó chiếm được mí vườn rồi!
Ngạn nói:
- Anh em mình cũng chạy mau mau lên đi, còn Trọng cõng Thẩm cứ chạy vừa phải thôi. Để tôi đi với Trọng, chừng nào Trọng mệt, tôi cõng tiếp.
Anh em du kích vượt qua mặt Ngạn chạy lên trước. Ngạn và Trọng chạy chậm, nên lát sau anh em du kích đã lên tới. Ngạn thấy anh em dìu thằng Bé con của chú Tư Râu đi thất thểu. ống tay áo bên trái của thằng Bé lòng thòng, rách bươm. Ngạn giật mình, hỏi:
- Bị mọt-chê phang à?
Thằng Bé gật đầu.
Ba Rèn vác cây ngựa trời chạy lúp xúp về phía Ngạn hỏi oang oang:
- Có nghe ngựa trời nổ không?
Ngạn đáp:
- Có nghe ngựa hai tiếng nổ. Anh bắn hả?
- Tôi với Hai Cà Trèn mỗi người đả một phát. Cách có hai tầm đất, nghe!
Ba Rèn vung tay:
- Tụi nó bò càng hết thảy. Bắn mỗi đứa một phát, tôi với Hai Cà Trèn nhắm không êm, cõng chạy. Tụi nó xổ đạn theo như mưa.
Ngạn hỏi:
- Bây giờ tính sao đây?
- Vô Hòn thôi.
Mọi người chạy thẳng tới Hòn Đất, bấy giờ đã ở sát trước mặt. Gần tới Hòn, thình lình Ngạn thoáng thấy sau rặng dừa có một người tất tả chạy ngược lại phía sau. Anh nhìn kỹ thì ra là Năm Nhớ. Cô chạy, tóc bay xấp xõa. Đến nơi, cô thở hổn hển, mặt tái mét. Gặp Trọng đang cõng Thẩm, cô liền quay lại đi theo sau lưng, tất tưởi. Rồi cô lấy cái khăn quàng cổ của cô cúi xuống luýnh quýnh chùi bắp chân ướt máu của Thẩm. Nhưng vừa chùi qua một lượt, máu lại chảy ròng xuống. Năm Nhớ òa khóc.
Ngạn nói:
- Chưa chi mà khóc rùm lên vậy, Năm Nhớ? Nó không chết đâu mà.
Ngạn nhìn Năm Nhớ, nghĩ: "Bây giờ con nhỏ hết biết mắc cỡ gì hết rồi. Coi kìa, nó cứ quýnh lên. Vậy mà hồi trước mình nhắc tới chuyện nó với Thẩm thì nó cứ làm bộ ngủng ngẳng. Cha, con nhỏ này thương thằng Thẩm thiệt rồi!". Nhìn dáng vẻ của Năm Nhớ, bỗng dưng anh tự hỏi nếu mình bị thương thì không biết Quyên có khóc không. Và anh cảm thấy có cái gì khoai khoái khi nghĩ rằng nếu mình bị thương mà Quyên thì luýnh quýnh lên như vậy.