...Lại nghe trong thủa Lạc – Hùng. Mỵ Châu có ả tư phong khác thường. Gần xa nức tiếng cung trang Thừa Long ai kẻ đồng sàng sánh vai Bỗng đâu vừa thấy hai người Một Sơn Tinh với một loài Thuỷ Tinh Cầu hôn đến gửi tấc thành Hùng Vương mới phán sự tình một hai Sính nghi ước kịp ngày mai. Ai mau chân trước định lời hứa anh Trống lầu vừa mới tan canh Kiệu hoa đã thấy Sơn Tinh trực ngoài. Ước sao lại cứ như lời Xe loan trăm cỗ đưa người nghi gia Cung đàn tiếng địch xa xa Vui về non Tản oán ra bể Tần. Thuỷ Tinh lỡ bước chậm chân Đùng đùng nổi giận đem ân làm thù. Mưa tuôn gió thổi mịt mù. Ào ào rừng nọ, ù ù núi kia Sơn thần hoá phép cũng ghê. Lưới giăng sông Nhị, phên che ngàn Đoài Núi cao sông cũng còn dài Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.
Tin bão gần.
Hồi một giờ sáng ngày hôm nay, vị trí trung tâm bão ở vào khoảng 17,7 độ vĩ Bắc, 110,5 độ kinh đông. Cơn bão mang tên Nen-ly là một cơn bão mạnh, sức gió ở gần tâm bão lên tới cấp mười hai, tức là từ 113 đến 133 ki-lô-mét một giờ. Bão đang di chuyển theo hướng Tây - Tây-Bắc, đi về phía bờ biển nước ta. Dự báo, chiều nay bão Nen-ly sẽ đổ bộ vào đất liền. Bão về mang theo mưa và gió giật. Vùng trung tâm bão đi qua sẽ có gió giật cấp mười hai, sẽ có mưa to và rất to.
*
Đài phát thanh phát tin cơn báo từ hồi năm giờ sáng. Loa ra rả lặp lại trong các ngõ hẻm, xóm thôn, ngay từ lúc tinh mơ. Dẫu đã từng trải, cũng chưa thể quen với tai ương. Mặt đất có một cơn rùng mình. Người vùng ngay dậy, vội vã vào cuộc chống chọi. Và cùng với người, nhưng cuống cuồng, tất bật hơn, bản năng , sôi động hơn, là các sinh vật khác, trước hết là những con vật sự sống phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên.
Chim, cò nhao nhác chuyển tổ, tìm nơi trú ẩn.
Kiến đi từng dòng ngược lên các thân cây và mô đất cao. Những chú nhện gầy gùa, mong manh lo sợ, vội rút ngắn đường tơ. Và ve đã im bặt hồi còi lanh lảnh chiều hè khi mặt trời ngả bóng.
Vậy mà... có những con mối.
Những con mối đất, bọn côn trùng mù loà này sống chui rúc trong cái thân đê chạy qua xã Nguyên Lộc thật sự là đã vô cùng háo hức ngay từ khi chúng nhận được những tín hiệu đầu tiên báo hiệu cơn bão đã hình thành ở tít tịt ngoài biển Đông kia.
Bọn mối đất này vô cùng ưa thích những cơn bão đầu mùa và thật tình là chúng đã đón chờ cái thời cơ tuyệt diệu này từ lâu lắm rồi. Bởi vì, suốt cả một mùa thu ẩm ướt và một mùa đông dài dặc, những con mối cánh đông có tới hàng vạn ở mỗi tổ đã ra đời và sau kỳ lột xác cuối cùng, đang bước vào tuổi thành niên, chúng đã đến lúc cần đi ở riêng. Cảm thông với nỗi khát khao ấy của bọn mối cánh, lũ mối thợ ngay từ lúc vào xuân đã tấp nập và kịp thời xây cất xong các phòng đợi bay, các tháp vũ hoá, nghĩa là đã sửa soạn thật chu đáo cho các cuộc bay giao hoan của các chàng và các nàng mối cánh, một khi cơn bão đầu tiên tràn về.
Bão còn ở xa, bọn mối cánh đã chen chúc ở phòng đợi bay. Lúc này cửa tháp vẫn đóng chặt. Và đứng cạnh ở đó là gần chục gã mối lính đầu cứng như đội mũ sắt, hàm răng là hai cái kìm thép, lầm lì và nghiêm nghị. Quân lệnh như sơn! Cấm không được ra khỏi tổ khi chưa có lệnh! Lệnh thật nghiêm vì chính sự sinh tồn của nòi giống, vì chính hạnh phúc của từng cô, cậu. Vì biết đâu là một tai hoạ đang đón chờ họ ở ngay cửa tháp? Mới cách đây ít phút thôi, một gã mối lính vừa thò đầu ra khỏi cửa tháp để quan sát, đã vội thụt vào và tức tốc bịt ngay lỗ cửa lại. Thật là khủng khiếp! Một lão cóc cụ già cốc đế đang ngồi chồm hỗm đón mồi ở ngay cạnh cửa tháp. Và ở trên trời, còn táng đởm kinh hồn hơn: hàng chục con nhạn đói khát, lũ ác điểu cánh nhọn, đang chao liệng tìm mồi, phát những tiếng kêu choe choé thật man rợ trong ánh chiều tím đỏ.
Nhưng mà... kia bão đã về!
Vừa nghe thấy bước chân chạy rầm rập của ông khổng lồ ấy và đợt mưa đầu tiên vừa ném xuống mặt đất những hạt nước lớn như viên sỏi, rào rào, thưa thớt, như thăm dò, sấm sét đã nổ rền. Sấm và sét rung vang cả vòm trời nặng mây đen. Sợ hãi, lũ nhạn cuống cuồng trốn biệt vào các hốc cây và lão cóc cụ vội nhẩy đi tắm mát. Vậy thì còn có thời điểm nào đẹp hơn lúc này để các nàng xuất giá và các chàng bay đi kiếm bạn đời.
Bọn mối lính vội mở tung các lỗ cửa tháp. Các chàng nàng mối cánh loè xoè xiêm áo lập tức dồn đẩy nhau đổ lên các tháp bay. Cửa lỗ vũ hoá đông nghẹt. Mặc! Chen đại vào mà ra! Thời cơ có một không hai đã tới rồi. Nhanh lên! Cất cánh bay đi! Từ sườn đê, phùn phụt phun lên trời những luồng sinh khí loa loá trắng thật hào hứng, dồi dào. Hàng vạn chàng nàng mối cánh đã ra khỏi tổ.
Vũ hội tình yêu đã mở. Sấm sét lúc này là trống kèn, chớp lửa là hoa đăng của đêm hội. Những đôi cánh quay tít, nghiêng ngả chòng chành. Gió mưa đưa đẩy. Trai gái giao duyên nhau trong giông bão. La đà, quấn quýt đắm say. Có cuộc kết đôi của bọn sinh vật nào vừa hào hoa, tài tử vừa mãnh liệt man dại như cuộc kết đôi của các chàng, các nàng mối này!
Tuy nhiên, vũ hội chẳng thể kéo dài, vì ngay sau đó là cuộc giao hoan đôi lứa. Sức giống cái thường yểu. Các nàng rời bỏ cuộc khiêu vũ trên không trung sớm hơn và nhẹ nhàng hạ cánh xuống mặt đất. Nàng bò trên đất, nhẹ nhàng vẫy đôi cánh, đầu ngẩng cao và bắt đầu tiết ra một làn hương thơm đặc biệt, cái tín hiệu dẫn dụ ý trung nhân của riêng nàng đang còn ở trong cái đám đông hội hè kia.
Tài tình thay sức hấp dẫn của hương tình! Thoáng cái, từ trên khoảng không tíu tít và mờ ảo, chàng đã nhận ra hình bóng cô nàng yêu dấu của mình. Chàng hạ thấp độ cao. Chàng liệng vài vòng trên nàng, như để khoe tài, rồi nhanh nhẹn hạ cánh xuống ngay phía sau nàng. Tình tự và ân ái khởi đầu ngay trong mưa gió. Áp tới bên nàng, râu chàng, môi dưới của chàng lập tức thực hiện công năng gợi tình, chúng liên tục mơn trớn, vuốt ve lưng eo mình mẩy nàng. Trong cử chỉ muôn phần âu yếm ấy, nàng run rẩy bủn rủn cả thân mình. Run rẩy bủn rủn tới mức rụng luôn cả đôi cánh. Sự kiện này gây nên cơn xúc động thật mãnh liệt với chàng. Tranh thủ cơ hội để tỏ ra mình là một trang công tử hoàn toàn biết chiều ý giai nhân, lập tức chàng cũng trút bỏ ngay đôi cánh của mình. Ôi! Đôi cánh giao duyên, xiêm áo đi đến với ái tình đêm vũ hội! Chúng đã hoàn thành sứ mệnh!
Có một đôi trai gái mối không hiểu mê mẩn nhau thế nào quên phắt cả việc trút bỏ đôi cánh đã mãn hạn nọ. Tới lúc gọi nhau đi xây tổ ấm, chúng mới phát hiện ra điều đó. Thế là không cần bàn bạc gì hết, chàng xông vào nàng, nàng xô tới chàng, chàng cắn hộ nàng, nàng rứt hộ chàng, vật lộn một hồi gay gắt, cả hai mới bỏ được đôi cánh lúc này đã trở thành cái của nợ vướng víu cho cuộc tình. Ghê gớm, dữ dằn thay là tình yêu, sự sống của cái loài sinh vật nhỏ con này!
Nhưng nào phải mọi việc đều đã trở thành xuôn xẻ. Vào lúc đôi lứa đi tìm nơi đặt tổ ấm gia đình, chừng như để thử thách ý chí chàng và nàng một lần nữa, một sự biến đã xẩy ra. Một gã mối đực bỗng từ đâu hiện ra chặn lối chàng. Gã này chậm chân, bay ra khỏi tổ khi vũ hội đã tàn, các cuộc hôn phối đã kết thúc; gã đâm ra bơ vơ, lẻ bóng. Gã uất tức, gã căm hận. Giờ, gã định giở bài bây: cướp cô dâu ngay trên đường nàng về nhà chồng. Vậy là chẳng còn cách nào khác, chàng liền nhao tới tình địch. Một cuộc huyết chiến đã xẩy ra và kết thúc bằng thắng lợi oanh liệt của chàng.
Chàng tiếp tục cuộc đưa dâu. Cuộc kỳ ngộ khởi đầu trong bay bổng lãng mạn, qua hành trình gian nan đầy đủ vẻ ly kì, diễm lệ của một thiên tình sử hiệp sĩ thời Trung cổ, tới đây là một kết thúc có hậu, thật mãn nguyện: họ đã tìm được căn phòng lý tưởng. ấy là một kẽ nứt nhỏ trên khúc đê chạy qua xã Nguyên Lộc.
Tổ uyên ương xây ở đây thì còn gì bằng! Độ ẩm cao, thoáng khí. Và tĩnh mịch. ở đây, chàng và nàng sẽ chung sống với nhau mãn đời. ở đây, con cháu nàng và chàng sẽ nối tiếp ra đời đông đàn dài lũ. Đây là kinh thành, là vương quốc của chàng và nàng. Nơi đây, chàng là vua, nàng là chúa, trị vì đời đời, kiếp kiếp.
Nàng khéo léo bịt kín kẽ nứt lại. Kẽ nứt tối âm u. Quên hẳn những phút giây đầy phấn hứng ngoài khoảng trời rộng vừa qua, cả hai từ đây vĩnh viễn sống trong tăm tối nơi lòng đất. Và cả hai lập tức bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho kỳ sinh nở tới. Cũng chẳng sớm đâu, ngày trở dạ đẻ lứa con so của nàng chỉ là nay mai thôi. Sức đẻ của nàng ghê gớm lắm!
Lúc ấy, ngoài kia, trên mặt đê, mưa đổ ầm ầm.
*
Mưa đổ sầm sập, phũ phàng.
Thành phố nhập nhoạng giần giật ùng oàng vì sấm sét và những luồng điện phóng ngang dọc mạnh hàng nghìn ki-lô-vôn. Mất điện, thành phố chìm trong cõi mung lung, không khí càng có cái vẻ quái dị, bất thường.
Mưa suốt đêm.
Mưa như từ cổ tích, huyền thoại mưa ra.
Mưa như từ thời hồng hoang, nguyên thuỷ mưa về. Nhưng rồi, mưa đột ngột tạnh. Cũng khó hiểu như khi đang mưa. thành phố lúc ấy mới chỉ vừa vào buổi bình minh, đột nhiên bừng sáng như được chiếu rọi bằng những ngọn đèn pha cực mạnh. Và đất trời ắng lặng, nín thở có đến mấy phút. Trong thời khắc ngắn ngủi ấy, chỉ nghe thấy tiếng réo ồ ồ và tiếng cuộn sôi sùng sục của những dòng chảy xối xả. Thành phố như ra khỏi cơn hôn mê, nhận thức được mình sau khoảng khắc bàng hoàng, với tiếng reo mừng rỡ của lũ trẻ, tiếng cánh cửa quay sửng sốt. Tiếp đó là tiếng bánh xe ôtô rè rè xé nước và cuối cùng là tiếng người gọi í ới nhau, tiếng chân người, ồn ào, náo nhiệt!
Đã trở lại nhịp sống sầm uất, sôi động thường khi, nhưng đổ hết ra ngoài nhà, người người nhìn nhau, hỏi thăm nhau mà như vừa thoát khỏi một tai biến dị thường. Suốt cả đêm qua chui rúc, ẩn náu, trốn tránh, ngủ nghê ở đâu đó, không hình dạng, giờ mới thấy người xuất hiện sao mà đông thế. Sao cái thành phố này lại có thể chứa được một khối lượng người đông đến như thế nhỉ? Đâu cũng người. Mỗi thước đất ít ra cũng có mấy người. Lòng đường dồn ứ người. Người ùn lại ở những đường phố thấp đọng nước. Đâu cũng lênh láng vũng vĩnh nước.
Người lội trong nước, chuyển động theo từng luồng chảy. Và thành phố sáng rực lên từng mảnh tường vôi dưới bầu trời xanh bóng lọng của một ngày hè chói chang.
*
Ông Chánh, cái tên trùng hợp với chức vụ Chánh văn phòng, một người đàn ông tuổi ngoại năm mươi, khổ người tầm thước, gò trong một khuôn khổ chật hẹp, mặt đen quắt, hai con mắt sâu, sáng, lục ục đôi ủng cao su đỏ, vào đến buồng làm việc, vớ luôn cái dẻ lau cửa kính ngay. Đến cái ô kính của cánh cửa sổ lớn nhìn thấy bầu trời, khu phố bờ sông, thì căn buồng rộng đã lẹp kẹp tiếng guốc dép và léo nhéo tiếng người.
- Trời! Nước sông to quá, Vân ơi!
- Eo ơi, đỏ lòm lòm... Khéo bãi giữa ngập mất rồi, mày ạ.
- Mưa đêm qua kinh quá, Ngà nhỉ?
- Nhà tao dột như rá, mấy bố con ngồi che ni-lông, run cầm cập, chỉ sợ đổ nhà, Tình ạ.
Ông Chánh quay lại, nhận ra ba cô gái trẻ Vân, Tình, Ngà ở tổ máy chữ đã đến. Họ là quân của ông. Lẽ ra phải thu dọn, quét quáy, mở các bao che máy, sửa soạn giấy than, ruy băng, để đúng tám giờ là vào việc tắp lự thì họ lại đứng ngẩn bên ô cửa sổ nhìn dòng sông. Con sông Hồng mọi ngày chìm ở đâu nay mới chỉ sau một trận mưa đã nổi bềnh lên, kéo một vệt đỏ như son dài lướt thướt qua thành phố. Mới có tháng năm mà sông đã nổi dòng, cũng là một sự trái với quy luật thường tình.
- Thôi, chuẩn bị làm việc đi chứ, các cô - Ông Chánh cầm cái phất trần phảy mặt bàn của mình, rồi hất cái hàm nhọn, đen mờ chân râu về phía ba cô gái – Mấy ngày tôi đi kiểm tra đê ở cơ sở, công việc đến đâu rồi? Cái Ly-đrô-tích-cơ a-gri-côn ô Tông-canh (*) cô Vân đánh xong chưa?
- Bác nói tiếng Tây cháu chẳng hiểu gì cả.
- Ờ, tại tôi quen mồm - Ông Chánh cười thật thà - Cái bản cô đang đánh ấy mà. Còn cô Tình, cái Sơ thảo lịch sử đê điều của anh Nam sắp xong rồi chứ? Cái Báo cáo về lũ sông Hồng và trận lụt năm 1945, còn bao nhiêu trang nữa, cô Ngà? Hôm nay, các cô tiếp tục nhá!
Hỏi ráo riết để tỏ ra mình là người lãnh đạo, là người quản lý công việc xít xao thôi, chứ ông Chánh không cần câu trả lời. Ông bỏ cái mũ cát-két, rút lược chậm rãi chải đầu, rồi ngồi xuống trước cái bàn rộng. Nắng mới hé, rọi chênh chếch qua ô cửa kính vào buồng. Chỗ ông Chánh sáng dậy một màu hồng ấm áp. Trông ông lúc này thật chỉnh tề, thật trang nghiêm. Vì đằng sau ông, bây giờ đã hiện lên thật rõ nét cái bản đồ lớn bằng cái chiếu đôi, chằng chịt nét đỏ, đường xanh – bản đồ hệ thống sông ngòi và đê điều toàn tỉnh. Trông cứ như bản đồ quân sự trong bộ tham mưu, và ông ở chỗ ngồi ấy, thì thật là một vị tướng.
- Ơ kìa, các cô! Dàn nhạc bắt đầu chơi đi chứ!
Ông Chánh gốc gác trung nông, nhưng tính cũng hóm và hay văn hoa. Nghe ông nhắc thế, ba cô gái trẻ đang lí láu chuyện trò, lập tức leo lên ba cái ghế cao lênh khênh, nhập vai nhạc công. Và dàn nhạc vào ngay khúc dạo đầu. Lách tách! Lạch tạch! Khlịch khlịch! Tăng tăng! Những ngón tay thiếu nữ mổ tới tấp. Những con chữ va đập liên hồi. Ru-lô chuyển dịch. Bánh xeruy-băng quay. Khúc nhạc có đủ cả hoà âm, phối khí, biến tấu đã trình diễn, khoan nhặt, bổng trầm.
- Ngà à, ở số 209 Hàng Chăn ấy mà - Cô Vân xinh xắn, mũm mĩm như búp bê, tay nhịp nhàng, giọng nữ kim thánh thót – Hôm qua ở đấy vừa bắt được một nghìn lít bia giả. Cả thuốc tê-tra nữa, nó cũng làm giả.
- Úi giời, phố tớ mất trộm mới khiếp!
- Mất lúc mưa to ấy à? Cô Tình gầy gò nhưng duyên thầm, giọng ba-ri-tông, quay sang hỏi cô Ngà trắng trẻo.
- Thì nó lợi dụng lúc mưa mà.
- Ghê thế cơ à?
- Thế này nhé...
- Nó dí súng chứ gì! – Cô Vân quay lại, dẩu mỏ.
Cô Ngà lắc đầu, bĩu môi, giọng như giọng nghệ sĩ độc tấu:
- Không giống cái vở ở Hàng Thao đâu. Thế này nhé. Trời mưa to được một lúc. Tắt điện được khoảng hai giờ. Hai thằng. A, không! Bốn thằng chứ! Hai thằng leo lên gác, dỡ mái tụt xuống. Hai thằng bẻ khoá lẻn vào trong chờ sẵn.
- Khiếp quá!
Cô Tình kêu. Nhưng cô bỗng giật nẩy mình. Cả cô Vân và cô Ngà cũng thót mình, quay lại. Bản nhạc ngừng đột ngột. Ông Chánh vừa kêu to, lại kèm theo cả tiếng đập bàn đánh thình như tiếng trống cái:
- Ối giời! Đánh thiếu hẳn một câu dải dài dài rồi, cô Tình tính tang ơi! Mất hẳn một câu: Tám phần mười lượng mưa hàng năm rơi trong tháng năm, sáu, bẩy, tám, chín. Xem bao nhiêu chữ nào. Oong, đơ, tơ-roa... keng, xe-dơ (*). Cô tang tính tình ơi, mười sáu chữ!
Hoá ra ông Chánh đang đọc lại bản đánh máy. Giọng ông véo von như hát bài dân ca Cò lả.
*
Thực ra, lúc ấy trong căn phòng rộng của cơ quan phụ trách việc chống bão lụt của tỉnh, không chỉ có từng ấy con người. ở đầu phòng đằng kia, ngăn cách với nơi đánh máy và văn phòng bằng một tấm màn gió, còn một người trai trẻ – kỹ sư Trọng. Đêm qua, sau khi theo dõi mối bay giao hoan, Trọng gội mưa từ tuyến đê xung yếu trở về và ngủ ngay tại phòng làm việc. Trọng phải về gấp vì trưởng phòng Nam định họp sơ kết công tác ngày hôm nay. Từ lúc mưa tạnh, Trọng đã dậy và khi các cô tổ máy chữ đến, anh vẫn còn đang bồi hồi, bỡ ngỡ với cảnh sắc khung trời ngoài kia.
Trời! Sao lại có những khoảng khắc thời gian trời đẹp đến thế! Cơn mưa lau rửa vòm trời, mặt đất. Tất cả đều hiện lên mới mẻ, tinh khôi, dưới một độ sáng bất ngờ, chói lọi của một ngày mới đã bắt đầu, trong sạch và lạ lùng. Da trời ở tít xa, xanh nhoáng, trang trọng. Những mái nâu của khu phố cổ nơi bờ sông nhấp nhô, sạch sẽ. Giống như một bức tranh phong cảnh cắt rất khéo bằng khung cửa sổ; con đê như khúc tường vi là một nét thẳng, nâng dòng sông cao lên một vệt son thắm mềm mại. Tưởng như con sông đang chạy trên nóc nhà thành phố, vỗ sóng nhè nhẹ vào nền trời xanh thanh tĩnh và khu phố nép cạnh chân đê đang ngẩn ngơ trong hơi sương thoang thoảng bốc lên từ các mái ngói cổ xưa. Cảnh hơi huyễn hoặc và giống như một ảo ảnh phát sinh từ tâm cảm, âm vang một tiếng gọi, rộng mở tâm hồn, gạt đi những thiên kiến che lấp khả năng, bừng nở trực giác và trí tưởng tượng. Tràn ngập không gian cái cảm giác hớn hở của một cuộc sống bắt đầu khai sinh, chứa chan niềm phấn khích tâm hồn Trọng. Trọng yêu thiên nhiên và giờ đây, phút giây này, sự hùng vĩ và trạng thái xuất thế của cảnh trí đang gợi cho anh những cảm xúc thiêng liêng về sự cao cả, nghiêm trang, tươi thắm của cuộc sống ở thế gian này. Chưa bao giờ anh ước ao được sống, được làm việc hết sức mình như lúc này. Chưa bao giờ anh yêu đời như lúc này.
Nhưng, tiếng kêu bất thần và thô lậu của ông Chánh đã đột ngột làm tan loãng cái cảm giác ngất ngây, sung sướng, cái tâm thái đẹp nhất trong khoảng thời gian đẹp nhất của Trọng. Nghe thấy tiếng ba cô gái ở tổ máy chữ bật cười vì cái giọng nói ngộ nghĩnh của ông Chánh, anh cũng mỉm cười. Và sau đó, như một kẻ thiếu tự chủ, anh bị cuốn theo câu chuyện tầm phào của họ. Ôi, các cô gái, giới tính và thì giờ cho phép họ thu thập và truyền lan cả một kho đầy ắp những chuyện đời, hư thật lộn xộn, lặt vặt, tỉ mẩn và hấp dẫn vô cùng.
- Thế, anh bộ đội con bà cụ về nhà đang lúc mưa à?
- Khoan đã - Cô Ngà thì thào – Nó đang chĩa súng vào bà cụ và hai cô con gái. Nó bắt hai cô này, một cô mười lăm, một cô mười bẩy, phải khiêng cái ti-vi Đờ-nông cửa gấp, mười chín inh xuống nhà dưới. Một thằng doạ, nếu hô hoán cầu cứu, nó xịt luôn bà cụ. Thì lúc ấy anh trung uý đặc công con bà cụ về. Anh này leo ống máng lên.
- Chào các cô! Chào cô Vân!
- Úi giời! Anh Hưng! Làm em giật cả mình.
- Khiếp, trông anh trùm áo mưa cứ như “ Kỵ sĩ không đầu.” (*)
- Khà khà... trời mưa đi bắt cá rô, thật là hết ý!
Trọng ghé mắt, nhìn qua kẽ mấy bức bình phong gập. Hưng, kỹ sư, một thân hình cân đối, khuôn mặt tròn no đủ, miệng tươi, bẻm mép, hát xong câu nọ, đang cởi áo mưa, nghiêng mái tóc mềm, quay lại tít mắt tán chuyện với các cô. Hưng đang theo đuổi cô Vân. Ông Chánh cắm cúi đọc bản đánh máy, thỉnh thoảng ngẩng lên, chêm vào câu chuyện của các cô một câu bình phẩm có tính chất răn đe.
Trời mưa đi bắt cá rô. (**) Trời mưa bọn bất lương lợi dụng thời cơ hoành hoành. Trời mưa, Trọng đi khảo sát mối bay giao hoan.
Ngoảnh ra cửa sổ, thâm tâm không ưa sự ồn ào vô bổ, Trọng nghĩ loang loáng và lại muốn trở về trạng thái mê đắm khi nãy. Nhưng, khoảng trời chan chứa cảm xúc ngoài cửa sổ kia lúc này đã ngập nắng, chói gắt. Trọng đành cúi xuống cuốn sách. Và đúng lúc chiếc kẻng bằng vỏ đạn pháo treo ngược ở hành lang bị ông Chánh nện đã rên một hồi dài. “ Đã quá giờ làm việc đến mười phút.” Ông Chánh càu nhàu. Hưng lách qua màn gió, lẳng cái cặp da hai khoá mạ kền rất đẹp lên mặt bàn, bước lại bắt tay Trọng. Vừa lúc nghe cánh cửa buồng bên này bị giật mạnh, Trọng liền ngoảnh lại, đứng dậy, cất tiếng reo vồn vã:
- Bác Tiễu!
Ông Tiễu già, mặt lưỡi cày, đầu hói, hai mắt tròn như mắt cá, quần ống thấp ống cao, bước vào. Mọi khi, thế nào ông cũng giơ hai tay lên trời, the thé: “ Ô! Bông-giua mông dơn ca-ma-rát Trọng! Chào anh bạn trẻ của tôi.” Trong cơ quan, ông chỉ mến có mỗi Trọng thôi. Ông lại là bạn với ba Trọng từ thủơ hàn vi. Nhưng hôm nay, mặt ông khô khẳng, khó chịu. Ông không nhớ là Trọng mới ở cơ sở về. Đặt cái cặp lồng cơm lên bàn, ông tặng ngay cái mặt bàn quả đấm:
- Thế là mất biến nó con mèo!
Hưng quay lại, hai bàn tay khe khẽ xoa hai xoáy tóc mai, ngơ ngác:
- Sao thế, bố?
Như không nghe thấy câu hỏi của Hưng, ông Tiễu ngồi xuống bàn nước, nhấc cái điếu cày, vỗ túi tìm hộp thuốc lào. Ruých ruých... cái điếu nổi hồi còi dài giòn giã.
- Hừ, đúng lúc mối cánh bay đầy nhà, rồi mất điện... Ngửa cổ thở khói, ông Tiễu như bâng quơ. “ Lại đúng lúc mưa to gió lớn!” Trọng nghĩ, Hưng phá lên cười:
- Thế thì đúng là bọn làm pa-tê rồi!
- Mày nói sao? Quay lại nhìn Hưng, ông Tiễu trợn trừng, ngúc ngắc cái cổ gầy đang nuốt khói.
- Bố ơi, sao bố ngây thơ thế! Bố có thấy dạo này thành phố ta có nhiều hàng bánh mì pa-tê không? Thịt làm pa-tê ở đâu ra mà lắm thế? Đắc chí, Hưng cúi xuống, tay phải đấm vào bàn tay trái, dằn từng tiếng:
- Pa-tê thịt mèo! Hà! Hết ý! Pa-tê thịt mèo, bố ơi.
Ông Tiễu nghẹn thuốc, rũ xuống ho một hồi, rồi gượng dậy, mặt đỏ tía:
- Thế thì khốn nạn thật! Con mèo tam thể của tao đẹp thế? Bà lão nhà tao nuôi nó từ bé. Mua ở chợ về cho nó lạy ông Thổ công, đo khấu đuôi, cho nó quay ba vòng ở hố xí để nó không đi bậy, bữa nào cũng dăm hào cá cho nó. Bà ấy ngẩn ngơ mất hồn cả đêm qua. Đồ táng tận lương tâm. Chó má thật! La vi e mẹc! (1)
“ Ra là thế!” Trọng nghĩ, vừa buồn vừa thương hại ông già. Nhưng Hưng đã gập người xuống cười sằng sặc:
- Chẳng những la vi e mẹc mà còn bố cu mẹc (2) nữa cơ , bố ơi.
- Thế tao hỏi - Ông Tiễu sừng sộ – Hưng! Tao hỏi: Mày cam chịu hả? Mày chấp nhận thực tại thế hả? Cả thằng Trọng nữa! Mày mới ở đê Nguyên Lộc về, hả? Dưới ấy giá gạo thế nào? Anh đ. quan tâm đến đời sống nhân dân gì cả! Tám đồng rưỡi một bơ chín lạng rồi. Thật là từ cổ chí kim. Tiên sư nó chứ! Sờ đến điện, điện mất. Sờ đến vòi nước, nước không một giọt. Lục đến thùng gạo, gạo nhẵn. Móc ví, ví không một hào. Bốn không! Xô đến trước Trọng, mặt càng ứ đỏ, giọng ông Tiễu càng dồn dập gay gắt – Trọng! Đ. mẹ tao hỏi mày: Chúng ta, những trí thức, những kỹ sư thuỷ lợi lặn lội đi canh giữ từng bờ đê, giữ gìn sự ấm no yên lành, có phải là để cho bọn quan lại tham nhũng, lũ con phe, bầy trộm cướp nó hưởng không? Cái nhà tao ở sụt mái năm năm nay rồi, hàng chục đơn gửi lên phòng nhà đất kêu cầu, không một thằng nào vác mặt đến chữa. Hôm qua, nước tràn đầy nhà!
Trọng nén một hơi thở ngột trong lồng ngực. Ông Tiễu đang nổi nóng, đang hoá thành một kẻ quá khích và cay nhiệt. Lúc này, căm tức đã trở nên một trạng thái thường trực trong ông. Ông sẵn sàng văng tục và xổ ra hàng tràng chửi bới. Chửi tất. Chửi từ bọn Mao-ít đến thằng Ca-tơ (*). Có lần ông bảo: Cho ông sang Căm-pu-chia, ông sẽ bắt được thằng Pôn-pốt. Bắt nó về, ông bắt nó ăn ***. Ông đã từng là lính ONS (**) hồi đại chiến thế giới lần thứ hai ở Pháp. Ông quen chiến trận. Ông là thuốc nổ. Và xung quanh ông trong những ngày sau chiến tranh đời sống cực kỳ khó khăn này, đều có sẵn những mồi lửa.
Nhưng Hưng nghe ông Tiễu bộc lộ niềm căm phẫn, lại bật cười kha kha thật vô tư rồi lên giọng kẻ cả:
- Bố ơi! Chừng nào bố còn tức tối là chừng đó bố chưa hiểu cái tất yếu của cuộc sống. Không thể thì sao lại gọi là thời kỳ quá độ. Tham nhũng. Ăn cắp. Móc ngoặc. Phe phẩy... Sản phẩm tất nhiên của thời này thôi, bố ạ.
- Anh công nhận đó là chân lý, hả?
- Chân lý vận động. Chân lý là cái lý có chân, bố ơi.
- Thôi xin đủ lý luận của anh đi! Đ. nghe được!
Ông Tiễu văng, chỉ tay vào mặt Hưng
- Chính anh, với cái kiểu lý sự như thế, anh cũng là một tội phạm. Hiểu chưa!
- Thì Các Mác chẳng đã từng nói: tất cả đều phải trả giá là gì! Anh đi tắt, anh không qua tích luỹ nguyên thuỷ, tích tụ tập trung tư bản... thì anh phải đổ mồ hôi leo dốc!
- Đấy là ông Các Mác nói về xây dựng cơ sở vật chất! Mà thôi đi, đừng có biện hộ lếu láo. Et-pri (1) của tao giờ nó đuya (2) lắm rồi. Đừng có hòng thuyết phục tao!
- Thì bố cứ chửi! Chửi như Chí Phèo ấy!
- Thôi - Ông Tiễu phẩy tay qua tai, ngồi xuống bàn nước, quay nhìn Trọng đang giở tập tài liệu trên mặt bàn – Trọng! Lấy phích nước sôi sang đây. Tao có ấm chè Thái đây. Mày đi công tác về có khoẻ không? A, mày đọc cái gì đây?
Trọng bê phích nước sôi từ ngoài hành lang vào, đặt lên bàn, ngồi xuống.
- Cháu đọc báo cáo của Pây-ta-vanh, tổng công trình sư Pháp, về vụ lụt năm 1945.
- Đ. mẹ cái thằng ấy ngu. Nó tính toán thế đ. nào mà dám kết luận: lụt có lợi hơn là không lụt?
- Có thể là hồi ấy xí nghiệp, công trường chưa có mấy. Ông ta chỉ tính toán riêng về độ phì của đất ruộng.
- Không ổn! Tổng công trình sư như thế thì cho về hót ***.
Hình như Hưng bị chạm nọc. Đang mở khoá cái cặp, Hưng ngửng lên, mặt ưng ửng:
- Ai cụ cũng cho về hót ***. Tôi cũng bị. Ông Nam trưởng phòng cũng bị cụ hạ cho cái kỷ luật quái gở thế. *** ở đâu mà lắm vậy?
Đổ nước sôi vào ấm, ngả lưng vào ghế, ông Tiễu vỗ đùi đánh bét, khoái trá cười hề hề:
- *** do mày ỉa rây ra chứ ở đâu nữa. Thằng Nam thì là do tao nóng, tao nói bậy. Chứ mày! Đúng thế đấy, Hưng ạ. à, mà me-xừ sếp Nam sao vẫn chưa đến nhỉ?
Ông Tiễu nghển cổ. Trưởng phòng Nam chưa đến thật. Ông Chánh, từ nơi đánh máy bước sang nâng tay nhìn đồng hồ, nhìn cái bàn trưởng phòng ở giữa nhà. Có lẽ ông đếm giờ để chấm công Nam.
Hưng đóng cặp, ngồi xuống ghế, vuốt tóc, dửng dưng:
- Ông Nam hôm thứ bẩy vừa rồi đi khám bệnh nghi là bị ung thư!
- Sao! Căng-xe à! – Như bị điện giật, ông Tiễu bật đứng dậy, chỉ mặt Hưng, thét kinh hãi – Thằng Hưng! Mày nói cái gì thế! Đồ bố láo! Chủ nhật tao đến nhà nó chơi, nó còn tiếp một lô xích xông bạn bè, khách khứa, có thấy nó nói gì đâu!
Ông Chánh lẩm bẩm:
- Có nghỉ ốm thì ông ấy cũng phải viết giấy xin phép gửi cho tôi chứ.
- Ông ấy còn muốn giấu! Hưng liếc ông Chánh, mai mỉa – Mà đâu có phải việc gì cũng phải trình ông!
Trọng thấy nhói giật trong ngực. Hưng tặc lưỡi, lạnh lùng:
- Đời người thật vô lý quá!
Ông Tiễu kéo quai dép, quên cả ấm chè Thái mới pha, lập cập:
- Thế thì tao phải đi tìm nó. Nó ở đâu nhỉ? Tao, tao có quen xừ bác sĩ khoa này.
Trọng chụp cái mũ lá lên đầu:
- Bác Tiễu, chờ cháu đi cùng với.
Vừa lúc, cái loa ở hành lang ọ ọ rồi đột ngột lên tiếng. Ông Chánh bước vội ra cửa, đuổi theo Trọng và ông Tiễu.
- Ở lại đã, các vị ơi! Có lệnh báo động hay sao kia kìa! Lại bão tiếp, bão tiếp rồi!
*
Nhưng mà trưởng phòng Nam đã tới cơ quan. Lúc này, Nam đã bước lên thang gác, đang đi vào hành lang. Cao lớn, tuổi ngoài bốn mươi, mặt vuông, hai con mắt trầm trầm, Nam mang cái ngoại hình của một con người nghiêm túc và nhẫn nại. Trong cái áo xanh da trời cộc tay và cái quần vải thô tím. Nam bước những bước chậm rãi, chắc chắn.
Hành lang đầy người các phòng, ban. Người ta vừa uống nước vừa nghe cái loa công cộng mắc ở tường truyền lệnh báo động số 2 của Ban chống lụt bão thành phố.
Nam chào hỏi một vài người. Nhưng không tiếp chuyện ai. Anh bước vào đầu phòng bên này, thấy phòng vắng, ghé sang phía phòng bên kia, thấy một đám người đang tụ lại quanh mấy cái bàn máy chữ bàn tán về cơn bão. Cạnh cô Vân, ông Tiễu đang hoa chân múa tay; chuyến thư báo vừa tới, chắc có nhiều tin tức mới. Cạnh cửa sổ, ông Chánh đang thì thào nhỏ to cái gì đó với Trọng.
Nam mở tủ. Anh lôi ra một cái cặp bìa đựng tài liệu và vỏ một quả bom bi Mỹ – hình tượng tổ mối, một đề tài Trọng đang nghiên cứu với sự hỗ trợ của anh. Vừa đặt quả bom bi lên bàn, Nam quay ra cửa thì thấy Hưng xô vào.
Hưng sững lại, ơ một tiếng kinh ngạc, hình như bất ngờ về sự có mặt rất bình thường của Nam.
- Anh Nam! Tưởng anh không đến. Trận mưa bão hôm qua hại quá. Nước úng ba xã phía nam huyện Lý Hưng. Bẩy trăm người hiện đang sống trên mái nhà. Tỉnh phải nhờ máy bay trực thăng bên bộ đội đi thả bánh mỳ tiếp tế.
- Mình vừa lên uỷ ban họp về vấn đề ấy.
Trọng lách qua màn gió, hớn hở:
- Anh Nam, em và cụ Tiễu định đi tìm anh.
- Cậu về đêm qua à?
- Vâng. Tình hình nghiên cứu có nhiều triển vọng, anh ạ. Em và đội bảo vệ đê Nguyên Lộc đã tìm được dấu hiệu sinh vật của mối. Chiều qua, trước cơn bão, chúng bay ra...
Nam chợt nhận thấy Trọng ngừng nói và trong giây lát như ngừng thở, cặp mắt dài của Trọng như đờ ra, rồi bừng sáng, soi đăm đăm vào anh với một vẻ trắc ẩn không che giấu. “ Cậu ấy biết rồi ư?” Nam thoáng nghĩ, vội quay mặt vào ngăn tủ, nói lấp trong hơi thở:
- Trọng này, mình mới đọc tài liệu về vấn đề mối rất hay của hai nhà khoa học Pháp. Để mình tìm số hiệu thư viện của nó cho cậu nhé.
Ông Chánh đã sang, lại ghé tai Trọng thì thầm, rồi tiến đến trước bàn Nam, khi Nam vừa quay ra:
- Báo cáo đồng chí trưởng phòng - Ông Chánh hơi ngắc ngứ – Theo phân công của đồng chí, tôi vừa đi kiểm tra ba mươi vết nứt ở đê Nhị Lang. Tôi đã yêu cầu đội bảo vệ mổ tất cả các vết nứt ra, trám đất sét vào.
- Để họp sơ kết ông báo cáo luôn nhé.
- Dạ, còn vấn đề chỗ ở của đồng chí Trọng, tôi cũng vừa trao đổi với đồng chí ấy xong. Quả là đồng chí ấy từ tỉnh lẻ miền ngược chuyển công tác về đây đã hơn một năm mà chưa có chỗ đặt được cái giường cá nhân thì cũng là... Nhưng quả là khu tập thể cơ quan ta không tài nào thu xếp được. Đành thu xếp để đồng chí ấy ngủ... bàn ngay ở đây. Thôi thì cũng vì khó khăn chung, đồng chí Trọng ạ - Quay sang Trọng, giọng ông Chánh bỗng nhâng cao, rổn rảng khác thường – ấy, ngủ bàn mà hoá ra sướng đấy, cậu Trọng ạ. Tôi ấy à, cậu biết không, năm năm tư, vào tiếp quản thành phố này, hai vợ chồng ở vẻn vẹn có sáu mét ca-rê, nguyên nó là một cái chuồng béc-giê của một thằng quan Tây... Mà lúc này, cậu đang phấn đấu, lại đang còn trẻ... à này, mình biết cô ấy rồi nhé. Cạnh nhà ông cụ, tên là Loan, có đúng không? Trường túc bất tri lao! Khớ đấy! Bốn điểm cộng. Hà hà...báo cáo đồng chí bí thư, còn về công tác Đảng, tôi đã bảo cậu ấy làm đơn...
Nam cau mày, khó chịu về cách nói bỗm bãm, rề rà, chuyện nọ nhằng chuyện kia và rất không đúng chỗ của ông Chánh. Anh kéo ghế, ngồi xuống. Ông Chánh dò đoán thái độ cấp trên rất khéo, biết ý Nam, lại quay sang Trọng. Khổ! Lại cái giọng cha chú, cổ giả, thô thiển. Khổ nữa là nó lại
rất thành thật. Quan trọng hoá, lên mặt cũng rất thành thật. ấy thế, ông Chánh luôn tự coi mình là nhân vật đàn anh, mọi người phải nhờ cậy, kính nể. Ngay như chuyện chỗ ở của Trọng. Giá như Trọng luỵ ông một tý, nói khó với ông một câu – chứ không phải là đút lót, nịnh nọt ông, thì với tư cách chánh văn phòng cơ quan, ông lo cho Trọng từ lâu rồi. Đằng này, Trọng lại ương, lại không thèm ngỏ lời xin xỏ, cầu cạnh. Nam là bí thư chi bộ cơ quan. Cơ quan chưa đầy hai chục cán bộ, thì chín cán bộ là đảng viên, phân bổ đều ở ba phòng, mỗi phòng ba. Ông Chánh, Nam, Hưng là một tổ đảng. Vừa rồi, sau bao nhiêu lần vận động, giãi bày, thanh minh, ông Chánh trúng cử phó bí thư. Ông vào đảng năm bốn tám, hồi cải cách ruộng đất bị xử lý oan, năm sáu mươi học xong trung cấp thuỷ lợi, nhưng đã gần hai chục năm bỏ nghề, phần về kiến thức ông không vững chắc, lại thêm cái tội tí táu tí mẻ gì đó hồi chỉ huy công trường đê, nên ông bị điều về làm công tác văn phòng cơ quan. Nay, ông Chánh lại muốn trở về với nghề. Và cả trong lĩnh vực chuyên môn này, ông cũng cứ muốn là bậc đàn anh, bậc cha chú của lớp kỹ sư trẻ.
“ Ông này quả là con người không hiểu mình là cái gì. Rồi một hôm nào đó phải nói cho ông ta hiểu” Nam nghĩ. Nhưng, chính lúc ấy, bụng anh chợt dội lên một cơn đau nhói buốt rồi cứ giần giật liên hồi. Mặt Nam, thoáng cái đã tái nhợt như mất máu.
Hưng quay lại, chợt thấy Nam gục đầu trên mặt bàn, liền thét to:
- Anh Nam! Sao bảo anh...
Nam gầm mặt, nắm quả bom bi, bóp chặt, giọng đứt nối:
- Ờ, ờ có khả năng là căng xe... Nhưng... ta họp đi. Trọng... báo cáo tiếp về chuyên đề tổ mối trên đê... Ông Chánh... báo cáo về vết nứt... Tôi... có mấy tài liệu mới tìm được của Pháp...
Ông Chánh hơi cúi xuống, môi lập bập định nói gì. Nam cố ngồi thẳng lên. Những cơn đau như thế, vài ngày nay đã hành hạ Nam, nhưng Nam đều đã vượt qua được. Và bây giờ, Nam cũng phải cố vượt qua.
- Không sao! Không sao! – Nam ngẩng đầu dậy, vuốt tóc, lắc đầu. Ta họp cả phòng nhé.
Ông Chánh lê xền xệt cái ghế, đứng dậy trịnh trọng:
- Báo cáo anh, bản tài liệu dịch của anh, cái Ly-đrô-lích-cơ... tôi đã giục cô Vân đánh nhanh. Anh cho họp ở đây chứ ạ?
- Họp ở đây thôi – Hưng nói thõng thượt – Cụ Tiễu đâu rồi nhỉ? ấm chè Thái nguội mất rồi, cụ Tiễu ơi!
Ông Tiễu từ ngoài cửa đâm xầm vào phòng, tay cầm điếu, tay giơ cao một cái phong bì thư dầy cộm:
- A! Bông-giua me-xừ sếp! Chào ông trưởng phòng! Báo tin mừng. Tớ mới nhận được thư của con dâu! Nó đỗ phó tiến sĩ Pô-li-me ở Ba Lan sắp về nước. Nó sẽ mang về cho tớ một cái nồi áp suất đại bố!
“ Ông cụ càng già càng cô-mích!” (*) Trọng nghĩ, trong lòng lại thấy thương ông, y như lúc ông nói ông mất con mèo quý.
- Các cậu có biết không – Vẫn cơn hào hứng, ông Tiễu quên phắt cả Nam và căn bệnh hiểm nghèo của anh – Chỉ mười phút là cả cái chân giò nhừ tơi ra. Cái nồi áp suất thế mới kỳ diệu chứ!
Hưng cười khì khì:
- Thời buổi này làm gì có chân giò cho cụ ninh, hả cụ?
- Chân giò hẳn đi chứ. Nếu cần, chân voi tao cũng có – Ngồi xuống ghế, mặt ông Tiễu vênh vênh hết sức trẻ con – Trọng! Mày về báo ba mày nhé. Đúng ngày rằm tháng này đến nhà tao ăn mừng con dâu tao vinh quy bái tổ. Nhớ chưa nào? Số nhà một trăm linh hai Hàng Nồi. Bỏ mẹ, hộp thuốc lào của tao đâu rồi!
Ông Tiễu đứng dậy, vỗ hộp túi quần. Như xem một màn hoạt kê, mọi người cười ồ, nhưng chẳng ai nói một lời. Tháng này, ông Tiễu về hưu, ông đã già, già quá hoá trẻ con, có lẽ vì vậy chẳng ai trách ông. Mặc dầu đã mấy năm nay ông gây chẳng ít phiền hà cho mọi người. Tiếng là kỹ sư, nhưng ông chẳng nhận làm một việc gì cụ thể. Ông cứ lăng xăng, mỗi việc dúng vào một tí, như chuồn chuồn đạp nước. Ông lại hay chửi đời và cũng hay khích bác bạn đồng nghiệp. Chỉ có Nam là dám nói thẳng với ông những điều ấy. Ông nổi cơn tự ái, có lần chửi Nam, bảo Nam chỉ đáng đi hót ***. Nhưng, sau đó ông lại khóc, ân hận, xin lỗi Nam. Trong cơ quan, có lẽ ông chỉ nể trọng có mỗi Nam, mà cũng chỉ nể trọng về nhân cách thôi.
Như bây giờ, Nam đề nghị ông ngồi xuống để họp, ông nghe. Nhưng ngồi xuống rồi, ông lại dịch ghế về phía Trọng, ghé tai Trọng, rất khẽ:
- Này, Trọng! Tao coi mày như con nên tao mới nói cho mà cảnh giác. Mày mới ở tỉnh lẻ về, chớ có ngu lâu. Cái thằng Gia-ve (**) này - Ông hất hai con mắt về phía Hưng – Cẩn thận, không là nó ăn thịt mày. Nó sẽ phá tan sự nghiệp của mày. Đấy, cái tài liệu Tổ Mối của mày, giữ cho kín, chớ có hở cho nó thấy. Đ. mẹ, kỹ sư như nó chỉ đáng đi hót ***. Vụ vỡ cống Lợi Toàn năm kia chính nó phải vào tù mới đúng. Chính nó thiết kế, thi công cái công trình ấy. Chính nó chỉ đạo gia cố đê lúc đó. Ông thủ trưởng cơ quan thì u ơ. Để xem xừ Nam có dám moi chuyện này ra không. Còn cái thằng mu-gích láu cá kia - Ông liếc mắt về phía ông Chánh – Phải đề phòng! Chính nó xúc xiểm xừ thủ trưởng gạt lương chuyên viên hai của tao đấy. Nó bảo: Tao chỉ... chơi, lại hay gây gổ, đấu đá. Đ, mẹ cái thằng đểu! Hừ, tay Nam chơi được đấy, nhưng bây giờ hắn quỵ thì bọn này chúng nó làm loạn. La vi e mẹc, bố cu mẹc!
Lan trong người Trọng một cơn rùng mình nhè nhẹ. Nhưng Trọng vẫn tỉnh táo. Cụ Tiễu nhìn ai cũng rặt thấy xấu xa. Cụ méo mó rồi. Trọng nghĩ và nhớ đến cái công trình nghiên cứu về tổ mối dòng dã mấy tháng trời qua, nay sắp được trình bày ở cuộc họp này.
Nam ngẩng lên, đưa cho Trọng số liệu cuốn sách về mối ở thư viện. Ông Tiễu rót nước. Ông Chánh nâng một chén trà đầy, bằng cả hai tay, đưa Nam.
- Cám ơn anh. Nam đỡ chén trà - Tôi đề nghị, nhân cuộc họp này, đồng chí Hưng trình bày lại, coi những kiểm điểm trách nhiệm về vụ vỡ cống Lợi Toàn. Thời gian có ít, sắp tới anh em ta phải xuống các tuyến đê xung yếu.Vì vậy, phải tranh thủ thời gian...
Nam nói, cố kéo liền một hơi. Nhưng, những tiếng nói của Nam cứ rời rạc dần, rời rạc dần. Giọng Nam run rẩy và trộn lẫn cả với hơi thở. Nam có vẻ đã quá sức. Và Hưng đang lim dim mắt như đón đợi, thưởng thức ngấm ngầm điều thú vị gì đó, bỗng ngước lên, vành mắt mở hết cỡ, kêu nho nhỏ trong cổ họng khi Nam vừa đưa tay ôm bụng và gục mặt xuống bàn.
Chống tay đứng dậy, ông Chánh mím mím môi, trang nghiêm, lo sợ. Giọng Nam thều thào và đột ngột tắt. Trọng đứng phắt dậy, hốt hoảng: “Anh Nam!” Cố nghển đầu lên một lần nữa, không được, Nam lại đã gục mặt trên rìa bàn.
Ông Chánh vội nhẩy sang phòng bên, chạy tới cái máy điện thoại. Ba cái máy chữ ngừng tiếng, lạnh ngắt.
Không còn nghi ngờ gì nữa. Nam mắc bệnh hiểm thật rồi. Một khối u to bằng quả ổi nổi lên ở chỗ lá gan, bên phải bụng. Khủng khiếp quá! Ông Chánh liên tục gọi điện. Nhưng ôtô cấp cứu vẫn biệt tăm.
Ông Chánh và ba cô Vân, Tình, Ngà vội thu dọn, ghép bàn làm thành một cái giường cho Nam nằm ở góc phòng. Ông Tiễu đi đi lại lại, chửi trời mưa, chửi ôtô cấp cứu, chửi điện thoại, chửi bệnh viện, chửi căn bênh quái ác. Hưng quanh quẩn, không dám đến gần Nam sợ lây bệnh(!), một lát sau, khoác áo mưa, nói: “ Để tôi đến bệnh viện bảo họ” rồi dắt xe đi mất hút.
Nam nằm, nửa tỉnh nửa mê trong cơn mưa nước lên, dấm dẳng, nhay nhứt suốt chiều, cả đêm.
Nhưng, khi lên ôtô cấp cứu thì Nam tỉnh hẳn.
Nam bắt tay từng người. Giữ tay Trọng lâu nhất, giọng Nam cố giữ ngay ngắn: - Tơ-rai! Tơ-rai! (*) Hãy tin tưởng! Hãy tin tưởng! Nghe nói có một phương pháp mới có thể có thể ngăn cản sự phát triển của lũ tế bào độc ác này. Mà cũng có thể là u lành. Đừng báo cho bạn bè mình biết. Đến thư
viện mượn cho mình Lịch triểu tạp ký, Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch sử một cái cọn. Các báo cáo của Đê-boa, Noóc-măng-đanh, Ru-ăng, Boóc-nô. Các tạp chí Lanh-đô-sin năm 1930. Thư mục sách Nga về chỉnh trị dòng sông. Tạm biệt! Kiên trì đề tài nghiên cứu! Vững lòng nhé. Nhất định học tiếp tiếng Pháp, tiếng Nga, Trọng!
Chiếc xe cấp cứu lao đi, để lại một khoảng trống vắng ngơ.
Bị nó hút, Trọng chạy theo nó một quãng, rồi đứng sững lại giữa một cái ngã tư đang nhộn nhịp người qua lại. Như một kẻ mất hồn, lát sau anh mới định tâm, bước lên hè phố. Sao anh thấy mình cô đơn thế! Lúc này chẳng ai an ủi được anh cả. Cơ quan thì nhiều người thật đấy, nhưng ở các bộ phận khác nhau, anh lại mới chuyển công tác từ nơi khác về và quen nếp sống ít giao tiếp. Sống thu mình lại, tự nhận thức, tự vạch đường, lâu nay anh là vậy. Trong phòng, anh không có người đồng cảm. Hưng thì nhạt thếch và bất định. Ông Chánh thì thô sơ. Ông Tiễu già quá hoá con nít và mang nặng thiên kiến riêng. Nam, một tâm hồn cao thượng duy nhất, là chỗ dựa tinh thần của Trọng, thì Nam đã đi rồi, mà có thể là đi vĩnh viễn không bao giờ gặp lại nữa.
Sau cơn mưa đêm, thành phố rát bỏng trong cái nắng đầu mùa. Phố xá đang cữ đông. Người đi lại, vội vàng với những mục đích riêng tư. Hình như chẳng ai quen biết ai. Thành phố, nơi đây sinh đẻ ra sự vô danh, thái độ bàng quan cá nhân và các thói tệ tầm thường. Bên vỉa hè, một bọn người tứ chiếng quần tụ, cười nói ầm ĩ bên những cốc bia, những đĩa nộm, những con mực nướng. ở đây, có một lối sống riêng, lưu truyền một hệ thống ngôn ngữ riêng: con mực bốn đồng được gọi là bốn xu, bố mẹ được gọi là các cụ bô, người chất phác thật thà thì bị gọi là tẩm là hâm. Ăn uống bề hề ngay trên vỉa hè, bên đường đi lối lại, giữa thanh thiên đã trở thành nếp sống phổ biến. Trải suốt dọc đường là những hàng quán, từ cà phê, nước chanh giải khát thanh nhã tới món cháo lòng, tiết canh xô bồ dân dã. Và hàng quán nào cũng chen chúc, nhộn nhạo. Trong khi ấy, cái loa công cộng trên cột điện vẫn oang oang tiếng nói của một giáo sư về xu thế biến động của khí hậu toàn cầu. Tiếp đó là cái giọng khúc chiết, sang sảng của phát thanh viên đọc bài giới thiệu các giống lúa kháng rầy, cách phòng chống bão lũ và sau cùng là thơ chiến đấu Pa-le-xtin. Hình như chẳng cái nào ăn nhập với cái nào. Loa cứ nói. Và chẳng ai nghe. Sự cao cả, đẹp đẽ và đời sống trần tục, thường nhật cứ lồ lộ, tồn tại bên nhau, chẳng bên nào gây tác động được tới bên nào.
Ở đầu một con phố nhỏ, Trọng thấy mình được an ủi. Một hàng người toàn cụ già, em nhỏ xếp hàng nối nhau mua báo. Nắng xối lửa. Giọng người giao báo qua cái loa pin cũng rừng rực như lửa cháy.
- Xin mời đồng bào đón đọc báo Nhân dân, Quân đội, Tiền phong, Lao động, báo hôm nay có bài tổng kết tình hình bão lụt năm qua. Tin Ban chống bão lụt trung ương họp phiên đầu tiên. Đặc biệt có tin Trung Quốc tăng cường khiêu khích vũ trang ở sáu tỉnh biên giới nước ta. Ngày 20 tháng 5, một trung đội lính Trung Quốc vượt biên giới trái phép, đánh chiếm, gây
tội ác ở khu vực cột mốc 16 Văn Lãng, Lạng Sơn. Tin thêm về cách mạng áp-ga-nít-xtăng, về đất nước Ni-ca-ra-goa anh hùng. Tin Mỹ cho tầu ngầm nguyên tử tới Nhật và cuộc tập trận của khối NATO...
Một chiếc xe máy không có ống giảm thanh chạy qua, cắt đứt phần tiếp bài giới thiệu của người bán báo. Trọng vượt sang bên kia đường, vì nhìn thấy bóng chiếc ôtô buýt ở giữa phố. Anh định lên xe đến thư viện, trước khi về thăm cha.
Chiếc ô tô đến gần. Trọng chưng hửng. Không phải xe buýt. Mũi chiếc xe Hải Âu gắn hai vòng hoa hình bầu dục và hai giải băng tang, trên kính xe: ảnh một người con trai đang cười, tóc rẽ giữa, áo vét ve to. Một cái chết yểu! Sau chiếc xe Hải Âu là cái Rô-buya vàng xỉn; trên hai xe khăn tang trắng xoá. Xe chạy rì rì, mệt mỏi.
Trọng cắm mặt xuống hè. Anh cố bước nhanh hơn tốc độ của hai chiếc xe. Cái loa pin bên kia đường lại lại dóng dả tiếng người rao báo. Và một đám trẻ con ở đâu đang ngược lại, hò reo lộn xộn, chặn lối đi của anh. Bị vây bọc giữa đám trẻ là một người đàn ông quần cộc, mình trần, gầy lép, tóc xoã quá gáy. Khi bọn trẻ nheo nhéo gọi: “ Ông điên ơi! Ông múa đi!” thì anh ta cười, vung tay, giậm chân, the thé:
- Ta không điên! Ta đâu có điên! Hết ngày dài lại đến đêm thâu. Chúng ta đi trên đất Phi Châu. Ta đi tìm em, con ta, học trò của ta...ha ha...
Trọng lách qua đám trẻ, đi như chạy. Và lát sau thấy cánh cửa mở rộng của thư viện thành phố, anh liền tọt ngay vào.
Thư viện thành phố!
Êm ả quá là những vầng xanh của những cây sồi già. Không khí tĩnh. Và các sự kiện như lướt qua bên cạnh. Gió cũng chỉ hiu hiu. Vòm ngâu tạo dáng quả cầu tròn như những dấu lặng. Ghế đá gợi sự vĩnh cửu. Lối đi rải sổi cuội êm êm. Lá vàng rơi nhè nhẹ. ở đây trầm tĩnh đọc, nghĩ suy. ở đây có sách, có thầy, có bạn, có bầu không khí riêng. Ngồi ở đây tách ra khỏi mọi sự tủn mủn, phiền hà. Có thể ngồi ở đây cả ngày chủ nhật, đến tận chín giờ tối, cho đến khi cô thủ thư luống tuổi dịu dàng đến bên: “ Anh nghỉ đi, anh”.
Trọng bước theo lối sỏi, tránh một cái xích lô chất đầy sách bìa cứng đậu ở dưới bậc tam cấp.
- Ơ kìa... cậu Trọng!
Một người đàn ông thấp lùn, cục mịch đang lúi húi buộc lại lốp xe xích lô, ngẩng đầu lên, hấp háy hai con mắt đỏ ké, chào Trọng.
- Cậu không về thăm ông cụ, cậu Trọng?
“ Bác Nhuần.” Trọng thầm kêu, hơi bị bất ngờ. Nhưng anh chưa kịp đáp thì ở cửa đã bước ra một người trai trẻ, vóc cao, đeo kính cận – chủ nhân của số sách trên xe.
- Có hơn cây số mà bác giã tôi những chục bạc. - Người trai trẻ cười độ lượng – Có phải tôi thuê cho cơ quan đâu. Sách này tôi đem tặng thư viện.Thật là mất cả công lẫn của. Đây, xin gửi bác.
Ông xích lô gãi đầu:
- Chú thông cảm. Dạo này, giá cả cái gì cũng tăng...
Trọng vội né cái xe sách, bước lên. Nhưng, anh biết ngay là mình đến chỗ cô thủ thư chậm hơn người đeo kính cận nọ mất rồi. Anh ta bê cả một chồng sách cao tới cằm và săm săm vượt lên trước Trọng, tới cái bàn của cô thủ thư, đặt bịch xuống, rồi lui ra, thở hè hè. Cùng với những chồng sách anh ta mang vào lần trước, số sách lần này làm cho cái bàn không còn một khoảng trống.
- Tôi xin tặng lại thư viện đấy – Người đeo kính cận nói điềm đạm – Không dùng, để phí đi.
Trọng lùi ra. Cô thủ thư còn bận với công việc tiếp nhận số sách khổng lồ kia! Ôi, những cuốn sách thoạt trông đã thấy kính trọng. Cuốn nào cũng khổ to, bìa cứng, dầy đến ngón tay, gáy ánh lên những dòng chữ Nga, chữ Anh, chữ Pháp mạ vàng. Đích-ken toàn tập, đánh số từ 1 đến 24. Lịch sử thế giới, từ tập 1 đến tập 10. Văn học cổ Hy Lạp, tập 1 và tập 2. Tuyển tập văn học Anh. Toàn tập Đôtxtôiepxki. Toàn tập Tolstôi. Tuyển tập Hêminhuê.
Những cuốn sách quý. Càng quý hơn là cái cử chỉ hào hiệp và con người kia. Anh ta không còn trẻ lắm. Dễ có đến ngoài ba mươi. Khuôn mặt trái xoan hồn nhiên, cởi mở, dễ tin, thoạt nhìn hơi ngơ ngác. Nhưng giọng nói và cử chỉ lại thật chững chạc, chín chắn. Và Trọng nghĩ đó sẽ là một khuôn mặt Trọng ghi nhớ, một khuôn mặt được lưu giữ mãi mãi trong ký ức mình.
Gần nửa tiếng sau, Trọng mới đến bàn mượn sách. Số sách người đeo kính cận tặng đã được cất và anh ta đã đi. Trọng mượn một số sách cho Nam. Khi hỏi mượn cuốn sách khảo cứu về tổ mối theo ký hiệu Nam ghi, anh ngạc nhiên được cô thủ thư cho biết: thư viện có hai cuốn, người đeo kính trắng vừa rồi đã mượn một. Hỏi cô thủ thư một câu về người nọ, anh càng ngạc nhiên hơn. Người nọ là kỹ sư vật lý, công tác ở Uỷ ban khoa học kỹ thuật tỉnh, vốn là một nhà thơ trẻ. Anh tặng thư viện gần như toàn bộ số sách văn học đã mua từ hồi lưu học ở Nga, và không đòi hỏi một điều gì.
Trọng bước ra khỏi thư viện, lòng đã trở lại thư thái.
401, ba con số viết nguệch ngoạc trên bức tường xám, là tên một cái ngõ nhỏ ở phía Nam thành phố. Ngõ nhỏ sâu hút và nhầy nhụa bùn lưu cữu. Ngoặt vào ngõ, gặp ngay một cái quán bún ốc, một quầy hàng sửa chữa xe đạp. Tiếp đó là một dẫy buồng nhỏ như chuồng chim. Ngoẹo tay phải, thấy một căn nhà rộng; ấy là nhà vợ chồng người buôn bán sắt vụn, gia đình này mới nổi cơ đồ và có lẽ tưởng rằng họ được như thế là nhờ thánh thần phụ trợ
nên cứ hai ba ngày lại chuông mõ cốc cốc chôông chôông cúng bái liên hồi. Rẽ lần nữa là đến cái nhà gác hai tầng nho nhỏ mới xây của gia đình ông Nhuần xích lô. Căn nhà gác ấy cùng với các kiến trúc phụ của nó, nhà bếp, nhà ngang, hố xí, chuồng thỏ, chuồng gà..., chắn hai phía của một cái sân đất lẫn than đen sì. Còn một phía là một căn nhà bán mái dài thượt, chia từng buồng nhỏ, chủ nhân thay đổi luôn. Ba Trọng ở căn buồng kiệt cùng. Căn buồng này xưa chỉ có Trọng ở. Năm 1967, máy bay Mỹ ném bom phá huỷ căn nhà trên phố, bà Trọng mất, cả gia đình mới dọn về đây. ở đây, giờ chỉ còn ba Trọng. Mẹ Trọng chết trong một trận bom giặc dội xuống thành phố năm 1972.
Cái ngõ nhỏ, thiếu vệ sinh và có phần tồi tàn. Nhưng bước vào ngõ, Trọng lại thấy bừng lên bao cảm giác thân yêu. Anh như thoát ra khỏi những ám ảnh ghê sợ của cái chết, bệnh tật, bão lụt buổi sáng và cái ấn tượng đẹp mang từ thư viện về bỗng như được nhân lên, tràn ngập lòng anh.
Cái ngõ có linh hồn riêng, tiếng nói riêng. Nơi đây, Trọng sống thời niên thiếu. Nơi đây có kỷ niệm. Nơi đây lưu giữ một phần đời anh. Nơi đây, có cha anh; nơi đây, anh nâng niu một mối tình non trẻ.
Đứng lại trước căn buồng cha, Trọng thở ra nhè nhẹ. Căn buồng toả ra sự yên tĩnh, thái hoà. Trước nó, khéo thu xếp trong không gian chật hẹp, một cây giao mười tuổi cao vọt lên, nghiêng mình duyên dáng, xoè những cành lá xanh cứng như khắc vào mặt mái ngói đổ nghiêng. Chen nhau bên bờ tường ngoài căn buồng là những chậu, bồn, lọ lá xanh lấm tấm các sắc hoa rười rượi.
Căn buồng nhỏ diện tích chưa đầy mười mét vuông. Từ ngoài nắng nhìn vào thấy lờ mờ bóng hình cái giường con, cái tủ nhỏ, bộ bàn trà, kệ sách. Và trên cao, gần sát mái, một cái bàn thờ nhỏ lúc nào cũng nghi ngút khói hương, ở đó có một điểm sáng lung linh: tấm ảnh mẹ Trọng, một khuôn mặt phụ nữ đứng tuổi, hơi nghiêng về bên trái, hai con mắt sáng tươi dưới vành khăn nhung, cái cổ cao trắng mịn, đôi gò má đầy, toả ra vẻ đoan trang, một vẻ đẹp cổ điển, chỉ thấy ở những người phụ nữ thành phố thời xưa, trong những gia đình trọng nền nếp, gia phong.
- Trọng đấy ư, con?
Ông giáo Cần đang lúi húi xếp dọn đống sách ngổn ngang ở giữa nhà, thấy bóng Trọng, ngửng lên, mừng rỡ và âu yếm.
- Ba xếp sách ạ? Để con xếp đỡ ba.
- Xong rồi. Có mấy quyển sách quý, bọn mối nó cứ nhăm nhăm. Mưa bão mấy hôm nay, lơ đi một cái là... Kìa, nó đắp đường lên, sắp tới mái nhà rồi.
Ông giáo Cần đứng dậy. Trọng nhìn lên. Gờ tường ngoằn ngoèo một vệt đất nâu mới bị cạo, đường nổi đi kiếm ăn của mối, còn nham nhở dấu tích.
- Mấy cuốn sách quý, có khi phải đem tặng lại thư viện để họ giữ mới an toàn cũng nên - Ông giáo thoát một hơi thở nhẹ – Vào nhà đi con. Dạo này con vẫn ở khúc đê Nguyên Lộc à?
- Vâng, ba để con súc ấm.
Trọng cầm ấm trà, ra vại nước, quay trở vào. Anh chợt nhớ tới người đeo kính cận tặng sách thư viện và trân trọng nhìn cha. Ông Cần mở cái hộp sắt, cầm cái thìa nhỏ, xúc chè. Đúng năm thìa, không rơi ra ngoài một cánh và chưa dội nước, chè đã toả một mùi thơm thanh tao, cổ kính. “Ba vẫn như xưa”. Trọng thầm nghĩ. Thốt nhiên, anh muốn khóc. Cha anh, vẫn khuôn mặt đôn hậu, mái tóc muối tiêu từng trải, hai con mắt nheo nheo ân cần, cái mũi cao, một gương mặt thiện lương, thông thái, thâm trầm, nhưng sao hôm nay trông cha xao xác thế nào! Cha anh, một giáo sư dạy tiếng Pháp nổi tiếng, một tâm hồn đa cảm, một tấm lòng hiền từ. Sao từ cha lúc này toát ra nỗi buồn thương, ảo não? Hay là Trọng nhác trông thấy bàn tay gầy khô run run xúc chè của ba? Chẳng lẽ từ ngày mẹ mất, tiếp đó là việc nằng nặc xin về hưu trước tuổi, ba đang sống những ngày bất đắc chí, buồn nản, úa tàn trong cô đơn?
- Ôi giời! Ngày thì nóng, đêm thì nhà Năm Sắt cốc cốc chôông chôông ê a cúng bái, mất cả ngủ.
Ngoài cửa có tiếng nói oang oang, tiếng ngáp của một người đàn ông. Trọng nhìn ra. Người nọ đang cúi xuống trụt dép, rồi bước vào, thân hình to ngang, che lấp cả khuôn cửa.
- Anh Cần, anh có khách, hả?
Ông Cần đang đặt siêu nước lên bếp dầu, quay lại:
- Anh Hảo, anh vào chơi. Cháu Trọng đấy mà. Nó mới chuyển về cơ quan chống bão lụt tỉnh được hơn năm nay.
- À! Cậu Trọng đấy hả? Nghe ông cụ nói về cậu nhiều rồi, giờ mới gặp.
- Chào bác ạ! – Trọng chào người đàn ông.
Người đàn ông tên Hảo tráng kiện, tuổi ngoài năm mươi, mặt căng đỏ, mũi to, mày rậm, môi dầy, cổ ụ. Có cái gì đó như là sự chểnh mảng, khinh bạc và tầm thường trên những đường nét của khuôn mặt. Và, giống như một nghịch cảnh, trên bộ ngực nở hết sức trần tục của đàn ông, ngoài cái may ô xanh nước biển, lõng thõng một sợi dây chuyền mỏng manh treo cái thập ác nổi hình Đức Chúa Giê-su chịu nạn.
- Đến ốm mất – Người đàn ông há miệng ngáp. Cái thằng Lùng con nhà ông Nhuần nó ti tỉ khóc cả đêm. Sáng nay mở mắt đã thấy trẻ con kéo nhau ra ngõ trêu người điên.
- Cái anh chàng tóc xoã ấy à? - Ông Cần hỏi.
- Cái thằng cha cứ hát “ Hết ngày dài lại đến đêm thâu” ấy. Nghe đâu anh ta trước là giáo viên dạy ở mạn ngược... Ôi, giời, rồi cả cái xã hội này sẽ khùng dại hết cả cho mà xem – Người đàn ông lại ngáp – Tôi vừa ra phố, công an đang xúm đông xúm đỏ trên đường trước cửa hiệu Quảng An, cái hiệu thuốc xưa tôi vẫn hay vẽ quảng cáo cho nó ấy. Quái quỷ! Có thằng cha điên nào nó viết lung tung cả ra đường. Mà viết bằng sơn vàng hẳn hoi. Chữ lại đẹp như chữ hoạ sĩ bọn tôi chứ.
- Nó viết cái gì thế?
Ông Cần nhắc siêu nước sôi, rót vào ấm, hỏi theo phép lịch sự. Mặn mà gì những chuyện ấy. Nhưng ông hoạ sĩ lại hăng hái hẳn lên:
- Kinh khủng! Nó viết thế này. Stop! Đói! Chỉ đớp toàn không khí! Đàn bà. Giống bạc tình! Tốn tinh khí lắm! Ôi, tha phương. Đi. Đi! Chân trời mới. Đưa mắt nhìn cha, Trọng thấy cha thoáng rùng mình, cái rùng mình nghi ngại, ngượng ngùng. Rõ ràng là cha anh không đồng điệu với ông bạn hoạ sĩ này. Cha anh mực thước, cao nhã, dù có khúc mắc vẫn nghiêm túc, cẩn trọng. Ông hoạ sĩ này buông tuồng, tềnh tàng, nhắc lại những lời bẩn thỉu một cách thích thú, bợm bãi nữa là khác.
Ông hoạ sĩ không hay biết sự đánh giá âm thầm của Trọng. Được đà, ông bắt đầu huyên thuyên. Ông kể, ông vừa đi ăn ở hiệu Cop d’or, ông dùng tên cũ từ thời Tây, một suất hai mươi đồng. Ông nói: thể xác ta là con ngựa cho tâm hồn ta cưỡi, ta phải biết săn sóc nó. Ông nói, mỗi người là nguyên thủ của một quốc gia có hàng tỉ tế bào, vậy phải tự coi trọng mình. Ông hào hứng với những chuyện tiếu lâm tục tĩu, chửi đời. Và khi thấy ông Cần đáp lại bằng một vẻ thờ ơ, thì ông đập cả bàn tay lên mặt bàn, nói như sừng sộ:
- Ấy thế! Anh bảo chủ nghĩa xã hội ưu việt. Vậy anh cứ quan sát ngay cái ngõ Cát xăng tê oong (*) này xem. Ai thắng? Chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội? Lão Năm bán sắt vụn cách vài ngày lại mổ một con gà, rồi cốc cốc, chôông chôông. Vợ chồng nhà Nhuần xích lô xây nhà. Còn anh? Nhà đại trí thức ở thành phố này, anh xo xúi trong cái góc kiệt cùng, tối tăm này.
Ông Cần nâng chén trà, lim dim mắt. Trà toả hương vào hồn ông. Ông thanh cao, coi khinh mọi ham muốn, dẫu nghèo nàn, chua xót. Ông không muốn dây vào các cuộc tranh luận hay nhàn đàm gần như bất tận, hay cù nhẩy vô bổ, và rất khó nói với ông bạn láng giềng này.
Trọng thì đã thấy mất thiện cảm với ông Hảo ngay từ phút gặp gỡ đầu tiên. Ông ta dung tục, có nét giống ông Tiễu và Hưng, nhưng trơ tráo, cay độc, ác ý hơn nhiều. Đứng dậy, chuyển ra ngồi ở giường cha, Trọng lặng lẽ giở một cuốn sách giáo khoa tiếng Pháp. Nhưng, ông hoạ sĩ đã quay lại với Trọng, có lẽ vì ông thấy sự lạnh nhạt của ông Cần.
- Cháu Trọng nhỉ, nghe nói nước nôi năm nay gay lắm phải không? Giờ mà thằng Tầu nó cho bài học thứ hai nữa, rồi vỡ đê một phát nữa thì... ôi thôi...
Trọng bật lên một phản ứng nhất thời, giọng hơi gắt:
- Vỡ thế nào được, bác!
- Không vỡ được! - Ông hoạ sĩ lắc đầu – Tôi không tin. Tôi bị lừa nhiều rồi.
- Dân mình không đến nỗi hèn kém đâu, bác ạ.
- Ôi! Dân mình! - Ông hoạ sĩ bật cười – Dân mình là dân ba lăng nhăng, lêu lổng, chẳng có kỷ cương, niêm luật gì hết. Dân mình như cái thơ lục bát ấy, bắt vào đâu cũng được, kết ở đâu cũng xong. Như cái thằng Bờm có cái quạt mo ấy. Gì cũng lắc, cũng ngại. Hòn sôi, cái lợi tí teo trước mắt, thì gật. Dân mình văn hoá lộn xộn như cái địa chất nước mình ấy. Văn minh mình không có đỉnh cao, như là kiến trúc...
- Thế thì bác nhầm! – Trọng ngắt lời ông hoạ sĩ, mặt rân rân đỏ vì cảm giác bị xúc phạm – Bác quên là dân mình có hàng ngàn cây số đê, một công trình vĩ đại, hiếm có. Mà bác... sao lại dám nói về địa chất nước ta như thế. Nhưng mà - Trọng ngắc ngứ, mặt gầy càng ứ đỏ – Nhưng mà lúc này đây, ai mà làm suy yếu niềm tin vào đất nước, dân tộc, chế độ, theo cháu, kẻ đó là người có tội.
- Đất nước và chế độ là hai vấn đề chứ!
- Theo cháu, lúc này, biện chứng của cuộc sống cho phép ta coi hai vấn đề nhập vào làm một!
Ông Cần đặt chén nước, ngẩng lên, lo lắng. Sao Trọng lại đối đáp gay gắt bốp chát thế! Ông Hảo dù sao cũng là bậc cha chú... Vả lại, chấp làm gì cái thảm hại của anh trí thức còm. Ông định lên tiếng dàn hoà. Nhưng, ông hoạ sĩ đã cười ồ ồ. Ông chẳng giận Trọng.
- Tất nhiên, nếu là bọn phản động thì chẳng còn đứa nào ở lại đây cả. Ba mươi sáu chước chước chuồn là hơn. Nó đi cả rồi, cháu Trọng ạ.
- Cháu thấy, đã là con người thì không thể sống bôi bác, tuỳ tiện. Đã là con người thì ít nhất cũng phải có cái gì để tôn thờ chứ.
- Nhưng mà có những lúc ta bất lực với chính ta chứ! - Ông hoạ sĩ cười ngạo mạn – Ta muốn tin mà thực tế không cho tin, thế mới đau chứ! Cháu còn trẻ, cháu chưa từng trải, chưa nếm đủ chua cay, đắng chát, chưa hiểu đời đâu. Bây giờ, ở trên bàn thờ chỉ có đồng tiền thôi, Trọng à.
- Bác vơ đũa cả nắm thế sao được!
Lần này thì Trọng nói như gắt và ông Cần trong cái giật mình lo sợ, bỗng ngẩng đầu ngước lên cái bàn thờ bà vợ ông, như muốn tìm ở đó sự cân bằng lại. Không để ý đến thái độ của cha, Trọng xăm xăm bước lại trước mặt ông hoạ sĩ, hơi cúi xuống, giọng rung lên, u uất và nhiệt thành:
- Vâng, cháu còn ít tuổi hơn bác. Nhưng, bác đừng nghĩ rằng cháu ít hiểu đời. Còn nhiều cái xấu lắm. Con người còn tầm thường lắm. Nó đang phá hoại nhiều cái đẹp. Nhưng đó không phải là toàn cảnh hôm nay. Còn nhiều cái cao cả, đẹp đẽ vẫn tồn tại và phát triển. Còn nhiều giá trị thiêng liêng không được phép bôi bẩn. Còn nhiều cái phải tôn thờ. Bác chỉ thấy đời bằng trực giác mà lại là một trực giác ốm o, phiến diện, sai lầm.
- Hà hà... cháu phát ngôn ở vị trí con người lý tưởng - Ông hoạ sĩ nhếch mép mai mỉa – Chúng ta hãy đối diện với con người phổ thông, con người trần thế, tục luỵ, dưới mọi hình thức, tiềm thức, con người bản năng vị kỉ hơn vị tha, tham sinh uý tử, né tránh cực khổ!
- Cháu không đồng ý. Con người thế tục đâu có phải như vậy! đó chỉ là những kẻ tầm thường. Còn con người bình thường ấy à, là con người không tham lam, không ích kỉ, biết sống vì cộng đồng dân tộc. Con người ấy khi thấy đê yếu, nước to, biết ném một hòn đất vào đê để củng cố đê, thấy đê vỡ thì dám nhẩy xuống dùng thân mình hàn khẩu đê. Con người ấy không vô trách nhiệm, bỏ chạy.
- Ha ha... cháu thật là có tài tranh biện, ứng đối.
Ông hoạ sĩ cười nhạt, lắc lắc cái cổ lủng lẳng cây thập tự. Ông đã gặp một đối thủ sắc sảo, lợi hại.
- Bác xơi nước, bác Hảo. Chà, mỗi người một chỗ đứng, khó có thể nhất trí với nhau lắm - Ông Cần nâng tách chè, vừa muốn dàn hoà để cắt đứt cuộc tranh luận vừa muốn ngấm ngầm bộc lộ thái độ, đồng tình của mình với con. Ông quay sang Trọng, nhìn con, trân trọng – Trọng à, ba nghe nói năm nay bão sớm, có thể nước to, phải không con?
Trọng chưa kịp đáp thì ngoài sân đã có tiếng một người đàn ông rao khàn khàn:
- Các hộ trong ngõ cho người ra nộp hòn đất chống lụt nhé.
Ông hoạ sĩ đứng dậy vươn vai.
- Có ngay đây - Ông cười khoả lấp – Nghĩa vụ một người bình thường đấy. Trọng nhỉ? Bác Cần có hòn đất nộp chưa?
- A! Cậu Trọng đã về đấy à?
Ngoài cửa buồng, ông Hảo chưa kịp bước ra, đã thấp thoáng bóng một người đàn ông thấp lùn, đầu húi ngắn, răng đen nhờ. Chính là người vừa giục nộp hòn đất chống lụt. Ông này ngoái cổ vào căn buồng, cất tiếng hỏi Trọng.
Ông Cần đỡ lời con:
- Cháu nó mới về. Bác vào xơi nước, bác Nhuần.
- Thôi, bác để khi khác. Ban nãy tôi vừa gặp cậu ấy ở thư viện. Gớm, cái nhà anh gì đeo kính trắng, quý hoá quá, cậu Trọng nhỉ. Tặng thư viện cả một lô sách ngoại, bác Cần ạ. Thôi, tôi vội đi đây. Năm nay có thể nước to lắm đấy, bác ạ.
Ngoài ngõ có tiếng chân chạy rình rịch. Rồi toang toang tiếng ông Nhuần: “ Mẹ tiên sư mày nhé. Lấy cái gì của nó thì bỏ ra!” Trọng vác hòn đất chống lụt của gia đình, một khối đất sét hình chữ nhật nén, to cao bằng cái ghế đẩu ra sân. ở góc sân một thằng bé trạc mười ba tuổi ngồi thu lu đang khóc ti tỉ. Bị xích chân vào cái xích lô hỏng, nó ngước lên nhìn Trọng rồi lại cúi gầm mặt xuống. Trọng biết, nó tên là Lùng, con ông Nhuần, em trai Loan. Hoá ra vừa rồi, ông Nhuần chửi nó.
Nhấc hòn đất lên vai, Trọng đi ra ngõ. Trời như sắp nổi giông gió, oi ngột quá.
*
Đứa con, tác phẩm của người cha. Trong tầm mắt hàng ngày của cha, nó là một bức tranh quen thuộc, thường tình. Nhưng một hôm nào do bỗng nhiên có một nguồn sáng mới chiếu rọi vào nó, và thế là ta bỗng ngỡ ngàng như lần đầu được nhìn thấy nó. Đối tượng quan sát để suy tưởng, đánh giá vốn thân quen đã trở nên mới lạ. Nó không còn là một thực thể ổn định nữa trong ta. Nó vừa là nó, lại vừa không phải là nó. Trong nó có cái đã mất đi, lại có cái vừa nẩy sinh, nó đang ở trong sự phát triển đột biến, hoàn thiện.
Ông giáo Cần chỉ có một con trai duy nhất là Trọng. Có phong cách một nhà giáo dục, ông yêu quý con và thường xuyên chăm chú theo dõi mỗi bước đi của con. Thuở con còn thơ ấu, ông sung sướng thấy nó là hình ảnh hoà đồng của ông và vợ ông, nó ngoan ngoãn, chăm chỉ, hiền lành. Đó là những ngày vui vẻ nhất của cái gia đình thuần hậu gồm ba cá thể hoà hợp với nhau về mọi phương diện này. Trọng vào học cấp ba, thấy con đánh vật một cách kiên trì với những môn học hóc búa và có thiên hướng ngả hẳn sang các môn khoa học chính xác, ông giáo nhận ra: con ông đã trở nên một chú thiếu niên gan góc, có ý chí. Tốt nghiệp phổ thông mười bảy tuổi. Trọng xin thi vào ngành thuỷ lợi. Cậu trình bày nguyện vọng đó với cha: “ Ba à, ông Ăng-ghen có nói: Các dân tộc phương đông, trong lịch sử, thường làm được hai việc lớn, chống ngoại xâm và làm thuỷ lợi. Con muốn đi vào một ngành gắn liền với lịch sử và dân tộc, ba ạ”. ẩn sau những lời lẽ khô khan ấy là một tâm hồn phong phú, một bản ngã mạnh mẽ, một khuynh hướng đạo đức có tính thẩm mỹ. Lần đầu tiên, ông giáo bị bất ngờ. Hồi hộp, ông dõi theo sự trưởng thành của con. Mừng và lo, chen lấn trong lòng người cha. Trọng trở thành một thanh niên trí thức, sau một quá trình tích luỹ kiến thức và biến đổi con người: Sự hiền lành bớt dần, thái độ tự tin tự khẳng định tăng lên, nhiều khi thái quá, tới mức quyết liệt, với một đời sống ngày càng thu lại trong nội tâm.
Tốt nghiệp đại học xuất sắc, Trọng về công tác ở một tỉnh nhỏ miền núi. Điều lo ngại của ông giáo thành sự thật. Chàng kỹ sư trẻ va vấp liên tiếp. Thư về cho cha, Trọng thành thật kể lại những thất bại trong công tác của anh, anh đau đớn thú nhận, nhưng luôn cho rằng mình trong sáng, đúng đắn, được đồng nghiệp yêu mến, tin cậy, chỉ có điều luôn luôn là đối tượng để các thói tệ tầm thường ghen ghét, vây bủa và vùi dập. Sau sáu năm trời công tác ở tỉnh nọ, Trọng được chuyển về thành phố và vì đã học bộ môn chỉnh trị dòng sông ở Học viện Thuỷ lợi, anh được điều về cơ quan chống bão lụt của tỉnh, chuyên trách công tác bảo vệ đê điều. Ông giáo tưởng Trọng đã biết rút kinh nghiệm thì trái lại, Trọng càng trở nên mạnh mẽ hơn trong việc khẳng định mình. ít nói hơn, nhưng cứng rắn hơn, hoàn toàn đối lập với thói dung tục xấu xa, bằng sự kiêu ngạo về mình một cách ngấm ngầm. Kẻ nào có ý thức về cái đẹp, kẻ đó mới có ý chí sống đẹp. Ông giáo Cần nghĩ vậy, nhưng vẫn lo cho sự non nớt của con. Cho đến lúc Trọng can thiệp vào công việc của ông thì ông mới hoàn toàn bất ngờ, con ông không còn là một chàng trai non nớt, bồng bột. Ông xin về hưu trước tuổi vì những vướng mắc trong quan hệ ở trường đại học. Trọng kiên quyết phản đối cha và cho rằng cha đã thối chí, đầu hàng: cha đã lạc đường, bởi dẫu khó khăn thế nào, con người cũng vẫn có thể sống cao đẹp, đàng hoàng được. Ông chưa chấp nhận ý kiến của Trọng, nhưng nhận ra Trọng ngời ngời ánh sáng trí tuệ, tuy có vẻ như khô cằn đi và có nguy cơ trở thành một tín đồ của chủ nghĩa duy lý.
Tranh luận bộc lộ cá tính con người. Ông giáo Cần hiểu điều đó và hôm nay, qua cuộc tranh luận ngắn ngủi vừa rồi của Trọng với ông Hảo, ông giáo bỗng cảm thấy, bây giờ ông mới là thật hiểu hết con. Hôm nay, Trọng hiện ra dưới những toạ độ khác nhau, thật lạ lùng với ông. Giống ông, Trọng cao thượng, là một cái cực đối lập với cái xấu, sự vong bản, thói ích kỷ. Nhưng cường độ của ý chí ở Trọng mãnh liệt hơn. Trọng hướng tới sự trong sáng tột cùng. Và khác ông, ông duy cảm bao nhiêu thì Trọng duy lý bấy nhiêu. Duy lý, nhưng Trọng vẫn là một gã trai nồng nhiệt nội tâm, chân thật với chính mình. Trong tư duy lập luận, có cái gì đó chưa thật triệt để thoả đáng, nhưng đó là sự bốc cháy của một ngọn lửa thiêng và phản ánh một tính cách đã tự ý thức, giàu tính tự chủ, vì đã đứng chân trên nền tảng triết học, nắm được khoa học cụ thể và có thực tiễn cuộc đời.
*
Ông hoạ sĩ Hảo đã đi. Trọng vác hòn đất chống lụt nộp khối phố vừa trở về. Dừng lại ở trước cửa buồng, trong ánh sáng ngược chiều, ông Cần nhìn rõ Trọng hơn bao giờ hết. Trọng, con trai ông, vẫn cái dáng thanh mạnh của con trai thành phố, nhưng đã pha trộn thêm nhiều nét vẻ lớn khôn, dãi dầu và từng trải. Vai rộng ra. Mái tóc đen cứng xoã trước trán, hai con mắt dài sáng tươi, thoáng vẻ khắc khổ. Khuôn mặt trái xoan hiện lên những đường nét năng động, khôn lớn và nghiêm nghị, tuy có vẻ như là gầy gùa xanh xao.
- Trọng à - Ông Cần nhìn con, thoáng ái ngại – Dạo này con có vẻ yếu hơn trước. Hay là trong công việc con có điều gì mắc míu?
Đang ngắm chậu hoa quỳnh ở cạnh cửa, Trọng quay lại, đưa tay lên sờ má, nhìn cha, khẽ lắc đầu.
- Không, không có chuyện gì đâu ạ. Nhưng, sao ba lại hỏi con thế, hả ba?
- Ba thấy...
- Ba đừng lo cho con.
- Là bởi vì..., cuộc tranh luận vừa rồi của con với ông Hảo. Ba có cảm giác...
Trọng nhìn cha. Thốt nhiên, hai cánh mũi anh cay ê đi. Cha anh hiểu anh. Cha anh hiểu từng trạng thái hơi thở của anh. Cha anh không phải chỉ là thầy dạy tựng nét chữ, là bách khoa toàn thư, là từ điển sống tiếng Pháp của anh. Cha anh là niềm vui trong sạch, là tình thương thắm thiết, là nỗi an ủi dịu dàng của anh.
- Ba ơi! – Trọng cúi xuống, giọng bỗng run rẩy khác thường – Anh Nam, ba còn nhớ không, anh Nam dạo mới chuyển về đây đến nhờ ba dạy tiếng Pháp ấy. Anh ấy bị ung thư gan.
- Sao?
- Anh Nam trưởng phòng của con bị ung thư, bị mắc bạo bệnh thật rồi, ba ơi!
Gần như buột tay để rơi cái chén trên bàn, ông Cần ngẩng lên, lật bật kinh hoàng:
- Ung thư! Anh Nam bị ung thư à?
Ngồi lặng như hoá đá trong căn buồng im phắc, một lúc sau ông giáo mới đứng dậy, đi tới cái giá sách, đưa hai bàn tay lập cập lần sờ:
- Ung thư! Căn bệnh nguy hiểm! Nhưng mà Trọng à, nếu mà phát hiện kịp thời thì chưa hết hy vọng. Có một cuốn sách của một giáo sư Liên Xô dịch ra tiếng Pháp nói về bệnh này. Người ta vẫn gọi là căn bệnh quá khứ lấn át hiện tại. Hừ... Ung thư... Để ba tìm cuốn sách.
- Ba ạ, hồi công tác ở miền núi con nghe nói có một thứ thuốc lá của đồng bào thiểu số chữa được bệnh này.
- Ba không tin lắm về tác dụng của đông y với căn bệnh hiểm ác này. Còn mang nhiều tính may rủi lắm. Đây, cuốn sách đây.
- Anh Nam đi bệnh viện, con buồn đau quá, ba ạ.
Môi lật bập, mặt Trọng nhợt bệch như tờ giấy. Ông Cần cầm cuốn sách quay lại.
- Khổ thế đấy! Những người tốt thường không gặp may. Anh Nam, ba nhớ anh ấy rồi, một con người mạnh mẽ, có bản lĩnh. Có lần, anh ấy hỏi ba ý nghĩa câu thành ngữ Pháp: Xin ngài đừng đi quá cái mũi giầy của ngài.
- Ba ơi, con thương anh ấy quá. Anh ấy cần phải sống, ba ạ. Sức làm việc của anh ấy kỳ diệu lắm. Anh ấy đang làm dở mấy công trình. Anh ấy đang giúp con nghiên cứu đề tài tìm diệt tổ mối trong thân đê. Anh ấy là một nhân cách tuyệt vời. Bạn bè của anh ấy yêu quý anh ấy, kính trọng anh ấy lắm, ba ơi.
Đột ngột ngừng lời, Trọng đăm đắm nhìn những ngón tay của ông Cần đang lật từng trang sách, giọng càng u uất:
- Ba ạ, lúc tranh luận với ông Hảo, con không giữ được bình tĩnh. Nhưng, không thể khác được, ba ạ. Con nói từ lòng con. Quan điểm của ông ấy sai và bất cận nhân tình.
- Ba hiểu. Ông ấy khác quan niệm với ba. Nhưng, có điều là... ờ mà hồi trước ông ta cũng chưa đến nỗi thế đâu.
- Ông ấy công tác ở đâu, hở ba?
- Ông ấy không làm việc cố định ở một nơi nào. Tốt nghiệp Cao đẳng mỹ thuật thời Pháp. ở lại thành phố địch tạm chiếm. Vẽ quảng cáo. Lấy vợ nhà giầu. Năm 1954, vợ bỏ đi Nam, nghe đâu vừa rồi lại chạy sang Pháp. Từ đó, ông ấy làm đủ các nghề: vẽ truyền thần, chụp ảnh, tiêm thuốc thuê, chạy hàng... Hồi này thành phố có phong trào đi guốc cao; ông ấy lại đẽo guốc. Mà Trọng ạ, con có vẻ mệt mỏi lắm rồi đấy. Nghe giọng nói của con, ba biết. Con nên nghỉ ngơi ít hôm đi. Ba có hai vé xem phim người ta mời đây, tối nay con đi nhé.
Trọng im lặng, quay ra cửa với những bồn hoa, chậu cảnh của cha và như sực nhớ tới Loan. Lúc ấy, hình như Loan đã về. Bên nhà ông Nhuần có một giọng con gái rất thanh trong.
*
Tan buổi phim thứ hai, thành phố đã vắng lặng dần.
Tiếng guốc dép của người đi xem về chia nhỏ vào các ngõ hẻm rồi tắt hẳn.
Tránh một chiếc xe phun nước. Trọng và Loan nhảy lên một khúc vỉa hè và thong thả rẽ vào một con phố nhỏ.
Không khí phảng phất mùi hoa sấu thơm sâu. Men nắng ngày hè đã dịu. Hàng cây bằng lăng cằn khô suốt mùa lạnh, giờ bung nở những chùm hoa màu tím biếc trên các vòm lá xanh thẫm. Đêm lắng dần và thành phố với một cuộc sống ồn ã, phồn tạp đang tan thành các mảnh nhỏ, biến vào vô tăm tích.
Rũ ra khỏi những ấn tượng nặng nề của một ngày dài dặc, Trọng tươi trẻ hẳn lại. Lại giống như hồi anh mới chuyển về thành phố, được cử xuống các tuyến đê xung yếu, một chiều thứ bảy, cuốc bộ hai chục cây số trở về, tới thành phố đêm đã khuya, hai chân rã rời mà hồn sung sướng lâng lâng: anh đã được hít thở bầu không khí cùng với cô gái mà anh yêu quý. Anh tưởng như đang sống lại những ngày cuối cùng của cuộc đời sinh viên, lúc ấy việc học hành đã xong và mối tình thơ trẻ của anh vừa tròn đầy. Nhớ cái đêm thi xong môn cuối cùng, anh và Loan đi dong phố sau khi cùng các bạn đi ăn bún chả, ăn kem và bơi thuyền suốt cả một buổi chiều. Ôi, những phút giây trong trẻo, vô tư lự, hạnh phúc là một trạng thái cảm hứng trữ tình dâng chan! Bây giờ đây, nhớ lại. Trọng bỗng có cảm giác những ngày ấy đẹp quá, những ngày ấy vừa bình dị, vừa lóng lánh sắc màu huyền ảo và đã xa lắc rồi!
Ngày ấy, Trọng mới vào tuổi thiếu niên và Loan còn là một cô bé nhút nhát, ngoan ngoãn hay đến sâu kim cho bà Trọng và khi ba, mẹ Trọng dọn về đây ở thì cô bé hoàn toàn quấn quýt với gia đình Trọng. Loan, đoá hoa xinh tươi nhất trong đám con gái nhà ông Nhuần xích lô. Mẹ Trọng quý cô bé như con gái.
Trọng quý cô bé như quý một đứa em. Cả cái gia đình toàn người lớn của Trọng săn sóc cô bé và coi đó như một nguồn vui tinh thần, không mảy may vụ lợi của mình. Cô bé cũng chẳng phụ sự quan tâm của mọi người. Cái gia đình xích lô đông đúc lúc nào cũng như quá tải vì những cụm cọ trì chiết nhau về cuộc mưu sinh có đâu thì giờ và hứng thú chăm sóc con cái. Được hưởng sự săn sóc ân cần của gia đình Trọng, càng lớn cô bé càng khéo léo, nết na. Bà giáo dạy cô khâu vá, thêu thùa. Ông giáo viết chì cho cô tô chữ và đã có lúc dạy cô bập bẹ mấy từ tiếng Pháp. Còn Trọng đe nẹt cô bé khi cô bé đi học vỡ lòng về hai bàn tay dính đầy mực tím, những lúc trời đổ mưa cô bé đua theo lũ trẻ trong ngõ chạy ra đường phố tắm mưa và lội nước ở các cống rãnh trong ngõ. Thời gian qua đi. Trọng thực sự chú ý đến cô bé khi cô bé vào tuổi thiếu nhi và phát hiện ra tấm lòng hết sức trong trắng của cô. ấy là một buổi Trọng từ trường học về, anh thấy cô bé ngồi khóc thút thít ở góc nhà. “ Sao thế, Loan?” Anh hốt hoảng bước tới và nhận ra cô bé vừa đọc xong cái đoạn nói về cô bé Cô-dét khốn khổ trong cuốn truyện dài của Vích-to Huy-gô. Anh còn bắt gặp giọt nước mắt của cô bé một lần nữa khi cô bé đọc cuốn Giên E-rơ, một cuốn sách anh chọn cho cô đọc.
“ Loan à, thương xót cho những số phận rủi ro là đúng. Nhưng, tình cảm chưa đủ đâu. Phải có ý chí nữa em à!” Anh khuyên cô bé. Và anh chứng kiến sự nghe lời của cô. Cô bé học hành ở các lớp trên vất vả dần. Cô lên lớp 6, Trọng vào năm thứ nhất đại học và hết sức tự nhiên, Trọng trở thành thầy dạy học của cô. Vượt qua kỳ thi hết cấp 2, trầy trật cô mới vào được lớp 8; cô đã lớn, sức học đuối hẳn, tâm tính đã bắt đầu khang khác. Cô gọi môn vật lý là một mụ già khó tính, địa lý là một anh chàng xấu trai, khập khiễng, văn là một cụ già lẩm cẩm. Và chểnh mảng dần việc học hành. Anh bực với cô, ấn bút vào tay cô, bắt cô phải ngồi học. Cô dỗi, khóc và bỏ đi. Anh đi tìm cô. Cô đứng ngay ở đầu phố. ấy là một đêm thu. Hai người đi cạnh nhau. Chẳng nói một lời. Anh nhận ra cô đã là một thiếu nữ, đúng lúc cô bỗng nhiên kéo tay anh chạy. Anh chạy theo cô. Tới bóng tối vòng tường vi của một di tích cổ ở phố Yết Kiêu, anh níu tay cô, kéo cô đứng lại. Anh gắt khe khẽ: “ Sao thế, Loan?” Cô quay lại. Lúc ấy, trăng một vầng tròn vàng thắm vừa nhô lên khỏi đầu vòm cong của căn gác cổ. Anh thấy mặt cô nhợt nhạt, sợ hãi. “ Loan, sao lại thế?”. “ Em... sợ ông giáo Phúc – Hoà.” Cô thì thào. “ Ông giáo Phúc – Hoà nào?” “ Ông ấy dạy em hồi em học vỡ lòng. Hôm nào em viết sai, ông lấy thước kẻ đánh vào tay em. Em vừa chạy qua ngõ nhà ông ấy.” Anh thở, lồng ngực lạnh rợi. Anh thấy cô run rẩy. Nỗi khiếp đảm những ngày thơ ấu còn ám ảnh cô. Quầng mắt cô xanh thẫm. “Đừng sợ, em”. Anh nói, an ủi cô. Nhưng chính lúc ấy, cô nắm tay anh. Người anh nóng ran lên, chòng chành. Anh chỉ thấy mắt cô vời vợi và tiếng cô rời rạc, nhưng thiết tha vô cùng. Phút giây kỳ diệu ấy dường như ngừng đọng mãi.
Anh đi với cô trong ánh trăng, đi miên man phố này sang phố khác; gặp chỗ vắng người lại nắm tay nhau. Anh thấy cái cặp tóc sáng và đuôi tóc ngắn của cô quệt vào cánh tay anh. Hạnh phúc, anh gặp điều ấy bất ngờ, nhưng thật lắng đọng. Cô bé khơi dậy tình yêu trong trắng của anh, khơi cả nguồn thi hứng dạt dào của anh:
Em nhớ không
Đêm ấy thật giống trong truyện cổ.
Một đêm thu đẹp đẽ thần tiên.
Chúng mình đi vai sát kề bên.
Anh tìm thấy hình ảnh
Chìm nơi em
Trong đáy mắt, không phải giữa vòm trời.
Lấp lánh giữa muôn sao sáng ngời.
Từ hôm ấy cuộc sống của anh là thơ. Cái ngõ nhỏ như lối vào cung điện. Về sau, anh biết cô bé thổ lộ tình yêu với anh một cách hết sức chân thực và khẩn thiết vì bố mẹ cô định bắt cô thôi học, rồi gả cô cho một người ở làng; cô mới mười sáu tuổi. Chuyện ấy không xẩy ra, phần vì bà giáo khuyên can vợ chồng ông Nhuần; phần nữa, cô được tình yêu cổ vũ, vượt qua được những môn học khó khăn của lớp tám. Nhưng vào lớp chín thì cô bỏ học luôn, hay đàn đúm cùng bạn bè, dong chơi nay chùa chiền này, mai đền miếu nọ. Và cuối cùng thì chán nản hoàn toàn. Anh đang bận làm đồ án tốt nghiệp mà vẫn phải giành không ít thời gian để bảo ban giải thích, động viên và dõi theo cô. Cô nghe anh, tuy miễn cưỡng. Ngày tốt nghiệp, anh lên tầu đi nhận công tác ở một tỉnh miền núi, cô ra tiễn anh. Cô bế đứa em út, mặt dụi vào tóc nó, hai con mắt đỏ hoe: “ Anh đi mạnh khoẻ... cố xin về dưới này sớm, anh.” Cô nghẹn ngào. Anh cười gượng gạo. “ ờ, anh sẽ về. Nhưng Loan phải hứa với anh: tiếp tục học lớp chín, không được bói bài tây, xem tử vi và chơi với bọn đã bỏ học.” “ Vâng, em hứa.”
Anh đem tiếng nói rất ngoan của cô đi. Bóng hình cô mỗi lúc một trở nên huyền ảo và những kỷ niệm cũ qua năm tháng càng hấp dẫn anh. Sau cùng thì anh đã trở về thành phố một phần cũng vì tình yêu của anh với cô, một tình yêu đã có chiều dày thời gian. Và bây giờ, lúc này đây, anh đang đi với cô.
Giờ thì hình như họ đi với nhau, nhưng không còn có cái cảm giác sung sướng của buổi đêm mùa thu nọ. Cả hai đều đã lớn khôn và Trọng cảm thấy hình như Loan sớm già dặn hơn anh. Cô cao lên. Vẻ đẹp thiếu nữ đã ổn định, rất dễ nhớ. Mái tóc dài mượt, rẽ ngôi giữa, thả xuống đôi vai, ôm một gương mặt đẹp bí ẩn như mặt Đức mẹ. Cái áo vạt quả bầu, in hoa cúc to căng ních gò ngực cao và cái quần bò may rất khít, lộ rõ vẻ đẹp khoẻ mạnh, đầy nữ tính, một vẻ đẹp ham muốn hướng tới được bộc lộ.
Sau những năm tháng xa nhau, cả hai đều đã khác xưa.
*
Em nhớ không
Đêm ấy thật giống trong truyện cổ.
Một đêm thu đẹp đẽ thần tiên
Chúng mình đi vai sát kề bên...
Tựu trung, trong sâu thẳm của muôn vàn sự kiện đã lướt qua, với cuộc sống bị trà sát và tưởng như đã cằn cỗi vì thời gian, vẫn thầm thì những xúc động chân thành của cái buổi đầu tiên ấy. Trọng vẫn nhớ những câu thơ anh đã làm, dựa theo một bài thơ Nga, tặng Loan.
Họ đi chậm. Tới đầu một đường phố ngắn, anh bỗng níu tay cô, đứng lại.
- Gì thế, anh? – Cô quay lại nhìn anh, mắt lành lạnh.
- Loan có nhớ cái phố này không?
- Nhớ cái gì nhỉ?
Anh cười, khe khẽ:
- Hôm ấy, Loan kéo tay anh chạy... Bây giờ, em còn sợ ông giáo Phúc - Hoà không?
Cô rút tay ra khỏi tay anh, cười một tiếng cụt lủn:
- Anh nhớ dai ghê nhỉ! Lão ấy chết ngoẻo rồi. Chết vì ô tô chẹt. Đáng kiếp! ác lắm vào!
Buông sõng tay, Trọng đứng lại, người rơn rởn, sững sờ nhìn cô. Cái giọng chua ngoa và bạc ác ấy là của ai vậy? Anh nhớ lại: hình như đi với cô, từ lúc bước vào rạp xem phim, anh đã thấy gờn gợn lên cái cảm giác khó chịu. Lúc đó, anh tự bảo mình, đừng ghen bóng, vì quả là anh có cảm giác bực bội thật khi thấy cô quen thuộc quá nhiều và rất nhiều gã trai toàn loại đầu bù tóc rối, ăn mặc đủ kiểu lố lăng, đùa giỡn ỡm ờ và trêu ghẹo cô rất thô bỉ.
“ Có nên trở lại cái bóng hàng tường vi và mái gác cổ?” Anh nghĩ, và thấy người bỗng dưng như rã ra, mỏi mệt đến từng khớp xương.
- Ta về thôi, Loan.
Hai người bước xuống đường. Nhưng ngay lúc ấy một tiếng còi xe máy bất thình lình và rõ ràng là cố ý thét lên thật to, ở ngay sát họ:
- Pe!
Loan giật bắn mình, quay người, nhảy phắt lên hè. Luống cuống Trọng lỡ đà tụt chân xuống lòng rãnh. Sượt qua trước mặt Trọng như một vệt gió là một chiếc Hon-đa đỏ. Anh loạng choạng. Và khi chiếc xe máy mới chỉ cách anh mươi bước chân, bước lên mặt đường, Trọng đã thấy Loan đứng ở trước anh, đang như định đuổi theo chiếc xe và rít lên the thé:
- Tiên sư bố chúng mày nhé, hai thằng khốn nạn!
Hai gã con trai ngồi trên chiếc xe máy quay lại, một gã giơ tay đặt lên môi và ném cái hôn về phía sau, cười khặc khặc.
Trọng kêu, choáng váng:
- Loan! Đừng nói thế, Loan!
- Tiên sư bố nhà nó chứ. Xuýt nữa đứt mất đôi guốc của người ta.
- Loan!
Không để ý đến tiếng kêu tắc nghẹn của Trọng, Loan nhấc chiếc guốc lên xem, rồi vứt bịch xuống đường, phủi tay, cau có:
- Hôm nay tiểu hạn hay sao mà đen thế!
- Tiểu hạn là thế nào, Loan?
- Còn tiểu hạn nào nữa. Cái lão thầy tử vi nó nói thế. Đúng là con bích đen sì vào buổi tối.
Mặt Loan cong cớn và nặng chịch. Trọng đờ đẫn như vô hồn.
- Anh thì cứ như ở trên mây, trên gió ấy.
- Anh không muốn Loan nói những lời như lúc nãy.
- Hừ, đến là khó chịu. Chiều về thì ông bô, bà bô ca liên tịch. Tẩm không chịu được. Họp, thì con mụ sếp cửa hàng giở trò hâm ra. Cái thằng Lùng trời đánh lại mổ mất cái ví mới cứng.
Trọng gằm mặt xuống mặt đường. Họ đi bên nhau, qua những góc phố vắng: ở những bóng tối, gốc cây và bờ tường có những cặp tình nhân ngồi tình tự và ôm ấp vuốt ve nhau. Đêm rì rầm lâng lâng men tình say. Họ cũng là một cặp trai gái đã yêu nhau. Nhưng, cả hai hình như đã già cả rồi. Cảm hứng đã tan biến, đôi chân Trọng nặng như đeo đá.
- Ơ kìa, khốn nạn đến thế là cùng!
Cùng với tiếng kêu của Loan, bầu trời đêm bỗng nhiên lúc ấy như vừa vỡ ra thành ngàn mảnh. Mặt đường ran lên tiếng hạt mưa đập tới tấp. Mưa to thật rồi. Hai người vội chạy lên một hàng hiên. Đó là mái hiên của một khách sạn lớn. Người trú mưa cùng xe đạp, xe máy lủng củng, lộn xộn một đống đen ngòm. Họ luồn lách và tìm được một góc vắng.
Mưa theo gió hắt vào hiên. Nép vào cạnh Trọng, Loan vòng cánh tay ôm một bên tay anh. Giây lát, Trọng ngây ngây vì một hơi ấm lan toả mỗi lúc một nồng nàn. Qua làn chớp sáng, anh nhìn thấy hàng mi Loan cong nhướng lên, và một hạt mưa đậu ở đuôi con mắt cô. Cặp mắt ấy in hệt cặp mắt Loan lúc khóc thương Cô-dét và Giên E-rơ. Bỗng nhiên những bức bối như được cơn mưa giải toả, lòng anh lại từ từ dâng lên một nỗi vui ngọt ngào. Vẫn là Loan những ngày đã xa. Loan vẫn trong trẻo, vẫn tươi đẹp. Bụi bậm vô tình bám vào Loan rồi sẽ lặng lẽ buột ra, bay đi. Anh vẫn yêu Loan và tình yêu của anh giờ đây lại mạnh mẽ hơn vì nó mang thêm ý nghĩa là chất đề kháng cho cô, giữ gìn cho cô.
Nhưng, đáng lẽ phải nói điều gì đó êm ái, vui vẻ, thì Trọng lại gần như buột miệng:
- Loan à, em bảo bố đừng mắng chửi, đánh đập thằng Lùng nữa.
- Sao, anh bảo sao?
Trọng chưng hửng. Những sợi mi mắt của Loan cứng như mi giả động đậy, động đậy. Chúng như gai nhọn, giương lên. Anh lúng túng:
- A, sáng nay, lúc ấy, anh nói chuyện với ông Hảo...
- Ông ấy hâm tỉ độ. - Ừ! – Trọng thoát một hơi thở. Anh tưởng như vừa tìm thấy điểm tương đồng với Loan. Nhưng, cô đã quay phắt lại:
- Nhưng, ông ấy còn hơn ba anh nhiều. Ông ấy làm được ối tiền. Vẽ truyền thần, mỗi bức phải ba chục. Ông ấy vẽ tranh Thánh vớ mới bẫm. Ông ấy còn lắm nghề bí mật hái ra tiền. Riêng đẽo guốc, mỗi tháng phải tiền nghìn. Hôm qua, ông ấy hỏi em: Cô Loan có cần tiền không, tôi cho vay, không lấy lãi. Ba anh ... tưởng thế nào, hoá ra về hưu, ngồi nhà chơi hoa. Đụt quá!
Trọng thấy hẫng một nhịp tim cùng lúc anh nhận ra một dòng nước từ mái hiên vừa dòng dòng rót xuống vai mình. Nhìn lên, anh thấy dòng nước lóng lánh sáng và bên trái anh vừa loé sáng một ánh đèn xe.
- A, thơm thịt nhỉ!
- Ăn nói cho nghiêm nhé.
- Chua không kìa!
- Hay là muốn ăn mấy cái sa-pô!
Trọng quay lại. Loan đang xỉa xói hai gã con trai vừa đẩy xe máy tới. Đèn xe loá vàng. Trông lờ mờ như chiếc Hon - đa đỏ lúc nãy. Gã cao lớn, có hàng ria con kiến, cầm tay lái, cúi xuống tắt công tắc đèn, ngẩng lên nhìn Loan rồi cười, gật gật:
- Khá lắm! Năm điểm! Có bằng lòng đi chơi với anh không?
- Đồ du côn!
- Gì mà nặng lời thế, em xinh đẹp?
- Thôi, hê đi cho nhẹ đũng.
- Gì mà kiêu thế. Anh là khách hàng thường xuyên của em đây mà.
- Đồ đểu! Đồ mất dậy!
Gã nọ cười nhệch, nháy mắt:
- Ăn nói nghiêm chỉnh đấy. Em bán hàng ở Cửa hàng bách hoá số 15. Anh thường xuyên đến đó mua hàng. Không đúng à?
Bấm tay Loan, Trọng run cả người. Nhưng anh bất lực, không sao cản ngăn được cô nữa. Hai gã trai bỏ xe máy, xán đến cạnh cô. Họ xin lỗi nhau rồi thoáng cái đã hoà hợp với nhau, và tiếp đó ran ran hàng hiên đẫm ướt những tiếng cười khoái trá đồng cảm, những câu nói chủng chẳng ỡm ờ, vừa kiểu cách rởm vừa thô lậu, kèm thêm những tiếng lóng và những tiếng đệm tục tĩu.
Mưa ngớt.
Trọng và Loan bước xuống đường về nhà. Giờ mới thật là sự im lặng của Trọng. Tới đầu phố cả hai dừng lại vì đường phố ứ nước mưa. Loay hoay một lúc họ mới tìm được vệt hè chưa ngập. Tới đầu phố, Trọng muốn nói một câu, cả buổi xem phim và đi chơi phố, anh chưa nói được những điều dự định với cô, giữa anh và cô là một khoảng cách quá rộng; giờ, anh chỉ muốn cho cô biết: anh lại sắp ra đi; anh cần phải xuống khúc đê xung yếu ở Nguyên Lộc để tiếp tục công việc.
Nhưng, anh không kịp nói. Một tiếng sét đã nổ váng trên vòm trời đen sầm của thành phố: mùa mưa lũ với bao gian nan, vất vả, âu lo mà anh dự cảm thấy đã bóp nghẹt tim anh.
Vào những ngày này, thời điểm sáng tươi, đẹp đẽ nhất của ông giáo Cần là buổi sớm mai, lúc ông trở dậy. Ông vẫn giữ thói quen dậy sớm. Lúc ấy rạng đông một ngày mùa hè vừa hé. Mở mắt, qua cái cửa sổ hẹp trổ ở vách tường cao, ông nhìn thấy một vòm trời tím biếc và giống như ân huệ của trời đất, một cành phượng xanh mướt la đà đỏ rực chùm hoa ở nơi đầu cành chấm vào khung cửa sổ như chào đón ông. Ngù hoa phượng làm ông nhớ tới câu thơ của Rông-xa (1) “ Comme on voit, sur la branche au mois de Mai, la rose”, và câu thơ Việt do bạn ông dịch: “ Tháng năm, đầu cành hoa nở!” Câu thơ nguyên bản và câu thơ dịch đẹp cả tình; ý; lời và là một bức hoạ. Câu thơ dài như một nhành cây xanh. ở đầu mút của nó, một cụm nhỏ ngôn từ nở hoa. Câu thơ đưa ông về những năm tháng còn ở trường Đại học và làm cho buổi bình minh tươi lành chứa chan bao xúc động. Ông trở dậy, tưới hoa, thắp hương trên bàn thờ người vợ đã quá cố. Công việc thật trầm tĩnh và hài hoà.
Thực ra thì cái ngõ có bị náo động lúc hai, ba giờ sáng. Vợ chồng ông Nhuần xích lô dậy sớm lắm. Ông phải đưa bà ra bến xe chạy lên các huyện miền núi: bà đi buôn. Họ dậy, sửa soạn hàng họ, gắt gỏng, chửi rủa nhau í om. Nhưng cũng may, sự hỗn loạn của cái gia đình đông đúc nhất ngõ này cũng chỉ kéo dài chừng nửa tiếng; đêm lại khép kín và êm đềm ngay sau đó.
Ông giáo Cần cầm cái xô tôn hoa ra giếng. Xách xô nước đầy qua sân, ông giáo chợt nhận ra thằng Lùng, con trai ông bà Nhuần, cả đêm bị xích chân vào chiếc xích lô hỏng ở góc sân, đang chơi với những con cá cảnh nuôi trong cái vỏ ắc- quy.. Những con cá thần tiên, những con cá kiếm, cá chọi, cá mã giáp, cá héc- mô- ni màu sắc rất lạ, ăn giun tơ thuỷ trần buổi sáng đang hứng khởi phùng mang trợn mắt, vè, xuỳ, chọi nhau, gây xao động, sóng gió ngay trong cái khối nước con con.
- Bác ơi, bác cho cháu ít nước, cháu thay cho cá. Bố cháu cấm cháu không được đi ra khỏi đây.
Thằng bé ngước lên, nói, rồi vừa thấy ông Cần đặt xô nước xuống đất, nó đã nghiêng cái vỏ ắc quy, đổ nước cũ, gạn cá.
- Cháu à...
Ông giáo Cần đổ nửa xô nước vào cái vỏ ắc-quy cho thằng bé, lập bập định nói cái gì đó mà không diễn đạt được. Tội nghiệp nó quá, trông nó thơ dại và trong sáng thế kia!
“ Mình thì chơi hoa, nó thì chơi cá. Khác nhau ở chỗ...” Lặng lẽ xách xô nước về tới nhà. Ông giáo nghĩ, ngậm ngùi, thoáng chút liên tưởng, và cúi xuống. Quanh gốc cây giao, những hoa, những cây, những lá đang ngóng đợi ông. Cây mai chiếu thuỷ hai mươi tám tuổi. Cây mai vàng mười sáu năm. Trà mi lá đỏ chuyển thành hoa. Tùng La Hán thế nghinh phong. Cây sanh dáng phượng vũ. Cây vọng cách hình phụ tử. Và hoa, bản hợp tấu dịu dàng của hồng, ngâu, nhài, cúc, quỳnh. Thảy đều là tặng vật của các bạn xa gần, từ Hà Nội, Huế, Sài Gòn đến Đà Lạt, Sa Pa gửi cho ông, ngày ông về hưu trí. Người chọn cây, chọn hoa, nuôi cây, nuôi hoa. Còn hoa, cây tự giãi bầy. Ôi, cái thế giới hoan hỉ mà thầm lặng. Đứng ở đây, hồn như thoát khỏi cái biển huyên náo của bao nhiêu phiền luỵ, phồn tạp, bỏ qua tất cả những phàm tục, tầm thường nhỏ mọn và trở nên cao khiết, trang nhã lên rất nhiều.
Tưới xong cây và hoa, ông giáo Cần trở lại căn buồng. Bình minh một ngày mới tỏ mờ trên bàn thờ. Ông kéo ghế, đứng lên thắp tuần hương đầu rồi khẽ khàng bước xuống, rón rén đi lại bàn trà, không muốn làm Trọng đang ngủ trên sàn đất giật mình thức giấc.
Bấy giờ ông giáo mới pha trà và lặng lẽ ngước lên nhìn ảnh người vợ trên cái bàn thờ ấm khói hương. Bà âu yếm nhìn lại ông. Hương và hoa toả luyến nhớ sâu sa, tạo niềm giao cảm và âm hưởng của quá khứ vọng về ngân nga qua hồi tưởng xa gần. Đau đớn quá. Quả bom giặc rơi trúng căn nhà. Bà đang hồn hậu tươi vui trong khung cảnh gia đình trinh thuần bỗng hoá người thiên cổ. Ông tê điếng, dại đờ cả người, cho đến bây giờ. Và cùng với những trớ trêu trên đường đời công tác, ông dần dần tuột ra khỏi hiện tại, trôi giạt về quá khứ xa xôi.
Chao ôi, quá khứ là châu ngọc. Thuở ấy, tài năng cùng thiên hướng hoà hợp. Ông, hai mươi ba tuổi, từ Pháp về, hoạt động trong giáo giới, bà, tròn hai mươi, học hết trung học, ở nhà lo việc nữ công gia chánh. Ôi! Những ngày ấy! Sau hôn lễ, ông dắt nàng đi dạo phố! Mắt nàng loá sáng. ở thành phố từ nhỏ mà nàng chưa hề đặt chân lên những phố xá đông vui, đến những di tích lịch sử, những thắng cảnh nổi danh. Ông nhủ thầm: từ nay, ngày tết, phải dẫn nàng đi dạo. Hơn ba mươi năm rồi, có tết nào họ không thực hiện điều ước định ấy, kể cả những năm thành phố bị địch tạm chiếm, ông được phân công ở lại hoạt động bí mật trong hàng ngũ trí thức. Hơn ba mươi cái tết, ông một cành đào nam, bà một cành đào phai: lúc trẻ cái khoác tay, là sự đồng hành gắn bó, khi đã có tuổi là sự tựa nâng dắt dìu lẫn nhau. Đám sinh viên đi chơi phố, gặp họ, đứng lại cúi đầu chào và hớn hở: “ Trông thầy và cô trẻ như tuổi hai mươi.” Hơn ba mươi năm thuận hoà, không một lời nặng, nhẹ. Bà đi chợ về, dẫu đang say Muýt-xê hay Ban-dắc, ông cũng rời trang sách, đón bà với ánh cười trên khoé môi đôi mắt. Ba mươi năm hơn, ông cắt móng tay cho bà và chỉ riêng bà giành cái quyền giặt là, sửa soạn quần áo cho ông. Và Trọng thật sự là đoá hoa hạnh phúc của ông bà trong những ngày sung sướng ấy.
Ông giáo Cần thiết tha với quá khứ, không bận tới tương lai và châng lâng trong hiện tại đầy khó khăn dễ nản lòng. Có lẽ ông còn sống được, theo ý nghĩa tinh thần của từ này, là bởi vì có Trọng. Trọng là sợi dây nối liền ông với hiện tại. Trọng là hiện tại.
*
Trọng đã dậy. Đêm qua, Trọng đi xem phim về khuya, hai cha con lại thức đến hai giờ sáng. Trọng đọc sách và lại phản đối việc ông về hưu sớm, mong ông nghĩ lại, tiếp tục đi làm. Ông lắc đầu, không nghe. Thu dọn chăn chiếu xong, Trọng xin phép ông vào bệnh viện thăm Nam. Trọng vừa đi thì ngoài cửa có tiếng ông Hảo.
- Bác Hảo, bác vào chơi - Ông Cần niềm nở – Trà pha rồi, nhưng còn chưa có bạn tri kỷ.
Ông hoạ sĩ bước vào nhà, giơ một cái chai bẩy lăm nước trong veo lên ngang mặt, lắc lắc:
- Tôi muốn bác thưởng thức cái này cơ.
- Rượu à? Cho tôi xin kiếu.
- Không được. Thế nào gọi là tửu sớm, trà trưa.
Ông hoạ sĩ cười, ngồi xuống, đặt chai rượu đánh cạch lên mặt bàn.
- Quốc lủi! Chính tôi đặt đấy! đưa cho nó mười cân nếp, hẹn chỉ lấy có ba lít, dặn đi dặn lại: tao không tham nhiều, cần nhất chân thực, còn bao nhiêu cho mày cả. Thế mà nó vẫn lừa dối mình. Bác xem. Rượu nếp cái nước đầu mà trong suốt thế này là hỏng. Chính hiệu là nó phải đục lờ lờ, tức là có cái tinh chất của cám, thế mới bổ.
Ông giáo cười hờ hờ. Về mặt này, ông không thạo. Ông hoạ sĩ rót, đưa ông một chén, nể quá ông mới nhấp một hụm. Và mặt ông đỏ cháy ngay lên:
- Nặng quá! Nặng quá! Cháy cả cổ!
Ông hoạ sĩ sành ẩm thực cười:
- Nó pha cồn đấy. Có tí gì gọi là mùi thơm của nếp đâu. Hừ, Tôn Ngộ Không nhẩy cao đến đâu cũng không ra khỏi tay Phật Thích ca, không ra khỏi luật càn khôn. Cái đứa nó đã dối trá là dối trá từ trong máu, không bao giờ trở thành thật thà được là thế. Nào, mời bác. Tôi là tôi cóc có tin vào dân tộc mình.
Câu nói chối như hớp rượu cồn. Ông giáo mím môi, lắc lắc đầu, mặt nóng rực khó chịu.
Làm một hơi cạn chén rượu, ông hoạ sĩ rót thêm chén nữa, mắt như bốc lửa:
- Bác Cần ạ, tôi nghĩ, cái chủ nghĩa xã hội của ta kể cũng hay. Hay nhất là nó dẻ ra vô số nghề ngỗng mới. Tối qua, có một anh nhà thơ lông gà lông vịt thất nghiệp đến rủ tôi đi làm xú-va-giăng cho một lớp bổ túc văn hoá ban đêm. Năm đồng một tối. Đứng gác ở cổng trường, không cho lũ lưu manh lêu lổng nó đến quấy nhiễu bọn nữ sinh. Thế thôi.
- Bác uống thử chén trà tôi mới pha - Ông Cần rót nước, thật sự muốn cắt đứt câu chuyện đầy cay độc của ông hoạ sĩ. Và đưa mắt nhìn tờ lịch trên tường, ông đã tìm được cơ hội - à! Hôm nay mồng năm rồi, có lẽ tôi phải đi lĩnh lương hưu trí.
- Bác lĩnh ở phố nào?
- Quầy Tiết kiệm phố Nguyễn Thái Học.
Ông hoạ sĩ tợp một hớp rượu nữa, càng như nổi cơn hào hứng:
- Thế thì, tôi xin giới thiệu một lần nữa với bác, nhưng lần này bác phải đến đấy nhé. Ngõ số 16, số nhà 302. Ông thầy tử vi của tôi đấy. Bác không tin thì tuỳ. Nhưng cứ thử nghiệm xem. Hôm qua, tôi đến chơi, ông ấy lại tiếp tục khuyên tôi: phải bể tinh, dưỡng khí, tồn thần, quả dục, thư chân, luyện hình, nếu được như thế, gì cũng đạt tới. Nhưng quan trọng hơn, ông ta xem lá số năm nay của tôi mà tôi... toát cả mồ hôi.
Ông hoạ sĩ không kìm được nữa, hơi men làm ông bốc. Ông oang oang về cái linh diệu, cái tế vi của khoa học tử vi mà ông gọi là khoa nhân học, một khoa học bị thất truyền. Ông cười rổn rảng. Sao hôm nay ông phởn thế! Tựa như ông mới được một nhân tố ngoại lai nào đó kích thích. Con người ông thật bất định. Mới năm ngoái ông tự nguyện thành tín đồ của Thiên Chúa Giáo, giờ ông lại ngả theo thầy Quỷ Cốc, Trần Đoàn.
- Hà hà...- Giọng đã chếnh choáng, ông hoạ sĩ còn nghiêng ngả ngó mặt ông giáo. Tôi xem bác tướng mạo, khí sắc còn vượng, nghĩa là bác còn phát về hậu vận đấy, bác Cần ạ, bác đừng có bi quan.
- Tôi ấy à - Ông Cần ngả người, cười nhạt – Sắp đến lúcxú tờ-roa pút đờ te-rơ (1) rồi còn gì! Mà anh Hảo à, anh là hoạ sĩ, xin anh đừng đi quá cái mũi giầy của anh (2)
- Ha ha...- Ông hoạ sĩ bật cười – Tôi cho rằng quả là có một cái gì đó nó ở bên ngoài, nó đứng trên tất cả các quy luật: fait ce que doit advienne ce que pourra, đó. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Nó là thế đấy, chứ còn gì. Bước sang năm nay, tự dưng tôi có linh cảm lạ lắm, anh Cần ạ. ở giữa cái thời buổi đói kém, khốn khổ này, vậy mà vẫn có lối thoát. Anh Cần, số anh còn vượng, tôi tin là như thế!
- Vượng thế nào nữa! Tôi không mong đợi gì cả!
- Là thế nào cũng có lúc anh nện gót trên đường phố Pa-ri - Ông hoạ sĩ chồm dậy, nhưng liền ngậm miệng. Hình như ông quá vui, buột mồm nói một câu đùa tếu, nên lập tức mặt ông nghiêm lại. à, anh Cần nhỉ, cái hồi anh du học ở bên đó, anh thấy Pa-ri thế nào? Tôi nghe người ta so sánh thế này. Pa-ri là thủ đô, còn thủ đô các nước khác chỉ đáng là thị trấn huyện lỵ.
- Tất nhiên, từ lâu Pa-ri đã nổi tiếng là thủ đô ánh sáng rồi. Hơn nữa, xét về mặt hàng hoá, theo quan điểm của xã hội tiêu thụ...
- Ồ, xã hội tiêu thụ cũng có cái hay của nó chứ. ở cửa hàng con bé Loan ấy mà, có một tay cán bộ nó vừa tút đi Pa-ri. Không hiểu nó chuồn bằng đường nào. Nó viết thư về. Con Loan kể chuyện cho tôi nghe. Chà, Pa-ri thừa mứa chứa chan, sa hoa hết mức. Nghĩa là không thể tưởng tượng được.
Ông Cần quay đi, dường như để tránh cái nhìn đầy vẻ thèm muốn của cặp mắt đẫm hơi rượu của ông Hảo
- Tôi lại nghe chính người châu Âu nói: Pa-ri là cái hố rác châu Âu. Nghĩa là cũng rất ba vạ, thượng vàng hạ cám. Đấy, tuỳ theo quan điểm mỗi người, anh ạ.
- Hà, giá hồi học mỹ thuật, tôi nghiêm chỉnh một tí thì cũng không đến nỗi. Không để ý đến câu nói của ông Cần, ông hoạ sĩ cúi đầu, cái cằm tì trên ngực day day – Hồi ấy, tính tôi như tính anh bây giờ, anh Cần ạ. Giờ tôi mới hiểu: phải dĩ nhu thắng cương, như Kinh Dịch nói. Cao hổ tốt, nhưng cũng phải dùng rượu dể dẫn cơ mà. Hè hè... anh có công nhận không? Mà tôi thấy cháu Trọng nó cũng y hệt anh. Nói anh tha lỗi. Trực tính, nông nổi quá. Cháu nó đã ba mươi chưa?
- Hăm tám.
- Hừ, tam thập nhi lập. Ba mươi tuổi, Thích Ca Mầu Ni ngồi dưới gốc cây bồ đề đắc đạo. Giê-su bắt đầu thuyết giảng đạo năm đó. Các Mác vào tuổi ấy thảo Tuyên ngôn Cộng sản.
- Tuổi trẻ bây giờ có thể là chín sớm hơn.
- Tôi cho là họ dễ bị mắc lừa, anh Cần ạ. Họ không hiểu cái gì cũng phải có thời! Anh chơi hoa, anh biết chứ: hoa quỳnh chỉ nở về đêm thôi, đâu có thể muốn nở lúc nào thì nở? Nhưng mà thôi, thế giới đã phân chia thành trẻ con và người lớn, làm sao mà trẻ con lại không mắc lại sai lầm của người lớn được?
“ Hừ cái con người này bắt đầu dở chứng gì mà quái gở vậy! ở các cuộc họp tổ dân phố, ở những nơi công cộng xưa nay vẫn ăn nói dè dặt, sao hôm nay lại buông thả tuỳ tiện thế? Chẳng lẽ ở bàn trà thì được phép nói vậy? Hay ông ta nghĩ: với chỗ quen thân thì tha hồ cẩu thả: Trọng còn đâu là trẻ con. Mà người lớn như mình thì có gì gọi là mắc lừa nào! Hồ đồ quá.” Ông Cần nghĩ, mặt sậm đỏ, nhưng không nói, và chống tay đứng dậy. Đó là cử chỉ thiếu tế nhị, ít thấy ở ông. Nhưng làm sao ông lại có thể ngồi thêm một phút nữa để nghe ông hoạ sĩ láng giềng ba hoa, lảm nhảm một mớ văn hoá hẩu lốn, tạp nham, không chằng, không rễ như thế được?
Ông hoạ sĩ hình như biết ý, nhấc chai rượu, cặp vào nách đứng dậy, mặt tỉnh không:
- Bác phải đi lĩnh lương hưu hôm nay nhỉ. Thế thì bác đi đi. à, thế nào bác cũng rẽ vào kiểm chứng ông thầy tử vi của tôi nhé.
*
Nơi lĩnh lương hưu là quầy tiết kiệm phố Nguyễn Thái Học, cái phố dài, vắng bóng cây.
Khi ông Cần đến, đã có tới bốn chục ông già bà già xếp hàng chờ đợi và người phát tiền vẫn chưa làm việc, mặc dầu quầy đã mở cửa. Dòng người rồng rắn trên vỉa hè xi măng. Nắng đã lên. Cạnh cái cửa quầy chật hẹp, ác hại quá, lại là một cửa hàng làm đồ sắt và lúc này họ đang đập búa gò một mảnh tôn lớn. Cái hè phố đã bỏng rát lại thêm đinh tai, nhức óc.
Lát sau, dòng người xếp hàng lại bị xô đẩy vì có một chiếc xe bánh mì đến bán. Cô bán bánh đẩy cái xe tới rãnh hè, ngẩng lên, chõ vào dòng người xếp hàng, nhỏng nhớt: “ Ai nhấc hộ tôi cái xe lên hè, chốc lữa tôi bán yêu tiên cho.” Có bốn ông già từ hàng người chạy ra, giúp cô bán bánh. Vất vả lắm họ mới đưa được chiếc xe nặng lên vỉa hè. Và lập tức chiếc xe bị ngay một đám người từ đâu ùa đến bao vây.
- Cho chục cái đây, chị cả ơi.
- Chị Hai! Tiền lẻ hơn thẻ thương binh đây.
- Yêu cầu xếp hàng! Xếp hàng!
- Ôi giời ơi, thẻ đỏ đây mà!
- Đề nghị không bán cho con phe!
Ồn ào, ầm ĩ, hỗn loạn. Mảnh hè chói chang bụi mù. Bốn ông già bị bật ra. Bây giờ, ở quầy phát tiền mới có một cô bé trắng ngần, đầu mới làm kiểu u si, đủng đỉnh đi tới. Cô vứt đánh cạch chùm chìa khoá lên mặt quầy, mở quyển sổ cái, môi bĩu bĩu, phát một tiếng chỏng lỏn:
- Lê Văn Việt!
- Ông Việt đâu?
- Ới ông Việt ơi!
Mấy người đứng ở gần quầy quay lại nhao nhao gọi. Người tên Việt chính là một trong số bốn ông sốt sắng giúp đỡ cô bán bánh, đang bị kẹt trong vòng vây. Phải một lúc sau ông này mới thoát ra được và khấp khởi chạy đến trước quầy. Lập tức ông nhận luôn được một cái nguýt sắc như dao cau của cô bé nọ, kèm thêm một câu cảnh cáo: “ Bận sau còn thế tôi không phát nữa đâu đấy.”
Ông Cần đứng ở giữa hàng người, nghe câu nói đó, cúi gằm mặt xuống. Nhưng mà hình như không có gì xẩy ra. Chẳng có ai lên tiếng phản đối hoặc than vãn. Ông tên Việt thanh minh về sự chậm chạp của mình và nhận tiền. Chẳng có điều gì xẩy ra cả. Cô bé nhân viên nọ lại cất giọng lanh lảnh:
- Trần Hoàng Lệ đâu?
- Có tôi đây!
- Ai là Vương Đinh Trưng? Trưng hay Trủng thế này? Vương Đình Trưng đâu?
- Tôi đây. tên tôi là Trưng.
- Tên gì mà quái quỷ thế!
Hàng người nhẫn nại nhích dần lên. Ông Cần vẫn gầm mặt và nước mắt muốn ứa ra. Nhưng, ông chợt ngửng lên. Có tiếng còi xe công an. Tiếng chân bọn con phe đang bu quanh chiếc xe bánh mì tản ra nhộn nhạo. Cái xe bánh được đẩy đi về phía cuối phố.
- Cứ phải chuyên chính mạnh vào các đồng chí ạ.
Ông Cần nhận ra người vừa nói câu ấy là ông Việt. Ông Việt, nhà nghiên cứu triết học, bạn ông, cũng vừa nhận ra ông.
- Tôi xin có ý kiến đóng góp này.
Phía quầy lĩnh tiền có tiếng người gắt gỏng.
- Thôi thôi... ông Trưng ơi, lĩnh được rồi thì về đi.
- Không thể thế được – Người tên Trưng nghển cổ, nói như gào – Ai cũng im thì xã hội loạn à? Tôi đề nghị gặp đồng chí phụ trách. Cô này rất tệ. Nhiều lần rồi. Đến thì chậm giờ, nói năng thì hỗn xược. Chúng tôi đi ăn xin của cô đấy, hả?
- Anh vẫn mạnh chứ, anh Cần?
Nhà triết học nhìn ông giáo. Quay ra đường phố, cả hai đều không muốn nhìn thấy cảnh tượng đang diễn ra ở nơi phát tiền.
- Tôi cũng bình thường - Ông Cần đáp.
Nhà triết học cười, cái cười độ lượng:
- Xây dựng nền văn hoá mới khó thật đấy, anh Cần nhỉ. Cô bé thiếu văn minh, thiếu triết học. Nó không hiểu nó là cá thể, là cái riêng, nhưng mang cái chung trong mình. Mà thiếu cả thể chế quy tắc. A, anh có rỗi không? Đến nhà tôi nhé. Tôi mới viết xong hai bài nghiên cứu rất thích. Anh đến nhé!
Ông Cần gật đầu. Ông thấy mình vừa từ hố sâu tủi hổ bước lên mặt đất bằng phẳng ổn định.
*
Chiều thành phố tắt nắng, ông giáo Cần mới lên đường trở về nhà. Ông ngơ ngác như một kẻ đi lạc. Những gì đã xẩy ra trong khoảng thời gian gần một ngày qua? Ông đã đi những đâu, gặp gỡ những ai và cuối cùng đến đâu?
Ông không thật nhớ! Nhưng, những ngày sống gọi là yên tĩnh của ông vậy là không còn nữa rồi.
Thật tình là trưa, chiều ấy ông Cần đã đến chơi nhà các bạn bè thân quen. Họ gặp ông lúc lĩnh lương và mời ông. Suốt đời ông, ông chẳng thù oán ai. Ông là chỗ thân thiết, tin cậy của nhiều đồng nghiệp, đồng liêu.
Thoạt tiên, ông giáo đến nhà ông Việt, nguyên chuyên viên nghiên cứu triết học. Ông Việt to béo phục phịch, chăm tập thể dục và uống bia, leo lên gác năm thoăn thoắt. Bà vợ ông, trái lại, gầy còm, răng đen, suốt ngày ngồi ở trong nhà đan thuê cho mậu dịch. Tiêu chuẩn được ở rộng, nhưng ông bà không có con cái nên tự nguyện chỉ ở có nửa căn hộ mười bốn mét vuông. Họ sống thanh đạm. Nhà toàn sách là sách. Chắt lọc trí tuệ của bao người và của mình, mấy chục cuốn sách của ông và bây giờ, hai tác phẩm nữa ra đời. Bài nghiên cứu “ Tâm lý tiểu thị dân” của ông đọc cho ông Cần nghe, được ông Cần hết sức tán thưởng. Quả là tâm lý ấy đang là cái cản trở trong việc xây dựng con người mới. Ông giáo còn chăm chú nghe bài tiểu luận thứ hai của ông Việt có cái nhan đề rất khoẻ: “ Bản chất phản động của chủ nghĩa Mao.” Đúng là một bài viết phong phú, công phu, sâu sắc đến cảm động. Triết gia coi nhẹ hoàn toàn cảnh eo hẹp của đời sống vật chất, ngày ngày vẫn say mê leo lên đỉnh cao của triết học chiến đấu.
Ông giáo Cần cũng đã đến thăm một nhà thơ nổi tiếng một thời. Đưa ông lên gác, nhà thơ đã phải đỡ tay ông sợ ông ngã. Căn nhà bị hoả hoạn đã hơn một năm mà cái cầu thang vẫn chưa được Sở nhà đất chữa xong. “ấy, tôi đã đến gặp ông giám đốc đến ba, bốn bận. Cuối cùng một tốp thợ đến. Tốp này làm được một buổi thì kêu hết nguyên liệu. Tôi nài nỉ – nhà thơ cười – Tốp trưởng điềm nhiên đáp: Vậy, mỗi buổi một bao Du lịch đầu lọc và một chầu bia. Không kể bia, riêng bao thuốc giá ngoài là hai chục đồng. Hết một phần năm tháng lương. Thôi thì giời không chịu đất, đất phải chịu giời, chứ biết làm sao nữa, bác. Nhưng, họ chỉ làm được có hai buổi, rồi bỏ cho đến bây giờ... Có lẽ họ muốn cho nhà thơ tập bay bổng khi lên gác.” Nhà thơ cười, cái cười hài hước, không ác ý và vẻ như phóng tâm coi nhẹ việc đời. Nhưng thật ra nhà thơ gắn bó với cuộc đời lắm. Ông muốn hút ông giáo Cần với những ý kiến rất sắc sảo của ông về chuyên chính vô sản, về khoa học quản lý kinh tế, và chế độ phân phối và cuối cùng, ông lại trở về khoa học nhân học, tức môn văn chương của ông. Ông bộc lộ niềm căm giận tột độ với thói lười nhác, tham lam, hám của, tính kèn cựa, vị kỷ của một số kẻ thoái hoá biến chất: nhưng ông lại tươi cười hóm hỉnh bảo: bọn này, vốn đã bị Đăng-tơ vĩ đại giam xuống Tĩnh ngục rồi (*), đáng kiếp rồi!
Vui vẻ bao nhiêu thì khi đến nhà một bạn nguyên là chủ tịch huyện, ông Cần lại buồn nản bấy nhiêu. Ông này rất chóng quên vị trí, chức danh lúc đương thời của mình. Về hưu được một tháng ông chủ tịch huyện biến ngay thành ông chủ hiệu bánh cuốn, một cửa hiệu bánh cuốn có văn hoá. Ông say sưa thuyết giảng ông Cần nghe về nghệ thuật ăn và tráng bánh cuốn, một tinh hoa của dân tộc. Ôi chao! Gắp chiếc bánh lên dầm rồi quệt đi quệt lại như ta rũ cái váy trong bát nước chấm, rồi đưa vào miệng, cả một sự hoà hợp. Ông nói, nước chấm hết sức quan trọng. Hơi cứng, hơi mặn, hơi chua một tí thôi là hỏng; đang ăn phải gia thêm dấm ớt cũng hỏng! Cà cuống đặc biệt có ý nghĩa quyết định. Đã vậy nước chấm phải trong màu hổ phách. Ông khoe bánh ông tráng vừa mỏng, vừa óng, cắn sậm sựt vì có nhân mộc nhĩ, thịt lợn, hành giã; ăn với đậu rán giòn, ngon và thanh nhã vô cùng.
Buồn quá, ông Cần rẽ vào thăm ông bạn xưa là chủ nhiệm một khách sạn lớn của tỉnh. Ông này tính tình xởi lởi đúng như yêu cầu của cái nghề của ông. Ông chỉ cái bản đồ Việt Nam dán trên tường, cười: “ Cứ trông cái dáng chứ ét-sì co ro của nước mình thì biết mình còn xo xúi, khốn đốn!” Và ông khoe, khoe một cách thành thực: ông đang vượt qua sự xo xúi, khốn đốn ấy bằng nghề chăn nuôi lợn. Chà! Nuôi lợn. Ông nói, cả một khoa học về nghệ thuật đấy. Và quan trọng đệ nhất là anh giống: mõm bè, mình trường, vú lẻ, so le là tốt. Mặt gẫy, tức mặt trống gậy, mắt tròn xoe lỗ đáo nữa là vứt! Ăn là điểm quan trọng thứ hai. Đáng ăn mười phải cho nó ăn mười một. Ăn đến nỗi chổng kềnh bốn vó lên, thở như sấm. Lớn nhanh ở cái số một dôi ra đấy, ông bạn ạ.
Cáo từ các ông bạn ra về, ông giáo Cần đến nhà ông Tiếu, người bạn cũ, người cùng cơ quan với Trọng, con ông. Trong thâm tâm, ông giáo cũng muốn tìm hiểu thêm về công tác và quan hệ của Trọng. Hồi du học ở bên Pháp, ông Cần quen ông Tiếu. Dạo đó, ông Tiếu là lính ONS. Hai người, năm 1945 lại cùng về nước với nhau trên một chuyến tầu. Kháng chiến, ông Cần ở lại hoạt động trong thành phố địch tạm chiếm. Ông Tiếu ra chiến khu, làm thợ công binh xưởng, hoà bình năm 1954, mới đi học Bổ túc công nông rồi vào đại học thuỷ lợi.
Ông Tiếu mới đổi nhà. Nhà ông giờ là một căn buồng rộng, ở tầng trệt của một căn nhà gác giữa một phố buôn bán sầm uất. Ông Tiếu đang vui giữa ngổn ngang ra-đi-ô, xe đạp, xe máy, máy khâu do cô con dâu từ Ba Lan mang về. Ông quên bẵng mọi chuyện ông đang uất, như chuyện mất con mèo quý. Ông quên cả lời mời ông Cần tới chơi ngày mười lăm tháng này. Ông bê cái nồi áp suất ra khoe với ông Cần: “ Anh xem, nhôm dầy năm ly, nắp bầu dục, xoay kín gioăng, trên có su-páp an toàn để phì hơi. Nóng một trăm tám mươi độ. Chỉ mười lăm phút là nhừ tơi cái chân giò đại bố”. Ông khoe ông đang chuẩn bị lập một tổ khảm trai – một bộ xa lông khảm trai bán được năm nghìn đồng – khi ông về hưu. Nhưng, mắt ông quắc lên: “ Mẹ cha chúng nó, chúng nó đểu với tôi. Tháng này tôi về hưu mà nó cứ lờ việc tăng lương của tôi. Đã thế, tôi cóc về vội”. Rồi ông ghé tai ông giáo: “ Anh bảo thằng Trọng phải hết sức đề cao cảnh giác. Chúng nó là xỏ lá, ba que lắm. Tay Nam vừa nằm xuống là chúng đã lăm le giành nhau chức trưởng phòng. Tôi dí đít vào, La vi e mẹc! Nhưng thằng Chánh mu-gíc là một, thằng Hưng ngu như bò, tổ sư mánh khoé lật mặt, là hai. Rặt những quân Mðphistophèles (*) cả đấy. Khổ cái là chúng nó mê hoặc được khối anh cơ chứ. Thằng Trọng thì tốt, giỏi, nhưng thẳng ruột ngựa, bị hại lúc nào không biết đâu!”
Ôi chao! Rặt những quân Méphistophèles cả! Rặt những kẻ đáng phải giam vào Tĩnh ngục cả. Ông Cần rối mù mù giữa ngổn ngang bộn bề của thói đời, lại rơi vào những ý nghĩ u ám y như những ngày tháng cuối cùng ở trường đại học. Trường đại học! Lâu đài của trí tuệ! Vậy mà tại sao ở cái lâu đài ấy lại có một thằng cha bất tài, vô đạo nghiễm nhiên đóng vai trưởng khoa? Cái thằng cậy mình là đảng viên, một câu thơ Huy-gô không dịch nổi, vì đâu có hiểu hết các tầng ý nghĩa sau lớp vỏ ngôn từ, chỉ ưa người ta nịnh nọt, quy phục. Ông vốn hiền lành, nhưng là người có bản lĩnh. Thấy ông coi thường mình, hắn cay cú, ra sức trù úm ông. Thấy uy tín ông trong đồng nghiệp và học sinh ngày càng cao, hắn càng căm tức ông. Một lần, hắn bảo ông làm đơn xin vào Đảng. Ông biết thừa đó là thủ đoạn mị lừa của hắn, chứ ông làm sao mà xứng đáng với cái danh hiệu đẹp đẽ ấy. Ông trả lời: làm người đảng viên cộng sản thì tôi không đủ tài, đức, dẫu có suốt đời phấn đấu. Còn làm cái anh đảng viên Uẩy me sừ - Dạ thưa anh, thì tôi xin từ chối. Hắn quy ông là vô chính trị. Hắn tìm mọi cách kiềm chế ông. Hắn bắt ông ngồi lì tám tiếng một ngày ở văn phòng để soạn bài. Hắn yêu cầu một tháng ông phải có một bài báo tường và một sáng kiến nộp cho khoa. Ông viết bài cho các báo trong nước thì bị quy là “ ngoại tình”; nhận sách báo bạn bè ở nước ngoài gửi, ông cứ ngại hắn biết: vì có lần hắn đã nói bóng nói gió rằng có thể có gián điệp ở khoa này cũng nên(!) Dậy giỏi, đức độ mà mười mấy năm trời lương ông vẫn đứng nguyên một chỗ tám mươi đồng. Ông nhịn nhục,Oán nhi bất nộ, oan mà không kêu và lòng chứa đầy thiên kiến nặng nề, ông coi hắn như một mô hình biểu tượng của cái xấu xa đang nắm giữ quyền hành khống chế hoàn toàn cuộc đời này. Ông mất sự tỉnh táo của người trí thức. Và cuối cùng, ông đứng ra phản đối một cách tân về phương pháp giảng dạy do vị trưởng khoa nọ đề xướng- việc này sai, đúng thế nào, ông cũng chưa thấy thật minh bạch, thực sự cầu thị là như vậy- thì ông bị lên án quyết liệt và công khai. “ Mình ơi, mỗi lần thấy mình ở trong trường về buồn, em khổ tâm lắm”. Bà vợ ông nói vậy vào cái năm cuối cùng của đời bà. Tài năng đã bắt đầu đi vào ngõ tối. Từ học thuật câu chuyện của ông bị đẩy sang địa hạt chính trị. Dự cảm thấy đang lâm vào cảnh, bế tắc hoàn toàn, nhận ra sự phản trắc, tính xu thời của đám bạn bè đồng nghiệp, kinh hoàng trước sự suy đốn của thế thái nhân tình, thấy mình bị xúc phạm nghiêm trọng, khi bà vợ vừa mất, ông liền lặng lẽ ra khỏi trường đại học, nơi ông đã sống, làm việc gần hai chục năm, trong đó những năm đầu chứa chan bao kỷ niệm sáng tươi.
Ra khỏi nhà ông Tiếu. Ông giáo Cần thấy mình như một kẻ bơ vơ. Đâu có phải ông chỉ tiếp xúc với những cái dở. Nhà triết học và nhà thơ ông gặp gỡ là niềm vui lớn của ông đó thôi. Nhưng, những ấn tượng cũ của ông vốn sâu nặng, nay chỉ cần chút ít khêu gợi của cảnh đời, là lập tức sống dậy và như một màn sương mù tăm tối dâng lên phủ kín đầu óc ông. Ông là người rất mẫn cảm, hay xúc động và uỷ mị.
Ông bước trên hè phố, nhưng lang thang vô định. Cuộc sống có cái xấu, có cái tốt, đành là vậy, nhưng chẳng lẽ cái xấu lại ở vị trí ưu thắng và mọi người trước nghịch cảnh ấy, lại bảng lảng cả ư? Ông, ông như một kẻ không vị trí. Ông như một con người thừa, một kiểu nhân vật vô tích sự của Bai-rơn, nhà thơ lớn nước Anh rồi.
Cuối cùng, ông giáo bước vào nhà số 302, ngõ 16, phố Nguyễn Thái Học, nơi ông hoạ sĩ hàng xóm kèo nèo mời mọc ông tới, nơi ông không bao giờ là mình đặt chân tới, với một trạng thái hoang mang buồn nản tột cùng.
*
Điều gì đã xẩy ra? Đây là đâu? Người nào kia? Không phải là lão thầy bói mù loà gieo đồng chinh xin âm dương. Không phải cảnh cô đồng nhẩy múa nhố nhăng. Cũng không phải là nơi rao giảng các triết thuyết đã quá quen nhàm: đời người là tuồng ảo hoá, kiếp người là kiếp phù sinh, cái nghiệp ta chịu kiếp này là quả của nguyên nhân kiếp trước... vân vân. Đây là sự tĩnh tâm trong một trạng thái trường miên, để tan biến thể xác hình hài và giao cảm với tự nhiên, vũ trụ. Qua cái cửa bức bàn, nhìn thấy bức nghi môn trên bàn thờ, các bài vị trong ngai thờ, sau những hòm sắc, lư hương, bộ kỉ trà, bộ bạch lạp, bộ quy đồng, hạc đồng; đĩa trầu cau, nậm rượu, đài quả tử... gợi niềm cổ kính, yên hoà. Ông Cần bỗng thấy nhớ những ngày đã rất xa, hồi còn để tóc trái đào đứng hầu trà phụ thân, các bậc túc nho trong tỉnh. Đón ông là một người đàn ông to béo, dáng phong lưu, mặt sáng, môi tươi. Phân ngôi khách chủ xong hai người ngồi trò chuyện với bộ trà song ẩm. Đối thoại với nhau dăm câu, ông Cần đã nhận ra ngay: trò chuyện với mình là một kẻ hiểu biết hơn người, học thuật cổ tinh vi, lại lịch lãm chuyện đời nay, lĩnh vực nào cũng có cao kiến rất đáng trọng nể. Người đó, sau mấy phút như là giao đãi, liền nhìn ông giáo từ tốn, lễ độ. Rằng giáo sư vốn là bậc tài lớn chí cao, chỉ vì số mệnh và thời cơ ngang trái mới lui về ở ẩn, tôi là kẻ sơ cuồng, thật hân hạnh được tiếp kiến. Vậy có điều gì cần trao đổi, xin giáo sư cứ vui lòng cho biết. Được lời như cởi tấm lòng, ông Cần liền thầm thì nói rằng, tôi nghe tiếng ông nhiều rồi, nhưng hôm nay chưa có ý định hỏi điều gì về lý, số, chỉ xin tới sơ kiến, sơ giao...
Không để ông nói hết, người nọ đã nâng chén trà kính cẩn và đà đận:
- Thật rất lấy làm hân hạnh. Vậy cũng xin mạo muội nói thế này. Cây vì hoa đẹp mà bị cắt xén. Giáo sư đang ở thế đó. Nguyên nhân sở khởi cũng là thế đó. Có đúng không?
Thu chân tay lại, ông giáo Cần thốt kêu thầm trong óc. Rằng sao mà ông tinh tường vậy! Nhưng, chẳng để ông nói tiếp, người nọ đã gật đầu, vanh vách. Trời! Sao lại có thể thông tỏ ngõ ngách đời người đến thế. Cứ như đứng ở thế thượng phong mà suy ngẫm, nhìn nhận các sự vật. Đã thông suốt lại tường minh. Lại như ở gan ruột người ra, nên bàn bạc, chỉ bảo cụ thể mỗi sự việc thật minh bạch, rõ ràng, phân miêng, đâu ra đấy và không hề đơn sai.
- Giáo sư chẳng tham tước lộc. Nay về ở ẩn, tưởng lấy cái sự xa cách làm đắc sách. Nhưng không phải. Nhiều người vẫn ngưỡng mộ nhân cách cao quý và tài năng của giáo sư. Rồi một sớm mai, oan khuất sẽ giải toả, giáo sư sẽ có quý nhân phù trợ. ấy là bởi, đại phàm vật bất bình tắc minh, vật không thoả mãn thì phải kêu lên. Kêu, có nhiều cách, tất có người nghe được!
Nghe người nọ nói tới đây thì ông giáo lặng phắc. Bị ánh hồi quang tự kỷ chế ngự, ông không còn đủ sáng suốt để nhận ra, rằng những lời phán xét nọ chỉ là những sáo ngữ đã quá ư cũ kỹ và vận vào mọi trường hợp đều có thể khả dĩ ứng nghiệm. Ông chỉ thấy kinh hãi: con người kia sao thóc mách, tinh quái, nhìn sâu vào tâm khảm ông đến cái mức như thế.
“ Chào bác ạ!”
Nghe tiếng một cô gái, ông giáo Cần ngừng lại ngác ngơ. Cái gì vậy? Đây là đâu nhỉ? Hết cơn bàng hoàng ông mới nhận ra ông đang đứng trước cái ngõ 401 nhà ông. Và người chào ông là cô Loan. Cô gái mặc bộ quần áo ngủ màu hồng mỏng manh, đang đứng nói chuyện với một gã trai to lớn, tóc trùm gáy, để ria mép, mí mắt lồi, hơi dữ tướng, gã ngồi trên cái yên Hon-đa đỏ, hai chân đặt sát đất.
- Bác Cần ạ! Cô gái nói – Anh Trọng chờ bác mãi. Anh ấy phải về cơ quan gấp nên có gửi cháu chùm chìa khoá để đưa bác.
Ông Cần đón chùm chìa khoá, đút vào túi và đi vào ngõ. Vai ông so ro. Chiều mờ, trông ông còm cõi, bé nhỏ hẳn đi.