TTCT - Chính phủ Mỹ qua nhiều đời tổng thống vẫn duy trì chính sách “cậu không hỏi, tớ không nói” và vẫn tiếp tục “bắn chặn” cho Tel Aviv bất kỳ ý định nào liên quan điều tra kho hạt nhân Israel (thời Bill Clinton, Washington thậm chí cấm bán ảnh vệ tinh chụp Israel loại có độ phân giải chi tiết cực cao).
Ở thời điểm mà Iran tiếp tục nổi lên như là một thế lực “bành bá” trong khu vực (đặc biệt đối với cộng đồng Hồi giáo Shiite Arab tại Trung Đông), hẳn nhiên việc bảo vệ Israel có thể nói là sống còn đối với Mỹ trong việc duy trì ảnh hưởng khu vực.
Ngày 9-9-1969, một phong bì to màu nâu được gửi đến phòng bầu dục. Người gửi: giám đốc CIA Richard Helms. Phong bì ghi: “Gửi cho và chỉ được mở duy nhất bởi tổng thống, Nhà Trắng”. Đến nay, nội dung chính xác trong phong bì vẫn chưa được rõ nhưng nhiều bằng chứng (tài liệu giải mật mới nhất) cho thấy đó là thông tin tình báo về chương trình hạt nhân Israel với tính nhạy cảm đặc biệt đến mức sếp CIA chỉ muốn chia sẻ riêng với Richard Nixon. Đó là những gì Avner Cohen và William Burr hé mở trên chuyên san Bulletin of the Atomic Scientists (số tháng 5 và 6-2006)...
Sự bao che của Nixon
Thật ra, chương trình hạt nhân của Israel đã khởi sự hơn 10 năm trước khi chiếc phong bì nâu kia được đặt lên bàn Tổng thống (TT) Nixon. Năm 1958, Israel bí mật khởi công xây nhà máy mà sau này sẽ trở thành Nhà máy hạt nhân Dimona. Chỉ đến tháng 12-1960, Mỹ mới biết Dimona nhằm mục đích gì. Vài tháng sau, CIA kết luận Israel có thể sản xuất vũ khí hạt nhân.
Chương trình hạt nhân của Israel đưa Mỹ vào thế kẹt. Quả thật làm sao từ chối đồng minh Israel bé nhỏ đang bị bao vây tứ phía được? Song, nếu để yên cho Israel sẽ có cả chục nước, thậm chí đến 20 nước cũng sẽ chế tạo bom nguyên tử chỉ trong vòng 10-20 năm. TT Kennedy e ngại: nếu không bảo Israel (được), làm sao “bảo được” nước Đức hay các nước khác?
Cả TT Kennedy lẫn TT Johnson sau đó đều “chăm chăm” kiểm tra Israel, song Israel cũng khéo “chùi mép”. Đến cuối năm 1966, Israel đã ở “ngưỡng cửa” bom hạt nhân rồi, song khôn ngoan không tiến hành thử nghiệm. Sau cuộc chiến tranh sáu ngày năm 1967, Israel cần trang bị chiến đấu cơ F-4 Phantom thay cho Mirage-III của Pháp. Đến cuối năm 1968, Mỹ chuẩn bị bán chiến đấu cơ F-4 Phantom cho Israel. Lúc đó Hiệp định chống phổ biến vũ khí hạt nhận vừa ra đời.
Thế là, Mỹ dùng F-4 Phantom làm vật trao đổi. Bộ Ngoại giao Mỹ đề nghị TT Nixon, mới nhậm chức, yêu cầu Thủ tướng Israel Golda Meir cam kết không sở hữu vũ khí hạt nhân, ký vào Hiệp định không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) và tuyệt đối không triển khai hệ thống tên lửa. Chẳng biết TT Nixon có nói vậy với bà Golda Meir song các sự việc diễn ra sau này, như theo lời thuật của Henry Kissinger, cho phép nghĩ rằng ông ta đã không hề “bảo” gì, miễn là Israel giữ kín đừng có lộ liễu quá, đừng có thử bom làm gì cho om sòm. Suốt từ đó, Israel giữ lời hứa với Washington. Thậm chí trong bối cảnh chiến sự căng thẳng đỉnh điểm trong cuộc chiến Yom Kippur 1973, Tel Aviv cũng không hé răng về khả năng vũ khí hạt nhân (cho dù để đe dọa đối phương).
Bàn tay bí mật của London và Paris
Theo Meirion Jones (New Statesman, 13-3-2006; cũng như nhiều hãng tin-báo chí Anh, trong đó có BBC), vào thời điểm trước cuộc chiến tranh sáu ngày năm 1967, chính xác Israel có hai quả bom nguyên tử và chính phủ của Thủ tướng Anh Harold Wilson đã bí mật cung cấp cho Israel nguyên liệu chế bom (plutonium, uranium-235, beryllium và lithium-6). Tài liệu giải mật cho biết Anh đã chở hàng trăm chuyến tàu nguyên liệu hạt nhân cho Israel trong thập niên 1950-1960. Tất cả đều trong bí mật tuyệt đối và thậm chí Tony Benn (bộ trưởng kỹ thuật, thời điểm 1966) - người giám sát nguyên liệu hạt nhân Anh - cũng chẳng hay biết gì.
Anh mua nước nặng từ Công ty Norsk Hydro (Na Uy) và bán bớt phần thừa cho một công ty Na Uy khác tên Noratom. Tuy nhiên, Noratom không phải là người mua thật sự mà chỉ làm tấm bình phong cho Israel để ăn 2% hoa hồng. Chuyến tàu vận chuyển nước nặng đầu tiên từ Anh bắt đầu đến Israel vào tháng 6-1959.
Giao dịch được củng cố bằng các chuyến công cán Israel của Michael Israel Michaels (tên lót ngẫu nhiên lại là “Israel”), một viên chức cấp cao thuộc Bộ Khoa học thời Thủ tướng Anh Harold Macmillan (1957-1963). Năm 1961, Michaels đến Israel theo lời mời của giám đốc chánh chương trình nghiên cứu hạt nhân Israel là Ernst David Bergmann. Không chỉ gặp Bergmann, Michaels còn được tiếp bởi Thứ trưởng quốc phòng Shimon Peres và Thủ tướng David Ben - Gurion.
Năm 1962, lò phản ứng Dimona bắt đầu hoạt động. Năm 1966, Cơ quan nguyên tử năng Anh (UKAEA) đề nghị chính phủ cho phép xuất khẩu 10 milligram plutonium cho Israel. Đó cũng là thời điểm UKAEA bán cho Israel 1,25gr lithium-6 gần tinh chất (khi kết hợp với deuterium, lithium-6 có thể tạo ra bom H). Chưa hết, Anh cũng cung cấp cho Israel 2 tấn lithium làm giàu (từ khối lượng này, có thể trích ra được lượng lithium-6 đủ để chế vài quả bom H). Tất cả đều là những nguyên liệu dùng cho kỹ thuật chế bom hạt nhân.
Theo bài khảo sát chi tiết của nhóm nghiên cứu Warner D. Farr thuộc Đại học Chiến tranh không lực Hoa Kỳ (fas.org/nuke/guide/israel/nuke/farr.htm), chương trình vũ khí hạt nhân Israel bắt đầu từ giữa thập niên 1950. Năm 1956, Chính phủ Pháp thỏa thuận giúp Israel xây một lò phản ứng plutonium tại Dimona trên diện tích 36,2km2, với 1.500 công nhân Pháp - Israel.
Quan hệ Pháp - Israel thời điểm đó gần như là bang giao môi hở răng lạnh. Israel giúp bảo đảm quyền lợi của Pháp tại Trung Đông, trong đó có việc sử dụng kênh đào Suez. Về quan hệ quân sự, Pháp là nhà cung cấp vũ khí chính yếu cho Israel; trong khi tình báo Israel hỗ trợ Pháp bằng cách móc nối cộng đồng Do Thái tại các nước thuộc địa Pháp ở Bắc Phi. Cuộc khủng hoảng kênh đào Suez (Ai Cập muốn quốc hữu hóa con kênh), hợp đồng mua bán vũ khí giữa Tiệp Khắc và Ai Cập càng làm Israel lo lắng gấp rút đầu tư vấn đề hạt nhân.
Ngày 7-11-1956, một cuộc họp mật được tổ chức với sự tham dự của Golda Meir, Shimon Peres và ngoại trưởng cùng bộ trưởng quốc phòng Pháp Christian Pineau và Maurice Bourges-Manoury. Nội dung bàn về mối đe dọa Liên Xô (đồng minh chiến lược Ai Cập thời điểm đó). Hai bên kết luận: việc Pháp giúp Israel xây dựng lò phản ứng hạt nhân là điều không thể không làm. Tháng 10-1957, Pháp và Israel ký thỏa ước xây nhà máy hạt nhân. Việc Chính phủ Paris giúp Israel triển khai vũ khí hạt nhân còn là thể hiện tầm nhìn chiến lược một mũi tên bắn nhiều đích. Một Israel - hạt nhân sẽ trở thành đối trọng nhằm vào Ai Cập đối với cuộc chiến của Pháp tại Algeria (Ai Cập công khai ủng hộ lực lượng kháng Pháp ở Algeria). Chưa hết, tình báo Pháp cũng giúp tình báo Israel trong chiến
dịch truy lùng tàn dư Đức quốc xã. Và cuối cùng bản thân Pháp cũng muốn sở hữu bom nguyên tử (bởi Mỹ cấm vận một số kỹ thuật máy tính liên quan công nghệ hạt nhân nên Pháp muốn lấy kỹ thuật trên từ Mỹ qua tay Israel). Chuyên gia quân sự Pháp cũng giúp Israel phát triển thế hệ thứ nhất tên lửa Jericho...
Năm 1962, khi bí mật lò hạt nhân Dimona bị xì ra, kỹ sư Pháp phải làm việc ở nhà máy xử lý plutonium trong lòng đất. Sau cuộc chiến tranh sáu ngày, Pháp ngưng cung cấp uranium cho Israel (do nguồn nguyên liệu trên trước kia được Pháp lấy từ các thuộc địa Gabon, Niger...). Tuy nhiên, Tel Aviv không bị hổng chân. Bằng một mạng lưới thu mua “chui” phức tạp, Israel bắt đầu mua uranium oxide thông qua một công ty Tây Đức; mua uranium từ Nam Phi.
Tháng 6-1976, chuyên san quân sự Tây Đức Wehrtechnik cho biết năm 1963 Israel từng thử nghiệm vũ khí hạt nhân tại Negev. Chẳng biết vụ này thực hư thế nào nhưng ngày 22-9-1979, một vệ tinh Mỹ đã chứng kiến một quầng lửa khổng lồ tại nam Ấn Độ Dương. Vài nguồn tin cho biết đó là vụ thử phối hợp của Israel - Nam Phi. Năm 1997, Thứ trưởng ngoại giao Nam Phi Aziz Pahad xác nhận Israel và Nam Phi đã từng phối hợp thử nghiệm hạt nhân.
Mọi chuyện chỉ thật sự rõ ràng khi năm 1985, khoa học gia Israel Mordechai Vanunu tung hê bí mật hạt nhân Israel với lô ảnh chụp vô số kỹ thuật hạt nhân, từ thiết bị kích nổ đến bom H, đăng lần đầu tiên trên tờ Sunday Times of London ngày 5-10-1986. Theo Vanunu, để giấu kho vũ khí hạt nhân khỏi dòm ngó của Mỹ, một bức tường giả được dựng lên che hệ thống cầu thang đi xuống sáu tầng bên dưới lòng sa mạc Negev, dẫn đến khu vực tinh chế plutonium cũng như lắp ráp bom (Vanunu sau đó bị Mossad bắt và giam 18 năm)...
Với Mỹ, việc bảo vệ Israel khỏi tầm ngắm của Cơ quan Nguyên tử năng quốc tế (IAEA) cũng như giúp củng cố quốc phòng Israel bây giờ là một chính sách mang tính chiến lược khống chế khu vực. Năm 1989, Israel và Mỹ từng ký hợp đồng phát triển đại bác nhiệt điện có thể dùng chống tên lửa đất đối đất ở tầm gần hoặc triệt hạ xe tăng và kho vũ khí đối phương (dẫn lại từ Ehud Ein-Gil, Haaretz 10-9-2003).
Mỹ chịu 80% chi phí nghiên cứu dự án trên. Bây giờ, Israel là cường quốc hạt nhân duy nhất Trung Đông có thể phóng vũ khí nguyên tử từ mặt đất, không trung và biển (bắn từ tàu ngầm Cá heo do Đức thiết kế).
Theo nhiều phỏng đoán, Israel hiện có khoảng 100-200 vũ khí hạt nhân. Global Security (2-7-2006) cho biết Israel hiện sở hữu ít nhất một đầu đạn hạt nhân 200kg chứa 6kg plutonium, có thể gài vào đầu tên lửa hành trình Popeye Turbo. Đến nay, gần như chẳng ai còn lạ gì cái gọi là “bí mật hạt nhân Israel”, nhưng nó vẫn được xem là “bí mật” bởi Israel chưa bao giờ chính thức thừa nhận họ đủ khả năng giao chiến bằng vũ khí hạt nhân.
MẠNH KIM