Điều hắn quan tâm nhất, chính là làm sao để sống sót.
Khi đã sống sót, điều hắn quan tâm nhất là làm sao sống tốt.
Khi đã có cuộc sống tốt, điều hắn quan tâm nhất chính là làm sao giữ được nó. Nhưng bởi vì thân thế của mình mà hắn bị rơi vào vòng tranh đấu, và hắn quyết định đối mặt với nó, đi tìm lời giải cho toàn bộ cuộc đời mình.
Gió lạnh từ phương bắc thổi tới mãnh liệt, cuốn theo bọt tuyết lau xát qua mặt đất, lại cuốn lên trời không ít cỏ dại khô vàng. Cảnh sắc tiêu điều vẫn là cảnh sắc. Nếu như những thi nhân giàu cảm xúc kia chứng kiến cảnh này, chỉ sợ sẽ sáng tác ra vài bài thơ mà dân chúng mãi mãi sẽ không hiểu.
Hoa đăng của đế đô là đối tượng để bọn họ ngâm tụng. Sông Cửu Long lớn nhất của đế quốc cũng là đối tượng để bọn họ ngâm tụng. Những cô nương mặt đầy phấn son, trong trắng của Minh Nguyệt Lâu ở đế đô kia đương nhiên cũng là đối tượng để bọn họ ngâm tụng. Nhưng không thể phủ nhận, người bình thường không thể ngâm tụng nổi những cô nương của Minh Nguyệt Lâu kia.
Mà chiến trường và chém giết, mãi mãi là chủ đề hay để đám thi nhân lấy ra cảm khái.
Mới qua năm mới, thời tiết vẫn còn rất lạnh. Nhất là ở một nơi chim không ỉa như biên thùy Tây Bắc. Không chút nào phóng đại nếu nói, nếu tuyết tiền liệt không có vấn đề gì, thì nước tiểu vừa vung ra lập tức có thể biến thành một cây băng.
Bên ngoài một cánh rừng không lớn nằm lộn xôn vài chục cỗ thi thể. Do thời tiết quá lạnh, người chết đã đông cứng như đá. Dưới ánh mặt trời chiếu xuống, máu đã đóng thành băng của những thi thể kia sẽ biến thành một màu sắc yêu dị. Thật giống như đặc sản rượu Bồ Đào của Tàu vậy. Rót vào chén rượu thủy tinh là có màu sắc y như vậy.
Ủng da đạp vỡ máu đã đóng thành băng, phát ra thanh âm răng rắc.
Một vị đội trưởng biên quân (gọi tắt của: “quân lính ở biên giới”) mặc giáp da màu đen, quần áo màu xanh có số đi tới bên cạnh những thi thể kia, lau đi hai dòng máu đã đóng băng từ dưới mũi chảy xuống, hơi có chút đắc ý nói:
- Chém bốn mươi ba đầu người, đoạt lại rất nhiều tài vật. Công lao này nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ. Tối thiểu nhất cái chức Phó Úy này của ta cũng phải thăng lên nửa cấp. Nếu như ta thực sự thăng lên Hiệu Úy, ta liền mời các ngươi tới Hải Dương Quán uống rượu.
- Đội trưởng lại khoác lác rồi.
Một binh lính biên quân rung đùi đắc ý nói:
- Cho dù đội trưởng lấy ra năm năm quân lương của mình, cũng không đủ để mời hai mươi ba huynh đệ chúng tôi tới Hải Dương Quán mỗi người uống một chén rượu.
- Có Trương Thế Nhân, việc gì ta phải trả tiền?
Nói xong câu đó, đội trưởng biên quân Nguyễn Văn Trung hơi chút sửng sốt, quay đầu nhìn nhìn, mới nhớ ra cái gì đó, hỏi:
- Trương Thế Nhân đâu rồi? Từ lúc bắt đầu chém giết, ta đã không nhìn thấy hắn.
- Điều này có gì phải bất ngờ?
Trải qua mười một lần chiến đấu với kẻ thù bên ngoài, y nguyên vẫn còn sống sót, Ngũ trưởng Phó Trần Tuấn Nghĩa thở dài nói:
- Chiến tích mười một lần sống sót sau chiến đấu của ta, ở trước mặt Trương Thế Nhân, quả thực chả khác gì cái rắm. Ta dám đánh cuộc, cho dù là trải qua một trăm linh mười cuộc chiến, hắn vẫn có thể sống sót.
Thập trưởng Trần Đức Nhân vừa cười vừa nói:
- Hắn có gia tài bạc triệu cần trông coi, tự nhiên sợ chết một ít. Ngươi thì không giống hắn, ngươi chỉ có một mình…Mười một lần chiến tranh không chết, mà tới hiện tại ngươi vẫn chỉ là một Ngũ trưởng. Đây quả thực không phải là việc vinh quang gì.
Phó Trần Tuấn Nghĩa chăm chú nói:
- Ta chưa từng phủ nhận là mình sợ chết. Hơn nữa ta còn rất vẻ vang khi mình còn sống sót… Nhưng tiểu tử vô liêm sỉ Trương Thế Nhân kia? Hắn chưa bao giờ nói là mình sợ chết. Nhưng khỉ gió nhà nó, lần nào đi giết mã tặc, hắn có dám đi lên trước đâu? Ta dám đánh cuộc, không tới mười lăm phút nữa, cái thứ hỗn láo kia nhất định là chui ra từ chỗ nào đó rồi cười ha ha. Sau đó vẻ mặt thoải mái chúc mừng biên quân chúng ta lại thắng lớn rồi mời mọi người tới quán Kê Kê ăn thịt chó uống rượu.
Hai mươi mấy binh lính biên quân đang sắp xếp trang bị, kiểm kê tử thi đều gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
Cực kỳ đồng tình.
- Ngươi nên thấy đủ a!
Trần Đức Nhân vỗ vãi hắn, nói:
- Từ lúc thành Gia Trang này có tiểu tử Trương Thế Nhân kia, thức ăn của chúng ta xác thực là được cải thiện không ít. Ngươi không thể chối bỏ, tám trăm biên quân, hai ngàn dân chúng của thành Gia Trang, không có một người nào là không thích tiểu tử kia.
- Một người cực kỳ sợ chết như hắn, vì sao mọi người lại thích hắn nhỉ?
Phó Trần Tuấn Nghĩa quệt miệng hỏi.
- Bởi vì…
Đội trường Nguyễn Văn Trung xoay người túm một xích vàng trên cổ một mã tặc xuống, hà hơi nói:
- Tiểu tử Trương Thế Nhân kia…thực con khỉ nhà nó biết kiếm tiền. Bởi vì sự xuất hiện của hắn mà cuộc sống của thành Gia Trang ngày càng tốt hơn. Ta dám đánh cuộc…cho dù là Cấm Vệ Quân cũng không được trang bị tốt như chúng ta! Cũng không được ăn ngon như chúng ta.
Vừa lúc đó, không biết một thiếu niên diện mạo thanh tú, tuổi chừng mười bốn, mười lăm tuổi từ chỗ nào chui ra. Hắn mặc một bộ giáp da không quá vừa người, xoa xoa tay, cười ha ha đi tới:
- Vì chúc mừng biên quân của chúng ta lại thắng lớn, ta mời mọi người tới quán Kê Kê ăn thịt chó uống rượu.
….
….
Thành Gia Trang.
Trong thư phòng của Tiểu Tướng biên quân thành Gia Trang, Nguyễn Văn Dũng.
Chậu than đỏ rực, thỉnh thoảng có tro tàn bay lên. Nhiệt độ trong phòng và bên ngoài chênh lệch rất lớn, ấm áp khiến cho người ta không nỡ rời đi.
Nguyễn Văn Dũng là quan chỉ huy cao nhất của tám trăm tinh binh biên quân thành Gia Trang. Dù chỉ là Tiểu Tướng ngũ phẩm, nhưng không hề nghi ngờ, ở trong thành nhỏ Gia Trang rộng ba dặm rưỡi, thậm chí là khu vực rộng lớn hơn hai trăm dặm ở bên ngoài, hắn có quyền lợi và địa vị tuyệt đối.
Hắn xuất thân từ Lý gia của Thanh Long. Dù chì là con cháu của dòng ngoài, nhưng miễn cưỡng được coi là quý tộc. Vừa lúc ra đời, hắn đã kế thừa chức danh không có thực quyền là Quan Tái , chính thất phẩm. Đệ tử không phải dòng chính thì cho dù phấn đấu cả đời cũng chưa chắc tới được vị trí đó. Mà Nguyễn Văn Dũng khiến cho người ta kính nể không phải ở xuất thân của hắn, mà là tài năng của hắn.
Từ ba năm trước hắn được điều nhiệm tới thành Gia Trang làm Tiểu Tướng, trong khu vực hai trăm dặm do hắn quản lý trở nên thái bình hơn rất nhiều. Năm đầu tiên hắn tới, biên quân xuất động ba mươi ba lần, giết tặc hơn chín trăm người. Năm ngoái biên quân xuất động sáu lần, giết tặc hơn hai trăm. Năm nay…chính xác mà nói, từ tháng sáu năm trước, sau khi biên quân tập kích mã tặc, tính tới tính lui tám tháng mới có hành động.
Cho nên Nguyễn Văn Dũng có chút đau đầu. Quân công báo lên mà thiếu, thì làm sao kiếm thêm được ban thưởng? Nghĩ tới đây, hắn không khỏi giật mình. Sau đó không thể không nghĩ đến việc từ khi nào bản thân trở nên tham lam như vậy…
Tháng trước là sinh nhật hai mươi sáu tuổi của hắn. Hắn chẳng những xuất thân thế gia, mà nghe nói còn là học sinh xuất sắc của Kinh Võ Viện. Vừa mới tốt nghiệp liền được đảm nhiệm Tiểu Tướng biên quân. Bởi vậy có thể chứng minh lời đồn ở Kinh Võ Viện hắn rất phong tao…À không, phong lưu là thật.
Nghe nói vị viện trưởng họ Chu của Kinh Võ Viện, một người tuy không phải có quyền lực lớn nhất, nhưng địa vị và danh vọng tuyệt đối là lớn nhất kia đã từng biểu dương Nguyễn Văn Dũng ở trước mặt mọi người. Mà từng tiếng nói từng hành động của viện trưởng Chu đều có thể ảnh hưởng tới Hoàng Đế. Viện trưởng Chu từng nói:”Nếu tới ba mươi tuổi mà ngươi chưa rơi rụng bởi cái tính cách nát của ngươi, thì ngươi rất có khả năng trở thành vị Tổng Đốc trẻ tuổi nhất của Đế Quốc”.
Từ lời này có thể thấy viện trưởng Chu rất coi trọng Nguyễn Văn Dũng. Nhưng câu cuối cùng của viện trưởng Chu mới là trọng điểm.
Đương nhiên, nếu không có bất ngờ gì xảy ra…Ngươi sẽ không sống qua được hai mươi lăm tuổi! Một người học ở Kinh Võ Viện ba năm y nguyên chỉ biết tấn công không biết phòng thủ, Binh Bộ lại tính toán điều ngươi tới biên thành (gọi tắt của: “thành thị ở vùng biên giới”)…Hiện tại ta cũng phải cầu khấn thay ngươi!
Viện trưởng Chu tính sai. Bởi vì ba năm này ở biên thành, Nguyễn Văn Dũng sống thực bỏ bu nó quá thoải mái.
Mỗi khi nhớ tới lời bình kia của viện trưởng Chu, Nguyễn Văn Dũng lại không nhịn được muốn cười.
Xác thực là vì ra một cái ngoài bất ngờ, mà hắn mới không mạnh mẽ lao tới như lúc trước. Bởi vì trên thế giới này có rất nhiều thứ tốt đã khiến cho hắn không nỡ chết.
Cái ngoài bất ngờ, chính là một thiếu niên tên là Trương Thế Nhân.
- Trương Thế Nhân a…Ngươi thực con cóc khô nó là kỳ tài!
…
…
Trương Thế Nhân, Nhân trong Nhân Nghĩa.
Ba năm trước đây, Nguyễn Văn Dũng đảm nhiệm chức Tiểu Tướng của biên quân thành Gia Trang, hắn cũng xuất hiện ở tòa thành không lớn nhưng rất nổi tiếng này. Chỉ dùng một năm ngắn ngủn, hắn liền thành danh nhân của thành Gia Trang. Dùng lời của đội trưởng biên quân Nguyễn Văn Trung để giải thích, thì chính là quá con bà nó biết kiếm tiền!
Dám vểnh mông ở trong thư phòng của Nguyễn Văn Dũng để sưởi ấm, cả tám trăm biên quân của thành Gia Trang có không ít người. Bởi vì Nguyễn Văn Dũng không phải là một vị tướng quân nghiêm khắc khiến cho người ta phải sợ hãi. Thư phòng của hắn cũng không khó vào như khuê phòng của Lê Mỹ Lệ, người duy nhất biết nhảy điệu Song Hoa Kiến Điệp ở Hải Dương Quán. Dù sao nghe nói nàng ta vẫn là hoàng hoa khuê nữ. Mà hắn…thôi không nhắc tới.
Nhưng dám ở thư phòng của Nguyễn Văn Dũng vểnh mông lên sưởi ấm, hơn nữa vẫn là mông người, khẳng định chỉ có một mình Trương Thế Nhân.
Cái mông bốc lên hơi nước, khói trắng phiêu phiêu.
- Ngươi đái?
Nguyễn Văn Dũng nhìn chằm chằm Trương Thế Nhân, hỏi.
- Không ngửi thấy mùi nước tiểu, khẳng định không phải là đái!
Tướng mạo ngay ngắn, mi thanh mục tú, Trương Thế Nhân chăm chú đáp:
- Lúc đám người Nguyễn Văn Trung giết mã tặc, ngài không biết gió lớn cỡ nào đâu. Vì không muốn bị đông chết, ta chỉ có thể đào một hố tuyết rồi chui vào đó. Đó là biện pháp tốt nhất vừa bảo tồn thể lực, vừa đảm bảo nhiệt độ của cơ thể không bị giảm. Nhưng không thể phủ nhận là, nằm trong đó lâu cả người vẫn ẩm ướt…
Cảm thấy cái mông của mình rốt cuộc đã ấm áp, Trương Tuấn lấy ra một chồng giấy từ trong ngực đưa cho Nguyễn Văn Dũng:
- Thu hoạch tháng này, không tính là nhiều. Nhưng so với tháng trước nữa vẫn nhiều hơn một thành.
- Chính là hơn một nghìn hai trăm lượng!
Nguyễn Văn Dũng không khỏi ca ngợi, nói:
- Trương Thế Nhân, có phải ông trời phái ngươi xuống tạo phúc cho thành Gia Trang không?
Trương Thế Nhân sửa sang lại quần áo, sau đó rất chân thành, son sắt đáp lại:
- Ông trời phái ta xuống để tạo phúc toàn bộ nhân loại…
- Sao ông trời lại cam lòng phái ngươi xuống? Nếu ngươi lưu lại trên trời, chẳng phải giúp ông ta kiếm được rất nhiều bạc sao?
Nguyễn Văn Dũng nhìn ngân phiếu trong tay, cảm khái nói.
- Nếu tướng quân không còn việc gì, ta trở về Phường Nguyên Bảo đây. Ngày mai là mở chợ rồi, ít nhiều cũng nên chuẩn bị một chút.
Trương Thế Nhân quay đầu nhìn, xác định cái mông của mình không còn ẩm ướt nữa, liền muốn cáo từ.
- Ngươi quay về mà không đi ngủ, thì ta nguyện ném chồng ngân phiếu này vào trong chậu than.
Nguyễn Văn Dũng lườm hắn một cái, nói.
- Vì ngân phiếu…ta phải ngủ một giấc vậy.
Trương Thế Nhân có chút khó xử nói.
- Đi thôi, ta biết ngươi chắc chắn sẽ đáp ứng mời đám người Nguyễn Văn Trung đi ăn lẩu thịt chó. Nhớ kỹ là không được uống nhiều rượu. Nếu khiến cho đội Chấp Pháp bắt được, ta cũng sẽ không thiên vị một ai.
- Tướng quân đại nhân yên tâm đi.
Trương Thế Nhân vừa đi ra ngoài cửa vừa nói:
- Cùng đội Chấp Pháp uống rượu ăn thịt không phải lần một lần hai. Lần trước có một vị đội trưởng Chấp Pháp giả mù sa mưa muốn bắt ta, chỉ cần hai bình rượu, hắn liền gọi ta là huynh đệ. Ngài cũng biết đấy, người tham ăn thì phải dùng thức ăn dụ dỗ, mà người dũng mãnh thì cần phải dùng nhu chế cương.
- Xem ra ta phải đổi một số người trong đội Chấp Pháp rồi…
Trương Thế Nhân thở dài mà nói, lập tức lại lắc đầu:
- Trừ khi đổi cả mình, bằng không ngươi mãi mãi là người đặc thù nhất trong thành Gia Trang. Biến về ngủ đi, nhìn ngươi ta lại cảm thấy phiền lòng!
- Vâng!
Trương Thế Nhân làm một cái quân lễ, rồi xoay người đi ra thư phòng. Mới đi được bốn năm bước, chợt nghe thấy thanh âm nhàn nhạt của Nguyễn Văn Dũng:
- Trương Thế Nhân, có phải ngươi vừa mới đánh rắm không?
Trương Thế Nhân kinh hãi thất sắc. Trong lòng tự nhủ mình đánh rắm không một tiếng động như vậy, làm sao tướng quân đại nhân lại biết nhỉ?
Hắn quay đầu lại kinh ngạc hỏi:
- Công lực của tướng quân lại tiến bộ rồi à?
Nguyễn Văn Dũng lắc đầu, sau đó chăm chú nói:
- Ta… nhìn thấy.
Trương Thế Nhân ngơ ngẩn, lập tức ngửa mặt lên trời thở dài:
- Thành Gia Trang này chỗ nào cũng tốt, chính là bỏ bu nó quá lạnh! Đánh rắm cũng có thể nhìn thấy…có thể nhìn thấy a…
Đi ra cửa chính phủ tướng biên quân, Trương Thế Nhân giẫm lên tuyết đọng dày đặc đi về hướng Phường Nguyên Bảo. Bởi vì tuyết đọng quá dày, cho nên thanh âm giẫm lên kêu rất rõ ràng.
- Thế Nhân, nghe nói hôm nay ngươi đi ra ngoài giết tặc phải không?
Dì Hà giặt quần áo ở cách đó không xa cười ha hả hỏi.
Đó là một người đàn bà đã có chồng khăng khăng nói rằng mười năm trước mình là một mỹ nữ kiều nộn như hoa. Có lẽ cuộc sống là một tảng mỡ béo ngậy, mới nuôi được một đóa hoa trở thành một người vợ có eo như thùng nước, mặt đầy tàn nhan trong mười năm. Nhưng không thể nghi ngờ chính là, điều này không ngăn cản sự kiêu ngạo tới tận bây giờ của dì Hà.
- Vâng, gần đây dì Hà lại đẹp ra rồi. Con gái của lão Trần mới xuất giá vài ngày trước nhìn cũng không thuận mắt bằng dì Hà.
- Ai nha… Hiện tại tiểu tử ngươi mới phát hiện lão nương đẹp hơn người khác sao? Năm đó lúc dì hành tẩu giang hồ, người theo đuổi dì đây có thể xếp hàng từ cổng thành Gia Trang đến tận đây.
- Lời này của dì Hà đã nói tới ý nghĩ trong lòng của con rồi. Mỗi lần nhìn thấy ngài, con đều có cảm giác cảnh đẹp ý vui. Thật giống như vào mùa xuân ấm áp, ngồi trên cỏ xanh mơn mởn, thưởng thức đóa hoa tươi nở rộ vậy. Cực kỳ, cực kỳ hưởng thụ.
Khuôn mặt tròn của dì Hà rõ ràng đỏ lên, nhịn không được nhăn nhó nói:
- Vậy ngươi nói xem, dì Hà giống như hoa gì?
Trương Thế Nhân cẩn thận suy nghĩ một phen, sau đó chân thành nói:
- Hoa loa kèn.
- Tại sao?
Dì Hà khẽ giật mình, không hiểu hỏi.
Trương Thế Nhân nhìn bộ ngực lớn và khuôn mặt tròn của dì Hà, rất chân thành ca ngợi:
- Càng nở càng lớn.
- Trương Thế Nhân!
Một tiếng tức giân vang lên trong hẻm nhỏ. Sau đó người nào đó hoảng sợ chạy ra khỏi hẻm như chó nhà có tang. Tốc độ cực nhanh khiến cho người ta phải líu lưỡi. Theo sát đó, một cái chậu gỗ cực lớn từ hẻm nhỏ bay ra. “Pằng” một tiếng rơi xuống mặt đất, vỡ tan tành.
Trương Thế Nhân chỉ cảm thấy gió thổi lồng lộng bên tai, trong lòng đắc ý nghĩ tới khinh công của mình lại tiến bộ hơn không ít.
Còn chưa chạy được ba mươi bước, chợt nghe thấy thanh âm có thể chấn động cả tòa thành Gia Trang của Hà thẩm:
- Trương Thế Nhân, lão nương đã làm mối cho ngươi với khuê nữ của lão Ngô ở thành đông rồi đấy. Nếu ngày mai ngươi dám tới muộn, lão nương liền đập bể chiêu bài Phường Nguyên Bảo của ngươi!
Trương Thế Nhân lập tức dừng chân, quay đầu nhìn dì Hà, hỏi:
- Đập bể Phường Nguyên Bảo? Ngài không cần chia hoa hồng à?
Dì Hà chống eo, quát như hổ hống:
- Ngươi chỉ cần trả lời lão nương có đi hay không!
Trương Thế Nhân còn chưa trả lời, tất cả cửa sổ trên đường cái lần lượt mở ra, có thiếu nữ đứng ở cửa sổ vội vàng hô:
- Trương Thế Nhân, nếu ngươi dám đi, ta liền từ đây nhảy xuống.
- Trương Thế Nhân, nếu ngươi dám đi tìm nữ tử khác, ta liền xuất gia làm ni cô!
- Trương Thế Nhân, ngươi là kẻ phụ tình!
Một người đàn bà có chồng nổi giận nói:
- Trương Thế Nhân, nếu ngươi dám bội bạc khuê nữ nhà ta, ta liền chặt cơ thể của ngươi cho chó ăn!
Có thiếu phụ thì thảm thiết rơi lệ, hối hận vì sao mình lại gả cho người khác sớm thế.
Chỉ có quả phụ họ Tôn mới hai mươi sáu tuổi đã thủ tiết năm năm, tựa ở cửa trước, cắn hạt bí, kiều mị nói:
- Tiểu Thế Nhân, sau này nếu lấy vợ thì cũng thường xuyên tới đây nhé.
Trương Thế Nhân nào dám dừng lại, dưới chân giống như đốt pháo vậy, chạy vội ra ngoài. Lúc chạy ngang qua quả phụ họ Tôn, hắn bỗng nhiên mạnh mẽ dừng chân, sau đó nhanh chóng ngắt lên bộ ngực no đủ của quả phụ Tôn một cái:
- Lần nào cũng chỉ biết gây thêm loạn. Khiến cho ta chịu tiếng xấu thay cho người khác. Nếu ta thực sự đã ăn người thì không nói làm gì, nhưng chỉ nhìn lén ngươi tắm rửa một lần, lẽ nào ngươi còn muốn trả thù cả đời…
Véo một cái, cảm xúc thật tốt, Trương Thế Nhân nhịn không được lại véo. Thậm chí có thể chuẩn xác tìm được cái hạt nhô lên sau lớp áo bông dày đặc:
- Cái này coi như là lợi tức!
Sau khi đắc thủ, Trương Thế Nhân lại bắt đầu chạy vội, để lại quả phụ họ Tôn đỏ bừng mặt, thất kinh làm rơi đầy hạt bí ra đường.
Nghĩ tới lần này thực sự là bị tiểu gia hỏa kia đắc thủ, quả phụ Tôn không nhịn được tức giận:
- Trương Thế Nhân, có bản lĩnh thì lần sau ngươi lại sờ thử xem!
Trương Thế Nhân vừa chạy, vừa quay đầu nói:
- Ta sẽ không bị lừa lần thứ hai đâu! Rốt cuộc chỗ đó ngươi lót mấy tầng bông vậy?
Quả phụ họ Tôn lúng túng, che mặt quay vào nhà, không dám quay đầu lại.
Quay vào nhà, Tôn quả phụ cởi áo, móc ra một tấm lót bông từ trong áo ngực, tiện tay vứt xuống mặt đất, giận dữ tự nhủ:
- Nếu lão nương không lót một chút, ngươi làm sao bắt trúng?
Nhưng vừa nghĩ tới cách dày như vậy, Trương Thế Nhân rõ ràng có thể chạm vào được chỗ đó của nàng, khuôn mặt không khỏi đỏ lên.
- Khốn nạn…lão nương lại bị một tiểu tử choai choai đùa giỡn.
Nghĩ tới đây, Tôn quả phụ đứng phắt dậy, sắc mặt quyết tuyệt.
Ăn đậu hũ của ta không phải dễ dàng như vậy. Nếu lão nương có cơ hội, một hơi liền ép khô đậu hũ của ngươi. Quả phụ họ Tôn đứng ở trong phòng, thật giống như một đấu sĩ vậy, sĩ khí ngẩng cao. Mà lúc này, đám vợ bé và thiếu nữ nhìn Trương Thế Nhân chạy như điên, ánh mắt có chút mê ly. Có người nhịn không được háo sắc, nhìn tấm lưng kia nói:
- Chạy trốn mà cũng đẹp trai như vậy…
Ai nha!
Đầu phố, người nào đó trượt chân một cái, nằm sấp xuống, đẹp trai tới rối tinh rối mù.
…
…
Gia Trang là một tòa thành ở vùng biên giới, nằm ở cuối Tây Bắc của Đại Nam. Tòa thành này chỉ rộng chừng ba dặm rưỡi, cùng là tòa thành nhỏ nhất của Tây Bắc. Đi ra cửa thành hướng về phía tây chừng sáu mươi dặm, có một dãy núi không cao, nhưng trải dài dằng dặc về phía nam bắc. Dùng lời của các biên quân trong thành Gia Trang để miêu tả, thì dãy núi kia giống như vô số bộ ngực của nữ nhân.
Trên thực tế, dãy núi này được gọi là dãy núi Sơn Khê. Nghe nói ở đại thảo nguyên rộng bao nga bát ngát, tổ tiên của Hoàng Tộc đế quốc Thiên Thuận chính là loài sói. Tổ tiên của bọn họ được sinh ra ở dãy núi này.
Nhưng điều khiến cho người của đế quốc Thiên Thuận giận dữ và bất đắc dĩ, chính là đế quốc Đại Nam ở Đông Nam kia từ sau khi quật khởi, dãy núi này rốt cuộc đã không hoàn toàn thuộc về bọn họ. Đương nhiên, cũng không hoàn toàn thuộc về Đại Nam.
Một trăm hai mươi năm trước, sau khi lập quốc, Cao Tổ Hoàng Đế của Đại Nam là Dương Kiên không ngừng dẫn theo quân đội mở rộng địa bàn. Trải qua ba mươi năm, hàng trăm trận chiến lớn nhỏ, chưa từng thua một trận nào.
Mãi cho đến khi quân đội của Đại Nam đi về phía tây đánh tới dãy núi Sơn Khê, đế quốc Thiên Thuận cường đại nhất của phía tây rốt cuộc không chịu được sự gây sự của quốc gia mới thành lập là Đại Nam. Thế là bốn mươi vạn thiết kỵ đi ra thảo nguyên, vượt qua dãy núi Sơn Khê tấn công quân Đại Nam. Nhưng điều khiến cho người ta không nói được gì, chính là được xưng thảo nguyên tinh kỵ, vô địch thiên hạ đấu với mười hai vạn Phủ Vệ tinh binh của Đại Nam, lại không chiếm được một chút tiện nghi nào.
Dù quân đội của Đại Nam thiếu thốn chiến mã, nhưng bộ binh tinh nhuệ bách chiến của bọn họ lại tạo thành một đội hình vững chắc giống như là dãy núi Yên Sơn ở phía nam vậy, không thể nào rung chuyển. Bốn mươi vạn kỵ binh Thiên Thuận chết trận mười một vạn. Binh lính tinh nhuệ của Đại Nam cũng tổn thất bốn vạn. Đế quốc Thiên Thuận không cam lòng chịu nhục, đã triệu tập trọng binh, do đích thân Thiên Ân, người được xưng là Thiên Nam Tướng thống suất hai mươi vạn kỵ binh trợ giúp. Đúng lúc gặp phải Hoàng Đế khai quốc của Đại Nam là Dương Kiên cũng suất quân chạy tới.
Mười vạn tinh binh Tả Vũ Vệ, Hữu Vũ Vệ, Tả Kiêu Vệ, Tả Ngự Vệ của Đại Nam bất ngờ chạm trán với hai mươi vạn kỵ binh của đế quốc Thiên Thuận. Dựa vào trường mâu, cự thuẫn tạo thành chiến trận, Dương Kiên đấu ba trận đều thắng. Bức lui Thiên Ân phải rút về dãy núi Sơn Khê. Trận chiến này bị Hoàng Tộc Thiên Thuận coi là trận chiến nhục nhã nhất.
Từ sau đó, song phương kịch chiến sáu năm. Đế quốc Thiên Thuận không thể tìm về được mặt mũi. Mà Đại Nam chỉ mới thành lập, cũng vô lực sát nhập thảo nguyên. Cuối cùng song phương ký kết hiệp nghị ở dưới núi Sơn Khê. Dùng dãy núi Sơn Khê làm giới hạn. Phía tây của dãy núi là lãnh thổ của đế quốc Thiên Thuận. Mà phía đông là lãnh thổ của Đại Nam.
Bởi vậy liền có thành biên giới Gia Trang, liền có thành Phượng Hoàng ở bên kia dãy núi Sơn Khê.
Tới hiện tại, hiệp nghị kia đã trải qua gần trăm năm. Song phương vẫn bảo trì hòa bình. Nhưng bất kể là Đại Nam hay là Thiên Thuận, các đời Hoàng Đế kế nhiệm đều muốn đánh bại đối phương để lưu danh sử sách.
Đại Nam nằm ở Trung Nguyên, coi nghề nông là chính, thiếu thốn các loại da, ngọc thạch, dê bò, nhất là chiến mã, nên không thể xâm nhập vào thảo nguyên để tác chiến. Mà đế quốc Thiên Thuận lại thiếu sắt, muối ăn, gấm vóc, trà và rượu ngon. Bộ binh của bọn họ lại quá yếu, đối mặt với rất nhiều thành trì của Trung Nguyên liền không có biện pháp nào.
Bên này của dãy núi Sơn Khê có biên quân Gia Trang, bên kia thì có lang kỵ của thành Phượng Hoàng, hai bên đều muốn chiếm được thành của đối phương, sau đó đứng ở trên thành của đối phương đái một bãi. Nhưng ba năm trước đây, vị Hoàng Đế thứ sáu của Đại Nam là Dương Định Thiên, sau khi gặp gỡ vị Thiên Vương thứ ba mươi của đế quốc Thiên Thuận là Thiên An Hảo, thành Gia Trang liền có một thân phận khác.
Thị trường.
Thương nhân của Đại Nam có thể vận chuyển hàng hóa cần thiết tới thành Gia Trang, trao đổi dê bò, da, ngọc thạch với dân chăn nuôi. Sáu ngày, ngày mùng một, ngày mùng tám, ngày mười một, mười tám, hai mươi mốt, hai mươi tám của tháng cho phép mở chợ. Để đổi được muối ăn, lá trà và gấm vóc, những mục dân kia đều tới cửa thành xếp hàng từ sớm. Dù cho tiết trời rất giá lạnh.
Trong mắt những dân chăn nuôi kia, biên quân Đại Nam trong thành Gia Trang thật khiến cho người ta chán ghét. Nhưng không ai trong bọn họ dám gây sự. Bởi vì tướng quân Nguyễn Văn Dũng của biên quân là một người cực kỳ công chính và nghiêm khắc. Nếu có dân chăn nuôi nào gây sự, nhẹ thì quất ba mươi roi, nặng thì chặt đầu thị chúng. Cho nên những mục dân kia vừa hận vừa e ngại hắn.
Không chỉ là như vậy, nếu có thương nhân của Trung Nguyên nào gian trá lừa gạt dân chăn nuôi, hoặc là có hành động ép mua ép bán bị Nguyễn Văn Dũng biết, cũng y nguyên bị phạt nặng. Quy củ vẫn đơn giản, dựa theo tình tiết, nghẹ thì quất ba mươi roi, nặng thì chặt đầu thị chúng. Cho nên mục dân kia cũng vừa kính vừa thích hắn.
Cần phải nói rõ là, những người bị phạt ba mươi roi, không có một người nào gắng gượng được năm ngày.
Cũng phải nó rõ rằng, lúc hành hình là dùng roi buộc đầy đồng tiền. Một khi quật xuống, máu thịt liền mơ hồ. Cho nên quất ba mươi roi và chém đầu khác nhau duy nhất, chính là chém đầu có thể miễn cưỡng giữ lại toàn thây.
Nhưng Tiểu Tướng biên quân Nguyễn Văn Dũng từng nói qua: “Ức hiếp người trong thảo nguyên không coi vào đâu, nhưng nếu ảnh hưởng tới quy củ của thành Gia Trang, khiến cho những người trong thảo nguyên kia không dám tới, khiến cho hàng năm mất đi hơn mười vạn lượng bạc trắng bóng, thì là một việc tuyệt đối không thể tha thứ”.
….
…
Mùng tám tháng hai, là ngày mở chợ. Những mục dân kia thành thật giao thuế ở cửa thành, sau đó đi tới chợ trao đổi hàng hóa mà mình muốn. Mà tới trưa, thành Gia Trang càng trở nên náo nhiệt. Mục dân có thừa tiền trong người hoặc là thương nhân kiếm được tiền sẽ tràn vào quán ăn, thanh lâu, còn có sòng bạc để tiêu xài. Cho nên mỗi khi tới phiên chợ, nữ tử của thanh lâu hận nhất chính là vào lúc đó thân thể không khỏe mà thiếu đi tiền thưởng của những vị khách hào phóng kia.
Những mục dân kia rất tôn sùng gấm vóc và lá trà của Trung Nguyên, càng tôn sùng nữ tử xinh đẹp da trắng của Trung Nguyên. Dù thảo nguyên không thiếu mỹ nữ, nhưng phần lớn có làn da đen do phơi nắng khi chăn thả, hơn nữa eo lại to như thùng nước. So với những nữ tử trang điểm của thanh lâu kia, thực giống như trời và đất vậy.
Mục dân đều là những người hào sảng, trên cơ bản sẽ không mang theo tiền dư rời khỏi thành Gia Trang. Bọn họ chỉ cần mang theo hàng hóa đi là đủ. Tiền của Đại Nam đối với bọn họ mà nói, thật không có ý nghĩa. Cho nên các cô nương của thanh lâu lại yêu thích mục dân của thảo nguyên hơn những thương nhân keo kiệt của Trung Nguyên.
Thực ra rất nhiều mục dân tới thành Gia Trang với mục đích chủ yếu không phải vì trao đổi hàng hóa, mà là vì tới ba tòa nhà giải trí của thành Gia Trang để tìm sự kích thích.
Ba tòa nhà đó, chính là Thượng Khách Lâu, Hải Dương Quán và Phường Nguyên Bảo.
Lúc Nguyễn Văn Dũng mới tới thành Gia Trang, hắn đã không chỉ một lần muốn dẫn theo tám trăm biên quân đột tập thành Phượng Hoàng ở bên kia dãy núi Sơn Khê. Thậm chí hắn từng lập di thư vì cái lý tưởng này. Phải biết rằng tự tiện khơi mào chiến tranh giữa hai đế quốc cường đại là một tội rất lớn. Cho dù hắn xuất thân từ Lý gia ở Thanh Long thì cũng không gánh vác nổi.
Khai chiến với đế quốc Thiên Thuận không giống khai chiến với các quốc gia khác. Nếu như khiêu khích với Yến Quốc ở phía nam Yên Sơn Nam Cương, thì sẽ được cái đại lão của Binh Bộ khen ngợi là vũ dũng. Còn nếu tùy tiện khơi mào tranh chấp với đế quốc Thiên Thuận, thì nhất định sẽ bị mọi người mắng là ngu ngốc.
Đương nhiên, điều này không có nghĩa là các vị đại lão của Binh Bộ kia không dám cũng như không muốn khiêu khích với đế quốc Thiên Thuận.
Dù sự cường đại của Đại Nam được thể hiện rõ trong một trăm năm qua, nhưng không thể nghi ngờ chính là, cái danh đệ nhất cường quốc vẫn thuộc về Thiên Thuận. Luận về diện tích lãnh thổ quốc gia, Thiên Thuận chỉ kém hơn bốn nước Đại Nam, Nam Yến, Đông Sở, Bắc Tàu cộng lại một chút mà thôi.
Mà đây chỉ là phần nổi của đế quốc Thiên Thuận. Nói tới đế quốc Thiên Thuận, không thể không nhắc tới Đại Tuyết Sơn nằm ở cực tây của đế quốc Thiên Thuận. Trên Đại Tuyết Sơn có một tòa Đại Hộ Tự. Trong tòa Đại Hộ Tự có một Đại Hộ Minh Vương.
Người của thế giới này tin vào Phật giáo. Ngoại trừ Đại Nam tôn sùng Đạo giáo ra, phần lớn các quốc gia khác đều coi Phật giáo là Quốc giáo. Họ tôn vinh Đại Hộ Minh Vương là Phật Tổ.
Đại Tuyết Sơn, Đại Hộ Tự, Đại Hộ Minh Vương đều nằm ở đế quốc Thiên Thuận.
Đây mới là điều khiến cho Đại Nam phải kiêng kỵ Thiên Thuận.
Không chỉ nói trăm vạn lang kỵ của đế quốc Thiên Thuận, cho dù đội quân mạnh mẽ hơn, cũng không tạo bất kỳ áp lực gì cho quân nhân Đại Nam. Cho dù là ba nghìn Kim Thân Tăng Binh trong truyền thuyết của Đại Tuyết Sơn, cũng không khiến cho quân nhân Đại Nam có lòng kính sợ như các quốc gia khác. Quân nhân mà, trời sinh chính là phải chiến đấu, sao phải sợ hãi quân địch?
Từ lúc Đại Nam kiến quốc tới nay, tận lực nâng Đạo giáo của bản thổ. Mặc dù không lập thành Quốc giáo, nhưng trải qua hơn một trăm năm cố gắng, Đạo giáo đã xâm nhập nhân tâm Trung Nguyên. Dù cũng có đệ tử của Phật giáo từ thật xa tới truyền giáo, nhưng rất khó nhận được sự tôn sùng và đãi ngộ như các quốc gia khác.
Nghe nói nhị đệ tử của Đại Hộ Minh Vương là Trí Tuệ Thiên Tôn đã từng tới thăm Đại Nam. Nhưng người của Lễ Bộ Đại Nam căn bản không quan tâm tới hắn. Nếu muốn yết kiến Hoàng Đế bệ hạ của Đại Nam thì có thể… Nhưng phải làm đúng theo quỷ củ là trình quốc thư, sau đó thì thành thật làm lễ của thần tử. Dựa theo quy củ từ trước tới nay của Lễ Bộ, trước tiên ở tạm khách sạn Hoàng gia ở ngoài. Đãi ngộ không khác gì các đặc phái viên của các quốc gia khác. Hoàng Đế muốn gặp ngươi lúc nào thì ngươi mới được tiến cung.
Nghe nói lúc Trí Tuệ Thiên Tôn tiếp nhận lời truyền này của quan viên Lễ Bộ, không khỏi than thở: “Sư tôn nói qua, phía đông là nơi mà yêu ma đầy đường. Thực tế thì Trung Nguyên đã hỗn loạn không chịu nổi. Ta tới đây vốn để xem có thể cứu được mấy người ra khỏi khổ hải thì cứu. Nhưng người Trung Nguyên lại coi trầm luân trong khổ hải là vui, khổ hải là nơi hạnh phúc của bọn họ. Ta không tới cũng được.”
Lời này truyền khắp Đại Nam, bị Lễ Bộ Thượng Thư Độc Cô Tú cười nhạo là mặt dày.
Hoàng Đế Đại Nam từng nói qua, những thứ như Thiên Tôn, Phật Tổ gì đó của Phật giáo kia, chẳng qua đều là một đám tiểu nhân dối trá, da mặt dày mà thôi.
Nhưng không thể không nhắc tới, Đạo giáo hưng thịnh ở Đại Nam âu cũng là do Hoàng Đế Đại Nam tùy hứng mà thôi. Hắn cảm thấy bên trong quốc gia của mình nên có một giáo phái ngang bằng với Phật giáo, bởi vậy liền nâng Đạo giáo lên.
Lại nói tiếp, ảnh hưởng của Đạo giáo với quốc gia kém xa với ảnh hưởng của Phật tông với các quốc gia khác.
Cho dù Tiêu chân nhân của Nhất Khí Quan ở núi Thanh Nhạc từng hiển lộ qua thần tích.
Nghe nói vào tháng tư của một năm nào đó, trong vòng một đêm, núi Thanh Nhạc có thêm một rừng cây đào rộng hơn vạn mẫu. Rồi lại trong vòng một đêm hoa đào nở rộ. Lại trong vòng một đêm tiên đào thành quả. Tiêu chân nhân mời rất nhiều tiên tử của Cửu Thiên hạ phàm uống rượu. Thôn dân dưới núi loáng thoáng nhìn thấy cầu vồng rực rỡ ở giữa sườn núi, loáng thoáng nghe thấy tiên nhạc du dương, lại không thể nhìn thấy chân dung. Trong lúc nhất thời, Đạo giáo trở nên thịnh hành.
Đương nhiên, lúc thần tích kia truyền tới Đại Tuyết Sơn, vị Trí Tuệ Thiên Tôn chỉ cười nhạt một tiếng, bình luận sáu chữ.
Kỹ xảo nhỏ của giun dế.
Đương nhiên, lời bình này truyền lại núi Thanh Nhạc, Tiêu chân nhân cũng cười nhạt một tiếng, bình luận sáu chữ.
Con lừa trọc phun thúi lắm.
Hoàng Đế Đại Nam không đưa ra bất kỳ bình luận gì về việc hoa đào nở rộ, tiên đào thành quả trong một đêm ở núi Thanh Nhạc. Nhưng lại vỗ tay cười to với sáu chữ ‘Con lừa trọc phun thúi lắm’. Sau đó liền phong Tiêu chân nhân làm Quốc Sư.
Những việc này quá xa xôi, đối với Trương Thế Nhân ở thành Gia Trang càng xa xôi.
Hắn không giải thích được bị đưa tới thế giới này. Chuyện mà hắn quan tâm nhất chính là làm sao để sống sót. Sau khi sống sót, chuyện quan tâm nhất chính là làm sao sống tốt. Sau khi sống tốt, chuyện quan tâm nhất chính là làm sao giữ được nó.
Hắn tới thế giới này từ mười lăm năm trước.
Từ một nơi được sinh ra, vừa ra đời thì suýt nữa đã bị quăng vào hố lửa thiêu trụi. Lại không giải thích được cuốn vào một cuộc đuổi giết, bị người mang theo chạy trốn khắp nơi. Trải qua rất nhiều việc, tới hiện tại hắn vẫn nghĩ không thông nguyên nhân là ở đâu.
Hắn mới tới thành biên giới Gia Trang từ ba năm trước.
Sau đó dùng thời gian ba ngày để yên lặng suy nghĩ nhằm thiết kế cơ hội tiếp cận Nguyễn Văn Dũng. Sau đó dùng thời gian bảy ngày khuyên bảo Nguyễn Văn Dũng nghe theo ý kiến của hắn. Rồi lại dùng thời gian mười lăm ngày, sử dụng danh nghĩa của Nguyễn Văn Dũng hiệu triệu tám trăm biên quân ra ngoài thu ba nghìn lượng bạc. Dùng thời gian hai tháng xây dựng một tòa mộc lâu cao ba tầng. Lại dùng thời gian nửa năm, đã khiến tòa mộc lâu ba tầng này trở thành một tòa kiến trúc biểu tượng cho thành Gia Trang.
Năm thứ hai, hắn hiệu triệu dân chúng toàn thành gom góp tài chính xây dựng thêm Phường Nguyên Bảo, lại xây Thượng Khách Lâu, và một tòa thu hút được con gà đẻ trứng vàng là Hải Dương Quán. Tết âm lịch năm thứ hai, dân chúng toàn thành đều thu được tiền lãi, hơn nữa không ít.
Bởi vậy Trương Thế Nhân trở thành một người đặc thù nhất của thành Gia Trang.
Đại chưởng quầy của Phường Nguyên Bảo.
…
…
Chính bởi vì thành Gia Trang có những sinh ý này, chính bởi vì người thảo nguyên chi tiêu mạnh tay, Tiểu Tướng Nguyễn Văn Dũng của thành Gia Trang quyết đoán buông tha ý niệm đi đánh thàn Phượng Hoàng. Hắn chuyển mục tiêu sang kiếm tiền. Tranh thủ thời gian ngắn nhất biến những người thảo nguyên ở bên kia dãy núi Sơn Khê thành những kẻ nghèo hèn.
Không thể không nói, lý tưởng này tương đối cao thượng…
Bốn mươi tám trò đánh cuộc ở Phường Nguyên Bảo đều do Trương Thế Nhân nghĩ ra.
Một người xem phim Đổ Thần lớn lên như hắn, nghĩ ra được những trò đó không phải là việc khó gì.
Những ngày mở chợ là những ngày vui vẻ nhất của dân trong thành. Bởi vì nó có nghĩa rằng người thảo nguyên lại ngốc ngơ ngốc ngẩn mang tiền tới. Hơn nữa từ khi thành Gia Trang có ba tòa nhà kia, người thảo nguyên tới càng ngày càng nhiều. Mà bởi vậy, bạc chia cho dân chúng toàn thành cũng càng ngày càng nhiều. Thế nên dân chúng yêu mến Trương Thế Nhân tự nhiên cũng càng ngày càng nhiều.
Trương Thế Nhân chẳng những là đại chưởng quầy của Phường Nguyên Bảo, hắn còn có một thân phận khác.
Một thám báo của đội thám báo biên quân.
Rất nhiều người không hiểu, một người như hắn vì sao không yêu cầu Nguyễn Văn Dũng ban cho một quân chức. Nhưng tất cả mọi người đều tin tưởng, một người như Trương Thế Nhân chắc chắn sẽ không làm chuyện lỗ vốn. Chỉ có chính bản thân Trương Thế Nhân tự mình biết. Nếu trên thế giới này có một nơi chính thức an toàn, hoặc có thể nói là một nơi mà những kẻ đuổi giết hắn kia không dám tới, thì chính là kinh đô Thanh Long của Đại Nam.
Mà muốn tiến vào Thanh Long thì lại cần tiền, cần thân phận.
Hai thứ để tiến vào thành Thanh Long này, hắn muốn tìm được ở thành Gia Trang.
Từ lúc bắt đầu, mục tiêu của hắn không phải ở thành Gia Trang, mà đã là ở thành Thanh Long rồi.
Từ lúc hắn sinh ra tới hiện tại, mười lăm năm, người bảo vệ hắn chỉ còn lại hai người. Ba năm trước đây, trong thành Đại Lý của nam Yến Quốc, vì để tung hỏa mù đánh lạc hướng đám người đuổi giết kia, bảy tên hộ vệ sau khi thương nghị đã quyết định, năm người dẫn theo một đứa nhỏ mà họ vừa mới cướp được chạy về hướng đông bắc, mà hai người còn lại thì bảo vệ hắn chạy về hướng tây bắc, đi ngược với phương hướng của đám truy binh để tiến vào Đại Nam, sau đó tới thành Gia Trang.
Trương Thế Nhân biết năm người kia đã dẫn dắt truy binh thành công. Cho nên hắn mới có ba năm yên bình ở thành Gia Tranh. Nhưng hắn cũng biết, năm người, còn có đứa nhỏ không quen biết kia, chỉ sợ đã chết hết. Với thế lực cường đại truy đuổi bọn họ, một khi phát hiện ra bị lừa sẽ chậm rãi điều tra từ đầu… Ba năm là khoảng thời gian đủ lâu. Trương Thế Nhân không cho rằng Gia Trang còn an toàn.
Người bảo vệ hắn chỉ còn lại hai người. Sau này hắn phải học tự bảo vệ bản thân.
Chỉ có tới kinh đô Thanh Long, những người kia mới không dám hoành hành.
Ở quán thịt chó Kê Kê mời đám người Phó Trần Tuấn Nghĩa và Trần Đức Nhân ăn lẩu thịt chó, uống hết một túi da rượu, Trương Thế Nhân đã say có chút quên hết trời đất. Hắn kéo tay của bà chủ quán thoạt nhìn đã ba mươi bảy, ba mươi tám của quán thịt chó Kê Kê dẫu rằng tới hiện tại Trương Thế Nhân vẫn chưa biết tên của bà chủ quán này. Nàng ta đưa tình liếc nhìn Trương Thế Nhân, sau đó gõ vào đầu Trương Thế Nhân một cái, khiến hắn tỉnh rượu bảy tám phần.
- Lần trước ngươi dùng biện pháp này để quịt tiền rượu của ta. Hôm nay lại dùng phải không?
Bà chủ quán chống nạnh, sắc mặt đỏ bừng nói:
- Cũng bởi vì mấy câu lần trước của con bê con ngươi, ta đây thiếu chút nữa bỏ tên quỷ lười kia. May mà ta không tin chuyện ma quỷ của ngươi, bằng không lão nương đi đâu tìm được một vị tướng công đánh mà không dám cãi lại? Đúng không, tướng công…
Ông chủ của quán thịt chó Kê Kê là một người có râu quai nón, nhưng không hề tục tằn, trái lại có chút phong độ của người tri thức. Nghe thấy vợ mình hỏi, ông chủ quán hơi run một chút, lập tức gật đầu nói:
- Đúng, đúng, đúng, thế gian này tìm đâu ra được một người làm cho nương tử thỏa mãn hơn ta?
Mọi người thường gọi vị ông chủ quán này là Nguyễn Vân Cầu, hắn không phải là dân bản địa, nghe nói là tới đây từ mười năm trước, quê quán ở nơi nào không ai biết. Ngay cả tuổi của hắn cũng không ai biết rõ. Tuy nhiên thoạt nhìn, hắn cùng lắm cũng chỉ khoảng bốn mươi tuổi. So với bà chủ quán thì lớn hơn một chút. Làm người rất nhát gan, sợ phiền phức, điển hình của sợ vợ như sợ hổ.
Trương Thế Nhân vuốt vuốt cái đầu bị cốc, nhịn không được cười nói:
- Ai bảo là ta muốn quịt tiền rượu, lần trước thực sự là uống say.
Bà chủ quán gầm lên:
- Ngươi tới quán của lão nương, mười lần thì có chín lần uống say!
- Còn không phải do rượu Lê Hoa của ngươi ủ hơi nặng sao…
Trương Thế Nhân lấy bạc từ trong ngực ra thanh toán, lần nữa kéo tay của bà chủ quán, nói ra với giọng đầy thân tình:
- Lúc nào muốn bỏ hắn thì tới tìm ta nhé. Ta đã bị chinh phục dưới váy của nàng. Mị lực của nàng ở cả thành Gia Trang không có ai sánh bằng. Nàng luôn xuất hiện ở sâu trong tâm trí của ta, trong giấc mơ của ta, trong trái tim của ta, trong từng tiếng ca của ta…
Nói xong câu đó, Trương Thế Nhân quay đầu bước đi, vẻ mặt kiên quyết.
Khuôn mặt của bà chủ quán lại đỏ, nhịn không được lẩm bẩm:
- Nhiều năm như vậy, rốt cuộc có một người biết thưởng thức ta… Vân Cầu, mị lực của ta so với năm đó có phải không giảm đi không?
- Phải…
Nguyễn Vân Cầu thở dài:
- Ta chỉ trông thấy, tiểu tử kia lại thuận tay lấy đi một bầu rượu…
- A?
Bà chủ quán khẽ giật mình, lập tức xoay người tát lên ót của Nguyễn Vân Cầu một cái:
- Trông thấy sao không ngăn cản hắn lại.
…
…
Trở lại Phường Nguyên Bảo, tiến vào thư phòng, Trương Thế Nhân đóng cửa chính và cửa sổ lại, tiện tay ném bầu rượu Hạnh Hoa về phía sau. Cũng không biết một bóng đen lóe ra từ chỗ nào, nhẹ nhàng xảo diệu tiếp được bầu rượu kia. Thân ảnh vừa chuyển, lại biến mất không thấy.
Trương Thế Nhân đặt hộp cơm ở trên bàn, chỉ chỉ nói:
- Nhiều năm đều như vậy, một người chỉ ăn thịt không uống rượu, một người chỉ uống rượu không ăn thịt… Hai người các ngươi không thấy chán à?
Lúc hắn ngồi xuống, hộp cơm kia đã biến mất không thấy.
- Không thể ngồi ngay ngắn ăn được à?
Hắn nhếch miệng nói.
Không có ai đáp lại, người uống rượu thì vẫn uống, người ăn thịt thì vẫn ăn.
Trên xà nhà, một nữ tử mặc quần áo đỏ thẫm nằm đó. Thấy không rõ diện mạo của nàng, nhưng dáng người cực kỳ thướt tha. Nàng tựa vào xà nhà, uống từng hợp rượu lớn, không nói một lời. Một bầu rượu Lê Hoa này cũng phải năm cân, đủ để khiến cho ba biên quân hung hãn ngã gục. Nhưng nàng hớp từng hớp lớn, sắc mặt không hề thay đổi một chút nào.
Đằng sau giá sách, là một người mặc áo lông dày ngồi đó. Là một lão già gầy gò, khuôn mặt hèn mọn bỉ ổi. Hắn ngồi chồm hổm trên mặt đất miệng lớn ăn thịt. Một hộp cơm không dưới bảy tám cân thịt chó, một lát đã bị hắn xơi sạch sẽ. Ăn xong số thịt chó đó, lão già gầy như que củi kia lau mỡ trên miệng, thỏa mãn vỗ vỗ bụng.
- Sướng!
Hắn nói.
Bùm một tiếng, bầu rượu đập vào trán của hắn.
- Sướng cái đầu ngươi!
Nữ tử áo đỏ ở trên xà nhà ngồi thẳng người, nhìn chằm chằm vào Trương Thế Nhân, nói:
- Ta ăn chưa no!
Coi rượu như cơm.
Trương Thế Nhân không trả lời nàng, mà dùng giọng điệu rất chăm chú nói:
- Đã nhiều năm như vậy, ta cũng trưởng thành rồi… Hiện tại có phải tới lúc các ngươi nói cho ta biết, ta rốt cuộc là ai không? Sắp phải rời thành Gia Trang tới Thanh Long rồi, ngay cả ta là ai, ta cũng không thể không biết chứ?
- Nếu có một ngày Hoàng Đế của Đại Nam hỏi xuất thân của ta, ta cũng không thể trả lời hắn rằng… Chính ta cũng không biết a!
Cô gái mặc áo đỏ có một đôi chân dài khiến cho nam nhân không thể dời mắt. Nàng ngồi trên xà nhà, tư thế có chút không lịch sự. Là một cô gái, nàng không nên mở rộng chân của mình như vậy. Bởi vì mở rộng, cho nên váy dài tuột tới tận đầu gối, lộ ra hai cái chân xinh đẹp, trắng trẻo. Nhiều một phần thì mập, ít một phần thì gầy.
Nếu đôi chân này xuất hiện ở Hải Dương Quán, nhất định sẽ dẫn tới vô số ánh mắt tham lam của khách.
Nếu chủ nhân của đôi chân này nguyện ý, sẽ có không ít người quỳ dưới chân của nàng, hôn ngón chân của nàng, thậm chí là ngậm ở trong miệng.
Một đôi chân rất đẹp, rất đẹp.
Nàng chưa say, nhưng ánh mắt lờ đờ mơ hồ nhìn xem thiếu niên thanh tú ngẩng đầu nhìn nàng kia. Nàng biết, ở góc nhìn đó của hắn, sẽ nhìn thấy vài thứ không nên nhìn. Nhưng nàng không thèm để ý chút nào.
Phải biết rằng năm đó dẫn theo thiếu niên này chạy trốn, ngày nào nàng cũng thay tã cho hắn, bón cơm cho hắn. Thậm chí lúc hắn còn bé, phần lớn là ngủ cùng hắn. Tiểu tử vô sỉ này rất thích ôm cổ nàng mới ngủ.
Năm đó, nàng mới mười hai tuổi. Năm đó, tên bại hoại này lục lọi bộ ngực phẳng của nàng cũng không lục lọi được cái gì.
Đương nhiên, nếu nàng biết người này lúc còn rất nhỏ vân vê hai hạt phấn hồng của nàng, trong đầu đã có tà niệm, nàng nhất định sẽ không do dự thiến tên bại hoại này ngay.
Nhưng ai có thể nghĩ tới, lúc hắn còn là trẻ con, tâm lý đã thành thục rồi?
Nàng biết hắn là một thiên tài, nhưng nhất định không biết vị thiên tài này là là người sống lại.
Mà lão già khô quắt ngồi đằng sau giá sách còn đang dư vị mùi thịt chó ngơ ngác một lát. Nhìn vẻ mặt nghiêm túc của Trương Thế Nhân, hắn vô ý thức quay đầu nhìn hộp kiếm chưa bao giờ ly khai bản thân. Nghĩ tới bí mật lớn cất giấu trong cái hộp kiếm kia, trong lòng không khỏi thổn thức.
Qua nhiều năm như vậy, hộp kiếm vẫn một mực trong tay hắn.
Qua nhiều năm như vậy, chỉ có hắn là biết trong hộp kiếm cất cái gì.
Mà ngay cả Mộc Tiểu Yêu cũng không biết.
Cô gái mặc áo đỏ ngồi trên xà nhà chính là Mộc Tiểu Yêu. Eo của nàng rất nhỏ, cực kỳ nhỏ. Đối lập, mông của nàng lại vểnh lên, chân của nàng rất dài.
Năm đó, lúc người kia giao Trương Thế Nhân còn đang trong tã lót cho bọn họ, đã từng gọi riêng Mộc Tiểu Yêu và lão già khô quắt tới thư phòng dặn dò một phen. Nhưng mười lăm năm trôi qua, Mộc Tiểu Yêu không biết người kia đã nói với lão già khô quắt cái gì. Lão già khô quắt cũng không biết người nọ nói gì với Mộc Tiểu Yêu.
Trương Thế Nhân có chút gian nan rời ánh mắt từ đôi chân tuyết trắng kia trở về. Nhìn lão già khô quắt mặc bộ áo lông mười lăm năm chưa từng thấy thay qua một lần, nói:
- Ta vẫn tưởng tên lão là Đại Khuyển.
Trước kia Mộc Tiểu Yêu luôn gọi hắn là Đại Khuyển. Bởi vì cái mũi của hắn linh mẫn, tới chó cũng phải ghen ghét. Tiên tới cực điểm, gọi là Đại Tiên. Ma tới cực điểm, gọi là Đại Ma. Chó đến cực điểm gọi là…Thương Quốc Hận. Qua nhiều năm như vậy, dựa vào cái mũi của hắn mà tránh được nhiều lần nguy hiểm, cũng tìm được vô số con đường để chạy trốn. Từ lúc Trương Thế Nhân tới thế giới này, mới phát hiện thì ra cái mũi của con người cũng có thể vận dụng tới mức thần kỳ như vậy.
Độc vật bình thường, chỉ cần ngửi thoáng qua là hắn có thể phân biệt được.
Thậm chí cái mũi của hắn còn có thể phân biệt được con ruồi bay qua là đực hay cái. Nhớ lúc trước Trương Thế Nhân không tin, hỏi hắn làm sao mà phân biệt được, Đại Khuyển nói ra với giọng khẳng định: “Bản thân ruồi cái đã có mùi dâm đãng”… Bởi vì một câu này, mà hắn bị Mộc Tiểu Yêu đánh cho suýt nữa lệch mũi.
- Mộc Tiểu Yêu, mời ngươi gọi tên của ta!
Lão già gầy như que củi chỉ vào Mộc Tiểu Yêu, gầm lên nói:
- Ta có tên!
- Được rồi Đại Cẩu.
Mộc Tiểu Yêu nằm trên xà nhà, khoát tay áo, nhìn không thấy mặt của nàng.
- Tên ta là Đại Khuyển!
- Được rồi Đại Cẩu.
Trương Thế Nhân không hiểu. Hắn phát hiện mình ở chung với hai người này đã mười lăm năm, nhưng vẫn không biết gì về bọn họ. Hắn ngồi xuống ghế, lẩm bẩm nói:
- Thương Quốc Hận…Cái tên thật hay, có chút tang thương. Nếu không nhìn thấy dung mạo của lão, cái tên cũng có thể lừa gạt được vài đứa bé gái… Lão lại không thích cái tên đó. Chẳng lẽ cái tên đó còn khó nghe hơn Đại Khuyển?
- Bởi vì Đại Khuyển là cái tên mà chủ nhân đặt cho hắn.
Mộc Tiểu Yêu ở phía trên, chậm rì rì nói.
- Được rồi.
Trương Thế Nhân ngồi thẳng người, từng chữ từng câu nói:
- Nói cho ta biết, chủ nhân mà các ngươi nhắc tới rốt cuộc là ai? Có quan hệ như thế nào với ta? Qua nhiều năm như vậy, đều là do các ngươi bảo vệ ta, ta rất cảm động. Nhưng điều ta không rõ chính là vì sao ta lại bị đuổi giết? Có phải có quan hệ tới chủ nhân mà các ngươi nhắc tới không? Nếu đúng, thì giải thích cho ta một câu. Ta cũng không thể cứ hồ đồ như vậy, ngay cả mình là ai cũng không biết.
- Ngươi là Trương Thế Nhân.
Đại Khuyển chăm chú đáp:
- Trên trời dưới đất, độc nhất vô nhị, Trương Thế Nhân.
- Rồi, rồi.
Trương Thế Nhân cười khổ, lắc đầu:
- Đây là lần thứ một trăm hai mươi bảy ta hỏi thân thế của ta với các ngươi. Cũng là lần thứ một trăm hai mươi bảy các ngươi trả lời ta như vậy. Đúng, ta là Trương Thế Nhân, trên trời dưới đất độc nhất vô nhị Trương Thế Nhân… Một Trương Thế Nhân mà ở bên cạnh có hai cao thủ biến thái, nhưng bản thân lại không thể tu hành, phải không?
Do dự một lát, hắn lại hỏi:
- Hai người các ngươi là cao thủ biến thái?
Mộc Tiểu Yêu lắc đầu, Đại Khuyển lại nhẹ gật đầu.
- Điều này…
Đại Khuyển do dự một lát, có chút buồn vô cớ nói:
- Đừng lo lắng, ta một mực không tin, một người xuất thân như ngươi làm sao lại không thể tu hành? Cho dù là người bình thường, một trăm hai mươi tám huyệt đạo cũng phải mở ba tới năm cái huyệt. Một người không thông một huyệt nào như ngươi khẳng định là có vấn đề. Nhưng ta lại không nghĩ ra vấn đề ở đâu. Ngươi đừng vội. Đợi chúng ta tới Thanh Long tìm người giỏi y thuật kiểm tra xem thế nào.
Trương Thế Nhân không nói gì, vẫn chưa từ bỏ ý định, lại hỏi một câu:
- Thực sự không muốn nói cho ta biết, ta rốt cuộc là ai?
- Chưa tới lúc.
Đại Khuyển lắc đầu, cuộn mình nằm xuống đằng sau giá sách:
- Đến lúc ta giao cho hộp kiếm này cho ngươi, ngươi tự nhiên sẽ biết.
Trương Thế Nhân nhìn hộp kiếm đen xì bẩn thỉu kia, ánh mắt tuyệt vọng. Từ nhỏ tới lớn, hắn từng thử mở cái hộp kiếm kia không ít hơn năm trăm lần. Nhưng tiếc rằng chưa có lần nào thành công.
Hắn thu hồi ánh mắt ra khỏi hộp kiếm, nhìn sổ sách phía trước:
- Ngoại trừ kiếm tiền ra, ta còn có thể làm gì?
Mộc Tiểu Yêu nằm trên xà nhà, nhẹ nhàng thở dài, lầm nhẩm những lời mà chỉ có chính nàng ta mới nghe thấy:
- Một trăm hai mươi tám huyệt khiếu… Có thể thông mới là kỳ quái…
Nàng sờ một chỗ ở trong ngực, vật này nàng đã ẩn dấu mười lăm năm rồi.
…
…
Cách thành Gia Trang mấy vạn dặm, bên bờ Cửu Long, là một thôn đánh cá nhỏ không ai để ý.
Trên mặt đất nằm ngổn ngang mười bốn, mười lăm cỗ thi thể mặc quần áo giống nhau. Nhưng vết thương trí mạng lại không giống nhau. Nếu là một bộ đầu có kinh nghiệm phong phú, khi chứng kiến những thi thể này, ít nhất có thể thấy bốn thủ pháp giết người. Thiên hạ đã ổn định từ hơn trăm năm trước, cách cục đã thành, loạn thế kết thúc, cho nên việc giết người là một việc không hề tầm thường. Hôm nay lại thoáng cái chết hơn mười người. Không thể không khiến mọi người coi trọng.
Bộ đầu Phương Hận Thủy từ huyện thành cách đây ba mươi dặm chạy tới, ngồi xổm xuống cẩn thận kiểm tra những thi thể kia.
Trang phục giống nhau, trường báo màu xám, bên cạnh không có binh khí.
Phương Hận Thủy nhìn một cỗ thi thể, thấp giọng tự nhủ: ”Bóp nát cổ… Sát nhân là một người có lực tay lớn. Còn có một người dùng đao, một người dùng côn, một người khác dùng gì nhỉ? Chùy? Búa?”
Hắn quay đầu nhìn thi thể bên cạnh. Khuôn mặt cơ hồ bị đập nát, không trông thấy rõ ngũ quan. Cái mũi nát, hai mắt cơ hồ lồi ra hốc mắt, kể cả hàm răng trong miệng cũng vỡ nát. Tổn thương này tất nhiên là do một vũ khí nặng nề đập vào mặt. Nhưng hắn không xác định được vũ khí nặng đó là cái gì.
Quá lớn, không giống như chùy hoặc búa.
Hẳn là một thứ vũ khí rất phẳng gì đó. Nếu là chùy, dựa vào lực lượng này, đã bể đầu rồi.
Chết kiểu này, đã khiến Phương Hận Thủy bất giác nghĩ tới một thứ.
Quạt sắt.
Đúng vậy, thật giống như một cây quạt sắt cực lớn đập vào mặt người chết vậy.
- Bộ Đầu!
Cách đó không xa, một Bộ Khoái nhặt một cái tròn tròn gì đó lên nhìn, nhưng không nhìn ra là cái gì. Cái viên tròn tròn này bị vùi một nửa vào cát. Nếu không phải lúc đi qua hắn đá mất hòn sỏi thì sẽ không phát hiện. Hạt châu này làm bằng gỗ, phía trên còn có một lỗ nhỏ.
Phương Hận Thủy đi tới, nhận lấy hạt châu, vừa nhìn, sắc mặt lập tức thay đổi.
- Là Phật châu!
Hắn thấp giọng hô một tiếng, sau đó xoay người lại, ngồi xổm xuống từng thi thể kia, lột bỏ mũ của bọn họ. Lúc nhìn thấy giới sẹo trên đầu bọn họ, sắc mặt của Phương Hận Thủy lập tức trở nên khó coi.
- Đều là người của Phật tông.
Hắn đứng lên, biểu lộ ngưng trọng.
Dù Đại Nam không có cảm tình gì với đám đệ tử Phật tông mở miệng ngậm miệng là nói lời nhân nghĩa kia. Hơn nữa người của Phật tông cũng không có đặc quyền gì ở Đại Nam. Nhưng chuyện này xác thực là không tầm thường. Chỉ sợ một Bộ Đầu của một huyện thành nho nhỏ như hắn cũng ép không được. Ở bên ngoài Đại Nam, Phật tông có địa vị tuyệt đối. Thậm chí có mấy quốc gia, Đế Vương là do Phật tông tuyển chọn.
Quyền lực lớn nhất của thế giới này, không phải ở trong tay một vị Đế Vương nào đó, mà là ở bên trong Đại Hộ Tự của Đại Tuyết Sơn!
Đại Hộ Minh Vương nói câu nào thì câu đó còn có phân lượng hơn tất cả lời của các vị Đế Vương.
Phật tông và Đạo giáo bản thổ Đại Nam, từ trước tới nay không hợp nhau. Nếu Phật tông dựa vào chuyện này chỉ trích Đại Nam… Phương Hận Thủy rùng mình một cái, xoay người phân phó:
- Mang thi thể chở về huyện nha. Để cho Huyện Lệnh đại nhân xử lý.
Trên một cây đại thụ cách hiện trường vụ án mấy trăm mét, một người ẩn thân trong đại thụ rậm rạp, nhìn đám bộ khoái rời đi, khóe miệng nhếch lên, nhảy xuống đại thụ. Vèo một cái đã không thấy tăm hơi. Chạy tới một khu rừng, cước bộ của hắn không dừng, mà chạy tới chỗ sâu nhất.
- Dạ Kiêu, thế nào rồi?
Hắn vừa mới dừng bước, một người nhảy xuống một cây đại thụ, ngăn đón hỏi: - Đám chó săn của Đại Nam đi chưa?
Nam tử tên là Dạ Kiêu gật đầu:
- Đã rời đi. Tuy nhiên có vẻ như tay tiểu Bộ Đầu kia có chút bản lĩnh. Hoành Côn…Thiếu chủ đâu?
- Cách đây hai dặm…Ngươi gọi nàng là Thiếu chủ thuận miệng nhỉ.
- Gọi nhiều năm như vậy, sao không thuận được!
Dạ Kiêu cười cười, bước nhanh vào rừng.
Dưới một gốc cây hòe cực kỳ cao lớn, có hai người cầm binh khí đề phòng. Một người là nam tử lực lưỡng, cao chừng hai thước rưỡi. Hắn đứng đó như một tòa tháp sắt vậy. Dù mùa đông ở ven bờ Cửu Long không lạnh, nhưng cũng không phải là ấm áp. Vậy mà nam tử này lại để lộ lồng ngực, hiện ra da thịt như đồng đỏ. Điều khiến người ta chú mục nhất, chính là hình xăm Kỳ Lân đỏ tươi trên thân hắn.
Người này quá hùng tráng, khiến cho người ta sinh lòng sợ hãi. Hắn nắm trong tay một thanh phác đao cực lớn. Sống dao còn dày hơn cả ván cửa.
Người còn lại dùng nón vành che khuất mặt, đầu cúi xuống, đang lau binh khí trong tay. Binh khí rất đặc biệt.
Đó là một đôi quạt bằng đồng.
Phía dưới cây hòe có hai cô gái ngồi đó. Một người cúi đầu như đang ngủ. Nàng ôm một thanh kiếm trong ngực. Kiếm không vỏ, cũng không hộp. Thân kiếm như sáng như nước, khiến lòng người rung động. Bởi vì cúi đầu nên không trông thấy diện mạo của nàng. Nhưng dáng người của nàng cũng khiến cho người ta chú mục rồi.
Bên cạnh cô gái ôm kiếm là một cô gái khác.
Nàng thoạt nhìn mười lăm mười sáu tuổi, đang ngẩng đầu nhìn bầu trời.
Nàng có một mái tóc đen nháy, mặc một bộ áo trắng khiến mái tóc càng thêm bắt mắt. Mặt của nàng rất trắng, có chút suy yếu. Thân hình gầy gò, bả vai đơn bạc càng làm cho người ta thương tiếc.
Khuôn mặt của nàng không phải là đẹp kiểu nghiêng ngước nghiêng thành. Lúc đầu nhìn, nàng rất bình thường. Nhìn kỹ hơn, sẽ phát hiện ngũ quan của nàng cực kỳ tinh tế. Nếu lại nhìn kỹ hơn, sẽ phát hiện thực ra nàng rất mê người. Chỗ mê người nhất, chính là một đôi mắt sáng ngời thanh tịnh. Rất thanh tịnh, thanh tịnh khiến cho người ta phải đố kỵ. Đôi mắt này nhìn cái gì đó, có lẽ sẽ thấy những thứ mà người bình thường không thấy.
- Thiếu chủ.
Dạ Kiêu đi nhanh tới, có chút sốt ruột nói:
- Chúng ta đi được rồi. Truy binh có thể tìm đến.
- Đi đâu?
Thiếu nữ mặc áo trắng có chút đau xót nói:
- Các ngươi tính toán để ta làm kẻ chết thay bao lâu nữa?