Ngày 17/2, tại Phnôm Pênh (Campuchia-CPC), phiên tòa xét xử tội ác của Khơme Đỏ (ECCC) đã bắt đầu phiên sơ thẩm.
Trừ Pol Pot và Ta Mok đã chết, những tên cầm đầu khác của Khơme Đỏ như Nuon Chea, Khieu Samphan, Leng Sary, Leng Thirith hoặc những tên tội phạm khác như Guek Eav Kaing, có biệt danh là Duch, trại trưởng trại thẩm vấn và tra tấn khét tiếng mang mật danh S-21 (nhà tù Toul Seng) dưới thời Khơme Đỏ... sẽ phải đối mặt với công lý để trả lời những tội ác chống lại loài người mà chúng phạm phải trong thời gian Khơme Đỏ cầm quyền ở CPC từ năm 1975 đến 1979.
Để bạn đọc hiểu rõ hơn và có hệ thống về những tội ác diệt chủng mà bè lũ Pol Pot - Leng Sary - Khieu Samphan, chúng tôi xin giới thiệu loạt bài được tổng hợp từ những ghi chép cá nhân và nhiều nguồn tư liệu khác.
Với "chiến thắng" ngày 17/4/1975 làm tan rã chế độ Lon Nol được Mỹ hậu thuẫn, Khơme Đỏ tiến vào Phnôm Pênh. Ngày 17/4/1975 té ra lại không phải là "ngày giải phóng" như mong đợi của hầu hết người CPC khi đó mà trở thành "vết đen" trong lịch sử dân tộc Khơme. Tai họa bắt đầu khi Ban lãnh đạo Khơme Đỏ đứng đầu là Pol Pot thực hiện chủ trương "lọc sạch" xã hội CPC để xây dựng một "xã hội mới".
Pol Pot tuyên bố: "Đây là năm của Zezo" và xã hội sẽ được "lọc sạch". Chủ nghĩa tư bản, văn hóa phương Tây, lối sống thành thị, tôn giáo và mọi ảnh hưởng của nước ngoài sẽ bị loại bỏ.
Thế là phần lớn ngoại quốc buộc phải rời khỏi CPC. Ngoại ngữ bị cấm sử dụng. Hầu hết các sứ quán các nước tại Phnôm Pênh bị đóng cửa. Mọi sự trợ giúp về thuốc men và kinh tế của thế giới bị từ chối. Báo chí, truyền hình không được hoạt động. Đài thu thanh bị tịch thu (người dân CPC chỉ được phép nghe đài phát thanh của Khơme Đỏ qua hệ thống loa công cộng).
Các phương tiện giao thông tư nhân, từ xe đạp đến xe gắn máy và ôtô, đều bị tịch thu. Việc sử dụng điện thoại hoặc thư tín bị cắt. Tiền không được phép lưu hành. Chợ không được họp. Các doanh ngiệp bị đóng cửa. Hoạt động tôn giáo bị cấm. Y tế, giáo dục bị đình trệ. Và ngay cả quyền làm cha mẹ cũng bị tước bỏ. CPC trở thành "ốc đảo", gần như cắt đứt mọi liên hệ với thế giới bên ngoài.
"CPC trước cách mạng", theo phân tích của Pol Pot, "có 5 giai cấp là nông dân, công nhân, tư sản, tư bản và phong kiến". Nhưng dưới chế độ "CPC dân chủ", được xác định trong Hiến pháp năm 1976 của nhà nước này, "chỉ bao gồm nông dân, công nhân và tất cả những người lao động CPC khác". Điều đó là các thành phần xã hội khác không được phép tồn tại.
Khơme Đỏ đã "lọc" xã hội CPC như thế nào?
Một trong những hành động đầu tiên của Khơme Đỏ sau "chiến thắng" 17/4/1975 là thực hiện cuộc "sơ tán" khổng lồ, đẩy toàn bộ dân thành thị về nông thôn để biến họ thành "nông dân tập thể" mà chỉ riêng cuộc di cư cưỡng bức này cũng đã khiến hàng chục ngàn người phải bỏ mạng trên đường đi.
Riêng thủ đô Phnôm Pênh, với 2,5 triệu người (kể cả khoảng 1,5 triệu người từ các địa phương khác đến lánh nạn trong thời gian chiến tranh), chỉ trong ít ngày đã gần như trống rỗng. Những người ốm đau, bệnh tật cũng bị đưa đi. Các bệnh viện rỗng tuếch, không còn một bóng bệnh nhân.
Dân thành thị bị coi là "dân mới" (để phân biệt "dân cũ" sống ở các vùng nông thôn do Khơme Đỏ kiểm soát trong thời kỳ chiến tranh) mà Khơme Đỏ liệt vào loại "không ủng hộ" hoặc "không đồng tình" với "cuộc kháng chiến" của chúng. Đối với "dân mới", phương châm của Khơme Đỏ là "giữ mày lại cũng chẳng lợi gì hết mà giết mày cũng chẳng thiệt gì".
Phải "tẩy não" để xóa mọi ảnh hưởng của "bọn đế quốc, tư bản và phong kiến" vì đó là những "mầm mống độc hại phá hoại bộ máy lãnh đạo của nhà nước ta", một báo cáo về "tình hình đất nước" năm 1977 của Khơme Đỏ nhấn mạnh như vậy.
Bác sĩ, luật sư, giáo viên và trí thức nói chung, những người giàu có, sư sãi và liên chức chính phủ của Lon Nol đều bị coi là "tàn dư của xã hội cũ" và "phải bị quét sạch"... Hàng loạt cựu sĩ quan và binh lính của quân đội Lon Nol đã bị giết cùng vợ con họ.
Mọi thứ sản phẩm của chủ nghĩa tư bản đều bị coi là "cặn bã" phải "thải loại" và tất nhiên dân chúng CPC không được phép sử dụng. Dưới thời Khơme Đỏ, toàn dân phải mặc một kiểu quần áo màu đen và sống theo chế độ "tập thể" hết sức cực đoan: Làm tập thể, ở tập thể, ăn tập thể và thậm chí cưới tập thể, người ta lấy nhau chỉ theo sự chỉ định của Angkar (Tức "tổ chức").
Không ai có quyền sở hữu tư nhân hoặc sở hữu cá nhân với bất cứ thứ gì. Sau ngày giải phóng 7/1/1979, người ta đã phát hiện ra ở Phnôm Pênh chứa vô số khóa Viro, chính hiệu Italia sản xuất, nhưng không có chìa. Trái lại, ở một nơi khác người ta tìm thấy hàng đống chìa mà không có khóa. Hoặc có nơi chứa hàng nghìn chiếc giầy tây loại xịn của Italia hoặc Pháp với đủ các cỡ, các màu nhưng toàn bên chân phải. Một chỗ khác lại toàn giầy chân trái. Có lẽ chỉ có Khơme Đỏ mới làm như thế.
Không chỉ "lọc" để các loại "tàn dư" và "cặn bã" của xã hội cũ mà Khơme Đỏ còn tiến hành thanh lọc ngay trong nội bộ của chúng để làm "trong sạch" đội ngũ, tức là loại bỏ tất cả những ai mà chúng nghi ngờ là "phản bội" và không "trung thành" hoặc không tán thành chính sách của chúng.
Thực chất những cuộc thanh lọc nội bộ này, theo phân tích của nhiều nhà nghiên cứu, là nhằm duy trì địa vị lãnh đạo số một của Pol Pot. Không ít cán bộ cấp cao của Khơme Đỏ, trong đó có cả cấp "Ủy viên thường vụ Trung ương" như Vom Vet hay cấp bộ trưởng như Hu Nim đã bị bắt, bị giam cầm, bị thẩm vấn, bị tra tấn rồi bị hành quyết. Cũng như Khieu Samphan, Hu Nim từng du học ở Pháp rồi về phục vụ chế độ Sihanouk cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960 (năm 1958 được bầu làm nghị sĩ Quốc hội).
Năm 1967 ông đi theo các lực lượng Khơme Đỏ. Ngày 5/51970, Chính phủ Vương quốc đoàn kết dân tộc CPC ra đời (được hình thành trên cơ sở liên minh giữa lực lượng kháng chiến của Khơme Đỏ và các lực lượng bảo hoàng của cựu vương Norodom Sihanouk đang lưu vong ở nước ngoài khi đó đều có chung mục tiêu lật đổ chế độ Lon Nol được Mỹ hậu thuẫn) và Hu Nim trở thành bộ trưởng thông tin (Khieu Samphan làm Phó Thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng).
Sau ngày 17/4/1975, Hu Nim tiếp tục giữ chức Bộ trưởng Thông tin trong chế độ "CPC dân chủ". Nhưng rồi ông bị tình nghi "gián điệp" do CIA gài vào nội bộ Khơme Đỏ nên bị bắt, rồi bị giam cầm và thẩm vấn tại nhà tù Toul Sleng khét tiếng trước khi bị giết vào năm 1977. Vì không thể chịu đựng nổi những buổi thẩm vấn dai dẳng và những cú đòn tra tấn hiểm độc, Hu Nim, trong bản "tự thú" của mình, đành nhận bừa cho xong là "gián điệp" cho CIA. Bản "tự thú" ấy của ông, hiện vẫn được lưu giữ tại Viện Tư liệu CPC, được kết thúc bằng câu "Tôi không phải là con người, tôi là con vật".
Pol Pot đã "thành công" trong mưu đồ "lọc sạch" xã hội của y. Trong xã hội CPC khi đó, về cơ bản, chỉ tồn tại hai thành phần: Cán bộ, binh sĩ Khơme Đỏ các cấp cùng gia đình chúng và những người được gọi là "nông dân" và "công nhân" mà thực chất là những người lao động khổ sai tập thể trên các công trường thủy lợi hoặc trong những cái gọi là "công xã", "xí nghiệp".
Và nếu kể cho hết thì còn thành phần nữa là tù nhân bị giam cầm, tra tấn và bị hành hạ trong các trại giam của Khơme Đỏ. Hậu quả là trong 3 năm, 8 tháng 20 ngày dưới chế độ Pol Pot, khoảng 2 triệu người tức 1/4 dân số CPC thời đó, đã bị chết vì hành quyết, vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì ốm đau, bệnh tật...:
CPC bị biến thành "những cánh đồng chết" (The Killing Fields) như người ta thường gọi tên bộ phim nổi tiếng của đạo diễn người Anh Roland Joffe phát hành năm 1984. Pol Pot đã chết năm 1998 và vì vậy, y sẽ không phải ra hầu tòa như các cộng sự thân cận của y. Nhưng lịch sử sẽ vẫn nhắc đến y như một trong những kẻ phạm tội chống lại loài người hung bạo nhất trong thế kỷ 20.
Chỉ 4 tháng sau khi tiến vào thủ đô Campuchia (CPC), tức là tháng 8/1975, Khơme Đỏ đã biến toàn bộ Trường Trung học Toul Sleng ở trung tâm Phnôm Pênh - nơi dạy chữ, dạy người - thành nơi giam cầm, thẩm vấn, tra tấn và giết hại con người dưới cái tên "Trại giam an ninh số 21", gọi tắt là S-21.
Trường Trung học Toul Sleng bao gồm 5 khối nhà, trong đó có những khối nhà 3 tầng mái bằng, tọa lạc trên một khuôn viên rộng vài ha. Khơme Đỏ đã cho rào quanh khu trường bằng những lớp kẽm gai bùng nhùng. Các phòng học được "thiết kế" và "sửa sang" lại cho phù hợp với yêu cầu giam cầm và tra tấn kiểu "Khơme Đỏ".
Ở một số phòng giam tập thể, người tù phải nằm ngay trên nền nhà, chân bị cùm trong cái cùm "tập thể" đúc liền với nền si măng. Những người "may mắn" hơn được ngồi trên giường sắt, nhưng chân người lại bị xích vào chân giường. Khu biệt giam, cũng được cải tạo từ các phòng học, được chia thành nhiều ngăn, mỗi ngăn dài 2m rộng 0,8m, nghĩa là chỉ vừa đủ chỗ cho người tù nằm trong tư thế xiềng chân sát xuống nền nhà.
Mỗi ngăn tù như vậy được cách nhau bằng những bước tường để gạch trần (không trát) xây nham nhở. Cựu Bộ trưởng thông tin Hu Nim (được nhắc tới trong bài 1) đã bị biệt giam một ngăn tù như vậy. Tất cả cửa sổ các phòng học, sau khi được biến thành phòng giam, đều được gia cố thêm song sắt và rào kẽm gai.
Khơme Đỏ đã thiết kế những dụng cụ tra tấn cực kỳ dã man. Ngay trên sân trường, chúng chôn một chiếc xà lớn như kiểu xà đơn, nhưng cao hơn 3m. Một bánh xe ròng rọc được gắn trên xà ngang với một sợi dây chão luồn qua đó. Một đầu dây chão được dùng để treo ngược người tù đã bị trói chân tay; còn đầu kia do hai hoặc ba tên lính Khơme Đỏ kéo lên đưa người tù lên cao hoặc thả người tù cho đầu ngập vào chum nước ở phía dưới.
Nhiều tù nhân đã bị chết sặc do bị tra tấn như thế. Dụng cụ tra tấn này hiện vẫn được giữ nguyên làm vật trưng bày khi nhà tù Toul Sleng trở thành bảo tàng tố cáo tội ác diệt chủng của Khơme Đỏ từ năm 1980, một năm sau ngày chế độ Pol Pot bị lật đổ. Một dụng cụ tra tấn khác, nhưng đa năng hơn. Đó là một bục gỗ dài 2,5m và rộng gần 2m mà mặt bục được thiết kế dốc xuôi xuống phía dưới (giống như một chiếc phản gỗ kê đầu cao đầu thấp). Khi bị tra tấn, người tù bị đè nằm xuống mặt bục gỗ, đầu ở phía cao và chân phía thấp với hai tay chân bị khóa chặt vào hai cái cùm sắt ở hai đầu bục.
Với dụng cụ này, bọn lính Khơme Đỏ có thể tra tấn người tù bằng nhiều cách như nhổ móng tay hoặc móng chân, nhổ răng... hoặc xối nước liên tục vào đầu vào mặt mà người tù rất dễ bị sặc do nước chảy theo chiều dốc của bộc gỗ mà người tù thì không thể cựa quậy. Dụng cụ này hiện vẫn được trưng bày tại bảo tàng Toul Sleng cùng một bức tranh lớn vẽ cảnh bọn lính Khơme Đỏ đang dội nước tra tấn một tù nhân như được miêu tả trên đây, do họa sĩ Vann Nath, một trong những tù nhân ở Toul Sleng còn sống sót, thể hiện.
Tất cả những người bị đưa đến đây giam và thẩm vấn ở S-21 đều bị chụp ảnh với số tù đeo trước ngực. Khơme Đỏ đã thiết kế một chiếc ghế sắt chuyên dụng có thiết bị định vị đầu người tù khi ngồi vào đó chụp ảnh. Sau ngày giải phóng 7/1/1979, người ta thu được rất nhiều tài liệu, trong đó có hàng nghìn bức ảnh chụp chân dung các tù nhân ở nhà tù Toul Sleng mà đa phần không thể xác định danh tính vì hầu hết họ đã chết. Khi mới vào tù, ngoài việc bị chụp ảnh, người tù còn phải khai lý lịch rất chi tiết, phải cởi bỏ hết quần áo ngoài và bị tịch thu toàn bộ tư trang, vật dụng mang theo trước khi bị tống vào phòng giam.
Một ngày ở nhà tù Toul Sleng bắt đầu từ 4 giờ 30 sáng khi những người tù bị đánh thức dậy để bọn cai ngục kiểm tra lại tất cả các thiết bị cùm chân xem có bị lỏng hay không. Chúng còn bắt tù nhân cởi hết quần áo ra để kiểm tra có dấu một thứ gì mà người tù có thể dùng để tự sát được không. Một tài liệu viết rằng, rất nhiều người tù đã tìm cách tự sát vì không thể chịu đựng được những đau đớn cùng cực về thể xác và tinh thần khi bị bọn lính Khơme Đỏ thẩm vấn và tra tấn. Nhà tù có những quy định rất ngặt nghèo mà bất cứ sự vi phạm nào cũng khiến người tù bị đánh rất dã man. Mọi việc phải xin phép bọn cai ngục, ngay cả việc muốn uống nước.
Cùng một lúc, nhà tù này có thể giam giữ từ 1.000 đến 1.500 người. Thời gian đầu, phần lớn những người đưa vào giam ở Toul Sleng là binh lính hoặc quan chức chính phủ của chế độ Lon Nol, rồi các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, sinh viên, công nhân, sư sãi v.v. Thời gian sau, khi Khơme Đỏ bắt đầu cuộc chiến tranh thanh lọc nội bộ thì hàng nghìn cán bộ Khơme Đỏ bị nghi ngờ là "phản bội" hoặc không "trung thành" hoặc "làm tay sai, gián điệp" cho nước ngoài bị đưa vào giam cầm, thẩm vấn và tra tấn tại đây.
Trong số này có những cán bộ cao cấp của Khơme Đỏ như Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương, Phó Thủ tướng Vorn Vet hoặc Bộ trưởng Thông tin Hu Nim (đã được nói đến trong bài 1). Không chỉ tù nhân mà rất nhiều người trong gia đình họ cũng bị đưa vào thẩm vấn tại S-21 rồi bị đưa đi hành quyết tại Cheung Ek, cách Phnôm Pênh khoảng 15km. Năm 1980, rất nhiều hố chôn người tập thể đã được tìm thấy ở khu vực Cheung Ek.
Người ta ước tính rằng trong thời gian từ giữa năm 1975 đến đầu năm 1979 có khoảng 17.000 người bị giam cầm, thẩm vấn và tra tấn tại Toul Sleng. Cũng có tài liệu ước tính số tù nhân ở đây lên tới 20.000. Tuy nhiên, không ai biết con số chính xác là bao nhiêu. Nhưng điều khủng khiếp nhất là chỉ có 12 người (có tài liệu viết chỉ có 7 người) trong số trên là còn sống sót. Khi ấy, người ta gọi nhà tù Toul Sleng là nơi "có vào mà không có ra".
Nhiều người nước ngoài cũng bị Khơme Đỏ giam cầm, tra tấn và giết hại tại nhà tù Toul Sleng, trong đó có những người mang quốc tịch Việt Nam, Lào, Ấn Độ, Pakistan, Anh, Mỹ, Niu Dilân và Ôxtrâylia.
Khi tiến vào giải phóng Phnôm Pênh ngày 7/1/1979, các lực lượng vũ trang cách mạng của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu CPC và quân tình nguyện Việt Nam còn phát hiện thấy 14 xác chết tại các buồng giam nhà tù Toul Sleng, mà trong điều kiện lúc đó phải chôn những xác chết này ngay tại một khu đất trong nhà tù.